XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Tư, 19 tháng 10, 2016

ĐÚC KẾT KINH NGHIỆM DÂN MIỀN TRUNG VIỆT NAM TRONG VIỆC PHÒNG, TRÁNH THIÊN TAI



 (VACNE) - Miền Trung Việt Nam là khu vực có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, chịu nhiều ảnh hưởng của các loại hình thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới; lũ lụt; hạn hán; rét đậm, rét hại… đã và đang tác động và gây thiệt hại nghiêm trọng đối với sản xuất, tài sản, sức khỏe, đời sống… của cộng đồng người dân miền Trung.

PGS.TS. Lê Văn Thăng, ThS. Nguyễn Đình Huy,
ThS. Hoàng Ngọc Tường Vân
Viện Tài nguyên và Môi trường - Đại học Huế
1. MỞ ĐẦU
Miền Trung Việt Nam là khu vực có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, chịu nhiều ảnh hưởng của các loại hình thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới; lũ lụt; hạn hán; rét đậm, rét hại… đã và đang tác động và gây thiệt hại nghiêm trọng đối với sản xuất, tài sản, sức khỏe, đời sống… của cộng đồng người dân miền Trung. Tuy nhiên, bằng những kinh nghiệm và tri thức bản địa từ kết quả của sự chọn lọc, nghiệm suy khi tiếp xúc với môi trường xung quanh và được nảy sinh ngay trong hoạt động sản xuất, thường xuyên được kiểm nghiệm qua quá trình sử dụng đã phần nào giúp cho cộng đồng người dân miền Trung giảm thiểu được những thiệt hại do thiên tai gây ra. Do đó, áp dụng kinh nghiệm và tri thức bản địa trong việc phòng tránh các loại hình thiên tai là một giải pháp không thể thiếu và đã mang lại hiệu quả cao cho người dân ở khu vực này. Trong khuôn khổ của bài báo này, chúng tôi xin được trình bày một số kinh nghiệm và tri thức bản địa đã được cộng đồng người dân miền Trung áp dụng để phòng tránh các loại hình thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán và rét đậm, rét hại.
2. Kinh nghiỆm và tri thỨc bẢn đỊa trong viỆc dỰ đoán trưỚc mỘt sỐ loẠi hình thiên tai
Từ đời này sang đời khác, bằng thực tiễn từ sản xuất và cuộc sống hàng ngày, người dân miền Trung đã tích lũy, đúc rút ra được nhiều kinh nghiệm và tri thức bản địa để dự đoán trước các loại hình thiên tai, thời tiết sắp xảy ra thông qua một số sự vật và hiện tượng tự nhiên như: sự biến đổi hình thái, màu sắc của mây, mặt trăng, sao, cầu vồng, sấm, chớp, hoặc là những hoạt động của côn trùng, con vật… Theo thời gian, dần dần những kinh nghiệm và tri thức đó được khái quát thành những câu thành ngữ, ca dao dễ nhớ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có thể tổng kết và hệ thống lại những tri thức bản địa của cộng đồng người dân miền Trung trong việc dự đoán trước một số loại hình thiên tai sẽ xảy ra như bão, lũ, lụt, hạn hán, rét bằng những câu thành ngữ, ca dao đã đi vào lòng người ở bảng 1 dưới đây:
  
Bảng 1. Tri thức bản địa được đúc kết qua các câu thành ngữ, cao dao để dự đoán một số loại hình thiên tai của người dân miền Trung
TT
Tri thức bản địa được đúc kết qua các câu thành ngữ, cao dao
Dự đoán loại thiên tai sắp xảy ra
Ghi chú
1
Ráng mỡ gà, ai có nhà thì chống
Bão
Ráng: tức là đám mây phản chiếu ánh mặt trời về buổi sáng hay buổi chiều
2
Ráng vàng thì nắng, ráng trắng thì gió, ráng đỏ thì mưa
Hạn hán, gió bão, lũ lụt
3
Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa
Bão, lũ lụt
4
Gió heo may chẳng mưa dầm cũng bão giật
Lũ lụt,
Bão

5
Đông Nam có chớp chéo nhau
Thấp sát mặt biển hôm sau bão về.
Bão

6
Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão
Bão

7
Kiến đắp thành đàn thì bão
Kiến ẵm con chạy ráo thì mưa
Bão,
Lũ lụt

8
Nào ai chài lưới ra khơi
Thấy mây đỏ ngọn thì bơi thuyền vào
Bão

9
Mống đằng Đông, Vồng phía Tây, chẳng mưa vây cũng bão giật
Lũ lụt,
Bão
Mống: tức là cầu vồng
10
Mây kéo xuống biển thì nắng chang chang Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút
Hạn hán,
lũ lụt

11
Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa
Nắng hạn, mưa lũ

12
Mặt trăng ra đỏ, trời sắp có mưa
Mưa lũ

13
Nhiều sao thì nắng, vắng sao thì mưa
Nắng hạn, mưa lũ

14
Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm
Nắng hạn, mưa lũ

15
Cua bò lên cao thế nào cũng lụt
Lũ lụt

16
Cỏ gà mọc hoang, cả làng có nước
Lũ lụt

17
Rễ si ra trắng, chả nắng được đâu
Lũ lụt

18
Chớp Đông nhay nháy, gà gáy thì mưa
Mưa lũ

19
Quạ tắm thì ráo, Sáo tắm thì mưa
Nắng hạn, mưa lũ

20
Tháng bảy kiến đàn đại hàn hồng thủy
Lũ lụt

21
Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước
Lũ lụt

22
Én bay thấp mưa ngập bờ ao
Én bay cao mưa rào lại tạnh
Lũ lụt

23
Ông tha mà Bà chẳng tha
Mỗi năm có lụt hai mươi ba tháng mười.
Lũ lụt

24
Tháng ba mưa đám, tháng tám mưa cơn
Lũ lụt

25
Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa
Hạn hán, lũ lụt

26
Sáng mưa mòi, trưa nắng lòi con mắt
Nắng hạn
Mưa mòi: tức là mưa thoáng qua rồi tạnh hẳn
27
Tháng tám nắng nám trái bưởi
Hạn hán

28
Dông đằng Đông vừa trông vừa chạy
Dông đằng Nam vừa làm vừa chơi
Lũ lụt

29
Rét tháng tư, nắng dư tháng tám
Rét, hạn hán

30
Sấm đến tháng chín, rét đến tháng tư
Rét


Ngoài ra, để chủ động phòng tránh những tác động bất lợi, cộng đồng người dân miền Trung còn có một số kinh nghiệm trong việc nhận biết trước một số loại thiên tai sắp xảy ra trên địa bàn họ sinh sống thông qua những sự vật, hiện tượng rất gần gũi với đời sống hàng ngày của chính họ, cụ thể như:
- Khi con ong Vò Vẽ làm tổ ở sát dưới mặt đất thì sẽ có bão to.
-          Khi thấy lá cây Cỏ Ống có ngấn (móp) ở đầu lá, thì có bão sẽ xảy ra.
- Lúc nào thấy đàn cò di chuyển từ biển vào đất liền thì chắc chắn sắp có bão đến.
- Quan sát vị trí mọc của cây măng tre, nếu măng mọc chen vào giữa bụi tre thì trong năm sẽ có bão lớn.
- Quan sát thấy cây hoa lan dại nở hoa thì sắp có mưa lớn.
- Quan sát thấy cây lau lách trổ hoa thì năm đó không còn bão nữa.
- Khi lũ lụt xảy ra, nhìn về phía Tây mà thấy được dãy núi Trường Sơn là sẽ hết mưa.
- Khi đang xảy ra lũ lụt mà gió chuyển hướng Tây Bắc, có sấm ở biển thì nước sẽ rút nhanh.
- Trong bụng cá Bống mủ đen, nếu có chứa nhiều vỏ ốc thì trời sắp có lụt lớn.
- Quan sát từ dưới lên đối với xương chân sau của con ếch đồng, nếu thấy có chấm đen nằm ở vị trí  cao thì năm đó sẽ có lụt lớn.
- Vào mùa mưa lũ kiến bò thành từng đàn và di chuyển trứng, thức ăn lên cao thì sẽ sắp có mưa lụt lớn.
- Ốc đá bám vào với nhau thành những tảng lớn thì sắp có lụt lớn.
- Quan sát cây cỏ chỉ, nếu thấy nó bạc ở đầu thì năm đó sẽ có lụt lớn.
3. Kinh nghiỆm và tri thỨc bẢn địa trong viỆc phòng, tránh các tác đỘng cỦa mỘt sỐ loẠi hình thiên tai
3.1. Đối với bão và áp thấp nhiệt đới
Bão và áp thấp nhiệt đới là loại thiên tai đặc biệt nguy hiểm, thường xuyên xuất hiện ở miền Trung từ tháng VIII đến tháng XI hàng năm, nó có tác động và gây thiệt hại rất lớn đến sản xuất và đời sống của người dân. Chính vì vậy, từ xưa cho đến nay, cộng đồng người dân ở đây đã đúc rút được những kinh nghiệm trong việc phòng tránh tác động của bão và áp thấp nhiệt đới nhằm bảo vệ và giảm thiểu thiệt hại cho sản xuất và đời sống của họ như sau:
Trong sản xuất: Thu hoạch dứt điểm mùa màng trước khi mùa bão đến (thông thường là trước Tết Trung thu (15/8 âm lịch hàng năm)).Vun gốc, chặt tỉa bớt cành và dùng trụ tiêu để chống đỡ đối với những cây ăn quả, cây lâu năm. Gia cố, chằng chống chuồng trại và chuẩn bị thức ăn tại chuồng cho vật nuôi, đồng thời không chăn thả vật nuôi ra đồng.
Trong đời sống: Tiếp nhận thông tin và thông báo cho toản thể cộng đồng biết tình hình của bão và áp thấp nhiệt đới. Chuẩn bị đầy đủ các loại nhu yếu phẩm cần thiết như gạo, nước, thức ăn, dầu, muối, đèn phin, đèn cầy… tối thiểu trong 3 đến 5 ngày. Chặt cây, tỉa cành gần nhà để tránh cây, cành có thể đỗ ngã khi có gió mạnh. Chằng, chống trong và ngoài nhà trước khi bão vào, tùy theo từng loại nhà (nhà gỗ, nhà kiên cố…) mà có các cách chằng chống khác nhau, chẳng hạn như đối với nhà không xây tường mà làm bằng gỗ, tre thì dùng dây sắt hoặc dây nilong (có đường kính lớn) néo tại điểm liên kết giữa kèo và cột, kéo xuống đất ngoài nhà, một góc 45o, không nên đống cọc để buộc dây, mà chôn một đoạn cây khoảng 0,8 – 1,0 m, ở giữa được buộc một dây sắt hình chữ U dài 1,0 - 1,2 m, mặt đất được đào hình chữ T, sâu khoảng 0,8 đến 1,0 m, phía đỉnh chữ T để thanh ngang, phía chân chữ T để dây sắt chữ U và dùng dây đã cố định ở đỉnh cột, buộc hoặc kéo móc tangđơ vào chữ U cho thật căng, cứ mổi cột có môt dây về tất cả các phía. Hoặc đối với nhà mái lợp bằng lá thì dùng giằng chữ A và dây neo để chống tốc mái, đổ nhà. Còn nhà có mái tôn, fibro xi măng thì chống tốc mái bằng bao cát.
Mặt khác, khi xây dựng nhà, người dân miền Trung thường xây dựng kiên cố (đổ bê tông, cốt thép) ít nhất một hạng mục nào đó như nhà vệ sinh, hoặc phòng ngủ… để làm nơi tránh trú bão. Hoặc ở một số địa phương vùng cát, họ thường đào hầm để trú ẩn bão, cách làm hầm này cũng đơn giản, họ chọn địa điểm đào hầm là nơi cao ráo, cách xa một khoảng an toàn với cây cổ thụ, tường vách nhà để loại trừ nguy hiểm có thể xảy ra khi triều cường, các vật nặng ngã đổ đè lên hầm. Tùy theo số lượng người trú ẩn mà đào hầm theo diện tích rộng, hẹp rồi dùng bao tải cho vào đầy cát và che chắn quanh hầm, độ sâu của hầm không quá sâu chỉ vừa đủ để người ra vào, nhằm đảm bảo an toàn cho người trú ẩn.
3.2. Đối với lũ lụt
Lũ lụt ở miền Trung thường xảy ra vào khoảng từ tháng VIII đến tháng XI hàng năm, gây thiệt hại rất lớn về người và của. Kinh nghiệm và tri thức bản địa mà cộng đồng người dân ở đây đúc kết được để phòng tránh tác động của loại thiên tai này là:
Trong hoạt động sản xuất, trong khi vừa thu hoạch vụ Đông Xuân, thì cũng vừa tiến hành gieo trồng vụ Hè Thu, tức là thu hoạch xong đến đâu thì xuống giống đến đó (làm theo hình thức cuốn chiếu), đồng thời chọn những giống ngắn ngày để gieo trồng nhằm kết thúc vụ Hè Thu trước mùa mưa lũ hàng năm. Chuồng, trại của vật nuôi được xây dựng nơi cao ráo và nền chuồng thường xây cao hơn mức lũ lịch sử của địa phương. Tính toán làm sao để từ khi bắt đầu thời điểm thả vật nuôi đến khi bán (thu hoạch) là phải trước mùa mưa lũ hàng năm. Luôn chuẩn bị sẵn các đồ dùng, vật dụng chăn nhốt vật nuôi để đưa lên cao hoặc di chuyên đi nơi khác nhằm tránh ngập úng, trôi mất khi lũ lụt. Dự trữ sẵn thức ăn khô trong chuồng để cho vật nuôi ăn khi lũ lụt và hạn chế chăn thả vật nuôi ra đồng.
Ngoài ra, để đảm bảo nguồn sinh kế và tạo thu nhập về kinh tế cho gia đình, cộng đồng người dân miền Trung đã xây dựng được nhiều mô hình sản xuất thích ứng với lũ lụt và mang lại hiệu quả kinh tế rất cao như mô hình trồng rau trên giàn; mô hình nuôi thủy sản vượt lũ; mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm trái vụ; mô hình chuồng lợn 2 tầng (tầng 1 để nuôi vào thời điểm không có lũ, tầng 2 có cầu thang dùng để di chuyển vật nuôi lên khi nước lũ ngập); mô hình nhà vượt lũ (nhà vừa làm nơi sinh hoạt của người trong gia đình, vừa là nơi nhốt vật nuôi trong những đợt lũ lụt)…
Trong cuộc sống, đối với những vùng thường xuyên bị ngập lụt, nước vào nhà, thì khi xây dựng nhà ở nếu có điều kiện nên làn nền nhà cao hơn mức lụt lịch sử, thiết kế nhà có gác lửng, gian chống lụt, hay làm chạn bằng tre hoặc ván gỗ… Chuẩn bị đầy đủ từ thang tre, dây tre, lạt, dây mây, bao tải, bao ni lông, đèn cầy, đèn dầu, bật lửa, đền phin, mì ăn liền, gạo, muối, củi, trấu, trích trữ nước ngọt càng nhiều càng tốt (những nhà lợp ngói tháo 1-2 tấm, dùng chậu hứng nước mưa để dùng). Tu sửa các phương tiện di chuyển, phao cứu sinh,... Nhà có điều kiện thì chuẩn bị thêm bếp ga, nhất là loại bếp ga mini rất tiện ích trong việc đun lấy nước sôi hoặc nấu nướng. Chuẩn bị thuốc men đầy đủ vì sau lũ lụt nước thường bị ô nhiễm, gây dịch bệnh.
Trong khi lũ lụt xảy ra, mọi người ai trú ẩn ở nhà nấy, không nhiệm vụ thì không di chuyển. Còn những trường hợp nước dâng cao, ngập cả nơi người dân trú ngụ, thì cũng phải dự phòng tình huống để giải quyết việc di dời đến nơi cao và phải đi sớm trước khi lụt lên cao bằng các phương tiện an toàn, tránh bị động.  Đưa toàn bộ lương thực, thực phẩm đồ dùng cá nhân vào bao, túi ni lông và cho lên nơi cao. Kết bè, cố định những vật dụng dễ nỗi, dễ trôi. Người dân vùng thấp trũng còn có một kinh nghiệm độc đáo được coi như một sáng kiến dân gian là việc trồng chuối để đến đầu mùa mưa lũ, lấy thân cây chuối kết làm bè (trong trường hợp không có ghe, xuồng). Khi nước lụt dâng, đẩy bè chuối lên cao và bè chuối là nơi con người trú ngụ trong thời điểm nước dâng. Chú trọng việc ăn chín, uống sôi, phòng các dịch bệnh có thể xảy ra sau lũ lụt.
3.3. Đối với hạn hán
Miền Trung hầu như chỉ có hai mùa là mùa mưa và mùa ít mưa. Hạn hán rơi vào mùa ít mưa, thường từ tháng IV đến tháng VIII hàng năm. Đây cũng là khoản thời gian trùng với vụ Hè Thu nên có ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất của người dân nơi đây. Cùng với thời gian, từ bao đời nay người dân miền Trung cũng đã đúc rút ra được những kinh nghiệm cho mình để phòng tránh những ảnh hưởng của hạn hán, cụ thể là:
Trong các hoạt động sản xuất, người dân rất coi trọng công tác thủy lợi, họ đúc kết được rằng: “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Tưới nước cho cây trồng vào thời điểm sáng sớm, chiều tối để giảm sự bốc hơi nước bề mặt.  Luôn làm cỏ, xới xáo đất để tạo độ xốp cho tầng canh tác. Tưới nước và tủ gốc để giữ ẩm cho cây trồng. Tăng lượng phân hữu cơ, phân lân, đặc biệt là phân kali để tạo độ xốp, tăng khả năng giữ nước cho đất, tăng tính chống chịu hạn cho cây trồng, giảm bón lượng đạm đến mức tối thiểu. Trồng xen canh một số loại cây trồng với mật độ hợp lý để tận dụng nguồn nước tưới và kích thích sự sinh trưởng lẫn nhau. Trồng vành đai lâm nghiệp để tạo vùng tiểu khí hậu, hạn chế nắng và gió, giảm thiểu sự bốc hơi nước.
 Đối với cây lúa nước, ruộng lúa không cần phải luôn luôn ngập nước, ruộng chỉ cần ngập nước trong giai đoạn lúa non để ém cỏ, và trong giai đoạn lúa trỗ để kết hạt tốt, vào các giai đoạn khác có thể áp dụng cách tưới “ngập khô xen kẽ”, trong bất kỳ giai đoạn nào, lớp nước ngập tối đa là 5 cm. Đối với các loại vật nuôi, chuồng trại luôn được vệ sinh sạch sẽ, đảm bảo thông thoáng. Thường xuyên cho vật nuôi uống nước và tắm. Dùng nước tưới lên mái chuồng để giảm bớt nhiệt độ trong chuồng. Các ao nuôi thủy sản luôn đảm bảo mật nước trong ao cao (trên 1,5m) để hạn chế nhiệt độ gia tăng trong ao và thường cho ăn vào những lúc nhiệt độ thấp nhất trong ngày.
            Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, luôn dự trữ nước uống, nước sinh hoạt khi có hạn hán xảy ra. Nhà cửa luôn gọn gàng, sạch sẽ và thông thoáng. Tăng cường ăn nhiều rau xanh, bổ sung thêm chất dinh dưỡng, vitamin C trong các bữa ăn hàng ngày.
3.4. Đối với rét
Trong hoạt động sản xuất, để phòng tránh những tác động của các đợt rét đậm, rét hại, cộng đồng người dân miền Trung đã đúc kết được một số kinh nghiệm sau:
Đối với trồng trọt, bón bổ sung thêm phân kali, phân lân, giảm bón đạm để cây khỏe mạnh tăng cường khả năng chống rét. Những ngày có sương muối giá buốt, tiến hành tưới nước trên mặt lá làm tan sương để tránh hiện tượng cháy lá khi có ánh nắng. Không gieo trồng những cây hoa màu như ngô, đậu, lạc… trong những ngày giá rét, nhiệt độ thấp dưới 13oC kéo dài. Che phủ nilông trên các luống để giữ nhiệt cho cây trồng. Đặc biệt, đối với cây lúa, cần phải tưới đủ ẩm (độ ẩm bão hòa), rắc một lớp mỏng tro bếp lên bề mặt luống mạ (khoảng 5kg/sào mạ), dùng nilông trắng, mỏng trùm kín cho mạ, những ngày có nhiệt độ trên 20oC thì mở nilông ở hai đầu luống.
Đối với chăn nuôi, che chắn chuồng trại đảm bảo kín gió. Dùng 3-4 chiếc bao khâu lại để khoác lên mỗi con trâu, bò… trong các đợt rét đậm, rét hại. Dự trữ, chế biến các phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho gia súc vào mùa đông. Hạn chế chăn thả trâu, bò ra đồng, lên rừng vào những đợt rét, mà nhốt tại chuồng và cho ăn thức ăn dự trữ sẵn. Cho trâu, bò ăn thêm cám và bột trộn vào thức ăn khô, đồng thời cho uống thêm nước muối pha loãng để chống rét. Dùng trấu, mùn cưa, lá cây, rơm rạ để làm nguyên liệu đốt sưởi ấm cho gia súc. Ngoài ra, có thể dùng những loại lá cây như tỏi, lá sả, bạch đàn, dầu khuynh diệp, hành tăm, bồ kết để đốt ngay cửa hoặc góc chuồng, xông và quạt khói tỏa vào trong chuồng, sau đó dùng bã đã phơi khô rải xung quanh chuồng để đuổi các loại côn trùng, ruồi muỗi truyền bệnh cho gia súc, gia cầm. Đối với các ao, hồ nuôi trồng thủy sản thì thả bèo 2/3 ao về phía Bắc để chắn gió, ở các góc ao để những sọt rơm, rạ cho các loài thủy sản trú đông, và độ sâu nước ao luôn đảm bảo 1,4 - 1,5m. Khi trời rét đậm, dùng tre làm giàn trên mặt ao, hồ và che phủ kín bằng bạt nilông để tăng khả năng giữ nhiệt độ.
4. KẾT LUẬN
Ở miền Trung Việt Nam, các loại hình thiên tai thường xuyên xuất hiện và gây thiệt hại lớn đối với sản xuất và đời sống của người dân là bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán và rét đậm, rét hại. Từ đời này sang đời khác, người dân ở đây đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu và đúc kết nó thành những tri thức bản địa trong việc phòng tránh và giảm thiểu tác động của một số loại hình thiên tai. Các tri thức bản địa về dự đoán trước một số thiên tai sẽ xảy ra được khái quát lên thành những câu thành ngữ, ca dao để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những kinh nghiệm, tri thức bản địa trong việc phòng tránh tác động của các loại thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới; lũ lụt; hạn hán; rét đậm, rét hại được cộng đồng người dân miền Trung trãi nghiệm qua thực tiễn sản xuất và đời sồng hàng ngày của chính họ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.   Đoàn Ngọc Khôi (2010), Nghiên cứu một số giá trị tri thức bản địa, đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy để góp phần phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp tỉnh, Quảng Ngãi.
2.   Viện Tài nguyên và Môi trường – Đại học Huế (2013), Tổng hợp kết quả phiếu điều tra về kinh nghiệm và tri thức bản địa phòng tránh thiên tai của người dân miền Trung, Huế.
3.   Viện Tài nguyên và Môi trường – Đại học Huế (2013), Các báo cáo về đúc rút kinh nghiệm và tri thức bản địa phòng tránh thiên tai của người dân các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận trong việc phòng tránh các loại thiên tai, Các chuyên đề thuộc đề tài cấp Nhà nước BĐKH-18, Huế.
Lượt xem:

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét