XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2016

TRUNG HOA ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI

LÂM NGỮ ĐƯỜNG
TRUNG HOA ĐẤT NƯỚC CON NGƯỜI
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN
TRẦN VĂN TỪ dịch theo nguyên tác tiếng Anh: MY COUNTRY MY PEOPLE
Lời giới thiệu của PEARL S. BUCK, Giải Nobel Văn Chương 1938
Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin 2001
          Ngày nay một trong những phong trào quan trọng nhất ở Trung Quốc là sự tìm tòi, khám phá ngay chính tổ quốc của họ bởi những nhà trí thức Trung Quốc, một thế hệ trước đây, những người tiến bộ nhất ở hàng ông cha họ đã bắt đầu cảm thấy bức xúc bất mãn với chính ngay tổ quốc của họ. Họ đã ý thức được – thật ra thật lòng họ đã buộc lòng phải ý thức được rằng nước Trung Hoa nếu cứ như trong thời quá khứ thì không thể đối phó được với sự tân tiến đầy nguy hiểm và hung hãn của Tây phương. Tôi không có ý nói về sự tân tiến về mặt chính trị nhiều hơn là sự tiến triển về các diễn biến kinh tế, giáo dục và quân sự. Những bậc tiền bối Trung Hoa này, những vị ông cha của thế hệ hiện tại ở Trung Hoa, là những nhà cách mạng thật sự. Họ đã diệt trừ ách thống trị quân quyền cổ lỗ, với một tốc độ khó tin được họ đã thay đổi hệ thống giáo dục; với một nhiệt tâm không bao giờ mệt mỏi, họ đã hoạch định và thành lập một chính quyền hiện đại. Thời xưa không một chính quyền nào dưới tay một vị Hoàng đế lại có thể hoàn thành được những sự thay đổi lớn lao như vậy trong một nước lớn như vậy, với một tốc độ nhanh chóng hơn.
Giới thanh niên trí thức Trung Hoa hiện nay đã trưởng thành trong khung cảnh đầy thay đổi này. Khi các vị tiền bối được thấm nhuần các học thuyết Khổng Tử và học lần kinh sách, rồi nổi lên chống lại các thứ đó, thì các thanh niên này bị nhiều sức mạnh của thời đại mới tấn công dồn dập. Họ được giảng dạy một đôi điều về khoa học, đôi điều về Cơ đốc giáo, về thuyết vô thần, về tự do luyến ái, về chủ nghĩa cộng sản, về triết học tây phương, về chủ nghĩa quân phiệt mới, thật ra một đôi chút của tất cả mọi thứ. Đứng giữa tâm trạng trung cổ đặc sệt của quảng đại quần chúng dân trong nước, những thanh niên trí thức đã được giảng dạy những điều cực đoan nhất của mọi nền văn hóa. Về mặt tinh thần họ đã bị xô đẩy vào cùng một sự sơ sót lớn lao mà nước Trung Hoa đã phạm phải về mặt thể chất, nói một cách bóng bẩy, họ đã nhảy vọt từ thời kỳ đường sá thô sơ nơi thôn quê tới kỷ nguyên của máy bay, sự sơ sót quá lớn lao. Trí tuệ không thể bù đắp vào chỗ đó. Tinh thần bị mất đi trong cuộc va chạm.
Do đó, kết quả đầu tiên của sự thiếu sót này chắc chắn là việc phát sinh ra một lớp thanh niên Trung Hoa, cả nam giới lẫn nữ giới, nhưng cơ cốt là nam giới, là những người thật tình không hiểu phải sống thế nào trong chính nước của họ, hay trong thời đại mà họ còn đang trải qua. Phần lớn bọn họ được theo học ở nước ngoài, ở đó họ đã quên mất các thực trạng của giống nòi họ. Thật là khá dễ dàng cho những lãnh tụ cách mạng để thuyết phục những tâm hồn phẫn nộ này rằng sự lạc hậu của Trung Hoa chính yếu là do sự can thiệp về chính trị và vật chất của các thế lực ngoại bang. Thế giới được đưa ra làm vật tế thần cho chế độ trung cổ tại Trung Hoa. Thay vì nhận thức được rằng đường lối riêng của mình Trung hoa đang thực hiện những bước tiến chậm chạp, đúng thế, đôi khi khó khăn, tới chỗ văn minh hiện đại; thật là việc dễ dàng khi la lối lên rằng nếu không có người ngoại quốc thì nước Trung Hoa đã ngang hàng về mặt vật chất với các quốc gia khác rồi.
Kết quả của việc này là một cuộc cách mạng còn nóng hổi Trung Hoa đã thực sự rũ bỏ được hai nỗi bất bình lớn, ngoài vụ Nhật Bản ra, đó là quyền lãnh sự tài phán và quan thuế biển. Không có sự thay đổi lớn lao nào xuất hiện rõ ràng như một hậu quả. Người ta thấy rõ ràng những gì được coi là yếu kém khi xưa thì nay vẫn còn là yếu kém, và những điều đó đã ăn sâu trong ý thức hệ của dân chúng. Chẳng hạn ta thấy rằng khi một lãnh tụ cách mạng nào đó mà địa vị đã được vững chắc, thì biến ngay ra một kẻ bảo thủ rồi hủ bại, chẳng khác gì bọn quan liêu cũ. Mọi cách khác thì tình hình cũng giống như thế. Trung Quốc cũng có nhiều thanh niên, thành thật và có tri thức, biết rõ sự thực ấy, rằng thế giới bên ngoài không can gì tới tình trạng của Trung Quốc và trước kia nếu có liên quan thì cũng dễ ngăn chặn và dứt bỏ đi nếu Trung Quốc sớm bỏ được một chút tính lười biếng và các lãnh tụ của họ bỏ bớt được tâm lý ích kỷ và mù quáng.
Rồi tiếp sau là một thời kỳ thất vọng và bồng bột, sùng bái  Âu Tây một cách duy tâm hơn nữa. Sự cường thịnh huy hoàng của các cường quốc rõ ràng là do kết quả trực tiếp của nền khoa học tiến bộ. Đó là thời kỳ gây tự ti mặc cảm khiến bọn thanh niên ái quốc có xu hướng theo hai đường lối: Một là uất ức chán nản về hiện trạng quốc gia; hai là muốn che giấu người ngoài tình trạng thực tại của quốc gia mình. Sự thực gì liên quan đến nước họ thì đừng mong tìm ở nơi họ. Họ vừa hờn giận vừa cảm phục người ngoại quốc.
Ví bằng các nước Âu Tây cứ giữ mãi được sự phồn thịnh và bảo vệ được hòa bình thì tâm lý người Trung Quốc sẽ đến thế nào, điều này thật khó biết. Nhưng thật ra, người Âu Tây cũng không giữ được tình trạng thuận lời đó mãi mãi, thật đáng buồn thay! Người Trung Quốc có thái độ gần như khoan khoái khi nhìn thế giới đại chiến bộc phát, các xí nghiệp phồn thịnh bị phá tan, cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra, cùng những thất bại của các khoa học gia đem tài năng ra mà không cứu vãn được các tai họa đó. Họ bèn cho rằng dù sao Trung Quốc cũng không đến nỗi nào. Rõ ràng là ở đâu cũng có đói kém, ở đâu cũng có cướp bóc, dân tộc này so với dân tộc kia cũng chẳng hơn gì. Cú theo tình trạng đó mà nói thì có thể cho rằng nước Trung Hoa thời xưa cũng khá và chúng ta cũng nên tìm hiểu trở lại các thời đại trước xem triết lý của Trung Quốc xưa thế nào? Ít nhất triết lý đó cũng dạy cho người ta tính điềm đạm, tri túc, vui sống với mệnh trời, hài lòng hưởng ít khi không có được nhiều, ổn định cuộc nhân sinh và đặt được nền tảng sống an toàn vững chắc. Gần đây người Tây phương hứng khởi muốn nghiên cứu Trung Quốc và một số học giả Tây phương ao ước hình thái sinh hoạt của người Trung Quốc: yên ổn vững vàng, thán phục nghệ thuật và triết học của Trung Quốc, khiến cho thanh niên Trung Quốc vững lòng tự tin.
Ngày nay, kết quả rõ ràng là người ta lại nhắc lại câu cách ngôn xưa “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Giới trẻ của nước Trung Hoa đã chán sự hăng say làm cách mạng của ông cha họ, nên trở lại với khuynh hướng phục cổ. Nhìn bọn họ quyết tâm, cố gắng để trở thành con người Trung Quốc hoàn toàn, thuần túy; như họ ăn những món ăn Trung Quốc, mặc quần áo bằng vải Trung Quốc, và sống theo nếp sinh hoạt của người Trung Quốc thì quả thật đôi khi cũng thấy vui vui. Một số lớn thanh niên Trung Quốc đã Âu hóa, ngày nay muốn trở lại phương thức sinh hoạt thuần túy của Trung Quốc, gần như một “mốt” (một kiểu cách), chẳng khác gì cha mẹ họ trước kia ưa mặc âu phục, đi giày da, ăn cơm Tây bằng dao, dĩa và muốn đi học ở trường đại học Harvard. Bọn thanh niên này nay đã mặc âu phục, ăn cơm Tây từ lâu và đã làm học sinh của đại học Harvard, họ tinh thông văn học Anh quốc hơn cả tiếng mẹ đẻ, thì nay họ cảm thấy chán ngấy những cái đó và muốn trở lại với tổ tiên mình.
Khuynh hướng này đều hiện rõ khắp nơi, không những chỉ ở phục sức và phong cách. Quan trọng hơn nhiều là khía cạnh nghệ thuật và văn học, ví dụ mấy năm trước đây đề tài các tiểu thuyết mới của Trung Quốc phần lớn là nói về các cuộc tình duyên lối mới, về các mối tình Âu-Á hay cách mạng chống lại gia đình, cha mẹ. Toàn bộ sách có giọng điệu gần như bệnh hoạn, thật không hợp với tình hình của Trung Quốc. Những thứ này vẫn còn nhiều trong văn nghệ, nhưng ý hướng lành mạnh đang dần dần tới vì chúng phát xuất từ nếp sinh hoạt kiện toàn của giới bình dân chất phác. Thanh niên trí thức mới bắt đầu tìm ra quần chúng của họ. Họ bắt đầu hiểu rõ cuộc sinh hoạt ở tỉnh nhỏ, ở nông thôn là cuộc sinh hoạt cố hữu và trung thực của Trung Quốc. Nếp sinh hoạt này may mắn chưa bị pha trộn màu sắc mới, vẫn giữ nguyên được phần bẩm tính thuần khiết, lành mạnh, chứ không bệnh hoạn như đời sống của họ. Họ bắt đầu thấy vui sướng mà nhận ra rằng dân tộc mình còn giữ được một nền tảng lớn lao và chắc chắn. Vì thế, họ nhiệt thành hướng về đấy để mong tìm thấy những cảm hứng mới. Cái đó đối với họ là những gì lạ thương, thanh cao, là thú vị, là đáng có và nhất là nó thuần túy Trung Quốc.
Họ tìm đến được cái quan điểm mới ấy cũng là nhờ người giúp sức. Theo tôi hiểu nếu cứ tự họ thì hẳn cũng không có được thành tích tốt đẹp ấy nhưng chính người Âu, Mỹ giúp đỡ họ thành công vậy. Người Âu Tây chúng ta chẳng những giúp họ bằng cách tiêu cực là tỏ ra nền văn hóa chúng ta có một phần nào đang đi đến chỗ tan vỡ, chúng ta lại còn giúp họ một cách tích cực bằng khuynh hướng sống thuần phác của chúng ta. Người Âu Tây chúng ta sốt sắng với tất cả các cuộc vận động cách mạng vô sản của nước họ. Rồi họ bắt đầu tìm hiểu ra những tính chất tốt đẹp của người dân nước họ, nếp sinh hoạt vẫn còn giữ được tính chất thuần khiết cố hữu không bị xáo trộn bởi thế giới bên ngoài. Lẽ tự nhiên mỗi khi những phần tử trí thức gặp hoàn cảnh khốn khổ, lo lắng, loạn lạc thì nếp sống an ổn điềm tĩnh ấy rất hấp dẫn đối với họ.
Chủ nghĩa cộng sản cũng đã giúp họ. Chủ nghĩa này đã truyền bá ý thức giai cấp, khiến mọi người bình dân dám lên tiếng, dám đưa ra những yêu sách. Nền giáo dục theo cách thức mới của Trung Quốc đã được phổ cập trong con em của giới bình dân, cho bọn này một thứ ngôn ngữ để họ bày tỏ ý kiến của họ. Những tác giả trong nhóm thanh niên khuynh tả của Trung Quốc sáng tác những nghệ thuật văn học đều chứa đựng sự khai triển gấp rút những nhận xét về giá trị của nam nữ thường dân trong giới vô sản. Kỹ thuật tuy tỏ ra hơi thô xuất và còn chịu nhiều ảnh hưởng nghệ thuật ngoại quốc, nhưng đã có ý niệm nòng cốt. Ta đã có lúc được xem những bức vẽ theo kiểu mới, có hình một phụ nữ nhà nông chứ không phải là một con chim nhỏ đậu đầu cành trúc; có hình một người đàn ông đang gắng đẩy chiếc xe cút kít chứ không phải là mấy con cá vàng lượn dưới lá sen.
Có điều người Tây phương chúng ta muốn được thấy nhóm tác giả trong hàng ngũ mới vùng lên giải phóng này, tìm được một ngôn ngữ thành thực và rõ ràng để nói về Trung Quốc, thì e rằng phải chờ một thời gian dài, sợ rằng một đời chúng ta cũng không chắc gì được thấy. Nhưng đáng mừng còn có một số tác giả đừng ngoài lề lối đó, có tinh thần mạnh mẽ đủ giúp họ giữ gìn được sự thuần khiết không đến nỗi lạc lõng bởi những khuấy động của thời đại, với óc hài hước tinh vi của hàng bao nhiêu đời học thức để lại, họ im lặng thâm trầm, đủ sức nhận xét được bộ mặt thật của cuộc sống, đủ sáng suốt để thấy rõ nền văn hóa của chính mình và nền văn hóa của người ngoài, đủ khôn ngoan để lựa chọn những gì vốn có và vì thế mới là thuần túy của chính mình. Tôi mong mỏi từ lâu trong thiểu số tác giả ấy có một vị vì chúng tôi, mà viết ra một cuốn về Trung Quốc của mình, một quyển sách thực có giá trị thấm nhuần tinh túy của nhân dân Trung Quốc. Đã nhiều lần tôi lật dở tìm đọc loại sách viết về đề tài này, lòng đầy nhiệt tình và hy vọng, để rồi cuối cùng lần nào cũng thất vọng vì nó thiếu chân thật, vì nó toàn một giọng khoe khoang, vì tác giả đã quá ân cần biện hộ cho một cái gì vĩ đại quá đến nỗi tự nó không cần ai biện hộ. Những tác phẩm này được viết ra chỉ chuyên vào mục đích lòe người ngoại quốc, bởi vậy đã không xứng đáng với Trung Quốc vậy.
Một tác phẩm về Trung Quốc, xứng đáng với đề tài ấy, không thể là một thứ tác phẩm nào những đã nói trên. Nó phải được trình bày thẳng thắn không có ý e thẹn, vì người Trung Quốc bao giờ cũng là người khôn ngoan và sâu sắc, được lòng người. Tác phẩm ấy lại cần có tính chất hài hước, vì hài hước là tính thiên bẩm của nhân dân Trung Quốc, sâu sắc, dịu dàng, hiền hòa phát sinh từ những từng trải thảm sầu, vá quan niệm vui sống hợp với lẽ trời mà có; tác phẩm ấy lại cần có một giọng văn trôi chảy, chính xác và đẹp đẽ, vì người Trung Quốc thường coi trọng vẻ đẹp tinh tế và chính xác. Như thế chỉ có người Trung Quốc mới viết nổi một tác phẩm như vậy. Nhưng tôi lại nghĩ rằng: Ở Trung Quốc khó tìm được một ai đủ khả năng viết cuốn sách đó. Vì kiếm đâu được một tác giả người Trung Quốc mới, viết sách bằng Anh ngữ mà không sống cách biệt quá xa với dân tộc mình như một người ngoại quốc, và đồng thời đứng trên địa vị khá khách quan để có thể nhận xét được toàn bộ ý nghĩa của dân tộc và thời đại của họ.
Nhưng quả thật không ngờ, cũng như những tác phẩm vĩ đại đã ra đời từ xưa tới nay, cuốn “MY COUNTRY AND MY PEOPLE” bỗng nhiên xuất hiện. Nó đã làm thỏa mãn lòng mong mỏi tha thiết của chúng ta, nó đã bày tỏ mọi vấn đề trung thực không e thẹn một chút nào. Bút pháp lại rất hào hùng, hài hước, nguy nga rực rỡ, thật nghiêm trang mà vui vẻ.
Đối với thời xưa cũng như thời nay, tác giả đều thông suốt và hiểu rõ một cách tường tận. Tôi nghĩ rằng cuốn sách này là một tác phẩm rất trung thực, rất lớn lao, rất đầy đủ, rất trọng yếu trong những tác phẩm viết về Trung Quốc ra đời từ trước đến nay. Lại đáng quý hơn nữa, tác giả của nó là một người Trung Quốc, một tác giả của thời đại này có cội rễ rất sâu ở nền tảng xưa, lại nở đầy hoa tươi ở thời đại mới.
PEARLS BUCK
 
 
BÀI TỰA CỦA TÁC GIẢ
Trong cuốn sách này, tôi chỉ nghĩ đến sự phát biểu ý kiến riêng của mình, đó là những gì tôi đã phải qua một thời gian dài khổ công suy nghĩ, xem đọc và tự mình xét đón mà thu hoạch được. Tôi không tìm cách biện luận với mọi người, cũng không muốn chứng minh các luận đề của tôi, nhưng tôi sẽ vì quyển sách này mà được khen hay bị kết án như Khổng Phu Tử đã nói: “Hiểu ta cũng bởi kinh Xuân Thu chăng! Bắt tội ta cũng bởi kinh Xuân Thu chăng!”. Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn. Sinh mệnh dân tộc nước này có nhiều khía cạnh phức tạp, muốn trình bày thế này cũng được, ngược lại cũng được. Vị nào muốn đưa ra một luận đề trái ngược, bỉ nhân xin sẵn lòng cung cấp tài liệu vào bất cứ lúc nào để vị đó tiện làm công việc ấy. Nhưng chân lý vẫn là chân lý, nó sẽ khắc phục được tất cả mọi ý kiến riêng tư. Con người lĩnh ngộ được chân lý chỉ ở một thời gian thoáng hiện hiếm có. Cái lĩnh ngộ trong thời gian thoáng hiện đó sẽ còn mãi mãi, còn ý kiến riêng tư sẽ tiêu tan mất. Cho nên sưu tập đại qui mô những tài liệu để chứng minh khiến người ta chóa mắt, chỉ đưa đến những kết luận cũ rích mà rỗng tuếch.
Vì vậy trình bày những chân lý đã lĩnh ngộ được, cần áp dụng một cách thức giản dị tức là tinh tế, hơn nữa bởi vì chân lý không chứng minh được, chỉ gội ý ra thì hiểu thôi.
Viết cuốn sách này, tôi đã mạo phạm đến một số đông tác giả viết về loại khảo sát Trung Quốc nhất là đồng bào và các nhà đại ái quốc của tôi nữa. Các nhà đại ái quốc đó tôi với họ thật không có liên hệ gì vì thần tượng họ tôn thờ không phải là thần tượng của tôi; lòng ái quốc của họ không giống lòng ái quốc của tôi.
Có lẽ tôi cũng yêu nước như họ, nhưng tôi thường cẩn thận che giấu không phô bày trước mặt mọi người, là vì thường thấy có những người khoác cái áo ái quốc đến rách tả tơi mà vẫn mặc nó tả tơi để đi diễu khắp phố phường ở ngay Trung Quốc hay ở mọi nơi trên thế giới.
Tôi thú thật rằng, khác với các nhà ái quốc kia, tôi không thấy xấu hổ về nước tôi. Tôi có thể trình  bày tất cả những nỗi khốn khổ, đau đớn của nước tôi vì lúc nào tôi cũng vẫn hy vọng ở nó. Trung Quốc vĩ đại hơn các nhà ái quốc nhỏ mọn của nó, vì thế không cần bọn họ phải tô điểm cho nó. Nó sẽ tự điều chỉnh như quả trình lịch sử đã từng cho ta nhận thấy.
Tôi cũng không vì những nhà ái quốc Tây phương mà viết ra cuốn sách này; nói vậy vì tôi rất sợ người ta trích dẫn những đoạn rút trong sách của tôi mà khen, điều này còn tai hại hơn là  việc quốc dân hiểu lầm tôi nữa.
Tôi viết cuốn này để cống hiến cho hạng người thuần phác, trung thứ, đạo trung thứ là điểm cao quý đặc biệt của Trung Quốc thời xưa mà nay như đã mất hẳn không còn thấy nữa. Cuốn sách này của tôi chỉ có thể được hiểu theo quan điểm thuần phác đó thôi. Những gì tôi nói, là chỉ cốt ý nói với hạng người còn ý thức được những giá trị căn bản của loài người mà chỉ những người này mới hiểu rõ thôi.
LÂM NGỮ ĐƯỜNG
LỜI MỞ ĐẦU
Những nhân sĩ của các nước bạn đến ngụ ở Trung Quốc hẳn phải có cảm tưởng về nước này bao giờ cũng đi với lòng thương xót, cũng có khi với nỗi thất vọng, nhưng rất ít khi thấu triệu nhận rõ tình trạng Trung Quốc. Hoặc người ta có cảm tình yêu Trung Quốc, hoặc người ta ghét Trung Quốc. Lại nữa, một người chưa bao giờ đặt chân đến Trung Quốc, thì cũng có lúc họ cho rằng Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn, lâu đời ở một miền hẻo lánh mịt mù hình như không có liên hệ gì với thế giới. Nhưng cái hẻo lánh mịt mù ấy hình như lại có một sức hấp dẫn với mọi người. Đến một lúc nào, đích thân họ đặt chân lên nước này, thì lại cảm thấy như bị chìm đắm, không có ý nghĩ tìm tòi, so sánh gì hết, mà chỉ còn nhận ra rằng có nó đó, nó là một cái gì lớn lao, lớn lao đến mức vượt hẳn ra khỏi tâm trí con người. Nó lại giống như cái gì có vẻ hỗn độn vô lý, tuân theo luật sinh tồn của nó, trên thân nó đã diễn ra biết bao tấn tuồng nhân sinh vĩ đại, lúc thì buồn, lúc thì vui, nhưng lúc nào cũng rất là thực. Sau đó, người ta không khỏi phải lạ lùng, kinh ngạc mà suy nghĩ. Lần này thì là một phản động lực tùy theo tâm tính, nó chỉ biểu lộ rằng người này là con người lãng mạn của chủ nghĩa đại đồng, hay là một người kiêu căng tự phụ. Hoặc người ta yêu Trung Quốc, hoặc người ta ghét Trung Quốc, từ đó người ta bắt đầu chứng minh. Người ta phải có một thái độ đối với Trung Quốc để tỏ ra rằng mình là người thông minh. Chúng ta cứ nhắm mắt tìm tòi những lý lẽ biện minh, bắt đầu kể cho nhau nghe những mẩu giai thoại, lời dật sự, những chuyện vặt thường ngày, những cái quan trọng ghê gớm biến ta thành triết nhân và khiến cho ta bình thản chỉ trích cay nghiệt Trung Quốc, không bao giờ có một lời khen hoặc là biến thành những người nhiệt tình thán phục Trung Quốc. Đương nhiên khái quát hóa như vậy là vô lý, nhưng ở cõi đời này dư luận đều do đường lối như vậy mà tạo ra, thế thì tình trạng trên không thể tránh được. Thế rồi hai bên tiến đến chỗ tranh luận. Có một vài ông anh sau khi kết thúc cuộc bàn cãi, hoàn toàn tự mãn cho rằng mình hiểu biết rất chính xác về Trung Quốc và người Trung Hoa. Những con người đó là những người sung sướng cầm quyền thống trị cả thế giới, là bác nhà buôn mang hàng hóa nước này nhập cảng nước kia và bao giờ cũng phải. Một số người khác thì lại buồn phiền bởi những điểm nghi ngờ phân vân sinh ra cảm giác e ngại rụt rè hỗn loạn, hoặc có cảm giác e ngại rụt rè bởi những gì thần bí khó hiểu, thành ra cứ lẩn quẩn mãi. Nhưng tất cả chúng ta đều cảm thấy rằng Trung Quốc có đó, thế thì Trung Quốc là một Dasein(1) vĩ đại huyền bí.
Trung Quốc rõ ràng là một thực tại lớn lao khó hiểu của thế giới hiện đại chỉ vì nó đã lâu đời già nua quá hay lãnh vực nó bao la quá.
Trung Quốc hiện nay là một trong những quốc gia lâu đời nhất, mà vẫn giữ một nền văn hóa cổ truyền, liên tục nhất quán; nó lại có một dân số rất lớn so với các nước trên thế giới; nó đã có lúc là một đế quốc lớn mạnh dòm ngó cả hoàn cầu, đã có lúc chiến thắng các dân tộc khác; đã cống hiến cho thế giới một vài phát minh trọng yếu; nó có nền văn chương và nhân sinh quan của nó. Ở địa hạt nghệ thuật, nó đã tung cánh bay cao trong khi các dân tộc khác còn tập vỗ cánh bay chuyền. Thế mà ngày nay, rõ ràng nó là một quốc gia hỗn loạn nhất, thất bại nhất trên hoàn cầu, nó cũng rất thê thảm, khốn cùng, bất lực, khó có thể trấn định tinh thần mà tiến được. Thượng đế - nếu thật có Thượng đế - định cho nó là một dân tộc vào hạng nhất trong hoàn vũ nhân quần, nhưng trong Hội Quốc Liên nó được xếp vào hạng bét ngang hàng với xứ Guatemala, một quốc gia nhỏ ở Trung Mỹ. Mà mặc dù rõ ràng là Hội Quốc Liên đã có lòng tốt hết sức nâng đỡ nó, cũng không thể giúp nó chỉnh đốn lại nội bộ, dẹp được nội chiến, cứu nó ra khỏi thay bọn chính khách, văn nhân, quân phiệt và cách mạng của nó.
Đồng thời – một hiện tượng gần như rất lạ lùng – nó không bao giờ tìm đường tự cứu. Có thể vì nó như một con bạc lõi đời đương ngồi trong canh bạc, có lúc nó bỏ mất miếng đất to gần bằng nước Đức, mà vẫn thản nhiên như thường, không tỏ thái độ gì cả. Khi tướng Thang Ngọc Lân ở Nhiệt Hà rút binh một cách mau lẹ phá kỷ lục thế giới, trong tám ngày bị mất một vùng đất rộng lớn tới năm mươi vạn cây số vuông, trong lúc đó ở mặt Tứ Xuyên, hai ông đại tướng là chú cháu với nhau đang xua quân đánh lộn kịch liệt. Người ta tự hỏi hay là Thượng đế sẽ an bài hay là Thượng đế tự tay sẽ giúp Trung Quốc trở thành một dân tộc vào hạng nhất mặc dầu Trung Quốc muốn hay không như vậy.
Có một mối nghi ngờ nảy ra trong lòng người là vận mệnh Trung Quốc rồi đây sẽ ra sao? Nó có thể tồn tại được như trong quá khứ không? Một quốc gia già nua nào đã làm được như vậy không? Thượng đế có thực lòng thành toàn cho nó trở nên một dân tộc vào hạng nhất không? Hay muốn nó chỉ là một “thai nhi đẻ non của bà lão địa cầu”?
Nó đã có lúc nắm được quyền uy chí tôn, đã có lúc hào hùng chiến thắng. Đến ngày nay, hình như vận mệnh của nó chỉ còn là sống sót và người ta chỉ còn niềm tin vào khả năng sống sót đó thôi, khi người ta nhớ ra là nó còn sống sót trong khi văn minh Hy Lạp sán lạn, những vinh quang của La Mã hiển hách đã mất từ lâu rồi; chúng ta hẳn cũng nhớ rằng Trung Quốc đã đồng hóa tư tưởng, hành vi của các dân tộc ngoại lai như thế nào, đã thu hút huyết thống của các dân tộc ấy ra sao. Cái sự kiện nó tồn tại, cái lịch sử dài lâu kia, thật rõ ràng là những điểm làm chúng ta phải suy nghĩ kỹ. Đối với một quốc gia cổ kính, hẳn rằng ta cũng phải có một niềm tôn kính tương đương thành thật, cũng như kính trọng một người già đầu râu tóc bạc. Phải, dù chỉ là với mội người già lão, dù chỉ là còn sống sót mà thôi.
Cho rằng Trung Quốc có khuyết điểm cả về mọi mặt, nhưng nó vẫn có một bản năng sinh hoạt rất mạnh, một sức sống bền bỉ khác thường, không thể chối cãi được. Nó đã phát triển hết mức cái bản năng sinh hoạt của nó; nó theo thời mà biển đổi cho thích ứng với hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội của nó, những hoàn cảnh đã làm sụp đổ các chủng tộc khác, kém mạnh mẽ phải diệt vong. Nó được hưởng những ân huệ của thiên nhiên ban cho, nương tựa vào những núi non hoa cỏ tươi đẹp đẽ di dưỡng tính tình và đạo đức. Nhờ vào cái hoàn cảnh thiên nhiên đó mà nó giữ gìn được tâm linh thuần khiết, kiện toàn, tránh cho chủng tộc khỏi bị thoái hóa về những phương diện chính trị và xã hội. Nó không sống yên lặng trong cái bãi hoang rộng của đại tự nhiên, ban ngày nó tắm gội trong ánh sáng mặt trời đầm ấm, buổi chiều nó ngắm vẻ đẹp của dáng trời mây nổi, thân nó thấm nhuần mưa móc ban mai, thở hít hương thơm của ngũ cốc; nương tựa vào những gì nên thơ của nó; những bài thơ nói lên sinh hoạt tập quán, cũng như những bài thơ miêu tả hoặc đầy lời hoa mỹ, nó hiểu rõ cách di dưỡng để làm lành nhũng vết thương mà linh hồn nó đã nhiều lần bị tổn hại đau đớn. Nói một cách khác rõ hơn, nó sống được đến cái tuổi già nua như vậy cũng nhờ bằng một phương pháp giữ gìn sức khỏe như một cá nhân, nó biết sinh hoạt ngoài trời, để thâu nhận lấy ánh nắng và không khí trong sạch. Nó đã trải qua những thời kỳ gian nan, khốn khổ, những cuộc chiến dằng co qua lại, cũng những tai ương dịch tễ, rồi còn biết bao nhiều thiên tai nhân hại khác. Những lúc đó nó có một thái độ hơi hài hước, thô bạc và cuối cùng dẹp được loạn lạc, giết được kẻ cường bạo, để trở lại nếp sống bình thường. Phải, tuổi già dù chỉ là tuổi già thôi cũng đáng cho ta phải lấy làm kỳ lạ rồi!
Bây giờ nó đã đến tuổi kỳ di vượt trên mọi thống khổ về tinh thần và thể xác, nhưng thường vẫn có người cho rằng như vậy là tuyệt vọng, là hết phương cứu chữa. Bởi người ta nghĩ rằng: Với tuổi tác ấy, đó lại là một sức lực chăng? Hay chỉ là một thể chất yếu hèn, hủ bại? Trung Quốc hình như có thái độ thách thức thế giới này, nó lãnh đạm đối với các dân tộc khác. Điều này thực do tuổi tác già nua của nó cho phép. Dẫu rằng gặp bước thế nào, nếp sống bình tĩnh của nó không bao giờ bị tao nhiễu mà vẫn êm đềm vượt qua, không lẩn tránh u sầu, thống khổ mà cũng không bị dao động bởi hư vinh hay khuất nhục. Những tình cảm nhỏ nhoi chỉ đủ sức làm dao động những tâm linh ấu trĩ mà thôi, chẳng hạn như khoảng hai trăm năm vừa qua, có khi bị đe dọa hủy diệt, tiêu ma cả uy thế, nhưng không vì thế mà nó sợ hãi. Thắng lợi hay thất bại không lai được lòng nó; tai ách, thống khổ, chết chóc đối với nó mất hết năng lực kích thích; cho nên sinh mệnh dân tộc, trong khoảng hai trăm năm, có nằm trong vòng đen tối, nhưng tất cả đều không có nghĩa lý gì. Cũng như ở hình ảnh đại dương trong văn chương của Nietzsche: Đại dương lớn hơn tất cả các loài cá, các loài sò ốc tôm cua và các con sứa nuốt, lớn hơn bùn lầy rác rưởi vứt xuống mình nên đại dương chứa đựng được tất cả, không từ chối bất cứ vật gì chảy vào. Cũng như biển cả, Trung Quốc lớn hơn tất cả những lời tuyên truyền mang tính cách phỉ báng, méo mó lệch lạc của bọn du học sinh về nước; lớn hơn tất cả cái tham tàn của bọn quan lại, bọn tướng tá phản loạn, bọn cách mạng ba phái, bọn giả đạo đức; lớn hơn tất cả mọi thứ bần cùng đói kém. Nó đã chấp nhận được tất cả mọi khó khăn khổ cực để trường tồn. Sống trong phản loạn, chiến tranh, đàn con cháu nghèo khổ vây xung quanh, lão già Trung Quốc lụ khụ kia, vẫn vui vẻ ung dung nhấm nháp chén trà thơm; tủm tỉm nụ cười, trên nụ cười ấy ta thấy sức mạnh thực sự hay đôi khi ta nhận thấy vẻ lười biếng không chịu cải cách hoặc thấy phong vị đặc biệt của tính bảo thủ cao ngạo. Lười chăng? Cao kỳ ngạo nghễ chăng? Thật khó hiểu. Chẳng qua ở tâm linh nó hình như có ẩn nấp cái vẻ tinh khôn của một con chó già, một vẻ tinh khôn huyền diệu làm kinh động mọi người. Tâm linh già nua kỳ lạ biết bao! Vĩ đại biết bao!
Những cái vĩ đại đó phải trả giá thế nào? Carlyle hình như đã nói tới ở một chỗ nào rằng cái ấn tượng đầu tiên trước một nghệ thuật thực sự vĩ đại, thường làm cho người ta thất thần đến độ cảm thấy đau đớn. Cho nên số mệnh của vĩ nhân là sẽ bị người ta hiểu làm. Số mệnh Trung Quốc cũng vậy. Trung Quốc đã có lúc bị người ta hiểu lầm một cách hùng tráng vĩ đại. Hai tiếng “vĩ đại” thường là một danh từ đặc biệt, chuyên dùng để chỉ những sự vật mà chúng ta không hiểu rõ và muốn dứt cho xong. Tuy nhiên. ở giữa hai đường, một là được người ta hiểu rõ và hai là được gọi là vĩ đại, thì Trung Quốc mong được người ta hiểu rõ, và như thết thì càng tốt hơn nữa cho mọi người. Nhưng mà làm sao cho người ta hiểu rõ Trung Quốc được? Ai chịu đứng giữa để làm công việc chuyển dịch? Trung Quốc có một lịch sử lâu dài như thế, trong khoảng ấy đã có biết bao nhiêu vua thánh chúa hùng, hiền triết thi nhân, thầy hay trò giỏi cho đến những bà mẹ hiền, những cô gái giỏi giang; có một nền văn nghệ, triết học cố hữu, một nghệ thuật hội họa, hý kịch đặc biệt, mang lại cho người dân ý thức đạo đức, phân biệt được thiện ác, thêm vào đó còn không biết bao nhiêu văn học của giới bình dân, những ca dao, tục ngữ. Nhưng chỉ vì vấn đề ngôn ngữ bất thông tạo ra một hàng rào ngăn cách khó lòng vượt qua. Có thể nào Trung Quốc được hiểu qua tiếng Anh bồi. Có thể nào các tay “Hoa học chuyên môn” tìm hiểu được tiếng Trung Quốc qua miệng một anh bồi bàn, một anh chạy hàng xách, một anh thợ bạc? Hay đọc mục thông tin của báo North China Daily News để tìm hiểu chăng? Những ý kiến này rõ ràng không thích đáng rồi.
Chắc chắn là muốn tìm hiểu rõ ràng một dân tộc khác và nền văn hóa rất khác của nó, chẳng hạn như Trung Quốc khác hẳn với mình thì công việc đó không phải một người thường làm nổi. Vì công việc này đòi hỏi một tình giao hữu rộng rãi, một lòng bác ái giữa loài người với nhau. Kẻ làm công việc này mỗi bước tiến tất phải dựa theo lý lẽ của trái tim, lấy cái nhìn của tâm linh để cảm ứng. Ngoài ra, phải gạt bỏ hết mọi ý kiến riêng tư, những thành kiến đã ăn rễ từ thuở nhi đồng, những ấn tượng đã in sâu ở tuổi thành nhân, những ý nghĩa của những từ ngữ viết hoa như “Dân chủ”, “Phồn vinh”, “Tư bản”, “Thành công”, “Tôn giáo”, “Lợi tức” v.v… Và cũng không thể để người nghiên cứu xa cách hẳn với quốc gia mình đang tìm hiểu. Kẻ này một mặt cần có một quan niệm siêu việt, một mặt cần có một tấm lòng thuần phác. Tấm lòng thuần phác đó đã được đại thi gia Robert Burns nêu ra điển hình rõ ràng, nhà thơ đó đã lột trần tinh thần chúng ta, bày tỏ rõ tính cách chung của con người từ tình yêu đến ưu tư. Phải giữ tấm lòng khoáng đạt và thuần phác thì một cá nhân mới có thể nhìn rõ nội dung một dân tộc khác.
Trở lại vấn đề, vậy ai sẽ làm công việc truyền bá và thông dịch đó? Vấn đề này hình như là một vấn đề nan giải. Số học giả ở hải ngoại tinh thông học thuật Trung Quốc, cùng những nhân viên quản lý thư viện, họ là những người chỉ nhìn Trung Quốc qua những cảm tưởng đã thâu nhận được trong kinh sách đạo Khổng, thế thì tất nhiên họ không phải là người xứng đáng gánh cái công việc ấy. Một người gốc Âu Châu sống ở Trung Quốc, họ sẽ không nói tiếng Trung Quốc mà một người thuần túy họ cũng không nói tiếng Anh. Một người Âu Châu, nếu nói tiếng Trung Quốc rành rẽ, tâm lý tập quán sắp trở nên đồng hóa với người Trung Hoa, sẽ bị người bản quốc coi là kỳ quái. Người Trung Quốc nếu nói tiếng Anh rất sành sõi, tâm lý, tập quán giống hẳn như người Âu Tây, thì người đó sẽ bị đồng bào cho là mất gốc, hoặc là họ không biết tiếng Trung Hoa, hoặc giả là biết nhưng nói toàn giọng Anh. Những hạng người này đương nhiên ta không thể trông mong gì vào họ. Chúng ta đã phải lạo bỏ tất cả những người đó, thế tất nhiên chúng ta đành nhờ vào các nhà “Hoa học chuyên môn” và tùy thuộc vào trình độ hiểu tiếng Anh bồi của họ.
Loại này, chúng ta hãy dừng lại ở đây để phác họa anh ta vì anh ta là người duy nhất có uy tín về vấn đề Trung Quốc của các bạn. Arthur Ransome đã từng miêu tả một nhân vật như vậy. Nhưng theo tôi nghĩ hẳn là một nhân vật hoạt bát, chúng ta có thể dễ dàng hình dung ra được nhưng nhất là đường sai lầm về hắn. Hắn có thể là một nhà truyền giáo hay một thuyền trưởng, hoa tiêu hay một bí thư lãnh sự quán, cũng có thể là anh chủ hiệu bụng phệ. Đối với anh này Trung Quốc là thị trường để tiêu thụ cá mồi và cam Mỹ. Hắn không hẳn là người thất học; thực ra hắn có thể là một ký giả xuất sắc của một tờ báo, một mặt chú trọng vào những hoạt động cố vấn chính trị, một mặt làm trung gian vay mượn để lấy hoa hồng. Trong vòng giới hạn của mình, có khi hắn nhặt nhạnh được khá nhiều tin tức; nhưng cái giới hạn là hắn không hiểu quá ba chữ trong tiếng Trung Hoa và nhờ cậy vào những bạn bè Trung Quốc hiểu biết tiếng Anh để họ cung cấp cho hắn tài liệu. Nhưng hắn vẫn tiếp tục công việc của hắn; hắn đánh golf vì đánh golf khỏe người. Hắn nhấm nháp trà Lipton đọc “North China Daily News” và nổi lòng công phẫn vì các tin cướp bóc, bắt cóc, nội chiến khiến cho bữa ăn sáng mất ngon. Hắn bao giờ ũng mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao hơn hẳn bạn bè Trung Quốc, đôi giày được đánh bóng hơn lúc hắn ở nước Anh, việc này cũng chẳng có gì đáng khen cho hắn vì bồi Trung Quốc đánh giày rất giỏi. Mỗi buổi sáng ở nhà đến sở đi xe thẳng độ ba bốn dặm Anh, và tin rằng mình cần phải chiếu cố đến bữa trà của cô Smith. Trong huyết quản hắn không chắc có một chút máu quý tộc nào, trong phòng khách của hắn cũng không có tranh vẽ hình tổ tiên bằng sơn dàu, nhưng hắn có thể tìm tòi từ lịch sử thượng cổ đến thời đại nguyên thủy hoang vu, để chứng minh rằng tổ tiên xưa vốn là quý tộc, điều này làm cho người hắn nhẹ nhõm quên tất cả những nỗi bực bội, buồn phiền để nghiên cứu Trung Quốc. Tuy vậy cũng có những lúc hắn cảm thấy khó chịu mỗi khi hắn có việc phải đi qua các phố Trung Quốc, ở đó có biết bao nhiêu con mắt của những người khác chủng tộc, chăm chú nhìn hắn lén lút chiếc khăn tay xì mũi ầm ĩ rồi mạnh dạn đi mau trong khi đó sợ hãi mất mặt. Hắn nhìn lướt qua làn sóng người mặc áo màu xanh. Hắn cảm thấy hình như mắt của đám người này không đến nỗi xếch như người ta thường vẽ ở bìa những cuốn tiểu thuyết ba xu. Bọn người này có thể đâm lén sau lưng người ta chăng? Giữa ban ngày bạn mặt này, hắn không thể tin là có chuyện đó xảy ra, nhưng ai biết đâu! Tất cả những khí phách của con người thể thao mà hắn đã rèn luyện được ở bãi đánh cầu bây giờ bỗng nhiên biến đâu mất cả. Hắn nghĩ rằng thà bị một gậy đánh cầu nện mạnh vào sọ còn hơn phải đi qua con đường phố quanh co này lần nữa. Quả thực đây là một cơn sợ hãi, nỗi sợ hãi của người nguyên thủy trước cái gì xa lạ.
Tuy vậy nhưng đối với hắn không phải chỉ đơn thuần như vậy. Chính vì lòng “nhân từ” hắn không nỡ nhìn cái quang cảnh nghèo nàn sầu khổ, không nỡ ngồi yên trên chiếc xe kéo nhìn “Con ngựa người” kéo nặng rạp mình xuống đất; vì thế hắn cần phải ngồi xe hơi. Xe hơi không phải chỉ là một đồ vật thay bước chân, mà còn là một cái ụ nấp có mui che chở hắn từ chỗ ở đến bàn giấy, bởi chiếc xe che chở khiến hắn và cái xã hội Trung Quốc cách biệt hẳn ra. Hắn không muốn rời bỏ chiếc xe, cũng như hắn không muốn rời bỏ ý nghĩ văn minh của hắn. Trong lúc uống trà, hắn nói với cô Smith rằng chiếc xe hơi ở trên đất Trung Quốc này không phải là một vật xa xỉ mà là một vật cần thiết. Mỗi ngày lái xe ba dặm Anh từ chỗ ở đến phòng làm việc, trái tim khép chặt của hắn cất kỹ trong cái lồng kính, ngụ cư trên đất Trung Quốc hai mươi lăm năm, chưa có một ngày nào sống ra ngoài lề lối đó. Tuy vậy, khi hắn trở về Anh-Cát-Lợi. hắn tuyệt nhiên không bao giờ nhắc đến tình hình ấy. Hắn viết thơ gởi cho tờ “Times” ở Luân Đôn. Trong thơ hắn tự xưng mình là một “lữ khách kiều cư ở Trung Quốc hai mươi lăm năm”. Nghe rất oai. Lẽ tất nhiên, hắn nhất định phải biết rõ về những điều gì hắn nói.
Thường ngày hắn chỉ dong ruổi trong khoảng ba dặm Anh, trừ khi nào phóng người đi chơi ở đồng quê Trung Quốc. Như thế là ở giữa chỗ rộng rãi và hắn cũng có cách tự vệ. Nhưng về điểm này thì hắn lầm, vì có ai đánh đâu mà phải tự vệ. Hắn cũng biết vậy, bởi thế hắn chỉ nói giọng đó khi đi xem đá bóng. Hắn chưa từng quan tâm tới một gia đình Trung Quốc nào và thường lẩn tránh các quán ăn Trung Quốc; hắn cũng chưa từng đọc đến một trang báo Trung Quốc. Chiều tối, hắn đến ngay một quán rượu xa hoa danh tiếng nhất thế giới nhấm nháp rượu cốc tai, nhặt nhạnh những mẩu chuyện lăng nhăng vô căn cứ, uống cho đến say, người bạn ngồi cùng bàn nói thao thao về chuyện bờ biển Trung Hoa như đọc một quyển Sơn Hải kinh, mà những điều nói ra toàn là những truyền thuyết từ xưa mà có, tài liệu nào cũng từ thế kỷ 17 do người Bồ Đào Nha vượt bể Trung Quốc truyền lại. Hắn hậm hực rằng Thượng Hải không phải là Sussex và thường hắn ăn nói hệt như thể  hắn đang ở nước Anh. Hắn sung sướng khi biết rằng người Trung Hoa đã bắt đầu ăn tết Giáng sinh, nhưng hắn vẫn lấy làm lạ tại sao người Trung Quốc lại không biết tiếng Anh. Còn những lúc hắn đi ngoài phố, dáng điệu dương dương rất cao bước, dưới mắt coi như không có người Trung Quốc, nếu chẳng may có dẫm chân vào kẻ khác thì hắn cũng chẳng nói lấy một tiếng “sorry” dù là bằng tiếng Anh, Pháp, hắn chưa học lấy mấy câu Hoa ngữ khách sáo ứng dụng cho người lữ khách đi qua xứ này tương đương với mấy tiếng “danke sehr. Hitte schon và verzeihen Sie” mà hắn chỉ phàn nàn người Trung Hoa luôn có óc bài ngoại và giận về sự thiêu hủy Di Hòa Viên sau loạn Quyền phỉ năm Canh Tý 1900 vẫn chưa làm cho người Trung Quốc mở mắt. Hắn thấy thất vọng. Đó! Nhà khoa học có uy tín của các bạn đó. Ôi! Biết bao giờ mới thắt được giải đồng tâm cho nhân loại!
Những điều trên đây đều là những điều người ta thừa hiểu; nó rất tự nhiên, chẳng lạ lùng gì; nếu nó không có can hệ tới ý kiến của người Tây phương về Trung Quốc thì hẳn tôi không phải phí giấy mực mà kể ra ở đây. Các bạn chỉ cần nghĩ đến cái khó khăn về ngôn ngữ. Văn tự Trung Quốc thật là khó học lại còn tình trạng hỗn loạn về chính trị, học thuật, văn chương, nghệ thuật ở Trung Quốc ngày nay đến những điều khác biệt sâu xa giữa văn hóa Tây phương và Trung Quốc cũng phải được nhận định rành rẽ mới dủ nói rằng hiểu rõ về Trung Quốc được.
Cuốn sách này có thể nói là một thiên đáp án đối với những người hiểu lầm về Trung Quốc, nó sẽ căn cứ vào những điểm lý giải khá cao để tìm ra những câu trả lời tạm đúng.
Còn một số người tự mệnh là Hoa học chuyên môn, nếu họ muốn tiếp tục viết những tác phẩm hay những bài văn ngắn về Trung Quốc thời ta cũng không thể vì cớ họ không biết văn tự Trung Quốc mà can thiệp vào quyền tự do sáng tác của họ được. Tóm lại, những cuốn sách và những đoạn văn đó chỉ nên dùng làm tài liệu cho những cuộc nhàn đàm ở phòng trà quán rượu mà thôi.
Tuy vậy cũng có những trường hợp ngoại lệ như Robert Hart và Bertrand Russell họ đã có thể thấy ý nghĩa trong một phương thức sinh hoạt khác hẳn với sinh hoạt bản thân họ. Nhưng có được một Hart thì đồng thời lại có hàng vạn Rodney Gilbert; Có được một Russell thì lại có hàng vạn H.G.W.Woodhead. Kết quả là không đứt được những chuyện có tính cách hài hướng, khinh thị người Trung Hoa. Những câu chuyện này nội dung sai lệch, ngây thơ nhưng người Tây phương lại thích nói tới, có thể nói rằng những chuyện này là tiếp nối truyền thống dã sử do những tay thủy thủ Bồ Đào Nha để lại, có khác chăng là đã bỏ hết giọng nói hạ lưu của bọn thủy thủ thời đó mà thay bằng lối nói khác, nhưng vẫn giữ nguyên những ý nghĩ thấp kém bản thỉu của bọn thủy thủ đó.
Người Trung Quốc cũng có lúc nảy ra ý tự hỏi tại sao bờ biển Trung Quốc chỉ có thể hấp dẫn được một bọn hàng hải hạ lưu và một số nhà thám hiểm? Muốn trả lời rõ ràng câu hỏi này, tốt hơn hết hãy đọc một vài cuốn trong tác phẩm của HB Morse viết về Trung Quốc (Morse đã từng làm việc ở các miền cửa biển, miền quan ải Trung Quốc, đã viết nhiều cuốn về vấn đề nghiên cứu Trung Quốc. Trong số đó có cuốn nhan đề là “Sự quan hệ giữa Trung Quốc với quốc tế” là nổi tiếng nhất). Sau đó mới tìm hiểu ngược lên đến cái pháp bảo gia truyền của bọn hàng hải có dây dưa tới hiện đại thế nào, cũng là xét rõ cái tầm mắt của bọn người Bồ Đào Nha xưa với bọn Hoa học chuyên môn ngày nay giống nhay thế nào, rồi xét đến những gì lợi hại có quan hệ đến họ, quá trình đào thải tự nhiên và áp lực hoàn cảnh đã khiến họ phải đi xa nghìn dặm, vì đâu họ phải phiêu lưu đến xứ này, tấp nập không ngừng, liền vai khít cánh chen nhau đến cái góc địa cầu này. Vàng và phiên lưu đã khiến Kha Luân Bố, một nhà hàng hải mạo hiểm trứ danh nhất của họ, phải tìm đường biển sang Trung Quốc.
Do đó người ta mới hiểu rõ thực chất về sự tiếp nối đời đời đó mới hiểu rõ tại sao truyền thống hàng hải Kha Luân Bố phát triển vững chắc tiếp tục mãi đến nay và người ta mới nảy ra ý nghĩ thương hại Trung Quốc; thương hại rằng không phải là vì những đức tính tốt của xã hội Trung Quốc; mà chính là vàng và mãi lực của nó đã hấp dẫn người Tây phương đến bờ biển viễn đông này. Thế là vàng và lợi đã khóa chặt người Tây phương và người Trung Quốc lại với nhau, rồi lôi nhau xuống cái vòng xoáy thấp hèn, nhơ bẩn, tuyệt nhiên chẳng có một chút tinh thần nhân đạo nào trong sự kết hợp này. Chính bọn họ - người Trung Hoa và người Anh – đều không nhận ra sự thực đó, vì thế người Trung Hoa thường chất vấn người Anh là nếu ghét xã hội Trung Hoa thì sao không ra khỏi Trung Quốc; người Anh cũng có lúc hỏi lại người Trung Hoa là sao không ra khỏi mảnh đất tô giới; kết quả là hai bên cũng chẳng biết trả lời ra sao. Nguyên do chỉ tại người Anh chưa bao giờ buồn làm cho người Trung Hoa hiểu rõ về mình, mà con người Trung Hoa lại càng không thèm nghĩ đến phải làm thế nào để mình được người Anh hiểu rõ.
o0o
Nhưng người Trung Hoa liệu có hiểu rõ mình không? Họ có thể gánh vác được trách nhiệm làm một nhà truyền dịch xứng đáng cho Trung Quốc không? Sự “sáng suốt biết mình” là điều mà ai cũng thấy là tương đối khó khăn, khi hoàn cảnh lại đòi hỏi một óc phê bình lành mạnh và sáng suốt. Cái khó khăn về ngôn ngữ đối với người Trung hoa được học tập đến bậc khá cao thì không còn là vấn đề trở ngại nữa, ngược lại lịch sử lâu dài Trung Quốc là vấn đề tương đối khó thấu hiểu hơn; về nghệ thuật, triết học, thơ văn, kịch hát cũng không dễ gì thông suốt được để có một nhận thức xác đáng; rồi đến các bạn bè, đến người hành khách thường cùng đi trên xe điện, rồi đến ông bạn cùng học lúc thơ ấu, nay đang làm ra bộ cầm chính quyền một tỉnh, đối với kẻ làm công việc truyền dịch tất cả những người đó đều không khoan dung được.
Những chi tiết gần gũi, thường che mắt nhà quan sát ngoại quốc, cũng làm khốn cả một anh thanh niên thời mới của Trung Quốc. Có thể thái độ trầm lặng lạnh lùng của anh thanh niên thời mới kia thua kém nhà nghiên cứu ngoại quốc, cũng chưa biết chừng. Trong lòng anh ta chất chứa một hay nhiều điều vật lộn giằng xé đau buồn không bỏ đi được. Ở anh ta có một Trung Quốc lý tưởng và một Trung Quốc hiện thực, giữa hai cái đó đã có một sự mâu thuẫn rồi lại còn một tâm lý tự tôn từ tổ tiên truyền lại với một tâm lý hâm mộ người ngoài mới nảy ra trong nhất thời, giữa hai điều này lại có một sự mâu thuẫn mạnh hơn nữa. Linh hồn anh ta bị dằn vặt giằng xé giữa hai mâu thuẫn cực đoan và chịu sự dày vò của chúng. Một đằng trung thành với cái nước Trung Hoa già nua kia, nửa do nhiệt tình lãnh mạn, nửa do ý tự tư; một đằng khác trung thành với trí tuệ khai phóng, nó đang mong mỏi một cuộc cách mạng xã hội, làm sao có một lần không nương tay quét sạch hết những gì cổ lỗ hủ bại, nhơ nhớp, ghẻ lở đó đi. Có khi sự mâu thuẫn phát sinh ra giữa tâm lý hổ thẹn và tâm lý tự tôn, mâu thuẫn này lại càng trọng yếu, vì nó giới hạn đơn thuần trong ý thức trung thành với gia tộc, và nỗi hổ thẹn về sự việc trước mắt, chính là những bản năng tốt lành. Cũng có lúc tâm lý tự tôn từ tổ tiên truyền lại chiếm được uy thế, nhưng lòng tự tôn chính đáng và óc phản động chỉ cách nhau một đường tơ kẽ tóc. Cũng có lúc lòng hổ thẹn của anh ta chiếm ưu thế, nhưng nguyện vọng chân thành thiết thực đổi mới cùng với lòng sùng bái theo thời nông nổi, cũng chỉ cách nhau một ly mà thôi; lầm lẫn là hỏng cả. Muốn tránh được mâu thuẫn đó thực không phải là việc dễ.
Vậy ta phải làm thế nào để nắm được một quan niệm hiểu biết nhất trí? Lấy thái độ phê bình chân chính thành thật hợp với con mắt nhận định sự vật tinh tường, dùng tâm linh để quan sát, dùng trí tuệ để suy tư, phối hợp tất cả những điều đó tạo nên một cảnh giới thần diệu, không phải nhờ vào chắp nhặt từng câu từng ý mà đến được điểm đó. Bởi làm công việc ấy chính là việc cứu vãn một nền văn hóa xa xưa, cũng như việc sắp đặt đồ gia bảo và ngay đến con mắt kẻ sành sỏi cũng bị che mờ, bàn tay có lúc bù trừ không quyết định được. Việc làm này đòi hỏi can đảm, lại cần có một đức tính hiếm có là lòng thành khẩn cũng một đức tính hiếm có hơn nữa là óc luôn luôn có gắng biện luận.
Lấy một thanh niên Trung Quốc so với một nhà nghiên cứu ngoại quốc làm công việc này, người thanh niên Trung Quốc vẫn có ưu thế hơn. Vì hắn là người Trung Quốc nên chẳng những có thể dùng tâm linh để quan sát, lại còn có thể dùng trí tuệ để suy nghĩ nữa, hắn lại biết rằng trong huyết quản mình có dòng máu tự tôn và hổ thẹn dồn chảy đều đều, đó là máu người Trung Quốc. Dòng máu đó là một thần bí trong cái thần bí mang trong cơ cấu sinh hóa, quá khứ và tương lai của Trung Quốc, mang theo tất cả những gì vinh quang hay sỉ nhục của Trung Quốc. Đến đây cái so sánh với việc xếp đặt bảo vật gia truyền không còn thích hợp và hoàn toàn đúng nữa vì cái tính chất di truyền của dân tộc nằm ngay trong huyết quản hắn là một phần trong cơ thể hắn. Hắn có thể tập chơi đá banh, như người Anh, nhưng thực tâm hắn không thích đá banh, hắn có thể trọng năng suất của người Mỹ, nhưng thực lòng hắn phản đối; hắn có thể thường dùng khăn ăn khi ngồi vào bàn nhưng thực lòng hắn không ưa; qua khúc nhạc của Schubert hay Brahms hắn nghe thấy tiếng vọng của một điệu dân ca thời cổ, hay một điệu tình ca của đứa mục đồng đang gọi hắn trở về. Rồi không ngăn nổi được sự kích thích của điệu tình ca cố quốc ấy, tâm linh hắn bỗng cảm thấy hồn cố quốc bừng dậy. Hắn tìm hiểu và thấy rằng văn hóa Tây phương tốt đẹp rạng rỡ, nhưng hắn quay về Đông phương khi tuổi hắn đã gần bốn chục, dòng máu Đông Á trong người hắn đã thắng. Nhìn bức ảnh phụ thân đội mũ xường chỉ bằng doạn, bỗng một xúc cảm khiến hắn bỏ ngay bộ Âu phục, thay bằng chiếc áo dài và đôi giày vải; chao ôi! Không ngờ lối ăn vận này lại rộng rãi dễ chịu và trang nhã như vậy! Thế lại mặc cái dài kiểu Trung Quốc, đi đôi giày vải, hắn cảm thấy tâm hồn thư thái. Từ đó hắn không những nhận ra rằng cái “cổ dề” của Tây phương không có nghĩa lý gì mà còn tự trách không hiểu tại sao trước kia mình đã đeo nó được lâu đến thế. Từ đó hắn không thích đá banh nữa mà hắn bắt đầu tập luyện phương pháp thể thao Trung Quốc; hắn rong chơi trong bãi dâu rừng trúc; nghỉ mát dưới bóng thông rặng liễu, những hàng động này không giống như quan niệm của người Anh về một cuộc tản bộ ở đồng quê; mà nó hàm súc một ý nghĩa ngao du hoàn toàn có tính cách Đông phương, có ích lợi cho thể xác mà cũng bổ ích cho tinh thần nữa. Hắn cảm thấy ghét cái chữ tập luyện (Exercise). Tập luyện cái gì đây? Cái ý niệm kiểu Tây phương này thật đáng buồn cười.
Ối chà! Hãy nhìn bọn người uy nghi đường bệ đã trưởng thành kia, trên bãi rộng họ chen đẩy, nhảy nhót, xông xáo ngang dọc tranh nhau đuổi bắt một quả cầu nhỏ bằng da, cứ tưởng tượng đến đã thấy nực cười; lại còn có lúc nằng hè như đốt, sau cuộc vận động, họ dùng những mảnh nhung hay những áo đan bằng len mặc vào người, đó mới thật là kỳ. Hắn nghĩ quanh quẩn vẩn vơ, không biết tại sao lại thế! Hắn hồi tưởng lại, trước kia hắn cũng hâm mộ trò đó lắm, lúc đó hắn còn thanh niên chưa được chín chắn, cái thằng người ở thời đó,, không phải là thật hắn; chỉ nên coi đó là một ý thích trong chốc lát; thực tình hắn không có bản tính thích vận động. Hán sinh ra khác hẳn; hắn sinh ra để lạy chào, để ung dung nhàn hạ, văn vẻ, chứ không phải sinh ra để đá cầu, để đeo cổ dề, để dùng khăn ăn, học phép trọng năng suất. Có lúc hắn tự coi mình như một con heo, coi người Tây phương như một con chó, chó thường hay cắn đùa heo, nhưng heo chỉ biết đáp lại bằng tiếng ụt ịt. Cái tiếng ụt ịt đó có thể là một cách tỏ ý thỏa mãn. Quá đi nữa, có lúc hắn muốn được là một con heo thật, vì thấy cuộc sống của heo rất dễ chịu. Hắn không ao ước cổ dề của chó, cái năng suất của chó cũng như những thành công bằng lối ma giáo của chó. Hắn chỉ còn một điều mong mỏi duy nhất: Chó đừng nên trêu chọc quấy phá hắn, hãy để cho hắn được yên thân.
Một người Trung Hoa mới mà nhận xét cả hai nền văn hóa Tây phương và Trung Quốc thì thế đấy. Đó là cách độc nhất để khảo sát và nhận thức văn hóa Đông phương. Bởi cha hắn là người Trung Quốc, mẹ hắn cũng vậy, nên mỗi khi nói đến Trung Quốc là hắn nghĩ ngay đến cha mẹ, đến cả nét mặt và đường ăn lối ở của các người. Đó là một cuộc đời, cuộc đời của họ đầy đủ những can đảm, nhẫn nại, đau khổ, vui sướng, mạnh mẽ chưa bị ảnh hưởng hiện đại, nhưng không kém vẻ cao cả, thành thực và khiêm cung, hắn đã thực sự hiểu rõ Trung Quốc!
Tôi cho rằng phương pháp duy nhất để tìm hiểu Trung Quốc cũng là phương pháp duy nhất để tìm hiểu bất cứ quốc gia nào trên thế giới: Cần phải tìm ra tất cả những giá trị chung của cuộc sống con người; đừng nhìn vào cái đặc biệt, xa lạ; cần nhìn sâu vào cái dáng điệu lễ phép cổ xưa, kỳ quái mà tìm đức lễ độ thực sự; cần nhìn dưới nếp y phục lòa loẹt, lạ mắt của phụ nữ mà tìm bản chất thực của người đàn bà và khuôn mẫu một người mẹ; cần nhận xét cái nghịch ngợm của thằng con trai và những ước mơ của đứa con gái. Tất cả những cái bướng bỉnh của thằng con trai, những ước mơ của đứa con gái, cho đến tiếng cười giòn giã và cái dẫm chân bành bạch của đứa trẻ con, tiếng khóc của người đàn bà, vẻ lo lắng của người đàn ông – Tất cả những cái đó là biểu tượng chung của mọi miền trên thế giới – Vì vậy chúng ta chỉ có cách nhìn xuyên qua cái ưu tư của người đàn ông, tiếng khóc than của người phụ nữ mới có thể thấy rõ được tính chất của một dân tộc. Có khác chăng đi nữa thì chỉ là ở phần hình thức, trong hành vi xã giao mà thôi. Đây là những điểm căn bản để phê bình quốc tế đúng đắn vậy.
Chú thích
(1)   Dasein: Hiện hữu (Chú thích của dịch giả).
CHƯƠNG I
NHÂN DÂN TRUNG QUỐC
 I.  PHƯƠNG NAM VÀ PHƯƠNG BẮC
Nghiên cứu văn học lịch sử của bất cứ một thời đại nào, cái nỗ lực cuối cùng và cao tột thường dùng vào việc tìm hiểu rõ ràng tường tận con người của thời đại đó. Bởi bên trong sự sáng tác về văn học hay biến cố lịch sử nhất định phải có cá nhân khiến chúng ta thấy quan tâm nhất. Khi chúng ta nghĩ đến Marcus Aurelius hay Lucian trong thời kỳ La Mã suy đồi, hoặc ta nghĩ đến Francois Villon trong thời Trung cổ thì các thời đại ấy ta thấy rõ ràng và quen thuộc ngay. Như “thế kỷ 18” muốn gọi là thời đại gì cũng không bằng gọi là “thời đại Johnson” mới thật là có ý nghĩa. Bởi vì chỉ cần nhắc nhở đến cách sống của Johnson như là ông ta thường sống, ra vào các quán rượu tại Luân Đôn, cùng với bạn bè qua lại trò chuyện thế nào, là một thời đại đã sống lại rõ ràng và đầy đủ ý nghĩa. Có thể là đời sống của một nhân vật không có danh tiếng bằng Johnson về văn học, hay là đời của một người dân thường ở thành phố Luân Đôn cũng có những điểm đáng được chúng ta biết, nhưng một người dân thường ở Luân Đôn không gây cho ta một hứng thú gì, vì người thường bao giờ cũng vẫn giống nhau. Một người thường uống la-ve hay uống trà Lipton thì cũng chỉ là một sự kiện ngẫu nhiên trong xã hội, không có gì quan trọng, không có gì đáng nói là vì hắn chỉ là một người thường.
Nhưng nếu như Johnson, thì việc ông ta hút thuốc hay ông ta thường thường ra vào các quán rượu ở Luân Đôn đều là những sự kiện lịch sử quan trọng. Tinh thần của vĩ nhân phản ứng đặc biệt với xã hội đương thời, khiến chúng ta phải quan tâm. Thiên tài siêu việt của họ ảnh hưởng đến những sự vật họ tiếp xúc, mà họ cũng chịu ảnh hưởng của những sự vật ấy. Họ chịu ảnh hưởng ở những quyển sách họ đọc, những người đàn bà họ tiếp xúc. Nếu một người so với họ sút kém hẳn về tài năng mà cũng ở trong cảnh đó, thì sẽ không có một dấu tích gì đặc biệt đáng được nêu ra. Vì thế trong sinh mệnh một vĩ nhân là có sinh mệnh một thời đại nằm ở đó. Nó thâu nhận tất cả những gì có thể hấp thụ được, mà phản xạ bằng một sức mẫn cảm rất tốt đẹp, rất mạnh mẽ.
Nhưng nói đến việc muốn nghiên cứu tường tận về một quốc gia, thì quyết nhiên không thể bỏ qua người thường dân được. Nhân dân Hy Lạp thời xưa không phải ai cũng là Sophocle, mà ở thời Elizabeth của Anh Cát Lợi cũng không phải là ở đâu cũng có Bacon và Shakespeare. Bàn về Hy Lạp mà chỉ nhằm vào mấy nhân vật như: Sophocle, Pericles, Aspasia thì hẳn không nhận ra tình trạng đúng đắn về người Nhã Điển. Chúng ta phải chú ý đến việc con trai Sophocle thưa kiện cha vì ông để việc nhà bê bối; hay cần chú ý đến những nhân vật của Aristophane, thường không phải là những người hoàn toàn chuộng cái đẹp hay tìm tòi chân lý; mà suốt ngày chỉ ăn no uống say, cãi vã lung tung, dối trá, lừa lọc, chỉ cốt sao cho có lợi, mới thực điển hình cho hạng người Nhã Điển bình thường. Tính cah1 chỉ biết vụ lợi, dối trá lừa lọc của người Nhã Điển đã giúp ta hiểu rõ lý do nước cộng hòa Nhã Điển sụp đổ, cũng như Pericles và Aspasia đã cho ta thấy tại sao dân tộc Nhã Điển trở nên vĩ đại. Nếu đánh giá riêng rẽ, thì giá trị của họ là con số không, nhưng nếu quan sát chung lại, thì họ đã ảnh hưởng lớn tới vận nước. Ở thời đại đã qua rồi, không có cách gì tái tạo ra họ mà nghiên cứu, nhưng ở một quốc gia hiện đại, hạng được coi là thường dân bao giờ cũng ở cạnh chúng ta.
Nhưng hạng thường dân là ai? Mà hạng thường dân làm những gì? Trong ý nghĩ chúng ta cái được gọi là “người Trung Hoa” chỉ là một quan niệm trừu tượng. Bỏ qua tính cách thống nhất về văn hóa mà nói, - văn hóa là yếu tố kết hợp nhân dân Trung Quốc thành một dân tộc thống nhất – nhân dân miền Nam Trung Quốc tính tình, thể cách, tập quán có khác với người dân phương Bắc, cũng như nhân dân ở bờ biển Địa Trung Hải khác hẳn với dân tộc Bắc Âu. May thay là trong quỹ đạo văn hóa Trung Quốc, chỉ có óc địa phương từng tỉnh, chứ không có quốc gia chủ nghĩa, vì vậy dưới quyền thống trị của các vua chúa, lâu dài hàng vài thế kỷ mà nước vẫn được hòa bình yên ổn. Lịch sử cũng truyền lại một phương thức phổ biến rất quý báu, văn tự cũng là một phương pháp rất đơn giản, giải quyết sự khó khăn trong vấn đề thống nhất ngôn ngữ của Trung Quốc. Tính chất dung hòa của văn hóa Trung Quốc, có thể tiến dần trong vài thế kỷ, gieo rắc rồi đồng hóa một dân tộc thổ trước khác bằng cách êm đềm. Điểm này đã xây dựng được tinh thần hữu ái của Trung Quốc biểu thị trong câu “Tứ hải chi nội, giai huynh đệ dã” (bốn bể đều là anh em), ngày nay Âu Châu người ta vẫn mong mỏi tinh thần đó mà không có được. Còn nói đến sự khó khăn về phát âm, thì giọng nói của Trung Quốc cũng không đến nỗi quá phức tạp, phân chia như ở Âu Châu hiện nay. Một người dân hộ tịch Mãn Châu nếu đến miền biên giới Tây Nam như tỉnh Vân Nam chẳng hạn, tuy rằng cũng có phiền phức, nhưng vẫn có thể bày tỏ ý tứ cho người khác hiểu được. Kỹ xảo về nói năng của Trung Quốc có thể dần dần mở rộng nhờ sự khai thác làm ăn, và một phần lớn nhờ chữ viết, dấu hiệu rõ ràng về sự thống nhất của Trung Quốc.
Sức đồng hóa của nền văn hóa này, có lúc khiến chúng ta quên hẳn rằng nội bộ Trung Quốc vẫn có sự khác biệt về chủng tộc, khác biệt về huyết thống. Quan sát kỹ lưỡng thì ý niệm trừu tượng trong ba chữ “người Trung Hoa” mất đi, mà hiện ra ấn tượng một chủng tộc không đồng nhất. Thái độ, tính tình, nhận thức của người dân mỗi miền đều khác nhau. Có những dấu vết rõ ràng ta có thể nhận thấy. Giả sử ta lấy một vị chỉ huy vốn quê quán miền Nam để điều khiển quân đội người miền Bắc, thì ta có thể thấy ngay tính chất bất đồng giữa hai bên. Bởi điểm này, chúng ta chia ra nhân dân miền Bắc, dân chúng miền này quen với nếp sống gian khổ, ưa tư tưởng đơn sơ, giản dị, vóc người cao lớn, gân thịt rắn rỏi, sức khỏe dẻo dai, tính tình thành thực, mau mắn mà nóng nảy, thích ăn loại hành lớn, không sợ mùi hôi, ưa khôi hài đùa cợt, thường có thái độ rõ ràng, tự nhiên, mọi vẻ họ gần với giống nòi Mông Cổ và có tính bảo thủ hơn nếu so sánh họ với người dân sống ở miền phụ cận Thượng Hải, vì họ không có vẻ gì tỏ ra suy đồi dòng giống. Họ là những tay quyền phỉ ở Hà Nam, những tay trộm cướp ở Sơn Đông, cho đến những bậc vũ lược tranh bá đồ vương cũng thường sinh ra ở miền này. Bọn họ đã cung cấp cho lịch sử nhiều triều đại vua chúa và là chất liệu cho một số lớn tiểu thuyết cổ thuộc loại tả chiến tranh và nghĩa hiệp của Trung Quốc.
Theo dòng sông Dương Tử xuống bờ biến phía Đông Nam thì tình trạng sinh hoạt của nhân dân lại khác hẳn. Nhân dân ở đây quen với nếp sống yên ổn, nhàn hạ, dung hòa chất thực và văn vẻ, khéo bày đặt giả dối, trí khôn phát triển nhưng thể xác có phần suy kém, ưa vẻ u nhã văn chương, thường trầm tĩnh ít hoạt động. Con trai thường trắng trẻo thấp nhỏ, con gái thường nõn nà, yếu ớt. Yến hấp chè sen, bát ngọc chén vàng, nấu nướng đến hết vị ngon, ăn uống đủ mùi sang trọng, tính việc buôn bán, chỗ thừa nơi thiếu thì rất linh lợi sáng suốt, nhưng vác kích múa đao thì rụt cổ không dám tiến bước, thơ văn bay bướm thật tỏ ra phú tính tài hoa, gặp địch thì bỏ chạy, chưa bị đấm đã ngã lăn chiêng mà kêu má! Má! Hậu duệ của các gia đình văn học đã cuốn gói thư họa, vượt sông Dương Tử trong khoảng cuối đời Tần, lúc Trung Quốc bị rợ Hồ xâm lăng tràn ngập.
Lại đi xuống miền Nam cho tới Quảng Đông, thì nhân dân lại có thói tục, tập quán khác hẳn. Ở đây giống người khỏe rõ rệt. Người dân từ ăn uống đến làm lụng thật đáng coi là nam nhi; giàu tinh thần sự nghiệp, ít lo âu, hào sảng mà thích tranh đấu, coi tiền như đất, nóng nảy, ưa mạo hiểm tiến thủ. Lại còn một tục lạ là người Quảng Đông vẫn còn giữ tập quán ăn thịt rắn của thổ dân thời xưa; họ thích thịt rắn lắm, vì vậy ta có thể biết người miền Quảng Đông có dòng máu pha trộn với chủng tộc “Bách Việt” xưa kia sống ở miền này. Đến miền Nam, Bắc Hán khẩu đó là miền Hoa trung, người dân ở đây tính nóng nảy, hay nguyền rủa; ưa dối trá thì phải kể người Hồ Bắc. Trung Quốc đã có câu tục ngữ “Trên trời có chim chín đầu, dưới đất có người Hồ Bắc”, người Hồ Bắc tinh khôn ác độc, cay như hồ tiêu mà họ vẫn chưa cho là kích thích, còn phải rang bằng dầu, như vậy mới đủ được tính ghiền cay, họ được ví với chim chín đầu thần bí. Đến người miền Hồ Nam thì chuộng vũ dũng, chịu đựng lao khổ, cho nên quân đội miền Tương vẫn nổi danh khắp nước, họ vốn là dòng dõi các chiến sĩ nước Sở thời xưa, đến nay họ còn giữ được nhiều đặc tính đáng yêu.
Vì sự buôn bán đổi chác, vì chế độ cai trị xưa, kẻ đi buôn hay thi đậu thường đi làm việc ở miền khác nên có sự thay đổi chỗ ở, lẽ tự nhiên đưa đến chỗ hòa hợp các chủng tộc trong nhân dân, hòa đồng được tính chất khác nhau giữa tỉnh này và tỉnh kia, chỉ có phần đại thể thì vẫn giữ nguyên. Một sự thực đáng chú ý là người miền Bắc giỏi chiến đấu, người miền Nam giỏi buôn bán, những bậc đế vương sáng nghiệp của các triều đại gần như không  có vị nào phát tích ở miền Nam. Tương truyền rằng con người ở miền Nam ăn gạo không có phúc được ngồi ngai rồng, chỉ có người ăn mì miền Bắc làm vua. Trên thực tế trừ một vài trường hợp ngoại lệ, như nhà Đường, nhà Chu các vua sáng nghiệp lúc ban đầu, phát tích ở miền Đông bắc tỉnh Cam Túc, vì thế có sự hiềm nghi cho rằng các nhà này có huyết thống Thổ Nhĩ Kỳ, còn các bậc đế vương của các triều đại lớn khác thì đều khởi lên ở những miền tương đối núi non hiểm trở, sát đường xe lửa Lũng Hải, dải đất này bao quát miền Đông bộ tỉnh Hà Nam, Nam bộ tỉnh Hà Bắc, Tây bộ tỉnh Sơn Đông và Bắc bộ tỉnh An Huy. Miền đất nảy ra những bậc đế vương khai quốc này, nếu lấy trung tâm là đường xe lửa Lũng Hải, thì ngang dọc khoảng độ bao nhiêu cũng dễ trắc lượng để biết. Hán Cao Tổ khởi nghiệp ở huyện Bái, hiện nay là miền Từ Châu, Thủy Tổ nhà Tấn khởi nghiệp ở Hà Nam, Thái Tổ nhà Tống khởi nghiệp ở Trắc huyện thuộc nam bộ tỉnh Hà Bắc, vua Thái Tổ nhà Minh họ Chu niên hiệu Hồng Vũ quê ở Phượng Dương thuộc tỉnh An Huy.
Cho đến ngày nay, trừ tướng quân Tưởng Giới Thạch xuất thân ở tỉnh Triết Giang – dòng họ và thế phả nhà ông thế nào chưa được công bố - còn phấn lớn các tướng súy thường phát xuất ở những tỉnh Hà Bắc, Sơn Đông, An Huy, Hà Nam, như vậy trung tâm của vùng đất này vẫn là đường sắt Lũng Hải. Tỉnh Sơn Đông có Ngô Bội Thu, Trương Tôn Xương, Tôn Truyền Phương, Lư Vĩnh Tường; tỉnh Hà Bắc có Tề Tiếp Nguyên, Lý Cảnh Lâm, Trương Chi Giang, Lộc Chung Lân; tỉnh Hà Nam có Viên Thế Khải, Tỉnh An Huy có Phùng Ngọc Tường, Đoàn Kỳ Thụy. Tỉnh Giang Tô không thấy nảy ra một đại tướng nào, nhưng đã nẩy ra được mấy anh bồi phòng nhà trọ xuất sắc. Năm chục năm trước miền trung bộ Trung Quốc, tỉnh Hồ Nam nảy ra ông Tăng Quốc Phiên, điều đó có thể coi như một ngoại lệ, nó càng chứng minh được định luật nêu trên. Tăng Quốc Phiên là một bậc học giả hạng nhất, mà cũng là một danh tướng bậc nhất nhưng ông ta vốn sinh trưởng ở miền Nam, là người dân miền  ăn gạo chứ không phải người dân miền ăn mì, vậy thì mệnh vận của ông ta đã định sẵn: Ông chỉ là bậc đại thần hiển hách quyền quý mà thôi, chứ không thể vì dân tộc Trung Hoa mà khai sáng được một triều đại mới. Việc khai sáng một hoàng triều, cần hạng người có thái độ hào phóng, mộc mạc điển hình của phương Bắc, điểm chút tính giang hồ đáng yêu, lại phải thích chiến tranh, náo động vì chiến tranh, họ thường khinh học vấn và coi rẻ luân lý của Khổng tử, đến lúc đại cục đã yên, ngảnh mặt phương Nam lên ngôi Hoàng đế, lúc đó tư tưởng tôn quân của Khổng tử lại là đắc dụng.
Tính chất thô bạo, hào phóng của phương Bắc, và tính mềm dẻo, hiền hòa của phương Nam – hai điểm khác biệt này, có thể nhận ra ở ngôn ngữ, âm nhạc và thi ca của hai miền. Bạn có thể lấy một ca khúc của tỉnh Thiểm Tây so sánh với một ca khúc của miền Tô Châu, thì thấy ngay chỗ khác nhau rõ rệt. Một đằng ca khúc của tỉnh Thiểm Tây thì âm thanh, nhịp điệu cao gắt, nhạc khí thường dùng cây đàn trúc, gõ nhịp phách gỗ mà cùng ca, giọng cao mà vọng đi xa, có thể gần giống như giọng ca của mục đồng Thụy Sĩ, giọng ca cất lên như gió lốc bay tung trên ngọn núi, trên bãi hoang, trền cồn cát. Một đằng ca khúc của Tô Châu thì êm đềm, thấp giọng có tính cách đam mê an lạc, quyến luyến phong tình, thanh âm nhịp điệu nức nở, nghẹn ngào như thở vắn than dài, như rên rỉ vì hen suyễn lâu ngày, như vậy là bởi quen thói ngân nga mà thành một âm điệu run rẩy. Lại từ chỗ đối thoại tầm thường, ta cũng nhận ra rằng giọng quan thoại của Bắc Bình rõ ràng, sáng sủa, thanh điệu nặng nhẹ chuyển biến rõ ràng, khiến người ta ưa thích; còn giọng nói của phụ nữ Tô Châu thì ngọt ngào, mềm mại, nhiều nguyên âm phát ra bằng cách tròn môi, chỗ xuống chỗ lên như đợt sóng, đến những chỗ nặng thì không phát thanh cao tiếng mà chỉ kéo dài bằng âm điệu mềm mại, uyển chuyển đặt vào cuối câu. Hai giọng nói của hai miền khác nhau rõ ràng.
Người ta thường kể lại một câu chuyện lý thú sau đây: “Có một lần một sĩ quan người Tô Châu. Trước đoàn quân vị sĩ quan này hô: “Khai bộ… tẩu” (Cất bước… đi) nhưng đoàn quân vẫn đứng nghiêm không nhúc nhích, ông ta lại hô tiếp mấy lần nhưng đều vô hiệu. Đang lúc không biết làm sao để ra lệnh được, thì viên đoàn trưởng của đoàn quân ấy vốn ở Tô Châu đã lâu, hiểu phong tục miền này, bèn xin vị sĩ quan kia cho phép ông ta ra lệnh, vị sĩ quan cho phép. Viên đoàn trường bèn dùng lối phát thanh trái với giọng nói mau mạnh, cao to: “Khai bộ… tẩu” của vị sĩ quan kia. Ông ta hô bằng giọng uyển chuyển, gợi cảm của lối phát âm Tô Châu: “… Khai… bộ… tẩu nại… ái…” (cất bước đi nào…) thì quả nhiên ông vừa dứt tiếng là đoàn quân bước đi đều”.
Trong thi ca, sắc thái khác nhau giữa hai miền tỏ rõ hẳn ra từ thế kỷ thứ 4, 5, 6. Lúc này Bắc bộ Trung Quốc đã bị dân tộc Thát Đát dày xéo lần đầu, những người Hán có học bắt đầu qua sông Dương Tử xuống miền Nam. Lối thơ trữ tình bắt đầu phồn thịnh chốn triều đình miền Nam, giai cấp thống trị miền Nam phần nhiều là những tay tài ba về lối thơ trữ tình. Trong dân gian thì lưu hành một loại thể tài có màu sắc đặc biệt là những tình khúc nho nhỏ, được gọi là “Tí dạ ca”. Nay đem những bài thơ nhỏ nồng nàn tình cảm này so sánh với những bài thơ chất phác của phương Bắc, đầy khí lực của buổi ban mai, ta thấy ngay tình cảm và giọng điệu khác nhau hẳn. Bây giờ chúng ta hãy nhận xem lúc đó tác phong những ca khúc của Nam triều thế nào.
Một bài Độc khúc ca:
Đả sát trường minh kê
Đạn khứ ô cửu điểu
Nguyện đắc liên minh bất phục thự
Nhất niên độ nhất hiểu
Dịch:
Đánh chết con gà hay gáy,
Bắn chim ô cửu hay kêu.
Muốn tối hoài đừng sáng,
Mỗi năm một sáng là nhiều.
Một bài Tĩnh dạ ca khác:
Lộ sáp vô nhân hành,
Mạo hàn vãng tương mịch.
Nhược bất tín nùng thời,
Đản khan tuyết thượng tịch.
Dịch:
Lầy lội đường vắng tanh,
Tìm nhau không ngại rét.
Nếu không tin lời ta,
Hãy nhìn dấu trên tuyết.
Trong khoảng thời đại Nam Tống, lại phát hiện một lối thơ trữ tình gồm những câu ngắn dài ghép lại thành bài được gọi là “Từ”. Nội dung lối thơ này thường tả nỗi u sầu của người khuê phụ, ý thương xuân ở chốn phòng the, hay ngâm vịnh mày ngài má phấn, tán thưởng trang sức nhạt nồng, hay tả cảnh nến hồng gác tía, màn thê trướng gấm, kể hết mọi nỗi sầu khổ tương tư, tình nhân võ vàng.
Thí dụ mấy câu sau đây:
Hồng chúc tự lân vô hảo kế,
Dạ hàn không thế nhân thùy lệ.
Tích loan loan thiến đại,
Trường trường nhỡn.
Dịch:
Đuốc hồng tự hân không mưu kế,
Đêm lạnh vì người sa giọt lệ
Tiếc nét mày cong cong
Con mắt dài dài.
Những vần thơ thường tương tư như vậy. Nhân dân học đòi những tình tự ủy mị của lối thi ca tình ái đó, nên bị dân tộc phương Bắc có giọng thơ cởi mở, hào phóng, chất phác chinh phục, đó là lẽ tự nhiên. Thi ca miền Bắc lấy đề tài ngay ở cảnh sắc hoang vu của miền này mà không cần sửa đổi thêm bớt. Thí dụ như bài thơ này:
Sắc lặc xuyên
Âm sơn hạ
Thiên tự khung lư, lung cái tứ dã
Thiên thương thương, địa mang mang, phong xuy thảo để kiến ngưu dương.
Dịch:
Dòng sông Sắc lặc
Dưới núi Âm Sơn
Trời như lều vải bao trùm bốn phương.
Trời xanh xanh, đất mênh mông, gió lay dưới cỏ thấy bầy trâu dê.
Đọc bài thơ nhỏ này, ta phải nhận rằng nó có một sức lôi cuốn khác thường. Tương truyền một vị đại tướng của Bắc triều, đã nhờ vào khí lực của mấy câu thơ này, mà sau khi bại trận ông đã khích lệ được quân sĩ, khiến lòng quân lại phấn khởi, để trở lại chiến trường. Sau đây lại xin được đưa ra một bài nữa của một ông tướng miền Bắc vịnh cây đao quý vừa mua được; phong cách, tình tự so với các vài tình thi của phương Nam thì thật khác hẳn.
Tân mãi ngũ xích đao
Huyền trứ trung lương trụ
Nhất nhật tam ma sa
Kịch ư thập ngũ nữ.
Dịch:
Mua được gươm năm thước
Treo trên cột chon von
Ngày ba lần ve vuốt
Quý hơn gái trăng tròn.
Thêm một bài nữa để thấy rõ cách thức, âm điệu hùng tráng:
Giao vọng Mạnh Tân hà
Dương liễu uất bà bà
Ngã thị Lỗ gia nhi
Bất giải Hán nhi ca
Kiện nhi tu khoái mã
Khoái mã tu kiện nhi
Tất bạt hoàng trần hạ
Nhiên hậu biệt thư hùng.
Dịch:
Dòng Mạnh Tân xa xa
Bóng dương liễu thướt tha
Ta vốn dòng Hồ lỗ
Chẳng hiểu giọng Hán ca
Ngựa mạnh trai hùng thích
Trai hùng ngựa mạnh ưa
Dưới bụi hồng rong ruổi
Sẽ tỏ mặt hơn thua.
Các bài thi ca này – tác phẩm của miền Nam và miền Bắc hoàn toàn khác nhau về cả nội dung và kỹ thuật – đối với việc chúng ta nghiên cứu về các phần tử cấu tạo nên dân tộc Trung Hoa, ta thấy rằng trên vấn đề hai dòng huyết thống Nam, Bắc khác nhau đã cho ta rất nhiều khía cạnh lý thú đáng chú ý. Nhờ đó chúng ta có thể đi xa hơn mà tìm hiểu ra tại sao một nước có đến hơn hai nghìn năm lịch sử lạy chào, sinh hoạt trong cửa ngõ nhà mình và một nền văn minh thiếu thể thao, mà không đến nỗi theo gót Ai Cập, La Mã, Hy Lạp bị nòi giống suy bại. Trung Quốc đã tránh được cái vạ đó như thế nào?
***
Suy bại là một danh từ dễ bị người ta hiểu sai, vì ý nghĩa của nó chỉ là tương đối, chứ không có ý nghĩa tuyệt đối. Từ khi có những bàn cầu dội và máy hút bụi, con người ngày nay thường lấy mức sạch sẽ của một cá nhân đế đánh giá cao thấp về phẩm hạnh của họ. Vì vậy đã có một người cho rằng văn hóa của loài chó đã tăng cao, là vì ngày nay mỗi tuần lễ chó được tắm một lần, đến mùa đông lại được mặc áo che bụng. Tôi đã được nghe mấy vị nhân sĩ nước bạn hay có hảo ý nói chuyện với nhau về sự sinh hoạt của người nông phu Trung Quốc, cho rằng sự sinh hoạt của giới này thật “không phải là sự sinh hoạt của loài người” vậy cần phải tìm cách giúp đỡ, việc đầu tiên nếu không đem gian nhà tranh và tất cả những dụng cụ thủ tiêu để khử độc thì không xong.
Thực ra, dấu hiệu suy bại của con người, không phải ở sự nhơ bẩn, mà chính ở chỗ sợ nhơ bẩn, còn việc lấy bề ngoài của một người để phê bình về thể cách và phẩm hạnh họ tốt hay xấu thì quả thật là điều nguy hiểm. Nói cho đúng, người Âu châu sống trong những công ốc tiện nghi, ấm cúng, dùng những xe hơi lộng lẫy, dễ chết hơn người nông phu Trung Quốc sống trong gian nhà tranh lụp xụp mà cũng chẳng biết khử độc là cái gì. Hung ác, là bẩm tính thiên nhiên của trẻ con hay một dã nhân, cũng không phải là một dấu hiệu suy bại, ngược lại sợ đau mới thật là chứng tích suy bại. Một con chó mà chỉ biết sủa chứ không biết cắn, thường được dắt chơi ngoài phố, dùng làm đồ chơi cho phụ nữ, thì con chó đó chỉ được coi là một con chó sói suy bại. Lại nữa, có sức khỏe như Jack Dempsey lúc ra khỏi võ đài cũng không thể tự khoe là một vinh quang cho nhân loại được, mà họ chỉ kiêu căng về năng lực làm việc của mình đã cho mình được hưởng một nếp sống sung sướng, đầy đủ. Đến như một vài loài động vật được coi là tiến hóa khá cao, thân thể chúng có một cơ cấu đầy đủ tương đối gọi là mẫn cảm và phức tạp, lại thêm những khả năng đặc thù và những ham muốn tế nhị, những loài động vật này không hoàn toàn là những động vật tráng kiện và vô bệnh. Vấn đề thật đúng về thể chất và phẩm hạnh kiện toàn hay không, thì loài người và tất cả các loài động vật đều không có gì khác, chỉ ở chỗ năng lực làm việc của nó thế nào, nó khôn khéo để hưởng lạc trong cuộc sống thế nào, và nó đã làm thế nào để thích ứng mà tồn tại.
Nhận xét những chứng cớ cụ thể trước mắt, ta cũng có thể thấy rõ ràng hậu quả do nền văn hóa từ hơn hai ngàn năm nay tạo ra. Nhân dân Trung Quốc vốn vẫn thích ứng cuộc sống cho thích hợp với hoàn cảnh văn hóa xã hội mà nhu yếu cho hoàn cảnh đó là một tính lực vững bền, một sức chống cự, một sức lực tiêu cực, vì thế nó đã mất đi một phần trí lực và thể lực về tài năng mạo hiểm và chiến thắng, tài năng đó vốn là đặc tính cuộc sinh hoạt của tổ tiên họ ở thời kỳ nguyên thủy sống trong rừng hoang. Người Trung Quốc phát minh ra thuốc nổ để rồi dùng làm pháo đốt mừng ngày sinh nhật ông cha, chỉ một điểm này, đủ thấy sự phát minh của người Trung Quốc bao giờ cũng tiến hành trên đường lối hòa bình. Trên phương diện mỹ thuật họ cần một công trình tinh tế hơn là nét bút hoạt bát, tỏ ra là do sức sinh hoạt đã yếu kém và bản năng suy nhược. Trên vấn đề triết học người Trung Quốc ưa sự biết điều hơn là những biện luận có tính cách gay gắt, cứ trông cái má tròn và gò má bằng phẳng của người Trung Quốc đủ thấy rõ dấu hiệu đặc biệt này.
Vì coi khinh vũ dũng và sự hoạt động, lại có nếp sinh hoạt chung hiếu tĩnh không ưa phấn đấu, do đó ảnh hưởng ngay đến sự thoái hóa về sức khỏe của cơ thể. Giới trưởng giả ở thành thị bị cái ảnh hưởng này quá rõ ràng. Khi có cảnh kẹt xe ở đường phố hay khi có cuộc họp giáo ban, lúc người Âu Châu, người Trung Quốc ngồi đứng cạnh nhau thì tình trạng này lại càng dễ nhận ra. Nếp sống thiếu vệ sinh và thói ăn uống quá độ đã nói rõ tại sao giai cấp trưởng giả của Trung Quốc thường có bộ vai và thớ thịt hai mạng sườn sệ xuống cùng đôi mắt lờ đờ như không có thần. Đứa trẻ trong tuổi học của Âu Châu và đứa trẻ trong tuổi học của Trung Quốc, phần tiên thiên của chúng cũng có sự khác nhau, điều này cũng rất dễ nhận. Trên sân vận động, ta nhận thấy đứa trẻ nào cha nó hay mẹ nó là người Âu châu thì nó vẫn có vẻ mẫn tiệp, hoạt bát, khỏe mạnh trội hẳn, nhưng đến sức nhẫn nại và việc học tập thì xem ra có phần hơi kém. Thời kỳ 1927 hội nghị quốc dân chính phủ họp ở Hán Khẩu đã bị Borodin thao túng, người này ở nước họ chỉ là nhân vật tầm thường, vậy tại sao lại thao túng được chính phủ quốc dân? Lý do thật đơn giản là bởi sức làm việc của Borodin có thể gấp ba lần một viên chức Trung Quốc, lại có tài ăn nói thao thao bất tuyệt từ tối đến sáng, đến nỗi các lãnh tụ Trung Quốc mỏi mệt phát buồn ngủ, thế là đành chịu thua để được yên.
Nhiều người ngoại quốc của các sứ quán tại Thượng Hải đều lấy làm lạ về thái độ nhạt nhẽo, ơ hờ của những người bạn Trung Quốc. Họ không hiểu tính người Trung Quốc không chịu được những cuộc bàn cãi dài dòng phí sức, lại thêm nữa phải dùng ngôn ngữ ngoại quốc để đối thoại thì lại càng khó chịu lắm. Vì vậy, trong công việc, trong sự buôn bán hay trong những cuộc hơn nhân giữa người Trung Hoa và người ngoại quốc thường cuối cùng đi đến tan vỡ. Duyên cớ thường chỉ tại người Âu Châu không chịu nổi cái tính từ tốn thong thả của người Trung Hoa, mà người Trung Hoa cũng không chịu nổi cái tính vội vàng, hiếu động của người Âu Tây. Dưới mắt người Trung Hoa nhận xét, dáng điệu của anh nhạc trưởng nhún nhảy rung rung đầu gối để điều khiển ban nhạc Jazz, hay cái lối vừa nhảy vữa chạy trên boong tàu của người Âu Châu, thật đã khiến họ tức cười đến đau dạ bụng.
Trừ Tưởng Giới Thạch và Tống Tử Văn là những trường hợp ngoại lệ ít có, còn các nhà lãnh tụ chính trị của Trung Quốc phần lớn không chịu được sự làm việc khắc khổ; họ không “hùng hục làm việc như trâu ngựa”; họ chỉ làm việc như những con người văn minh; nhân sinh quan của họ là đời người không bõ cho ta nhọc thân, mệt trí, vì vậy mà họ Tưởng họ Tống đã trở thành những lãnh tụ tối cao, chỉ bởi họ có đức tính kiên nhẫn và sức chịu đựng khó nhọc. Tống Tử Văn khi từ chức bộ trưởng tài chánh, ông vẫn lấy câu tục ngữ Trung Quốc là “sức khỏe như trâu” để tự ví mình còn khỏe mạnh lắm. Ông không mượn cớ mắc bệnh tiểu tiện có đường hay bệnh đau gan làm suy giảm tinh lực để xin từ chức. Xưng bệnh để từ chức vốn là thói quan của bọn quan liêu vô sỉ. Quan lại của Trung Quốc mỗi khi gặp lúc chính trị khó khăn thường mượn cớ là bệnh cũ lại phát ra để tránh trách nhiệm; còn nói là bệnh gì, thì từ thể xác đến tinh thần thiếu gì bệnh, nào là thận yếu, ruột đau, nhức đầu, buốt óc, nếu khai ra thì có lẽ phải nằm hết mọi phòng của một y viện tối tân. Nhưng thực ra thì chỉ có bệnh chính trị đó thôi.
Lãnh tụ chính trị của Trung Quốc vốn là học giả thượng thừa còn có đặc tính nữa là một khi đã lên vũ đài chính trị rồi, thì đại đa số không chịu học hỏi thêm nữa, mà cũng không chịu sáng tác – chỉ có Tôn Trung Sơn tiên sinh là ngoại lệ.
Ví trong giới lãnh tụ của Trung Quốc cũng có một cuốn tự truyện như cuốn tự truyện nổi tiếng của Léon Trotzky ra đời, thì có lẽ nó là một chuyện lạ không thể tưởng tượng được. Tôn Trung Sơn đã mất mười hai năm nay rồi mà cũng không tìm được ở trên phố một quyển truyện ký đầy đủ về ông do người Trung Quốc viết, tuy rằng viết một quyển sách như thế rất ra tiền mà đến những truyện ký đầy đủ, xác thực về Tăng Quốc Phiên, Lý Hồng Chương, Viên Thế Khải cũng không thấy có cuốn nào.
Hình như khi đã làm qua ngồi vào nha môn nâng chén trà thơm nhấm nháp, về tư thất cắn hạt dưa, bàn những chuyện không bờ, không bến, thong thả ung dung là tiêu ma hết cả ngày tháng “học giả”. Những sự kiện này có thể cho thấy tại sao trong những tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng của Trung Hoa những bài thơ nhỏ đẹp như ngọc, những bài đoản văn tinh tế, những bài đề tựa giúp cho bè bạn, những bài văn bia khắc vào mộ chí hay những bài du ký ngắn chiếm hết đến chín mươi lăm phần trăm. Khi người ta không thể mạnh mẽ được thì thượng sách là ra vẻ văn nhã, khi người ta không lấn át được thì phải biết điều hợp lẽ.
Thỉnh thoảng cũng có được những nhân vật như Tư Mã Thiên, Trịnh Tiều, Cố Viêm Vũ; những trước tác vĩ đại của những vị này cho ta thấy một sinh lực dồi dào khỏe khoắn của Victor Hugo hay Balzac. Đấy, hai ngàn năm chỉ dập đầu cúi lạy khiến cho chúng ta như vậy đó.
Lại thử nhận xét về lông, da, râu, tóc của dân tộc này, hẳn cũng có thể cho ta biết kết quả thế nào về nếp sống văn minh của vài ngàn năm không bước chân khỏi cửa. Thông thường nam giới thường không có râu ria, dẫu có thì cũng rất thưa thớt, đó cũng là một hậu quả của nếp sống nói trên, vì thế mà người Trung Quốc thường không biết dùng dao cạo. Đến những người đàn ông có lông mọc đầy ở bụng, ở ngực, thì ở Âu châu ta thấy nhan nhản, nhưng ở Trung Quốc thì là chuyện không có, còn như phụ nữ trên mép môi có ria ở Âu châu thường thấy, nhưng ở Trung Quốc thì cho hiện trạng đó là lạ lùng lắm. Chẳng những thế, theo các nhà y học, họ nói hay họ viết trong sách, thì phần nhiều phụ nữ Trung Quốc không có lông ở gò Vệ nữ mà thông tục thường họi là “Bạch Hổ”. Lỗ chân lông trên da người phụ nữ Trung Quốc thường nhỏ hơn đối với phụ nữ Âu châu, vì thế mà nước da họ có vẻ mịn, đẹp, thớ thịt họ cũng nhẽo, đó là kết quả của chế độ bó chân xưa tạo nên, chế độ bó chân còn có nhiều vẻ hấp dẫn khác của nữ giới. Người Trung Hoa biết rõ hiệu quả này nên ở miền Tân Phong, tỉnh Quảng Đông, các nhà nuôi gà nhốt gà vào những cái lồng rất chật, ngay từ lúc chúng còn nhỏ, khiến con gà không còn chỗ mà quay cựa nữa, vì thế mà gà ở miền Tây Phong nổi tiếng là béo và mềm thịt. Mồ hôi của người Trung Quốc cũng ít hơn, có lẽ vì các tuyến mồ hôi bài tiết yếu đi. Vì vậy người Trung Quốc cho rằng, người Tây phương có thói quen mỗi ngày phải tắm một lần là vì cần phải trừ cái mùi hôi khét dữ dội ở da họ bài tiết ra. Một điều đặc biệt rất đáng chú ý là giọng nói của người Trung Quốc so với người Âu Tây kém hẳn tính chất âm vang.
Đến cảm giác của ngũ quan, thì thực tôi chưa nghiên cứu kỹ, nhưng nhận xét về cảm giác của tai, mắt thì cũng không có điểm gì khác lạ đáng nói; còn đến khứu giác thì người Trung Quốc quả thật là linh mẫn, điểm này ta nhận ra là bởi người Trung Hoa có tài nấu nướng khéo đặc biệt. Lối nói địa phương của tỉnh Bắc Bình, thì khi một người nói đến động tác hôn một em nhỏ họ không gọi là “hôn” mà gọi là “hít” một em nhỏ, thật là họ đã bày tỏ được cảm giác rất chính xác, vì thực tế khi ta hôn một em nhỏ ta đã “hít ngửi” thật. Như trên đã chứng tỏ người Trung Quốc có một khứu giác tinh vi. Rồi đến cả trong văn học Trung Quốc cũng có rất nhiều tiếng đồng nghĩa với tiếng Pháp “odeur de femme” để nói về vẻ đẹp. Xin nêu ra một vài tiếng thường thấy như: ngọc nhãn phương dịch (người ngọc mồ hôi thơm), ỷ cốt hương cơ (xương gấm da thơm), hoa dung nguyệt mạo (dáng như hoa, mặt như nguyệt), lan chất, huệ tâm (thể chất như la, tấm lòng như huệ), quá nữa còn dùng đến những chữ: phương danh (tên thơm), phương linh (tuổi thom) thật là cái gì cũng “phương” (thơm), chỗ nào cũng “hương” (thơm); tuy vậy ta cũng phải nhận rằng cách bày tỏ như vậy quả thật tài tình. Trái lại, đối với sự mẫn cảm về nóng, lạnh, đau đớn, âm thanh ồn ào, lẫn lộn thì người Trung Quốc thua hẳn người da trắng; nguyên nhân bởi người Trung Quốc sống trong chế độ gia đình chịu đựng mọi sự khốn khổ mài dũa, nên đối với những cái khổ kể trên họ chịu đựng  đã thành thói quen, chưa biết có lẽ vì thế mà người Âu Tây phải bái phục cái “hệ thống thần kinh” của chúng ta cũng nên. Người Trung Quốc có một vài loại mỹ nghệ đặc biệt, bởi thiên tài khéo léo, tỷ mỉ, chứng tỏ một tình cảm tinh vi, tế nhị - thủ công nghệ của Trung Quốc có thể chứng minh được điều này – còn trong hoàn cảnh đau đớn, khổ sở thì cảm giác họ tương đối kém cỏi, trì độn; người dân Trung Quốc có sức chịu đau rất cao, thật có thể nói là ngoài sức tưởng tượng!
2. NHỮNG HUYẾT THỐNG MỚI PHA TRỘN VÀO
Tuy vậy, dân tộc Trung Hoa được kế tiếp sinh tồn mãi, không phải chỉ nhờ vào sức chịu đau giỏi và những sợi dây thần kinh thô lỗ trong mình họ, mà thực ra họ đã sinh tồn đến ngày nay là nhờ vào sự thu hút được dân tộc Mông Cổ. Tác dụng phát sinh bởi sự thay đổi về sinh lý mà nảy nở, bạn sẽ quan sát thấy ngay rằng họ không hoàn toàn tránh khỏi sự suy yếu, già nua, do ảnh hưởng nền văn hóa mà họ có những đặc tính khiến cho nếu có một dân tộc hiếu chiến phát khởi lên tấn công là họ không sao tự cứu vãn được. Sinh mệnh của dân tộc Trung Hoa hình như chậm chạp, yên lặng tiến lên, trầm tĩnh khác hẳn nếp sống mạo hiểm tiến thủ; từ tinh thần đến đạo đức, tập quán đều có sự tương xứng với nhau và chứa đựng tính chất hòa bình và tiêu cực. Đó là căn nguyên khiến trên lịch sử thường có những chu kỳ bị các dân tộc từ phương Bắc chinh phục. Trên phương diện chính trị, thì dân tộc này đã nhiều lần bị loại xâm lược này diệt vong. Đến đây vấn đề lại chuyển khác đi là: Trong hoàn cảnh chính trị bị áp bức như vậy, làm thế nào để giữ gìn được dân tộc? Không phải là nó dùng cách nào ngăn trở được xâm lược, như với trận đáng ở thành Tours những nước theo Cơ Đốc giáo liên hợp với nhau để kháng cự quân đội Hồi Giáo; mà thực ra là bằng cách nào bảo vệ được sự sống còn dưới bàn tay ác độc của kẻ xâm lược, mà trên sự thực nó còn thu hút được dòng máu mới của dân tộc đến xâm lược đó, để bồi dưỡng cho mình, mà không để mất cá tính dân tộc, cùng giữ gìn được nền văn hóa của mình còn mãi. Vì vậy sinh mệnh dân tộc Trung Hoa, thực đã được hun đúc bằng một khuôn khổ đặc biệt, cho nên sức phấn đấu của tổ tiên có mất đi thì cũng không đến nỗi mất hẳn sức cầm cự chống đối và bản chất của dân tộc. Then chốt bản chất cầm cự của nòi giống là then chốt trong sự sinh tồn nối tiếp của dân tộc Trung Hoa vậy.
Những dòng huyết thống pha trộn vào, đã có thể lý giải sức tự tồn của dân tộc Trung Hoa ngày nay đến trình độ nào. Trên lịch sử, khi một dòng huyết thống mới pha trộn vào thường xảy ra theo một chu kỳ đều đặn lạ lùng, phỏng độ tám trăm năm. Hình như đó là một thời gian cần có để dân tộc Trung Hoa đổi mới. Mà sự đưa đến những cuộc đảo lộn lớn có chu kỳ đó là nền móng đạo đức nội bộ bị hủ hóa, chứ không do xâm lược từ ngoài vào. Tờ Trung Quốc khoa học, mỹ thuật tạp chí có đăng một bài nghị luận của J.S. Lee nhan đề là “Chu kỳ tuần hoàn của nội chiến ở Trung Quốc”, nội dung bài này trình bày tình trạng chiến tranh, loạn lạc của các triều đại Trung Quốc thành một bảng thống kê để nghiên cứu, rồi chứng minh cứ một thời trị đến một thời loạn theo chu kỳ tuần hoàn. Thời kỳ trước đến thời kỳ sau có khoảng cách gần như một định kỳ chuẩn xác, không phải một sự ngẫu nhiên, và không thể là do khả năng nhân sự.
Theo bác sĩ Lee, lịch sử Trung Quốc có thể phân chia một cách giản dị mỗi khoảng trăm năm là một giai đoạn, hay một chu kỳ. Mỗi chu kỳ thường bắt đầu bằng một dòng vua ngắn nhưng có quân lực và uy thế mạnh, để kết thúc một cuộc nội chiến kéo dài mà thống nhất Trung Quốc. Sau đó nối tiếp đến một thời đại thái bình thịnh trị độ bốn năm trăm năm, qua thời kỳ này lại có cuộc thay đổi một triều đại, rồi các cuộc nội chiến lại diễn ra liên tiếp, rồi kinh đô lại từ Bắc rồi xuống Nam. Thế là thành hình cuộc Nam Bắc phân tranh, rồi tình hình cứ ngày đêm nguy hiểm, cuối cùng sa vào vòng bị dân tộc khác thống trị, thế là kết thúc một chu kỳ. Từ đó mọi việc lại bắt đầu trở lại, Trung Quốc lại trùng tân và thống nhất lại quyền cai trị về mình, đến lúc này trên lãnh vực văn hóa lại nẩy ra những vẻ đẹp mới mẽ, rực rỡ.
Trong mỗi một chu kỳ, sự diễn tiến của dấu tích lịch sử, từ thời gian đến nguyên nhân, kết quả thế nào đã biểu diễn rất giống nhau theo một hình thức máy móc mà không dùng lý lẽ gì giải thích được, vì thế chu kỳ trước và chu kỳ sao giống nhau như một vết xe. Theo bác sĩ Lee nêu ra: Mỗi chu kỳ là một thời kỳ tương đương trùng hợp với thời mở đầu cho một thời kỳ văn hóa mới phát dương, mỗi lần như thế đều có một công trình xây dựng vĩ đại ra đời, nhưng lần nào cũng xảy ra một việc không may để bị hủy diệt. Chu kỳ thứ nhất, Tần Thủy Hoàng xây Vạn Lý Trường Thành thật là hùng vĩ và cung A Phòng bị đốt cháy, khói lửa liên miên ba tháng mới tắt; chu kỳ thứ hai, nhà Tùy đã đào Vận Hà, Tùy Dạng Đế đã xây Ly Cung rất hoa lệ, xa xỉ đến cùng cực. Chu kỳ thứ ba thì Trường Thành được xây đắp lại, hình thức mới này còn bền vững đến ngày nay. Đến đời Minh, niên hiệu Vĩnh Lạc, nhà vua đã cho đào thêm một vài dòng Vận Hà và xây thêm đập ngăn nước; trứ danh nhất là thành Bắc Kinh và pho “Vĩnh Lạc đại điển” phải coi nó là một công nghiệp rất to tát của thời kỳ này.
Những chu kỳ đó gồm: 1) Thời kỳ từ đời Tần đến đời Lục triều, rồi bị dân tộc Thát Đát xâm chiếm (trước Thiên Chúa 221, đến sau Thiên Chúa 588 năm) gồm lại là hơn tám trăm năm; 2) Thời kỳ từ đời Tùy đến lúc bị dân tộc Mông Cổ xâm chiếm (từ 589 đến 1367 sau T.C.) gồm lại độ bảy trăm tám mươi năm; 3) Thời kỳ này là chu kỳ hiện tại, từ lúc bắt đầu đời Minh cho đến nay; chu kỳ này chưa đến phần kết thúc, nhưng cứ theo những dấu vết lịch sử từ sáu trăm năm nay mà nhận xét, thì sự diễn tiến vẫn theo như quỹ tích của chu kỳ trước, hai đời Minh, Thanh đã có một cuộc thái bình đến năm trăm năm, vậy có thể coi như nhiệm vụ của chu kỳ này đã hoàn thành, cuộc cách mệnh của Thái Bình thiên quốc năm 1850 là đợt sóng lớn mở đầu cho một cuộc nội chiến, chúng ta hiện nay đang ở vào giai đoạn chiến tranh, loạn lạc, đói kém đến mức độ cao nhất, tất cả những tai vạ đó tiến triển là hợp với phương thức di truyền lại từ các đời trước, năm 1927 việc dời đô về Nam Kinh cũng là lẽ đó.
Như vậy, có lẽ chúng ta chẳng cần bói toán cũng có thể biết trước cục diện của hai trăm năm sau này: Nam, Bắc lại phân chia, Bắc bộ lại bị người ngoài chinh phục. Tất cả những việc này lại tái diễn chăng?
Bác sĩ Lee còn cho biết, trước chu kỳ thứ nhất là đời Chu, dấu vết lịch sử cũng vẫn diễn tiến như vậy. Đời Chu là thời kỳ thứ nhất văn hóa Trung Quốc nảy nở sán lạn, đẹp đẽ. Thủy tổ nhà Chu lên ngôi vua vào năm 1122 trước Thiên Chúa giáng sinh, qua chín trăm năm nhà Chu mất. Nửa trên của chu kỳ này khoảng hơn bốn trăm năm, nội bộ Trung Quốc tương đối thái bình, cường thịnh, từ năm 770 trước Thiên Chúa giáng sinh, bắt đầu bị ngoại chủng ở phía Tây Bắc áp bức. Kinh đô bắt buộc phải dời về miền Đông là vùng Lạc ấp. Bắt đầu từ đây, chiến tranh kéo dài, chư hầu liệt quốc thôn tính, tranh cướp lẫn nhau, tình thế phân chia mỗi ngày một quá, chính phủ trung ương dần dần mất hết quyền quân chủ phong kiến. Thời kỳ từ năm 722 đến năm 481 trước Thiên Chúa giánh sinh, là thời kỳ đức Khổng Tử chép pho sử biên niên là Kinh Xuân Thu, ghi việc theo thời đại và thứ tự từng năm, vì thế thời kỳ này được gọi là thời Xuân Thu. Từ năm 402 đến năm 221 trước Thiên Chúa được gọi là thời Chiến quốc, lúc này nước Sở đã bành trướng lớn, lãnh vực gần chiếm hết nam bộ Trung Quốc làm miền dân cư đã được khai hóa. Chu kỳ này kết thúc vào lúc Tần Thủy Hoàng diệt hết chư hầu và thống nhất Trung Quốc, bằng một bộ lạc có dòng máu man di với những phong tục, tập quán mới mẻ.
Một sự pha trộn dòng máu Nhật Hoa, tuy là rất hiếm cũng đã sản sinh ra được hai người Trung Hoa đáng kể: một là Trịnh Thành Công (Quốc tinh gia), một tướng tài kháng cự tuyệt vọng với nhà Thanh, và Tô Mạn Thù, một thi sĩ đầu thế kỷ này (chú thích của tác giả).
Những sự kiện này phải dùng những nguyên nhân thuộc phạm vi nhân chủng, kinh tế và khí hậu để giải thích. Vấn đề nhân khẩu quá thừa cũng là một nguyên nhân chính. Trong khuôn khổ tự nhiên, dân tộc nào được một cuộc sống thái bình độ bốn, năm trăm năm là tới mức nhân mãn. Không có nước nào trên thế giới giữ được một nền hòa bình và văn hóa tiến triển đều trong khoảng bốn, năm trăm năm. Không có lý do gì Trung Quốc lại ngoài thông lệ đó. Tuy nhiên văn học sử của Trung Quốc hình như lại cho ta một giải đáp khác. Mỗi khi gặp lúc Nam, Bắc phân tranh, cảnh nhiễu nhương, thối nát sinh ra, nền móng đạo đức tan vỡ, tình trạng này thường phản ảnh trong thi ca và những tác phẩm văn học khác. Tiết thứ nhất của chương này có nêu ra một vài bài thơ ngắn cho thấy rõ điểm này. Chu kỳ thứ nhất khi dân tộc phương Bắc vào xâm lấn được gọi là đời Lục triều, từ đời Đông Tấn đến đời Tùy là triều đại thống nhất được Trung Quốc, trong thời đó miền Hoa bắc hoàn toàn nằm vào khu vực của giống di địch chiến thắng; chu kỳ thứ hai khi dân tộc phương Bắc xâm nhập, bắt đầu từ đời Nam Tống cho đến lúc người Mông Cổ dựng nên cơ nghiệp nhà Nguyên, thời kỳ này xã hội có những thói ưa chuộng ủy mị, văn học có phong cách sa đọa, gần giống nếp sinh hoạt của thời Lục triều, Lục triều có lối văn biền ngẫu phù hoa, lả lướt nổi tiếng, thì đời Tống, đời Nguyên cũng nảy ra lối từ khúc có giọng điệu đẹp đẽ, ẻo lả, tình cảm chứa chan. Những loại thi văn ấy. phong cách sở dĩ thấp kém không phải tại dùng chữ quá nghèo nàn, thiếu thốn; mà lỗi tại dùng chữ quá rườm rà, phức tạp; không còn ngầm chứa phong vị điền dã thuần phác, mà có vẻ ẻo lả ngây thơ, nõn nà tế nhị của nơi khuê các. Người Trung Quốc ở những thời kỳ đó, thường nảy ra một phong vị “fin de sièle” 1 trong văn học, nghệ thuật rất tinh tế, và ý thức ưa chuộng nếp sống quý tộc phong mã.
Bởi vậy thời kỳ này, ta thấy nghệ thuật hội họa và phép viết chữ rất phát đạt. Giai cấp quý tộc nêu lên và truyền bá các hệ thống nghệ thuật, vấn đề phê bình văn học của Trung Quốc cũng đến đời Lục triều mới thấy nổi bật, rồi nhà thư pháp gia nổi tiếng nhất của Trung Quốc là Vương Hy Chi, xuất thân trong một gia đình quý tộc, cũng ra đời đúng vào thời kỳ này. Một nền chính trị yếu kém không còn kỷ cương, thường đi song đôi với một nền nghệ thuật khéo léo, tỉ mỉ, nên thời kỳ này các vị vua chúa của Nam triều, trên phương diện chính trị không đủ sức bảo tồn vững vàng ngôi hoàng đế, nhưng có thể làm được những bài thơ tuyệt tác. Các ông hoàng đế thi sĩ như vua Vũ Đế nhà Lương, Nam Đường hậu chủ, Trần hậu chủ đều là những ông vua ở ngôi rất ngắn, nhưng lại là những “tay thánh” về thi ca tình cảm; vua Huy Tông nhà Nam Tống là một họa gia nổi tiếng.
1 Tiếng Pháp trong nguyên bản
Tuy vậy, nhưng mầm mống tân sinh của chủng tộc cũng được gieo xuống từ lúc này, vì các vị vua anh hùng của Bắc triều chỉ là kẻ chiến thắng cầm quyền ở triều đình mà thôi, còn các cơ cấu ở hạ tầng thì vẫn do người Hán tộc nắm giữ. Giai cấp thống trị hùng mạnh của đời Bắc Ngụy là dòng giống rợ Tiên Ti, họ chẳng những tiếp nhận văn hóa Hán tộc, lại còn công khai dựng vợ, gả chồng với người Hán tộc nữa; nước Kim (giống Mãn) ở thời đại Nam Tống tình hình cũng tương tự; trong cơ thể họ phần lớn là dòng máu người Hán. Như vậy sự diễn biến lịch sử, quả thực đã tiến hành như tác dụng ủ men rượu vậy. Những thời đại này cũng là thời đại tiếp thu những ảnh hưởng của chủng tộc khác vào nền văn hóa Trung Quốc, cuối chu kỳ thứ nhất Phật giáo và nghệ thuật điêu khắc của Ấn Độ được truyền vào Trung Quốc, cuối chu kỳ thứ hai những vở hát và âm nhạc của Mông Cổ được Hán hóa, đây là những chuyển biến rõ ràng trên lịch sử mà ta không thể bỏ qua được. Đến vấn đề pha trộn dòng máu thì lại càng rõ ràng lắm, những điểm phát hiện để ta nhận rõ là những đặc tính về ngôn ngữ và vóc dáng của người miền Bắc ngày nay: họ vẫn còn giọng nói khó khăn, ấp úng khi biến âm, vóc người cao lớn, tình tình vui vẻ nhưng chất phác, đó là những đặc biệt của chủng tộc họ từ xưa. Sự pha trộn với những dòng máu mới và sự hòa đồng trên địa hạt văn hóa là một nguyên nhân lớn để dân tộc Trung Hoa trường tồn vậy.
3. TÁC DỤNG DO SỰ CỦNG CỐ CỦA VĂN HÓA
Những gì trình bày ở phần trên, thực cũng chưa đủ giải quyết được toàn bộ vấn đề. Vấn đề vẫn là dân tộc Trung Hoa làm thế nào để vượt qua những định kỳ chính trị nguy hiểm để khỏi bị tiêu diệt dưới gót sắt của kẻ xâm lược, như dân tộc La Mã bị tiêu diệt bởi người Lambards; sức giữ vựng được nền tảng dân tộc và tài thu hút được dân tộc khác của người Trung Quốc nằm ở những đặc điểm nào? Hãy nhận xét sâu xa vấn đề này, thì trước tình cảnh hiện nay chúng ta mới có được một nhận thức đúng đắn.
Bản chất dân tộc và sinh lực bền bỉ của nó có thể cho đó là phần tiên thiên, còn phần nữa là sự giáo dục và kết quả của văn hóa, mặc dầu đặc tính thoái hóa của giới tư sản quý tộc Trung Quốc đã giúp cho giống Hán tộc vượt qua những tai vạ về chính trị và thu hút được dòng máu mới của dân tộc khác mà dần dần đổi mới. Sự củng cố sức giữ gìn bền bỉ của dân tộc do lực lượng văn hóa thì điểm có giá trị nhất phải kể ngay là chế độ gia tộc của Trung Quốc. Chế độ này được tổ chức rất hoàn bị, nguyên tắc đưa ra rất rõ ràng, cho nên bất cứ người nào cũng không thể quên được dòng dõi tổ tiên mình. Cái chế độ gia tộc tiếp nối muôn đời ấy, người Trung Quốc lấy nó làm vật quý có giá trị vượt lên trên tất cả những gì quý giá ở đời, tâm lý này thực có màu sắc tôn giáo, thêm nữa là nghi thức sùng bái tổ tiên càng làm tăng màu sắc đó, vì vậy ý thức này được in sâu vào lòng người.
Một chế độ gia tộc được tổ chức hoàn thiện lại ngầm chứa tính chất tôn giáo ấy mỗi khi tiếp xúc với người dân chủng tộc khác có ý thức gia tộc lỏng lẻo thì nảy ngay ra một hiệu năng có tác dụng rất mạnh. Dân tộc dã man hay đứa bé hai dòng máu thường thấy thích thú trong việc đóng góp vào gia đình để hưởng một danh phận trong thế hệ gia tộc nối tiếp mãi và say mê trong một lý tưởng đẹp đẽ là nhận rằng phần xác một cá nhân dẫu chết, nhưng linh hồn nó còn sống mãi, sống hòa vào dòng sinh mệnh của gia tộc. Chế độ gia tộc này còn là nguyên nhân trực tiếp kích động số lượng sinh sản của giống nòi. Nay muốn cho hương khói nhà họ Lâm còn mãi, thì hẳn phải cần làm thế nào cho họ Lâm sinh sản nối đời, muốn họ Lâm ngành ngọn tốt tươi thì sinh ra càng nhiều Lâm tí nhau càng tốt chứ sao?
Có thuyết cho rằng Trung Quốc đã thu hút cả giống người Do Thái ở miền Hà Nam, cũng nhờ ở tác dụng của chế độ gia tộc này. Hiện nay giống người Do Thái ở Hà Nam đã đồng hóa hoàn toàn với người Trung Quốc, tập quán truyền thống không ăn thịt lợn của họ nay trở thành quá khứ. Ý thức dân tộc của người Do Thái đã sớm bị mai một trong ý thức của một dân tộc tương đối lớn đó là tổ chức gia tộc bành trướng của người Trung Quốc, kết quả trên địa hạt biến hóa giống nòi, Trung Quốc đã thu hoạch được một lợi ích vĩ đại. Còn các dân tộc kém hẳn người Do Thái về ý thức dân tộc và ý tự tôn, chẳng hạn như dân tộc Thát Đát, nên họ xâm nhập lãnh thổ Trung Quốc thì giống người thổ trước là Hán tộc thường giữ được ưu thế hơn hẳn kẻ xâm lược, điểm này thật đã hiển nhiên. Vì vậy không cần biết sự thay đổi của chính trị rồi sẽ đưa dân tộc đi đến đâu, nhưng các gia tộc Trung Hoa sẽ mãi mãi là gia tộc Trung Hoa.
Lại còn lực lượng văn hóa cũng là một điều kiện để củng cố cơ cấu xã hội Trung Quốc; xã hội Trung Quốc không có giai cấp cố định tồn tại, vì thế cơ hội nâng cao địa vị được công khai tuyệt đối, mọi người đều có quyền hưởng chế độ khảo thí để lập công danh. Chế độ gia tộc tồn tại khiến con cháu sinh sản thêm đông, làm số lượng của dân tộc lớn mãi lên, còn thi hành chế độ khảo thí nên chọn lựa được người tài trí, khuyến khích sự học nâng cao tính chất dân tộc, hai điều này thi hành song song, khiến dân tộc Trung Hoa còn mãi. Chế độ khảo thí được định rõ ràng từ đời Đường, mà ban đầu thoát thai từ chế độ tuyển cử của đời Hán. Trung Quốc có câu tục ngữ: “Tướng, tướng bản vô chủng, nam nhi đương tự cường” (Tể tướng, đại tướng vốn không bởi giống, người con trai nên cố gắng) thật là nguyên lý cơ bản của chế độ khảo thí vậy.
Từ đời Ngụy, Tấn trở về sau (thế kỷ thứ ba, thứ tư) quyền giám độc việc tuyển cử thay đổi, biến ra một chế độ mới, dựng nên một ty đặt tên là “Cửu phẩm trung chính” chuyên phê bình nhận định các nhân vật trong vùng, để cung cấp theo những tiêu chuẩn dùng người của chính phủ, các cấp trong Ty Trung Chính thì lấy người bản xứ có đức vọng làm việc trong mọi phủ công, khanh, cùng các viên lang (thị lang) lại (đề lại) ở các đài, tỉnh (phòng hành chính phủ, huyện, tỉnh) sung vào, nhân viên Ty Trung Chính đã là quan lại, nên thường thân cận với các nhà giàu có, quyền thế vì vậy việc bình nghị nhân vật thường có sự riêng tư thiên vị, chỉ có lợi cho những nhà quyền thế mà mất hết tính chất của việc tuyển cử, đương thời đã có câu ngạn ngữ “Thượng phẩm vô hàn môn, hạ phẩm vô thế tộc” (giai cấp cao không có người hàn sĩ, giai cấp thấp nhất không có con nhà  thế gia lệnh tộc), thành ra nhà thế gia lệnh tộc được nối đời vinh hiển, kẻ dân hèn nghèo khó không có lối để tiến lên, vì lý do này đời Tấn đã nẩy ra một giai cấp quý tộc đặc biệt.
Đời Đường lập ra chế độ khảo thí rõ ràng, gọi là “khoa cử”, nội dung nó các đời sau cũng thay đổi đi nhiều, nhưng chế độ này đã tồn tại mãi đến năm 1905 mới chấm dứt, nó đã duy trì được một cửa ngõ cho mọi người tiến vào quan trường, mọi người có thể từ địa vị nghèo hèn mà lập được công danh. Tính chất của chế độ khoa cử không khỏi có tính cách máy móc, nó không đủ sức lôi cuốn được những bậc kỳ tài, nhưng cũng đủ để lựa chọn được nhân tài, và chỉ có thể coi là sự khảo hạch để trắc nghiệm thông minh mà thôi. Chế độ khoa cử này khiến kẻ sĩ có tài cán ở hương thôn, lần lần quy tụ vào thành thị, mà bổ sung cho phần tinh lực tiêu hao của thượng tầng giai cấp, một mặt lại duy trì được chu kỳ tái tạo nội bộ để kiện toàn xã hội. Chúng ta hãy nhìn qua những chứng tích lịch sử từ hơn một nghìn năm qua, thì hẳn phải tin rằng chế độ khảo thí này đối với phẩm chất của giai cấp thống trị đã có hiệu năng chọn được người tài, thải được kẻ kém, nên nó đã giúp đỡ nhiều cho việc ổn cố xã hội.
Tác dụng của chế độ khảo thí còn có điểm trọng yếu hơn nữa, là chẳng những giai cấp thống trị từ nông thôn nẩy ra, mà nó còn trở lại với nông thôn nữa, vì điển hình của nếp sống hương thôn vẫn được coi là đẹp đẽ lý tưởng nhất. Lý tưởng về nông thôn được phô bày trong nghệ thuật, triết học và trong cuộc sinh hoạt, rồi ăn sâu vào ý thức mọi người Trung Quốc, mà trở nên một nhân tố lớn giúp cho sự kiện khang dân tộc ngày nay. Điển hình cuộc sinh hoạt của dân Trung Quốc ngay từ lúc ban đầu là vẫn giữ được sự bình hành giữa tập quán sinh hoạt nguyên thủy và văn minh, thủ đoạn đó quả thực khéo léo?  Phải chăng bản năng kiện toàn đã dẫn dắt người Trung Quốc biết ưa chuộng cái văn minh trong nếp sống cấy cầy và chán ghét những kỹ xảo máy móc, cùng lựa chọn được một nếp sống đơn thuần? Phải chăng cái bản năng kiện toàn ấy đã làm cho họ thấy rõ niềm vui sướng của đời người và không ưa những gì mệt thân, nhọc trí, vì thế trên lãnh vực hội họa, văn học từ đời này qua đời khác đều tán dương tư tưởng trở về đồng ruộng.
Bởi càng sống gần thiên nhiên, càng dễ giữ được trạng thái lành mạnh của thể xác và tư cách đạo đức. Con người sống ở nông thôn không bị hủ hóa, chỉ có con người sống ở thành thị là suy bại. Hạng người có học và hạng người có nếp sống trung bình ở nơi thành thị, luôn luôn nghe thấy tiếng gọi của đất lành. Những bức thư gửi cho gia đình, hay những bức thư khuyên răn con em của các nhà học giả trứ danh, nội dung luôn luôn chứa đựng tư tưởng này, chẳng những đã miêu tả được một phần trọng yếu cái dung mạo của nền văn minh Trung Quốc, mà đối với sự trường tồn của dân tộc Trung Hoa thực đã cống hiến những gì vi diệu và sâu sắc. Trong lúc rảnh rỗi, tôi đã lựa chọn bài văn sau đây, nó là một bức thư gửi cho em của Trịnh Bản Kiều (1693-1765) nội dung rất thành thực đáng yêu, có thể góp phần vào những tác phẩm vĩ đại của thế giới.
Em ta,
Chỗ nhà đất em vừa mua, kín đáo chắc chắn, thật là chỗ ở rất tốt. Có điều thiên tỉnh (khoảng trống giữa nhà) nhỏ quá, trông lên thấy khoảng trời không được rộng, anh vốn tính ưa phóng khoáng nên không thích ở như vậy. Từ miếng đất này đi ngược lên phía bắc độ một trăm bộ đến cầu Anh Vũ, lại từ cầu Anh Vũ lên lầu Hạnh Hoa độ ba mươi bộ (5 thước) khoảng đường này hai bên còn nhiều đất trống; lúc còn trẻ có lần anh ngồi uống rượu ở đấy, thấy có miếng đất hoang vu, một quãng đê xơ xác liễu già, dưới cây cầu khe nước nhỏ róc rách, lòng thật ưa thích; nếu có được năm chục nghìn chế tiền, thì có thể mua được một bãi đất rộng, để sau này làm nhà ở. Ý anh chỉ muốn dựng một căn nhà vách đất, trước cửa trồng trúc, liễu, cỏ, hoa, lấy gạch vụn lót một con đường nhỏ đi từ cổng vào; bên trong nhà tranh chia làm hai gian, một gian để tiếp khách, một gian làm viện chứa sách vở, kinh sử, đồ họa, bút nghiên, rói chén uống rượu, đồ chuyên trà để cùng bè bạn và bọn con em bàn luận văn bài ngâm thơ vịnh phú ở đó. Sau căn nhà này dựng ba gian nhà ở, nhà bếp hai gian, chỗ ở cho người làm một gian, cộng tất cả làm tám gian, đều lợp tranh, thế là đủ lắm rồi. Lúc tinh sương mặt trời chưa mọc, nhắm về đông một dải mây hồng, chiều đến ánh tà dương nhuộm lá, đứng chỗ cao trước viện nhìn ra mây nước ngang cầu. Trong nhà thết khách, ngoài tường, kẻ qua lại thấy rõ ánh đèn. Phía nam cách nhà em độ trăm ba chục bộ, phía đông là một mảnh vườn nhỏ, một lạch nước chảy qua thật là tiện quá. Có người nói rằng: “Chỗ ở như vậy rất tốt, nhưng chỉ e trộm cướp”. Anh thì nghĩ rằng trộm cướp cũng chỉ là dân nghèo, vậy ta mở cửa đón vào, thương lượng với họ để chia nhau cùng hưởng những gì vốn có; cái gì tiện dụng cho họ thì họ lấy đi; nếu chẳng một thứ gì đáng giá, thì đến cái thảm xanh của Vương Hiến Chi1 cũng có thể lấy được, cầm độ trăm tiền để cứu cấp tạm khi cần vậy.
Em hãy lưu tâm miếng đất ấy, để người anh cuồng phóng này có chỗ yên vui lúc tuổi gia, nhưng không biết có được toại nguyện không nhỉ?
1 Thảm xanh của Vương Hiến Chi: Hiến Chi có một đêm bị cướp vào lấy vơ vét của cải đồ vật. Lúc cướp sắp ra, ông nói: cái thảm xanh là vật cũ của nhà tôi xin hãy để lại. Đây ý nói của gia bảo.
Đoạn văn này, có thể lấy làm điển hình về một khía cạnh tình cảm trong văn học Trung Quốc. Cái tư tương điền viên của Trịnh Bản Kiều bắt nguồn từ một ý nghĩa nên thơ, đồng tình với nông phu nghèo khổ, ý nên thơ đó có tính chất thiên nhiên hợp với tinh thần Đạo giáo. Còn tư tưởng điền viên của Tăng Quốc Phiên thì bắt nguồn từ lý tưởng bảo tồn gia tộc, rất gần với chế độ gia tộc của Khổng giáo. Tư tưởng về nếp sống điền viên, rõ ràng là một bộ phận của chế độ xã hội, chế độ xã hội này đã khiến gia tộc trở nên một đơn vị của hệ thống chính trị văn hóa, rồi chính trị văn hóa lại khiến xóm làng thành một đơn vị. Tăng Quốc Phiên ở chức quan to trong tay nắm giữ binh quyền lúc đó, nhưng những bức thư gửi về nhà cho con cháu (cháu gọi bằng chú bác) thường luôn luôn khuyên nhủ phải tránh nếp sống xa xỉ làm sang, cố gắng việc cấy lúa, trồng rau chăm hoa, xới bón. Những khuyên bảo nên cố gắng, giữ nếp sống thật thà mộc mạc và chịu khó cần lao đều ngầm chứa hy vọng đến mục đích giữ cho gia tộc phồn thịnh, yên lành, những ý này thật rõ ràng vậy.
Nếu nếp sống thật thà mộc mạc khiến cho gia tộc được phồn thịnh, yên lành lâu dài, thì đồng thời nó cũng giúp cho quốc gia như vậy. Lý tưởng của Tăng Quốc Phiên thật dễ dàng nhận thấy. Ông cho rằng:… thường một nhà quan cách (làm quan) con em quan thói xa xỉ, nên chỉ thịnh vượng được một hai đời; nhà làm ăn buôn bán, thường cần kiệm, cố gắng, nên sự phồn thịnh cũng được ba bốn đời; còn nhà làm ruộng đọc sách vốn thật thà, thận trọng thì sự phồn thịnh được đến năm sáu đời; nếu biết tu chỉnh đức hạnh: ở nhà có hiếu đễ, ra ngoài biết giữ trung tín, thì sự phồn thịnh có thể được đến bảy tám đời. Vì thế Tăng Quốc Phiên lấy việc thả cá, nuôi heo, trồng rau, trồng trúc là bốn điều cần yếu trong nhà. Thư gửi về nhà cho các em có đoạn ông viết: … trong nhà thì việc trồng rau, quyết không thể sao nhãng được. Ao trước cửa phải nuôi cá, đó cũng là một nguồn lợi, nuôi heo cũng là một việc trọng yếu trong nhà, trên nhà gò phía sau, trúc mới trồng qua ba tuần nắng hạ có bị khô héo không! Bốn việc này khiến người ta có thể thấy rõ khí tượng hưng suy của một nhà, mà cũng là sự kính cẩn vâng lời dạy bảo của tổ tiên, lại cũng là khuôn phép để chỉ dẫn con cháu, vậy cần lưu ý luôn luôn…”. Nội dung đoạn thư ông đã nhấn mạnh đến điểm thuần phác như vậy.
Từ lời gia huấn của Nhan Chi Suy (531-591), Phạm Trọng Yêm (898-1052), Chu Hi (1130-1200) cho đến những gia huấn của Trần Hoằng Mưu (1696-1771) Tăng Quốc Phiên (1811-1872), cái lý tưởng cần cù, thuần phác chuộng sự đơn giản trong nếp sống gia đình, đều được mọi nhà giữ vững, mà coi nó là định luật đạo đức truyền thống, rất có giá trị của dân tộc. “Giản dị” là một chữ lớn trong văn chương Hy Lạp, thì chữ “thuần phác” cũng là một liên ngữ lớn trong văn chương Trung Hoa. Hình như loài người vốn vẫn biết văn minh là lợi ích, nhưng đồng thời cũng nhận ra tính chất nguy hiểm của nó. Loài người biết thế nào là hạnh phúc và khoái lạc trong cuộc sống đồng thời tính chất ngắn ngủi sớm sinh, chiều mất cũng thường được thức tỉnh trong lòng, họ thường lo sợ sự ghét ghen của con tạo, cho nên thà sống thuần phác mà được dài lâu vẫn hơn. Nếu ở đời được hưởng những điều sung sướng may mắn quá phận, thì người Trung Quốc cho rằng vì đó mà đời mình giảm bớt phúc phận. Vì thế, “người ta nên tìm hạnh phúc mà tránh tai vạ, hai điểm này nên nhận rõ”. Một học giả cuối đời Minh lại nói “người ta nên tìm lấy cái hạnh phúc nào có thể gọi là thanh đạm”, trong lòng mọi người Trung Quốc đều có một tâm lý như vậy. Hạnh phúc và sự giàu có của đời người có tính chất không xác định, mà sống trở lại với sự chất phác, chân thực là phương pháp duy nhất để phòng ngừa và bảo vệ cho cuộc đời. Đó là lẽ thật không chối cãi được, người Trung Quốc lấy trực giác mà nhận ra, họ muốn gia tộc trường tồn, rồi nhờ đó mà khiến dân tộc cũng được trường tồn.
4. TÍNH CHẤT NON TRẺ CỦA CHỦNG TỘC
Bởi vậy ta thấy rằng, nhân dân Trung Quốc tránh khỏi sa ngã trước nguy cơ chính trị, là do họ không tin tưởng vào văn minh mà chỉ cần giữ được nếp sinh hoạt nguyên thủy. Có thể phải hiểu văn minh Trung Quốc theo một nghĩa đổi khác nhiều, cái văn minh đó là sự ưa chuộng, trạng thái nguyên thủy là văn minh, và chưa muốn thoát ly trạng thái nguyên thủy. Đương nhiên nó không phải là một nền văn minh hoàn hảo về mọi phương diện, nó không thể bảo đảm tránh được tất cả các thời kỳ loạn lạc, lưu huyết, cũng không có thể khiến chiến tranh, đói kém, thủy tai mất hẳn ở đời này.
Trải qua thời gian hai ngàn năm được coi là sống văn minh đã sản sinh được một số sử liệu sống động, khiến các nhà văn có tài liệu viết nên những bộ truyện xuất sắc như bộ Thủy Hử chẳng hạn, bối cảnh thời đại của bộ truyện này thật ác liệt hủ bại, đến nỗi có khi người ta còn ăn thịt người, chẳng phải nó cho ta biết tầm mức cái bí mật cơ cấu của một xã hội liên tục chống lại sự phá hoại của văn minh Tống Giang, Lý Quỳ và các tay hảo hán ở Lương Sơn Bạc dẫu sống xa thời đại của Khổng Tử đến một nghìn năm trăm năm, không hiện ra như những nhân vật tiêu biểu cho một nền văn hóa đã cằn cỗi già nua, mà có thể nói rằng họ là những hài nhi sung sướng của một nền văn hóa vừa ló dạng. Bọn họ sinh trưởng ở một thời đại mà cuộc đời không có gì bảo đảm an ninh. Dân tộc Trung Quốc hình như vẫn chưa đạt tới tuổi già nua thành thực với Khổng Tử mà vẫn hưởng thụ mãi mãi nếp sống trẻ thơ kéo dài.
Do đó đã đưa đến một vấn đề lý thú lớn lao trên cơ cấu dân tộc: Ví ta đứng trên phương diện nhân chủng học coi dân tộc Trung Hoa như một thực thể, thì những đặc tính của nó biểu hiện ra cho thấy không phải nó là một người già mà trái lại tỏ ra nó đương ở tuổi thơ ngây mà còn lâu nữa nó mới đến được thời kỳ thành thực của một dân tộc? Điểm này có thể chia làm nhiều khía cạnh mà nói, Trung Quốc trên phương diện văn hóa thì quả là đã già nua, nhưng sinh mệnh của chủng tộc thì vẫn còn non nớt. Cái lý luận này, hiện thời trong giới nhân chủng học rất nhiều người nói đến. Griffith Taylor đã lấy lẽ đó mà đặt Trung Quốc vào hạng ấu trĩ trong sự tiến hóa của nhân loại. Havelock Ellis cũng cho rằng nhân dân Á châu còn giữ được tính dung hòa, nhu thuần do tuổi nhi đồng thuần phác sinh ra, nó gần với bản chất của con người thời nguyên thủy, khi chưa đạt tới thời kỳ đặc tính phát triển. Vậy danh từ “tuổi nhi đồng kéo dài” có thể coi là đúng, nếu dùng những danh từ “ấu trĩ tính” “đình chỉ phát triển” “trầm trệ tính” thì có thể rất dễ hiểu lầm.
Cho rằng văn hóa của Trung Quốc đứng lại là một khái niệm sai lầm của người chỉ quan sát bề ngoài mà không nhận rõ sự sinh hoạt bên trong, bạn chỉ cần nghĩ đến sự phát đạt của ngành đồ sứ Trung Quốc. Người Tây phương đã hiểu lầm về ngành kỹ nghệ này, họ cho rằng nó đã phát triển từ thời Khổng Tử rồi truyền bá đến ngày nay. Thật ra bắt đầu từ thế kỷ thứ mười ngành kỹ nghệ này mới bắt đầu có mầm mống. Sau đó tiến bộ dần dần, đến thế kỷ thứ mười bảy vào khoảng niên hiệu Khang Hy, Càn Long, mới thật được hoàn toàn tinh xảo; thời kỳ này cách chúng ta không xa gì, mà trái lại hình như ngay ở trước mắt. Nghề sơn mài, ấn loát, hội họa tiến bộ cũng rất chậm, nhưng qua mỗi triều đại thẩy đều có tiến lên một bước, nổi tiếng xa gần là nghệ thuật hội họa của Trung Quốc, nhưng nó bắt đầu ra đời cũng mới được độ gần một ngàn năm, đó là thời kỳ muộn trong một nền văn hóa lâu đời vậy. Trên phương diện văn học, ban đầu chỉ cần xét sự phát đạt trễ muộn của lối tản văn hùng tráng (prose epic) và loại tiểu thuyết chí dị về Thủy Hử và Tây Du Ký phải cho là tản văn hùng tráng và tiểu thuyết chí dị. Thời kỳ hoàn thành của những tác phẩm loại này đều từ thế kỷ 11 trở về sau, cách xa thời kỳ Khổng Tử, Lão Tử đến gần hai ngàn năm.
Có điều lạ là cổ đại Trung Quốc không có anh hùng ca, hay có thể cho rằng nó gặp những tai ách, biến đổi mà mất đi nên không còn một dấu gì sót lại đến ngày nay. Thơ tự sự đến đời Hán mới thấy xuất hiện, nhưng mới có rất ít. Các vỏ hát phát đạt vào đời Nguyên, lúc này là thế kỷ 11, tiểu thuyết ảo tưởng Tây Du Ký cũng ra đời lúc này, là lúc tư tưởng người Trung Quốc bị triết lý Phật giáo kích thích. Loại tiểu thuyết đúng nghĩa mãi đến thế kỷ thứ chín mới bắt đầu có mầm mống, mãi đến thế kỷ thứ 14, 15 mới phát đạt đến đầu đời Thanh thì phồn thịnh nhất với cuốn Hồng Lâu Mộng; tác phẩm này tương đương với cuốn Clarissu Harlowe, mà lại ra đời cùng một thời. Giả thử sau Khổng Tử độ vài thế kỷ văn hóa Trung Quốc phồn thịnh lên rồi điêu tàn đi như văn hóa Hy Lạp, thì có lẽ nó cũng chỉ để lại cho chúng ta được một số nhỏ những câu cách ngôn về đức hạnh và một số ca dao bình dân mà thôi, đâu có được những kết quả vĩ đại về hội họa, tiểu thuyết, kiến trúc rạng rỡ trên đàn nghệ thuật thế giới? Có vẻ như là không phải chúng ta đang chứng kiến sự đứng dừng của một nền văn hóa đã tới thời cực thịnh như văn hóa Hy Lạp, mà là đang chứng kiến tuổi ấu thơ kéo dài của một chủng tộc, trải hàng nghìn năm rồi mới đạt tới thời kỳ toàn thịnh, rồi có lẽ sẽ còn can đảm để tìm cuộc phiêu lưu tinh thần nữa.
CHƯƠNG II
ĐỨC TÍNH NGƯỜI TRUNG QUỐC
 1. TÍNH CHÍN CHẮN (VIÊN THỤC)
Đức tính (character) là một chữ thuần túy điển hình Anh quốc. Ngoài trừ nước Anh, rất ít có nước nào trên lý tưởng giáo dục và nhân cách lại lấy “đức tính” làm trọng như Trung Quốc. Tâm linh người Trung Quốc như hoàn toàn bị đức tính ngự trị, khiến cho tất cả bộ môn triết học của họ, không chỗ nào không nhắc nhở tới nó. Hoàn toàn xa lánh mọi tư tưởng thế ngoại và không bị lôi cuốn bởi sự tuyên truyền khoe khoang của tôn giáo, đức tính đã được vun trồng làm trung tâm lý tưởng. Từ văn học, hí kịch, ngạn ngữ đều được dùng làm sức mạnh dẫn dắt nó đến với cả người nông dân ở hạ tầng giai cấp, khiến họ đã có cái nương tựa để noi theo triết lý nhân sinh. Chữ “character” trong Anh ngữ chẳng qua chỉ biểu hiện được ý nghĩa của sức mạnh, dũng khí, tính nết riêng, cũng có khi chỉ sự uất ức phát hiện trong lúc tức giận, thất vọng mà thôi; còn chữ “đức tính: trong văn học Trung Hoa gợi cho ra một ấn tượng con người tính tình ôn hòa và chín chắn, con người đó dù sống trong hoàn cảnh nào cũng giữ được trái tim bình tĩnh không dao động, sáng suốt nhận định về mình, và cũng sáng suốt nhận định người khác.
Các nhà lý học đời Tống rất tin tưởng rằng “tâm” có thế lục rất mạnh có thể khống chế được mọi tình cảm. Họ tự phụ nói quyết rằng người ta nếu làm cho bản tâm mình được sáng suốt và hiểu rõ được lẽ sống của con người thì có thể thắng được những hoàn cảnh bất lợi. Cuốn Đại Học là sách nhập môn của Khổng giáo. Trẻ con của Trung Quốc mới đi học thường bắt đầu học ngay sách đó. Trong sách này định nghĩa bốn chữ “Đại học chi đạo” là “tại minh minh đức” (cái đường lối của Đại học là làm sáng tỏ cái đức sáng trời đã phú cao) cái ý nghĩa đó e rằng không thể dùng tiếng Anh để giải thích được, chỉ có thể nói đó là trí thức được vun đắp rồi phát triển đi đến chỗ sáng suốt nhận định. Sự hiểu rõ chín chắn những bẩm tính về đời người và con người vốn là lý tưởng về đức tính của Trung Quốc. Thực tế thì lực lượng của đức tính tức là lực lượng của tâm! Các học giả của môn phái Khổng Tử đã đưa ra một thuyết rằng: Một cá nhân nào đã được huấn luyện về trí dục trở nên đức hạnh như đã nói ở trên, thì chúng ta có thể cho rằng “đức tính” của người đó đã nảy nở vậy.
Thường thường sự tu chỉnh và tiến bộ của những đức hạnh đó nhờ vào sức mạnh của thuyết túc mệnh trong Nho giáo. Trái với điều mọi người thường lầm tưởng thuyết này là nguồn gốc của hòa bình và an phận. Một cô gái đẹp lại có tài cán muốn phản đối một cuộc hôn nhân không xứng đáng, nhưng nếu hoàn cảnh ngẫu nhiên nào đó trong khi gặp mặt anh chàng khiến nó tin rằng đó là ý trời muốn dẫn dắt cho hai người kết hợp thành vợ thành chồng, thì lập tức nó nhận ngay rằng đó là mệnh vận và trở nên người vợ vui vẻ và an phận. Bởi trước mắt nó người chồng đó là mối oan gia đã định sẵn trong số mạng mình. Tục ngữ Trung Quốc có câu “oan gia từ kiếp trước, gặp nhau ở quãng đường hẹp”. Nhờ lý luận giải thích đó vợ chồng nó thân ái sống với nhau, rồi cũng có lúc lời qua tiếng lại, dằng xé, đánh nhau nhưng đó cũng là oan trái như vậy. Nó tin rằng cao quá đỉnh đầu ba thước là có thần minh soi xét, ông đã có ý định khiến họ không sao tránh được sự cãi lộn, ẩu đả đó.
Chúng ta nếu kiểm điểm, thảo luận kỹ về dân tộc Trung Hoa, rồi miêu tả những đức tính của dân tộc đó thì chúng ta có thể kể ra những đặc tính sau đây: 1) ổn kiện (vững vàng cẩn thận); 2) thuần phác, 3) ưa thích tự nhiên, 4) nhẫn nại, 5) thế nào cũng được, 6) lõi đời, 7) mắn đẻ, 8) chịu khó, 9) thanh đạm, 10) yêu mến nếp sống gia đình, 11) hòa bình, 12) an phận, 13) hài hước thú vị, 14) bảo thủ, 15) hiếu sắc. Đại thể như trên, những tính tình này dân tộc nào cũng hay có. Trên đây cho rằng những tính tình đó đều nằm trong đức tính, nhưng thực tế có vài cái là những tính xấu chứ không phải tính tốt, một vài tính thì vô thưởng vô phạt, những tính đó là những nhược điểm của dân tộc Trung Hoa mà đồng thời nó cũng là một sức mạnh. Tâm trí mà vững vàng cẩn thận quá thì thường làm mềm yếu sức mạnh của trí tưởng tượng và làm sút kém sự huy hoàng của ngông cuồng lý thú; tính hòa bình có thể trở nên tính xấu là nhát sợ; tính nhẫn nai có thể biến ra thái độ khoan dung lệch lạc là dung nạp tội ác; tính bảo thủ có lúc trở nên thói xấu chậm chạp lười biếng, còn sinh đẻ nhiều thì đối với dân tộc là một điều tốt, nhưng đối với cá nhân thì cũng là một khuyết điểm.
Tất cả những tính chất trên đây đều có thể thâu tóm nằm trong danh từ “viên thục” (ù lỳ chín chắn). Nó đều có tính cách tiêu cực, nó cho thấy rõ tính cách trầm tĩnh tiêu cực, không có một chút lực lượng hoạt bát của tuổi thanh niên và thiếu hẳn tính chất phóng túng, nhiệt tình. Nó lại còn cho thấy tính chất của văn hóa hình như lấy sức cầm cự và chịu đựng làm nền tảng, mà thiếu hẳn tính chất tiến thủ và tinh thần quyết thắng. Đó là thứ văn hóa khiến cho mỗi cá nhân bất cứ gặp hoàn cảnh nào cũng chỉ biết tìm lấy hòa bình. Khi một cá nhân giàu tinh thần thỏa hiệp và tự mãn trong trạng thái hòa bình thì hắn không hiểu được sự nhiệt tình tiến thủ và đổi mới của tuổi trẻ. Đó là một nền văn hóa cổ kính của một dân tộc già nua, biết được chân giá trị của cuộc đời mà không chịu mệt nhọc một cách vô ích để tìm đến một mục đích vu vơ không thể đạt được. Người Trung Quốc coi địa vị của tâm quá cao, đến nỗi vì đó mà bỏ những hy vọng và lòng ham thích tiến thủ. Vô hình trung họ đã phổ biến một định luật: “Hạnh phúc không phải là vật chúng ta cố tìm mà thấy được”, vì thế họ bỏ mất cả lòng mong muốn hạnh phúc. “Lui một bước” như người Trung Hoa thường nói, họ thấy hạnh phúc nằm nép trong bàn tay, suýt chết nghẹt trong khi họ sốt sắng đuổi theo một cái bóng ma.
Cái gọi là viên thục đó là vật nẩy ra do một hoàn cảnh đặc thù. Trên thực tế thì dân tộc nào đặc tính của họ cũng có một tính chất cộng thông cơ hữu. Tính chất đó có thể hiểu được bằng hoàn cảnh xã hội, hay chính trị. Cho nên “viên thục” đã bất kỳ nẩy ra trong hoàn cảnh xã hội Trung Quốc, như một giống lê đặc biệt đã nảy nở trong ruộng đất tự nhiên của nó. Đã có những người Trung Quốc sinh trưởng ở Mỹ quốc và sinh trưởng trong hoàn cảnh khác, nên họ cũng không có những đức tính phổ thông của một người Trung Quốc: giọng hát âm kỳ quái đơn thuần ở mũi của họ và lối nói năng thố suất mạnh mẽ của họ có thể làm tan vỡ một giáo ban; họ đã thiếu hẳn cái ưu điểm đặc biệt của người Trung Quốc là tính chất viên thục của đức nhu hòa. So sánh lớp sinh viên đại học của Trung Quốc với thanh niên Mỹ quốc cùng ở tuổi ấy thì họ có vẻ già dặn hơn; vì người thanh niên Trung Quốc khi mới vào đại học ở Mỹ quốc năm đầu, thường không thích đá banh, hay lái xe hơi. Bọn họ đã có cái thị hiếu, cái hứng thú của một người trưởng thành quá sớm; đại đa số họ đã lập gia đình, rồi gia đình và người vợ yêu quý đã ràng buộc tâm họ, lại còn cha mẹ khiến họ phải để tâm đến, hay còn phải giúp đỡ cho một vài người anh em con chú, bác đi học. Vì có trách nhiện gánh vác nên đã khiến con người trở nên nghiêm trang, đúng mực, rồi quan niệm truyền thống của văn hóa dân tộc đã khiến tư tưởng của họ trở nên vững vàng, cẩn thận quá sớm, đối với quá trình phát triển tự nhiên của sinh lý.
Thực ra, cái viên thục của người Trung Quốc không bởi sách vở nẩy ra nó, mà do hoàn cảnh xã hội mà có; cái xã hội đó nhìn sự nhiệt tình mạnh mẽ của giới trẻ, thì cười đến vỡ bụng. Người Trung Quốc có một tính đã ăn sâu là coi khinh nhiệt tình của giới trẻ và những tính toán mới mẻ về việc cải cách xã hội. Họ chê cười sự tiến bước quá bạo của giới thanh niên và sự tin tưởng “trên đời này không có việc khó”, vì thế người thanh niên Trung Quốc đã sớm bị dạy dỗ là phải ràng mồm, gắn miệng trước mắt người lớn, không được nói năng bừa bãi. Thanh niên Trung Quốc cũng rất mau hiểu ra lẽ đó, nên họ cũng không dám cứng đầu, cứng cổ mà điều khiển kế hoạch đổi mới xã hội, mà ngược lại còn phụ theo để chê bai, chỉ trích, vạch ra những cái trắc trở khó khăn và bằng cách như vậy họ bước vào xã hội của hạng người trưởng thành. Do đó các sinh viên tốt nghiệp ở Âu Mỹ về thì làm ngay nghề chế thuốc đánh răng, được mệnh danh là “thực nghiệp cứu quốc”; hay là dịch một vài bài thơ ngắn của nước Mỹ và gọi đó là “giới thiệu Tây dương văn hóa”. Lại còn vì phải gánh vác đại gia đình, phải giúp đỡ anh em trong họ tìm một chỗ ngồi. Nếu như anh ta giữ một chức trong ngành giáo dục, thì tình thế không cho phép anh ngồi yên ở cái ghế đó được, mà anh ta phải tìm ra một phương pháp nào để thăng chức, giả dụ như được thăng chức khoa trưởng một trường đại học, thì đó mới là phần tử tốt của gia đình. Cái quá trình ngỏng cổ lên trên mà leo đó, đã dạy cho con người đó những bài học vững chắc về cuộc đời và tình người. Nếu hắn vượt khỏi được những kinh nghiệm đó, mà vẫn còn là một thanh niên đầy nhiệt huyết, ngây thơ ở tuổi ngoài ba mươi, còn hăng hái chủ trương những việc cải cách để tiến bộ, thì không phải là một thằng rất ngu nổi hứng, thì cũng là một thiên tài loạn óc.
2. NHẪN NẠI
Nay lại xin nói đến ba đức tính rất ác liệt và trọng yếu: Nhẫn nại, thế nào cũng được, lõi đời khinh bạc. Những đức tính này do đâu mà nảy ra? Tôi tin rằng nó là kết quả của văn hóa và hoàn cảnh tạo ra. Những đức tính này không chắc hẳn là một bộ phận của tâm tính người Trung Quốc. Sở dĩ nó còn mãi đến ngày nay là vì chúng ta sinh tồn hàng vài ngàn năm chịu ảnh hưởng của nền văn hóa và xã hội nào đó. Nếu các ảnh hưởng đó được trừ bỏ đi, thì các phẩm tính đó cũng yếu kém rồi biến mất, đó là kết quả tự nhiên. Tính nhẫn nại là kết quả của vấn đề dân tộc tìm cách sống thích hợp với hoàn cảnh, ở một nơi nhân khẩu quá đông và áp lực kinh tế khiến người dân không còn đủ chỗ sống rộng rãi thoải mái phải chen chúc, thêm nữa lại do kết quả của chế độ gia tộc mà gia đình vốn là xã hội Trung Quốc thu nhỏ. Tính “thế nào cũng được”, một phần lớn cấu tạo ra bởi vấn đề tự do cá nhân thiếu hẳn sự che chở của pháp luật, mà pháp luật lại không có hiến pháp để bảo chứng và kiểm soát. Tính lõi đời thành khinh bạc khơi nguồn từ nhân sinh quan của người theo Đạo giáo, - danh từ “lão hoạt tiếu bì” lõi đời thành khinh bạc chưa đủ nêu rõ được nội dung huyền diệu của phẩm tính đó, nhưng cũng không tìm được từ ngữ nào thích đáng hơn để hình dung nó. Đương nhiên, ba phẩm tính nêu trên đều nẩy ra trong một hoàn cảnh, nhưng ta cho mỗi tính do một nguyên nhân khác nhau, là cốt để thấy rõ điểm đặc biệt của nó vậy.
Nhẫn nại là một tính tốt rất quan trọng của người Trung Quốc, không ai có thể nghi ngờ gì điều đó và nó cũng không có gì đáng để phê bình, bài bác. Thế mà trên thực tế, nó cũng có phương diện đáng phải phê bình và bài bác, hơn nữa có thể coi nó là một tính xấu. Nhân dân Trung Quốc đã từng nhẫn nại để chịu đựng những vua chúa tàn bạo, chính trị hà khắc, và tất cả bao nhiêu thảm sầu của những giai đoạn hỗn loạn vô chính phủ, sức chịu đựng này vượt hẳn người Tây phương, vả chăng họ còn cho rằng những thống khổ đó là một phần của tự nhiên, mà người Trung Quốc gọi nó là ý trời. Một miền ở tỉnh Tứ Xuyên, đã bị dự thu thuế luôn ba mươi năm, đóng một lúc, thế mà nhân dân ngoài việc chửi rủa ngấm ngầm, không thấy có một sức phản kháng nào. Nếu lấy sự nhẫn nại của tín đồ Cơ Đốc giáo đem so sánh với sự nhẫn nại của người Trung Quốc thì có thể còn coi là nóng nảy; tính nhẫn nại của người Trung Quốc có thể nói là trên đời này có một không hai, cũng như đồ sứ sản xuất vào niên hiệu Cảnh Thái (1450) của Trung Quốc đã được coi là độc nhất trên thế giới. Những nhà du lịch thế giới, thiết tưởng nên mang về một chút chất “nhẫn nại” của người Trung Quốc, cũng như họ đã mang đồ sứ đời Cảnh Thái về nước, bởi thật thà mà nói thì cá tính đó không đâu bắt chước hay làm giả được. Chúng ta chịu sự hà khắc, sưu cao thuế nặng của bọn vua chúa tàn bạo, như những con cá nhỏ bơi vào miệng con cá lớn, vì vậy có ý kiến cho rằng nếu sức chịu nhịn nhục đau khổ của chúng ta kém đi một chút, thì tai vạ ta phải chịu có lẽ chưa biết chừng cũng nhỏ bớt đi. Thế mà sức chịu đựng mài dũa này được đặt cho một cái tên gọi rất đẹp là “nhẫn nại”, rồi môn luân lý học của họ Khổng lại luôn luôn lấy sự nhẫn nhục chịu đựng làm một tính tốt nền tảng để dạy dỗ con người, thế thì biết làm sao. Tuy vậy chúng ta cũng phải nhận rằng nhẫn nại là một đức tính tốt lớn của người dân Trung Quốc. Chúa Cơ Đốc đã nói: “Đáng ban phúc lành: Ôn hòa, lương thiện, khiêm tốn, cung kính, chỉ có hạng người ấy mới có thể vâng mệnh nhận lấy thế giới này”; tôi dám tin hẳn rằng Trung Quốc đã lấy đức tính nhẫn nại mà vâng mệnh nhận khoảng đất rộng một nửa đại châu mà giữ được nó. Trung Quốc vốn coi nhẫn nại là một đức tính đáng được đề cao và tôn sùng; chúng ta có câu tục ngữ: “Tiểu bất nhẫn tắc loạn đại mưu” (không nhịn nhục ở điểm nhỏ, thời sai lầm trong mưu toan lớn).
Nơi trường sở tốt nhất để huấn luyện đức tính đó là dưới mái một đại gia đình, ở đó có một nhóm nàng dâu, em vợ, em rể, anh rể, cha già con bé, sớm chiều tập luyện mãi đức tính đó hết sức chịu đựng nhịn nhục nhau, trong một đại gia đình, không có chỗ nào riêng tư, không có đủ chỗ rộng rãi thoải mái cho cá nhân. Mọi người, trên thực tế vì nhu yếu cuộc sống và do sự dạy dỗ của cha mẹ từ lúc họ còn nhỏ, phải nhường nhịn lẫn nhau, cho thích hợp với sự liên hệ giữa người này với người kia. Nhưng ta cần phải biết rằng mỗi ngày những sự đụng chạm nhỏ nhặt cứ chất chứa, mài dũa, in sâu lần lần rồi ảnh hưởng đến cá tính của họ. Đời Đường gia đình tể tướng Trương Công Nghệ chín đời ở chung với nhau, được người đời rất khen ngợi. Một lần vua Đường Cao Tông có việc ở núi Thái Sơn, ngự giá ghé qua nhà ông, và hỏi lý do tại sao mà giữ được sự hòa mục như vậy. Trương Công Nghệ xin cho giấy bút rồi viết hơn một trăm chữ nhẫn dâng lên, nhà vua xem xong phải sa nước mắt rồi ban cho the lụa. Người Trung Quốc không cho đó là những uất ức buồn phiền do chế độ gia tộc gây ra, mà trái lại từ đời này qua đời khác đều khen nhà họ Trương là có phúc, mà chữ “bách nhẫn” đã trở thành một câu cách ngôn để đời; nó thường được viết trên giấy hoa tiên màu chu sa làm câu đối dán cửa trong dịp tết nguyên đán. Chỉ cần chế độ gia tộc tồn tại, và xã hội được xây dựng trên nền tảng đó, thì con người sẽ không phải là một cá thể độc lập, mà chỉ phát triển trọn vẹn khi là một phần tử sinh hoạt hài hòa trong những quan hệ của xã hội; do đó nó sẽ hiểu rõ ngay sự nhẫn nại tại sao được coi là một đức hạnh tối cao, mà hẳn phải nẩy ra do chế độ xã hội như vậy. Vì trong một hoàn cảnh xã hội như vậy, nhẫn nại có lý do tồn tại.
3. TÍNH THẾ NÀO CŨNG ĐƯỢC
Tính nhẫn nại của người Trung Quốc thật trên đời có một không hai, nhưng đến tính gặp sao hay vậy cũng được nổi tiếng từ lâu. Tính này tôi cũng cho là sản phẩm của hoàn cảnh xã hội. Dưới đây xin đưa ra một bằng chứng đối chiếu; câu chuyện thật ý vị, thật sâu xa, đáng để ta suy nghĩ. Chúng ta hãy đọc truyện Tom Brown’s schooldays trong văn học Anh quốc. Bà mẹ của Tom Brown lúc lâm chung dặn con rằng “Ngửa mặt, ngẩng đầu lên cao, lớn tiếng dõng dạc khi trả lời một người nào”. Bây giờ ta lại đưa ra lời di chúc truyền thống của các bà mẹ Trung Quốc để so sánh, các bà mẹ này dặn dò con cái rất kỹ càng rằng “Chớ bao giờ can dự vào công việc của xã hội”. Tại sao các bà mẹ này lại phải đinh ninh dặn con như thế? – Chỉ vì sống trong một xã hội mà quyền lợi của cá nhân không có pháp luật che chở một tý nào, chỉ có thái độ lãnh đạm tiêu cực, mập mờ ở giữa là an toàn và ổn thỏa hơn cả; đó cũng là điểm làm mọi người phải chú ý. Cái vi diệu của tôn chỉ này, người Âu Tây khó lòng nhận ra được.
Theo tôi nghĩ, thì thái độ “thế nào cũng được” không phải là một bản tính thiên nhiên trời phú cho người dân ở đây, mà nó là một sản vật lạ lùng do nền văn hóa của nước này tạo ra; nó cũng do sự trù liệu, suy nghĩ sâu xa của sự khôn ngoan trong hoàn cảnh đặc biệt thế giới cũ rèn luyện nên. Taine đã nói: “Thói xấu và đức tốt như một món được chế ra như đường và giấm”. Tuy không chấp nhận quan điểm tuyệt đối ấy, ta rất dễ đồng ý với lối nói rằng bất kỳ tính nết nào, nếu dễ dàng được người ta cho là tốt, thời nó rất dễ hấp dẫn mọi người rồi sẽ được khuyến khích trong xã hội, và cũng rất dễ được người ta chấp nhận thành một phần trong cuộc sống.
Người Trung Quốc có thái độ “thế nào cũng được” cũng như người Anh đối với cái dù vậy, vì gió mưa trên trường chính trị, đối với một cá nhân mạo hiểm tiến bước, thì sự nguy hiểm, ác liệt thế nào cũng đã có thể dự liệu mà biết được, nói một cách khác, ở Trung Quốc tính lãnh đạm, đã nêu rõ “giá trị thích ứng với cuộc sống” vậy. Thanh niên Trung Quốc cũng có một tinh thần đoàn thể không kém gì thanh niên Âu Mỹ; họ cũng nhiệt tâm tham gia vào các việc công cộng như tất cả thanh niên các quốc gia khác; nhưng đến lúc họ đã hai mươi lăm hay ba mươi tuổi thì họ trở nên khôn ra và bắt đầu biết lãnh đạm (chúng ta nói là “láu cá”). Trung Quốc có câu tục ngữ “mọi người hãy quét sạch tuyết ở trước cửa nhà mình, đừng bận tâm đến sương phủ trên mói ngói nhà khác. Tính lãnh đạm thật đã có sức giúp đỡ cho nết viên thục (ù lỳ) và sự giáo dục vậy. Có kẻ do trí khôn thiên bẩm mà láu cá; có kẻ vì can dự vào việc ngoài mà mắc vạ hay bị một vài lần thiệt hại mà láu cá ra. Bọn già thì đều một giọng là không rỗi hơi, rồi có thủ đoạn là mập mờ đứng giữa; nhân đó bọn hoạt đầu đều cho rằng thái độ đó là điều ích lợi khi xử sự ngoài xã hội – loại xã hội mà quyền lợi cá nhân không có gì che chở, loại xã hội mà vì lo rỗi hơi thành mắc vạ, một lần cũng đủ khổ rồi.
Tính thế nào cũng được có đủ “giá trị thích nghi với cuộc sống”, vì vậy nó nằm ngay trong sự thực ở trường hợp quyền lợi cá nhân không được che chở mà cá nhân lại dính líu vào việc công cộng, hay trường hợp kẻ lo rỗi hơi mà sốt sắng thì rất dễ mắc tai vạ. Như trường hợp Thiệu Phiên Bình và Lâm Bạch Thủy  - hai nhà ký giả rất có can đảm của chúng ta – năm 1926 bị bọn quân phiệt ở Mãn Châu bắn chết tại Bắc Kinh, mà chưa từng được xét xử một lần nào; thế là các ký giả khác học ngay cái triết lý “thế nào cũng được” mà trở nên láu cá. Mấy nhà ký giả thành công của Trung Quốc là những ký giả không có một chủ trương gì. Cũng như một nhóm văn nhân, thân sĩ của Trung Quốc, hay những nhà ngoại giao Âu Mỹ họ thường tự khoe là không có một chút thành kiến nào, dù là đối với những vấn đề nhân sinh, hay những vấn đề thời cuộc trước mắt, họ đều tỏ ra không có ý kiến gì. Họ có thể làm được gì? Khi mà quyền lợi cá nhân được che chở, chỉ phải coi chừng luật trị tội phỉ báng. Khi quyền lợi không được bảo vệ, thì bản năng tự tồn của chúng ta bảo rằng “đừng lo rỗi hơi” là cái bảo chứng tốt nhất cho tự do cá nhân.
Nói khác đi, tính thế nào cũng được không phải là một đức tính cao quý, mà nó chỉ là một thái độ xã giao, chỉ vì thiếu pháp luật che chở mà ta thấy nó là vật tất yếu; cái phương thực tự vệ này từ quá trình phát triển cho đến tác dụng có thể coi giống như con rùa có cái mai vậy. Trung Quốc nổi danh về cái nhìn vô tình, nhạt nhẻo, đó chẳng qua cũng chỉ là một cái nhìn có tính cách tự vệ, đã được dạy dỗ đầy đủ và công phu rèn luyện vậy. Chúng ta lại đưa ra một lệ chứng nữa để thuyết này càng thêm sáng tỏ. Bọn thổ phỉ, trộm cướp ở Trung Quốc, không cần sự che chở của pháp luật, cho nên họ không có những tính lãnh đạm tiêu cực, họ đã trở nên những tay nghĩa hiệp dưới mắt, trong lòng người dân Trung Quốc; họ là những người rất quan tâm đến công chúng, xã hội. Trong văn chương Trung Quốc hai chữ nghĩa hiệp gần như đi liền với chữ trộm cướp như trong pho Thủy Hử. Loại tiểu thuyết kẻ lại chuyện anh hùng thảo mãng rất được ưa chuộng ở Trung Quốc; nhân dân đều thích đọc những gì về thân thế và việc làm của loại anh hùng hào kiệt đó, như vậy là có ý gửi nỗi bất bình nào đó vậy. Cũng như Elinor Glyn (1864-1943) – nữ tiểu thuyết gia người Anh hoạt động tại Hoa Kỳ - mà được ưa chuộng là vì nước Mỹ còn vô số gái chết già. Kẻ có sức mạnh thường quan tâm đến công chúng, xã hội, bời vì họ nhận thấy sức họ có thể làm được vậy; đa số còn lại gồm toàn bọn người nhu nhược, thì có óc tiêu cực và lãnh đạm, vì bọn này phải trước tiên lo bảo vệ chính họ đã.
Xem trong lịch sử, những việc được ghi trong sử đời Ngụy, đời Tấn đủ để chứng minh cho điều này; lúc đó giai cấp trí thức im lặng không để ý gì đến việc nước, ý khí rất tồi tệ, thế là trong khoảng quay gót ngắn ngủi thế nước suy vi; miền Bắc bộ Trung Quốc rơi vào tay giống người Hồ. Đời Ngụy, Tấn bọn văn nhân, học giả trôi theo một phong khí là uống rượu, thanh đàm, rồi mê tín thuyết thần tiên của Đạo giáo tìm tòi những phương thuốc trường sinh bất tử. Thời đại này là thời đại nền chính trị của Trung Hoa tồi tệ nhất kể từ đời Chu, Hán về sau, giai đoạn cuối cùng của sự thoái hóa chủng tộc lúc đó, dần dần đứa đến thảm họa là lần thứ nhất bị dân tộc khác thống trị. Sự sùng bái thanh tĩnh đạm bạc ấy, có phải là bởi thiên tính của người đương thời nảy ra không, nếu không phải như vậy thì bởi nguyên nhân nào sinh sản và diễn biến ra nó. Lịch sử đã cho ta sự giải đáp, rất rõ ràng và xác đáng.
Vào khoảng cuối đời Hán, thái độ của học giả Trung Quốc không lãnh đạm tiêu cực, trái lại sự phê bình chính trị rất thịnh, lãnh tụ giới nho sinh và bọn học trò đại học có đến ba mươi nghìn người, thường đua nhau nghị luận về những lỗi lầm của chính trị, bới móc những gì thầm lén của người cầm quyền, cả gan công kích hoàng tộc và bọn hoạn quan, có khi động đến cả cá nhân nhà vua mà không cần kiêng kỵ. Sau chỉ vì không có hiến pháp che chở, cuộc vận động đó bị bọn hoạn quan áp bức, nghiêm cấm và kết thúc. Ngay lúc đó hai ba trăm học trò cũng gia tộc họ bị đem xử tử hay bị giam cầm, không thoát một người. Cái án này xảy ra vào khoảng năm 166-169 sau K.T., đây là một vụ đảng cố (bắt giam người có đảng) lớn trong lịch sự, rồi do tra khảo mà liên lụy rất rộng, ảnh hưởng rất to, bắt bớ hết những người tình nghi đến nỗi tất cả những người trong cuộc vận động đó đều bị chết yểu, khí thế ác liệt ảnh hưởng đến hàng trăm năm sau còn thấy. Vì thế nảy ra một phản ứng rồi biến thành thời thượng là sùng bái sự thanh tĩnh lãnh đạm. Phụ vào thói tục này là hành vi say rượu mê gái, làm thơ, làm đạo sĩ, bàn chuyện thần tiên. Có một vài vị  học giả lại vào rừng ẩn trốn, tự cất nhà bằng đất mà ở, không để cửa ngõ, đồ ăn uống đưa qua một cửa gỗ nhỏ, cứ sống như vậy cho đến chết; cũng có vị giả làm tiều phu, nài nỉ bạn bè thân thích đừng thăm viếng sợ bị lộ tung tích.
Sau đó, lại nẩy ra bọn Trúc lâm thất hiền (bẩy người hiền sống trong rừng trúc), bọn này được gọi là thất hiền vì họ đều là những thi nhân lãng mạn. Như Lưu Linh có thể uống rượu suốt tháng mà không say, ông thường ngồi xe hươu, đem theo một bình rượu, sai gia nhân vác mai, cuốc đi theo và dặn rằng: Ta chết đâu thì chôn ở đấy. Người dân lúc đó không lấy thế làm trái mắt, mà lại cho như vậy là khôn ngoan đạt lý, đồng thời còn có nhiều văn nhân có những phong khí nổi tiếng, như sống thô dã đến cực đoan, hay hoang dâm rất mực, hay hời hợt cùng cực. Nói riêng như đại thi nhân Nguyễn Hàm, ông thường tư thông với một thị tỳ. Một hôm ông vừa vắng nhà đến dự tiệc ở nhà một người bạn, đang lúc khách khứa rất đông, bà vợ ông ở nhà thừa cơ đuổi ngay thị tỳ đó đi. Nguyễn Hàm đang dự tiệc biết tin, đòi phải cho mượn ngựa ngay, đuổi kịp thị tỳ đó đèo về nhà mà không e dè gì trước mặt các tân khách; hành vi này thật quả là phóng khoáng. Thế mà những người này lại là hạng người được xã hội lúc đó hoan nghênh. Nhân dân hoan nghênh họ khác nào những con rùa bé khen con rùa lớn có bộ mai dày.
Những trường hợp đó đã khiến ta thấy rõ cái vạ của chính trị thối nát, và cũng nhận ra thái độ tiêu cực “thế nào cũng được” bởi đâu mà ra, thái độ lãnh đạm tiêu cực này đã phải chịu biết bao nhiêu cười cợt, trào phúng của các cường quốc trên thế giới hiện nay, vì họ cho rằng nguyên do nết xấu này bởi “người Trung Quốc vô tổ chức”. Nhưng xét kỹ, môn thuốc hay để chữa bệnh này thật đơn giản, chỉ cần sao nhân dân được luật pháp che chở cho quyền lợi công dân của họ là đủ rồi, nhưng thật ra chưa ai nhận ra điểm đó. Không người nào mong mỏi làm việc này mà cũng không người nào thành thực hết lòng cầu nó.
4. LÕI ĐỜI
Chẳng có gì ngăn trở, chúng ta cứ tùy tiện nói tiếp, tại sao bản tính người Trung Hoa rất giàu tính chất kích thích? Thảng thốt không tìm ra được một danh từ thích đáng, vậy ta hãy tạm gọi nó là “Lão hoạt tiếu bì” (bợm già đóng kịch). Đức tính này khó có thể dùng lời nói để giảng cho người Tây phương hiểu rõ được mà thực nó là một đặc tính rất lạ lùng, kỳ diệu, bởi nó trực tiếp bắt nguồn ở một căn bản khác hẳn với triết học nhân sinh của Tây phương. Nếu đem nhân sinh quan của hạng người “đóng kịch” ra so sánh với cơ cấu văn minh của người Tây phương, thì có thể thấy rõ văn minh của Tây phương hãy còn thô suất hoàn toàn chưa thể gọi là thành thực được. Ta hãy thử thí dụ: Một buổi tinh mơ vào tháng chín, gió thu đã có chiều rét buốt, một chàng thanh niên khỏe mạnh, rảo bước đến trước mặt ông nội anh ta với vẻ mặt cao hứng, khoác tay vào ông cụ nâng đứng dậy, rồi nhất định mời ông cụ cùng đi tắm biển với anh ta, ông cụ lấy làm khó chịu cự tuyệt ngay lời mời, anh chàng trẻ này có vẻ hơi khó chịu, nhịn không nổi lộ vẻ mặt giận dỗi, còn ông già thì cứ bình tĩnh mỉm cười vui vẻ, nụ cười này là nụ cười đóng kịch. Như vậy ai cũng có thể biết trong hai người đó, người nào phải. Tất cả những bồng bột thiếu trầm tĩnh của tính người thanh niên đưa đến đâu? Và tất cả những hứng khởi, tự tín, lấn cướp, chiến tranh, chủ nghĩa quốc gia quá khích sẽ đưa đến đâu? Tất cả cái đó để làm gì? Trước những vấn đề này mà tìm giải đáp thật vô ích; ép buộc phe này phải chấp nhận ý kiến của phe kia, cũng lại vô ích như vậy; bởi tất cả mọi khía cạnh đều thuộc vấn đề tuổi tác cả.
Trở nên, “lõi đời khinh bạc” là bởi người đó đã trải quá nhiều tình cảnh và mùi vị cuộc đời, họ trở nên có óc thực lợi (ích lợi thực sự). tính lãnh đạm và hoài nghi. Đứng về phương diện hay của tính “lõi đời” mà nói thì tính này đã khiến ta dễ chịu, vui vẻ hòa dịu, nó cũng khiến một số lão già lừa dối được bọn con gái ưa lấy họ. Giả sử có giá trị gì là ở chỗ nó dạy người ta nên lấy hòa khí, êm ái mà sống. Người Trung Quốc đã đi tới quan điểm này , không phải do sự phát giác ý nghĩa thánh thiện của tôn giáo mà bởi sự quan sát sâu xa, rộng rãi vì thế sự thăng trầm. Cái quan niệm triết học láu lỉnh đó có thể thấy rõ điển hình của nó trong lời đối thoại giữa hai vị thi tăng đời Đường.
Một hôm, Hàn Sơn bảo Thập Đắc rằng: “Nay có người lấn áp ta, khinh rẻ ta, dùng nụ cười như để cợt ta, liếc mắt để nhìn ta, hủy hoại ta, gây thương tích cho ta, hiểm ác, oán hận ta, dối trá đánh lừa ta, thời ta làm thế nào?”. Thập Đắc trả lời rằng: “Anh hãy nhẫn nhục mà chịu, chiều theo ý hắn, kính cẩn hắn, tránh xa hắn, cố nén lòng mà nhịn hắn, giả điếc giả câm, im lặng mặc hắn. Vài năm nữa, anh sẽ chỉ cần nhìn xem hắn thôi”.
Cái tinh thần của Lão tử này thường qua nhiều hình thức, luôn luôn xuất hiện trong văn, thơ, tục ngữ nước ta, muốn lấy thí dụ, thì nhặt ở đâu cũng được, như những câu “tam thập lục trước, tẩu vi thượng trước” (ba mươi sáu kế, chạy là kế hơn cả), “quai nhân bất ngật nhỡn tiền khuy” (kẻ láu lỉnh không chịu thiệt thòi trước mắt), “thoái nhất bộ trước tưởng” (tính toán lui lại một bước) “phụ nhất tử nhi thắng toàn cục” (thua một con, nhưng thắng cả ván), tất cả đều do một nguồn gốc của thái độ trên. Những thái độ để ứng phó với cuộc sống đó, đã thấm nhập hoàn toàn vào cơ cấu tư tưởng của Trung Quốc, vì thế đời sống đầy những ý nghĩa “đo đắn kỹ càng” “ba mươi sáu kế”, tính chất cứng rắn dần dần mất hết, để biến thành hoàn toàn viên thục (ù lỳ chín chắn) đó là điểm đặc biệt của văn hóa Trung Quốc.
Đứng trên phương diện tồi tệ nhất mà nói, lõi đời là sự khôn ngoan rất mực của Trung Quốc – đã ngăn trở lý tưởng và hành động. Nó đập tan hết mọi nguyện vọng đổi mới, nó chê bai mọi nỗ lực của con người và cho rằng đó chỉ là uổng phí tâm cơ, nó đã khiến người Trung Quốc mất hết lý tưởng và năng lực hành động. Nó dùng một phương pháp thần diệu làm giảm sút mọi hoạt động của con người đến mực chỉ cần no bụng và những gì cần thiết cho một sinh vật. Mạnh tử là một nhà “lõi đời” (đại tiếu bì gia) khi ông nếu rõ rằng điều mong muốn nhất của con người là ăn, uống và đàn bà, ông nói ăn uống, trai gái là bản tính vậy (thực, sắc, tính dã). Cố Tổng Thống Lê Nguyên Hồng cũng là một vị “lõi đời”, vì hiểu sâu xa cách ngôn chính trị của Trung Quốc khi đưa ra nguyên tắc hòa giải đảng tranh: “Có cơm tất cả cùng ăn” (Hữu phạn đại gia ngật). Lê tổng thống đã là một nhà thực tế mà ông không tự biết. Ông đã nói một câu khôn ngoan quá, chính ông cũng không ngờ, là vì ông đã nói rõ được bối cảnh kinh tế của hiện đại sử Trung Quốc. Lấy con mắt nhà kinh tế để giải thích lịch sử, cũng như phái Emile Zola lấy môn sinh lý học để giải thích đời sống con người thì ở Trung Quốc đã có từ lâu, ở Zola thì là một “mốt” trí thức, ở chúng ta là ý thức quốc gia”. Ở Trung Quốc người là không phải học để thành thực tế, người ta sinh ra đã là một thực tế rồi. Lê Nguyên Hồng không phải là một chuyên gia nổi danh dùng sức óc để nghiên cứu, nhưng vì ông là người Trung Quốc, ông biết rằng mọi vấn đề chính trị ở đây không ngoài vấn đề bát cơm; vì ông là người Trung Quốc nên ông đã tìm được một giải thích tinh vi, sâu sắc cho vấn đề chính trị của Trung Quốc.
Thái độ lãnh đạm ưa thực lợi này đặt nền tảng trên một nhân sinh quan rất tài tình, huyền diệu ái nhân sinh quan đó chỉ có hạng người già cả tạo thành và một dân tộc già cả lão thành mới hiểu rõ được mọi phần bí yếu, hạng thanh niên chưa đầy ba mươi tuổi không sao hiểu rõ được, vì vậy những dân tộc còn thanh niên ở Âu Mỹ cũng không thể hiểu rõ nó. Cho nên người viết ra Đạo Đức kinh là Lão tử, sở dĩ ông có cái tên như vậy cũng không phải là điều ngẫu nhiên vậy. Cũng có một số người cho rằng, bất cứ kẻ nào cứ đến tuổi ngoài bốn mươi là biến thành một anh dối trá, không kể hạng người nào, chúng ta tuổi càng cao càng coi nhẹ thể diện, điều này thật không thể phủ nhận được. Các cô gái xấp xỉ hai mươi, thì không thể hiểu mục đích lấy chồng vì tiền, nhưng các cô, các bà đến tuổi bốn mươi thì đều nhận rõ ra mục đích vì tiền mà lấy chồng – Bọn họ mượn cớ là nhờ vậy mà được yên ổn vững vàng. Trong thần thoại Hy Lạp có câu chuyện ý nghĩa gần như vậy, mặc dầu nội dung có vẻ bịa đặt hoang đường; truyện rằng: Có chàng thanh niên tên Icarus chỉ vì anh ta bay cao quá đến nỗi bộ cánh bằng sáp ong tan mất, anh bị rơi xuống đại dương. Còn ông già Dacdalus thì chỉ bay là là, thấp thấp, nên được yên ổn về tới nhà. Khi người đã nhiều tuổi, người ấy phát triển ra cái tài tình bay thấp, mà lý tưởng của nó đã dịu đi bằng cái khôn ngoan thông thường mà lạnh nhạt, bình tĩnh và thận trọng, cũng như có ý nghĩa về giá trị đồng bạc, đồng cắc. Thực lợi chủ nghĩa vì vậy trở nên đặc tính của thanh niên. Đến tuổi ngoài bốn chục, mà con người nào vẫn không trở nên một “đồ tồi”, thì có thể nó là một kẻ ngu dại hay là một thiên tài. Trong thiên tài này có những “bé bự” như Tolstoy, Robert Louis Stevenson, Sir James Barrie, họ có bản chất ngây thơ do bẩm tính, tính ngây thơ hòa hợp với kinh nghiệm trong đời sống, khiến họ giữ mãi được tác phong trẻ trung mà chúng ta gọi đó là “bất hủ”.
Nói tóm lại tất cả cái đó đều nằm trong triết lý Đạo gia, từ lý luận cho đến thực tế; bởi lẽ nếu ta nhặt hết những sách triết lý nhân sinh tiếu bì (đóng kịch) ở khắp thế giới, cũng không thể có một pho thứ hai ngắn ngủi nhưng trước tác tinh vi, sâu xa như quyển Đạo đức kinh. Trên phương diện lý luận và thực tế triết học của Đạo gia là một thứ lãnh đạm có tính cách khinh bạc, tròn nhẵn, mà cũng là thứ hoài nghi chủ nghĩa có tính cách sâu xa kín đáo và hủ bại, nó chê bai, giễu cợt sự phí công nhọc sức tranh giành, xung đột của nhân loại, nó cười cợt mọi cái thất bại của chế độ, pháp luật, chính phủ, hôn nhân, thêm vào nó còn có chút ít không tin cậy vào chủ nghĩa lý tưởng, lòng không tin cậy đó có thể cho là bởi sự thiếu đức tin, thì đúng hơn cho là bởi thiếu nghị lực. Nó là loại triết học đối nghịch với chủ nghĩa thực nghiệm của Khổng tử, mà đồng thời nó lại là một nắp an toàn cho những thiếu sót của một xã hội theo Khổng giáo. Bởi vì, Khổng tử lấy con mắt tích cực để nhìn cuộc sống, mà Đạo gia trái lại, dùng con mắt tiêu cực, bởi hai nguyên tố khác hẳn về căn bản đã hun đúc mà nẩy một cái bất hủ là đức tính dân tộc Trung Quốc.
Bởi thế gặp lúc hanh thông, thuận lợi thì mọi người Trung Quốc đều là người của chủ nghĩa Khổng tử, như khi thất bại thì mọi người đều là người của chủ nghĩa Đạo giáo. Chủ nghĩa Khổng tử ở trong chúng ta là nỗ lực kiến thiết và cần lao, chủ nghĩa Đạo giáo, là bó gối ngồi xem và cười tủm tỉm. Chỉ vì vậy nên những bậc văn nhân của Trung Quốc khi còn tại chức thì giảng dạy đức hạnh, lúc nhàn cư thì ngâm vịnh túy tình, thường trước tác nhiều thứ phú có tư tưởng Đạo giáo. Đến đây đã cho ta biết tại sao phần lớn văn nhân Trung Quốc hay làm thơ, và tại sao đa số các tập văn chương thường phần lớn hay hơn cả, là thơ.
Tư tưởng Đạo gia như chất morphine, nó có một tác dụng tê mê, ngây ngất thần bí, nên nó đã khiến con người cảm thấy thư thái, dễ chịu khác thường. Nó chữa căn bệnh đau tim, nhức đầu của người Trung Quốc. Những tư tưởng lãng mạn, những ý thơ mộng những tư tưởng sùng bái thiên nhiên của Đạo giáo gặp thời loạn đã làm nhẹ nhõm tâm hồn một số lớn người Trung Quốc, cũng như học thuyết Khổng tử đã lập công trong thời đại thái bình thịnh trị. Như vậy, gặp khi thể xác phải chịu đau đớn thì Đạo giáo đã vì linh hồn người Trung Quốc chuẩn bị một đường lối rút lui an toàn và một liều thuốc chỉ thống (hết đau). Lối thơ đơn thuần tư tưởng Đạo giáo, đã có sức khiến người ta chịu đựng nổi nếp sống nghiêm nghị vốn là điển hình của Khổng giáo; còn những tư tưởng lãnh mạn của nó cũng cứu giúp được nền văn học Trung Quốc nhưng khi rơi vào lề lối ca tụng “thánh đức” (ca tụng vua chúa), hay nhặt nhạnh những tư tưởng vô ý nghĩa để dạy đời về đạo học (Tống nho giảng tính lý). Tất cả những tác phẩm văn chương ưu mỹ của Trung Quốc đáng được mọi người đọc, có khả năng thỏa mãn trí tuệ và xoa dịu tâm tư thì đều nhuộm sâu tinh thần Đạo giáo. Tinh thần Đạo giáo và tinh thần Khổng giáo là hai cực Âm, Dương của tư tưởng Trung Quốc, sinh mệnh dân tộc Trung Quốc cũng nhờ đó mà hoạt động vậy.
Nhân dân Trung Quốc do tính thiên bẩm gần với tư tưởng Lão, Trang hơn là do giáo dục làm cho họ gần với tư tưởng Khổng tử. Với tư cách một dân tộc chúng ta đủ lớn lao để soạn ra một bộ pháp điển đặt căn bản trên quan niệm công lý tinh túy, mà cũng đủ lớn lao để có thể bất tín nhiệm luật sư và pháp đình. Chín mươi lăm phần trăm những vụ tranh tụng đã được giải quyết ở ngoài pháp đình. Chúng ta đủ lớn lao để có thể chế định được điển lễ rất tinh tế, nhưng thực ra chúng ta vẫn chỉ coi nó như một trò hề trong cuộc sống, có những bữa ăn uống, những hoạt động nhộn nhịp trong tang lễ của người Trung Quốc chính vì lẽ đó. Chúng ta đủ lớn lao để có thể chê bai trách mắng mọi nết xấu, mà cũng có thể thấy những gì xấu xa mà lạ lùng bối rối. Chúng ta đủ lớn lao để có thể phát động liên tiếp những cuộc cách mệnh, nhưng cũng có thể thỏa hiệp và khôi phục lại chế độ chính trị cũ vốn có. Chúng ta đủ lớn lao để tổ chức đàn hạc làm hoàn bị chế độ quan lại, quy tắc giao thông, điều lệ người công dân phải gánh vác, quy tắc đọc sách tại thư viện, nhưng chúng ta cũng đủ lớn lao để phá hoại tất cả mọi điều lệ, chương trình, chế độ, có thể không thèm nhìn nhận cái gì, có thể dối trá, giả mạo, bướng bỉnh và cũng có thể có những thái độ vượt lên trên nó. Chúng ta không phải giảng dạy thanh niên ở các trường đại học khoa học chính trị, bảo họ những điều lý tưởng về việc quản lý hành chính, mà thường chỉ cho họ biết việc hành chính ở một huyện, một tỉnh hay chính phủ trung ương trên thực tế phải làm việc thế nào. Những lý tưởng không thiết thực đối với chúng ta đều không cần dùng, vì chúng ta không thể chịu đựng được những không tưởng của môn thần học. Chúng ta không chỉ dẫn thanh niên để họ trở thành con cháu Thượng đế, nhưng phải làm cho bọn họ từ lời nói đến việc làm bắt chước thánh hiền để thành những con người bình thường và lành mạnh. Bởi vậy tôi tin chắc rằng bản chất Trung Quốc là “Duy nhân”, Cơ Đốc giáo chắc chắn thất bại ở Trung Quốc, nếu không muốn như vậy thì nó cần phải thay đổi nhiều về nội dung, giáo lý của Cơ Đốc Giáo được người Trung Quốc thành thực tiếp nhận một phần nào là vì trong những lời răn dạy có những điều sau đây, cần “hiền lành như chim bồ câu” và “linh mẫn như rắn”. Hai đức tính: nhân từ như chim bồ câu, tinh khôn như rắn, đó là hai đặc tính liên thuộc của tính “lõi đời”.
Tóm lại, chúng ta vẫn thừa nhận sự cố gắng của con người là điều cần thiết, nhưng chúng ta cũng cần nhận rõ sao hỏng của nó. Trong trạng thái tâm lý phổ thông, bao giờ cũng có một khuynh hướng, là phát triển một cách bị động trí khôn tự vệ (việc lớn thành việc nhỏ, việc nhỏ hóa ra  không có gì) (đại sự hóa tiểu sự, tiểu sự hóa vô sự), theo cái nguyên tắc cơ bản ấy, nên tất cả mọi người Trung Quốc dù tranh luận cái gì cũng chỉ qua loa mà thôi; tất cả mọi cương lĩnh, kế hoạch của những việc lớn đều có thể sửa đổi, tất cả mọi phương châm, dự án cách mệnh đều có thể cắt xén bỏ bớt, cốt sao cho yên ổn và tất cả đều có cơm ăn. Chúng ta có câu tục ngữ là “thêm lên một việc, không bằng bớt đi một việc” ý nghĩa câu này cũng như câu “đừng thêm việc”, “đừng đánh thức con chó đang ngủ”.
Sự sinh hoạt của con người di chuyển trên con đường ít tranh đấu nhất và ít kiên cố nhất. Do đó nảy ra một thứ tâm lý hiếu tĩnh, khiến con người chịu đựng tất cả những khinh khi, nhục nhã để sống điều hòa với vũ trụ. Tâm lý ấy cũng phát sinh ra được những chiến thuật phòng thủ, có lúc lại còn đáng ghê sợ hơn chiến thuật xâm lược. Khi một người vào quán cơm, bụng đói réo từng hồi, nhưng đợi mãi không thấy món ăn đưa lên; ruột sót như cào, nóng như đốt, lúc đó tất phải giục anh bồi bàn; nếu anh bồi bàn có thái độ thô lỗ thiếu lễ phép, thì phải mách ông quản lý để ông ta mắng hắn; nhưng nếu người bồi bàn cứ trả lời bằng một giọng cung kính rằng “đang lên, đang lên”, mà thân thể anh ta không chuyển động một bước, thì khách ăn cũng không còn biện pháp nào nữa, đành khấn trời giúp cho, hoặc chửi rủa một vài câu nhưng vẫn bằng cái giọng rất văn nhã. Xem tình hình đó đủ thấy rõ sức tiêu cực của người Trung Quốc đến mực nào, một sức mạnh mà ai đã chạm phải mới biết phục nhất. Nó chính là cái mạnh của kẻ lõi đời vậy.
5. TÍNH HIẾU HÒA
Trên đây ta đã nói về ba đức tính rất ác liệt, nó đã làm tê liệt không thể hành động có tổ chức được. Những đức tính đó phát xuất từ một nhân sinh quan, mẹo mực khôn ngoan, tròn trặn chín chắn, nhất là thái độ lạnh lùng chịu đựng. Tuy vậy nhân sinh quan đó cũng rõ ràng không phải không có đức tính tốt có giá trị, đức tính tốt đó là đức tính của một dân tộc già, không ham muốn xưng bá trên thế giới này, mà chỉ là một dân tộc mắt nhìn thấy biết bao nhiêu biến cố ở đời, họ đối với cuộc sống không có những hy vọng gì lớn lao, cuộc sống không kể cay, ngọt, đắng, chát gì đi nữa họ đều vui vẻ chấp nhận, họ giữ vững một tôn chỉ, là sống vui vẻ cho hết kiếp trong phạm vi số phận trời đã ban cho mình.
Dân tộc Trung Hoa đã già dặn với thói đời. Sự sinh hoạt của nó không có gì là hão, không giống môn đồ Cơ Đốc tự xưng sống để mà tìm tốt đẹp cho chết, mà cũng không giống các nhà tiên đoán Tây phương mong tìm đòi đến một thế giới chân thiện mỹ không tưởng. Họ chỉ nghĩ sao cho được yên ổn cái mạng sống hiện tại, mạng sống thật là chứa chất đầy những thống khổ, ưu sầu, họ hiểu rõ lắm; họ mong được yên ổn và làm ăn, quảng đại mà chịu đựng, cốt sao được sống vui vẻ sung sướng. Còn những đức tốt mà người Tây phương quý trọng như: quý phái, chí khí lớn, hăng say đổi mới tinh thần cộng đồng, ý chí tiến thủ hay dũng khí anh hùng, người Trung Quốc thiếu hẳn tất cả. Người Trung Quốc không thích leo núi Mont Blanc hay thám hiểm Bắc cực; mà chỉ cảm thấy hứng thú ở cái thế giới tầm thường này, bởi họ có một sức nhẫn nại không bờ bến, không lẩn trốn mọi gian lao, một lòng giữ tròn trách nhiệm và cố gắng, tính suy tư thận trọng, tinh thần vui vẻ, khí độ rộng rãi, tính tình hòa bình đó là những bản năng không ai sánh kịp, mà chỉ chuyên làm sao cho thích hợp với hoàn cảnh gian nan để tìm ra hạnh phúc, chúng ta gọi đó là trí túc (an phận) đó là một tính đặc thù của người Trung Hoa làm cho cuộc sinh hoạt bình thường, giản dị có một cảm xúc vui vẻ êm đềm. Nhất là tính hiếu hòa và khoan dung nó là dấu hiệu của nền văn hóa chín chắn không có ở Âu châu.
Nhìn cảnh tượng Au châu hiện nay, chúng ta có lúc thấy rằng họ buồn phiền vì chưa lỗi lạc được như ý, chứ không phải họ buồn phiền vì không đủ khôn ngoan, chín chắn. Cũng có lúc lại thấy rằng Âu châu sẽ có một ngày kia vượt qua cái tuổi trẻ trung nóng nảy và thời kỳ phát triển quá mạnh của trí thức. Khoa học tiến bộ theo đà này, nếu trải qua một thế kỷ nữa, thế giới càng hẹp lại, càng gần nhau, người Âu châu sẽ phải tập có thái độ khoan dung hơn đối với cuộc sống và phải nhường nhịn giữa con người với nhau, để tránh khỏi cái vạ cùng đi đến chỗ tuyệt diệt. Họ sẽ cho rằng thà mất đi một chút khí thế phồn thịnh mà thêm lên một chút chín chắn già dặn có lẽ còn hơn. Tôi tin rằng sự thay đổi thái độ đó sẽ không phải do lý thuyết huy hoàng nào tạo ra mà do bản năng tự tồn mà có được. Đến đây, người Âu Mỹ có lẽ mới giảm bớt sự cố chấp tự tín, mà có thêm sức khoan dung. Bởi thế giới đã gần lại với nhau và có nhiều sự ràng buộc, tất phải có sự chịu đựng lẫn nhau chút ít. Họ sẽ bớt ham tiến thủ đi một chút và sẽ mong mỏi hiểu đời sống hơn chút nữa. Tiếng nói của Lão tử, con người cưỡi trâu xanh ra khỏi cửa quan Hàm Cốc, sẽ truyền bá rộng hơn.
Theo quan điểm của người Trung Quốc mà nhìn nhận, hiếu hòa không phải là một cái gì cao quý và đáng sùng bái, chẳng qua nó cũng chỉ là một đức tính khả thủ, bởi nó là một sự khôn ngoan thông thường của mọi người. Ví bằng cái sinh mệnh của hiện thế là tất cả sinh mệnh chúng ta có được, thì nếu chúng ta muốn được sống yên vui, tất mọi người đều phải có óc hòa bình một chút. Theo quan điểm như vậy thời ý nghĩa cố chấp và tinh thần hoạt động bồn chồn của người Âu Mỹ chỉ đáng coi là dấu hiệu của tuổi trẻ thô lỗ mà thôi. Người Trung Quốc thấm nhuần trong quan niệm triết học Đông phương, đã thấy rõ cái đức tính thiếu chín chắn đó rồi sẽ hết khi Âu châu trưởng thành. Bởi vì cái triết học Đạo gia rất tinh khôn sống động kia, kỳ quặc thay! Ở bất cứ chỗ nào cũng thấy liên từ “dung nhẫn” (chịu đựng) hiện ra. Dung nhẫn là một đặc tính lớn nhất của văn hóa Trung Quốc mà nó cũng sẽ trở thành một đức tính lớn nhất của văn hóa thế giới hiện nay, khi nào nền văn hóa đó trưởng thành. Muốn rèn luyện để trở nên dung nhẫn, bạn cần phải có một chút khí khái khinh thế ngạo tục (coi thường đời và bất chấp thói thường) và âm uất (uất ức âm thầm) là điển hình của Đạo gia. Con người thẳng thắn khinh thế ngạo tục là con người rất nhân từ trên thế giới, bởi nó đã trông rõ cái hư không của đời người, bởi cái nhận thức “hư không” đó, mà sinh ra tấm lòng thương xót bao la cả vũ trụ này.
Hiếu hòa cũng là vấn đề hiểu rõ con người đến cao độ. Một người nếu nó hơi biết khinh thế ngạo tục thì khuynh hướng hiếu chiến ở nó sẽ giảm đi, như vậy là nguyên nhân khiến tất cả những con người thông minh đều trở nên nhút nhát. Người Trung Quốc là những chiến sĩ kém nhất thế giới, chỉ vì nó là một giống người thông minh được giáo dục bằng tư tưởng khinh thế ngạo vật của Đạo giáo hòa hợp với sự cổ lệ tích cực lý tưởng hòa đồng của Khổng giáo. Dân tộc này không thích chiến tranh, vì trong loài người nó là phần từ tính toán nhất và vị kỷ nhất thế giới. Một đứa trẻ con Trung Hoa cũng có thể biết những điều mà những nhà chính trị bạc đầu của Âu châu chưa nghĩ tới, đó là: đánh nhau thì không chết cũng què cụt dù là một quốc gia hay là một cá nhân. Hai người Trung Quốc tranh chấp nhau là dễ can nhất. Cái triết học tính toán kia dạy họ thong thả mới tranh chấp và mau tiến tới thỏa hiệp. Triết lý viên thục lão luyện và tiếu bì đã dạy người Trung Quốc biết nhẫn nại, khi gặp cảnh khốn khổ, loạn lạc thì nảy ra một sức đề kháng tiêu cực, nó cũng răn bảo phải đề phòng cái hiếu thắng nhất thời và tự đắc lúc thành công. Trung Quốc có câu châm ngôn khuyên răn nên khiêm tốn và dè dặt là: “Tiền tài bất khả dụng khánh” (phúc phận không nên hưởng hết). Quá độc đoán hay quá lợi dụng địa vị cá nhân thì người ta gọi là “phong mang thái lộ” (mũi bén nhọn thò ra rõ quá), phong mang thái lộ là điều người đời cho là hành vi thô bỉ mà cũng là triệu chứng báo hiệu sự suy sụp. Nước Anh có câu tục ngữ được mọi người cho là rất đúng và thường xử sự theo đó, là “đừng đánh kẻ đã ngã”, câu này phát xuất từ tâm lý tôn trọng sự cạnh tranh đường đường chính chính. Trung Quốc cũng có câu ngạn ngữ ý nghĩa gần như vậy: “Đừng dồn ai vào chân tường” cũng là câu thuần túy do giáo dục mà có; chúng tôi gọi đó  là “công phu hàm dưỡng”.
Cho nên lấy con mắt người Trung Quốc mà nhìn thì hòa ước Versailles chẳng những là không công bình mà còn có chỗ thô bạo, thiếu tính cách hàm dưỡng. Giả thử người Pháp trong khi chiến thắng có một chút tinh thần Đạo giáo, hẳn không cưỡng ép việc ký hòa ước này, thì đến ngày nay đầu họ có thể yên ổn trên gối. Chỉ vì người Pháp non nớt thiếu chín chắn, mà kẻ ở địa vị thắng người Đức cũng vậy, cả hai bên không bên nào giác ngộ thành ra cùng lầm lẫn, tưởng rằng sẽ vĩnh viễn trấn áp được đối phương dưới gót sắt của mình. Thật chỉ tại ông Clémenceau không đọc qua Đạo Đức kinh mà nay Hitler cũng vậy. Vậy thì hai bên cứ đánh nhau đi còn bọn môn đồ Lão, Trang khoanh tay nhìn cảnh tượng đó mà mỉm cười.
Tính ưa hòa bình của người Trung Quốc phần lớn do bản chất thiên nhiên và do sự hiểu rõ con người. Việc trẻ con Trung Quốc đánh nhau ở ngoài phố ít xảy ra hơn so với trẻ con Âu Mỹ. Với tư cách một dân tộc, chúng tôi cũng đánh nhau tương đối ít thôi, mặc dầu nội chiến liên miên. Nếu đặt địa vị người Mỹ sống dưới một chế độ chính trị hủ bại như chúng tôi, thì trong khoảng hai mươi năm vừa qua, ít nhất cũng phải có đến ba chục cuộc cách mạng chứ không phải chỉ có ba. Xứ Ái Nhĩ Lan hiện tại được yên ổn, là vì dân Ái Nhĩ Lan đã chiến đấu dữ dội; chúng tôi hiện nay vẫn còn đang đánh nhau là bởi chúng tôi chiến đấu không được dữ dội lắm.
Trên sự thức những cuộc nội chiến ở Trung Quốc không đúng với ý nghĩa hai chữ chiến tranh. Cho đến gần đây nội chiến không bao giờ được đề cao. Không có nghĩa vụ quân dịch ở xứ này; những binh sĩ đem thân ra chiến trường phần nhiều là những người dân nghèo đói, không có cách gì kiếm được miếng ăn. Những binh sĩ đó vốn không thích tác chiến. Còn bọn tướng thì rất ham chiến tranh, vì họ không phải đích thân ra chiến trường. Mấy phen nội chiến lớn, kẻ thắng trận đều nhờ vào tiền bạc của ngoại quốc, mặc dầu vị đại tướng thắng trận uy phong lẫm liệt khải hoàn trong tiếng đại pháo nổ long trời dậy đất. Những tiếng súng lớn vang dậy khi vị đại tướng khải hoàn là biểu thị tiếng vang chiến tranh, nó là điển hình từ trước đến nay vẫn thế, bởi ở Trung Quốc khi những tư nhân đánh nhau, cãi nhau hay những nhà quân phiệt gây ra nội chiến thì những tiếng động ầm ầm đó là phần chính của cái được gọi là chiến tranh. Người ta không được nghe chiến tranh mà thôi. Tôi đã hai lần được “nghe thấy” chiến tranh theo lối đó, một lần ở Bắc Bình, một lần ở Hạ Môn. Kể cũng đã thích tai. Thông thường phía quân đội mạnh thường uy hiếp tinh thần mà đẩy lui phía quân đội yếu, ở Âu châu thì tình trạng chiến tranh này thường kéo dài ra thành một chiến dịch, nhưng ở Mỹ quốc thì chỉ độ một tháng là kết thúc. Tướng thua trận thường được đãi ngộ theo lý tưởng công bình cổ truyền của Trung Quốc, là cấp cho độ mươi vạn đồng hoa viên để chi phí cho một cuộc Âu du khảo sát vè thực nghiệp; đối xử như vậy là bởi kẻ chiến thắng đã hiểu rõ những bí yếu của lẽ tuần hoàn; biết đâu một lần nội chiến khác mình chẳng phải nhờ cậy vào tài cán của kẻ chiến bại này. Mà rồi đúng như vậy, một phen thời cuộc lại thay đổi, thì mười lần có đến tám chín lần ta lại trông thấy kẻ chiến thắng và kẻ bại trận trước kia lại ngồi cùng xe với nhau như anh em kết nghĩa vậy. Đó là điểm “kỳ diệu” của thuật hàm dưỡng Trung Hoa. Tình trạng ấy rõ ràng không được can dự gì đến nhân dân, quả thực dân rất ghét chiến tranh; họ bao giờ cũng ghét chiến tranh. Những người dân tốt của Trung Quốc thường không bao giờ can dự vào chiến tranh, bởi lẽ “Thép tốt không làm đinh, người tốt không làm lính”. (Hảo thiết bất đả đinh, hảo nhân bất đương binh).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét