Tại
các điện thờ Mẫu, trường hợp đặt ba pho tượng nữ, cùng giống nhau ở
gương mặt, vóc giáng, tư thế ngồi, và chỉ khác nhau ở trang phục, thì
pho tượng ở giữa chính là tượng Thánh Mẫu, hay còn gọi là Mẫu Liễu.
Nếu
điện chỉ đặt một pho tượng nữ đó cũng là Thánh Mẫu, và được hiểu là Mẫu
của tất cả. Trong trường hợp này, Thánh Mẫu bao gồm cả Mẫu Liễu, Mẫu
Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, được biểu hiện trong một Mẫu.
Không
giống như Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải, có nguồn gốc lai lịch từ rất
xưa, Mẫu Liễu chỉ xuất hiện mới ngoài hai trăm năm nay, và có lẽ chính
vì vậy, nên lai lịch, hành tung của Mẫu được truyền tụng và ghi chép lại
khá đầy đủ. Và tỉ mỉ nữa là khác.
Nữ
sĩ Đoàn Thị Điểm thời Lê mạt, đã có hẳn một truyện "Vân Cát thần nữ"
trong cuốn "Truyền kỳ tân phả". Còn trong dân gian, từ trước đến nay, đã
có biết bao nhiêu chuyện thật hấp dẫn, ly kỳ, thậm chí rùng rợn, về
xuất xứ, hành tung, về biểu hiện khắp mọi nơi của Mẫu, tưởng chừng như
Mẫu lúc nào cũng có mặt ở đâu đó, xuất kỳ bất ý, can dự vào tất cả mọi
chuyện. Những chuyện này không tồn tại dưới dạng hoàn chỉnh, mà chỉ là
những mẩu, có khi gắn kết vào nhau, lại có khi mâu thuẫn trái ngược
nhau.
Nhìn
chung, trong dân gian, đa phần muốn tin rằng đã có một Mẫu toàn năng,
là niềm tin, là chỗ dựa tinh thần của tất cả mọi người. Còn là sự khuyến
thiện trừng ác trong mỗi con người.
Không thể hình dung nổi, trong một xã hội, dù là văn minh đến đâu, người ta đối xử với nhau lại không xuất phát từ lòng thiện.
Và
trong đời mỗi một con người, không phải ai và lúc nào cũng đều cứng cỏi
cả. Vì vậy, sự tồn tại một điểm dựa tinh thần, chung cho mọi người, sẽ
không thể là điều vô ích.
Truyền
thuyết về Thánh Mẫu được kể dưới đây, sẽ gồm cả truyện "Vân Cát thần
nữ" và các câu chuyện kể dân gian, được ghép nối vào nhau sao cho có hệ
thống, chúng tôi nghĩ, đấy là cách tốt nhất để tạo nên hình tượng một
Thánh Mẫu hoàn chỉnh, xứng đáng với niềm tin của mọi người. Do vậy,
những chi tiết nào làm phương hại đến tính thống nhất của hình tượng,
hoặc quá ư rườm rà, ... chúng tôi sẽ mạnh dạn loại bỏ.
Tại
thôn An Hải, xã Vân Cát, huyện Thiên Bản, hạt Sơn Nam Hạ, nay là huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, có vợ chồng Lê Thái Công là người hiền đức, hay làm
việc thiện. Ông bà đã có một con trai, và khi ấy cũng đã đứng tuổi. Đến
năm Thiên Hựu, đời Lê Anh Tông, bà vợ có mang đã quá kỳ sinh mà không
thấy chuyển dạ, lại không ăn uống, chỉ ưa trong phòng có mùi hoa thơm.
Đêm
hôm ấy, gia đình làm lễ, cầu trời khấn Phật, phù hộ độ trì cho mẹ tròn
con vuông. Giữa lúc hương hoa tỏa bay thơm ngát, ở trong phòng, Lê Thái
Công nằm mơ thấy mình bay lên thượng giới, rồi được dẫn vào một tòa lâu
đài nguy nga tráng lệ, ở đó đang diễn ra cuộc Đại khánh tiết, bách thần
làm lễ chúc thọ Ngọc Hoàng.
Một
tiên nữ vận áo xiêm màu hồng nhạt, từ hậu cung bưng khay rượu bước ra.
Vừa đến trước mặt Ngọc Hoàng, trong khi hai tay nâng khay, còn đầu thì
khẽ nghiêng và toàn thân nhún xuống, nhưng do làm hơi vội nên đã để một
chiếc chén rơi ra ... Ngọc Hoàng khẽ chau mày, nhưng rồi trước mặt triều
thần, Ngài lại tươi cười nhắc chén rượu thứ hai ...
Chỉ
có như vậy, nhưng đã là phạm luật. Sau bữa tiệc, hai vị Nam Tào Bắc Đẩu
tâu lên, tiên nữ bị giáng xuống trần, trong thời hạn ba năm, mặc dù đó
chính là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng đế.
Vừa
lúc ấy, Lê Thái Công tỉnh giấc. Cũng đúng lúc ấy, người nhà vào báo bà
vợ đã sinh một người con gái. Ba ngày sau, khi nhìn mặt con, thấy nét
mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc
Hoàng, ông bèn đặt tên cho con là Giáng Tiên.
Ngày
tháng qua đi, càng lớn lên Giáng Tiên càng lộng lẫy, xinh đẹp. Mọi việc
nữ công gia chánh nàng cũng đều thành thạo. Lại có cả tài cầm kỳ thi
họa, vì ông bà cho nàng theo học Trần Công, một người bạn ở làng bên, và
càng học lên Giáng Tiên lại càng giỏi giang, tấn tới.
Ông
Trần Công là một vị hưu quan ở làng Tiên Hương, cùng trong huyện Thiên
Bản. Vợ chồng ông cũng đã đứng tuổi mà chưa có con. Một đêm, nghe có
tiếng trẻ khóc ở ngoài vườn, ông bà cùng chạy ra thấy một đứa bé sơ sinh
nằm dướùi gốc cây đào. Ông bà đem về nhà nuôi, đặt tên là Đào Lang.
Lớn
lên Đào Lang là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, siêng năng chăm chỉ
học hành. Do đã đính ước với nhau từ nhiều năm trước, nên khi Đào Lang
và Giáng Tiên đến tuổi trưởng thành, hai bên cha mẹ đã cho đôi trẻ nên
duyên vợ chồng.
Về
nhà chồng, Giáng Tiên là một người vợ hiền dâu thảo, nói năng khiêm
nhường, đối xử có trước có sau. Trong ba năm, nàng sinh được một trai,
một gái. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên, vào
đúng ngày mồng ba tháng ba (Âm lịch), tuyệt nhiên không bệnh tật gì,
nàng hóa, lúc ấy vừa tròn 21 tuổi. Cả hai bên cha mẹ và chồng con đau
xót tiếc thương nhưng chẳng có cách gì cứu sống được. Trong nỗi buồn vô
hạn, kể cả Lê Thái Công, chẳng ai hiểu được lẽ trời đã sắp đặt rồi.
Giáng
Tiên, nàng tiên nữ đã về trời, đúng hạn định theo lệnh của Ngọc Hoàng.
Nhưng khi nàng đã ở trên trời thì lòng trần lại canh cánh, ngày đêm da
diết trong lòng nỗi nhớ cha mẹ, chồng con. Những ngày hội quần tiên,
những lúc quây quần bên chị bên em cùng bạn bè, bỗng nhiên nàng lại nét
mặt sa sầm, rồi lén gạt thầm dòng nước mắt ...
Những
cử chỉ ấy, cuối cùng rồi cũng đến tai Ngọc Hoàng. Ngài cho gọi nàng lại
để nghe nàng giãi bày tâm sự và thỉnh cầu ước nguyện. Khi thấu hiểu,
Ngài cho nàng được phép trở lại cõi trần, nhưng đổi tên là Liễu Hạnh.
Khác
với lần đi đày trước, lần này do tự nguyện, nên trong lòng nàng hoàn
toàn thư thái, vui vẻ, chỉ mong sao cho chóng xuống trần. Khi về đến nhà
vừa đúng lúc gia đình đang làm giỗ mãn tang cho nàng, mọi người đều hết
sức ngạc nhiên và vô cùng sung sướng. Nàng ôm lấy mẹ mà khóc, rồi kể
hết sự tình, dặn anh hãy gắng lo chăm sóc cha mẹ, vì lần này xuống trần
nàng không thể ăn ở như lần trước, rồi trở về nhà chồng.
Đào
Lang, từ ngày vợ mất, vẫn ngày đêm thương nhớ không khuây. Liễu Hạnh
đẩy cửa bước vào, gặp nhau vợ chồng con cái mừng mừng tủi tủi. Nàng cũng
kể rõ mọi chuyện cho chồng biết, khuyên chồng hãy cố gắng luyện chí,
yên tâm theo đuổi sự nghiệp công danh, đừng quên chăm sóc con thơ, phụng
dưỡng cha mẹ. Nàng quét dọn, sửa sang nhà cửa, may vá quần áo cho chồng
cho con, rồi bỗng chốc lại thoắt biến lên mây ... Cứ như thế, thỉnh
thoảng nàng lại hiện về, làm xong các việc rồi lại biến đi. Dòng giã
hàng chục năm sau, cho đến khi con cái khôn lớn và Đào Lang công thành
danh toại, nàng mới từ biệt để đi chu du thiên hạ.
Từ
đó, tung tích của nàng như mây nổi, nước trôi,không nhất định ở một nơi
nào cả. Nàng biến hóa và có phép nhiệm mầu như thần như thánh, bởi vì
nàng cũng chính là thần thánh.
Có khi nàng là cô gái đẹp vừa đi vừa thổi sáo dưới ánh trăng.
Có khi nàng là bà lão đầu tóc bạc phơ, ngồi tựa cây gậy trúc ở bên đường.
Có khi nàng là người bán hàng, mở quán trên lưng đèo
Lại có khi, như mọi người, nàng đi thăm viếng, vãn cảnh chùa chiền ...
Người nào giở thói trăng hoa, hoặc làm điều bạc ác, nàng thẳng tay trừng trị.
Tiếng
lành đồn xa, tiếng "dữ" cũng đồn xa ... Ở khắp mọi nơi, mọi người thi
nhau bàn tán về tung tích, hành vi của nàng. Câu chuyện càng ngày càng
được thêu dệt thêm mãi, hư hư thực thực. Và ai ai cũng đều nghiêm trang,
kính cẩn gọi nàng là Tiên Chúa.
Lần
ấy, Tiên Chúa đang hóa phép thành cô gái, mở quán bán cho khách bộ hành
ở chân đèo Ngang (thuộc Quảng Bình). Lời đồn đại về một cô gái nhan sắc
tuyệt vời bỗng đâu xuất hiện ở nơi đèo heo hút gió, làm cho mọi người
hết sức ngạc nhiên. Rồi chỗ nào cũng thấy thì thào bàn tán. Chẳng mấy
chốc, lời đồn đại cũng tới tận Kinh đô !
Hoàng
tử sắp kế nghiệp, vốn là một chàng trai lười biếng học hành nhưng lại
ham chơi bời phóng túng. Có khi còn làm cả những việc khinh mất chẳng
giữ gìn đến thể diện quốc gia.
Khi
hay tin đồn có người con gái tuyệt vời, Hoàng tử ngày đêm ao ước, đứng
ngồi không yên. Nghĩ rằng mình là Hoàng thái tử, ở ngôi Đông cung, sắp
tới sẽ được kế vị ngai vàng, thì chẳng lẽ lưu vật ấy còn dành cho ai
nữa? Nếu không đến mau, e rằng nàng đã thành gia thất thì thật uổng phí
... Thế là, Hoàng tử giấu bặt vua cha, chọn một đoàn bộ hạ tin cẩn rồi
lặng lẽ rời khỏi kinh thành, nhằm về hướng nam thẳng tiến. Ngày đi, đêm
đi, chỉ dừng lại những khi thật mệt nhọc, chẳng mấy chốc đoàn người ngựa
đã gần tới chân đèo Ngang.
Ở
nơi mở quán, Tiên Chúa bấm độn đã biết có Hoàng tử đang đến tìm mình,
lại cũng biết đó là một chàng trai vô vị, tầm thường, kiêu căng mà hiếu
sắc.
Để
răn đe trước, Tiên Chúa hóa phép biến thành cây đào mọc ở bên đường,
ngay chỗ Hoàng tử đang dừng chân. Trên cây chỉ có một quả đang chín
mọng.
Vừa
chợt thấy quả đào, Hoàng tử tưởng là của trời cho, không đợi sai lính
hầu, vội trèo ngay lên cây ngắt xuống. Quả đào ửng đỏ, thơm phức, vừa
cầm trên tay, Hoàng tử đã vội đưa ngay lên miệng. Bỗng đâu, chỉ trong
chớp mắt, quả đào nhỏ dần rồi biến mất, ngay trên tay Hoàng tử. Bọn lính
hầu thấy vậy kinh hãi kêu lên, còn Hoàng tử cũng mặt cắt không còn giọt
máu. Sau cơn bàng hoàng, cả bọn lại hò nhau lên đường, hoàn toàn không
hiểu tý gì về ngầm ý răn đe mà Tiên Chúa đã báo trước.
Khi
giáp mặt cô chủ quán, cả thầy lẫn tớ đều thảng thốt thẫn thờ. Thật danh
bất hư truyền, chưa bao giờ Hoàng tử thấy một người con gái nào đẹp đến
như thế. Và cũng chưa bao giờ chàng ta lại mê mẩn cuồng si đến như thế.
Hoàng
tử hạ lệnh cho quân lính dừng chân, rồi gọi đồ ăn thức uống loạn xị. Cố
tình trưng ra quần áo bảnh diện và những cọc tiền vàng óng. Lại cố tình
ăn uống khề khà cho thật chậm thật lâu, cốt sao kể kéo đến tận chiều
tối. Rồi khi mặt trời tắt hẳn, cả bọn mới giả bộ ngây ngô, nói rằng trời
tối thế này thì đi làm sao được.
Một tên vò đầu bứt tai, sun xoe đến gần cô chủ quán:
- Xin cô vui lòng cho chúng tôi nghỉ lại trong quán một đêm nay, tiền nong hết bao nhiêu chúng tôi cũng chẳng ngại ...
Tiên chúa, thừa rõ tâm tư của cả bọn này, bèn tươi cười đáp:
-
Ấy chết, các ông là những người quý phái, nghỉ lại đấy sao tiện. Chỉ đi
nửa dặm nữa là có xóm có làng, có dân phu phục dịch. Ở đây vừa mất tiền
vừ chật chội. Vả lại quán chúng tôi là phận đàn bà con gái, không nhận
trọ khách đàn ông bao giờ.
Nghe thấy thế, Hoàng tử đứng bật dậy, sẵng giọng:
-
Đàn ông với chẳng đàn bà. Đã là quán hàng, chẳng nơi nào có sự phân
biệt như thế. Trời tối rồi, chẳng lẽ để chúng ta ngủ ở giữa đường hay
sao? Quân bay, cứ vào dọn dẹp.
Tiên
Chúa lặng thinh không nói gì. Tưởng chủ quán hoảng sợ, Hoàng tử liền
đổi giọng, vừa nói vừa vỗ vỗ vào túi tiền lớn mà tên lính hầu vẫn đeo
bên mình:
- Xin cô đừng lo. Chỉ một đêm nay cô cũng kiếm được bằng mấy năm mở quán.
Tiên Chúa bỏ vào phòng trong, không muốn nghe nữa.
Ở
phòng ngoài, bọn lính hầu thu dọn các thứ vào một góc rồi quây màn
trướng cho Hoàng tử nghỉ. Còn bọn chúng thì nằm la liệt quanh quán.
Khi
ấy, đang tiết tháng tám, trời thu mát mẻ, và ở giữa chân đèo thoáng
đãng, trăng gió lại như khách hữu tình. Hoàng tử sai bày tiệc rượu rồi
năn nỉ mời chủ nhân ngồi đối ẩm. Tiên Chúa, phần vì không muốn để người
của triều đình mất thể diện, phần thì cũng muốn thử xem bọn này còn định
giở trò gì, nên cũng nhận lời. Dưới ánh đèn, vừa uống rượu Hoàng tử vừa
huyên thuyên, khoe khoang đủ mọi thứ chuyện. Nào là nay mai sẽ lên ngôi
Thiên tử. Nào là gấm vóc bạc vàng sẽ chẳng thiếu thứ gì. Nào là ai mà
được ở ngôi Hoàng hậu thì sẽ là người diễm phúc ...
Tiên
Chúa im lặng lắng nghe, thỉnh thoảng lại gật đầu ra ý tán thưởng, mặc
dù đã cười thầm trong bụng. Thấy vậy, Hoàng tử tưởng "nàng" đã xiêu
lòng, liền hoa chân múa tay rất là đắc ý, rồi bất thình lình, ôm gọn cô
chủ quán vào trong lòng. Tiên Chúa bừng bừng nổi giận, gạt phắt Hoàng tử
ra, chạy thẳng vào trong buồng. Hoàng tử loạng choạng đứng dậy, và
trong cơn si cuồng rồ dại, cũng chạy vào theo.
Chỉ
trong chớp mắt, Tiên Chúa đã phi thân lên núi, bắt ngay một con khỉ cái
mang về. Lại hóa phép cho nó thành một cô gái cực kỳ xinh đẹp, còn mình
thì biến đi.
Ở
trong buồng, lúc đầu Hoàng tử chẳng nhìn thấy gì, sau một hồi mắt đã
quen với bóng tối, mới lờ mờ nhận thấy "cô gái" đang ở trong góc, bèn
nhảy tới, ôm ghì lấy rồi đè xuống. Đúng lúc ấy, "cô gái" lại biến thành
con khỉ, do Tiên Chúa đã hóa phép. Hoàng tử kinh hãi rụng rời, kêu rú
lên một tiếng thảm thiết, rồi ngã vật ra, bất tỉnh nhân sự.
Bọn
lính hầu ở bên ngoài nghe tiếng rú, tưởng cậu chủ bị hại liền bật cả
dậy, xông thẳng vào buồng. Có tên còn giật vội mấy mẩu nến đang cháy ở
bàn tiệc, để soi cho rõ. Trước mặt chúng, cảnh tượng bày ra mới khiếp
hãi làm sao. Con khỉ cái miệng rộng đến tận mang tai, nhe hai hàm răng
trắng ởn, đang cười lên khành khạch. Rồi vụt một cái, khỉ lại biến thành
con rắn hổ mang, bạnh cổ, thè lưỡi phun ra phì phì ... Rắn hổ ngạo nghễ
trườn lên người Hoàng tử, rồi trườn lên vách, vươn lên xà nhà, đi mất
...
Trong
bọn lính hầu, nhiều tên cũng ngất xỉu. Còn lại những tên cứng bóng vía
nhất, sau cơn bàng hoàng, vội vực Hoàng tử dậy và lay gọi những tên kia.
Chúng nháo nhào cả lên, hà hơi, đánh gió, xoa dầu ... hàng tiếng đồng
hồ sau Hoàng tử mới tỉnh lại.
Ngay
nửa đêm hôm đó, bọn lính hộc tốc đưa Hoàng tử về trạm gần nhất, rồi từ
đấy, ngày đi đêm nghỉ, đưa chàng ngược trở lại Kinh đô . Về tới hoàng
cung, Hoàng tử đã trở thành một kể ngẩn ngơ, điên điên dại dại ... Cả
Hoàng triều bối rối, lo sợ. Tìm thầy tìm thuốc có đến cả tháng mà bệnh
tình Hoàng tử vẫn không thuyên giảm. Kịp có viên Đại thần người gốc xứ
Thanh Hóa đến báo: ở quê có tám vị Kim Cương bùa pháp cực giỏi có thể
chữa được bách bệnh, cho người vào xin thì mới cứu được.
Một
ngàn năm về trước Phật Bà Quan Âm một lần hiện ra ở biển Đông, hóa phép
thành hai cái túi, một ở giữa biển, một ở trên núi Ó thuộc làng An Đông
đều ở xứ Thanh. Sau thời gian rất lâu, hai túi nở thành hai đóa hoa, và
từ mỗi đóa hoa, lại hiện ra bốn vị thần tướng đều có phép thuật biến
hóa thật là huyền nhiệm. Theo lệnh Phật Bà, tám vị thần tướng tỏa đi tám
hướng, thân chinh mang thuật pháp tiểu trừ bọn tà ma vẫn đang lẩn quất
sách nhiễu trong vùng. Khi bọn tà ma bị diệt, Phật Bà lại triệu hồi họ
về chỗ cũ. Người trong vùng vẫn quen gọi là Bát bộ Kim Cương.
Lập
tức một bọn thị vệ được lệnh nhà vua trở vào Thanh Hóa để xin bùa phép.
Nhờ có bùa phép, Hoàng tử dần dần khỏi bệnh. Sau khi bình phục, Hoàng
tử cúi đầu nhận tội trước vua cha, và kể lại sự việc xảy ra ở chân đèo
Ngang, tuy nhiên cũng đã tìm cách nói sao để giảm nhẹ lỗi lầm của mình.
Nhà vua, vốn sẵn cảm tình với bà phi sinh ra Hoàng tử thứ hai, nên chẳng
ngại ngần truất ngôi Đông cung của Hoàng thái tử và lập con thứ lên
thay. Tuy vậy, tay đứt ruột xót, lại căm giận một kẻ tiện dân mà dám
động vào người Hoàng tộc, nên trong bụng nghĩ phải quyết ra tay diệt
trừ.
Vì
nghe câu chuyện có vẻ lạ lùng nên nhà vua chẳng dám khinh xuất, bèn cho
tên tướng thân tín cùng một tốp lính đi điều tra nội vụ. Một tháng sau,
viên tướng trở về tấu trình ngọn ngành mọi chuyện. Nhà vua, vốn là bậc
cao kiến, nghĩ rằng chỉ có các Pháp sư và Phù thủy cao tay mới có thể
diệt trừ được kẻ "yêu nữ" này.
Các
Pháp sư và Phù thủy lừng danh trong nước lập tức được lệnh triệu hồi về
kinh, dẫn sĩ tốt đi chinh phạt. Chẳng bao lâu sau, những kẻ sống sót
đều phải quay về, nạp mình trước sân rồng hoạch tội, vì chẳng những
không bắt được nữ chủ quán mà lại còn bị đánh cho tan tác, tơi bời. Bất
đắc dĩ, nhà vua phải cầu cứu đến tám vị Kim Cương. Tám vị này, vốn là
những bậc tu hành, chẳng mặn mà gì đến chuyện đánh dẹp của triều đình,
lần trước có cho bùa phép thì chẳng qua chỉ là muốn cứu vớt một kẻ nạn
nhân mà thôi.
Nhà vua phải cho đại thần mang lễ vật đi lại nhiều lần mới thỉnh cầu được họ.
Các vị Kim Cương, sau khi nhận lời, bèn phi thân tới đèo Ngang.
Sau khi bài binh bố trận xong, họ dụ Tiên Chúa vào giữa, rồi từ tám hướng tiến vào đánh.
Ở
giữa vòng vây, Tiên Chúa chẳng hề nao núng, ứng phó cực kỳ linh hoạt.
Các phép thuật của các vị Kim Cương đều bị mất hiệu lực. Cây đổ, đá lăn,
thú dữ nhe nanh múa vuốt cũng không làm hại được Tiên Chúa. Thoắt biến
rồi thoắt hiện, các phép thuật của các vị Kim Cương đều như nhằm vào chỗ
không người, nhiều khi lại nhầm vào nhau, tự gây ra thiệt hại. Tiên
Chúa thản nhiên như thường còn các vị Kim Cương càng lúc lại càng thấm
mệt. Khi đã núng thế, một vị bay vút lên trời, đi cầu khẩn Đức Phật, xin
một cái túi, nói là để bắt yêu tinh vừa mới xuất hiện. Đức Phật lúc ấy
đang bận, nên đã vô tình ném túi cho.
Nhờ
cái túi thần, cuối cùng các vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ
đưa Tiên Chúa về kinh, trình trước sân rồng. Nhà vua sai thiết triều rồi
xét hỏi:
- Nhà ngươi là ai?
- Muôn tâu ... Tiên chúa đáp. Tôi là con gái út của Ngọc Hoàng Thượng Đế, xuống trần làm người mở quán bán hàng.
- Mở quán bán hàng thì cớ sao lại làm hại đến Hoàng tử?
-
Thưa ... ở đời có lửa thì ắt có khói, có nhân ắt có quả. Tôi chỉ trừng
trị kẻ nào làm điều bất thiện mà thôi. Nếu đấy là Hoàng tử thì lại càng
phải xử công minh để làm gương cho bàn dân thiên hạ, như vậy mới là đúng
với phép nước.
Nhà vua thấy không còn gì hỏi được nữa, nhưng cũng chẳng thể để mất thể diện quốc gia, bèn để nét mặt ra vui tươi, rồi hỏi:
- Công nương nói chí phải. Ta đã có chiếu trách phạt Hoàng tử rồi. Nay chỉ muốn hỏi công nương cho rõ mọi chuyện mà thôi.
Sau
khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua đành phải ngậm
bồ hòn làm ngọt, nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn ...
Tiên
Chúa không trở lại chân đèo Ngang nữa, mà lại vân du theo hướng Bắc,
đến miền xứ Lạng, là nơi có nhiều phong cảnh đẹp. Các động Tam Thanh,
Nhị Thanh ... là nơi Tiên Chúa thường hay thăm viếng. Một lần đang trên
đường, Tiên Chúa gặp đoàn sứ do Phùng Khắc Khoan dẫn đầu đi sứ sang
Trung Hoa. Gặp người con gái đẹp, xưa nay chưa từng thấy bao giờ, ông
chánh sứ cảm kích ứng khẩu đọc liền một bài thơ tứ tuyệt. Nào ngờ nghe
xong,Tiên Chúa cũng ứng khẩu đọc luôn mấy câu thơ đối lại. Các vị trong
đoàn sứ bộ thảy đều ngạc nhiên, và cảm phục vì tài đối đáp, vì lời thơ
vừa trang nhã lại đầy ý tứ. Thế là họ bảo nhau dừng chân mấy ngày ở trạm
nghỉ, rồi mời Tiên Chúa ở lại cùng nhau xướng họa đề thơ. Khi hỏi lai
lịch, nơi ở, Tiên Chúa chẳng nói năng gì mà chỉ đọc lên một bài thơ đố.
Phùng Khắc Khoan vốn là người nhanh trí, hiểu rằng người con gái này
chẳng phải người thường, bèn đọc một bài thơ hẹn gặp lại, sau khi đoàn
sứ trở về.
Nhớ
lời hẹn, một năm sau Tiên Chúa có mặt ở vùng Hồ Tây ngay bên cạnh kinh
thành. Khi ấy Phùng Khắc Khoan đã hoàn thành sứ mạng trở về, cùng hai
người bạn là ông Ngô, ông Lý đang đi vãn cảnh. Họ gặp nhau mừng rỡ,
chuyện trò, rồi lại đề thơ, xướng họa như xưa. Cả ba người, là những bậc
tài danh đương thời, đều hết lòng thán phục tài thơ của Tiên Chúa vừa
thanh cao, lại vừa huyền nhiệm, không lời nào có thể nói hết được.
Sau
khi từ biệt ba nhà thơ, Tiên Chúa vân du vào làng Sóc, thuộc tỉnh Nghệ
An ngày nay, cũng là một nơi có phong cảnh đẹp. Ở làng này hiện đang có
một chàng thư sinh tuy cha mẹ mất sớm, nhà lại rất nghèo, nhưng vẫn ngày
đêm miệt mài kinh sử. Tiên Chúa biết chàng chính là hậu thân của Đào
Lang ngày trước, bèn biến thành một phụ nữ, lúc đầu đến giúp đỡ, rồi sau
đó kết duyên vợ chồng. Hai bên yêu nhau, chẳng cần phải có người mối
lái. Nàng giúp cho chàng yên tâm chuyên cần vào việc đèn sách, chẳng
phải lo nghĩ gì đến chuyện sinh nhai, thế rồi khi nhà vua mở khoa thi,
chàng đã đỗ đại khoa và được bổ vào Hàn Lâm viện. Nàng sinh cho chàng
một đứa con trai, thật là đẹp đẽ kháu khỉnh. Nhưng tình duyên của họ
cũng chẳng được lâu dài. Khi đứa con vừa tròn năm tuổi thì người mẹ đột
ngột qua đời, vì chính lúc đó Tiên Chúa có lệnh gọi của Ngọc Hoàng, phải
về trời gấp. Người chồng đau xót, cùng lúc nỗi đau càng như xé ruột xé
gan. Chàng chẳng nghĩ đến chuyện tục huyền, cũng chẳng nghĩ đến chuyện
cửa công. Thế là chàng xin từ quan, lui về quê nuôi đứa con côi, vui thú
với cây cỏ sông nước, và giữ mãi trong lòng những kỷ niệm ngọt ngào của
mối tình đầu.
Về
phần mình, ở trên trời, Tiên Chúa cũng không sao quên được cõi trần.
Lúc nào Tiên Chúa cũng thấy lẻ loi giữa cảnh phồn hoa đô hội. Trong tâm
trí Tiên Chúa, lúc nào cũng như in mọi cảnh dưới trần, và cùng với nó,
là cảm xúc càng lúc càng thêm bồi hồi da diết. Ôi! Cõi trần gian, nơi
nhiều nỗi vất vả lo toan mà sao lại thân thương thiết tha đến thế! Dưới
cõi trần, còn bao nhiêu điều chưa thấy, bao nhiêu nơi chưa biết, bao
nhiêu việc chưa làm! Những miền danh lam thắng cảnh vẫy gọi, những bậc
hiền tài cần tiếp kiến, rồi cả những nỗi khốn khó cô đơn, những điều bất
công ngang trái ... Tất cả đều cần phải có bàn tay của Tiên Chúa đưa ra
giúp rập, bù trì ...
Thế
là Tiên Chúa khẩn thiết xin với vua cha cho trở lại cõi trần gian và
được ở lại vĩnh viễn, vì cả hai lần trước đều nửa đường đứt gánh, mới dở
dang đau xót làm sao!
Ngọc
Hoàng Thượng Đế lắng nghe và hiểu rõ tất cả. Ngài nhìn đứa con gái út,
một khúc ruột, một phần xương thịt của mình dứt ra mà nay đã đến lúc
trưởng thành, để có thể thay mặt mình ở dưới cõi trần được. Mặc dù tình
cha con là thiêng liêng, là vô cùng quyến luyến, nhưng Ngài đã vui vẻ
chấp thuận cho nàng ra đi, vì nghĩ rằng đó là cách tốt nhất để những chủ
trương ở trên trời của mình có thể thực thi ở cõi thế. Ngài cho gọi hai
thị nữ tin cậy là Quỳnh Hoa và Quế Hoa bảo cùng đi với nàng, vừa để
giúp đỡ, vừa để cho có bầu có bạn.
Lần
này Tiên Chúa xuống thẳng miền phố Cát. Ở đây, cũng như những lần trước
Tiên Chúa thường hiển linh giúp đỡ người lành, trừng trị kẻ ác. Khi là
cô gái thổi sáo, khi là bà lão chống gậy, khi là một người hành hương
đến cửa Phật ... hành tung của Tiên Chúa biến hóa thật khôn lường. Thế
là trong dân chúng lại nảy sinh những lời đồn đại, rồi mọi người cùng
nhau góp của góp công, dựng một ngôi đền để lấy chỗ phụng thờ Tiên Chúa.
Những
ngày tuần ngày tiết, dân chúng các nơi nô nức tìm về, đông vui nhộn
nhịp xung quanh ngôi đền. Mọi người ai cũng muốn một lần được chứng kiến
sự hiển linh của Tiên Chúa.
Lời
đồn đại và những sự việc ấy, lan ra mãi, cuối cùng đã tới Kinh đô , lọt
đến tai vua Lê chúa Trịnh. Hai vị vua chúa cho rằng trước kia tiên
vương thả "yêu nữ" ra là một sai lầm, bây giờ đã đến lúc cần phải thẳng
tay trừng trị. Bởi vì trong cõi trị vì của họ không thể có luật lệ nào
khác ngoài luật lệ của vua chúa và ai muốn làm gì cũng không được tự
quyền. Thế là hai vị cho triệu hồi các thuật sĩ tài giỏi trong nước đến
Kinh đô , giao cho dẫn một một đội quân Vũ lâm hùng mạnh, đến thẳng miền
phố Cát để đánh dẹp.
Một
trận giao chiến ác liệt đã diễn ra. Bên Tiên Chúa đền đài bị phá tan
tành nhưng bên phía triều đình cũng bị thất điên bát đảo, xác lính chết
ngổn ngang, cuối cùng đành phải rút quân.
Vua
Lê chúa Trịnh vô cùng tức giận vì không bắt được "yêu nữ" đem về. Nghe
lời các thuật sĩ, hai vị cho vời tiền quân Thánh là một thuật sĩ tài
danh bậc nhất đương thời để làm chủ tướng.
Lại
nói Tiền quân Thánh vốn là một thân tướng nhà trời, do mắc lỗi, đã bị
dáng xuống làm con trai thứ ba của một vị Thượng sư, sư tổ của phái Nội
đạo tràng, một phái tu nổi tiếng lúc bấy giờ. Hai người anh là Tả quân
và Hữu quân đều có pháp thuật cao cường, tu ở núi Côn Sơn, còn Tiền quân
thì tu ngay tại làng, tức làng Từ Minh ở Thanh Hóa, và có nhiều pháp
thuật cao cường hơn cả.
Vốn
trước kia cha ông họ là những viên quan lại, đã từng ăn lộc triều đình,
nên bây giờ, mặc dù không muốn, cả ba anh em vẫn phải cầm quân ra trận.
Tiền quân đi trước, còn hai người anh đi ở hai bên.
Đến
Tam Điệp, Tiền quân sai đóng quân lại, còn mình cải trang làm một dân
thường, cỡi ngựa trắng đến Sòng Sơn gặp Tiên Chúa vì lúc này Tiên Chúa
đã rời Phố Cát về đây. Vốn đã quen biết từ trên Thiên đình, nên khi gặp,
Tiền quân làm ra vẻ hết sức thân mật, tự nhiên:
-
Đi ngang qua đây, nghe sắp có giao chiến chẳng biết phải trái thế nào.
Ta chỉ sợ nàng sức gái không đủ đối phó nên hạ sơn xem liệu có thể giúp
đỡ được việc gì chăng? Thuật pháp của nàng thế nào hãy để ta xem, nếu
thiếu ta sẽ dạy thêm cho.
Tiên
Chúa tin lời Tiền quân nói là thật, hoàn toàn không biết đến việc Tiền
quân do mắc lỗi mà phải xuống trần ... cho nên đã giở tất cả các pháp
thuật ra cho Tiền quân xem. Xem xong, Tiền quân làm ra vẻ hết sức vui
mừng sửng sốt:
- Thật là tuyệt! Như thế này cũng đã thừa đủ rồi, ta chẳng cần phải dạy thêm cho nàng điều gì nữa!
Nói xong liền biến đi ngay. Thấy thế Tiên chúa cũng hơi chột dạ.
Tiền quân thánh trở về nơi hạ trại, cùng hai anh bàn nhau cách xuất quân, rồi ngay đêm ấy tiến đánh.
Tiên
Chúa lúc đấy cùng Quỳnh Hoa, Quế Hoa đang nằm nghỉ, nghe tiếng quân
lính reo hò, biết ngay là có biến , bèn bật dậy nai nịt gọn gàng, hóa
phép thành trùng trùng rào gai vây quanh Sòng Sơn, lại hóa phép thành
muôn ngàn quân sĩ giáo mác cung tên sẵn sàng nghênh chiến. Khi trông
thấy Tiền quân thánh ở phía đối diện, Tiên chúa vừa khinh bỉ vừa tức
giận vô cùng. Chẳng ngờ đường đường một vị thần tướng trên trời lại đi
đầu quân đánh nhau vì một lũ vua chúa tham lam ở dưới trần, chẳng những
thế, lại còn giở trò hèn hạ lường gạt cả tiên nữ.
Những
thuật pháp của Tiên Chúa tung ra đều hết sức nhiệm màu, và Tiền quân
Thánh, mặc dù đã biết trước, cũng phải đối phó thật là chật vật. Tuy vậy
bên phía Tiền quân Thánh, do có hai người anh trợ lực, lại quân lính
đông hơn, nên dần dần đã bao vây được Tiên Chúa. Biết là không thể chống
cự lại được, Tiên Chúa bảo Quỳnh Hoa Quế Hoa tìm cách trốn đi, còn tự
mình cũng hóa phép thành đứa trẻ, rồi lại hóa phép thành con rồng có vẩy
vàng vẩy bạc lóng lánh, múa lượn trên không ...
Tiền
quân Thánh lúc ấy ngồi trên voi chín ngà niệm thần chú tung lưới sắt ra
chụp lấy. Thế là Tiên Chúa bị bắt, rồi bị biến nguyên hình trở lại.
Tiền quan sai lính mang dây đồng tới trói ...
Giữa
lúc ấy Phật tổ bỗng nhiên xuất hiện. Tuy ngồi ở nơi tu thiền nhưng ngài
biết rõ mọi chuyện. Ngài có mặt là để giải cứu cho Tiên Chúa, Ngài xét
thấy, phần lớn đều phù hợp với tâm nguyện của Ngài.
Khi
vừa thấy Phật tổ, Tiền quân Thánh liền sững ngay lại, thay vì dây đồng
đã sai quân lính mang đến cho Tiên Chúa một bộ quần áo cà sa và một
chiếc mũ ni cô. Tiên Chúa nhận áo mũ rồi thoắt biến lên mây cùng với
Phật tổ.
Ở
Kinh đô lúc này vua Lê chúa Trịnh đang buổi thiết triều, thấy quân về
báo tin thắng trận thì mừng rỡ vô cùng: Thế là từ nay có thể thở phào
nhẹ nhõm!
Mấy
tháng sau hai vị vua chúa lại nhận được tin ở miền phố Cát, Tiên Hương
và Sòng Sơn đang xảy ra nạn dịch. Trâu bò gia súc chết ngổn ngang, người
ốm lăn lóc. Chẳng có người chăm sóc nên đồng bãi tiêu điều, côn trùng
thả sức phá hoại ...
Nạn
dịch này, từ trước đến nay, từ vua chúa cho đến dân thường cho là Tiên
Chúa gây ra, để trả thù cho lần thất bại. Sự thực thì hoàn toàn không
phải thế . Đấy là cái nạn dịch luôn đi kèm sau mỗi cuộc chiến tranh. Bao
giờ cũng vậy, khi sức người đã cạn kiệt, lại đói ăn khát uống và làm
việc quá sức rồi nguồn nước và không khí hôi rình xác tử thi, thì lẽ dĩ
nhiên, bệnh dịch sẽ phải phát sinh ra nhiều. Có trách là trách những kẻ
gây ra chiến tranh phi nghĩa, chứ chẳng nên trách những người tự vệ.
Thế
nhưng, do tin là để Tiên Chúa mất lòng đã gây ra bệnh dịch nên Nhà vua
đã ra lệch cho quan sở tại xây lại đền thờ ở các miền phố Cát, Tiên
Hương và Sòng Sơn. Dân chúng khi biết tin này cũng nhiệt liệt hưởng ứng,
góp công góp của. Thế là, chẳng mấy chốc ở những nơi này đền đài mọc
lên, bề thế nguy nga chẳng kém gì nơi cung vua phủ chúa, xứng đáng với
công sức của Tiên Chúa và cũng xứng đáng với niềm tin yêu tin cậy của
mọi người.
Tại
các nơi ấy, hàng năm vào dịp hội hè và các ngày lễ tết, người dân các
nơi lại náo nức tìm về, mang lễ vật hương hoa tưởng niệm Tiên Chúa và
cũng là mong Tiên Chúa năng hiển linh, phù hộ đôï trì. Và bao giờ cũng
vậy trong các ngày hội, sau phần lễ tế, đều có các trò vui chơi dân giã.
Các
triều vua về sau, mỗi khi mang quân xuất chinh, hay làm việc gì hệ
trọng cũng đều cử Đại Thần về đây tế lễ, cầu xin và hậu tạ sau khi công
quả toại nguyện. Càng ngày các nơi ấy càng trở nên linh thiêng và thành
niềm tin bền vững trong lòng mọi người. Sắc thượng phong của triều Lê,
đặt hiệu của Tiên Chúa là "Mã Hoàng công chúa", rồi về sau, thấy cầu
được ước thấy, bèn đặt thêm là "Mã Hoàng công chúa Chế thăng hòa diệu
Đại vương".
Chẳng
những ở ba nơi kể trên, mà các nơi khác: Đèo Ngang (Quảng Bình), Xứ
Nghệ, Xứ Lạng và Tây Hồ (ven sát kinh thành) ..., những nơi trước kia đã
từng lưu dấu Tiên Chúa, dân chúng cũng lập đền thờ tưởng niệm. Tùy khả
năng và phong tục của mỗi nơi, chỗ thờ tự và lễ vật có thể khác nhau,
nhưng thảy đều xuất phát từ lòng biết ơn và sự cầu mong chân thành.
Còn
những nơi Tiên Chúa chưa từng đặt chân đến, mọi người cũng cầu mong có
dịp nào đó Ngài sẽ giáng lâm, và do vậy, khắp các làng quê, ở đâu cũng
lập điện thờ. Điện thờ được lập ở mé bên hoặc mé sau Phật điện là nơi
thờ Phật.
Nhân dân kính cẩn gọi Tiên Chúa là Thánh Mẫu, nhưng nhiều khi giản dị và dân giã hơn, gọi Tiên Chúa là Mẫu Liễu.
Mẫu
Liễu là niềm tin, là sự cầu mong của tất cả mọi người. Mẫu cũng chính
là lương tâm, là sự toàn thiện mà tri giác của con người cần phải vươn
tới. ST
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét