GS. Trần Ngọc Thêm không ngần ngại gọi những giá trị mà chúng ta vẫn tự hào lâu nay – sự cần cù và hiếu học – là “huyền thoại".
Ông đã có cuộc trò chuyện với Vietnamnet,
lý giải vì sao ông lại “chỉ mặt đặt tên” như vậy. Ông cũng chia sẻ
những nghiên cứu sâu hơn về giáo dục cũng như những giá trị của cá nhân
trong thời kỳ mới.
GS Trần Ngọc Thêm (Ảnh Thành Long) |
“Không thể tự khen là cần cù được”
Cần
cù và hiếu học lâu nay được xem là niềm tự hào của người Việt chúng ta.
Nay ông kết luận rằng những phẩm chất này chỉ là huyền thoại thì quả là
một cú sốc...
- Nếu chỉ là một công dân, đúng là tôi cũng nghĩ rằng cần cù và hiếu học là
những phẩm chất đáng tự hào vì hầu như đâu đâu và ai ai cũng nói như
vậy. Và có lẽ sẽ có cảm giác bất bình với kẻ dám kết luận rằng những
phẩm chất này chỉ là huyền thoại.
Nhưng tôi là nhà khoa học và người làm khoa học thì phải có trách nhiệm đi tìm sự thật và tôn trọng sự thật.
Vậy thì về mặt khoa học, sự thật này như thế nào?
- Cần cù, hiếu học thường được xem là những phẩm chất chung của Đông Á. Cùng là cần cù, hiếu học nhìn bề ngoài thấy giống nhau, thực ra là giữa Việt Nam với Đông Bắc Á rất khác nhau.
Mọi
phẩm chất của con người đều là do hoàn cảnh sống tạo nên. Điều kiện tự
nhiên Đông Bắc Á rất khắc nghiệt nên người Đông Bắc Á thật sự cần cù − Nhật Bản, Hàn Quốc là những điển hình của đức tính cần cù ấy.
Còn Việt Nam và Đông Nam Á là khu vực vốn được thiên nhiên ưu đãi nên không thể có phẩm chất ấy.
Sở dĩ lâu nay các học giả Việt Nam và cả nhiều người nước ngoài nghĩ rằng người Việt cần cù là do bị đặc điểm của nghề trồng lúa nước đánh lừa.
Trồng
lúa nước là nghề mang tính thời vụ rất cao. Gặp lúc gieo cấy hay vào vụ
gặt thì hình ảnh dễ thấy là người nông dân Việt đầu hôm sớm mai bán mặt
cho đất, bán lưng cho trời – đúng là cần cù thật. Nhưng xong việc thì
lại chơi.
Khoảng thời gian giữa cấy và gặt rất dài, là lúc chúng ta nghỉ ngơi, ăn chơi liên miên: “Tháng giêng là tháng ăn chơi/ Tháng hai cờ bạc, tháng ba hội hè/ Tháng tư đong đậu nấu chè/ Ăn tết Đoan Ngọ trở về tháng năm...”.
Bây
giờ vẫn thế. Con người nông dân đi vào công sở, cộng với tổ chức quản
lý kém..., nên người Việt về cơ bản vẫn ham chơi bời, lễ hội, đàn đúm,
“buôn dưa lê” và nhậu nhẹt. Nên mới có tình trạng 30% công chức sáng cắp ô đi tối cắp ô về.
Ở
một dân tộc cần cù thì các quán cà phê sẽ không đông khách đến tận 9 -
10h sáng, và buổi chiều thì từ 4h chiều trở đi các quán nhậu sẽ không
nghẹt cứng hết cả như ở Việt Nam. Mà số lượng các quán cà phê và quán
nhậu ở các thành phố Việt Nam thì rất nhiều.
Ở các đô thị Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ… đều không có nhiều quán ăn chơi đến thế và không đông khách quanh năm suốt ngày đến thế.
Người
Việt Nam có ham ăn đến thế không? Không hề. Đấy là ăn chơi, ăn để chơi
chứ không phải ăn để làm việc. Tất nhiên là sống thì phải có ăn có chơi
nhưng ham ăn chơi như thế thì không thể tự khen là cần cù được!
Hiếu học là sự ngộ nhận
Còn sự hiếu học thì sao, thưa ông? Tại sao ông cho rằng nó là huyền thoại chứ không phải là thực tại?
- Hiếu học cũng được xem là một giá trị truyền thống của văn hóa Á Đông. Song cần phải phân biệt hiếu học với hiếu danh.
Lớp học thầy đồ xưa (Ảnh tư liệu) |
Sự khác biệt giữa hiếu học với hiếu danh
thể hiện ở chỗ người hiếu học đi học trước hết quan tâm đến việc nâng
cao tri thức và năng lực, còn người hiếu danh đi học là nhằm để có địa
vị cao trong xã hội.
Ở các nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo đều
có tình trạng hiếu danh này. Song ở các nước Đông Bắc Á, nhờ xã hội được
quản lý tốt nên muốn có địa vị cao thì phải có tri thức. Cộng thêm lối
tư duy của người Đông Bắc Á vừa có tính chủ toàn giống ta nhưng cũng vừa
có tính phân tích giống phương Tây, đồng thời họ cũng là những dân tộc
thực sự cần cù, cho nên để có danh, họ phải học hành đến nơi đến chốn.
Kết quả là trong lịch sử, các quốc gia Đông Bắc Á đều có những
phát minh khoa học, những sáng tạo đóng góp vào quá trình phát triển của
dân tộc và nhân loại.
Khác với Đông Bắc Á, người Việt đi học
nhưng ít quan tâm đến việc tiếp thu kiến thức, tiếp thu phương pháp mà
chỉ quan tâm nhiều đến việc lấy điểm, lấy bằng. Lấy được bằng rồi thì
quan tâm đến việc dùng tấm bằng ấy để lấy được một địa vị, bất kể địa vị
đó có phù hợp với năng lực sở trường của mình hay không.
Thời xưa người Việt đi học chỉ cốt để làm quan, cốt thoát khỏi cảnh chân lấm tay bùn. Vì vậy mà câu dạy con thường gặp là “Không học thì lớn lên đi cày!”.
Thời Lê - Trịnh có 724 người đỗ tiến sĩ thì có tới 712 người (chiếm
98,3%) làm quan, 12 người còn lại thuộc số chưa kịp vinh quy đã mất hoặc
không có thông tin.
Trên báo Cứu quốc ra ngày 17-10-1945, Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng nêu ra chuyện một ông chủ tịch Ủy ban xã nọ khoe
rằng thôn ông trong tháng vừa qua đã bán các chức vị như chánh phó lý,
khán thủ..., thu được một món tiền khá lớn. Người đã kịch liệt phê phán
việc này và nói rằng “Làm tiền bằng cách bán ngôi thứ tức là gây cho dân chúng có óc hiếu danh”.
Thời
nay, sau khi tốt nghiệp THPT, ai cũng cố gắng vào đại học, nhưng vào
được rồi thì phần lớn sinh viên đều không muốn phải đọc nhiều, học
nhiều, trong khi thích tranh thủ kiếm thêm vài cái bằng nữa. Nhiều người
đi học hệ tại chức (vừa học vừa làm), thậm chí cả cao học, nghiên cứu
sinh, cũng chỉ cốt lấy bằng nên mới sinh ra nạn học giả bằng thật...
Sở
dĩ người Việt đi học mà không coi trọng tiếp thu kiến thức, phương
pháp là do hàng loạt nguyên nhân, đều có nguồn gốc từ văn hóa truyền
thống. Thứ nhất, là do tầm nhìn gần - xưa học để đi thi, làm quan, nay học để đi thi, lấy bằng.
Thứ hai, là do bệnh đối phó - chỉ tập trung vào mục tiêu trước mắt là đi thi.
Thứ ba, là do bệnh sĩ diện – “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”, không “vạch áo cho người xem lưng” - nên học mà dấu dốt, không hỏi.
Thứ tư,
là do tổ chức xã hội kém, quản lý không nghiêm, cùng với lối sống trọng
tình nên chỉ cần có bằng cấp và có quan hệ tốt thì dù dốt, dù năng lực
kém cũng vẫn có thể có được địa vị cao trong xã hội.
Kết quả là
trong lịch sử của mình, Việt Nam không có một phát minh khoa học nào.
Những phát minh khoa học, nếu có, đều được hoàn thành trong môi trường
nước ngoài, như Hồ Nguyên Trừng với súng thần công, Nguyễn An với thiên
tài kiến trúc đều hoàn thành ở Trung Quốc.
Những nhà khoa học,
nghệ sĩ đạt tới tầm cỡ thế giới đều là nhờ phương Tây đào tạo - Ngô Bảo
Châu được đào tạo ở Pháp, Đặng Thái Sơn được đào tạo ở Nga.
Các thói hư tật xấu chủ yếu trong đời sống văn hóa Việt Nam đương đại(Trần Ngọc Thêm 2015) |
Giáo dục nhìn từ văn hóa
GS Trần Ngọc Thêm cho rằng “Bệnh
ưa thành tích và bệnh giả dối trong giáo dục rất nặng. Người Việt có
câu “Ra đường hỏi già, về nhà hỏi trẻ” nhưng ở trường thầy cô dạy phải
biết khôn để giành phần thắng, đóng kịch trong những tiết dự giờ, những
lúc có tranh tra... Học sinh học yếu kém cỡ nào thì cũng lên lớp, tỷ lệ
tốt nghiệp cao ngất ngưởng"…
"Sự dối trá phổ biến đến nỗi người lớn quên rằng mình đang nói dối. Giả dối trong suy nghĩ thì tự an ủi mình, giả dối trong lời nói được khen là khéo léo, giả dối trong hành động được xem là khôn ngoan”.
Do đâu mà ông lại nặng lời với giáo dục như vậy?
- Không nên nói tôi nặng lời hay không, mà hãy kiểm tra xem điều tôi nói có đúng hay không.
Chỉ
cần vào mạng gõ từ khóa “học thuê”, ta sẽ thấy tràn ngập các thông tin
như: “Học hộ, học thuê: Nghề mới cho cử nhân thất nghiệp”, “Hội Nhận Đi
Học Thuê Đại Học”, “Dịch vụ học hộ, học thuê tại Hà Nội”, “Dịch vụ
học, thi hộ tràn lan trong giới sinh viên”, “Nhức nhối nạn học thuê thi
hộ”...
Nạn học thuê, thi thuê, thuê viết luận văn, luận án; nạn
mua bán bằng cấp... trong nhà trường và các nạn chạy bằng cấp, chạy
chức, chạy quyền, chạy huân chương... ngoài xã hội chẳng phải chính là
những biểu hiện của bệnh thành tích, bệnh giả dối, bệnh hiếu danh đấy sao?
Vậy, theo ông, tại sao nền giáo dục của chúng ta lại trở nên như vậy?
-
Đúng là nền giáo dục của chúng ta vốn không đến nỗi như vậy. Mỗi giai
đoạn lịch sử của một xã hội đều tạo ra một nền giáo dục đáp ứng những
yêu cầu lịch sử của mình. Nền giáo dục truyền thống của Việt Nam đã
từng phục vụ tốt cho nhu cầu của xã hội Việt Nam truyền thống...
Nhu cầu của xã hội Việt Nam truyền thống là gì và nền giáo dục truyền thống có đặc điểm gì, thưa ông?
-
Toàn bộ lịch sử của dân tộc Việt Nam là lịch sử của một nền văn minh
lúa nước. Nghề trồng lúa nước là nghề phải lệ thuộc vào thiên nhiên ở
mức độ cao nhất. Người trồng lúa nước gắn bó với đất, với làng, cả đời
không ra khỏi làng, lúc nào cũng chỉ mong được yên ổn. Văn hóa của người
trồng lúa nước là văn hóa rất âm tính, văn hóa hướng đến ổn định.
Để
đáp ứng nhu cầu của một xã hội ưa ổn định thì nền giáo dục có mục tiêu
là đào tạo ra những con người giúp xã hội giữ được ổn định. Xã hội ổn
định cần người biết nghe lời, vâng lời.
Biết nghe lời, vâng lời được gọi là “ngoan” - "con cãi cha mẹ trăm đường con hư".
Vì vậy giáo dục truyền thống của Việt Nam từ gia đình ra đến xã hội,
vào đến nhà trường đều chỉ khuyến khích phẩm chất ngoan, vâng lời. Trong
gia đình dạy con cái vâng lời cha mẹ, ra ngoài xã hội khuyến khích
người dưới vâng lời người trên.
Như vậy, “ngoan” là phẩm
chất mục tiêu của giáo dục Việt Nam truyền thống. Còn năng lực mà
giáo dục Việt Nam truyền thống hướng tới là gì? Đó là “giỏi”.
Giỏi được hiểu là thuộc bài. “Thuộc” đây là học thuộc lòng. Ở nhà, cha mẹ hỏi “Con đã học thuộc bài chưa?”. Đến trường, thầy cô hỏi “Có trò nào chưa thuộc bài giơ tay?”.
Thuộc bài thì khi trả bài phải làm theo đúng mẫu - cái gì cũng có
“mẫu”: bài tập mẫu, bài văn mẫu... - sẽ đạt thành tích cao.
Triết lý giáo dục Việt Nam truyền thống có thể tóm gọn trong 4 chữ là “con ngoan - trò giỏi”.
Con ngoan trò giỏi là mục đích phấn đấu của mỗi học sinh, đó là con
đường dẫn tới thành công. Thành công ngày xưa là thi đỗ làm quan, bây
giờ là thi đỗ lấy bằng. Mục đích chỉ có thế, rất cụ thể và rất thiển
cận.
(còn tiếp…)
Chi Mai thực hiện
Theo:http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/can-cu-hieu-hoc-chi-la-huyen-thoai-346775.html
Theo:http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/can-cu-hieu-hoc-chi-la-huyen-thoai-346775.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét