Xã
hội ta xưa đại để chia ra làm hai loại người : quan và
dân. Quan là người giúp vua điều khiển guồng máy chính trị
để đem lại trật tự, an ninh cho dân. Quan trường do Nho phái
xuất thân, cách kén người ra làm quan gọi là Khoa cử.
Tuy nhiên, làm quan
không cứ phải theo cử nghiệp, ngoài Khoa cử ta còn có lệ
Cống cử, hay Bảo cử, tức là các quan phải tiến cử những
người có tài và có đức ra làm quan. Nhưng phương pháp này
không cung cấp đủ người cho bộ máy hành chánh vì những
người đứng ra Bảo cử, nếu lỡ tiến lầm người dở thì
sẽ bị nghiêm trừng, do đó thường xuyên phải dùng Khoa cử
để kén nhân tài.
Nguyễn Hiến Lê
(Triết học Trung Quốc, Chiến Quốc Sách),
Đào Duy Anh
(Trung Quốc Sử Cương),
Trần Văn Giáp (Khai Trí Tập
San), Trần Quốc Vượng (Lịch Sử Việt Nam, I) đều
chép Khoa cử xuất hiện ở Trung quốc từ nhà Tuỳ, nhà Đường
(cuối thế kỷ thứ VI, đầu thế kỷ thứ VII), thời nhà
Hán chỉ có lệ dân cử người hiền tài, song theo Chu Thiên
(Bút Nghiên)
và thứ nhất Trần Trọng Kim
(Nho Giáo)
thì Khoa cử bắt đầu có từ Hán Vũ Đế : " Hán Vũ Đế
(140 tr. TL) ra bài sách cho những người đã trúng tuyển, trong
số đó có Đổng Trọng Thư ". Ta có thể hiểu là Khoa cử
manh nha từ nhà Tây Hán, nhưng đến nhà Tuỳ, nhà Đường
mới được khai thác và tổ chức có quy mô.
Cùng chịu ảnh
hưởng của Trung Hoa, song Việt Nam, Cao Ly và Nhật Bản đặt
ra Khoa cử từ lâu, Âu châu phải đợi đến thế kỷ thứ
XIX mới dùng thi cử để kén người(1).
Thời Bắc thuộc
(111 tr. TL-938) văn hoá cổ của ta - và có lẽ cả chữ Việt
cổ - dần dần bị chính sách đồng hoá của Trung Hoa hủy
diệt (2). Chữ Hán được
nâng lên địa vị chính thức. Tuy vậy, người Nam muốn học
cao và thi cấp trên vẫn phải sang tận Trung quốc. Năm 845,
vua nhà Đường lại hạn chế số sĩ tử của ta sang thi khoa
Tiến sĩ không được quá 8 người, thi khoa Minh kinh (giảng
giải kinh sách) không được quá 10 người (3).
Người hiển đạt thời ấy còn hiếm nhưng không phải là
không có, chẳng hạn :
Đời Hán Minh Đế
(58-75) có Trương Trọng, người Giao chỉ, du học Lục dương,
rồi làm Thái thú Kim thành.
Đời Hán Linh Đế
có Lý Tiến, người Giao Châu, khoảng 184-89 được làm Thứ
sử Giao châu (như Thủ hiến), Sĩ Nhiếp lúc ấy làm Thái thú.
Đời Đường có
Khương Thần Dực, người quận Cửu chân, làm Thứ sử châu
Ái (Thanh Hoá). Hai người cháu du học kinh đô Tràng An, cùng
đỗ Tiến sĩ : Khương Công Phục làm đến Bắc bộ Thị lang,
anh là Khương Công Phụ làm đến Gián nghị Đại phu dưới
Đường Đức Tôn và Đường Thuận Tôn (4).
Sang thời tự trị,
sau khi chỉnh đốn việc nước, năm 1075 vua Lý Nhân Tôn mở
khoa thi Tam trường (thi Đại khoa gồm ba kỳ) đầu tiên ở
nước ta, mô phỏng theo Khoa cử của Trung quốc. Dần dần
về sau, các triều Trần, Hồ, Lê, Mạc v.v...cải sửa thêm,
đến đời Lê Thánh Tôn, thế kỷ XV, Khoa cử cực thịnh.
Từ Lê trung hưng
trở đi, Khoa cử ngày càng xuống dốc, thiên về hư văn.
Tuy
rập theo khuôn mẫu của Trung Hoa, song Khoa cử ở Việt nam
cũng có những điểm dị biệt :
1) Trước hết,
ngoài Bắc sử, ta phải học thêm Nam sử để biết rõ thêm
những gì đã xẩy ra ở nước mình.
2) Tuy chữ Hán giữ
địa vị chính thức ngay cả thời tự trị, nhưng ta đã dựa
vào chữ Hán đặt ra một thứ chữ riêng để viết thêm những
âm không có trong chữ Hán, gọi là chữ Nôm (có lẽ do chữ
" Nam " đọc chệch đi). Chữ Nôm được Hồ Quý Ly là người
đầu tiên đem ra dịch Kinh sách từ thế kỷ thứ XIV, mãi
đến 1565, đời Mạc Mậu Hợp, mới dùng chữ Nôm lần đầu
trong một khoa thi Tiến sĩ (đề mục kỳ đệ tứ là một
bài phú Nôm), và phải đợi đến Quang Trung mới dùng chữ
Nôm trong khoa thi Hương đầu tiên ở Nghệ An, Nguyễn Thiếp,
tức La Sơn Phu Tử, làm Đề Điệu (thời ấy Chánh khảo là
quan văn, gọi là Đề Điệu, sau này chức Đề Điệu trỏ
vào một quan võ trông coi trật tự trong trường thi).
Nhờ biết sử dụng
cả chữ Hán lẫn chữ Nôm, ta đặt ra loại chơi chữ rất
độc đáo, người Tầu không thể có được, chẳng hạn trong
câu :
Da trắng vỗ
bì bạch
" bì " = da, " bạch
" = trắng, là chữ Hán, nhưng " bì bạch " lại là chữ Nôm
khi mô tả tiếng vỗ trên da thịt. Câu này rất khó đối,
mãi gần đây mới thấy ông Phan Ngọc đưa một vế đối
chỉnh của một người bạn :
Rừng sâu mưa
lâm thâm (5)
3) Trung quốc cho
thi Tú tài riêng gọi là Phủ thí, năm sau thi Cử nhân gọi
là Hương thí, nhưng ở Việt Nam, ít nhất cũng dưới triều
Nguyễn, Cử nhân và Tú tài thi chung, người đỗ gọi là Cử
nhân, người hỏng nhưng được xếp cao cho đỗ Tú tài, trung
bình cứ lấy đỗ một Cử nhân thì lấy đỗ ba Tú tài. Tú
tài được miễn dịch vụ cùng sưu thuế, nhưng không được
phép thi Hội (6).
Ở Trung quốc danh
từ " Sinh đồ " chỉ những người từ nhà học, nhà hiệu
tại các châu, huyện cử ra, Cống cử hay Hương cống không
do nhà học, nhà hiệu ra, mà do trúng tuyển, trong khi ở Việt
Nam, thi Hương trúng ba trường thì gọi là Sinh đồ (ông Đồ),
sau gọi là Tú tài, đỗ cả bốn trường thì gọi là Hương
cống (ông Cống), sau gọi là Cử nhân.
4) Chu Xán, Thị
lang bộ Lễ nhà Thanh, sang sứ Việt Nam năm 1688, về ghi trong
Sử giao ký sự : " Trường thi nước ấy không có nhà
làm sẵn, sĩ tử phải ngồi trong lều phục xuống đất mà
viết " (7). Mãi tới 1843,
vua Thiệu Trị mới cho xây trường thi bằng gạch đầu tiên
ở Thừa Thiên. Trước đó, mỗi khoa thi người ta xây trường
sơ sài nhà tranh vách nứa để sau khi thi phá bỏ lấy đất
trồng trọt, nhưng bởi là đất công, không ai chăm bón, nên
cây cằn cỗi, đứng xa thấy cả khu trường thi nổi bật
lên một mầu vàng úa giữa đám cây cối xanh tươi xung quanh.
5) Theo Lê Quý Đôn,
triều đình ta " đối với những người thi đỗ đãi ngộ
rất hậu, bổ dụng rất cao...so với việc đặt Khoa mục
ở Trung quốc từ xưa đến nay chưa từng có ".
Trong non một ngàn
năm tự trị, Nho học và Khoa cử đã đào tạo được nhiều
bậc khoa bảng ngoài sự nghiệp văn chương đều có công giúp
nước, triều nào cũng có, xin tạm nêu ra :
Đời Trần có Chu
Văn An ( ?-1370) đỗ Tiến sĩ, giữ chức tư nghiệp (dậy ở
Quốc Tử Giám, tức trường Đại học của ta), dậy Thái
tử và con các Đại thần, dâng sớ " thất trảm " đòi chém
7 kẻ gian thần, vua không nghe, ông treo mũ từ quan. Sau được
thờ trong Văn Miếu,
tức là nơi thờ phụng Khổng Tử, ông
tổ đạo Nho.
Đời Hồ có Nguyễn
Trãi (1380-1442) đỗ Thái Học Sinh (như Tiến sĩ). Sau khi giúp
Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, ông viết bài " Bình Ngô Đại
Cáo " được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của
nước ta (8) và là tác giả
nhiều thơ văn Hán Nôm còn lưu truyền.
Đời Nguyễn có
Nguyễn Công Trứ (1778-1859) đỗ Giải nguyên, thi Hương (1819),
lập nhiều công lớn và đặc biệt khai khẩn đất hoang miền
duyên hải Nam Định và Ninh Bình, lập ra hai huyện Tiền Hải,
Kim Sơn, và hai tổng Hoành Thu, Minh Nhất.
Nhờ có một tổ
chức giáo dục và Khoa cử sớm hoàn bị, nước Việt Nam xưa
được coi là một nước văn hiến. Thế mà chỉ mới bị
bãi bỏ có hơn 70 năm, ngày nay phần đông chúng ta không mấy
ai biết đến Khoa cử nữa. Hoặc chúng ta mỉm cười chế
giễu, hoặc chúng ta lên án nghiêm khắc. Trong Việt Nam quốc
sử khảo
Phan Bội Châu viết : " Trung quốc bỏ Khoa cử
từ năm Canh Tý (1900)(9), Triều
Tiên bỏ từ năm Giáp Ngọ (1894), đó là một việc nhơ nhớp
duy chỉ nước ta còn có mà thôi " và " người ta mửa ra, mình
lại nuốt vào ". Vì sao cha ông ta lại quá nặng lời như vậy
? Cóphải vì các vị quá phẫn uất trước thảm bại của
nước nhà trong tay quân viễn chinh Pháp, mà giới lãnh đạo
của ta lúc ấy do Khoa mục xuất thân, cho nên cha ông ta quy
hết mọi tội cho Khoa cử đã đào tạo ra một lũ hủ Nho,
mở miệng chỉ biết " chi, hồ, dã, giả ", và một đám tham
quan ô lại, chuyên bắt nạt dân đen, nhưng trước họng súng
của Tây phương thì lại bó gối, cúi đầu, khiến cho lòngngười
chán nản, hết tin tưởng ở giai cấp lãnh đạo mà họ vẫn
phục tùng xưa nay, do đó chúng ta phủ nhận luôn cả những
khía cạnh tích cực của Khoa cử ?
Đành rằng Khoa
cử ngày một hủ bại, không thiết thực, chuộng hư văn,
nhưng có thật lỗi ở Khoa cử hay ở người áp dụng nó ?
Con dao nào dùng mãi cũng cùn, ta không biết mài lại cho nó
sắc lại đổ lỗi cho dao xấu, đi mua dao khác thay thì suốt
đời còn phải thay.
Phan Huy Chú, trong
Lịch Triều Hiến Chương, viết : " Xem việc thi cử hay
hay dở thì biết nước thịnh hay suy ". Thời thịnh của Khoa
cử là thời kẻ sĩ coi nó chỉ là phương tiện, tạo điều
kiện cho mình thi thố tài năng giúp đời, đạo đức vẫn
là chính, văn học chỉ là thứ yếu (" văn " phải được
hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả chính trị, mưu lược quân
sự, kinh tế, triết học v.v...chứ không phải chỉ học làm
thơ xuông). Mục đích dậy " văn " là để đào tạo ra hạng
người có kiến thức, có mưu trí, có tài ứng đối mẫn
tiệp, biết cách cư xử khôn khéo trên chính trường ngoại
giao. Đã đành ngày nay tin tưởng văn thơ có thể đuổi được
giặc là chuyện buồn cười, song ta không nên quên rằng chính
trị, ngoại giao thời xưa rất khác, văn học không phải là
chuyện phù phiếm. Ngày nay chúng ta thường băn khoăn tự hỏi
sao tổ tiên ta lại hồ đồ kén chọn người ra gánh vác việc
nước bằng văn thơ ? Đọc lại những sự kiện lịch sử
còn được lưu truyền thì thấy dù trong thờitự trị, ta
vẫn bị Trung quốc đàn áp, nay đánh, mai doạ, tuỳ ta yếu
hay mạnh. Họ lại thường dò xét xem ta có nhân tài hay không
bằng cách đưa ra những câu đố hiểm hóc, những bài thơ
oái oăm bắt giảng và họa lại, nếu ta hiểu và đối đáp
trôi chảy, có khí phách, họ kết luận nên lui binh, cho hoà.
Thí dụ thời nhà Mạc, quân Minh kéo sang định thôn tính nước
ta. Tướng Mao Bá Ôn đóng quân ở cửa nam Quan, làm bài thơ
" Cái bèo " đưa sang, ngụ ý khinh người Nam như cái bèo, phải
một trận gió là tan. Sư Giáp Hải, đỗ Trạng nguyên, được
cử ra làm thơ hoạ lại, hàm ý ta không sợ vì không thiếu
nhân tài (dưới lớp bèo) " nào cá, nào rồng trong ấy ẩn
", ta sẵn sàng ứng chiến. Bá Ôn đọc xong, rút quân về (10).
Thư sinh không thể
làm tướng thì làm sứ. Trạng Bùng Phùng Khắc Hoan (1528-1613)
đi sứ cũng nhờ văn tài làm vua quan Tầu kính phục, không
những khiến họ lui binh, mà nước ta từ đó thoát khỏi phải
cống hiến nước giếng Trọng Thuỷ để rửa ngọc trai, và
người bằng vàng đúc (11).
Gần ta hơn, năm
1789, vua Quang Trung (1752-92), trước khi đại thắng quân Thanh
đã tuyên bố : " Chỉ trong vòng mười ngày nữa thế nào ta
cũng quét sạch quân Thanh, nhưng nước Thanh lớn hơn ta gấp
mười lần, bị thua tất lấy làm thẹn, chắc phải tìm cách
rửa hờn. Nếu cứ binh lửa liên miên thật không phải hạnh
phúc cho dân, lòng ta sao nỡ ? Vì vậy, sau khi thắng trận phải
khéo " dùng ngọn bút thay giáp binh " (lấy lời lẽ khéo léo
để giảng hoà, đẩy lui quân địch). Việc ấy phi Ngô Thời
Nhậm (1746-1803) không ai làm nổi. Đợi mươi năm sau, ta đủ
thì giờ gây nuôi, nước giầu, dân mạnh thì ta có sợ gì
nó ? " (12). Quang Trung thành
công một phần nhờ tài biết dùng người.Quả nhiên sau này
khi cầm đầu phái bộ ta sang Trung quốc, Ngô Thời Nhậm chứng
tỏ Quang Trung không lầm người. Lúc tiến vào cửa Sứ quán,
thấy hàng chữ đề " An Nam di sứ công quán " (Công quán của
Sứ bộ xứ man di An Nam) Ngô Thời Nhậm không chịu vào, nói
: " Ta không phải đại diện cho một xứ man di, nên không vào
Sứ quán ấy ". Quan nhà Thanh chữa rằng đối với Trung quốc
thì tất cả đều là man di, mọi rợ hết, Ngô Thời Nhậm
cười rằng : " Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã (trâu tìm trâu nhập
bọn, ngựa tìm ngựa nhập bọn). Phải chăng Đại quốc là
mọi rợ khác ? ". Nhà Thanh đành phải sửa lại cái biển
thành " Nam quốc Sứ quan Công quán ", lúc đó Ngô Thời Nhậm
mới chịu dẫn đoàn ngoại giao của ta bước vào (13).
Bất cứ một chế độ nào dù hay đến đâu cũng phải có
ngày suy. Một trong những lỗi lầm lớn của Khoa cử là quá
trọng đãi những người thi đỗ, vô hình trung tạo ra hạng
người học chỉ vụ lấy đỗ, còn đạo nghĩa trong kinh sách
thì không mấy quan tâm đến. Lê Quý Đôn đã tóm thâu cái
học của họ trong câu " thi thiên, phú bách, văn sách, năm
mươi " nghĩa là chỉ cần học thuộc lòng 1000 bài thơ, 100
bài phú và 50 bài văn sách là đủ vốn để dựa theo đó
làm văn bài và thi đỗ !
Vì quá phục văn
hoá Trung Hoa, vì khiêm tốn tin rằng chỉ bậc thánh mới xứng
đáng viết sách dậy học và những gì đáng viết đều đã
có trong kinh sách, cho nên ngoại trừ Nam sử và vài cuốn sách
vỡ lòng như "Nhất Thiên Tự " (sách 1000 chữ), " Tam
Thiên Tự " (sách 3000 chữ) v.v...ông cha ta ít dám viết
sách dậy học. Phần đông khi học lại chỉ vận dụng trí
nhớ để học thuộc lòng, thiếu óc suy luận, không tìm hiểu
nghĩa thâm thuý bên trong mà chỉ áp dụng cái vỏ bên ngoài.Chẳng
hạn cho rằng đã làm con thì phải thực hiện tất cả mọi
ý muốn của cha mẹ mới là có hiếu. Sự thực , " Đức Thánh
Khổng " có dậy như thế không ? Cổ Học Tinh Hoa chép
rằng Tăng Sâm, một trong những học trò giỏi của Khổng
Tử, một hôm bừa cỏ lỡ tay làm đứt mất một ít rễ dưa,
cha giận cầm gậy đánh. Tăng Sâm đau quá gục xuống một
lúc mới hồi lại. Về nhà thưa với cha rằng : " Lúc nẫy
con có tội để đến nỗi cha phải đánh, làm đau tay cha,
thực là con lỗi đạo ". Nói xong lui xuống, vừa gẩy đàn
vừa hát, có ý để cha biết rằng mình không còn đau. Khổng
Tử biết chuyện cấm cửa không cho Tăng Sâm vào. Sâm tự
nghĩ mình vô tội, nhờ bạn đến hỏi vì cớ gì màthầy
giận. Khổng Tử nói : " Ngày trước, ông Thuấn phụng sự
cha là Cổ Tẩu, lúc cha sai khiến gì thì ở luôn bên cạnh,
lúc cha giận giữ thì lánh xa, lúc cha đánh bằng roi vọt thì
cam chịu, đánh bằng gậy gộc thì chạy trốn. Thế cho nên
ông Cổ Tẩu không mang tiếng bất từ. Nay Sâm liều mình chịu
đòn đến nỗi ngất đi để chiều cơn giận của cha, nếu
lỡ cha đánh chết thì có phải khiến cho cha mắc tội không
? Tội bất hiếu còn gì to hơn nữa ? "
Bàn đến chữ "
trung " nhiều người tin rằng đạo làm tôi phải hết sức
phục tùng vua, vua trái thì can hoặc treo mũ từ quan, vua giết
thì cam chịu chứ không được chống đối. Cao Bá Quát chống
lại triều đình lập tức mang tiếng " giặc " (giặc châu
chấu). Khổng Tử tuy nói rằng vua thay trời trị vì dân, dân
phải phục tùng, nhưng cũng nói vua có bổn phận của vua,
tức là phải chăm lo hạnh phúc cho dân. Mỗi khi vua ở trái
đạo thì Trời ra tai (lụt lội, đói kém) hoặc sinh ra những
chuyện bất thường (nhật thực, nguyệt thực v.v...) để
thức tỉnh. Lúc ấy vua phải ăn chay, sám hối, sửa đổi
đường lối chính trị, phóng thích tù nhân, phát chẩn cho
người nghèo để chuộc lỗi. Thuyết này tuy hoang đường
nhưng có công dụng là kiềm chế được phần nào các " đấng
quân vương " còn chút ít lương tâm. (Giở sử ra, ta thấy
nhan nhản những vụ như sau : " Năm 1345, tháng tư, tháng năm
đại hạn. Ra lệnh ân xá cho tù nhân "). Mạnh Tử còn đi
xa hơn Khổng Tử với câu : " Dân vi quý, xã tắc thứ chi,
quân vi khinh ".
Nho học chủ
trương lập đức là chính, học đạo để thành người quân
tử. Lúc đầu chữ " quân tử " trỏ vào đám quý tộc cầm
quyền chính, sau Không Tử cho rằng chỉ những người có đức
hạnh mới xứng đáng cầm quyền, nên người quân tử cũng
trỏ vào những người có đức hạnh. Nhà Nho sở dĩ trọng
sự thanh bạch cũng vì tin rằng cái nghèo luyện cho ta bớt
kiêu căng, bớt xa xỉ, bớt lười biếng, tóm lại là gây
nhân cách cho con người. Một ông quan nghèo chắc chắn là
một ông quan thanh liêm, không tham nhũng cho nên mớinghèo.(Paul
Doumer chép trong Hồi Ký rằng Phan Thanh Giản Làm quan
to mà lúc chết vẫn chỉ có một túp nhà tranh đơn sơ). Tuy
nhiên, trong thực tế, hạng này càng ngày càng hiếm, mà hạng
vơ vét của dân làm giầu thì càng ngày càng nhiều, bởi đạo
hạnh đã kém mà tục lệ khao vọng của ta lại nặng nề,
khiến người thi đỗ mang công mắc nợ, đã thế nếp sống
nhà quan thường xa hoa trong khi lương bổng ít (14)
cho nên " túng thì phải tính ". Ca dao ta có những câu chua chát
:
Bộ Binh, Bộ
Hộ, Bộ Hình
Ba Bộ đồng tình cướp gạo con tôi !
Ba Bộ đồng tình cướp gạo con tôi !
hay :
Con ơi, nhớ lấy
câu này :
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan !
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan !
đủ nói lên tình
trạng đám quan lại khi đạo suy.
Nho giáo coi việc
tu thân là cần, giữ sao cho tính tình lúc nào cũng điềm đạm,
ôn hoà, cho nên nhà Nho khinh những người cậy sức khỏe lấn
át kẻ khác. Nhà Nho chỉ " đấu khẩu " chứ không thèm " đấu
chân tay ", chê các võ quan là hạng " vai u, bắp thịt, mồ
hôi đầu ", " có khỏe mà chẳng có khôn ", hoặc " văn thời
tứ phẩm đã sang, võ thời nhất phẩm còn mang gươm hầu
"...Lâu dần thành thói quen " trọng văn, khinh võ ". Việc dụng
binh trong nước coi là bất thường, thời bình cho quân lính
ở nhà cấy ruộng, hữu sự mới triệu ra, cho nên quân sĩ
thiếu luyện tập.
Vì tin rằng con
người quý ở chỗ tinh thần thảnh thơi, không bị cái " hình
dịch " (đeo đuổi công danh, phú quý để phục vụ cho hình
xác) nó làm cho quay cuồng, nên ta coi rẽ phú cường mà cầu
an lạc, không chú trọng đến khoa học thực tiễn, không lo
mở mang kinh tế cho nước giầu mạnh mà chỉ lo nhẹ thuế
cho dân an vui là đủ. Từ ưa hoà bình thanh nhàn, ta biến dần
thành tính cầu an, rồi nhẫn nhục, và sau cùng đi đến chỗ
hèn yếu. Khi va chạm với súng ống tối tân của Tây, thảm
bại là cái chắc. Tuy các quan ta không thiếu người có khí
tiết, nhưng vì quá khinh ngành võ, lại thiếu vũ khí, thiếu
kinh nghiệm chiến đấu nên tỏ rahoàn toàn bất lực trước
sức mạnh của quân Pháp. Cái mớ kinh nghiệm trị nước bằng
đức, đối ngoại bằng văn tài của tiền nhân để lại
không còn thích hợp nữa nên Hoàng Diệu (1828-82), Nguyễn Tri
Phương (1796-1867) v.v...chỉ đành đem cái chết để tỏ lòng
mình.
Chính sánh " bế
quan tỏa cảng " càng khiến ta thu hẹp tầm mắt, chỉ biết
có văn minh Trung Hoa, ngoài ra không coi ai ra gì, tự kiêu, tự
mãn cho mình là văn minh, không thèm học hỏi thêm. Nguyễn
Tường Tộ viết : " mỗi khi chê Tây nhỏ yếu, thì mọi người
hân hoan, vui vẻ, còn nói sự thật thì lập tức bị thoá
mạ, nghi là ăn hối lộ của Tây, vì thế ai cũng cắn răng
ngậm miệng, không dám nói sự thật " (15).
Phái đoàn Phan Thanh Giản đi sứ Pháp về kể lại những chuyện
mắt thấy tai nghe xứ người thì bị coi là nói chuyện hoang
đường : " làm gì có thứ nước chẩy từ dưới lên trên
(nước phun trong công viên), và đèn gì lại chúc đầu xuống
mà vẫn cháy được) ? ".
Chữ Quốc ngữ
do các giáo sĩ Tây phương đặt ra, lại do một lớp thông
phán thiếu đức độ sử dụng lúc đầu, cho nên một số
người cho học chữ Quốc ngữ là " vong bản ", thà bỏ thi
cử khi Quốc ngữ trở nên bắt buộc, chứ không thèm học
loại chữ " con nòng nọc ". Hành động này tuy do lòng nhiệt
thành ái quốc mà ra song là một hành động quá khích bởi
chữ Hán cũng đâu phải chữ của ta ?
Ngày nay ta chê Khoa
cử " dùng thơ phú để kén nhân tài " có hơi oan cho Khoa cử
. Thực ra thi Hương cũng như thi Hội bao giờ cũng có một
kỳ thi văn sách (có chỗ chép là vấn sách) gồm hai phần
:
Cổ văn hỏi về
chính sự và sử Trung quốc.
Kim văn hỏi về
chính sự hiện tại của nước nhà.
Thí dụ : Năm 1868,
đầu bài Kim văn thi Hội là : " Quân xâm lăng (Pháp) hiện
nay càng ngày càng gây hấn, đồn luỹ dựng lên khắp nơi,
vậy nên đánh hay nên hoà (16).
Ngô Thì Sĩ trong
bài tự trướng mừng Lê Quý Đôn đỗ Bảng nhãn cũng viết
: " Thi văn sách, chuyện được mất xưa nay, điều hay điều
dở của chính sự, chỗ cao thấp của nhân tài, sự khoan nghiêm
của pháp lệnh, điều nào ông cũng lần lượt trình bầy
rõ ràøng, rành mạch, tuyệt vời, tỏ ra hiểu sâu kinh, rộng
sử, bác cổ thông kim "(17).
Có người trách
Phan Thanh Giản nhường ba tỉnh An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long cho
Pháp năm 1867, dù chết cũng không đủ chuộc tội. Nhưng đứng
trước hoả lực tối tân của Pháp, mưu lược hay đến đâu
mà không có vũ khí tốt đi kèm cũng khó mà thắng huống chi
lại là mưu lược chỉ thích hợp cho một đường lối hành
quân cổ xưa và một nền tâm lý khác hẳn. Thử đem những
người tốt nghiệp trường Khoa học Chính trị của Pháp chẳng
hạn, bảo họ cầm quân xuất trận xem họ có lúng túng hay
không ? Nếu họ cũng giỏi như những người tốt nghiệp trường
võ bị Saint Cyr thì chẳng hoá ra học Saint Cyr là thừa ư ?
Phan Thanh Giản tuẫn tiết tỏ ra không tham sinh, uý tử, nhường
ba tỉnh cho Pháp tất nhiên không phải vì tư lợi mà muốn
tránh cho dân khỏi chết thêm trong một cuộc chiến tuyệt
vọng.
Giáo
dục của ta không phải chỉ dậy toàn ngâm thơ, vịnh nguyệt,
nhưng đối với thời nay quả có thiếu phần thực dụng,
cần phải canh cải. Song không phải mãi sau khi đụng chạm
với Tây phương ông cha ta mới tỉnh ngộ. Ngay từ cuối thế
kỷ XIV, Hồ Quý Ly đã sáng suốt muốn ly khai ảnh hưởng
Trung quốc bằng cách nâng cao địa vị chữ Nôm lên. Năm 1393,
Quý Ly soạn sách
Minh Đạo
bằng chữ Nôm bàn về các
nhân vật và kinh điển đạo Nho, chê các danh Nho đời Đường,
đời Tống chỉ biết chắp nhặt văn chương, học rộng mà
viễn vông. Sách dâng lên Thượng Hoàng Nghệ Tông khen, nhưng
bị phe bảo thủ chỉ trích trong đó có vài học quan ở Quốc
Tử Giám. Năm 1395, Quý Ly dịch thiên " Vô Dật " trong Kinh
Thư ra dậy vua ; 1396 làm sách
Thi Nghĩa
bằng Nôm (giảng
nghĩa Kinh Thi) cho nữ quan dậy các hậu phi và cung nhân (18).
Những cố gắng cải cách của Quý Ly không thu lượm được
mấy kết quả vì nhà Hồ mất sớm, sách vở viết ra lại
bị quân Minh đốt sạch.
Gần ta hơn có Lê
Quý Đôn cũng muốn cải tổ Khoa cử và văn học. Song ngay
lớp sĩ phu thời đó cũng chưa mấy ai thấy rõ tầm quan trọng
của các đề nghị cải cách. Ngược lại, lợi dụng danh
nghĩa cải cách, tự do, một Thí sinh đùa bỡn viết ngay vào
quyển thi :
May sinh gập thời
bình,
Thần xin lấy ba vợ(19).
Thần xin lấy ba vợ(19).
Đầu thế kỷ XIX,
Cao Bá Quát (1808-54/55) khi đi sứ Tân Gia Ba có dịp mở rộng
tầm mắt, đã choáng người trước " Tầu thủy Hồng mao ",
làm ngay một bài thi ca tụng, rồi tự phê phán : " Đáng phàn
nàn cho ta bấy lâu chỉ lo đóng cửa gọt rũa câu văn, lải
nhải từng câu từng chữ có khác nào con sâu đo muốn muốn
đo cả Trời Đất ? " (20).
Ông sinh ở Vĩnh Long, năm 1825 đỗ Cử-nhân, 1826 đỗ Tiến-sĩ. Được cử làm Phó-sứ sang Tàu năm 1832, làm quan đến chức Hiệp-biện Đại học sĩ, sung Vĩnh long Kinh lược sứ ( 1866), tùng nhất phẩm. Năm 1867, sau khi mất nốt ba tỉnh Vĩnh-Long, An-Giang và Hà-Tiên, ông để lại một bức thư trần tình rồi xếp đồ triều phục, các đạo sắc gửi trả về Kinh, tuyệt thực 17 ngày không chết, sau phải uống thuốc độc. Triều đình luận tội, cách chức đục tên ông trên bia Tiến-sĩ, mãi năm 1886, vua Đồng Khánh mới cho ông phục chức. Ông để lại chừng 10 bộ sách Hán văn và một ít văn quốc âm.
Trích trong Khoa-cử
ở Việt-Nam (chưa in)
|
Trích trong Khoa-cử ở Việt-Nam (chưa in) |
Trích trong Khoa-cử
ở Việt-Nam (chưa in)
|
Chính vua Minh Mệnh
cũng nhận xét : " Văn cử nghiệp chỉ câu nệ những cái hủ
sáo...học như thế trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày
một kém đi ? "
Một số người
cho rằng Khoa cử bị bãi bỏ là do người Pháp cưỡng ép,
thực ra giới trí thức của ta lúc ấy nhao nhao đòi cải tổ
giáo dục và Khoa cử : Nguyễn Tường Tộ (1830-71), Phạm Phú
Thứ (1820-81), Phan Bội Châu (1867-1940), Trần Quý Cáp (1870-1908)
vv đều xin cải sửa, đặc biệt có Trần Bích San (1840-78)
đỗ tới Tam Nguyên cũng xin bãi Khoa cử. Phan Chu Trinh xuất
thân Nho học, đỗ Tiến sĩ, mà lên án Hán học rất nặng
lời : " Bất phế Hán tự, bất túc dĩ cứu Nam quốc ! " (không
bỏ chữ Hán thì không cứu được nước Nam). Phương Sơn
sửa lại : " Bất chấn Hán học, bất túc dĩ cứu Nam quốc
" (không chấn hưng Hán học thì không cứu được nước Nam).
Khoa cử hủ bại, chúng tôi đồng ý về điều ấy, còn Hán
học đã đào tạo ra biết bao anh hùng, liệt sĩ thì sao ta
lại phế bỏ đi ? " (21).
Huỳnh
Thúc Kháng (1876-1948) tuy kết tội Khoa cử, nhưng công nhâïn
phần lớn lỗi ở người học đạo không đến nơi : " Mình
nhận lối học Khoa cử cùng lối học Tống Nho làm lối học
Khổng, Mạnh, chính là chỗ hư, chỗ hở của người Tầu
mà mình bắt chước ". Rõ ràng Huỳnh Thúc Kháng chỉ phê bình
lối học " tầm chương, trích cú " chứ không nói trùm lấp
cả lối kén người bằng thi cử, và chính ông đã ca tụng
cái học cùng Khoa cử đời Trần, nhìn nhận nó gần chánh
đạo. Lại cũng chính ông nghiêm khắc lên án thái độ của
một số người theo Tân học : " Chẳng qua ngày trước nói
Khổng, Mạnh thì ngày nay thay vào Hi lạp, La mã, Mạnh đức
thư cưu (Montesquieu), Lư thoa (Rousseau), đổi cái " chi, hồ,
dã, giả " bước sang " a, b, c, d ". Phan Chu Trinh còn gay gắt
hơn : " Ngày trước học chữ Hán thì làm hủ Nho, ngày nay
học Tây thì làm hủ Âu " (22).Thếlà
thế nào ? Khoa cử đã bị bãi bỏ, chương trình cải cách
đã được áp dụng, tại sao hai vị còn chưa vừa lòng ? -
Ấy là vì cả hai đều nhận ra cái cái óc học để làm quan
của ta vẫn còn, và cái óc ấy không hẳn là " độc quyền
" của Hán học và Khoa cử.. Người ta thích làm quan để được
giàu sang, trọng vọng. Xưa kia các bà, các cô có phải chỉ
tham " cái bút, cái nghiên " xuông đâu ? Tham là tham một bước
lên quan khi " anh Đồ " thi đỗ đấy chứ. Bởi thế khi Khoa
cử tàn, các cô bèn " xếp bút nghiên " lại, không phải để
" lên đường tranh đấu " mà là để tuyên bố " Phi Cao đẳng
bất thành phu phụ ! "
Ta chê Khoa cử,
thực ra là chê cái học thiếu thực dụng, chứ còn cách dùng
thi cử để kén nhân tài thì ngày nay trên khắp thế giới
vẫn phải dùng đến. Khoa cử tương đối công bằng và bình
đẳng, ít ra cũng hơn chế độ " con vua thì lại làm vua ".
Trong
Hồi ký, Paul Doumer nhắc đến trường hợp một
người con nông dân được lấy đỗ trong khi một người khác
con quan lại bị đánh trượt mặc dầu văn tài hai người
suýt soát nhau, để chứng tỏ các quan trường không tư vị.
Song Khoa cử chỉ tương đối công bằng, con nhà " xướng ca
vô loài " chẳng hạn, không được đi thi. Đào Duy Từ thi
Hội đỗ, chỉ vì cha là người cầm đầu đội nữ nhạc
trong cung vua Lê mà bị đánh hỏng, ai dám bảo là công bằng
? Phụ nữ cũng không được phép bén mảng đến trường thi,
thậm chí dự một buổi bình văn ở nhà Giám (Quốc Tử Giám)
cũng bị đuổi ra (23) thì
bình đẳng ở chỗ nào ?
Phong trào duy tân
ngày một lan rộng, nhất là từ khi ta thấy Nhật trở nên
hùng cường nhờ Âu hoá, thắng được quân đội Nga và Trung
Hoa vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX.
* * |
Ngày nay chúng ta
bỏ hẳn Hán học, theo Tây học, song một số không ít đã
nhận thấy đời sống Âu, Mỹ tuy đầy đủ tiện nghi, nhưng
con người quay cuồng, phờ phạc vì công ăn việc làm, lúc
nào cũng vội vã, sắp đặt thì giờ từng giây, từng phút,
đến nỗi không biết gì đến sinh thú nữa. Đời sống vội
vã, căng thẳng ấy chưa hẳn đã thích hợp với tâm hồn
của ta. Mặt khác, cái học Đông phương quá chuộng thanh nhàn,
coi rẻ đời sống vật chất nên người dân phải vất vả,
lầm than, thiếu đủ thứ cũng không tạo được sự an lạc
cho họ. Cho nên cuối cùng tất phải đi đến một giải pháp
dung hoà.
Song dù giầu hay
nghèo, dù sang hay hèn, phần đông dân ta đều trọng tình cảm
và đạo đức, khiến người ngoại quốc phải kính trọng.
Đấy là do ảnh hưởng một phần không nhỏ của Nho giáo
đã thấm đến cốt tủy của ta, kể cả những người không
trực tiếp học đạo. Nho học đã tạo ra một từng lớp
sĩ phu có khí tiết, đức độ, rất có uy tín trong dân gian.
Ngày nay phái Tân học tuy không biết đạo Nho nhưng vẫn được
thừa hưởng cái uy tín của từng lớp trí thức trước để
lại. Mà Nho học bành trướng được một phần là nhờ Khoa
cử (Khoa cử kén người hỏi về đạo Nho vì đạo Nho dậy
cách trị quốc, an dân, lại tôn quân quyền nên được vua
chúa dùng làm quốc giáo) cho nên Khoa cử không hẳn chỉ có
tội đối với quốc dân ta.
Châtenay-Malabry, tháng 8, 1989.
Tài liệu rút trong Khoa cử ở Việt N am (Chưa in).
(Làng Văn, số 70, than&g 6, 1990).
(1)
- Connaissance du Việt-Nam, tr. 84
(2)
- Văn hoá Đông sơn được coi là văn hoá cổ của ta, cực
thịnh vào cuối thời các vua Hùng.
Chữ Việt cổ nếu có cũng không còn chứng tích.
Chữ Việt cổ nếu có cũng không còn chứng tích.
(3)
- An-nam chí lược, tr. 251
(4)
- An-nam chí lược, tr. 232-4
Theo Đào Duy Anh
(Đất nước Việt-Nam qua các đời,
tr. 69) hiện còn
đền thờ Khương Công Phụ tại quê hương là làng Cẩm Chướng,
huyện Yên Định (Thanh Hoá).
(5)
- Đoàn Kết số 411
(6)
- Ta thường dịch Tú tài thời xưa cũng là " bachelier ",
có lẽ chữ " sous-admissible " thích hợp hơn vì Tú tài xưa
là những người thi Hương không đỗ, nhưng có chân trên bảng
dự khuyết.
(7)
- Kiến văn tiểu lục,
tr. 113
(8)
- Bài thơ " Nam quốc sơn hà, Nam đế cư " của Lý Thường
Kiệt được coi là bản thứ nhất.
(9)
- Trung quốc bỏ Khoa cử năm 1905 chứ không phải năm 1900.
Có lẽ Nguyễn Hữu
Tiến đã lầm Trạng nguyên Giáp Hải đời Mạc với sư Giác
Hải đời Lý Nhân Tông (Thiền Uyển Tập Anh ) ?
Bài thơ " Cái
bèo " có thể cũng chỉ là một giai thoại bịa đặt.
Cương Mục XIV,
28-32 lại chép Mạc Đăng Dung, không đẩy lui được Mao Bá
Ôn, xin hàng.
Lịch triều hiến
chương
chép Giáp Hải đỗ Đình nguyên khoa 1538.
Công dư tiệp
ký
-tập I, tr. 100 nói Giáp Hải đỗ Trạng nguyên khoa 1553,
nhưng có con, không phải sư ; cũng không nói đến bài thơ
" Cái bèo ".
- tập II,
tr. 118, cho biết Mao Bá Ôn rút quân sau khi xem bài biểu xin
hàng của Mặc Đăng Dung do Trạng nguyên Ngô Miễn Thiệu hay
Trạng nguyên Trần Tất Văn viết.
(12)
- Ngô gia văn phái,
tr. 29
Hoàng Lê nhất
thống chí,
tr. 306
(13)
- Nghìn xưa văn hiến,
tr. 306
Phủ biên tạp
lục,
tr. 19-20, lại chép là Lê Quý Đôn chứ không phải
Ngô Thì Nhậm.
(14)
- Nguyễn Trường Tộ,
tr. 74
(15)
- Nguyễn Trường Tộ,
tr. 304
(16)
- Giai thoại làng Nho toàn tập,
tr. 534
(17)
- Ngô Thì Sĩ,
tr. 212
(18)
- Biên niên lịch sử Cổ Trung đại, tr. 230-3
(19)
- Lê Quý Đôn,
tr. 221 và 185
Câu này còn được
chép trong
Công dư tập ký tập
III, tr. 86, viết
khoảng 1755 tức là từ trước khi Lê Quý Đôn làm chủ khảo
(1772).
Vũ trung tuỳ
bút thì nói Trần Tiến chép câu này trong bài thi ứng chế
(tr. 166).
(20)
- Thơ Cao Bá Quát,
tr. 22
(21)
- Đông kinh nghĩa thục,
tr. 81
(22)
- Khổng học đăng,
tr. 774-86
(23)
- Vũ trung tuỳ bút,
tr. 96-8
Bùi Hạnh Cẩn,
Lê Quý Dôn ; Hà Nội, 1985.
Đào Duy Anh, Đất
nước Việt Nam qua các đời.
Hà Nội : KHXH, 1965. Paris :
Đông Nam Á tái bản.
P. Huard & M. Durand,
Connaissance du Việt-Nam, Paris, 1954.
Lãng Nhân, Giai
thoại làng Nho toàn tập. Saigon : Nam chi tùng thư, 1966.
Lê Quý Đôn, Kiến
văn tiểu lục. Hà Nội : Sử học, 1962. Dịch giả : Phạm
Trọng Điềm.
Lê Quý Đôn, Phủ
biên tạp lục.
Hà Nội : KHXH, 1977.
Lê Tắc, An-nam
chí lược.
Viện Đại học Huế, 1961.
Ngô Thì Chí, Hoàng
Lê nhất thống chí. Bản dịch Ngô Tất Tố. Phong trào
văn hoá tái bản, 1969.
Nguyễn Hiến Lê,
Đông kinh nghĩa thục. Saigon, 1956. Xuân Thu tái bản ở
Mỹ.
Nguyễn Hữu Tiến,
" Nói về truyện các cụ ta đi sứ Tầu ", Nam Phong số
92.
Phạm Đình Hổ,
Vũ trung tuỳ bút. Hà Nội : Văn học, 1972. Paris : Đông
Nam Á tái bản, 1985. Dịch giả : Nguyễn Hữu Tiến.
Phan Bội Châu, Khổng
học đăng.
Xuân thu tái bản ở Mỹ.
Phan Ngọc, " Chơi
chữ trong câu đối Việt Nam ", Đoàn Kết số 411.
Trần Lê Văn, Ngọc
Liêu, Chương Thâu, Nguyễn Tài Thu, Một số tác giả và
tác phẩm trong Ngô gia văn phái. Hà Sơn Bình, 1960.
Trần Quốc Vượng,
Giang Hà Vị,
Nghìn xưa văn hiến,
tập IV, Hà Nội, 1984.
Trần Thị Băng
Thanh, Ngô Thì Sĩ, Hà Nội, 1987.
Trương Bá Cần,
Nguyễn Trường Tộ, con người và di thảo. Hồ Chí Minh,
1988.
Vũ Phương Đề,
Công
dư tiệp ký. Saigon : Bộ Quốc gia Giáo dục, 1962. Dịch
giả : Nguyễn Đình Diệm.
Thơ Cao Bá Quát.
Hà Nội : Văn học, 1984.
Biên niên lịch
sử Cổ Trung Đại. Hà Nội : KHXH, 1987.
Khâm định Việt
sử thông giám cương mục. Hà Nội : Văn Sử Địa. Tổ
biên dịch : Phạm Trọng Điềm, Hoa Bằng, Trần Văn Giáp.
http://chimviet.free.fr/vanhoc/chquynh/loixua1/loixua01.htm#khoacuovietnam
http://chimviet.free.fr/vanhoc/chquynh/loixua1/loixua01.htm#khoacuovietnam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét