(VACNE)
- Miền Trung Việt Nam là khu vực có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, chịu nhiều
ảnh hưởng của các loại hình thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới; lũ lụt; hạn
hán; rét đậm, rét hại… đã và đang tác động và gây thiệt hại nghiêm trọng đối
với sản xuất, tài sản, sức khỏe, đời sống… của cộng đồng người dân miền Trung.
PGS.TS. Lê Văn Thăng, ThS. Nguyễn Đình Huy,
ThS. Hoàng Ngọc Tường Vân
Viện
Tài nguyên và Môi trường - Đại học Huế
1. MỞ ĐẦU
Miền
Trung Việt Nam là khu vực có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, chịu nhiều ảnh
hưởng của các loại hình thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới;
lũ lụt; hạn hán; rét đậm, rét hại… đã và đang tác động và gây thiệt hại nghiêm
trọng đối với sản xuất, tài sản, sức khỏe, đời sống… của cộng đồng người dân
miền Trung. Tuy nhiên, bằng những kinh nghiệm và tri thức bản địa từ kết quả
của sự chọn lọc, nghiệm suy khi tiếp xúc với môi trường xung quanh và được nảy
sinh ngay trong hoạt động sản xuất, thường xuyên được kiểm nghiệm qua quá trình
sử dụng đã phần nào giúp cho cộng đồng người dân miền Trung giảm thiểu được những
thiệt hại do thiên tai gây ra. Do đó, áp dụng kinh nghiệm và tri thức bản địa
trong việc phòng tránh các loại hình thiên tai là một giải pháp không thể thiếu
và đã mang lại hiệu quả cao cho người dân ở khu vực này. Trong khuôn khổ của
bài báo này, chúng tôi xin được trình bày một số kinh nghiệm và tri thức bản
địa đã được cộng đồng người dân miền Trung áp dụng để phòng tránh các loại hình
thiên tai như bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán và rét đậm, rét hại.
2. Kinh nghiỆm và tri thỨc bẢn đỊa trong viỆc dỰ đoán
trưỚc mỘt sỐ loẠi hình thiên tai
Từ đời này sang đời khác,
bằng thực tiễn từ sản xuất và cuộc sống hàng ngày, người dân miền Trung đã tích
lũy, đúc rút ra được nhiều kinh nghiệm và tri thức bản địa để dự đoán trước các
loại hình thiên tai, thời tiết sắp xảy ra thông qua một số sự vật và hiện tượng
tự nhiên như: sự biến đổi hình thái, màu sắc của mây, mặt trăng, sao, cầu vồng,
sấm, chớp, hoặc là những hoạt động của côn trùng, con vật… Theo thời gian, dần
dần những kinh nghiệm và tri thức đó được khái quát thành những câu thành ngữ,
ca dao dễ nhớ và lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có thể tổng kết và
hệ thống lại những tri thức bản địa của cộng đồng người dân miền Trung trong
việc dự đoán trước một số loại hình thiên tai sẽ xảy ra như bão, lũ, lụt, hạn
hán, rét bằng những câu thành ngữ, ca dao đã đi vào lòng người ở bảng 1 dưới
đây:
Bảng 1. Tri thức bản địa được đúc kết qua các câu thành
ngữ, cao dao để dự đoán một số loại hình thiên tai của người dân miền Trung
TT
|
Tri thức bản địa được đúc kết qua các câu thành ngữ, cao dao
|
Dự đoán loại thiên tai sắp xảy ra
|
Ghi chú
|
1
|
Ráng mỡ gà, ai có nhà thì
chống
|
Bão
|
Ráng: tức là đám mây phản
chiếu ánh mặt trời về buổi sáng hay buổi chiều
|
2
|
Ráng vàng thì nắng, ráng
trắng thì gió, ráng đỏ thì mưa
|
Hạn hán, gió bão, lũ lụt
|
|
3
|
Ráng mỡ gà thì gió, ráng
mỡ chó thì mưa
|
Bão, lũ lụt
|
|
4
|
Gió heo may chẳng mưa dầm
cũng bão giật
|
Lũ lụt,
Bão
|
|
5
|
Đông Nam có chớp
chéo nhau
Thấp sát mặt biển hôm sau
bão về.
|
Bão
|
|
6
|
Tháng
bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão
|
Bão
|
|
7
|
Kiến đắp thành đàn thì bão
Kiến ẵm con chạy ráo thì
mưa
|
Bão,
Lũ lụt
|
|
8
|
Nào ai chài lưới ra khơi
Thấy mây đỏ ngọn thì bơi
thuyền vào
|
Bão
|
|
9
|
Mống đằng Đông, Vồng phía
Tây, chẳng mưa vây cũng bão giật
|
Lũ lụt,
Bão
|
Mống: tức là cầu vồng
|
10
|
Mây kéo xuống biển thì nắng
chang chang Mây kéo lên ngàn thì mưa như trút
|
Hạn hán,
lũ lụt
|
|
11
|
Mây xanh thì nắng, mây trắng
thì mưa
|
Nắng hạn, mưa lũ
|
|
12
|
Mặt trăng ra đỏ, trời sắp
có mưa
|
Mưa lũ
|
|
13
|
Nhiều sao thì nắng, vắng
sao thì mưa
|
Nắng hạn, mưa lũ
|
|
14
|
Chuồn chuồn bay thấp thì
mưa
Bay cao thì nắng, bay vừa
thì râm
|
Nắng hạn, mưa lũ
|
|
15
|
Cua bò lên cao thế nào cũng
lụt
|
Lũ lụt
|
|
16
|
Cỏ gà mọc hoang, cả làng
có nước
|
Lũ lụt
|
|
17
|
Rễ si ra trắng, chả nắng
được đâu
|
Lũ lụt
|
|
18
|
Chớp Đông nhay nháy, gà
gáy thì mưa
|
Mưa lũ
|
|
19
|
Quạ tắm thì ráo, Sáo tắm
thì mưa
|
Nắng hạn, mưa lũ
|
|
20
|
Tháng bảy kiến đàn đại hàn
hồng thủy
|
Lũ lụt
|
|
21
|
Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm
đầy nước
|
Lũ lụt
|
|
22
|
Én bay thấp mưa ngập bờ ao
Én
bay cao mưa rào lại tạnh
|
Lũ lụt
|
|
23
|
Ông
tha mà Bà chẳng tha
Mỗi
năm có lụt hai mươi ba tháng mười.
|
Lũ lụt
|
|
24
|
Tháng ba mưa đám, tháng
tám mưa cơn
|
Lũ lụt
|
|
25
|
Trăng quầng thì hạn, trăng
tán thì mưa
|
Hạn hán, lũ lụt
|
|
26
|
Sáng mưa mòi, trưa nắng
lòi con mắt
|
Nắng hạn
|
Mưa mòi: tức là mưa thoáng
qua rồi tạnh hẳn
|
27
|
Tháng
tám nắng nám trái bưởi
|
Hạn hán
|
|
28
|
Dông đằng Đông vừa trông
vừa chạy
Dông đằng Nam vừa làm vừa
chơi
|
Lũ lụt
|
|
29
|
Rét tháng tư, nắng dư
tháng tám
|
Rét, hạn hán
|
|
30
|
Sấm đến tháng chín, rét
đến tháng tư
|
Rét
|
|
Ngoài ra, để chủ động phòng
tránh những tác động bất lợi, cộng đồng người dân miền Trung còn có một số kinh
nghiệm trong việc nhận biết trước một số loại thiên tai sắp xảy ra trên địa bàn
họ sinh sống thông qua những sự vật, hiện tượng rất gần gũi với đời sống hàng
ngày của chính họ, cụ thể như:
-
Khi con ong Vò Vẽ làm tổ ở sát dưới mặt đất thì sẽ có bão to.
- Khi
thấy lá cây Cỏ Ống có ngấn (móp) ở đầu lá, thì có bão sẽ xảy ra.
- Lúc
nào thấy đàn cò di chuyển từ biển vào đất liền thì chắc chắn sắp có bão đến.
-
Quan sát vị trí mọc của cây măng tre, nếu măng mọc chen vào giữa bụi tre thì
trong năm sẽ có bão lớn.
-
Quan sát thấy cây hoa lan dại nở hoa thì sắp có mưa lớn.
-
Quan sát thấy cây lau lách trổ hoa thì năm đó không còn bão nữa.
- Khi
lũ lụt xảy ra, nhìn về phía Tây mà thấy được dãy núi Trường Sơn là sẽ hết mưa.
- Khi đang xảy ra lũ lụt mà
gió chuyển hướng Tây Bắc, có sấm ở biển thì nước sẽ rút nhanh.
- Trong bụng cá Bống mủ đen, nếu có chứa nhiều vỏ ốc
thì trời sắp có lụt lớn.
- Quan
sát từ dưới lên đối với xương chân sau của con ếch đồng, nếu thấy có chấm đen
nằm ở vị trí cao thì năm đó sẽ có lụt
lớn.
-
Vào mùa mưa lũ kiến bò thành từng đàn và di chuyển trứng, thức ăn lên cao thì
sẽ sắp có mưa lụt lớn.
- Ốc
đá bám vào với nhau thành những tảng lớn thì sắp có lụt lớn.
- Quan sát cây cỏ chỉ, nếu thấy nó bạc ở đầu thì
năm đó sẽ có lụt lớn.
3. Kinh
nghiỆm và tri thỨc bẢn địa trong viỆc phòng, tránh các tác đỘng cỦa mỘt sỐ loẠi
hình thiên tai
3.1. Đối với bão và áp
thấp nhiệt đới
Bão và áp thấp nhiệt đới là loại thiên tai đặc biệt
nguy hiểm, thường xuyên xuất hiện ở miền Trung từ tháng VIII đến tháng XI hàng năm,
nó có tác động và gây thiệt hại rất lớn đến sản xuất và đời sống của người dân.
Chính vì vậy, từ xưa cho đến nay, cộng đồng người dân ở đây đã đúc rút được
những kinh nghiệm trong việc phòng tránh tác động của bão và áp thấp nhiệt đới
nhằm bảo vệ và giảm thiểu thiệt hại cho sản xuất và đời sống của họ như sau:
Trong sản xuất: Thu hoạch dứt điểm mùa màng trước
khi mùa bão đến (thông thường là trước Tết Trung thu (15/8 âm lịch hàng
năm)).Vun gốc, chặt tỉa bớt cành và dùng trụ tiêu để chống đỡ đối với những cây
ăn quả, cây lâu năm. Gia cố, chằng chống chuồng trại và chuẩn bị thức ăn tại
chuồng cho vật nuôi, đồng thời không chăn thả vật nuôi ra đồng.
Trong đời sống: Tiếp nhận thông tin và thông báo
cho toản thể cộng đồng biết tình hình của bão và áp thấp nhiệt đới. Chuẩn bị
đầy đủ các loại nhu yếu phẩm cần thiết như gạo, nước, thức ăn, dầu, muối, đèn
phin, đèn cầy… tối thiểu trong 3 đến 5 ngày. Chặt cây, tỉa cành gần nhà để
tránh cây, cành có thể đỗ ngã khi có gió mạnh. Chằng, chống trong và ngoài nhà trước khi bão vào, tùy theo từng loại
nhà (nhà gỗ, nhà kiên cố…) mà có các cách chằng chống khác nhau, chẳng hạn như
đối với nhà không xây tường mà làm bằng gỗ, tre thì dùng dây sắt
hoặc dây nilong (có đường kính lớn) néo tại điểm liên kết giữa kèo và cột, kéo
xuống đất ngoài nhà, một góc 45o, không nên đống cọc để buộc dây, mà
chôn một đoạn cây khoảng 0,8 – 1,0 m, ở giữa được buộc một dây sắt hình chữ U
dài 1,0 - 1,2 m, mặt đất được đào hình chữ T, sâu khoảng 0,8 đến 1,0 m, phía
đỉnh chữ T để thanh ngang, phía chân chữ T để dây sắt chữ U và dùng dây đã cố
định ở đỉnh cột, buộc hoặc kéo móc tangđơ vào chữ U cho thật căng, cứ mổi cột
có môt dây về tất cả các phía. Hoặc đối với nhà mái lợp bằng lá thì dùng giằng
chữ A và dây neo để chống tốc mái, đổ nhà. Còn nhà có mái tôn, fibro xi măng
thì chống tốc mái bằng bao cát.
Mặt khác, khi xây dựng nhà,
người dân miền Trung thường xây dựng kiên cố (đổ bê tông, cốt thép) ít nhất một
hạng mục nào đó như nhà vệ sinh, hoặc phòng ngủ… để làm nơi tránh trú bão. Hoặc
ở một số địa phương vùng cát, họ thường đào hầm để trú ẩn bão, cách làm hầm này
cũng đơn giản, họ chọn địa điểm đào hầm là nơi cao ráo, cách xa một khoảng an
toàn với cây cổ thụ, tường vách nhà để loại trừ nguy hiểm có thể xảy ra khi
triều cường, các vật nặng ngã đổ đè lên hầm. Tùy theo số lượng người trú ẩn mà đào
hầm theo diện tích rộng, hẹp rồi dùng bao tải cho vào đầy cát và che chắn quanh
hầm, độ sâu của hầm không quá sâu chỉ vừa đủ để người ra vào, nhằm đảm bảo an
toàn cho người trú ẩn.
3.2. Đối với lũ lụt
Lũ lụt ở miền Trung thường xảy ra vào khoảng từ
tháng VIII đến tháng XI hàng năm, gây thiệt hại rất lớn về người và của. Kinh
nghiệm và tri thức bản địa mà cộng đồng người dân ở đây đúc kết được để phòng
tránh tác động của loại thiên tai này là:
Trong hoạt động sản xuất, trong khi vừa thu hoạch
vụ Đông Xuân, thì cũng vừa tiến hành gieo trồng vụ Hè Thu, tức là thu hoạch
xong đến đâu thì xuống giống đến đó (làm theo hình thức cuốn chiếu), đồng thời
chọn những giống ngắn ngày để gieo trồng nhằm kết thúc vụ Hè Thu trước mùa mưa
lũ hàng năm. Chuồng, trại của vật nuôi được xây dựng nơi cao ráo và nền chuồng
thường xây cao hơn mức lũ lịch sử của địa phương. Tính toán làm sao để từ khi
bắt đầu thời điểm thả vật nuôi đến khi bán (thu hoạch) là phải trước mùa mưa lũ
hàng năm. Luôn chuẩn bị sẵn các đồ dùng, vật dụng chăn nhốt vật nuôi để đưa lên
cao hoặc di chuyên đi nơi khác nhằm tránh ngập úng, trôi mất khi lũ lụt. Dự trữ
sẵn thức ăn khô trong chuồng để cho vật nuôi ăn khi lũ lụt và hạn chế chăn thả
vật nuôi ra đồng.
Ngoài ra, để đảm bảo nguồn sinh kế và tạo thu nhập
về kinh tế cho gia đình, cộng đồng người dân miền Trung đã xây dựng được nhiều
mô hình sản xuất thích ứng với lũ lụt và mang lại hiệu quả kinh tế rất cao như
mô hình trồng rau trên giàn; mô hình nuôi thủy sản vượt lũ; mô hình chăn nuôi
gia súc, gia cầm trái vụ; mô hình chuồng lợn 2 tầng (tầng 1 để nuôi vào thời
điểm không có lũ, tầng 2 có cầu thang dùng để di chuyển vật nuôi lên khi nước
lũ ngập); mô hình nhà vượt lũ (nhà vừa làm nơi sinh hoạt của người trong gia
đình, vừa là nơi nhốt vật nuôi trong những đợt lũ lụt)…
Trong cuộc sống, đối
với những vùng thường xuyên bị ngập lụt, nước vào nhà, thì khi xây dựng nhà ở
nếu có điều kiện nên làn nền nhà cao hơn mức lụt lịch sử, thiết kế nhà có gác
lửng, gian chống lụt, hay làm chạn bằng tre hoặc ván gỗ… Chuẩn bị đầy đủ từ
thang tre, dây tre, lạt, dây mây, bao tải, bao ni lông, đèn cầy, đèn dầu, bật
lửa, đền phin, mì ăn liền, gạo, muối, củi, trấu, trích trữ nước ngọt càng nhiều
càng tốt (những nhà lợp ngói tháo 1-2 tấm, dùng chậu hứng nước mưa để dùng). Tu
sửa các phương tiện di chuyển, phao cứu sinh,... Nhà có điều kiện thì chuẩn bị
thêm bếp ga, nhất là loại bếp ga mini rất tiện ích trong việc đun lấy nước sôi
hoặc nấu nướng. Chuẩn bị thuốc men đầy đủ vì sau lũ lụt nước thường bị ô nhiễm,
gây dịch bệnh.
Trong
khi lũ lụt xảy ra, mọi người ai trú ẩn ở nhà nấy, không nhiệm vụ thì
không di chuyển. Còn những trường hợp nước dâng cao, ngập cả nơi người dân trú
ngụ, thì cũng phải dự phòng tình huống để giải quyết việc di dời đến nơi cao và
phải đi sớm trước khi lụt lên cao bằng các phương tiện an toàn, tránh bị động. Đưa toàn bộ lương thực, thực phẩm đồ dùng cá
nhân vào bao, túi ni lông và cho lên nơi cao. Kết bè, cố định những vật dụng dễ
nỗi, dễ trôi. Người dân vùng thấp trũng còn có một kinh nghiệm độc đáo được coi
như một sáng kiến dân gian là việc trồng chuối để đến đầu mùa mưa lũ, lấy thân
cây chuối kết làm bè (trong trường hợp không có ghe, xuồng). Khi nước lụt dâng,
đẩy bè chuối lên cao và bè chuối là nơi con người trú ngụ trong thời điểm nước
dâng. Chú trọng việc ăn chín, uống sôi, phòng các dịch bệnh có thể xảy ra sau lũ
lụt.
3.3. Đối với hạn hán
Miền Trung hầu như chỉ có hai mùa là mùa mưa và mùa
ít mưa. Hạn hán rơi vào mùa ít mưa, thường từ tháng IV đến tháng VIII hàng năm.
Đây cũng là khoản thời gian trùng với vụ Hè Thu nên có ảnh hưởng lớn đến tình
hình sản xuất của người dân nơi đây. Cùng với thời gian, từ bao đời nay người
dân miền Trung cũng đã đúc rút ra được những kinh nghiệm cho mình để phòng tránh
những ảnh hưởng của hạn hán, cụ thể là:
Trong các hoạt động sản xuất, người dân rất coi
trọng công tác thủy lợi, họ đúc kết được rằng: “Nhất nước, nhì phân, tam cần,
tứ giống”. Tưới nước cho cây trồng vào thời điểm sáng sớm, chiều tối để giảm sự bốc hơi
nước bề mặt.
Luôn
làm cỏ, xới xáo đất để tạo độ xốp cho tầng canh tác. Tưới nước và tủ gốc để giữ
ẩm cho cây trồng. Tăng lượng phân hữu cơ, phân lân, đặc biệt là phân kali để
tạo độ xốp, tăng khả năng giữ nước cho đất, tăng tính chống chịu hạn cho cây trồng,
giảm bón lượng đạm đến mức tối thiểu. Trồng xen canh một số loại cây trồng với
mật độ hợp lý để tận dụng nguồn nước tưới và kích thích sự sinh trưởng lẫn
nhau. Trồng vành đai lâm nghiệp để tạo vùng tiểu khí hậu, hạn chế nắng và gió,
giảm thiểu sự bốc hơi nước.
Đối với cây lúa nước, ruộng lúa không cần phải luôn
luôn ngập nước, ruộng chỉ cần ngập nước trong giai đoạn lúa non để ém cỏ, và
trong giai đoạn lúa trỗ để kết hạt tốt, vào các giai đoạn khác có thể áp dụng
cách tưới “ngập khô xen kẽ”, trong bất kỳ giai đoạn nào, lớp nước ngập tối đa
là 5 cm. Đối với các loại vật nuôi, chuồng trại luôn được vệ sinh sạch sẽ, đảm bảo thông thoáng. Thường
xuyên cho vật nuôi uống nước và tắm. Dùng nước tưới lên mái chuồng để giảm bớt
nhiệt độ trong chuồng. Các ao nuôi thủy sản luôn đảm bảo mật nước trong ao cao
(trên 1,5m) để hạn chế nhiệt độ gia tăng trong ao và thường cho ăn vào những
lúc nhiệt độ thấp nhất trong ngày.
Trong
đời sống sinh hoạt hàng ngày, luôn dự trữ nước uống, nước sinh hoạt khi có hạn hán xảy ra. Nhà cửa luôn gọn
gàng, sạch sẽ và thông thoáng. Tăng cường ăn nhiều rau xanh, bổ sung thêm chất
dinh dưỡng, vitamin C trong các bữa ăn hàng ngày.
3.4. Đối với rét
Trong hoạt động sản xuất, để phòng tránh những tác
động của các đợt rét đậm, rét hại, cộng đồng người dân miền Trung đã đúc kết
được một số kinh nghiệm sau:
Đối với trồng trọt, bón bổ sung thêm phân kali, phân lân, giảm bón đạm để cây
khỏe mạnh tăng cường khả năng chống rét. Những ngày có sương muối giá buốt,
tiến hành tưới nước trên mặt lá làm tan sương để tránh hiện tượng cháy lá khi
có ánh nắng. Không gieo trồng những cây hoa màu như ngô, đậu, lạc… trong những
ngày giá rét, nhiệt độ thấp dưới 13oC kéo dài. Che phủ nilông trên
các luống để giữ nhiệt cho cây trồng. Đặc biệt, đối với cây lúa, cần phải tưới
đủ ẩm (độ ẩm bão hòa), rắc một lớp mỏng tro bếp lên bề mặt luống mạ (khoảng
5kg/sào mạ), dùng nilông trắng, mỏng trùm kín cho mạ, những ngày có nhiệt độ
trên 20oC thì mở nilông ở hai đầu luống.
Đối với chăn nuôi, che chắn
chuồng trại đảm bảo kín gió. Dùng 3-4 chiếc bao khâu lại để khoác lên mỗi con
trâu, bò… trong các đợt rét đậm, rét hại. Dự trữ, chế biến các phụ phẩm nông
nghiệp làm thức ăn cho gia súc vào mùa đông. Hạn chế chăn thả trâu, bò ra đồng,
lên rừng vào những đợt rét, mà nhốt tại chuồng và cho ăn thức ăn dự trữ sẵn.
Cho trâu, bò ăn thêm cám và bột trộn vào thức ăn khô, đồng thời cho uống thêm
nước muối pha loãng để chống rét. Dùng trấu, mùn cưa, lá cây, rơm rạ để làm
nguyên liệu đốt sưởi ấm cho gia súc. Ngoài ra, có thể dùng những loại lá cây
như tỏi, lá sả, bạch đàn, dầu khuynh diệp, hành tăm, bồ kết để đốt ngay cửa
hoặc góc chuồng, xông và quạt khói tỏa vào trong chuồng, sau đó dùng bã đã phơi
khô rải xung quanh chuồng để đuổi các loại côn trùng, ruồi muỗi truyền bệnh cho
gia súc, gia cầm. Đối với các ao, hồ nuôi trồng thủy sản thì thả bèo 2/3 ao về
phía Bắc để chắn gió, ở các góc ao để những sọt rơm, rạ cho các loài thủy sản
trú đông, và độ sâu nước ao luôn đảm bảo 1,4 - 1,5m. Khi trời rét đậm, dùng tre
làm giàn trên mặt ao, hồ và che phủ kín bằng bạt nilông để tăng khả năng giữ
nhiệt độ.
4. KẾT LUẬN
Ở miền Trung Việt Nam, các loại hình thiên tai
thường xuyên xuất hiện và gây thiệt hại lớn đối với sản xuất và đời sống của
người dân là bão, áp thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán và rét đậm, rét hại. Từ
đời này sang đời khác, người dân ở đây đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý
báu và đúc kết nó thành những tri thức bản địa trong việc phòng tránh và giảm
thiểu tác động của một số loại hình thiên tai. Các tri thức bản địa về dự đoán
trước một số thiên tai sẽ xảy ra được khái quát lên thành những câu thành ngữ,
ca dao để lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những kinh nghiệm, tri
thức bản địa trong việc phòng tránh tác động của các loại thiên tai như bão, áp
thấp nhiệt đới; lũ lụt; hạn hán; rét đậm, rét hại được cộng đồng người dân miền
Trung trãi nghiệm qua thực tiễn sản xuất và đời sồng hàng ngày của chính họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn
Ngọc Khôi (2010), Nghiên cứu một số giá
trị tri thức bản địa, đề xuất các giải pháp bảo tồn và phát huy để góp phần
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học và công nghệ cấp tỉnh, Quảng Ngãi.
2.
Viện Tài nguyên và Môi trường – Đại học
Huế (2013), Tổng hợp kết quả phiếu điều
tra về kinh nghiệm và tri thức bản địa phòng tránh thiên tai của người dân
miền Trung,
Huế.
3. Viện Tài nguyên và Môi
trường – Đại học Huế (2013), Các báo cáo
về đúc rút kinh nghiệm và tri thức bản địa phòng tránh thiên
tai của người dân các tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa,
Ninh Thuận và Bình Thuận trong việc phòng tránh các loại thiên tai, Các chuyên đề thuộc đề tài cấp
Nhà nước BĐKH-18, Huế.
Lượt
xem:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét