George Orwell
Trại Súc Vật
Lời tựa
Trại
Súc Vật được in ở Anh ngày 17 tháng 8 năm 1945 và một năm sau thì được
in ở Mĩ. Trước đó George Orwell đã cho xuất bản 9 đầu sách với tổng số
bản in cả ở Anh và Mĩ là 195 500 cuốn. Sau chiến tranh thế giới thứ II
do thiếu giấy nên số lượng bản in hạn chế, tuy vậy cho đến khi Orwell
mất vào tháng giêng năm 1950 đã có tất cả 25 500 cuốn Trại Súc Vật được
in ở Anh và 590 000 cuốn được in ở Mĩ. Điều đó nói lên thành công to lớn
và ngay lập tức của tác phẩm. Sinh thời Orwell tác phẩm này đã được
dịch ra tất cả các ngôn ngữ chính của châu Âu cũng như các thứ tiếng như
Telugu (một dân tộc thuộc bắc Ấn Độ), Ba Tư, Aixlen và Ukraine. Sau hơn
50 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên, tác phẩm đã được dịch ra 68 thứ
tiếng trên thế giới và thuờng xuyên được tái bản. Trong lần bình chọn
100 tác phẩm hay nhất trong thế kỉ XX do nhà sách Random House tiến
hành, Trại Súc Vật được xếp thứ 31.
Nhân
kỉ niệm 100 năm ngày sinh của George Orwell chúng tôi xin giới thiệu
Trại Súc Vật, một trong hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông với lời tựa
cho lần xuất bản bằng tiếng Ukraine do chính Orwell viết. Lời tựa này
được Orwell viết bằng tiếng Anh (bản gốc đã bị thất lạc), theo đề nghị
của người tổ chức dịch thuật và phân phối tác phẩm này cho những người
Ukraine chạy trốn chế độ Xô viết và sống trong các trại tạm cư do quân
đội Anh và Mĩ thiết lập trên đất Đức. Lời tựa được dịch sang tiếng
Ukraine dành cho lần xuất bản đầu tiên vào năm 1947, nhà sách Penguin
Classic trong lần xuất bản năm 2000 đã cho dịch lại và in kèm với lời
giới thiệu của Malcolm Bradbury.
Sau
tác phẩm Trại Súc Vật, George Orwell còn viết một tác phẩm nổi tiếng
1984. Tác phẩm này nằm ở vị trí 13 trong bảng tổng sắp của nhà sách
Randomhouse đã nói ở trên. Tin rằng một ngày gần đây tác phẩm bất hủ này
cũng sẽ ra mắt độc giả tiếng Việt.
Phạm Minh Ngọc
Tôi
được yêu cầu viết lời giới thiệu cho bản dịch tác phẩm Trại Súc Vật
sang tiếng Ukraine. Tôi nhận thức rõ rằng tôi đang viết cho những độc
giả mà tôi không có một chút hiểu biết nào và họ cũng chưa từng có cơ
hội tìm hiểu tôi.
Trong
lời giới thiệu chắc chắn các độc giả muốn tôi kể về quá trình sáng tác
tác phẩm Trại Súc Vật, nhưng trước tiên tôi muốn tự kể về mình và những
trải nghiệm đã dẫn tôi đến quan điểm chính trị hiện nay.
Tôi
sinh năm 1903 tại Ấn Độ. Lúc đó cha tôi là một viên chức trong bộ máy
hành chính Anh quốc ở đấy, gia đình tôi thuộc tầng lớp trung lưu gồm các
quân nhân, tu sĩ, viên chức chính phủ, giáo sư, luật sư, bác sĩ v.v...
Tôi tốt nghiệp trung học tại Eton, một trường công lập thuộc loại đắt
nhất nước Anh thời đó. Nhưng tôi được vào học ở đây là do được nhận học
bổng chứ cha tôi không thể có tiền để gửi tôi vào học những trường như
thế.
Ngay
sau khi thôi học (lúc đó tôi chưa đủ 20 tuổi) tôi đi Miến Điện và tham
gia lực lượng cảnh sát Hoàng gia tại đây. Tôi làm ở đó năm năm. Việc này
hoàn toàn không hợp với tôi, tôi trở nên căm ghét chủ nghĩa đế quốc mặc
dù lúc đó tinh thần quốc gia ở Miến Điện chưa cao và quan hệ giữa người
Anh và người Miến cũng chưa đến nỗi nào. Sau khi về lại Anh quốc vào
năm 1927 tôi giải ngũ và bắt đầu viết văn: thời gian đầu không có thành
công đáng kể nào. Trong những năm 1928-1929 tôi sống ở Paris, chuyên
viết truyện ngắn và tiểu thuyết nhưng không có nhà xuất bản nào chịu in
(tôi đã xé bỏ hết). Những năm sau đó tôi phải tay làm hàm nhai, đôi khi
phải nhịn đói. Chỉ từ năm 1934 tới nay tôi mới sống được bằng ngòi bút.
Trong thời gian này tôi đã sống nhiều tháng giữa những người nghèo khổ
và bất hảo, ăn xin và ăn cắp tại những khu vực tồi tệ nhất của những khu
phố nghèo. Lúc đầu tôi phải nhập bọn với họ vì không có tiền, nhưng sau
này tôi lại rất thích lối sống đó. Tôi đã dành nhiều tháng trời để
nghiên cứu đời sống thợ mỏ ở miền Bắc nước Anh. Cho đến năm 1930 nói
chung tôi vẫn chưa phải là người theo trường phái xã hội. Thực ra tôi
vẫn chưa xác định được quan điểm chính trị của mình.Tôi trở thành người
theo trường phái xã hội vì căm thù cách người ta đàn áp và khinh thường
tầng lớp công nhân công nghiệp nghèo khổ chứ không phải vì thán phục xã
hội theo kế hoạch hoá về mặt về mặt lí luận.
Tôi
lập gia đình năm 1936. Cuộc nội chiến ở Tây Ban Nha nổ ra ngay trong
những ngày đó. Hai vợ chồng tôi đều muốn đi Tây Ban Nha để chiến đấu cho
chính phủ nước này. Chúng tôi sẵn sàng lên đường, sáu tháng sau đó, khi
tôi viết xong cuốn sách mà tôi đã khởi sự từ trước. Tôi đã ở mặt trận
Aragon gần Huesca sáu tháng liền, cho đến khi bị một phát đạn bắn tỉa
xuyên qua cổ.
Trong
giai đoạn đầu của cuộc chiến những người ngoại quốc hoàn toàn không
hiểu được cuộc đấu tranh giữa các đảng phái ủng hộ chính phủ Tây Ban
Nha. Do một loạt sự tình cờ, tôi không tham gia các Binh đoàn Quốc tế
như đa số những người ngoại quốc khác mà chiến đấu trong hàng ngũ của
lực lượng vũ trang POUM, đảng của những người theo phái Troskist Tây Ban
Nha.
Vì
vậy giữa năm 1947 khi những người Cộng sản nắm được quyền kiểm soát
(hay một phần quyền kiểm soát) chính phủ Tây Ban Nha và bắt đầu săn đuổi
những người Troskist thì cả hai vợ chồng tôi đều trở thành nạn nhân.
Chúng tôi may mắn đi khỏi được Tây Ban Nha, thậm chí không bị bắt lần
nào. Nhiều bạn bè của chúng tôi đã bị bắn bỏ, một số bị tù đày nhiều
năm, số khác thì mất tích.
Những
cuộc săn người ở Tây Ban Nha xảy ra đồng thời với những cuộc thanh
trừng vĩ đại ở Liên Xô. Thực chất những vụ thanh trừng ở Tây Ban Nha và ở
Nga chỉ là một (gọi là âm mưu với bọn phát xít) và nếu nói về Tây Ban
Nha thì tôi có đầy đủ cơ sở để tin rằng đấy là những vụ kết án oan. Qua
đó tôi đã nhận được một bài học đắt giá: nó dạy tôi rằng bộ máy tuyên
truyền của chế độ toàn trị dễ dàng lèo lái dư luận ở những nước dân chủ
đến mức nào.
Hai
vợ chồng tôi đã chứng kiến những người vô tội bị quẳng vào nhà giam chỉ
vì họ bị nghi là không theo đường lối chính thống. Khi trở về Anh chúng
tôi thấy rất nhiều người thạo tin và nhạy bén tin vào những bản án kì
quặc về âm mưu phản bội và phá hoại do báo chí tường thuật từ những vụ
án ở Moscow.
Và tôi thực sự hiểu ra ảnh hưởng tiêu cực của huyền thoại Xô viết đối với phong trào xã hội ở phương Tây.
Đến đây tôi xin dừng lại một chút để trình bày thái độ của tôi đối với chế độ Xô viết.
Tôi
chưa đến thăm Nga bao giờ và hiểu biết của tôi về nước Nga chỉ là kiến
thức do thu lượm được từ báo chí, sách vở. Ngay cả nếu có đủ sức tôi
cũng sẽ không can thiệp vào công việc nội bộ của Liên Xô: tôi sẽ không
kết án Stalin và các cộng sự của ông ta chỉ vì những phương pháp dã man
và phi dân chủ của họ. Có thể là trong những điều kiện như thế, dù có
muốn, họ cũng không thể hành động khác được.
Nhưng
mặt khác đối với tôi điều cực kì quan trọng là nhân dân Tây Âu phải
nhận rõ chế độ Xô viết như nó đang là. Từ năm 1930 tôi nhìn thấy rất ít
bằng chứng là Liên Xô đang tiến đến cái có thể thực sự gọi là Chủ nghĩa
xã hội. Ngược lại, có những chỉ dấu rõ ràng rằng xã hội ấy đang chuyển
hoá thành xã hội có tôn ti trật tự và những người cầm quyền, cũng như
mọi giai cấp cầm quyền khác, chẳng thấy có lí do gì để rời bỏ quyền lực
đã làm tôi choáng váng. Hơn nữa công nhân và trí thức ở những nước như
Anh quốc lại không hiểu rằng Liên Xô hôm nay đã khác hẳn Liên Xô năm
1917. Một phần vì họ không chịu hiểu (nghĩa là họ muốn tin rằng có một
nước xã hội chủ nghĩa quả thực đang tồn tại ở đâu đó), một phần vì họ
quen với cuộc sống tự do và ôn hoà, họ không biết gì về chủ nghĩa toàn
trị.
Cần
phải nhớ rằng nước Anh chưa phải là nước hoàn toàn dân chủ. Đây vẫn là
nước tư bản với những đặc quyền đặc lợi giai cấp (ngay cả bây giờ, sau
cuộc chiến tranh có xu hướng làm cho mọi người bình đẳng hơn) và sự
chênh lệch gay gắt về tài sản. Nhưng dù sao ở đây người dân đã có cuộc
sống không có những xáo trộn lớn suốt mấy trăm năm qua, luật pháp tương
đối công chính, tin tức và số liệu của chính quyền có thể tin được và
cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng là người ta có thể giữ và ủng
hộ quan điểm của thiểu số mà không bị bất kì đe dọa chết người nào.
Trong hoàn cảnh như vậy người ta không thể nào hiểu được những hiện
tượng như trại tập trung, cưỡng ép di cư hàng lọat, bỏ tù không cần xét
xử, kiểm duyệt báo chí v.v... Tất cả những điều đọc được trên báo chí về
những nước như Liên Xô được tự động phiên dịch sang các thuật ngữ của
nước Anh và họ ngây thơ tin ngay những điều dối trá của bộ máy tuyên
truyền của chế độ toàn trị đó. Cho đến năm 1939, và cả sau này nữa, đa
số người Anh không hiểu được thực chất chế độ phát-xít ở Đức và nay họ
cũng có ảo tưởng tương tự như vậy đối với Liên Xô.
Điều
đó đặc biệt có hại đối với phong trào Xã hội Anh và gây hậu quả xấu đối
với chính sách đối ngoại của nước Anh. Theo tôi, tin rằng nước Nga là
nước xã hội chủ nghĩa và mọi hành vi của những người cầm quyền ở đó đều
nên được tha thứ, nếu không nói là phải theo là sự phản bội đối với lí
tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy trong mười năm gần đây tôi đã đi đến kết
luận rằng việc phá tan huyền thoại Xô viết là việc làm vô cùng cần thiết
nếu ta muốn tái sinh phong trào xã hội chủ nghĩa.
Ngay
sau khi trở về từ Tây Ban Nha tôi đã nghĩ đến việc vạch trần huyền
thoại Xô viết dưới dạng một câu chuyện dễ hiểu và dễ dịch sang các thứ
tiếng khác. Nhưng chi tiết của câu chuyện vẫn chưa có, cho đến một hôm
(khi đó tôi sống ở nông thôn) tôi trông thấy một cậu bé, khoảng mười
tuổi, đang đánh một chiếc xe ngựa to trên một con đường hẹp, cứ mỗi lần
con ngựa định quay ngang là cậu bé lại ra roi. Trong đầu tôi bỗng loé
lên ý nghĩ rằng nếu loài vật nhận thức được sức mạnh của chúng thì con
người không thể nào còn điều khiển được chúng nữa và con người bóc lột
loài vật cũng hệt như các tầng lớp hữu sản bóc lột giai cấp vô sản vậy.
Tôi
tiến hành phân tích học thuyết của Marx trên quan điểm của súc vật. Đối
với loài vật thì rõ ràng là luận điểm về đấu tranh giai cấp giữa người
với người chỉ là một sự lừa mị, vì mỗi khi cần bóc lột súc vật là tất cả
mọi người lại đoàn kết với nhau để chống lại chúng: cuộc đấu tranh thực
sự là cuộc đấu tranh giữa loài vật và loài người. Từ đây việc tạo ra
tác phẩm không còn khó nữa. Tôi bận nhiều việc khác, không có thì giờ,
cho nên mãi đến năm 1943 tôi vẫn chưa bắt đầu viết truyện này và cuối
cùng tôi đã đưa thêm một số sự kiện, thí dụ như Hội nghị Teheran là sự
kiện xảy ra trong thời gian tôi viết. Như vậy là đường hướng chính của
câu chuyện đã nằm trong đầu tôi suốt sáu năm trước khi tôi thực sự đưa
nó lên giấy.
Tôi
không có ý bình luận tác phẩm, nếu tác phẩm không có sức thuyết phục
thì có nghĩa là tác phẩm ấy đã thất bại. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai
điểm: thứ nhất, mặc dù nhiều tình tiết được lấy từ lịch sử của cuộc Cách
mạng Nga nhưng chúng chỉ có ý nghĩa tượng trưng và trật tự đã được thay
đổi cho cân đối với cốt truyện. Điểm thứ hai thường bị các nhà phê bình
bỏ qua, nguyên nhân có thể là vì tôi chưa nhấn đúng mức. Nhiều độc giả
sau khi đọc xong có cảm tưởng rằng cuốn sách đã dừng lại ở sự hoà giải
hoàn toàn giữa loài lợn và loài người. Nhưng đấy không phải là ý của
tôi, ngược lại, tôi cố ý kết thúc ở chỗ chỉ rõ sự bất hoà, vì tôi viết
chuyện này ngay sau Hội nghị Teheran, mọi người lúc đó đều nghĩ rằng Hội
nghị này sẽ thiết lập một mối quan hệ tốt đẹp nhất có thể giữa Liên Xô
và phương Tây. Cá nhân tôi không tin rằng quan hệ tốt đẹp đó có thể kéo
dài được lâu, và như các sự kiện cho thấy, tôi đã không lầm.
Tôi
không biết phải nói gì thêm nữa. Nếu độc giả nào quan tâm đến cá nhân
tôi thì tôi xin nói thêm rằng tôi đã goá vợ, hiện tôi đang sống với con
trai ba tuổi, tôi là nhà văn chuyên nghiệp nhưng từ khi bắt đầu cuộc
chiến thì tôi làm việc chủ yếu như một phóng viên.
Tôi
thường viết cho tờ Tribune, một tờ tuần báo đại diện cho phái tả của
đảng Lao động. Các cuốn sách sau đây của tôi có thể được độc giả quan
tâm: Những ngày ở Miến điện (câu chuyện về Miến điện), Tưởng nhớ
Catalonia (viết về những trải nghiệm của tôi trong cuộc nội chiến ở Tây
Ban Nha) và tác phẩm Phê bình (các bài viết về văn học đương đại Anh,
được viết chủ yếu từ quan điểm xã hội học hơn là quan điểm thuần tuý văn
chương). 1947
Chương 1
Phạm Minh Ngọc dịch từ nguyên bản tiếng Anh, có tham khảo bản Nga văn của Лара Беспалова -2001г.
Ông
Jones, chủ Điền Trang đóng cửa chuồng gà, nhưng vì say quá nên quên
đóng cửa chuồng lợn. Với chiếc đèn bão trong tay, đung đưa, khi sang
phải, khi sang trái, ông lảo đảo đi qua sân, tới cửa sau thì lấy chân
đạp ủng ra và bước vào bếp để uống nốt vại bia cuối cùng trong ngày rồi
leo lên giường, nơi vợ ông, bà Jones đã ngáy khò khò.
Ngay
khi đèn trong phòng ngủ vừa tắt, đây đó bỗng dậy lên những tiếng sột
soạt, thì thầm. Ngày hôm đó có tin đồn rằng Thủ Lĩnh, một con lợn đực
trắng, từng được huy chương trong một cuộc triển lãm, đêm hôm trước có
một giấc mơ kì lạ và muốn kể cho mọi loài cùng nghe. Chúng thoả thuận
với nhau là ngay sau khi ông Jones đi ngủ sẽ tập trung trong nhà kho
lớn. Tất cả các con vật trong trang trại đều kính trọng Thủ Lĩnh (chúng
gọi nó như vậy, mặc dù khi đi dự triển lãm nó mang tên Willingdon Điển
Trai) và sẵn sàng hi sinh giấc ngủ để được nghe nó nói chuyện.
Thủ
Lĩnh ngồi trên một cái bục có nệm rơm phía trong cùng nhà kho, dưới ánh
sáng của chiếc đèn bão treo trên xà nhà. Nó đã mười hai tuổi, mặc dù
thời gian gần đây có béo thêm, với những chiếc răng nanh thò cả ra,
nhưng trông nó vẫn có vẻ tiên phong đạo cốt, phúc hậu. Những con khác
bắt đầu lục tục kéo tới, mỗi con tìm một chỗ ngồi thuận lợi. Đầu tiên là
ba con chó Bluebell, Jessie và Pincher, sau đó là lũ lợn; chúng ngồi
trên đống rơm phía trước bục. Lũ gà leo lên bậu cửa sổ, đám bồ câu đậu
trên rui mè, bọn bò và cừu nằm phía sau lũ lợn và bắt đầu công việc nhai
lại của chúng. Hai con ngựa kéo xe tên là Chiến Sĩ và Bà Mập cùng vào,
từ từ lại gần cái bục, trước mỗi bước chúng đều thận trọng quan sát để
không giẫm bẹp một con thú nhỏ nào ở bên dưới lớp rơm. Bà Mập, một con
ngựa cái trung niên hiền lành, thân hình đã sồ sề vì bốn lần sinh nở.
Chiến Sĩ, một con tuấn mã cao đến gần hai mét và khoẻ bằng hai con ngựa
khác. Vì có một vệt trắng dọc sống mũi nên trông nó có vẻ đần, thực ra
cu cậu cũng không thuộc loại thông minh, nhưng bù lại, nó được các con
khác tôn trọng vì tính kiên định và hay lam hay làm. Sau đó là đến con
dê trắng tên là Mona và con lừa tên là Benjamin. Benjamin là con vật già
nhất bọn, nhưng cũng là con xấu tính nhất. Benjamin ít nói, nhưng hễ mở
miệng là y như rằng nó tìm cách giễu cợt, ví dụ có lần nó tuyên bố rằng
Thượng Đế tạo cho nó cái đuôi để đuổi ruồi, nhưng giá đừng có cả đuôi
lẫn ruồi thì còn thích hơn. Nó là con vật duy nhất không bao giờ cười.
Nếu hỏi tại sao thì nó bảo: chẳng có lí do gì. Mặc dù vậy và tuy không
nói ra nhưng nó rất trung thành với Chiến Sĩ, chủ nhật nào hai con cũng
yên lặng gặm cỏ bên nhau ở bãi giữ ngựa phía sau khu vườn.
Hai
con ngựa vừa nằm xuống thì bầy vịt con mồ côi lao vào nhà kho, chúng
vừa kêu chiếp chiếp khe khẽ vừa chạy loanh quanh, mong tìm một chỗ an
toàn. Bà Mập lấy chân trước khoanh thành một khu cho chúng, lũ vịt con
mau chóng chui vào đó rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Ngay trước khi
buổi nói chuyện bắt đầu thì Mollie, một ả ngựa cái dốt nát, màu trắng,
chuyên kéo chiếc xe nhỏ của ông Jones, vừa đi vừa nhai một cục đường,
mới õng ẹo bước vào. Nó lập tức chiếm ngay vị trí phía trước cái bục và
lắc lư bờm để mong những con khác chú ý đến dải ruy băng đỏ trang điểm
trên đó. Cuối cùng là một con mèo, nó nhìn quanh và vẫn như mọi khi, cố
tìm cho mình một chỗ thật ấm, rồi chen vào nằm giữa Chiến Sĩ và Bà Mập,
chị chàng sung sướng phát ra những tiếng gừ… gừ… trong cổ họng, mặc Thủ
Lĩnh muốn nói gì thì nói.
Thế
là tất cả các con vật trong Điền Trang đã có mặt đầy đủ, chỉ trừ con
quạ Moses, nó ngủ trên hàng rào ngay bên ngoài cửa sau. Khi Thủ Lĩnh
thấy tất cả đã an vị và sẵn sàng lắng nghe thì húng hắng ho lấy giọng và
bắt đầu:
"Thưa
các đồng chí! Như các đồng chí đã biết, đêm qua tôi có một giấc mơ kì
lạ. Nhưng tôi sẽ nói chuyện đó sau. Đầu tiên tôi muốn nói với các đồng
chí một số việc hoàn toàn khác. Thưa các đồng chí, tôi nghĩ rằng tôi
không ở lại với các đồng chí được bao lâu nữa, vì vậy tôi cho rằng trước
khi chết mình phải có trách nhiệm chia sẻ với các đồng chí những kinh
nghiệm mà tôi đã tích lũy được trong suốt cuộc đời mình. Tôi đã có một
cuộc đời phải nói là dài và tôi đã suy nghĩ rất nhiều khi nằm một mình
trong chuồng, tôi nghĩ rằng tôi có thể nói là tôi hiểu đời không thua
bất kì con vật nào trên thế gian này. Đó là điều tôi muốn nói với các
đồng chí.
Bây
giờ, thưa các đồng chí, thực chất đời sống của chúng ta là gì? Chúng ta
hãy nhìn thẳng vào sự thật. Cuộc đời của chúng ta là khổ sai, khốn nạn
và yểu mệnh. Chúng ta sinh ra, chúng ta được một khẩu phần vừa đủ để
khỏi chết vì đói, những con nào có thể làm thì phải làm đến kiệt sức và
khi không làm được nữa thì chúng ta bị giết một cách vô cùng dã man, tàn
bạo. Không có con vật nào ở nước Anh này biết đến hạnh phúc và niềm vui
ngay khi vừa tròn một tuổi. Không có con vật nào ở nước Anh này được tự
do. Cuộc sống của loài vật là cuộc sống nghèo khổ và nô lệ: sự thật
trần trụi là như thế đấy.
Nhưng
đấy có phải là qui luật của tự nhiên không? Chả lẽ nước ta lại nghèo
đến độ không nuôi nổi những động vật sống ở đây ư? Không, ngàn vạn lần
không, thưa các đống chí. Đất Anh màu mỡ, thời tiết thuận hòa, thừa sức
cung cấp thức ăn cho một số lượng động vật lớn hơn hiện nay rất nhiều.
Chỉ nội cái trang trại của chúng ta đã có thể nuôi được một tá ngựa, hai
chục bò, hàng trăm cừu và tất cả đều có thể sống trong tiện nghi và
phẩm giá mà nay chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi. Thế thì tại sao
chúng ta lại cứ tiếp tục sống trong điều kiện khốn nạn thế này? Bởi vì
hầu như toàn bộ những gì chúng ta làm ra đều bị con người chiếm đoạt
hết. Đấy là nguyên nhân tất cả các vấn nạn của chúng ta. Nói ngắn gọn
bằng một từ là: Con Người. Con Người là kẻ thù của chúng ta. Nếu không
còn người nữa thì chúng ta vĩnh viễn sẽ không còn bị đói, không còn phải
làm công việc khổ sai nữa.
Người
là giống vật duy nhất chỉ ăn mà không làm. Người không làm ra sữa,
không đẻ ra trứng, người không thể kéo cày, không chạy nhanh bằng thỏ.
Nhưng nó lại là chủ của tất cả chúng ta. Nó bắt chúng ta làm việc, cướp
lấy mọi thành quả lao động của chúng ta, chỉ cho chúng ta ăn vừa đủ để
không chết đói mà thôi. Chúng ta phải cày bừa, phân chúng ta bón ruộng,
thế mà chúng ta có gì? Chẳng có gì ngoài da bọc xương. Các đồng chí bò
đang ngồi trước mặt tôi đây, năm vừa qua các đồng chí cho bao nhiêu lít
sữa? Thế số sữa mà đáng lẽ dùng để nuôi các chú bò con ấy đi đâu? Kẻ thù
của chúng ta đã uống đến giọt cuối cùng. Còn các bạn gà, năm vừa qua
các bạn đã đẻ bao nhiêu trứng, trong đó có bao nhiêu quả nở thành gà
con? Lão Jones và gia nhân đã mang ra chợ bán lấy tiền hết rồi. Bà Mập,
bốn đứa con của bà, niềm vui và chốn nương tựa lúc tuổi cao bóng xế của
bà đâu rồi? Chúng đã bị đem bán khi vừa tròn một tuổi, bà sẽ không bao
giờ được gặp lại chúng nữa. Một khẩu phần ăn chết đói và cái chuồng,
công cho bốn lần vượt cạn cũng như công việc đồng áng của bà chỉ có thế
mà thôi!
Nhưng
dù khốn nạn như thế chúng ta cũng có được sống trọn tuổi trời đâu.
Riêng tôi thì chẳng có gì phải phàn nàn, vì thực ra tôi đã gặp may. Năm
nay tôi đã mười hai tuổi rồi, tôi có hơn bốn trăm đứa con. Trời đất sinh
ra giống lợn là như thế. Nhưng cuối cùng thì cũng chẳng có con vật nào
thoát khỏi lưỡi dao oan nghiệt. Tất cả các bạn lợn thịt đang ngồi trước
mặt tôi đây, trong vòng một năm nữa tất cả các bạn sẽ phải từ giã cõi
đời trên tấm phản mổ. Tất cả chúng ta, bò, lợn, gà, cừu, không ai trong
chúng ta tránh khỏi cái kết cục khủng khiếp đó. Số phận của loài ngựa và
loài chó cũng chẳng tốt đẹp hơn. Đồng chí Chiến Sĩ nữa, ngay khi cơ bắp
của đồng chí vừa yếu đi thì lão Jones sẽ bán đồng chí cho lão mổ ngựa,
hắn sẽ cắt cổ đồng chí rồi hầm dừ cho lũ chó săn ăn. Những con chó già,
rụng răng sẽ bị lão Jones buộc một viên gạch vào cổ và quăng xuống hồ.
Thưa
các đồng chí, chả lẽ các đồng chí không thấy rằng tất cả mọi khổ đau
trong cuộc đời này của chúng ta chính là do con người mà ra hay sao? Nếu
chúng ta loại bỏ được Con Người thì mọi thành quả lao động của chúng ta
sẽ thuộc về chúng ta. Nếu làm được thế thì chỉ sau một đêm chúng ta sẽ
trở nên giàu có và tự do. Thế thì chúng ta phải làm gì? Làm việc, không
kể ngày đêm, cả bằng sức mạnh và tài năng để lật đổ ách thống trị của
loài người! Khởi nghĩa! Các đồng chí - đấy là thông điệp của tôi. Tôi
không biết khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa sẽ xảy ra, có thể trong tuần tới,
cũng có thể là một trăm năm nữa, nhưng tôi biết rõ, như tôi đang nhìn
thấy những cọng rơm bên dưới chân tôi đây rằng sớm muộn gì rồi công bằng
cũng sẽ được thiết lập. Các đồng chí hãy nghĩ đến điều đó trong suốt
cuộc đời còn lại ngắn ngủi của mình! Ngoài ra, hãy chuyển thông điệp của
tôi đến các thế hệ tương lai, để các thế hệ đó tiếp tục cuộc đấu tranh
cho đến thắng lợi cuối cùng.
Các
đồng chí hãy kiên định. Không được dao động. Đừng có nghe theo lời
tuyên truyền rằng Con Người và các loài vật cùng có chung quyền lợi,
rằng sự thịnh vượng của loài này cũng là sự thịnh vượng của loài kia.
Bịp bợm hết. Con Người không quan tâm đến quyền lợi của ai, nó chỉ quan
tâm đến chính nó mà thôi. Các loài vật chúng ta phải đoàn kết nhất trí,
phải có tinh thần đồng chí trong cuộc đấu tranh này. Tất cả loài người
đều là kẻ thù. Tất cả các con vật đều là đồng chí."
Đúng
lúc đó thì tiếng ồn ào nổi lên. Chả là trong khi Thủ Lĩnh đang nói thì
có bốn con chuột cống bò ra khỏi hang và cũng đến nghe. Mấy con chó đã
trông thấy và may là lũ chuột kịp chạy vào hang, không thì đã mất mạng
rồi. Thủ Lĩnh phải giơ chân lên đề nghị im lặng.
"Thưa
các đồng chí", nó nói, "có một vấn đề cần phải giải quyết. Những con
thú hoang như chuột cống và thỏ, chúng là bạn hay là kẻ thù của chúng
ta? Đề nghị biểu quyết. Tôi xin đặt vấn đề với hội nghị như sau: Chuột
có phải là đồng chí không?"
Cuộc
bỏ phiếu được thực hiện ngay, đa số tán thành coi chuột là đồng chí.
Chỉ có bốn phiếu chống, đấy là ba con chó và một con mèo, nhưng sau này
mới phát hiện ra rằng mèo ta bỏ cả phiếu thuận lẫn phiếu chống. Thủ Lĩnh
tiếp tục:
"Tôi
xin nói thêm một chút nữa. Tôi chỉ muốn nhắc lại rằng nhiệm vụ của các
đồng chí là phải luôn luôn tranh đấu với Con Người và tất cả những gì do
nó tạo ra. Tất cả những loài hai chân đều là kẻ thù. Tất cả những loài
bốn chân hoặc có cánh đều là bạn. Các đồng chí lại phải luôn luôn nhớ
rằng chúng ta không được bắt chước loài người trong cuộc đấu tranh chống
lại chúng. Ngay cả khi đã chiến thắng, chúng ta cũng không được tập
nhiễm các thói xấu của chúng. Không có con vật nào được sống trong nhà,
ngủ trên giường, mặc quần áo, uống rượu, hút thuốc, sử dụng tiền hoặc
tham gia buôn bán. Tất cả phong tục của loài người đều là có hại. Quan
trọng nhất là không con nào được áp chế con nào. Khoẻ cũng như yếu,
thông minh tài trí cũng như bình thường, tất cả chúng ta đều là anh em.
Không được giết hại lẫn nhau. Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng.
Và
bây giờ, thưa các đồng chí, tôi sẽ kể cho các đồng chí nghe giấc mơ của
tôi tối hôm qua. Tôi không thể mô tả được. Tôi mơ thấy trái đất khi con
người đã biến đi rồi. Giấc mơ này làm sống dậy trong trí tôi một việc
như sau:
"Cách
đây đã lâu, khi tôi còn là một chú lợn nhỏ, mẹ tôi cùng với các cô bác
lợn khác thường hát một bài hát có từ ngày xưa: họ chỉ nhớ nhạc điệu và
ba từ đầu tiên thôi. Lúc bé tôi cũng thuộc nhạc điệu, nhưng tôi đã quên
từ lâu. Thế mà đêm qua, trong giấc mơ, tôi đã nhớ lại tất cả, hơn thế
nữa, tôi còn nhớ lại được cả lời bài hát, tôi tin chắc rằng ngày xưa các
loài vật đã từng hát như thế, nhưng sau này họ quên và mấy thế hệ gần
đây hoàn toàn không biết hát nữa. Bây giờ tôi sẽ hát cho các đồng chí
nghe. Tôi đã già, giọng không còn trong, nhưng khi tôi dạy nhạc điệu cho
các đồng chí thì các đồng chí sẽ hát hay hơn. Bài hát tên là: Súc Sinh
Anh quốc".
Thủ
lĩnh già hắng giọng và bắt đầu hát. Giọng đúng là đã khàn, nhưng nó hát
cũng không đến nỗi tồi, giai điệu hỗn hợp giữa kiểu "Clementine" và "La
Cucuracha". Lời bài hát như sau:
"Súc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng tươi
Đồng cỏ núi đồi
Mãi mãi xanh ngời
Khi lũ người
Không còn là ách trên vai
Chạc, chạc không còn
Cương, cương cũng không
Roi vọt, chửi mắng
Chỉ là quá khứ tối tăm
Ta giàu, ta có
Vườn cây, đồng lúa
Đậu, sắn, ngô, khoai
Là của chúng ta từ đây
Mặt trời sáng soi
Nước càng ngọt tươi
Gió mát muôn đời
Là ngày tự do tương lai
Súc sinh Anh quốc
Súc sinh muôn nơi
Lắng nghe niềm vui mới
Của một ngày mai sáng tươi" 1
Bài
hát đã làm cho lũ súc vật kích động tột độ. Một số con kịp bắt theo
ngay trước khi Thủ lĩnh hát hết bài. Ngay những con ngu dốt nhất cũng
nắm được nhạc điệu và thuộc mấy từ, còn những con thông minh hơn, như lũ
chó và lũ lợn, thì thuộc lòng cả bài ngay trong vài phút đầu. Sau vài
lần tập, cả trang trại đã cùng đồng ca được bài Súc Sinh Anh quốc. Mỗi
loài hát một giọng, bò rống, chó sủa, cừu kêu be be, ngựa hí, vịt kêu
cạp cạp. Chúng khoái bài hát đến độ hát liền một mạch năm lần và chúng
có thể hát mãi như thế suốt đêm nếu không bị ngăn trở.
Đáng
tiếc là tiềng ồn ào đã làm ông Jones thức giấc, ông bước xuống giường
vì tin chắc là có một con cáo đã lọt vào sân. Ông tìm khẩu súng vẫn
thường dựng ở góc phòng và bắn một lọat đạn ghém lên trời. Có mấy viên
găm vào tường nhà kho và cuộc họp mau chóng kết thúc. Từng con quay về
chỗ ngủ của mình. Gia cầm nhảy lên ổ, còn gia súc thì nằm xuống đống rơm
và chẳng bao lâu sau cả trang trại đã chìm vào giấc ngủ.
--------------------------------
1 Nguyên văn hai bài thơ " Súc Sinh Anh quốc":
Beasts of England
Beasts of England, beasts of Ireland,
Beasts of every land and clime,
Hearken to my joyful tidings
Of the golden future time.
Soon or late the day is coming,
Tyrant Man shall be o'erthrown,
And the fruitful fields of England
Shall be trod by beasts alone.
Rings shall vanish from our noses,
And the harness from our back,
Bit and spur shall rust forever,
Cruel whips no more shall crack.
Riches more than mind can picture,
Wheat and barley, oats and hay,
Clover, beans and mangel-wurzels
Shall be ours upon that day.
Bright will shine the fields of England,
Purer shall its waters be,
Sweeter yet shall blow its breezes
On the day that sets us free.
For that day we all must labour,
Though we die before it break;
Cows and horses, geese and turkeys,
All must toil for freedom's sake.
Beasts of England, beasts of Ireland,
Beasts of every land and clime,
Hearken well and spread my tidings
Of the golden future time.
Chương 2
Ba đêm sau Thũ Lĩnh già bình thản ra đi. Xác nó được chôn ở cuối khu vườn.
Chuyện
đó xảy ra vào đầu tháng ba. Lũ súc vật tăng cường hoạt động ngầm liên
tục trong ba tháng tiếp theo. Bài diễn văn của Thủ Lĩnh đã tạo ra một
quan niệm sống hoàn toàn mới nơi những con thông minh. Chúng không biết
khi nào thì cuộc Khởi Nghĩa mà Thủ Lĩnh tiên đoán sẽ xảy ra, chúng cũng
không nghĩ sẽ được chứng kiến cảnh tượng đó, nhưng chúng biết rõ một
điều là có trách nhiệm tiến hành công việc chuẩn bị. Công tác giáo dục
và tổ chức dĩ nhiên là được giao cho bọn lợn vì chúng vốn được coi là
loài thông minh nhất. Hai con lợn đực giống trẻ tên là Tuyết Tròn và
Napoleon đang được ông Jones vỗ béo để bán là hai con nổi tiếng nhất.
Napoleon là một con lợn đực, trông hung dữ, giống Berkshire duy nhất
trong Điền Trang, nó vốn kiệm lời nhưng nổi tiếng kiên nhẫn. Tuyết Tròn
thì hoạt bát, dẻo miệng hơn, có nhiều sáng kiến hơn, nhưng đa số cho
rằng tính cách không được sâu sắc bằng Napoleon. Số còn lại đều là lợn
thịt. Con nổi bật nhất trong số đó tên là Chỉ Điểm, một con lợn nhỏ, khá
béo nhưng lanh lợi, hai má phính, đôi mắt đảo lia lịa còn giọng nói thì
the thé. Nó là một diễn giả có hạng, khi cần chứng minh một vấn đề khó
khăn thì nó nhảy qua nhảy lại và vẫy đuôi, trông rất thuyết phục. Đồn
rằng nó có thể biến đen thành trắng dễ như chơi.
Ba
con này đã phát triển học thuyết của Thủ Lĩnh già thành một hệ thống
triết học hoàn chỉnh mà chúng gọi là Súc Sinh Kinh. Đêm nào cũng vậy, cứ
sau khi ông Jones đi ngủ là chúng bí mật tụ họp trong nhà kho để giảng
giải cho những con khác các luận điểm chủ yếu của Súc Sinh Kinh. Thoạt
đầu quả là có nhiều khó khăn vì lũ súc vật tỏ ra hờ hững và rất ngu dốt.
Có con nói rằng có nghĩa vụ trung thành với ông Jones mà nó gọi là ông
chủ, có con còn phát biểu một cách thiếu ý thức: "Ông Jones nuôi chúng
ta. Không có ông ấy thì ta chết đói rã họng ra ấy chứ". Một số con còn
đặt câu hỏi đại loại: "Quan tâm đến chuyện sau khi ta chết để làm gì?"
hoặc "Đằng nào thì cuộc khởi nghĩa cũng sẽ diễn ra, ta làm hay không làm
thì cũng thế thôi". Mấy con lợn phải khó khăn lắm mới thuyết phục được
chúng rằng những luận điệu như thế là hoàn toàn trái với tinh thần của
Súc Sinh Kinh. Nhưng những câu hỏi ngu xuẩn nhất lại là của ả ngựa cái
màu trắng tên là Mollie. Đầu tiên ả hỏi Tuyết Tròn:
"Thế sau khi khởi nghĩa thì có đường không?"
"Không",
Tuyết Tròn ngắt lời, "Chúng ta không sản xuất đường. Thực ra đồng chí
sẽ không cần đường. Đồng chí sẽ có đủ yến mạch và rơm mà đồng chí cần."
"Thế tôi có còn được đeo ruy băng nữa không?"
"Đồng
chí", Tuyết Tròn nói, "Cái ruy băng mà đồng chí yêu thích đó chính là
biểu tượng của tinh thần nô lệ. Chả lẽ đồng chí không thấy rằng tự do
đáng quí hơn cái ruy băng hay sao?"
Mollie đồng ý, nhưng trông nó có vẻ không tin tưởng lắm.
Bọn
lợn còn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc bác bỏ những luận điệu do con
quạ Moses đưa ra. Moses là con vật cưng của ông Jones, nó chuyên đi
rình rập nhưng lại nhớ rất nhiều chuyện cổ tích và cũng là một diễn giả
có hạng. Nó bảo rằng có biết một vương quốc thần thoại tên là Núi Xôi,
nơi linh hồn các con vật sẽ tới sau khi chầu trời. Moses nói rằng vùng
đó nằm không xa, sau các đám mây. Ở đó cả bảy ngày trong tuần đều là chủ
nhật hết, còn cỏ ba lá thì xanh quanh năm, đường phèn và bánh khô thì
mọc ngay trên bờ dậu. Các con vật rất ghét Moses vì nó chỉ nói chứ không
làm, nhưng có vài con lại tin là có miền cực lạc Núi Xôi của nó, thành
ra lũ lợn phải vất vả lắm mới thuyết phục được chúng rằng không thể nào
có một miền như thế được.
Tông
đồ tin cậy nhất của chúng là hai con ngựa kéo xe, Chiến Sĩ và Bà Mập.
Hai con này vốn dĩ chậm hiểu nhưng khi chúng đã coi lũ lợn là sư phụ rồi
thì nuốt lấy từng lời giáo huấn rồi giảng giải lại cho những con khác
bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu hơn. Hai con này không bỏ bất cứ một buổi họp
nào và thường là những kẻ cầm càng bài Súc Sinh Anh quốc mỗi khi cuộc
họp kết thúc.
Cuộc
Khởi Nghĩa xảy ra sớm hơn và dễ dàng hơn chúng tưởng rất nhiều. Trong
những năm gần đây, ông Jones, vốn là một điền chủ giỏi và nghiêm khắc,
đã gặp nhiều sự cố. Sau khi bị mất nhiều tiền vào việc kiện tụng, ông
trở nên ủ dột và uống nhiều rượu hơn bình thường. Ông thường ngồi cả
ngày trên chiếc ghế bành trong bếp, vừa đọc báo vừa uống bia, thỉnh
thoảng lại cho con Moses những mẩu vỏ bánh mì chấm bia. Gia nhân thành
ra một lũ lười nhác, trộm cắp, đồng nội thành bãi đất hoang, nhà cửa dột
nát, rào dậu nghiêng đổ, súc vật thường xuyên bị bỏ đói.
Đã
sang tháng sáu, đây là mùa cắt cỏ. Trước ngày Hạ chí 2 , hôm ấy là thứ
bảy, ông Jones đi Willingdon và uống đến say khướt tại nhà hàng Sư Tử
Đỏ, trưa chủ nhật mới về. Bọn gia nhân thì vội vàng vắt sữa từ sáng sớm
rồi bỏ đi săn thỏ mà không thèm cho súc vật ăn tí nào. Về đến nhà ông
Jones leo ngay lên ghế sopha trong phòng khách rồi lấy tờ "News of the
World" 3 phủ lên mặt và ngủ, súc vật bị bỏ đói cho đến tận chiều tối.
Cuối cùng chúng hết chịu nổi. Một con bò cái húc đổ cửa nhà kho và thế
là tất cả mọi con vật cùng lao vào các thùng chứa ngũ cốc. Đúng lúc đó
thì ông Jones thức giấc. Ông và bốn người làm công lập tức vồ lấy roi và
lao vào kho, họ cứ thế quật túi bụi lên lưng lũ súc vật khốn nạn. Lũ
súc vật đói khát không thể chịu đựng thêm được nữa. Dù không hẹn trước,
chúng cùng xông lên và lao thẳng vào những kẻ áp bức. Ông Jones và gia
nhân bất ngờ bị đá, bị húc từ mọi hướng. Tình hình trở nên không thể
kiểm soát được. Họ chưa từng gặp chuyện như thế bao giờ, cuộc nổi loạn
bất thình lình của lũ súc vật mà trước đây muốn đánh đập, muốn hành hạ
thế nào mặc lòng, đã làm họ hoảng loạn. Họ chỉ cầm cự được vài phút rồi
phải bỏ chạy. Cả năm người vội vã lao ra con đường nhỏ để chạy lên đường
làng, trong khi lũ súc vật hào hứng truy kích theo.
Qua
cửa sổ phòng ngủ, bà Jones đã nhìn thấy hết mọi chuyện, bà vội vàng cho
một vài thứ vào cái túi vải rồi luồn theo cửa sau trốn khỏi Điền Trang.
Moses cũng kịp lao ra khỏi tổ rồi vừa kêu vừa bay theo bà chủ. Lũ súc
vật sau khi truy kích thắng lợi đã quay về và đóng cổng. Thế là, cuộc
Khởi Nghĩa đã toàn thắng, ông Jones bị đuổi đi, Điền Trang là của bọn
súc sinh ngay trước khi chúng kịp hiểu mọi chuyện.
Ban
đầu chúng không tin là số phận đã mỉm cười với chúng. Việc làm đầu tiên
của chúng là tập trung lại và chạy vòng quanh khu nhà để tìm xem có còn
sót người nào bên trong không, sau đó chúng lao vào các toà nhà để phá
hủy tàn tích của chế độ cai trị độc tài của ông Jones. Kho công cụ ở
phía cuối chuồng ngựa bị đập phá, thế là bao nhiêu hàm thiếc ngựa, vòng
đeo mũi bò, xích chó, dao hoạn lợn và cừu bị ném hết xuống giếng. Còn
dây cương, dây thòng lọng, các miếng da che mắt ngựa, giỏ thức ăn cũ
thường treo ở cổ ngựa thì bị quăng vào đống lửa giữa sân. Những chiếc
roi cũng cùng chung số phận. Mọi con vật cùng nhảy cỡn lên khi trông
thấy những cái roi bắt lửa. Tuyết Tròn còn vất luôn vào lửa những cái
ruy băng vẫn thường buộc trên bờm và đuôi ngựa mỗi kì hội chợ.
"Ruy băng", nó tuyên bố, "phải được coi là quần áo, cũng là biểu tượng của loài người. Mọi con vật đều phải khỏa thân."
Nghe thấy thế Chiến Sĩ vội tháo cái mũ rơm mà nó thường mang trong mùa hè để ngăn ruồi khỏi lọt vào tai và ném vào lửa.
Chẳng
mấy chốc lũ súc vật đã phá hủy tất cả những thứ có liên quan đến ông
Jones. Napoleon dẫn cả bọn vào kho và phát gấp đôi khẩu phần ăn hàng
ngày, mỗi con chó được hai bánh qui bơ. Sau đó chúng hát bài Súc Sinh
Anh quốc bảy lần liền, rồi cả bọn đi ngủ, chưa bao giờ chúng ngủ ngon
như hôm ấy.
Như
thường lệ, chúng thức dậy khi trời vừa rạng sáng, nhưng chúng lập tức
nhớ ngay đến sự kiện vinh quang vừa xảy ra và thế là cả bọn cùng lao ra
đồng cỏ. Trên đồng cỏ có một cái gò nhỏ, từ đây có thể nhìn thấy hầu
khắp trang trại. Lũ súc vật chạy lên đó và ngắm nhìn khung cảnh trong
ánh hồng của một ngày mới. Tất cả, tất cả những gì trước mắt kia giờ đây
đã thuộc về chúng! Trong trạng thái ngất ngây, chúng cứ chạy quanh,
chạy quanh mãi, thỉnh thoảng chúng lại nhảy lên vì sung sướng! Chúng lăn
mình trên sương ướt, chúng gặm đầy mồm cỏ ngọt mùa hè, chúng hất tung
lên những nắm đất đen và hít hà mùi vị ấm nồng của nó. Sau đó chúng đi
kiểm tra một vòng khắp trang trại, chúng yên lặng ngắm nhìn khu ruộng
lúa, đồng cỏ, vuờn quả, ao cá, lùm cây. Chúng ngắm nhìn như chưa từng
nhìn thấy những thứ ấy bao giờ, và ngay cả lúc này chúng cũng chưa tin
rằng tất cả những thứ đó đã là của chúng.
Sau
đó cả bọn lại cùng nhau quay về và yên lặng tập trung trước ngôi nhà
chính. Dù ngôi nhà này cũng đã thuộc về chúng nhưng chúng còn ngại, chưa
dám vào ngay. Nhưng Tuyết Tròn và Napoleon đã mau chóng lấy lại được
bình tĩnh và dùng vai phá cửa, rồi từng con lục tục, thận trọng bước
vào, tránh không làm xáo trộn các đồ vật bên trong. Chúng nhón gót đi từ
phòng nọ sang phòng kia, thì thào, hồi hộp ngắm nhìn cảnh xa hoa không
thể nào tin được đang bày ra trước mắt, nào giường nệm lông vịt, nào
gương soi, nào ghế nệm lông ngựa, nào thảm nhung 4, rồi ảnh nữ hòang
Vitoria [5] treo trên lò sưởi trong phòng khách. Nhưng khi xuống đến bậc
tam cấp thì chúng bỗng phát hiện ra là thiếu mất Mollie. Chúng quay vào
và thấy Mollie còn đứng trong căn phòng ngủ đẹp nhất nhà. Hoá ra cô
nàng đã lấy một dải ruy băng màu xanh trên bàn trang điểm của bà Jones,
vắt lên vai và đang thẫn thờ soi gương. Các con khác túm ngay lấy nó và
lôi ra khỏi nhà. Mấy cái đùi lợn muối treo trong bếp được đem đi chôn,
thùng bia trong phòng rửa bát thì bị Chiến Sĩ đá thủng, những thứ khác
hầu như được giữ nguyên chỗ cũ. Một nghị quyết về việc giữ toà nhà chính
làm viện bảo tàng được nhất trí thông qua ngay tại chỗ. Tất cả đều đồng
ý là không con nào có quyền sống trong toà nhà này.
Chúng đi ăn sáng và sau đó Tuyết Tròn và Napoleon mời tất cả tập trung.
"Thưa
các đồng chí", Tuyết Tròn nói, "Bây giờ là bảy giờ rưỡi, chúng ta còn
cả một ngày nữa cơ. Hôm nay chúng ta sẽ bắt đầu cắt cỏ, nhưng chúng ta
còn một việc phải làm trước đã."
Thế
là hai con lợn nói rằng nhờ những cuốn sách vỡ lòng của con ông Jones
tìm được trong đống rác mà suốt ba tháng qua chúng đã học và nay chúng
đã biết đọc, biết viết. Napoleon sai đi lấy một lọ sơn đỏ, một lọ sơn
trắng rồi dẫn cả bọn đi ra cổng lớn. Tuyết Tròn (vì nó là con viết đẹp
nhất) kẹp cái chổi sơn giữa hai móng chân, xoá chữ Điền Trang và viết
chữ Trại Súc Vật lên cái thanh trên cùng của cánh cổng. Từ nay trở đi
đấy sẽ là tên chính thức của trại này. Sau đó cả bọn quay lại khu nhà,
Tuyết Tròn và Napoleon lại ra lệnh tìm một cái thang rồi dựng sát vào
đầu hồi nhà kho. Chúng giải thích rằng sau một thời kì khổ công nghiên
cứu, ba tháng gần đây chúng đã đúc kết các luận điểm của Súc Sinh Kinh
thành Bảy Điều Răn. Bảy Điều Răn sẽ được kẻ lên tường và sẽ là luật vĩnh
viễn bất di bất dịch của tất cả các thành viên Trại Súc Vật. Tuyết Tròn
leo lên thang một cách khó nhọc (vì lợn khó giữ thăng bằng khi đứng
trên thang) và bắt đầu viết, trong khi Chỉ Điểm cầm hộp sơn đứng bên
dưới mấy bậc. Các điều răn được viết bằng sơn trắng trên bức tường quét
hắc ín, đứng xa cả ba chục mét cũng đọc rõ. Nội dung như sau:
BẢY ĐIỀU RĂN
Tất cả các loài hai chân đều là kẻ thù.
Tất cả các loài bốn chân hoặc có cánh đều là bạn.
Không con vật nào được mặc quần áo.
Không con vật nào được ngủ trên giường.
Không con vật nào được uống rượu.
Loài vật không được giết hại lẫn nhau.
Mọi con vật sinh ra đều bình đẳng.
Các
chữ đều được viết rõ ràng và cả đoạn chỉ có hai lỗi chính tả mà thôi,
đấy là chữ "giường" bị viết thành "gưìơng" và một chữ S bị viết ngược.
Tuyết Tròn đọc to lên cho tất cả cùng nghe. Tất cả đều gật đầu đồng ý,
những con thông minh hơn lập tức học thuộc lòng các Điều Răn.
"Bây
giờ, thưa các đồng chí'' Tuyết Tròn vừa ném cái chổi sơn xuống đất vừa
gào lên, "tất cả ra đồng cắt cỏ! Chúng ta phải thu hoạch nhanh hơn lão
Jones và lũ gia nhân của hắn.''
Đúng
lúc đó thì ba con bò cái vốn cảm thấy khó chịu từ trước bỗng rống lên.
Suốt hai mươi bốn tiếng đồng hồ qua chúng chưa được vắt sữa, vú của
chúng căng mọng như muốn nổ ra đến nơi. Sau một chút đắn đo, lũ lợn sai
mang xô tới và đã thực hiện công việc khá thành thạo, chân chúng tỏ ra
phù hợp với công việc này. Chẳng mấy chốc đã vắt được năm xô đầy sữa
béo, một số con tò mò đến xem.
"Làm gì với số sữa này nhỉ'', có con hỏi.
"Lão Jones thỉnh thoảng có trộn sữa vào thức ăn của chúng tôi đấy'', một chị gà mái lên tiếng.
"Các
đồng chí, để ý đến sữa làm gì!'', Napoleon vừa gào lên vừa bước ra đằng
trước mấy xô sữa, "Để đấy rồi tính sau. Thu hoạch quan trọng hơn. Đồng
chí Tuyết Tròn sẽ dẫn đầu. Tôi sẽ ra sau một lúc. Các đồng chí, tiến
lên! Vụ thu hoạch đang cần chúng ta.''
Các con vật tiến ra cánh đồng và bắt đầu cắt cỏ, nhưng chiều về thì chúng không thấy mấy xô sữa đâu nữa.
--------------------------------
2 Hạ chí: ngày 24 tháng 6.
3
News of the World - Tờ báo ra vào chủ nhật, thường đăng các tin giật
gân, không mang tính chất chính trị, phát hành 5 triệu bản mỗi số. Xuất
bản từ năm 1843.
4 Nguyên văn the Brussels carpet - Thảm Brussels.
5 Nữ hoàng Anh trị vì từ năm 1837 đến năm 1901.
Chương 3
Phải
công nhận là chúng làm việc rất chăm, không quản mệt mỏi, chỉ cốt thu
hoạch cho xong! Công khó của chúng đã được đền bù, chúng thu được nhiều
hơn dự kiến.
Đôi
khi chúng cũng gặp một số khó khăn vì tất cả công cụ đều được làm để
dành cho người chứ không phải cho súc vật, mà muốn sử dụng công cụ đó
thì phải đứng được trên hai chân sau. Nhưng phải nói bọn lợn là một
giống thông minh - khó đến đâu chúng cũng có cách. Còn lũ ngựa thì hiểu
rõ từng thửa ruộng, mà cắt và vun cỏ thành đống thì chúng làm thạo hơn
ông Jones và gia nhân nhiều. Bọn lợn không làm mà chỉ hướng dẫn và kiểm
tra các con khác. Với kiến thức như thế thì việc chúng nắm vai trò lãnh
đạo là đương nhiên. Chiến Sĩ và Bà Mập tự khoác lên mình máy cắt hoặc
máy bừa cỏ (dĩ nhiên là không cần hàm thiếc, cũng chẳng cần cương) và
kiên nhẫn đi khắp cách đồng, trong khi một con lợn nào đó bước theo sau,
thỉnh thoảng lại kêu "Đi thẳng, đồng chí!" hoặc "Quay lại, đồng chí!".
Tất cả các con vật, không kể lớn nhỏ, đều tham gia cắt và xếp cỏ. Ngay
đến bọn gà vịt cũng phơi mình dưới nắng suốt ngày để tham gia vận chuyển
từng lọn cỏ nhỏ bằng mỏ. Chúng đã hoàn tất công việc một cách nhanh
chóng, phải nói là nhanh hơn người, nếu ông Jones và gia nhân làm thì
phải hai ngày nữa mới xong. Hơn nữa đấy lại là một vụ mùa năng suất nhất
từ trước đến nay. Không có chuyện rơi vãi vì bọn gà, vịt rất tinh mắt,
chúng nhặt đến từng cọng một. Và cũng không có con nào ăn vụng, dù chỉ
một miếng ngoạm.
Công
việc của trang trại diễn ra thuận lợi trong suốt mùa hè năm đó. Bọn súc
vật cảm thấy vô cùng sung sướng, chúng chưa bao giờ nghĩ rằng chuyện đó
lại có thể xảy ra. Ăn là cả một niềm vui, vì bây giờ thức ăn là của
chúng, do chúng và vì chúng chứ không phải là thứ do một ông chủ keo bẩn
bố thí cho nữa. Sau khi chúng đã tống khứ được lũ người ăn bám vô tích
sự đi rồi thì khẩu phần mỗi con dĩ nhiên là nhiều hơn. Và mặc dù chưa có
kinh nghiệm, chúng vẫn có nhiều thời gian thư giãn hơn. Chúng có gặp
một số khó khăn, ví dụ khi thu hoạch ngũ cốc thì phải dùng sức để thổi
trấu đi vì trang trại không có máy đập, nhưng với trí thông minh của lũ
lợn và sức khoẻ của Chiến Sĩ thì việc gì mà chúng chẳng làm được. Chiến
Sĩ rất được kính trọng. Ngay khi còn ông Jones nó đã chăm chỉ rồi, nhưng
bây giờ nó làm việc bằng ba, có ngày tưởng chừng như toàn bộ công việc
của trại đều đổ dồn lên vai nó. Nó kéo rồi đẩy từ sáng đến tối và bao
giờ cũng có mặt ở những chỗ khó khăn nhất. Nó nhờ một con gà trống đánh
thức trước nửa tiếng và tự nguyện làm một số việc cần kíp nhất trước khi
ngày làm việc chính thức bắt đầu. Trước bất cứ khó khăn, trở ngại nào
nó đều nói: "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa!", câu ấy đã trở thành phương châm
hành động của chính nó.
Những
con khác cũng làm việc hết mình. Thí dụ lũ gà và vịt đã mót được đến
hai tạ ngũ cốc. Thói ăn cắp vặt; những tiếng ỉ eo về miếng ăn, miếng
uống; chuyện cãi vã, cắn xé; thói ghen tị - những thói xấu đó của quá
khứ đã biến mất hẳn. Không con nào trốn việc - đúng ra là gần như không
con nào. Mollie không thích dậy sớm và tìm cách chuồn trước, nại rằng có
hòn đá nhỏ dắt vào móng. Thái độ của con mèo cũng đáng ngờ. Cứ khi nào
cần là y như rằng nó đã bỏ đi đâu mất từ trước rồi. Chị chàng thường bỏ
đi đâu đó rất lâu và chỉ xuất hiện, như chưa có chuyện gì xảy ra, ngay
trước bữa ăn hay vào buổi chiều, khi công việc đã hoàn tất. Nhưng nó
luôn luôn tìm được cách giải thích và kêu gừ gừ một cách đáng yêu, thành
ra khó mà nghi ngờ được thiện chí của nó. Chỉ có con lừa già Benjamin
là vẫn như cũ. Nó vẫn làm công việc một cách chậm chạm cố hữu như thời
còn ông Jones, không bao giờ trốn việc, cũng chẳng bao giờ làm hơn. Nó
không nói gì về cuộc Khởi Nghĩa cũng như những đổi thay sau đó. Nếu được
hỏi có cảm thấy vui hơn thời còn ông Jones không, thì nó bảo: "Đời lừa
dài lắm. Các vị chưa thấy lừa chết bao giờ cơ mà" - bao giờ nó cũng nói
một câu bí hiểm như vậy.
Ngày
chủ nhật nghỉ. Bữa sáng ăn muộn hơn một tiếng và sau đó bao giờ cũng có
một cuộc họp mặt long trọng. Trước hết là lễ kéo cờ. Tuyết Tròn tìm
được trong kho dụng cụ một tấm khăn trải bàn cũ màu xanh của bà Jones
rồi vẽ một cái móng và một cái sừng màu trắng lên trên. Và thế là buổi
sáng chủ nhật nào chiếc khăn trải bàn cũng tung bay trên cột cờ trong
vườn hoa. Tuyết Tròn giải thích rằng màu xanh tượng trưng cho đồng ruộng
Anh quốc, còn sừng và móng là biểu tượng của nước Cộng Hòa Súc Vật
tương lai, khi đã lật đổ được toàn bộ giống người rồi. Sau khi kéo cờ
mọi con vật cùng đến tập trung trong nhà kho lớn, chúng gọi đấy là Họp.
Chúng lập kế họach cho tuần sau cũng như thảo luận và ra nghị quyết về
các kiến nghị khác nhau tại đây. Chỉ có bọn lợn đưa ra kiến nghị mà
thôi. Những con khác chỉ biết biểu quyết chứ không kiến nghị gì bao giờ.
Tuyết Tròn và Napoleon thảo luận hăng nhất. Nhưng hai con này luôn luôn
chống đối nhau: hễ con này đưa ra ý kiến gì là con kia lập tức phản
đối. Ngay cả khi vấn đề đã được quyết định rồi, như việc dành một miếng
đất nhỏ phía sau khu vườn làm chỗ dưỡng già, không ai có thể phản đối
chuyện đó, thì hai con này lại tranh luận gay gắt về việc loài nào, đến
bao nhiêu tuổi thì được nghỉ hưu. Các buổi Họp bao giờ cũng kết thúc
bằng bài đồng ca " Súc Sinh Anh quốc", còn buổi chiều thì chúng được
nghỉ tự do.
Bọn
lợn dành cái kho dụng cũ làm tổng hành dinh. Buổi tối chúng học nghề
mộc, nghề rèn và những nghề khác qua những cuốn sách nhặt được trong toà
nhà chính. Tuyết Tròn còn đưa những con khác vào các tổ chức mà nó gọi
là Ủy Hội Súc Sinh. Nó làm việc này một cách say sưa, không biết mệt là
gì. Nó đã thiết lập được Ủy Ban Trứng cho lũ gà mái, Ủy Ban Chăm Sóc
Đuôi cho lũ bò, Hiệp Hội cải huấn các đồng chí thú hoang (mục đích là
cải tạo bọn chuột và thỏ rừng); Phong Trào giữ lông thật trắng cho bọn
cừu, vân vân và vân vân, đấy là chưa kể các tổ xoá nạn mù chữ nữa. Nói
chung các dự án của Tuyết Tròn đều không có kết quả. Việc cải tạo lũ thú
hoang thất bại gần như ngay từ đầu. Thái độ của chúng chẳng thay đổi tí
nào, mà cư xử tốt thì chúng lại càng láo thêm. Con mèo cũng có chân
trong Hiệp Hội cải huấn và đã họat động rất tích cực trong mấy ngày đầu.
Có lần nó lên tận mái nhà nói chuyện với mấy con chim sẻ đậu ngoài tầm
với của nó. Nó bảo rằng bây giờ mọi loài đều là đồng chí và nếu con sẻ
nào muốn thì có thể đậu ngay lên chân trước nó; nhưng bọn sẻ không dám
lại gần.
Các
lớp học đọc, học viết thu được kết quả khả quan. Trước khi mùa thu về
đa số các con vật trong trại đều đã thoát nạn mù chữ ở những mức độ nhất
định.
Bọn
lợn đọc thông viết thạo. Lũ chó cũng biết đọc, nhưng chúng chỉ đọc mỗi
Bảy Điều Răn mà thôi. Con dê tên là Muriel đọc thông hơn lũ chó nên buổi
tối nó thường đọc cho những con khác nghe các mẩu báo nhặt được trên
đống rác. Lừa Benjamin đọc nhanh không kém gì lũ lợn, nhưng nó chẳng đọc
cái gì bao giờ. Nó bảo chẳng thấy có gì đáng đọc. Bà Mập học thuộc cả
bảng chữ cái nhưng không biết ghép vần. Chiến Sĩ không vượt qua được chữ
D. Nó thường lấy những cái móng to kềnh của mình để viết lên cát những
chữ cái A, B, C, D rồi đứng ngắm, tai cụp lại phía sau, thỉnh thoảng lại
vẫy vẫy bờm, cố gắng nhớ xem sau đó là chữ gì, nhưng chẳng bao giờ nhớ
ra. Đôi khi nó cũng thuộc được các chữ cái E, F, G, H, nhưng bao giờ
cũng vậy, hễ thuộc mấy chữ đó thì lại quên các chữ A, B, C, D. Cuối cùng
nó đành thoả mãn với bốn chữ cái đó và ngày nào cũng viết một hai lần
để rèn trí nhớ. Mollie chỉ học năm chữ cái ghi đủ tên nó mà thôi. Nó
thường lấy cành cây nhỏ để xếp các chữ đó rồi trang trí thêm bằng một
vài bông hoa, sau đó đi vòng quanh để ngắm.
Những
con khác không vượt qua chữ A. Những loài ngu hơn như cừu, gà và vịt
không thể thuộc được Bảy Điều Răn. Sau khi suy nghĩ, Tuyết Tròn tuyên bố
rằng có thể rút Bảy Điều Răn thành một cách ngôn như sau: "Bốn chân
tốt, hai chân xấu". Nó bảo đấy chính là nguyên lí cơ bản của Súc Sinh
Kinh. Chỉ cần nắm vững cách ngôn này thì không còn sợ gì ảnh hưởng của
con người nữa. Bọn gà vịt phản đối vì cho rằng chúng chỉ có hai chân,
nhưng Tuyết Tròn đã chứng minh không phải như vậy.
"Cánh
chim, thưa các đồng chí", Tuyết Tròn nói, "là cơ quan để vận động chứ
không phải để cầm nắm. Cánh cũng là chân thôi. Đặc trưng để phân biệt
với Giống Người là bàn tay, mọi việc xấu xa đều do đôi bàn tay của chúng
làm hết."
Bọn
gà vịt không hiểu hết bài thuyết pháp tràng giang đại hải đó, nhưng
chúng đồng ý với cách giải thích của Tuyết Tròn và tất cả những con vật
ngu si hơn lại phải học thuộc lòng cách ngôn mới. BỐN CHÂN TỐT, HAI CHÂN
XẤU được viết to hơn, bên trên Bảy Điều Răn. Khi đã thuộc lòng rồi thì
lũ cừu tỏ ra rất khoái cách ngôn này, mỗi khi nằm nghỉ là chúng lại đồng
thanh tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu! Bốn chân tốt, hai chân xấu!" và
cứ thế hàng giờ liền không biết mệt.
Napoleon
không quan tâm đến các ủy hội của Tuyết Tròn. Nó bảo rằng giáo dục thế
hệ trẻ quan trọng hơn công tác vận động những con đã trưởng thành. Hai
con chó cái Jessie và Bluebell đẻ được chín con chó con khoẻ mạnh ngay
sau vụ thu hoạch. Napoleon bắt lũ chó con ngay khi chúng vừa cai sữa, nó
bảo sẽ chịu trách nhiệm giáo dục bọn trẻ. Nó đem lũ chó con giấu trên
gác xép, bên trên kho dụng cụ, phải có thang mới trèo lên được, và giữ
chúng ở đó kín đến nỗi dần dần không con nào còn nhớ đến lũ chó con ấy
nữa.
Chuyện
mất sữa không còn là bí mật. Bọn lợn đem trộn vào cám ăn hàng ngày.
Những quả táo đầu mùa đã chín, ngày nào cũng có quả rụng trên đám cỏ
trong vườn. Mọi con vật đều nghĩ là sẽ đem chia đều, nhưng một hôm có
lệnh nhặt táo rụng rồi đem vào nhà kho dụng cụ để dành riêng cho lũ lợn.
Có mấy con phàn nàn về chuyện này, nhưng không đi đến đâu. Về vấn đề
này thì lũ lợn, kể cả Tuyết Tròn và Napoleon, đều thống nhất quan điểm.
Chỉ Điểm được cử đi làm công tác tư tưởng.
"Thưa
các đồng chí", Nó nói, "Tôi hy vọng là các đồng chí không nghĩ rằng
loài lợn chúng tôi làm như thế là do ích kỉ và đặc quyền đặc lợi chứ?
Nhiều đồng chí lợn cũng ngán sữa và táo lắm. Tôi cũng chẳng thích gì hai
thứ đó. Mục đích của chúng tôi khi ăn những thứ đó chỉ là nhằm bảo vệ
sức khoẻ mà thôi. Sữa và táo (Thưa các đồng chí, khoa học đã chứng minh)
có chứa nhiều chất cực kì cần thiết cho sức khoẻ loài lợn. Loài lợn
chúng tôi làm công việc trí óc. Chúng tôi nắm toàn bộ công tác tổ chức
và quản lí trang trại này. Vì sự phồn vinh của các đồng chí mà chúng tôi
phải làm việc cả ngày lẫn đêm. Chúng tôi uống sữa và ăn táo vì lợi ích
của chính các đồng chí đấy. Các đồng chí có tưởng tượng được chuyện gì
sẽ xảy ra nếu loài lợn chúng tôi không cáng đáng nổi nhiệm vụ không? Lão
Jones sẽ quay về! Vâng, lão Jones sẽ quay về! Chắc chắn là như thế,
thưa các đồng chí", Nó van vỉ gào to, vừa gào vừa nhảy từ phải sang
trái, đuôi vẫy nhặng lên, "Chắc chắn là không ai trong chúng ta muốn lão
Jones quay về rồi, có phải thế không ạ?"
Chắc
chắn là không một con vật nào muốn lão Jones quay về rồi. Đặt vấn đề
theo cách đó thì không con nào dám mở miệng ra nữa. Sức khoẻ loài lợn là
việc hệ trọng, chuyện đó không cần phải bàn. Thế là chúng đi đến thống
nhất mà không bàn cãi thêm là sữa và táo rụng (khi vào mùa thì toàn bộ)
chỉ để dành cho riêng loài lợn dùng mà thôi.
Chương 4
Đến
cuối mùa hè thì tin tức về Trại Súc Vật đã bay ra khắp nửa nước. Ngày
nào Tuyết Tròn và Napoleon cũng cử từng đàn bồ câu thâm nhập vào các
trang trại khác để tuyên truyền về cuộc Khởi Nghĩa và dạy hát bài "Súc
Sinh Anh quốc".
Trong
khi đó ông Jones hầu như ngày nào cũng ngồi trong nhà hàng Sư tử Đỏ ở
Willingdon để than van với bất cứ người chịu chuyện nào về việc bị lũ
súc vật vô tích sự cướp đoạt mất tài sản. Các chủ trại khác tỏ ra thông
cảm, nhưng lại chẳng chịu giúp đỡ gì cả. Không những thế, trong thâm tâm
bọn đó lại còn tìm cách lợi dụng tai hoạ của lão nữa. May là chủ hai
điền trang tiếp giáp với Trại Súc Vật luôn luôn bất hoà với nhau. Một
trại có tên là Trại Cáo, một trại lớn nhưng bị bỏ bê, canh tác theo lối
cũ, nhiều chỗ cây mọc um tùm, các bãi chăn thả bị dẫm nát, hàng rào thì
xiêu vẹo. Chủ trang trại này, ông Pilkington là một người vô lo, dùng
phần lớn thì giờ vào việc săn bắn và câu cá. Trang trại thứ hai tên là
Trại Keo, nhỏ hơn nhưng được chăm sóc kĩ lưỡng hơn. Chủ trang trại này
là ông Frederick, một người thô bạo, sắc sảo, thường xuyên dính líu vào
các vụ kiện cáo và nổi tiếng là một tay lừa gạt có hạng. Hai vị này ghét
nhau đến nỗi không thể tìm được tiếng nói chung ngay cả trong việc bảo
vệ quyền lợi của chính mình.
Nhưng
cuộc Khởi Nghĩa ở Trại Súc Vật đã làm cả hai hoảng sợ và họ tìm mọi
cách ngăn không cho tin tức ở đó lọt vào trang trại của mình. Đầu tiên
họ giả vờ chế giễu chuyện bọn súc vật tự điều hành trang trại. "Chỉ ba
bảy hai mốt [1] ngày là toi", họ bảo. Họ tung tin là lũ súc vật trong
Điền Trang (họ khăng khăng gọi là Điền Trang chứ không chịu chấp nhận
tên Trại Súc Vật) suốt ngày tranh giành nhau và chẳng mấy nữa rồi sẽ
chết đói thôi. Một thời gian sau, thấy lũ súc vật không chết đói,
Frederick và Pilkington liền đổi giọng và bắt đầu nói về những cảnh
tượng vô luân không thể tưởng tượng được đang diễn ra trong Trại Súc
Vật. Họ bảo rằng lũ súc vật ăn thịt lẫn nhau, chúng tra tấn nhau bằng
móng sắt nung đỏ, còn những con cái thì thành vợ chung. "Chống lại qui
luật của Tự Nhiên thì kết quả như vậy đấy", Frederick và Pilkington nói.
Nhưng
chuyện đó cũng chẳng có mấy người tin. Lời đồn về một trang trại kì lạ,
nơi con người bị đuổi đi và các con vật tự điều hành lấy công việc tiếp
tục được truyền tụng một cách tù mù và xuyên tạc, suốt năm đó làn sóng
bạo động lan tràn khắp cả vùng nông thôn. Những con bò đực vốn dễ bảo
bỗng trở nên hung dữ, cừu thì phá đổ hàng rào và dẫm nát đồng cỏ, bò cái
hất đổ xô sữa, ngựa đua thì không chịu nhảy qua hàng rào mà hất tung kị
sĩ lên cao. Nhạc điệu và lời của bài "Súc Sinh Anh quốc" phổ biến đến
tận hang cùng ngõ hẻm. Nó được truyền bá với một tốc độ nhanh chưa từng
thấy. Bài hát làm cho con người phát điên lên được, nhưng họ lại giả đò
như đấy chỉ là một trò lố bịch. Ngay cả súc vật cũng không thể nào lại
hát một thứ rác rưởi đê tiện như thế được, họ bảo. Con vật nào bị bắt
quả tang đang hát bài đó lập tức bị đánh đòn tại trận. Thế mà vẫn không
cấm tuyệt được. Sáo hót bài đó trên hàng rào, bồ câu gù trên cây, bài
hát đi vào tiếng dế nỉ non, vào cả tiếng chuông nhà thờ nữa. Con người
run lên mỗi lần nghe thấy nó, họ như nghe thấy điềm báo trước tai họa
của chính mình.
Đầu
tháng mười, khi đã thu hoạch và đưa hết ngũ cốc vào kho, một số đã được
đập thì có một đàn bồ câu bất ngờ xé không khí lao tới đậu xuống sân
trang trại, dáng vẻ vô cùng xúc động. Ông Jones cùng với gia nhân và
khoảng nửa tá thanh niên của Trại Cáo và Trại Keo đã vượt qua cổng lớn
và đang tiến vào trang trại này. Ông Jones lăm lăm khẩu súng đã lên đạn,
còn những người khác đều được trang bị bằng gậy gộc. Không còn nghi ngờ
gì nữa, họ muốn tái chiếm trang trại.
Nhưng
lũ súc vật không bị bất ngờ, ngược lại, chúng đã chuẩn bị cho sự kiện
này từ lâu. Tuyết Tròn, trước đây đã từng nghiên cứu kĩ lưỡng cuốn sách
viết về các chiến dịch của Julius Ceasar [2] , mà nó tìm thấy trong ngôi
nhà chính, được phân công tổ chức phòng vệ. Nó lập tức đưa ra các mệnh
lệnh và các con vật mau chóng chiếm lĩnh các vị trí được phân công.
Tuyết
Tròn ra lệnh tấn công ngay khi nhóm người kia vừa tiến gần đến dãy nhà
trong trang trại. Ba mươi lăm con bồ câu xuất kích, chúng bay qua bay
lại và ỉa vào đầu đám người phía dưới, trong khi họ mải tránh và phủi
thì lũ ngỗng, phục kích sẵn sau hàng rào xông ra và cắn vào chân. Nhưng
đấy mới chỉ là đòn chiến thuật có tác dụng làm rối loạn hàng ngũ đối
phương bởi vì người ta dễ dàng dùng gậy để xua lũ ngỗng đi. Mũi tấn công
thứ hai được đưa ra mặt trận. Muriel, Benjamin và toàn thể bầy cừu do
chính Tuyết Tròn dẫn đầu xông lên vây chặt đám người rồi lao vào húc lấy
húc để trong khi Benjamin quay lưng về phía họ và đá vung vít. Nhưng
lần này lũ súc vật cũng không thắng, gậy và giày đinh mà con người sử
dụng là những vũ khí quá mạnh đối với chúng. Thấy tình thế bất lợi,
Tuyết Tròn hí lên một tiếng và đấy chính là tín hiệu tạm lui binh, lũ
súc vật vội tháo chạy vào trong sân.
Tiếng
hò reo chiến thắng vang lên. Những người tấn công thấy quân thù đã bỏ
chạy như dự kiến nên chẳng cần chỉnh đốn hàng ngũ, vội vàng xông lên
truy kích. Đúng như Tuyết Tròn đã dự liệu. Khi người đã vào hết trong
sân thì ba con ngựa, ba con bò và tất cả lũ lợn còn lại trước đó đã nằm
mai phục sẵn trong chuồng bò liền lao ra cắt đứt đường rút lui. Tuyết
Tròn hạ lệnh tổng công kích. Chính nó lao thẳng vào ông Jones. Ông Jones
trông thấy nó lao tới liền bóp cò. Phát đạn ghém đã làm Tuyết Tròn bị
thương dọc sống lưng, máu chảy lênh láng và làm chết một con cừu. Không
lưỡng lự một giây, Tuyết Tròn cứ thế đâm thẳng tấm thân tạ rưỡi của nó
vào chân ông Jones. Ông ngã sóng soài lên đống phân, súng văng ra xa.
Nhưng khủng khiếp nhất là Chiến Sĩ, nó đứng trên hai chân sau và giáng
xuống đầu người bằng những chiếc móng sắt. Cú nện đầu tiên của nó khiến
anh chàng dọn chuồng ngựa của Trại Cáo ngã vật ra đất, bất tỉnh nhân sự.
Có mấy người vứt gậy và bỏ chạy. Không bỏ lỡ thời cơ, lũ súc vật liền
đuổi theo vòng quanh sân. Chúng húc bổng họ lên, rồi cắn, đá, đạp. Không
có con nào trong trại là không tham gia báo thù theo cách của mình.
Ngay con mèo cũng nhảy từ mái chuồng bò xuống vai anh chăn bò rồi vừa
cắn vào cổ vừa gào như lên cơn động cỡn. Vừa thấy có thể rút lui được là
mọi người vội chạy khỏi sân để ra đường lớn. Thế là thâm nhập chưa được
năm phút, họ đã phải tháo chạy, phía sau là lũ ngỗng vừa cắn vào đùi
vừa rú rít đuổi theo.
Có
một người không chạy thoát. Trong sân, Chiến Sĩ đang cố lật anh dọn
chuồng ngựa vẫn nằm úp mặt xuống bùn lên. Anh chàng không hề động đậy.
"Hắn
chết rồi!", Chiến Sĩ buồn bã thốt lên, "Tôi đâu có định làm như vậy.
Tôi quên mất là mình đeo móng sắt. Bây giờ ai mà tin là tôi không chủ ý
chứ?"
"Thôi
đừng có ủy mị, đồng chí!", Tuyết Tròn nói, máu trên lưng nó vẫn rỉ ra
từng lúc, "Chiến tranh là chiến tranh. Người tốt là người đã chết."
"Tôi không có ý giết, ngay cả giết người", Chiến Sĩ cứ nhắc đi nhắc lại như thế, mắt đẫm lệ.
"Thế Mollie đâu nhỉ?", Có con nào đó hỏi.
Đúng
là không thấy Mollie đâu. Ban đầu chúng rất lo, chúng sợ rằng Mollie có
thể đã bị thương hoặc bị bọn người kia bắt theo cũng nên. Cuối cùng cô
nàng đã được tìm thấy đang trốn trong chuồng ngựa, đầu rúc trong đống
rơm. Nó đã bỏ trốn ngay khi nghe thấy tiếng súng nổ. Trong khi các con
vật đi tìm Mollie thì anh chàng dọn chuồng ngựa hồi tỉnh và trốn mất.
Lũ
súc vật đã tụ tập lại đầy đủ, chúng vô cùng phấn khích, tranh nhau nói.
Lễ mừng chiến thắng được tổ chức ngay lập tức. Cờ được kéo lên và chúng
hát bài "Súc Sinh Anh quốc" mấy lần liền, sau đó chúng làm lễ mai táng
con cừu tử trận và trồng trên mộ của nó một bụi táo gai. Tuyết Tròn đọc
một bài diễn văn ngay bên cạnh mộ chiến sĩ trận vong, nhấn mạnh rằng mọi
con vật đều phải sẵn sàng hi sinh cho Trại Súc Vật khi cần.
Lũ
súc vật nhất trí lập ra phần thưởng cho những chiến công vừa qua, đấy
là danh hiệu Súc vật Anh hùng hạng nhất, danh hiệu này được trao ngay
cho Tuyết Tròn và Chiến Sĩ. Phần thưởng là một chiếc huy chương đồng
(chính là tấm đồng trang trí yên ngựa tìm được trong kho dụng cụ) được
đeo vào ngày lễ và chủ nhật. Danh hiệu Súc vật Anh hùng hạng hai được
trao cho con cừu đã hy sinh.
Chúng
tranh cãi rất lâu về chuyện đặt tên cho chiến thắng. Cuối cùng chúng
quyết định gọi là Chiến dịch Chuồng bò vì cuộc phục kích diễn ra trong
chuồng bò. Chúng tìm được khẩu súng của ông Jones trong đám bùn, đạn thì
trong trại vẫn có sẵn. Khẩu súng được mang đặt dưới chân cột cờ, giả
như súng đại bác ở các nơi khác, chúng sẽ bắn súng mừng hai lần trong
một năm, một lần vào dịp hạ chí để mừng ngày Khởi Nghĩa, lần khác vào
ngày hai mươi tháng mười để mừng Chiến Thắng.
Chương 5
Càng
đến gần mùa đông thì Mollie càng trở nên khó chịu. Sáng nào cô nàng
cũng đi làm muộn, viện cớ là ngủ quên; ngoài ra nó còn phàn nàn là bị
những căn bệnh lạ, mặc dù vẫn ăn như thuồng luồng vậy. Nó thường tìm mọi
cách để trốn việc và chạy ra hồ nước, thẫn thờ đứng ngắm bóng mình.
Nhưng cứ như tin đồn thì nó còn mắc những khuyết điểm nghiêm trọng hơn
nhiều. Một hôm, nó đang đi dạo trong sân, vô tư vẫy cái đuôi dài, miệng
nhai một nắm cỏ thì Bà Mập kéo sang một bên và bảo:
"Mollie,
chị có vài điều cần nói với em. Sáng nay chị trông thấy em đứng bên
hàng rào giữa Trại Súc Vật và Trại Cáo. Bên kia hàng rào là người của
nhà Pilkington. Dù đứng rất xa nhưng chị chắc chắn là lúc đó hắn ta đang
nói chuyện với em, chị nhìn thấy rõ như thế, còn em thì đã cho nó vỗ vỗ
vào hai bên má. Mollie, chuyện đó là thế nào?"
"Anh ta không vỗ! Em không đứng ở đó! Làm gì có chuyện đó!" - Mollie gào lên , hai chân nhảy dựng và nện ầm ầm xuống mặt đất.
"Mollie, hãy nhìn thẳng vào mắt chị đây! Em có dám thề với chị là gã đó chưa từng vỗ vào má em không?"
"Không có chuyện đó!", Mollie nhắc lại, nhưng nó không dám nhìn Bà Mập và lập tức phóng ra đồng.
Một
ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu Bà Mập. Không nói cho con nào biết, nó từ
từ tiến lại phía chuồng của Mollie và lấy móng lật đống rơm trong
chuồng lên. Bên dưới đống rơm có một cục đường và mấy sợi ruy băng đủ
màu sắc.
Ba
ngày sau Mollie biến mất. Sau mấy tuần vẫn chưa có tin tức gì, nhưng
rồi lũ bồ câu báo cáo lại là đã nhìn thấy Mollie ở bên ngòai Willingdon.
Nó kéo một cái xe nhỏ, sơn hai màu đen-đỏ lộng lẫy, đứng nghỉ gần một
quán bia. Một gã đàn ông béo tốt, mặt đỏ gay, mặc quần ca rô, ống chẽn,
đi ghệt; có vẻ như là chủ quán; đang vừa vỗ về vừa đút cho nó miếng
đường. Bờm nó mới được cắt chải cẩn thận, đám bờm trên trán có thắt một
dải ruy băng màu đỏ tươi. Theo những con bồ câu nói lại thì trông nó có
vẻ thoả mãn. Từ đó không con nào nhắc đến nó nữa.
Bước
sang tháng giêng, thời tiết trở nên vô cùng khắc nghiệt. Đất rắn như
đá, không thể làm được việc gì nữa. Các cuộc Họp được chuyển vào nhà kho
lớn, lũ lợn chuyên tâm vào việc lập kế hoạch cho vụ tới. Chúng nhất trí
rằng vì lũ lợn thông minh nhất nên sẽ chịu trách nhiệm về đường lối
chung của trại, nhưng quyết định của chúng phải được thông qua với đa số
tuyệt đối. Mọi việc sẽ vô cùng hoàn hảo nếu như Tuyết Tròn và Napoleon
không thường xuyên chống đối nhau. Hai con này bất đồng nhau về mọi vấn
đề mỗi khi có dịp. Nếu con này bảo phải gieo nhiều lúa mạch hơn thì con
kia nhất định sẽ nói phải gieo nhiều yến mạch hơn; nếu một con nói cánh
đồng nào đó hợp với bắp cải thì con kia nhất định sẽ bảo vùng đó chỉ có
thể trồng củ cải. Con nào cũng có một số ủng hộ viên cho nên các cuộc
tranh luận thường diễn ra rất quyết liệt. Do biết ăn nói nên Tuyết Tròn
thường giành được đa số trong các cuộc Họp, còn ở bên ngoài thì đa số
lại ủng hộ Napoleon. Trung thành nhất với Napoleon là bầy cừu. Thời gian
gần đây lũ cừu thường tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu" khi có lí do
cũng như chẳng cần lí do gì và các cuộc Họp cũng thường bị gián đoạn là
vì thế. Đặc biệt là cứ đến những đoạn quan trọng nhất trong các bài phát
biểu của Tuyết Tròn là y như rằng lũ cừu lại gào lên "Bốn chân tốt, hai
chân xấu". Tuyết Tròn đã nghiên cứu kĩ tạp chí "Trồng trọt và chăn
nuôi" tìm được trong ngôi nhà chính, trong đầu nó có cả một mớ kế hoạch
cải cách và hiện đại hóa công tác sản xuất. Nó kể về hệ thống thoát nước
cho đồng ruộng, lò ủ chua, phân phốt phát cho cả trại nghe, nó còn soạn
ra một sơ đồ đi vệ sinh, sao cho từng con "đi" mỗi lần ở một nơi khác
nhau cho đỡ tốn công vận chuyển sau này. Napoleon thì ngược lại, không
soạn gì cả, nhưng lại rỉ tai các con khác rằng Tuyết Tròn chỉ nói nhảm
và có vẻ như đang đợi thời cơ để ra tay. Nhưng cuộc tranh chấp dữ dội
nhất giữa hai con là về việc xây dựng cối xay gió.
Trên
cánh đồng cỏ, không xa những dãy nhà của trại là mấy, có một cái gò
nhỏ, cũng là chỗ cao nhất trong trại. Sau khi đã khảo sát, Tuyết Tròn
tuyên bố rằng đây là khu vực tốt nhất để xây dựng một chiếc cối xay gió,
chúng sẽ lắp lên đó một máy phát điện để cung cấp điện cho toàn trại.
Các chuồng rồi sẽ có đèn điện, mùa đông thì sẽ có lò sưởi, chưa nói đến
việc sẽ dùng điện để chạy máy cưa, máy thái cỏ, máy thái củ cải đỏ, máy
vắt sữa nữa. Lũ súc vật chưa từng được nghe chuyện như thế bao giờ (trại
này vốn thuộc loại lạc hậu, chỉ có các máy đơn giản nhất), chúng vô
cùng kinh ngạc lắng nghe Tuyết Tròn thao thao bất tuyệt về những chiếc
máy kì diệu sẽ thay chúng làm việc trong khi chúng có thể ung dung gặm
cỏ ngoài đồng hoặc ngồi đọc sách và tranh luận để nâng cao dần trí óc.
Chỉ
vài tuần sau Tuyết Tròn đã hoàn tất các tài liệu kĩ thuật về dự án cối
xay gió. Các bản vẽ chi tiết phần cơ khí được soạn thảo dựa trên ba cuốn
sách của ông Jones: "Một ngàn đồ vật hữu dụng trong gia đình", "Tự làm
thợ xây" và "Người bắt đầu làm thợ điện cần biết". Tuyết Tròn dùng cái
nhà kho, trước đây vốn là khu ấp trứng, làm văn phòng vì ở đó có một cái
nền phẳng bằng gỗ rất thích hợp cho việc vẽ kĩ thuật. Tuyết Tròn ngồi
trong đó hàng giờ liền. Nó lấy một hòn đá đè lên trang sách cần thiết,
một chân kẹp viên phấn; nó nhảy qua nhảy lại, vừa nhảy vừa vẽ, đôi khi
khoái quá lại rít lên khe khẽ. Dần dần, các bản vẽ bao gồm rất nhiều
trục và bánh răng xoắn xuýt lấy nhau xếp kín gần nửa gian nhà kho, các
con khác tuy chẳng hiểu gì nhưng vô cùng thán phục. Ngày nào các con vật
cũng đến xem các bản vẽ của Tuyết Tròn ít nhất một lần. Ngay cả lũ gà,
vịt cũng tới, nhưng đứng xa xa dòm vào để không đạp phải các hình vẽ
bằng phấn. Chỉ có Napoleon là không hề bận tâm. Nó phản đối ngay từ đầu.
Mặc dù vậy, một hôm nó đã đến kiểm tra dự án mà không báo cho con nào
biết trước. Nó đi xung quanh khu kho, rồi vào xem xét kĩ lưỡng các bản
vẽ, hít chỗ này chỗ kia, rồi nhấc chân lên tè vào đấy một bãi, sau đó nó
bình thản đi ra mà không thèm nói một lời nào.
Vì
việc xây dựng cối xay gió mà trại chia làm hai phái đối địch nhau.
Tuyết Tròn không giấu giếm rằng việc xây cối xay gió sẽ đòi hỏi một sự
hy sinh to lớn. Phải khai thác, vận chuyển đá đến công trường, rồi xây,
sau đó mới lắp cánh quạt, động cơ và dây điện (làm sao kiếm được những
thứ đó thì Tuyết Tròn không nói). Nhưng nó vẫn khẳng định rằng có thể
hoàn tất công trình trong vòng một năm. Còn sau đó, nó tuyên bố, công
việc sẽ bớt đi rất nhiều và chúng sẽ chỉ phải làm ba buổi một tuần mà
thôi. Ngược lại, Napoleon cho rằng nhiệm vụ quan trọng nhất hiện nay là
sản xuất lương thực, nếu chúng phí thì giờ vào việc xây dựng cối xay gió
thì chúng sẽ bị chết đói. Lũ súc vật chia thành hai phe; một phe đưa ra
khẩu hiệu: "Ủng hộ Tuyết Tròn và ba ngày làm việc một tuần"; phe kia
đưa ra khẩu hiệu: "Ủng hộ Napoleon và no bụng". Chỉ có Benjamin là không
tham gia phe phái nào. Nó không tin là rồi đây thức ăn sẽ dư thừa, cũng
chẳng tin là cối xay gió sẽ giúp giảm công việc chân tay. Có cối xay
hay không cối xay thì cũng thế thôi, chúng đã sống thế nào thì rồi cũng
sẽ sống như vậy, nghĩa là còn khổ.
Ngoài
cối xay gió thì chúng còn tranh cãi về việc phòng vệ nữa. Tất cả đều
hiểu rằng tuy con người bị thua trong Chiến dịch Chuồng bò nhưng nhất
định họ sẽ đánh một trận nữa, trận này sẽ dữ dội hơn, để giành lại trang
trại cho ông Jones. Người ta nhất định sẽ làm như thế vì tin đồn về
trận đại bại của con người đã lan khắp vùng thôn quê và lũ súc vật trong
các trang trại khác nay trở nên ra bướng bỉnh hơn bao giờ hết. Cũng như
mọi khi, Tuyết Tròn và Napoleon không tìm được tiếng nói chung. Theo
Napoleon thì việc cần làm trước hết là tìm mua và tập sử dụng vũ khí
nóng. Theo Tuyết Tròn thì việc cấp bách hiện nay là cử những đàn bồ câu
đến các trang trại khác để kêu gọi các cuộc khởi nghĩa ở đó. Một con cho
rằng nếu chúng không tự phòng vệ được thì chúng nhất định sẽ bị người
ta chinh phục, con kia thì nói rằng nếu khởi nghĩa nổ ra khắp nơi thì
không cần phòng vệ nữa. Các con vật nghe Napoleon rồi nghe Tuyết Tròn,
nhưng không quyết định được là con nào đúng, thực ra cứ con nào đang nói
là con ấy đúng, chúng chẳng có chính kiến gì hết.
Cuối
cùng Tuyết Tròn đã hoàn tất toàn bộ bản vẽ đồ án của mình. Trong cuộc
Họp vào hôm chủ nhật, vấn đề xây dựng cối xay gió được đưa ra biểu
quyết. Tất cả lũ súc vật tập hợp đầy đủ trong nhà kho lớn, Tuyết Tròn
phát biểu trước và mặc dù thỉnh thoảng lại bị bày (bầy) cừu chẹn họng,
nó đã trình bày một cách đầy thuyết phục các lợi ích của cối xay gió.
Sau đó đến lượt Napoleon. Nó tuyên bố một cách nhẹ nhàng rằng cối xay
gió là chuyện nhảm nhí và khuyên mọi con chớ có ủng hộ dự án này; nó chỉ
nói chừng ba mươi giây rồi bình thản ngồi xuống, có vẻ như nó cũng
chẳng thèm quan tâm đến hiệu quả vừa tạo ra nơi thính giả. Tuyết Tròn
đứng lên trên hai chân sau và lập tức ứng khẩu một bài diễn văn hùng hồn
nhằm thuyết phục những con khác biểu quyết xây dựng cối xay gió, nó nói
to đến nỗi át được cả bầy cừu. Trước đó trang trại vốn chia làm hai phe
đều nhau, nhưng lần này Tuyết Tròn đã thuyết phục được đa số ủng hộ. Nó
nói về tương lai của Trại Súc Vật, một tương lai vô cùng tươi sáng, khi
lao động chân tay không còn đè nặng lên lưng chúng nữa. Trí tưởng tượng
của nó còn đi xa hơn những máy thái rơm, máy thái củ cải. Điện, nó nói,
có thể chạy máy gặt đập, máy cày, máy bừa, máy cán; ngoài ra còn cung
cấp điện chiếu sáng, nước nóng, nước lạnh và lò sưởi cho tất cả các
chuồng nữa. Có thể thấy kết quả biểu quyết ngay trước khi Tuyết Tròn kết
thúc bài diễn văn. Nhưng đúng lúc đó thì Napoleon đứng lên, nó liếc xéo
về phía Tuyết Tròn rồi rít lên lanh lảnh như tiếng còi, chưa con nào
nghe thấy tiếng rít như thế bao giờ.
Có
tiếng chó sủa dữ dội ở bên ngoài, rồi một bày chín con chó cực to, cổ
đeo vòng đồng lao vào nhà kho. Chúng xông thẳng vào Tuyết Tròn, may mà
cu cậu tránh được cú táp của lũ chó. Tuyết Tròn vội chạy ra ngoài còn
bầy chó thì rượt theo sau. Lũ súc vật còn lại vô cùng ngạc nhiên và
hoảng sợ, cùng kéo nhau ra cửa để xem cuộc rượt đuổi. Tuyết Tròn chạy
băng qua đồng cỏ để ra đường cái lớn. Nó chạy thục mạng còn bày chó cũng
luôn bám sát ngay sau. Bất thình lình cu cậu bị trượt chân, cứ tưởng
bầy chó sẽ nhai nó đến nơi. Nhưng cu cậu lại gượng dậy được, lần này nó
còn chạy nhanh hơn và bầy chó vẫn bám sát. Tưởng chừng như một con chó
đã đớp được đuôi Tuyết Tròn rồi, may mà lúc ấy cu cậu kịp vẫy sang hướng
khác. Nó lại tăng tốc và lần này bỏ xa lũ chó được một đoạn, rồi nó
chui qua được một lỗ thủng bên hàng rào. Không con nào còn nhìn thấy
Tuyết Tròn nữa.
Vô
cùng hoảng sợ, lũ súc vật im lặng quay lại nhà kho. Lũ chó săn cũng trở
về ngay sau đó. Lúc đầu con nào cũng tự hỏi: mấy con chó ấy ở đâu ra
thế nhỉ? Nhưng sau đó thì điều ấy cũng chẳng phải là bí mật nữa: mấy con
này đã bị Napoleon bắt từ lúc còn bé rồi mang đi nuôi riêng. Dù chưa
phát triển hoàn toàn nhưng trông chúng đã to và dữ không khác gì chó
sói. Chúng đứng ngay cạnh Napoleon. Chúng cũng vẫy đuôi mừng Napoleon
như những con khác thường mừng ông Jones vậy.
Napoleon,
được lũ chó hộ tống, bước lên cái bục mà trước đây Thủ Lĩnh từng đứng
nói chuyện. Nó tuyên bố rằng từ nay các cuộc Họp vào ngày chủ nhật hàng
tuần sẽ bị hủy bỏ. Nó nói rằng những cuộc Họp đó là vô bổ, chỉ mất thì
giờ. Từ nay các vấn đề liên quan đến công việc của trang trại sẽ do một
ủy ban toàn lợn và chủ tịch là Napoleon giải quyết. Đấy sẽ là các cuộc
Họp kín, nghị quyết sẽ được thông báo cho toàn trại sau. Các con vật sẽ
vẫn tiếp tục tập họp vào sáng chủ nhật để chào cờ, hát "Súc Sinh Anh
quốc" và nhận công việc sẽ làm trong tuần sau nhưng không còn các cuộc
thảo luận nữa.
Mặc
dù bị sốc vì vụ trục xuất Tuyết Tròn, quyết định hủy bỏ các cuộc thảo
luận làm cả bọn thất vọng hoàn toàn. Một số con chắc chắn sẽ phản đối
nếu chúng tìm được lí lẽ khả dĩ. Ngay Võ Sĩ cũng cảm thấy bất an. Nó
dựng tai lên, rung rung bờm mấy lần, ý nghĩ cứ nhảy lung tung và dù rất
cố gắng nó vẫn chẳng biết phải nói thế nào. Nhưng mấy con lợn thì dẻo
miệng hơn. Bốn con lợn thịt ở hàng đầu gào lên phản đối, rồi cả bốn con
cùng nhảy dựng lên đồng thanh nói. Nhưng những con chó đứng quanh
Napoleon đã sủa vang và mấy con lợn đó đành phải ngậm miệng, im lặng về
chỗ. Sau đó là lũ cừu với bài tụng "Bốn chân tốt, hai chân xấu" kéo dài
khoảng mười lăm phút, chấm hết mọi cuộc bàn thảo. Chỉ Điểm được cử đi
giải thích cho những con khác.
"Thưa
các đồng chí", Chỉ Điểm nói, "Tôi hy vọng rằng tất cả các đồng chí đều
đánh giá cao sự hy sinh của đồng chí Napoleon khi đồng chí ấy đứng ra
cáng đáng công việc lãnh đạo trại. Các đồng chí đừng nghĩ rằng lãnh đạo
là việc dễ! Ngược lại, đấy là trách nhiệm cực kì nặng nề và khó khăn.
Không có ai trong chúng ta tin tưởng một cách sâu sắc bằng đồng chí
Napoleon rằng tất cả các con vật sinh ra đều bình đẳng. Đồng chí ấy sẽ
rất sung sướng nếu các bạn có thể tự quyết định lấy số phận của mình.
Nhưng ai có thể đảm bảo rằng đôi khi các đồng chí sẽ không có quyết định
sai, khi đó trại của chúng ta sẽ ra sao? Ví dụ các đồng chí có thể đi
theo tên Tuyết Tròn với cái cối xay gió hão huyền của nó, đi theo một
tên mà hành tung không khác gì một tên tội phạm thì sao?"
"Anh ta đã chiến đấu một cách dũng cảm trong Chiến dịch Chuồng bò", có con lên tiếng.
"Dũng
cảm không chưa đủ", Chỉ Điểm nói, "Lòng trung thành và sự phục tùng còn
quan trọng hơn. Nói về Chiến dịch Chuồng bò, tôi tin rằng sẽ đến lúc
chúng ta thấy vai trò của Tuyết Tròn đã bị thổi phồng một cách quá đáng.
Kỉ luật, thưa các đồng chí, kỉ luật sắt! Đấy là khẩu hiệu của chúng ta
trong giai đoạn hiện nay. Chỉ một bước đi sai lầm là kẻ thù sẽ tấn công
ngay. Chắc chắn là các đồng chí không muốn lão Jones quay lại chứ?"
Lí
lẽ của nó quả là khó bác bỏ được. Chắc chắn là không có con nào muốn
lão Jones quay về rồi, nếu những cuộc tranh cãi vào các ngày chủ nhật
tạo cớ cho lão Jones trở về thì chúng sẽ không tranh cãi nữa. Chiến Sĩ
đã suy nghĩ kĩ, nó thay mặt tất cả phát biểu:
"Đồng chí Napoleon nói gì cũng đúng. Đồng chí Napoleon không bao giờ sai."
Từ đó ngoài "Tôi sẽ cố gắng hơn nữa", Chiến Sĩ còn có thêm một khẩu hiệu mới: "Đồng chí Napoleon lúc nào cũng đúng".
Thời
tiết đã ấm dần lên, bắt đầu một mùa cày mới. Khu kho, nơi Tuyết Tròn vẽ
thiết kế cối xay gió đã bị đóng cửa và có lẽ các bản vẽ cũng bị xoá
rồi. Cứ mười giờ sáng chủ nhật là lũ súc vật lại tụ tập trong nhà kho
lớn để nhận nhiệm vụ sản xuất cho cả tuần sau. Sọ của Thủ Lĩnh, nay chỉ
còn xương được đào lên và đặt trên một gốc cây, cạnh khẩu súng, dưới
chân cột cờ. Sau khi dự lễ kéo cờ, lũ súc vật phải trịnh trọng bước đều
ngang qua nơi đặt sọ Thủ Lĩnh rồi mới đi vào nhà kho. Nay chúng cũng
không còn ngồi lẫn lộn với nhau như mọi khi nữa. Napoleon, Chỉ Điểm và
Kế Tục, một con heo có biệt tài trong việc soạn bài hát và làm thơ ngồi
trên cái bục gỗ, chín con chó làm thành nửa vòng tròn bao quanh, những
con lợn khác ngồi ở phía sau. Các con vật còn lại ngồi trên nền nhà.
Napoleon đọc bản phân công công việc cho tuần sau, rồi chúng hát một lần
bài "Súc Sinh Anh quốc" và giải tán.
Ngày
chủ nhật thứ ba, kể từ khi trục xuất Tuyết Tròn, các con vật bỗng nghe
Napoleon tuyên bố rằng nhất định phải xây dựng cối xay gió. Nó không
giải thích vì sao lại thay đổi quyết định, nhưng bảo rằng nhiệm vụ này
đòi hỏi mọi con phải cố gắng, hi sinh rất nhiều, không lọai trừ khả năng
là phải cắt bớt khẩu phần ăn hàng ngày nữa. Dự án đã được lập đến từng
chi tiết. Một ủy ban toàn lợn đã nghiên cứu dự án này suốt ba tuần qua.
Việc xây dựng cối xay gió và các công trình phụ trợ khác có thể kéo dài
trong hai năm.
Buổi
chiều, Chỉ Điểm đến giải thích cho từng con rằng thực ra Napoleon không
chống đối việc xây dựng cối xay gió. Ngược lại, ngay từ đầu nó đã ủng
hộ dự án và những bản vẽ mà chúng thấy trong khu ấp trứng chính là do
Tuyết Tròn đánh cắp của Napoleon. Cối xay gió là sáng kiến riêng của
Napoleon. Thế thì tại sao - một số con hỏi - trước đây Napoleon lại kiên
quyết chống? Chỉ Điểm tỏ ra rất ranh mãnh. Đấy - nó giải thích - đấy là
sự khôn khéo của đồng chí Napoleon. Đồng chí ấy chỉ giả vờ chống để có
thể tống khứ Tuyết Tròn, kẻ thù nguy hiểm có thể dẫn chúng vào con đường
lầm lạc bất cứ lúc nào. Bây giờ, khi Tuyết Tròn không còn thì chúng có
thể tiến hành mà không sợ nó gây rối nữa. Đấy gọi là chiến thuật, Chỉ
Điểm nói. Nó nhắc đi nhắc lại: "Chiến thuật, các đồng chí, đấy chính là
chiến thuật" rồi vừa mỉm cười vừa nhảy xung quanh, đuôi ngoáy tít. Lũ
súc vật chẳng hiểu gì, nhưng Chỉ Điểm nói rất hùng hồn đồng thời ba con
chó đi cùng với nó bỗng sủa ầm lên, nên chúng đành chấp nhận mà không
hỏi gì thêm nữa.
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét