Xứ Đàng Trong năm 1621
Tác giả:
Cristophoro Borri
Dịch giả: Nguyễn
Khắc Xuyên, Nguyễn Nghị
Lời giới thiệu
Vào đầu thế kỷ 17, nghĩa là trước đây gần
400 năm, đã có một người Ý tới Đàng Trong. Trong gần năm năm trời, ông đã xem
xét và nhận định về đất nước và con người Việt Nam. Rồi vào năm 1621-1622 ông đã
viết một bản tường trình rất lạc quan, trìu mến.
Không phải chỉ mới trong mấy chục năm
nay, người ta mới biết nước Việt Nam là một rừng vàng biển bạc.
Trong bản tường trình, tác giả đã nói tới đất đai phì nhiêu, tới rừng vàng có
nhiều cây quý như lim, như trầm hương, kì nam, hai thứ sau này được bán ra nước
ngoài. Người Nhật mua về làm gối, người Malaixia buôn về làm củi hỏa thiêu theo
tôn giáo của họ. Còn về biển thì biết bao thứ cá đủ loại, nhất là ở một miền
ven biển, có rất nhiều thứ chim người ta lấy tổ làm thức ăn rất quý, và đó cũng
là một món xuất khẩu rất được trọng, một món ăn của bậc đế vương. Tác giả đã đề
cập tới món ăn quốc hồn quốc tuý là nước mắm. Ông so sánh: người Việt Nam dự trữ nước
mắm trong nhà như thể người châu Âu dự trữ rượu trong hầm lạnh để dùng cả năm.
Đất đai Việt Nam sinh sản ra thứ lúa mỗi năm ba
mùa, đủ và dư cho người dân dùng. Người ta còn trồng dâu chăn tằm và tơ lụa thì
vô cùng dồi dào đến nỗi những người lao động khuân đất làm đồng cũng mặc toàn
đồ tơ lụa. Thứ này còn bán qua các nước lân cận, sang tới Tây Tạng. Ông cũng
không quên những cách sinh sống của chúng ta như tục uống trà, tục ăn trầu. Ông
nói: người có một vườn cau thì không khác gì người ở châu Âu có vài ba nương ô
liu.
Về các gia súc và dã thú ông kể khá
nhiều, nhưng đặc biệt ông tả con tê giác và cách đi săn tê giác. Ông rất có cảm
tình với voi: chính ông đã tiếp xúc với quản tượng, chính ông đã nhiều lần được
cưỡi voi trong những quãng đường rừng, những mé biển. Ông cũng biết một con voi
người ta gọi tên nó là Nhơn.
Về các cây ăn trái, ông cũng khá tinh
tường, đặc biệt ông thích thú được dùng trái sầu riêng mà ông coi như món tráng
miệng sang bậc nhất châu Âu. Ông nói tới với một xác tin và yêu mến. Ông còn biết
mấy món ăn khá đặc biệt, thí dụ ngoài món yến đế vương còn có món tim gan tê
giác, món tắc kỳ nướng trên than hồng, những món mà ông chỉ dám nhìn chứ không
dám động tới.
Về văn hóa phong tục, tuy không đồng ý
nhiều điểm, ông nhận thấy có rất nhiều điều tích cực có thể làm cho người Việt Nam dễ dàng tin
theo Kitô giáo. Ông coi Khổng Tử như một nhà hiền triết trứ danh Hy Lạp,
Aristote. Cũng vậy, ông đề cập tới nhiều giáo lý uyên thâm của Phật tổ và cũng
coi Đức Phật như một Aristote bên phương Đông. Tựu trung ông cho rằng người
Việt Nam
có hai tin tưởng căn bản này: tin có một thượng đế thưởng phạt và tin linh hồn
bất tử.
Về con người Việt Nam, ông nhận
thấy họ hiền lành, hiếu khách. Họ còn có lòng quảng đại: không bao giờ họ từ
chối người đã cất lời xin họ. Bao giờ họ cũng lịch thiệp và hòa nhã.
Về học thuật, người Việt Nam cũng có
nhiều trường dạy học. Họ chuyên chú học sách thánh hiền. Tuy họ không có trường
đào luyện y khoa và dược khoa, nhưng họ có những lương y rất thời danh, có
những lá thuốc rất hiệu nghiệm. Chính ông đã có cơ hội nhờ tay khéo léo các
thầy thuốc Đông y chữa cho lành mạnh.
Về chính thể và võ bị thì tác giả nói là
người Việt Nam không như người Trung Hoa quá chuyên chú về ngành văn, cũng
không giống người Nhật hiếu võ: tuỳ trường hợp, tuỳ hoàn cảnh mà chúng ta trọng
lúc thì võ khi thì văn. Ông cũng nói về lực lượng của chúa Đàng Trong lúc đó,
về việc một công chúa Việt Nam kết hôn cùng vua Campuchia, và dĩ nhiên sự bang
giao thân thiện giữa hai nước làng giềng, việc gửi phái đoàn ngoại giao tới
nước bạn.
Chúng tôi không nói hết những thích thú
khi đọc bản tường trình này, những thích thú mà từ gần bốn thế kỷ nay, các độc
giả đều cảm nhận, nhận thấy. Nhưng có vài ba nét đặc biệt nơi tác giả làm cho
chúng tôi rất yêu mến con người đó. Thứ nhất, ông nói về tục đi chân không của
người Việt Nam,
và nếu có đi giày thì cũng chỉ là một thứ dép có quai rất thô sơ. Vì không ai
biết đóng giày như ở Châu Âu nên ông đành phải đi chân không trên đường cát sỏi
cũng như bùn lầy. Thế rồi cũng quen đi đến nỗi khi trở về Macao hay Châu Âu ông thấy khó chịu phải đút
chân vào ống giày. Không còn là một thích thú, trái lại còn là một cái gì lòng
thòng vướng víu. Thứ hai, có nhiều người ngoại quốc tới Việt Nam và rất khổ
sở vì thiếu bánh mì. Đàng này ông cũng làm quen với cơm, cho tới khi trở về
Châu Âu, ông thấy thiếu thốn và khổ sở vì thiếu cơm. Thứ ba, khi trở về Châu Au
ông đã đem theo một cây gọi là cây đại hoàng để làm giống, nhưng vì thay đổi
khí hậu, nên lúc về tới nơi thì nó đã biến chất và không thể cho ông thí nghiệm
như lòng ông mong mỏi.
Mấy điều trên đây tỏ ra tính tình ông rất
dễ thương và ông rất dễ chinh phục được lòng người. Cũng phải nói là vì có chút
vốn liếng khoa học, nhất là về thiên văn học, nên ông đã nổi tiếng từ nơi nhà
chúa Đàng Trong lúc đó cho tới các bậc cận thần, từ chúa Sãi cho tới hoàng tử
Kỳ, từ các nho gia cho tới các vị sãi.
Một việc nữa phải nhắc qua ở đây là ông
đã cố gắng học tiếng Việt, tuy không thạo lắm, nhưng ông cũng hiểu biết đủ để
giảng giáo lý Kitô. Có một vài câu chữ quốc ngữ trong bản tường thuật của ông
cho chúng ta biết: ngay từ những năm 1618-1620 đã có một khởi đầu hình thành
thứ chữ này. Cái đặc biệt ở nơi ông, cái làm cho khác với De Rhodes sau này, đó
là ông đã phiên âm tiếng Việt theo chữ viết của người Ý, chứ không phải người
Bồ. Rõ ràng ông phiên âm và viết gn chứ không nh như nho (trái nho) ông viết là
gnoo, nhỏ (trẻ nhỏ) ông viết là gno. Cũng vậy xin ông viết scin, bởi vì theo
tiếng ý nếu viết cin thì đọc uốn lưỡi còn nếu viết sc thì đọc cũng như x.
Về bản thân ông, người ta được biết, ông
sinh tại Milan (Ý) năm 1583, nhưng không rõ vào tháng nào ngày nào. Trong cuốn
tường trình, ông viết: Tôi tới xứ Đàng Trong vào chính ngày tôi sinh ra ở trần
gian này và suýt nữa là ngày tôi bỏ về trời. Nhưng là ngày nào tháng nào thì
ông không nói.
Vào Dòng Tên năm 1601, Ông qua Ấn năm
1615 và tới Đàng Trong, cải trang làm bồi tàu năm 1618. Ông ở đó cho tới năm
1622 thì về Macao.
Ở Bồ, ông giảng dạy tại Đại học Coimbra về môn thiên văn
và toán học. Ông lại sành về ngành hàng hải và viết một cuốn sách về nghệ thuật
đi biển bằng tiếng Bồ. Ông cũng viết chưa xong cuốn “Chỉ dẫn hành trình đi Ấn”.
Nhưng cuốn sách làm sôi nổi dư luận là cuốn: Luận về ba tầng trời: khí, hành
tinh, thiên khung. Thế là ông bị gọi về Roma. Ông bất mãn với Dòng Tên và xin
ra khỏi Dòng năm 1632 để vào Dòng Bernadins de Sainte Croix. Nhưng sau ba
tháng, ông lại xin bỏ Dòng này để vào Dòng Citeaux. Nhưng sau mấy tuần ông bị
Dòng này trục xuất. Vì thế ông làm đơn kiện. Kết quả là ông được kiện, nhưng
khi ông đi đưa tin cho một giáo chủ bạn thân của ông, thì ông bị nạn. Người ta
đem ông về nhà và ông đã tắt thở khi được đem lên giường ngày hôm sau. Đó là
ngày 24 tháng 5 năm 1632 lúc ông không thuộc Dòng Tên, cũng không thuộc Dòng
nào, cũng không ở tu viện nào, mà lại ở nhà một người thân.Ông mất đi, nhưng
tác phẩm về Xứ Đàng Trong còn truyền tụng cho tới ngày nay và được độc giả
nhiệt liệt hoan nghênh. Viết bằng tiếng Ý và ấn hành năm 1631, cuốn này đã được
dịch sang tiếng Pháp, tiếng Latinh, tiếng Hà Lan, tiếng Đức, tiếng Anh vào
những năm 1631-1633. Sau ba thế kỷ, ông Bonifacy năm 1931 dịch lại sang tiếng
Pháp và cho in ở tạp chí Đô thành Hiếu cổ Huế tháng 7-12 năm 1931.
Chương 1: Về quốc hiệu, vị trí và diện tích của xứ này
Xứ Đàng Trong 1 được người Bồ gọi như vậy
nhưng trong tiếng bản xứ là Annam
2 có nghĩa là miền Tây. Đối với nước Tàu, xứ này thực sự nằm ở phía Tây. Nhưng
người Nhật gọi xứ này là Cochi 3, trong tiếng bản xứ của họ, cũng có nghĩa là Annam trong
tiếng Đàng Trong. Nhưng người Bồ đã vào nước Annam để buôn bán, họ dùng tiếng
Nhật Coci và tiếng Tàu Cina mà làm thành tiếng thứ ba là Cocincina để chỉ xứ
này, chủ ý phân biệt Cocin cạnh Cina với tỉnh Cocin thuộc Ấn Độ, do người Bồ
chiếm đóng. Còn trong các bản đồ thế giới thì xứ Đàng Trong thường được ghi là
Cauchinchine hay Cauchine hay tương tự, ấy chỉ là vì do ghi sai hoặc vì tác giả
làm bản đồ muốn cho người ta biết xứ này như là cửa vào và là khởi đầu của
Trung Quốc.
Xứ này, về hướng Nam, giáp vĩ tuyến 11 4,
về hướng Bắc, xế về Đông Bắc, giáp xứ Đàng Ngoài, về hướng Đông, có biển Đông
và về hướng Tây, xế về Tây Bắc, giáp nước Lào.
Còn về diện tích thì tôi chỉ nói về Đàng
Trong vốn là một phần của đại vương quốc Đàng Ngoài, trước kia thuộc về ông cố
của chúa đương thời 5 cai trị Đàng Trong, người đã chống lại chính vua nước
Đàng Ngoài. Cho tới nay người Bồ chỉ buôn bán với xứ này và các cha Dòng chúng
tôi cũng chỉ hoạt động ở xứ này để thiết lập đạo Kitô.
Xứ Đàng Trong trải dài hơn một trăm dặm
theo bờ biển, ở vĩ tuyến 11, cho tới khoảng vĩ tuyến 17 6, chỗ bắt đầu quốc gia
của chúa Đàng Ngoài. Bề rộng không lớn lắm, chỉ chừng hai mươi dặm Ý, đất bằng,
một bên là biển và một bên là dãy núi chạy dài có Kẻ Mọi ở 7, tên gọi này có
nghĩa là man di. Mặc dầu họ là người Đàng Trong, nhưng họ không nhìn nhận chúa
cũng không thần phục ngài. Họ đóng đô và chiếm giữ miền núi rất hiểm trở.
Xứ Đàng Trong chia thành năm tỉnh. Tỉnh
thứ nhất là nơi chúa ở ngay sát xứ Đàng Ngoài gọi là Thuận Hóa. Tỉnh thứ hai là
Cacciam 8, nơi hoàng tử làm trấn thủ. Tỉnh thứ ba là Quamguia 9. Thứ tư là
Quingnim 10, người Bồ đặt tên là Pulucambis và tỉnh thứ năm là Renran 11.
Chú thích:
(1) Chúng ta đang ở thời kỳ Nam Bắc phân
tranh, chúa Trịnh ở Bắc và chúa Nguyễn ở Nam.
(2) An Nam,
miền Nam
được bình định, chứ không phải miền Tây như Borri nói. Lý Anh Tông được nhà
Tống tôn làm An Nam quốc vương. Đó là năm Giáp Thân 1164.
(3) Có thể gốc là Giao Chỉ. Thực ra chữ
Cocincina được nhận để phân biệt với tỉnh Cochin ở Ấn Độ.
(4) Về ngành hàng hải, người Bồ và người
Tây rất thành thạo. Người Hà Lan cũng đã giỏi về thuật đi biển và người ta đã
bắt đầu vẽ bản đồ thế giới với những vĩ tuyến, đường xích đạo. Vào thế kỷ 15,
16 trung tâm địa dư là ở Roma.
(5) Lúc ngày Nguyễn Phúc Nguyên
(1613-1635) làm chúa ở Đàng Trong tục gọi là chúa Sãi. Như vậy ông cố tức là
Nguyễn Kim thân sinh của Nguyễn Hoàng. Nguyễn Hoàng (1600-1613), tục gọi là
chúa Tiên.
(6) Kỳ lạ thay, Hiệp định Genève đã coi
vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam-Bắc (1954).
(7) Dãy núi Trường Sơn. Chữ “Mọi” đối với
ta vẫn còn nghĩa hèn kém (ở đây chỉ dân tộc ít người)
(8) Quảng Nam
(9) Quảng Ngãi
(10) Quy Nhơn
(11) Theo bản đồ 1651: 1. Quảng Bình
(Dinh Công); 2. Thuận Hóa (Dinh Cả); 3. Quảng Nam (Dinh Chiêm); 4. Quảng Ngãi; 5.
Quy Nhơn (Nước Mặn, Nước Ngọt); 6. Phú Yên (Ranran, Dinh Phó An)
Chương 2: Về khí hậu và đặc tính lãnh thổ Đàng Trong
Như đã nói ở trên, xứ này ở vào giữa vĩ
tuyến 11 và 17, do đó, nóng chứ không lạnh. Tuy vậy xứ này lại không nóng như
An Độ, mặc dầu cũng vĩ tuyến như nhau và thuộc về miền nhiệt đới như nhau. Lý
do sự khác biệt này là ở An Độ không phân rõ bốn mùa. Mùa hạ kéo dài tới chín
tháng liên tục. Trong thời gian đó, không thấy có một chút mây trên trời, ngày
cũng như đêm, thành thử không khí luôn luôn bị thiêu đốt bởi ánh nắng mặt trời.
Ba tháng còn lại được kể là mùa đông, không phải vì thiếu nóng, mà là vì mưa
liên tục, thường là cả ngày lẫn đêm trong mùa này. Nói theo kiểu bình thường
thì mưa liên tục như thế hẳn phải làm không khí mát dịu. Tuy nhiên, vì mưa vào
tháng năm, tháng sáu, tháng bảy, lúc mặt trời ở điểm cao nhất, ở tột đỉnh của
Ấn Độ và lại không hề có ngọn gió nào khác ngoài những ngọn gió thật nóng, nên
không khí rất ngột ngạt, làm cho nhiệt độ khó chịu hơn là vào chính giữa mùa hạ
vì lúc này thường có gió nhẹ thổi từ biển vào đem khí mát cho nội địa. Nếu
không có sự an bài đặc biệt, thì không sao ở được trong những xứ sở này.
Ở Đàng Trong thì không thế bởi vì có đủ
bốn mùa trong năm, tuy không rõ ràng như ở Châu Au vốn có khí hậu ôn hòa hơn.
Mùa hạ gồm ba tháng sáu, bảy, và tám, cũng rất nóng vì ở vào miền nhiệt đới và
mặt trời trong những tháng đó cũng ở điểm cao nhất trên đầu chúng ta. Nhưng vào
tháng chín, mười và mười một thuộc mùa thu thì hết nóng và khí hậu dịu bởi có
mưa liên tục, nhất là ở miền núi Kẻ Mọi. Do đó nước lũ làm ngập khắp xứ, đổ ra
biển, như thể đất liền và biển chỉ còn là một. Cứ mười lăm hôm lại xảy ra một
trận lụt và mỗi lần kéo dài ba ngày. Ích lợi của nước lũ là không những nó làm
cho không khí mát mẻ, mà còn đem phù sa làm cho đất phì nhiêu và dồi dào về mọi
sự, nhất là về lúa là thức ăn tốt nhất trời ban và là lương thực chung cho khắp
xứ. Còn vào ba tháng mùa đông – tháng chạp, tháng giêng và tháng hai thì có gió
bắc thổi, đem mưa đủ lạnh để phânbiệt mùa đông với các mùa khác trong năm. Sau
cùng vào các tháng ba, tư và năm, hiện rõ các hiệu quả của một mùa xuân thú vị,
tất cả đều xanh tươi và nở hoa.
Nhân tiện nói về lụt, tôi xin kể thêm ở
chương này một vài sự kỳ lạ người ta gặp thấy trong dịp này.
Trước hết mọi người ở đây đều mong nước
lũ, không những để được mát mẻ và dễ chịu, mà còn để cho đồng ruộng được mầu
mỡ. Thế nên khi thấy mùa nước tới, họ để lộ hẳn sự vui mừng và thích thú: họ
thăm hỏi nhau, chúc mừng nhau.
ôm nhau hò hét vui vẻ và nhắc đi nhắc lại
“đã đến lụt, đã đến lụt” 1 có nghĩa là nước đã tới, nước đã tới rồi. Nói tóm
lại là không ai là không bày tỏ niềm vui, từ kẻ thế gia đến chúa cũng vậy.
nước lũ tới bất thần, không ai ngờ, ban
chiều chưa ai nghĩ tới, nhưng sáng ra nước đã kéo vào tư bề, và người ta bị
nhốt trong nhà, tình trạng này diễn ra khắp xứ. Do đọ họ thường mất hết gia súc
vì không kịp đưa chúng chạy lên núi hay những nơi cao hơn.
Vào trường hợp này, có một luật kì lạ ở
xứ này là bò, dê, lợn và các vật khác bị chết đuối thì không còn thuộc về chủ,
nhưng đương nhiên thuộc về người thứ nhất vớt được. Đây cũng là một điều làm
cho người ta vui thích một cách lạ lùng: vừa có lụt, mọi người đều nhảy xuống
thuyền bơi đi tìm vớt gia súc chết đuối, để rồi làm thịt và dọn cỗ linh đình.
Còn trẻ con thì tuỳ theo tuổi, chúng để
mắt và vui thú rình trên cánh đồng lúa mênh mông đầy rẫy chuột lớn, chuột bé,
vì hang ngập nước nên chúng phải ngoi ra, bò lên cây để thoát, thành thử thật
là rất vui mắt khi được nhìn thấy những cảnh cây nặng trĩu những chuột thay vì
lá hay quả. Từng đám trẻ con trên các chiếc thuyền nhỏ của chúng tới rung cây
làm các con vật này rớt xuống nước và chết đuối. Trò đùa nghịch và giải trí của
trẻ con, nhưng thực ra có ích lợi lớn cho đồng ruộng vì thoát được những con vật
gây thiệt hại nặng cho những cánh đồng rộng lớn.
Cái lợi cuối cùng, không phải là nhỏ, đó
là người ta đều có thể sắm sửa cho đủ mọi thứ cần dùng. Vì trong ba ngày này,
nước lụt làm cho người ta có thể đi lại khắp nơi bằng thuyền một cách rất dễ
dàng đến độ không có gì mà không chuyển được từ nơi này qua nơi khác. Do đó,
người ta dành thời gian này để họp chợ, những phiên chợ có tiếng nhất trong xứ,
số người đến họp chợ trong dịp này đông hơn bất kỳ buổi họp chợ nào khác trong
năm. Cũng trong ba ngày này, người ta đi lấy cây để thổi nấu và dựng nhà. Họ
chất cây từ trên núi vào thuyền và dễ dàng bơi qua các nẻo, các ngõ và tới tận
nhà vốn được cất trên các hàng cột khá cao để cho nước ra vào tự do. Ai cũng
leo lên sàn cao nhất và phải khen họ vì không bao giờ lụt bén tới bởi họ đã lấy
kích thước chính xác, do kinh nghiệm lâu năm, của mực nước cao thấp, do đó họ
không sợ vì họ biết chắc là nước luôn ở phía dưới nhà họ.
Chú thích:
(1) Buzomi tới Đàng Trong năm 1615, de
Pina tới năm 1617 và Borri với Marquez tới năm 1618. Cha De Pina rất thông thạo
tiếng Việt và là thầy dạy De Rhodes sau này.
Chương 3: Đất đai phì nhiêu (P1)
Người ta dễ dàng nhận thấy là nước lụt đã
làm cho đất đai ở xứ Đàng Trong phì nhiêu, như chúng tôi vừa nói. Tuy nhiên,
tôi thấy còn phải kể nhiều sự đặc biệt khác nữa.
Nước lụt làm cho đất mầu mỡ và phì nhiêu
nên mỗi năm có ba vụ lúa 1, đầy đủ và dồi dào đến nỗi không ai phải lam lũ vất
vả để sinh sống, ai cũng sung túc.
Quanh năm có rất nhiều và có đủ thứ trái
cây như ở Ấn Độ, vì xứ Đàng Trong có cùng khí hậu như ở Ấn. Nhưng đặc biệt là
cam ở Đàng Trong trái lớn hơn ở Châu Âu to và rất ngọt. Vỏ rất dể bóc, mềm và
ngon, cam có thể ăn được cả vỏ lẫn ruột và có mùi vị thơm như trái chanh 2 ở Ý.
Ở đây người ta cũng thấy một số trái khác người Bồ gọi là chuối, người khác gọi
là vả An Độ. Theo ý tôi thì không xác đáng vì ở An không có cây nào được gọi là
vả, và cây ở Đàng Trong không có gì giống cây vả của chúng ta, về thân cây cũng
như về trái. Về thân cây thì nó giống như cây chúng ta gọi là “lúa mì Thổ Nhĩ
Kỳ” tuy cao lớn hơn, là rất dài và rất to bản, đến độ chỉ cần hai lá cũng đủ để
có thể che một người từ chân đến đỉnh đầu và bao quanh cả người. Do đó mà có
người muốn gọi cây này là “cây vườn địa đàng” và Ađam đã lấy lá của nó để che
giấu sự trần truồng của mình 3. Cây này trổ ngay trên ngọn một buồng gồm hai
mươi, ba mươi hay bốn mươi trái cột chặt với nhau, mỗi trái về hình thù, bề dài
và độ lớn, đều giống trái chanh thông thường ở Ý. Khi trái chưa hoàn toàn chín
thì vỏ xanh và sau đó trở nên vàng giống hệt như chanh. Không cần dùng dao để
bổ hay gọt vỏ, người ta lột vỏ rất dễ dàng như bóc đâu mới hái. Mùi thì rất
thơm, ruột vàng và khá cứng chắc như một trái lê bergam chín muồi của ta, dễ
tan trong miệng. Do đó không thể nói là nó giống cây vả của chúng ta được, trừ
vị thơm ngon và dịu ngọt. Cũng còn một thứ trái khác thuộc loại này, người ta
sấy và ngâm rượu 4. Hàng năm, sau khi cây có trái, sẽ héo đi và một nhánh con
trổ ở gốc để cho năm sau. Ở Ý chúng ta gọi là cây vả An Độ, nhưng thực ra không
có gì giống về cây cũng như về trái chuối này. Bây giờ chúng tôi nói tới cây
(chúng ta gọi là cây vả An Độ, nhưng không phải là cây người ta thấy ở những
miền này).
Trái này có rất nhiều ở hầu hết các tỉnh
An Độ, nhưng ở Đàng Trong còn một thứ không thấy ở Trung Quốc cũng như ở khắp
An Độ. Trái nó to, như trái chanh lớn nhất ở Ý và to đến nỗi chỉ cắn một trái
cũng đủ no. Ruột thì trắng và có rất nhiều hạt nhỏ đen và tròn, người ta nhai
lẫn với ruột. Các hạt này có vị thơm ngon và rất tốt cho dạ dày.
Ở Đàng Trong cũng còn một loại trái cây
nữa, tôi không thấy có ở An Độ, người ta gọi là cam 5. Về hình thù và chất vỏ,
nó giống như lựu của ta, nhưng ruột bên trong hơi lỏng phải dùng thìa để múc và
có vị thơm và có màu gần giống trái sơn trà chín.
Họ cũng có thứ giống như trái anh đào của
ta, nhưng mùi vị thì lại như trái nho theo tiếng họ gọi là gnoo.
Họ không thiếu dưa, nhưng không ngon bằng
dưa của ta, nên phải ăn với đường hay mật. Dưa gang hay dưa nước, như nhiều
người gọi, rất to và rất tuyệt.
Có một trái gọi là mít. Trái này cũng có
ở Ấn Độ, nhưng không ngon bằng trái ở Đàng Trong. Trái mọc ở trên một cây cao
như cây hồ đào và cây dẻ của ta, nhưng gai thì dài hơn nhiều. Trái to như trái
bí ngô lớn ở Ý và chỉ cần một trái cũng đủ cho một người vác. Bề ngoài nó có
hình thù của một nón thông, nhưng ruột thì dịu và mềm. Bên trong thì đầy những
múi vàng có hột dẹp và tròn như đồng tiền ở Ý hay đồng “teston” (ở Pháp). Ở
giữa mỗi múi có hạt 6 người ta bỏ đi không ăn. Có hai loại7, một loại người Bồ
gọi là “giaca barca”, dóc hột, ruột cứng. Loại thứ hai không dóc hột và ruột
không cứng bằng, rất mềm và nát như keo. Mùi vị của cả hai loại này rất ngon
gọi là sầu riêng chúng tôi sẽ nói sau đây.
Trái “durion” (sầu riêng) là một trong
những trái ngon nhất hoàn cầu, không thấy có ở đâu trừ ở Malacca, Bornéô và mấy
đảo xung quanh. Không có gì để nói giữa cây này và cây mít. Bên ngoài, trái này
cũng giống trái mít và trái thông của ta, cả về kích thước cũng như độ cứng của
vỏ. Còn thịt thì bám vào hột như keo, rất trắng, còn mùi vị thì giống như món
đông hạnh nhân của người Ý 8. Thịt và nước ngọt của nó được chứa trong mười hay
mười hai ngăn nhỏ, mỗi ngăn có nhiều múi thịt trắng bọc quanh hột, to bằng hạt
dẻ lớn nhất của ta. Khi mở ra thì xông mùi khó chịu như mùi hành thối, nhưng ở
trong thì không có mùi và lại rất thơm ngon. Tôi kể ở đây một câu chuyện xảy ra
trước mắt tôi. Số là có một người muốn cho một giáo sĩ cao cấp mới tới Malacca
thưởng thức trái này và không báo trước. Ông mở một trái ngay trước mặt vị giáo
chủ. Mùi khá nặng và khó chịu xông ra làm cho giáo chủ ghê sợ và nản không dùng
được. Nhưng lúc ngồi vào bàn tiệc, trong các món ăn có một món chỉ toàn là trái
cây có mùi vị thơm giống món đông hạnh nhân làm cho giáo chủ dễ lầm cũng như
bất cứ ai chưa được biết trước. Ông vừa đưa tay lấy một miếng thứ nhất và nếm
thì thấy rất ngon làm ông bỡ ngỡ và hỏi xem người đầu bếp nào khéo dọn món đông
hạnh nhân ngon đến thế. Chủ nhà mỉm cười trả lời là chẳng có hỏa đầu quân nào
ngoài Thiên Chúa cao cả đã cho xứ này một trái hiếm gọi là sầu riêng mà lúc đầu
ông đã ghê sợ. Nghe tới đây vị giáo chủ sửng sốt và hết lời ca ngợi, ông dùng
rất ngon miệng. Thế nhưng trái này ngon đến độ ngay ở Malacca là nơi sản sinh,
nhiều khi giá lên tới một đồng “êcu” một trái.
Xứ Đàng Trong còn có một loại trái khác
người Bồ gọi là dứa. Và tôi biết trái này cũng rất thông thường ở khắp An Độ và
ở Brésil. Tuy nhiên, vì tôi thấy người ta tả không đúng theo ý tôi lắm, nên tôi
nghĩ là phải nói một chút. Trái này không trổ trên cây, cũng không do hạt
giống, nhưng do rễ như thể cây atisô của ta. Thân và lá hoàn toàn giống như cây
các đông và atisô của ta. Trái hình tròn dài bằng chín ngón tay 9 và to như thể
lấy hai vốc tay ôm vừa. Ruột ở trong thì dày như ruột cải củ, nhưng vỏ thì cứng
hơn và sờm như vây cá. Khi chín bên trong vàng và sau khi lấy dao gọt vỏ thì ăn
sống. Trái có vị chua dịu và khi chín thì thơm ngon như trái lê “bergam”.
Ở xứ Đàng Trong còn một trái khác đặc
biệt của xứ này người Bồ gọi là “aerca” (cau). Cây nó mọc thẳng như cây dừa,
rỗng ở trong và chỉ đâm lá ở chóp đỉnh, lá tựa như lá dừa: ở giữa các tàu lá,
nảy các ngành nhỏ trái. Trái có hình thù và kích thước của trái hồ đào 10, sắc
xanh cũng như vỏ hồ đào, còn ruột thì trắng và cứng như trái dẻ 11 chẳng có mùi
vị gì hết. Trái này không ăn một mình, nhưng ăn với lá trầu không, thứ cây rất
thông dụng ở khắp Ấn Độ, lá như lá thường xuân 12 ở Châu Au và thân bám vào cây
chống như giống cây thường xuân. Người ta hái lá cắt thành từng miếng nhỏ và
trong mỗi miếng để một miếng cau, như vậy mỗi trái có thể làm thành bốn hay năm
miếng. Người ta còn thêm vôi với cau. Vôi ở xứ này không làm bằng đá như ở Châu
Au, nhưng bằng vỏ sò hến 13. Vì trong nhà thường có những người chuyên lo việc
bếp núc, chợ búa và các việc khác, nên ở Đàng Trong mỗi nhà đều có một người
không có việc gì khác hơn là việc têm trầu, những người dùng vào việc này
thường là đàn bà, nên gọi là các bà têm trầu. Những miếng trầu đã têm sẵn thì
để vào trong hộp và suốt ngày người ta nhai trầu, không những khi ở trong nhà mà
cả khi đi lại trong phố chợ, cả lúc nói, ở mọi nơi, mọi lúc. Và sau khi đã nhai
trầu lâu và nghiền trong miệng người ta không nuốt mà nhả ra, chỉ giữ hương vị
và phẩm chất tăng thêm sức mạnh cho dạ dày một cách kỳ lạ. Trái này được têm
thành miếng rất thông dụng đến nỗi khi tới thăm ai, người ta đem theo một túi
đầy trầu và mời người mình tới thăm, người chủ nhà lấy một miếng cho ngay vào
miệng. Trước khi người khách từ biệt ra về, chủ nhà sai người têm trầu của nhà
mình đem ra một túi để mời người khách đến thăm mình, như để đáp lại sự lịch
thiệp mình đã nhận được. Do đó vì cần phải có sẵn coi trầu cau và có liên tục,
nên cau cũng là một nguồn lợi lớn ở xứ này, có vườn cau thì cũng như ở xứ chúng
ta có ruộng nho và ruộng ôliu. Họ cũng hút thuốc lá, nhưng thuốc lá không thông
dụng bằng trầu cau. Cũng có đầy đủ các loại mướp và có cả mía nữa. Các trái cây
ở Châu Au thì cho tới nay chưa được đưa tới xứ Đàng Trong. Tôi tin rằng nho và
vả sẽ mọc được ở đây, những thứ rau như rau diếp, rau diếp xoắn, sú và những thứ
rau tương tự hiện có ở Đàng Trong như ở khắp Ấn Độ, nhưng chúng chỉ ra lá mà
không có hạt và nếu muốn gieo thì phải đem hạt từ Châu Âu qua.
Thịt thà thì rất nhiều ở đây vì có vô số
súc vật bốn chân nuôi trong nhà như bò, dê, lợn, trâu và các giống tương tự, và
thú rừng như hươu nai to lớn hơn ở Châu Au, lợn rừng và mấy loại khác. Gia cầm
như gà và gà rừng rất nhiều ở thôn quê, chim gáy, chim bồ câu, vịt, ngỗng, sếu,
thịt thơm ngon và sau cùng là mấy thứ khác ở Châu Âu không có.
Ngành ngư nghiệp cũng rất thịnh vượng và
cá ở đây có hương vị tuyệt diệu và rất đặc biệt, tôi đã qua nhiều đại dương, đã
đi nhiều nước, nhưng tôi cho rằng không nơi nào có thể so sánh được với xứ Đàng
Trong. Và như tôi đã viết, xứ này chạy dọc bờ biển, nên có rất nhiều thuyền đánh
cá và rất nhiều thuyền tải cá đi khắp xứ, từng đoàn người chuyển cá từ biển tới
tận miền núi, có thể nói trong một ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ thì ít ra họ
dùng tới hai mươi tiếng để làm việc này. Thực ra người Đàng Trong ăn cá nhiều
hơn ăn thịt. Họ chuyên chú đánh cá chủ yếu là vì họ rất ham thứ nước “sốt” 14
gọi là balaciam 15 làm bằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão ra trong nước. Đây
là một thứ nước cốt cay cay tựa như mù tạt (moutarde) của ta, nhà nào cũng dự
trữ một lượng lớn đựng đầy trong chum, vại như tại nhiều nơi ở Châu Au, người
ta dự trữ rượu. Thứ nước cá này dùng một mình thì không nuốt được nhưng được
dùng để gợi nên hương vị và kích thích tì vị để ăn cơm vốn nhạt nhẽo và không
có mùi vị nếu không có thứ nước đó. Vì cơm là thức ăn chung và thông thường của
xứ Đàng Trong, nên cần phải có rất nhiều balaciam (nếu không thì không có mùi
vị) và do đó phải có một lượng lớn nước mắm và cũng do đó phải liên tục đánh
cá. Cũng không ít sò, hến và các hải sản khác, nhất là một thứ họ gọi là cameron
16.
Nhưng ngoài tất cả những gì đã nói, Thiên
Chúa quan phòng còn dành cho họ một thức ăn hiếm và ngon, theo thiển ý tôi, chỉ
có thể so sánh được với manna 17 Thiên Chúa dùng để nuôi dân riêng của Người
trong sa mạc và thức ăn này rất đặc biệt chỉ có ở xứ Đàng Trong chứ không đâu
có. Những điều tôi sẽ nói thì không phải bởi tôi đã nghe hay theo người khác kể
lại, nhưng chính tôi có kinh nghiệm, tôi đã thấy và thường được ăn. Ở xứ này có
một thứ chim be bé giống như chim én, nó làm tổ 18 ở các cồn đá và hốc đá sóng
biển vỗ vào. Con vật nhỏ này dùng mỏ lấy bọt biển và với chất toát ra từ dạ
dày, trộn cả hai thứ lại làm thành một thứ tôi không biết là bùn hay nhựa để
làm tổ. Tổ này khi đã khô cứng thì trong suốt và có sắc vừa vàng vừa xanh. Dân
xứ này nhặt những tổ đó về ngâm trong nước cho mềm và tan rã, rồi dùng làm đồ
gia vị trộn với thịt, các thứ thịt, cá, rau, hoặc thứ nào khác làm cho các món
ăn có một hương vị khác nhau tuỳ món như thể đã sẵn cho hồ tiêu, quế, đinh
hương hay như vậy chỉ một tổ yến mà có thể làm gia vị cho hết các thứ thịt,
không cần thêm muối, dầu, mỡ hay thứ gì tương tự. Vì thế tôi nói, nó giống như
manna, có hương vị của hầu hết các món thơm ngon nhất, chỉ khác, một đàng là do
công trình của một con chim bé nhỏ và một đàng là do tay các thiên thần của
Thượng Đế nhào nặn. Thứ này nhiều đến nỗi chính tôi đã thấy người ta chất đầy
mười chiếc thuyền nhỏ những tổ yến nhặt ở dọc các hốc núi đá, trong khoảng chưa
đầy nửa dặm. Và đây là món rất ngon, nên chỉ có chúa độc quyền sử dụng, người
ta dành tất cả cho ngài và ngài đem một số lớn cống vua Tàu là người rất
chuộng.
Dân ở đây không dùng sữa, họ cho là trọng
tội nếu vắt sữa bò, họ sợ nếu làm việc đó là mang tội, vì theo thiên nhiên thì
sữa dành để nó nuôi con. Như thể bò nuôi con mà không được sử dụng thứ lương
thực dành riêng cho con.
Họ còn ăn mấy thứ chúng ta rất sợ và
chúng ta coi như độc, thí dụ con tắc kè, con vật này nhỉnh hơn những con đã
phơi khô nhập cảng từ ngoại quốc và thường đem về Ý. Tôi đã thấy người bạn tôi
mua mấy con, buộc lại thành bó và đem nướng trên than hồng. Giây buộc đứt và
chúng bò lê thê theo kiểu của chúng trên than hồng cho tới lúc thấy sức nóng
thì chúng chống đỡ một chút vì lúc này rất lạnh, nhưng cuối cùng chúng bị thiêu
và nướng chín. Thế là ông bạn tôi lôi ra, lấy dao lóc lớp da đã cháy, thịt nó
rất trắng, ông bạn tôi nghiền thịt ra và trộn với một thứ “nước sốt” đem đun
chín rồi bỏ bơ vào ăn như một thứ thịt rất thơm ngon. Ông mời tôi, nhưng tôi
không dùng, chỉ nhìn theo mà thôi.
Chương 3: Đất đai phì nhiêu (P2)
Còn về tất cả những gì thuộc đời sống
hằng ngày, xứ Đàng Trong cũng rất đầy đủ. Thứ nhất là áo mặc, họ có rất nhiều
tơ lụa đến nỗi dân lao động và người nghèo cũng dùng hàng ngày. Vì thế đã hơn
một lần tôi rất thích thú khi thấy đàn ông, đàn bà khuân vác đá, đất, vôi và
những vật liệu tương tự mà không hề cẩn thận giữ cho áo đạp và quý họ mặc khỏi
rách hay bẩn. Điều này không có gì lạ, nếu biết rằng có những cây dâu cao lớn
người ta hái lá để nuôi tằm được trồng trong những thửa ruộng rộng lớn như cây gai
ở bên ta, và mọc lên rất chóng. Thế nên chỉ trong một ít tháng là tằm được đưa
ra nuôi ngoài khí trời và đồng thời nhả tơ, làm thành những cái kén nhỏ với số
lượng rất nhiều và dư thừa đến nỗi người Đàng Trong đủ dùng riêng cho mình mà
còn bán cho Nhật Bản và gửi sang nước Lào để rồi đưa sang Tây Tạng 19. Thứ lụa
này tuy không thanh và mịn nhưng bền và chắc hơn lụa Tàu.
Nhà cửa và đền đài, mặc dầu chỉ bằng gỗ,
nhưng không thua kém bất cứ nước nào, bởi vì không nói quá chút nào, gỗ ở xứ
này là gỗ quý nhất hoàn cầu, theo nhận xét của những người ở các nơi đó. Trong
vô số cây và vô số loại cây ở đây, có hai thứ thường được dùng để làm nhà cửa
và là thứ không bao giờ hư mặc dầu bị ngâm trong nước hay vùi trong bùn, và rất
chắc, rất nặng đến nỗi không bao giờ nổi trên mặt nước và dùng làm neo tàu. Một
thứ là gỗ đen, nhưng không phải đen như mun, loại thứ hai có mầu đỏ hung. Cả hai
sau khi được lóc vỏ thì nhẵn và trơn không cần phải bào. Các cây đó gọi là Tin
20 và rất có thể người đó không lầm khi nói rằng thứ gỗ không bao giờ hư đó là
gỗ chính vua Salomon đã dùng để dựng Đền thánh và chúng ta được biết qua Kinh
Thánh rằng thứ cây này được gọi bằng một cái tên rất gần với tên này, ligna
thying 21. Núi xứ Đàng Trong mọc đầy loại cây này, thẳng tắp và cao ngất nghểu,
như thể ngọn chạm tới mây và lớn bằng hai người ôm. Người Đàng Trong dùng gỗ
này để dựng thể lên núi chặt tuỳ thích. Tất cả kiến trúc nhà đều dựa vào hàng
cột cao, chắc và đóng rất sâu, rồi lắp ván, nhưng người ta có thể tháo gỡ ra và
thay thế bằng phên liếp, bằng tre, sậy đan rất tài tình để thông khí trong mùa
nóng bức và một phần nào cho nước và thuyền qua lại tự do vào mùa lụt lội như
chúng tôi đã nói ở trên. Họ cũng làm rất nhiều hoa lá nhỏ xinh và nhiều hình
hài khéo léo để tô điểm trang trí nhà của họ, họ chạm trổ và đẽo gọt gỗ ván rất
công phu.
Vì chúng tôi đang nói về cây cối và trước
khi qua đề tài khác, tôi xin thêm ít điều về một loại gỗ vốn là món hàng quý
nhất có thể xuất từ xứ Đàng Trong ra các nước ngoài. Đó là thứ gỗ nổi tiếng gọi
là aquila và calamba 22; cùng loại gỗ nhưng khác về tác dụng và sự quý chuộng
người ta dành cho chúng.
Loại cây này có rất nhiều, nhất là trên
núi Kẻ Mọi, cây rất to và rất cao. Nếu gỗ cắt ở thân cây non thì là trầm hương,
có rất nhiều và ai muốn lấy bao nhiêu tuỳ thích. Nhưng khi lấy ở gốc già thì đó
là kỳ nam rất khó hiếm, vì hình như thiên nhiên cho những cây đó mọc lên ở những
ngọn núi cao nhất và hiểm trở nhất để được thảnh thơi già cỗi đi, không ai làm
hại được mình. Thỉnh thoảng có ít cành gẫy và rời khỏi thân rơi xuống, hoặc vì
khô quá hoặc vì già cỗi quá khi người ta nhặt được thì đã mục nát và mốc thếch.
Nhưng đó lại là thứ có giá nhất và lừng danh nhất gọi là kỳ nam vượt hẳn thứ
trầm hương thông thường rất nhiều về tác dụng và về hương thơm. Trầm hương thì
ai cũng có thể bán tuỳ thích nhưng chúa giữ độc quyền mua bán kỳ nam vì hương
thơm và tác dụng đặc biệt của nó. Thực ra ở chính nơi nhặt được, nó rất thơm,
rất dịu, tôi đã muốn thử mấy miếng người ta cho tôi, tôiđem chôn dưới đất sâu
chừng hơn năm chân 23 thế mà vẫn ngửi thấy hương thơm. Kỳ nam nhặt tại chỗ thì
giá năm đồng đuca 24 một líu, nhưng ở hải cảng xứ Đàng Trong, nơi buôn bán thì
đắt hơn, nghĩa là hai trăm đuca một líu. Nếu tìm được một tấm lớn có thể làm
gối để gối đầu, còn hay làm gối dài 25 thì người Nhật mua tới ba trăm hay bốn
trăm đuca một líu. Là vì người ta nghiệm thấy, vì sức khỏe thì nên dùng làm gối
một thứ gì cứng hơn là thứ gối làm bằng lông vừa không lành vừa hay sinh bệnh.
Thường thì họ dùng một phiến gỗ, và tuỳ theo khả năng, người ta mong có được
thứ gỗ quý nhất có thể sắm được 26. Trầm hương thì ít được trọng hơn và giá
cũng rẻ hơn kỳ nam, nhưng chỉ một tàu chở đầy trầm hương cũng đủ cho thương gia
trở nên giàu có và sung túc suốt đời. Thế nên phần thưởng lớn nhất chúa ban cho
thuyền trưởng Malacca, đó là cho phép ông buôn trầm hương. Bởi vì người Bàlamôn
và người Banian 27 ở An Độ có tục hỏa thiêu xác người chết bằng gỗ rất thơm,
nên họ cần có ngay một số lượng lớn.
Sau cùng, xứ Đàng Trong có rất nhiều mỏ
kim khí quý và nhất là vàng. Và để hiểu biết thêm bằng vài lời những gì đáng
được kể dài dòng hơn nữa về sự giàu có của xứ này thì tôi kết thúc chương này
bằng lời của các thương gia Châu Au đã có dịp tới đây. Họ quyết rằng xứ Đàng
Trong có nhiều của cải hơn Trung Quốc mà chúng tôi biết là rất Phải nói thêm ở
đây chút ít về các thú vật chúng tôi đã nói là có rất nhiều ở Đàng Trong, nhưng
để khỏi nói nhiều, tôi chỉ xin nói về voi và tê giác, nhất là ở xứ này và nhiều
chuyện kỳ lạ chưa bao giờ nghe thấy.
Chú thích:
(1) Ba vụ lúa: chúng tôi chưa biết rõ
việc này.
(2) Chanh ở Ý lớn hơn chanh của ta, màu
vàng chứ không xanh như ta.
(3) Theo Kinh Thánh, sau khi phạm tội ăn
trái cấm, tổ tiên thấy mình trần truồng và phải lấy lá che thân.
(4) Có thể là một thứ chuối “ngự” thơm và
nhỏ, hay một thứ trái cây nào khác.
(5) Trái nói ở trên có thể là trái ổi còn
trái “cam” này có thể là trái thanh long.
(6) Có thể cho trái mít cũng thuộc về
loại “sầu riêng”
(7) Mít mật và mít dai
(8) Món hạnh nhân tán nhỏ hòa với đường,
rồi để vào tủ lạnh, món ăn rất sang của người Châu Au vào thời này.
(9) “Pouce” cách đo thời xưa cũng như
kiểu đo gang tay hay sải.
(10) Tiếng Pháp: noix
(11) Tiếng Pháp: châtaignes
(12) Tiếng Pháp: lierre, thứ như nho dại,
lá xanh và leo trên tường
(13) Thứ vôi này có màu hồng
(14) Nước sốt (sauce), một thứ nước dùng
riêng đằng đặc gồm nước thịt và mỡ béo để tưới vào các thức ăn khô và nhạt.
(15) Nước mắm rất danh tiếng của ta(16)
Chúng tôi chưa rõ đây là thứ gì
(17) Thức ăn từ trời rơi xuống, có mùi vị
theo sở thích người dùng.
(18) Chim yến, tổ yến. “Người ta cho
rằng, ban ngày chim yến đi kiếm ăn, nuốt cả con trong biển, rồi đêm đến nhả
nước dãi thành những vành tròn hình xoáy ốc để xây tổ (Đỗ Tất Lợi: Những cây
thuốc và vị thuốc ở Việt Nam,
Hà Nội 1981, tr.945)
(19) Vào thế kỷ 15, 16, 17 người Châu Au
qua phương Đông nhất là Trung Quốc để buôn hồ tiêu và tơ lụa, vì thế có con
đường gọi là con đường tơ lụa (route de la soie)
(20) Gỗ lim
(21) Chúng tôi chưa nghiên cứu xem danh
từ này có nghĩa thế nào. Nếu là lim thì theo Đỗ Tất Lợi, sách dẫn, là những thứ
cây mọc phổ biến của nước ta, nhất là tại những khu rừng miền Bắc và miền
Trung. Còn thấy ở Lào, miền Nam Trung Quốc. Thường người ta khai thác gỗ làm
nhà, làm đồ dùng. Có thể cao hơn mười thước hoặc hơn nữa (tr.361)
(22) Trầm hương: kỳ nam là loại trầm
hương quý nhất, xem: Đỗ Tất Lợi,
sd tr.449-450.
(23) Pied: chân, cách đo thời xưa, chừng
0.3407m
(24) Đồng tiền này thường đúc bằng vàng
vào thế kỷ 13 tại Venise (Ý) lúc đó là một cộng hòa độc lập và rất thịnh vượng.
Líu: livre, tức nửa cân.
(25) Gối dài là thứ gối theo suốt bề
ngang của chiếc giường lớn.
(26) Ở xứ nóng thường dùng gối mây hoặc
gỗ, khác hẳn các xứ lạnh.
(27) Không rõ thuộc tôn giáo nào, còn đạo
Bàlamôn là đạo chính yếu của Ấn Độ.
Chương 4: Voi và tê giác
Rừng xứ Đàng Trong có rất nhiều voi,
nhưng người ta không sử dụng được vì chưa biết cách bắt và luyện chúng. Vì thế
phải đưa những con voi đã thuần phục và dạy dỗ từ nước láng giềng Campuchia.
Voi ở đây lớn gấp hai voi ở An Độ. Chân và vết chân nó để lại đường kính đo
được chừng nửa mét. Răng thò ra từ miệng gọi là ngà voi thì dài tới 4.7m, đó là
voi đực. Ngà của voi cái thì ngắn hơn nhiều. Vì thế người ta dễ nhận thấy voi ở
xứ Đàng Trong to lớn hơn voi người ta vẫn dẫn đi diễu ở Châu Au tới mức nào:
ngà của các con voi này chưa được 8 tấc.
Voi sống lâu năm. Một lần tôi hỏi tuổi
một con voi tôi gặp thì người quản tượng đạp là đã sáu mươi tuổi ở Campuchia và
bốn mươi ở Đàng Trong. Vì tôi đã di chuyển nhiều lần trên lưng voi ở xứ Đàng
Trong nên tôi có thể kể lại mấy câu chuyện kỳ lạ, nhưng có thật. Voi thường chở
tới mười ba hay mười bốn người, theo cách thức sau đây. Cũng như chúng ta thắng
yên trên lưng ngựa, người ta cũng đặt trên lưng voi một bành lớn như cỗ kiệu
trong đó có bốn chỗ ngồi và người ta buộc bằng chão sắt luồn dưới bụng voi như
yên và đai ngựa. Bành có cửa mở hai bên và có thể chứa được sáu người, ngồi làm
hai hàng, mỗi hàng ba người, một người ngồi ở đằng sau với hai người nữa, và
cuối cùng là người ngồi trên đầu voi để điều khiển và chỉ huy gọi là quản
tượng. Không phải tôi chỉ đi đường bộ theo kiểu trên đây, nhưng đã có mấy lần
tôi theo đường thuỷ, qua một nhánh biển xa đất liền chừng hơn nửa dặm. Thật là
kỳ diệu đối với người chưa bao giờ thấy, đó là chứng kiến một khối thịt rất
lớn, rất to, chở một trọng lượng lớn như thế, lội trong nước như một chiếc
thuyền có chèo đun đẩy. Thực ra nó cũng cực lắm, phần vì phải mang một khối
lớn, phần vì khó thở đến nỗi để cho bớt nhọc và được mát mẻ, nó dùng vòi lấy
nước và tung lên rất cao làm cho người ta có cảm tưởng là một con cá voi trong
lòng biển cả.
Cũng vì nó to lớn như vậy nên rất khó cúi
mình. Thế nhưng nó cần phải khom xuống để cho hành khách tiện lên xuống. Nó
không bao giờ khom nếu không có lệnh của quản tượng, và nếu trong khi nó khom
xuống mà có ai còn quá nhởn nhơ mất thời giờ, hoặc còn chuyện vãn chào hỏi bè
bạn hay làm việc nào khác, tức thì nó chồm chân đứng lên vì không thể đợi được.
Như thế mới biết nó rất khó chịu khi phải giữ tư thế đó lâu.
Không có gì phải bỡ ngỡ khi thấy quản
tượng ra lệnh và nó thu xếp làm cho mình nó thành một thứ thang, có thể nói
được như vậy, rất tiện cho người ta leo lên bành. Để làm bậc thứ nhất, nó đưa
chân khá cao đối với đất. Nó giơ cổ chân cũng khá xa để làm bậc thứ hai, và để
làm bậc thứ ba, nó gấp đầu gối lại. Bậc thứ bốn là cái xương ở bên hông hơi dô
ra một chút, rồi nó lấy vòi đỡ bạn và đưa bạn tới chiếc xích buộc ở bành.
Ở đây mới thấy rõ sự lầm lẫn của những
người đã nói và còn để lại bút tích rằng voi không cúi mình được, cũng không
nằm được, thế nên muốn bắt nó chỉ có cách độc nhất là cưa thân cây nó dùng để
dựa mà ngủ, bởi vì khi thân cây đổ thì nó cũng ngã theo và cứ năm như thế không
sao trỗi dậy được, nên làm mồi ngon cho người săn. Tất cả chỉ là chuyện huyền
hoặc vì thực ra khi nó ngủ, nó không bao giờ nằm, tư thế đó không tiện cho nó
và gây khó nhọc như chúng tôi đã nói. Thế nên, nó luôn ngủ đứng, đầu luôn luôn
ngoe nguẩy.
Khi có chiến tranh và trận mạc thì người
ta nhấc mui bành đi để làm thành một thứ chòi chở lính giao chiến với nỏ, với
súng và có khi với khẩu đại bác: voi không thiếu sức để chở vì là con vật rất
khoẻ, nếu không có gì khác. Chính tôi đã thấy một con dùng vòi chuyên chở những
vật rất nặng, một con khác chuyển một khẩu súng lớn và một con nữa một mình kéo
tới mười chiếc thuyền, chiếc nọ theo sau chiếc kia, giữa đôi ngà một cách rất
khéo và đưa xuống biển. Tôi cũng thấy những con khác nhổ những cây to lớn mà
không mấy vất vả như thể chúng ta nhổ su hào hay rau diếp. Chúng cũng dễ dàng
ném xuống đất và lật đổ nhà cửa, triệt hạ từng dãy phố khi được lệnh trong trận
chiến để phá hoại quân địch và trong thời bình để không cho ngọn lửa bén khi có
hoả hoạn.
Vòi nó dài so với bề cao của thân mình,
nên không cần nghiêng hay cúi, nó dễ dàng lượm đồ vật dưới đất tuỳ ý. Vòi này
gồm nhiều bó gân kết lại và xoắn với nhau, một đàng làm cho nó rất mềm dẻo và
dễ xoay trở đưa ra khi cần để cầm những món đồ rất nhỏ, và đàng khác làm cho nó
cứng và khoẻ như chúng tôi đã nói. Toàn thân mình nó bọc lớp da cứng và ráp,
màu tro. Mỗi ngày nó thường đi được chừng mười hai dặm. Đối với những người
không quen thì sự vận chuyển của nó gây khó chịu cũng như người chưa quen đi
biển bị say sóng vì thuyền chòng chành.
Về sự dễ bảo của voi thì tôi sẽ kể những
việc kỳ diệu hơn những chuyện người ta thường kể, để cho biết là người nói câu
này rất có lý: Elephanto belluarum nulla prudentior: trong các con vật khổng
lồ, không con nào khôn bằng voi 1 vì thấy nó thực hiện được những việc làm cho
người ta tưởng nó có trí thông minh và khôn ngoan. Trước hết, mặc dầu quản
tượng dùng một dụng cụ bằng sắt dài chừng bốn gang tay ở đầu có móc để đánh và
đâm cho voi tỉnh và chú ý tới lệnh truyền, thế nhưng thường thường họ điều
khiển và chỉ huy bằng lời nói, đến nỗi tưởng như nó hiểu biết ngôn ngữ và có
mấy con biết tới ba hay bốn thứ tiếng rất khó tuỳ theo lãnh thổ và quốc gia
trong đó nó đã sống. Thí dụ con voi đã đưa tôi đi thì hiểu tiếng Campuchia vì
gốc nó ở đó, rồi tinh thông tiếng Đàng Trong là nơi nó tới. Ai cũng lấy làm lạ
khi thấy quản tượng trò chuyện với voi, dặn dò về hành trình và đường đi lối
bước, qua nơi nào, dừng lại và nghỉ ở đâu, và sau cùng kể chi tiết tất cả các
việc nó phải làm trong ngày.
Và voi làm phận sự mình một cách chính
xác như một người có lương tri và phán đoán có thể làm được. Đến nỗi sau khi
voi coi như đã biết nơi phải đi thì nó cứ thẳng tắp thi hành bằng con đường
ngắn nhất, không lần chần do sự tìm lối quá quen hay không bỡ ngỡ vì gặp sông
lớn, rừng già hay núi cao. Nó cho rằng nó dễ dàng vượt qua hết, nó cứ lên đường
và theo lộ trình, vượt hết mọi thứ khó khăn. Nếu gặp sông phải qua thì nó hoặc
bước sang chỗ cạn hoặc ngoi lội chỗ nước lớn. Nếu phải qua rừng thì nó đè bẹp
cành cây ngáng trở, dùng vòi nhổ cây dọn thành con đường rộng và dễ đi, rừng
rậm rạp đến đâu đi nữa cũng có lối đi nếu thấy voi đã qua và đã mở đường. Tất
cả những việc này voi làm theo lệnh của quản tượng, một cách dễ dàng, nhanh
chóng và mẫn cán. Chỉ có một bất tiện cho con vật này và làm cho nó khổ sở, đó
là khi có gai hay vật gì tương tự đâm vào bàn chân nó vốn mềm và nhạy cảm một
cách lạ lùng, mặc dầu nó rất cẩn thận bước từng bước, khi qua nơi hiểm trở. Có lần
trong cuộc hành trình có bảy hay tám con voi đi tiếp theo nhau, tôi nghe thấy
các quản tượng mỗi người đều dặn dò voi của mình phải thận trọng khi đặt chân
vì trong một quãng đường chừng nửa dặm chúng phải qua một bãi cát trong đó
thường có gai.
Nghe thế, các con voi đều cúi đầu, mở to
mắt như khi người ta vất vả tìm một vật gì nhỏ rơi mất. Chúng bước từng bước,
rất chăm chú, trong suốt quãng đường nguy hiểm, cho tới khi nghe báo là không
còn phải sợ nữa, lúc đó chúng mới ngẩng đầu và tiếp tục hành trình như trước.
Ngày hôm sau phải đỗ lại ở một nơi không có rừng cây nên mỗi quản tượng đều đem
một bó cây tươi và khá lớn cho voi. Tôi rất thích thú nhìn xem một con dùng vòi
với lấy cây một cách khéo hơn các con khác, rồi dùng răng bóc vỏ và ăn rất
nhanh, rất ngon như chúng ta ăn trái vả hay một trái nào khác vậy. Ngày hôm
sau, tôi ngồi trò chuyện với những hành khách khác, chừng hai mươi người. Tôi
cho họ hay về sự thích thú đặc biệt của tôi khi thấy con voi ăn cành cây một
cách ngon lành. Lúc ấy, quản tượng theo lệnh của người chủ voi lớn tiếng gọi
con voi với cái tên của nó là gnin và vì nó ở hơi xa nên nó ngẩng đầu vểnh lắng
nghe xem người ta muốn nói gì với nó.
Quản tượng bảo nó rằng: mi làm vui lòng
ông cha đi đường này đi, hôm qua ông đã thích thú nhìn mi ăn, bây giờ mi cầm
lấy một cây như cây hôm qua và tới trước mặt ông ta và làm như mi đã làm. Quản
tượng vừa nói dứt lời thì voi đã đến trước mặt tôi, vòi quấn một thân cây, rồi
nhìn tôi trong đám người khác, giơ cho tôi coi rồi bóc vỏ và ăn, sau đó cúi đầu
chào tôi và rút lui như thể mỉm cười, với những dấu rỡ. Còn tôi, tôi rất ngạc
nhiên thấy ở nơi một con thú có nhiều khả năng hiểu biết và thi hành điều người
ta truyền cho nó như vậy. Thực ra nó chỉ vâng theo quản tượng hay chủ nó mà
thôi. Nó cũng không để cho người nào lạ leo lên cưỡi: nó mà thấy thì nó sẽ
quăng bành xuống đất và dùng vòi mà sát hại người ấy. Vì thế, khi có người phải
leo lên thì quản tượng lấy tai nó che mắt nó, tai nó to và xấu xí. Khi nó không
chịu nghe lệnh truyền và không nhanh nhảu làm theo thì quản tưởng đứng hai chân
trên đầu nó, đánh và trị nó rất nặng, rất cương quyết, lấy roi quất mạnh trên
trán nó. Có lần mấy người chúng tôi cùng đi chung một voi chở chúng tôi, người
quản tượng đánh nó như chúng tôi vừa nói, mỗi lần roi quất trên nó, chúng tôi
tưởng như nó sẽ ném chúng tôi xuống đất. Thường thường người ta quất sáu bảy
cái vào giữa trán nó, và mạnh đến nỗi làm voi rùng cả mình: phải nhận là nó rất
kiên nhẫn chịu đựng.
Chỉ có một trường hợp nó không vâng theo
quản tượng và bất cứ ai, đó là khi nó bất thần động đực, vì lúc đó hình như nó
không tự kiềm chế nổi, nó không chịu ai, nó lấy vòi ném bành và mọi người trong
đó, nó giết, nó huỷ và phá vỡ tan tành. Thường thì quản tượng biết trước qua
một vài dấu hiệu. Lập tức, mọi người xuống đất, tháo gỡ bành và để nó một mình
ở một chỗ xa cho tới khi nó hết cơn. Sau đó, như thấy mình đã gây nên xáo trộn
và như tự lấy làm hổ thẹn, nó cúi đầu chịu đánh đập như một kẻ phạm tội.
Thời xưa người ta dùng voi rất có ích
trong chinh chiến và đạo binh nào ra trận với những con vật như vậy thì thật là
đáng sợ. Nhưng từ khi người Bồ tìm được cách ném tàn lửa và đuốc vào mũi chúng
thì càng làm cho chúng gây hại hơn trước. Bởi vì chúng không thể chịu được lửa
đốt làm cay mắt nên chúng đùng đùng chạy trốn và làm tan tác đạo binh, giết hại
và phá phách tất cả những gì cản đường chúng. Voi nhà chỉ sợ hai con thú khác
là voi rừng và tê giác, nó có thể thắng được tê giác, nhưng đối với voi rừng
thì thường nó chịu thua.
Tê giác là một thú vật có một cái gì giống
bò và ngựa, nhưng lại to lớn như một con voi con. Mình nó đầy vẩy 2 như những
yếm để tự che thân. Nó chỉ có một sừng ở ngay giữa trán, thẳng tắp và có hình
kim tự tháp, còn chân và móng thì như bò. Khi tôi ở Nước Mặn một xã thuộc tỉnh
Quy Nhơn, có biết một viên quan lần nọ đi săn tê giác ở trong khu rừng gần nhà
chúng tôi. Ông đem theo hơn một trăm người, một phần đi bộ, một phần đi ngựa
cùng với tám hay mười con voi. Con tê giác ra khỏi khu rừng và một số đông địch
thù, nó không những không tỏ vẻ sợ hãi mà còn thu hết sức lực giận dữ xông tới,
thế là đạo binh phân tán làm hai cánh để cho con tê giác lọt vào giữa và chạy
tới hậu quân có viên quan đứng chờ để giết nó. Viên quan ngồi trên lưng voi,
voi cố lấy vòi chộp lấy tê giác, nhưng không sao làm nổi vì tê giác nhảy tứ
tung, cố dùng sứng để đâm voi. Viên quan biết rõ tê giác vì có vẩy nên không dễ
gì bị thương nếu chỉ đánh vào bên cạnh. Ông chờ đến lúc nó nhảy lên và phơi
bụng ra, lúc đó ông nhắm, và rất thiện nghệ, ông ném ngọn đao đâm suốt từ bụng
tới lưng, giữa tiếng hò hét vui mừng của cả đạo quân. Không chờ đợi gì nữa họ
lập tức quơ một đống củi lớn, châm lửa đốt, trong khi vẩy con thú bị thiêu và
thịt nướng chín thì họ nhảy múa chung quanh, mỗi người tiếp theo nhau xẻo thịt
đang chín dần dần và ăn vui vẻ. Sau đó họ mổ lấy tim, gan và óc để dọn món mĩ
vị đem hầu viên quan lúc này đã lui ra xa một chút, ở một nơi khá cao, vui mừng
và thích thú nhìn xem cuộc vui. Còn tôi, tôi có mặt trong cuộc, tôi cũng có
phần và phần của tôi là móng con vật viên quan cho tôi, móng đó cũng có những
tác dụng và tính chất như móng voi, dùng làm thuốc chống ngộ độc một cách tuyệt
diệu không hơn không kém sừng kỳ lân 3
Chú thích:
(1) Tiếng Latinh trong văn bản:
“Elephanto belluarum nulla prudentior”
(2) Theo Đỗ Tất Lợi, sách đã dẫn: “da
nhẵn không sùi màu, biểu bì có rãnh nhỏ chia làm nhiều đĩa nhỏ nhiều cạnh. Bề
mặt thân chia làm nhiều mảnh giáp với nhau bởi nhiều nếp, nếp trước và sau vai
cũng như nếp trước đùi kéo dài qua lưng. Nếp gáy tương đối kém phát triển. Màu da
xám thẫm toàn thân” (Sd, tr.984) Thường có một sừng, nhưng cũng có tê giác hai
sừng, Sd tr.985
(3) Tiếng Pháp “La licorne”. Nhưng kỳ lân
phải chăng là thú hoang đường?
Chương 5 (P1)
Về màu da thì người Đàng Trong không khác
người Tàu, tất cả đều có sắc xám xanh 1, nếu là người ở ven biển, còn những
người khác từ nội địa cho tới biên giới Đàng Ngoài thì cũng trắng như người
Châu Âu. Về nét mặt thì cũng giống, như người Tàu, cũng có mũi tẹt, mắt bé. Còn
về kích thước thì trung bình, tôi có ý nói, họ không quá lùn như người Nhật,
không quá cao như người Tàu. Nhưng về thân hình vạm vỡ thì họ vượt cả hai, về
can đảm thì hơn người Tàu, chỉ có người Nhật là hơn họ về một điểm độc nhất là
coi thường mạng sống trong gian nguy và chiến trận. Người Nhật không kể chi,
không sợ chết bằng bất cứ giá nào. Người Đàng Trong dịu dàng hơn và lịch thiệp
hơn khi đàm đạo, hơn tất cả các dân phương Đông nào khác, tuy một đàng dũng
cảm, nhưng đàng khác họ lại rất dễ nổi giận. Tất cả các nước phương Đông đều
cho người Châu Âu là những kẻ xa lạ và dĩ nhiên họ ghét mặt đến nỗi khi chúng
ta vào lãnh thổ họ thì tất cả đều bỏ trốn. Thế nhưng trái lại ở xứ Đàng Trong,
họ đua nhau đến gần chúng ta, trao đổi với chúng ta trăm nghìn thứ, họ mời
chúng ta dùng cơm với họ. Tóm lại sự và thân mật đối với chúng ta. Điều này đã
xảy ra với tôi và các đồng sự của tôi, khi lần đầu tiên chúng tôi vào xứ này,
người đã coi chúng tôi như những người bạn rất thân và như thể người ta đã quen
biết chúng tôi từ lâu. Đó là một cánh cửa rất tốt đẹp mở ra cho các nhà truyền
giáo của Chúa Kitô đến rao giảng Phúc âm.
Từ tính tình rất trọng khách và cách ăn ở
giản dị đó mà họ rất đoàn kết với nhau, rất hiểu biết nhau, đối xử với nhau rất
thành thật, rất trong sáng, như thể tất cả đều là anh em với nhau, cùng ăn uống
và cùng sống chung trong một nhà, mặc dầu trước đó chưa bao giờ họ thấy nhau,
biết nhau. Họ coi là một nết rất xấu, nếu ai ăn món gì dù rất nhỏ mịn mà không
chia sẻ cho bạn, bẻ cho mỗi người một miếng. Họ có tính quảng đại, hay bố thí
cho người nghèo, họ có thói quen không bao giờ từ chối, không cho kẻ xin bố
thí. Họ nghĩ là sẽ không làm đủ bổn phận nếu từ chối, họ coi như bị ràng buộc
bởi phép công bằng. Do đó có lần có mấy người ngoại quốc bị đắm tàu và được cứu
tại một cảng Đàng Trong. Họ không biết tiếng để xin người ta cho thức ăn để
sống, họ chỉ cần học một chữ thôi cũng đủ, đó là chữ đói, có nghĩa là tôi đói.
Bởi vì vừa nghe thấy người ngoại quốc than thở như vậy và đi qua các cửa nhà
người dân mà kêu đói, thì tất cả đều động lòng thương và cho họ ăn, đến nỗi chỉ
trong một thời gian rất ngắn, họ thu được rất nhiều thức ăn dự trữ, đến khi
chúa cấp cho họ một chiếc tàu để trở về quê quán thì chẳng ai muốn đi vì họ
quyến luyến một lãnh thổ ở đó họ gặp được những người rộng rãi cho họ các thứ
để sống mà không phải làm việc. Cuối cùng người thuyền trưởng buộc phải vác gậy
đánh đập họ, thì họ mới chịu sửa soạn xuống tàu, đem chất trong tàu thóc gạo họ
đã xin được, khi họ đi gõ cửa các nhà và kêu đói.
Nếu người Đàng Trong nhanh nhảu và rộng
rãi hay cho, thì mặt khác họ lai hay xin những gì họ thấy. Thế nên khi họ vừa
đưa mắt nhìn thấy những vật họ cho là hiếm và lạ là họ đem lòng thèm muốn và
nói ngay xin một cái, có nghĩa là cho tôi xin cái đó. Họ coi là rất bất lịch sự
nếu người ta từ chối dù đó là vật quý và hiếm, và chỉ có một cái mà thôi. Ai từ
chối họ thì liền bị coi là người xấu. Do đó một là nên giấu đi, hai là sẵn sàng
cho người nào xin.
Một thương gia người Bồ không ưa cách cư
xử lạ lùng đó, bởi vì hễ họ trông thấy ông cầm đồ vật gì đẹp trong tay là họ
xin liền. Một hôm ông nhất quyết cũng làm thử như họ. Ông tới gần thuyền của
một người đánh cá và để tay trên một cái rổ lớn đầy cá, ông nói bằng tiếng bản
xứ xin một cái, nghĩa là cho tôi xin cái này. Chẳng nói chẳng rằng, người
thuyền chài đưa ngay cho ông rổ cá để ông đem về. Người Bồ đem về nhà, rất sửng
sốt và khen ngợi lòng quảng đại của người Đàng Trong. Thực ra vì thương người
thuyền chài nghèo khổ, nên sau đó ông trả tiền rổ cá theo giá của nó.
Những từ ngữ về đối thoại, giao tiếp và
lịch sự thì cũng giống như từ ngữ Trung Hoa. Người dưới rất kính trọng người
trên, cũng như kẻ bằng vai đối xử với nhau, họ dùng tất cả cách thức tỉ mỉ và
những lời khen tế nhị mà chúng ta biết rõ rất riêng biệt nơi người Trung Hoa,
nhất là họ đặc biệt kính trọng người già nua tuổi tác, bao giờ họ cũng nể người
có tuổi hơn. Trong mọi việc, ở vào bất cứ cấp bậc nào, gia thế nào, bao giờ họ
cũng nhường ưu tiên cho người già hơn. Vì thế có một lần mấy viên quan lớn tới
thăm nhà chúng tôi, mặc dầu đã được người thông dịch cho họ biết là có một cha
có tuổi hơn cả, nhưng không phải là Bề trên, thế nhưng không tài nào ngăn cản
họ chào người có tuổi đó trước hết, sau mới chào Bề trên, là người trẻ tuổi
hơn. Trong tất cả các nhà cửa người Đàng Trong, dầu nghèo nàn đến đâu đi nữa,
người ta cũng giữ ba cách ngồi. Cách thứ nhất kém hơn cả là ngồi trên chiếu
trải trên đất bằng và đó là cách ngồi của những kẻ cùng cấp bậc. Cách thứ hai
là ngồi trên những thứ giây bố hay giây da căng thẳng có trải chiếu nhỏ và mịn
hơn, dành cho người đáng kính hơn. Cách thứ ba là trên một thứ bục 2 cao hơn
đất chừng tám tấc làm thành như cái giường và chỉ dành cho các quan và bậc chức
vị bản địa hay những người lo việc thiêng liêng, như các cha dòng chúng tôi
thường được ngồi.
Vì người Đàng Trong tử tế và có tính tình
hòa nhã, nên họ rất trọng người ngoại quốc, họ để cho mỗi người tự do sống theo
đạo của mình và ăn mặc tuỳ sở thích của mình. Do đó họ khen cách làm của người
nước ngoài, phục giáo thuyết của người nước ngoài và dễ dàng chuộng đạo giáo
của người nước ngoài hơn đạo giáo của mình: trái hẳn với người Tàu, họ chỉ khen
ngợi xứ sở họ cùng cách làm và đạo giáo của họ mà thôi.
Còn về y phục thì như chúng tôi đã nói,
tơ lụa rất thông dụng ở xứ Đàng Trong đến nỗi ai cũng mặc hàng tơ lụa. Bây giờ
chỉ nói về cách họ mặc mà thôi. Bắt đầu từ phái nữ 3, phải nhận rằng cách mặc
của họ tôi vẫn coi là giản dị hơn khắp cõi Ấn Độ, vì họ không để lộ một phần
nào trong thân thể, ngay cả trong những mùa nóng bức nhất. Họ mặc tới năm hay sáu
váy lụa trơn, cái nọ chồng lên cái kia và tất cả có màu sắc khác nhau. Cái thứ
nhất phủ dài xuống chấm đất, họ kéo lê rất trịnh trọng, khéo léo và uy nghiêm
đến nỗi không trông thấy đầu ngón chân. Sau đó là cái thứ hai ngắn hơn cái thứ
nhất chừng bốn hay năm đốt ngón tay, rồi tới cái thứ ba ngắn hơn cái thứ hai và
cứ thế trong số còn lại theo tỉ lệ cái nọ ngắn hơn cái kia, để cho các màu sắc
đều được phô bày trong sự khác biệt của mỗi tấm. Đó là thứ phái nữ mặc từ thắt
lưng xuống bên dưới. Còn trên thân mình thì họ khoác vắt chéo như bàn cờ với
nhiều màu sắc khác nhau, phủ lên trên tất cả một tấm voan rất mịn và rất mỏng
cho người ta nhìn qua thấy tất cả màu sặc sỡ chẳng khác mùa xuân vui tươi và
duyên dáng, nhưng cũng không kém trịnh trọng và giản dị.
Họ để tóc xõa và rủ xuống vai, có người
để tóc dài chấm đất, càng dài càng được coi là càng đẹp. Họ đội trên đầu một
thứ mũ lớn riềm rộng che hết mặt khiến họ chỉ có thể trông xa hơn ba hay bốn
bước trước mắt họ. Thứ mũ đó cũng đan bằng lụa và kim tuyến tuỳ theo gia thế
của từng người. Phép xã giao không buộc người phụ nữ làm gì khác khi phải chào
hỏi những người mình gặp, ngoài việc cất nón đủ để trông thấy mặt.
Đàn ông 4 thì không nai nịt, nhưng quàng
cả một tấm, rồi cũng thêm năm hay sáu áo dài và rộng. Tất cả đều bằng lụa màu
sắc khác nhau với ông tay rộng và dài như ống tay các tu sĩ Biển Đức. Còn từ
thắt lưng trở xuống thì tất cả đều sắp đặt các màu rất khéo và rất đẹp. Thế nên
khi ra phố thì họ phô trương màu sắc hài hòa, nếu có gió nhẹ thổi từ bên trong
làm tung bay thì thực ra có thể nói là những con công xoay tròn khoe màu sắc
đẹp của mình.
Họ cũng để tóc dài như đàn bà, cho xõa
tóc tới gót chân và cũng đội nón. Người có râu thì hiếm, họ không bao giờ cắt.
Về điểm này, họ làm theo người Tàu. Họ còn để móng tay dài: người quý phái
không bao giờ cắt, nhưng cứ để dài, coi đó như dấu hiệu của sự quý phái, và để
mình khác biệt với thường dân và thợ thuyền, những người này không để dài được
vì vướng tay trong khi hành nghề, tỉ như kị mã để móng tay dài thì không sao
nắm chặt dây cương trong lòng bàn tay. Họ không thể thưởng thức cách cắt tóc
ngắn và cắt móng tay của chúng ta, họ nại lý do là thiên nhiên ban cho các thứ
đó để trang trí bản thân con người. Có lần nói chuyện về tóc, họ bác bẻ chúng
ta và không dễ gì đáp lại được lúc đầu. Họ nói, nếu Đức Chúa Cứu Thế mà các ông
khoe là các ông bắt chước hết mọi việc Người làm, nhưng chính Người để tóc dài
theo kiểu người Nagiarét, như chính các ông quả quyết và cho chúng tôi coi hình
ảnh, thì tại sao các ông không làm theo như Người. Họ nói thêm để cho có thế
lực hơn nữa là Đấng Cứu Thế còn để tóc dài, như vậy là Người muốn cho chúng ta
biết đó là cách tốt nhất. Nhưng họ cũng hài lòng khi chúng tôi trả lời là bắt
chước không phải là làm theo một cách lố lăng.
Các văn nhân và tiến sĩ thì ăn mặc trịnh
trọng hơn, không màu mè loè loẹt. Họ choàng lên trên tất cả một áo dài đen. Họ
còn khoác một thứ khăn quấn cổ và ở cổ tay một khăn bằng lụa màu da trời, còn
đầu thì thường đội một thứ mũ kiểu mũ giám mục. Cả đàn ông đàn bà đều ưa cầm
quạt rất giống như ở Châu Au. Họ cầm là cầm lấy lệ thôi. Người Châu Au chúng ta
khi để tang thì mặc đồ đen, còn họ dùng màu trắng. Khi họ chào nhau, không bao
giờ họ cất nón cất mũ, cho đó là không lịch sự, cũng giống như người Tàu, họ
cho đó là không phải phép đối với người thế gia và rất vô lễ. Vì thế, để cho
hợp với họ các cha dòng chúng tôi đã thấy cần phải được đức giáo hoàng Phaolô V
cho phép dâng thánh lễ đầu đội mũ trong những miền đất này.
Sau cùng người Đàng Trong không đi dép
cũng không đi giầy, cùng lắm thì họ chỉ mang một miếng da buộc mấy giây lụa và
khuy trên mu bàn chân như kiểu săn đan của ta để cho bàn chân không bị đâm: Họ
cho rằng đi chân không không phải là không biết cách ăn ở, họ đi dép hay đi
chân không thì chân họ vẫn lấm bẩn, họ biết lắm, nhưng họ không ngại vì trước
nhà họ bao giờ cũng có một chậu đầy nước để rửa chân. Còn kẻ đi dép thì phải để
dép ở ngoài lúc ra mới xỏ vào, vì trong nhà không cần, họ đã trải chiếu nên họ
không sợ bẩn.
Dân Đàng Trong rất trọng những tục lệ của
họ. Họ khinh những tục lệ của người ngoại quốc như người Tàu. Các cha không cần
thay đổi y phục, thực ra không khác cách ăn vận chung ở khắp An Độ. Các ngài
mặc áo chùng bằng sợi bông rộng gọilà elingon thường làm màu thanh thiên và ra
nơi công chúng như thế không thêm áo dái hay áo choàng. Cũng không đi giầy như
tục người Châu Au hay người bản xứ: vì giầy Châu Âu thì làm gì có mà đi và cũng
không ai biết làm 8, còn dép bản xứ thì không sao đi được vì rất bất tiện cho
người chưa quen, nên đau chân, bởi vì các khuy làm cho ngón chân dãn ra, ngón
nọ cách xa ngón kia, do đó, các ngài ưa đi chân không và bị đau chân hoài nhất
là trong lúc đầu, vì đất ẩm ướt, và vì chưa quen. Vẫn biết là sau một thời gian
thì theo tính tự nhiên cũng quen dần, da cứng lại đến nỗi không có thấy khó
chịu, mặc dầu phải đi trên đường có nhiều đá sỏi và gai. Riêng tôi, tôi đã quen
lắm đến nỗi khi trở về Macao,
tôi không chịu được giầy, cảm thấy chúng thật nặng nề và làm chân tôi vướng víu
làm sao.
Thức ăn thông thường nhất của người Đàng
Trong là cơm và thật là điều kỳ lạ: toàn lãnh thổ có rất nhiều thứ thịt, gà,
vịt, cá và trái cây đủ loại, thế mà bữa ăn ngon nhất lại là cơm, họ xới thật
nhiều cơm, ngay khi ngồi vào mâm, rồi chỉ gắp sơ sơ và nếm náp các món thịt như
để theo nghi lễ. Lương thực chính yếu của họ là cơm như bánh mì là lương thực
chính của chúng ta; họ ăn không, nghĩa là chỉ có cơm, không cần nước sốt hay
món gì khác vì sợ dần dần đâm chán. Họ không bỏ thêm bơ hay muối hay dầu mỡ hay
đường. Họ thổi cơm bằng nước lã. Họ đổ vừa vừa nước thôi để cho cơm không dính
vào nồi hay bị cháy. Vì thế hạt cơm còn nguyên vẹn, chỉ mềm một chút và dẻo. Họ
còn kinh nghiệm thấy rằng không thêm mắm muối vào cơm, nên cơm dễ tiêu hơn. Vì
thế hầu hết các người sống ở phương Đông thường ăn mỗi ngày bốn lần và ăn rất
nhiều để cung cấp cho đủ sự cần dùng thiên nhiên đòi hỏi.
Người Đàng Trong ngồi trên đất để ăn,
chân xếp lại, trước một bàn tròn (mâm) cao ngang bụng, mâm được khắc vẽ chạm
trổ tỉ mỉ, riềm bịt bạc hay vàng tuỳ gia thế và khả năng của người dùng. Mâm
này không lớn vì theo tục lệ mỗi người một mâm riêng 10, cho nên trong bữa tiệc
có bao nhiêu khách mời thì là bấy nhiêu mâm. Khi ăn riêng ở nhà họ cũng giữ như
vậy trừ khi thỉnh thoảng vợ chồng, cha con dùng chung một mâm. Họ không dùng
dao hay xiên trong mâm, thực ra họ không cần dao, xiên. Họ không cần dao vì họ
đã thái thịt thành từng miếng nhỏ ở trong bếp và thay vì xiên thì họ dùng những
đũa nhỏ rất nhẵn nhụi họ cầm giữa các ngón tay để gắp một cách rất khéo léo,
rất sành sỏi, nên không cần gì khác. Họ cũng không cần khăn ăn vì không hề dùng
tay, không bao giờ lấy thịt mà không dùng đũa.
Chương 5 (P2)
Tiệc tùng cũng khá thông thường giữa lân
bang với nhau, trong đó họ dùng nhiều thứ thịt khác nhau, những thứ tôi đã nói
trước đây. Họ không cần cơm vì cho là ai cũng sẵn ở nhà mình. Và mặc dầu người
mời là người nghèo, người ta không tin ông thành thực, nếu mỗi khách mời không
có trong mâm ít nhất là một số các món ăn. Bởi vì họ có thói quen mời tiệc tất
cả bạn bè, họ hàng lân bang, nên bao giờ bữa tiệc cũng có chừng ba mươi, bốn
mươi, năm mươi người, có khi một trăm và tới hai trăm. Có lần tôi được mời dự
một đám tiệc rất linh đình có tới gần hai, ba nghìn người. Cho nên tiệc này
phải làm ở thôn quê là nơi có chỗ rộng để bày mâm. Không ai cho là kỳ lạ khi
thấy những mâm nhỏ như chúng tôi đã nói. Trên đó bày tới cả trăm món, vả trong
những dịp này, họ có một kế hoạch rất khéo, họ đặt mâm trên một cái gác với
những thanh nứa nhiều tầng. Trên đó họ bày và chồng chất rất ngoạn mục hết các
món, gồm tất cả những thổ sản trong xứ như thịt, cá, gà vịt, thú vật bốn cẳng,
gia súc hay dã thú, với hết các thứ trái cây có thể có trong mùa. Nếu chẳng may
thiếu một thứ gì thì gia chủ bị quở trách nặng, và người ta không coi bữa ăn đó
là bữa tiệc. Chủ nhà ăn trước còn gia nhân bậc trên thì đứng hầu, khi chủ ăn
xong thì tới phiên toán gia nhân bậc trên có đầy tớ bậc kém hơn phục dịch. Sau
cùng mới đến lượt những người đầy tớ bậc thấp này. Và để không làm phí phạm tất
cả những món đầy rẫy đó và theo tục lệ thì tất cả các món phải dùng cho hết và
phải dùng cho thoả thuê. Một mâm khác dành cho đầy tớ cấp thấp nhất: chúng ăn
thuê thỏa, còn thừa thì cho vào những túi dành riêng cho việc này và đem về nhà
cho vợ con được no nê 11. Thế là chấm dứt hết các nghi lễ ở đây.
Đàng Trong không có nho, do đó cũng không
có rượu nho, họ dùng làm rượu một thứ gạo cất có mùi vị như rượu của ta, giống
cả về màu sắc, về vị cay gắt, tinh tế và độ mạnh. Có rất nhiều rượu đến nỗi mọi
người đều uống rất thông thường tuỳ sở thích và không hề buồn vì không có rượu
nho ở những miền này. Thế nhưng, những người khá giả thường có thói quen pha
thêm một thứ rượu cất ở cây trầm hương làm cho mùi vị có một hương thơm đặc
biệt, sự pha trộn này rất thành công.
Trong ngày họ có tục dùng một thứ nước
rất nóng, trong đó nấu một thứ rễ cỏ 12 gọi là trà, cũng là tên thứ nước uống
đó, thứ nước này rất bổ và giúp cho tan các chất xấu trong dạ dày và làm cho dễ
tiêu. Ngừơi Nhật và người Tàu cũng dùng, trừ ở Tàu, người ta không dùng rễ mà dùng
lá và ở Nhật người ta tán nhỏ, nhưng hiệu lực thì cũng giống nhau và tất cả đều
gọi là trà.
Thật là một sự không thể tin được là
người Châu Âu chúng ta ở đây có rất nhiều thịt thà và dồi dào về đủ mọi thứ,
thế mà chúng ta vẫn còn đói, còn khát, không phải vì thiếu thịt mà vì không
quen với các thứ đó, bản tính không chịu nổi sự thiếu bánh mì và rượu nho một
cách đột ngột. Và tôi tin rằng người Đàng Trong cũng sẽ cảm thấy như thế, nếu
họ tới Châu Au ở đó không có cơm, mặc dầu có nhiều thứ thịt ngon và rất dồi
dào.Tôi kể ở đây một việc đã xảy đến với một quan cai trị xứ Đàng Trong. Ông
này là bạn thân của chúng tôi, chúng tôi mời ông đến nhà chúng tôi dùng cơm và
để tỏ mối thịnh tình khăng khít của tôi đối với ông thì chúng tôi dọn nhiều món
theo lối Châu Au của chúng tôi. Ông ngồi vào bàn và thay vì như chúng tôi tưởng
ông sẽ chiều ý chúng tôi mà khen ý tốt lành của chúng tôi và cảm ơn về sự mới
lạ này, bởi vì đã không tiếc công, nên thử dọn cho ông hết các món liên tiếp.
Thế nhưng không có món nào ông có thể dùng được, mặc dầu ông cố gắng tỏ ra hết
sức lịch thiệp và thành tâm 13. Đến nỗi chúng tôi đành phải đem lên những món
thịt làm theo lối bản xứ. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng cố gắng hết sức. Lúc ấy ông
mới ăn ngon lành và hài lòng, còn chúng tôi mới thỏa dạ. Thế nên, về việc ăn
uống cũng như về những gì chúng tôi đã nói như về việc đi chân không, bản tính
tự nhiên cũng cho quen dần với nếp sống bản xứ, tập cho thành thục và làm rất
đúng đến nỗi thức ăn ban đầu trở nên kỳ dị khi dùng trở lại. Điều này chúng tôi
đã nghiệm thấy, khi tôi về từ những nước đó: bởi vì tôi không ao ước gì bằng
được ăn cơm xứ Đàng Trong mà tôi thấy dễ chịu hơn tất cả những gì ở đây người
ta đem cho tôi.
Còn về thầy thuốc và cách chữa các bệnh
nhân, tôi phải nói là có rất nhiều, người Bồ cũng như người bản xứ, và người ta
thường thấy nhiều bệnh vô danh và các thầy thuốc Châu Au không chữa được thì đã
được khám phá và được các lương y bản xứ chữa khỏi một cách dễ dàng. Không ít
lần các thầy thuốc người Bồ đã chê một bệnh nhân, coi như xong rồi, thế nhưng
bệnh nhân này sẽ được chữa lành một cách dễ dàng nếu gọi được một lương y bản
xứ.
Phương pháp của họ là thoạt vào phòng
người bệnh, họ ngồi nghỉ một lát gần giường bệnh, để cho dịu cảm xúc khi tới
đây. Rồi họ bắt mạch, rất chuyên chú và cẩn thận. Sau đó họ nói ông hay bà mắc
chứng gì và nếu là chứng nan y thì họ cũng thành thật cho biết, tôi không có
thuốc chữa bệnh này. Nếu họ đoán là bệnh nào và có thể chữa được bằng thứ thuốc
nào của họ thì họ cũng cho biết, tôi có cách chữa ông, bà và trong bao lâu, tôi
sẽ chữa ông bà khỏi bệnh. Sau đó họ bàn về tiền thù lao cho lương y trong
trường hợp khỏi bệnh. Tiền nhiều ít tuỳ theo tính chất và sự nặng nhẹ của bệnh
và có lần hai bên có hợp đồng với nhau. Rồi chính lương y bốc thuốc, không cần
tới dược sĩ, vì thế họ không có dược sĩ, họ làm lấy và sợ lộ bí mật của các
liều thuốc họ cho, vì thê họ hết sức giấu, một phần cũng vì họ không dám tin
tưởng vào một người nào khác bốc thuốc theo đơn họ đưa ra. Nếu bệnh nhân phục
hồi sức khoẻ trong thời gian đã ấn định khi bàn về giá cả, thường diễn ra như
vậy, thì buộc phải trả tiền như hai bên đã thỏa thuận với nhau, nhưng nếu không
khỏi thì lương y mất cả công, mất cả thuốc.
Thuốc họ cho bệnh nhân uống thì không như
thuốc chúng ta, vừa khó uống lại làm yếu và làm cho bụng ươn lười, nhưng dễ
uống như canh 14 và cũng rất bổ, không cần ăn thêm món nào khác. Vì thế họ cho
bệnh nhân uống mỗi ngày mấy lần như chúng ta thỉnh thoảng cho uống nước thịt.
Các vị thuốc đó không biến đổi cơ thể, nhưng giúp các chức năng hoạt động thông
thường, làm khô kiệt những chất hư mà không động tới người bệnh. Có một điều
phải tường thuật lại ở đây vào chương này. Số là có một người Bồ ngã bệnh cho
mời lương y Châu Âu tới và lương y này sau khi đã chữa chạy ít lâu thì bỏ bệnh
nhân coi như chết không trở lại thăm nữa. Người ta liền mời thầy thuốc bản xứ,
ông này hứa chữa trong một thời gian, và căn dặn rất nghiêm khắc là trong thời
gian ông chữa bệnh, người bệnh phải kiêng đàn bà, nếu không thì cực kỳ nguy
hiểm và ông không thấy có thuốc nào trong y khoa có thể cứu thoát cơn nguy hiểm
bệnh nhân đang chịu và chỉ cần điều kiện đó thôi. Hai bên thỏa thuận là lương y
sẽ chữa khỏi trong vòng ba mươi ngày. Người bệnh uống thuốc theo đơn lương y
cho và trong một ít ngày, bệnh nhân đã khỏi, nhưng không chịu nghe theo điều
thầy thuốc đã cấm đoán rõ ràng. Thế là lương y đến thăm và bắt mạch thì thấy có
sự thay đổi. Ông biết chắc là người bệnh đã không chịu kiêng. Lương y liền cho
biết là bệnh nhân phải chuẩn bị chết vì không còn hy vọng gì và không còn thuốc
nào cứu chữa được nữa. Nhưng bệnh nhân vẫn phải trả tiền thù lao như đã thỏa
thuận bởi vì người bệnh chết nhưng lỗi không phải tại thầy thuốc. Người ta xử
việc này và tòa ra lệnh cho bệnh nhân phải trả tiền cho lương y, sau đó người
bệnh nhắm mắt lìa đời.
Họ cũng dùng cách chích máu, nhưng họ
tiết kiệm máu hơn cách người ta làm ở Châu Au và họ không dùng kim chích thông
thường: họ có nhiều lông ngỗng, trong đó có ghép những mảnh sứ nhỏ rất sắc và
được dùng như những lưỡi cưa, có cái lớn có cái nhỏ. Và khi phải đâm vào mạch
máu thì họ lấy một trong số các lông ngỗng này, lớn nhỏ tuỳ theo nhu cầu và lấy
ngón tay ấn nhẹ lên trên, để mở mạch máu, mũi mảnh sứ chỉ đâm đủ theo nhu cầu
mà thôi. Nhưng điều kỳ diệu hơn hết là khi đã lấy đủ máu thì họ không cần băng
bó, không cần miếng gạc, không cần buộc cột gì cả: họ liếm ngón tay cái cho có
nước bọt và ấn trên vết thương, làm cho da khép lại, máu ngừng tức thì và vết
thương lành ngay. Được vậy tôi cho là do cách thức họ mở mạch máu với mũi sứ
nhọn làm cho sạch máu bít lại và lưu thông dễ dàng.
Không nhiều nhà giải phẫu có nhiều bí
quyết kỳ diệu. Tôi không muốn đưa ra chứng cớ nào khác bằng việc họ đã làm cho
chính bản thân tôi và một bạn đồng sự của tôi. Tôi ngã từ một nơi cao xuống và
bên chỗ có dạ dày va phải một tảng đá, tức thì tôi bắt đầu thổ ra máu và ngực
tôi cũng bị đau. Thế rồi người ta cho tôi mấy liều thuốc theo cách bên Châu Âu
của chúng ta, nhưng tôi chẳng thấy bớt chút nào. Trong khi đó may có một thầy
giải phẫu bản xứ tới, thầy lấy một thứ cỏ nào đó giống như cỏ xổ 15 làm thành
một thứ cao và đắp trên dạ dày, rồi cũng sắc những thứ cỏ đó cho tôi uống, lại
cho ăn sống nữa và trong mấy ngày tôi hoàn toàn hồi phục. Để thí nghiệm lại,
chính tôi đập gãy chân một con gà mái ở nhiều chỗ, sau đó lấy cỏ xổ làm thành
cao và đắp trên những vết chân gãy, thế là sau ít ngày nó khỏi hẳn. Một con bọ
cạp đã cắn vào cổ một bạn đồng sự của tôi và ở xứ này đây sẽ là vết tử thương.
Tức thì cổ sưng vù và khi chúng tôi chuẩn bị làm phép sức dầu thì người ta mời
một thầy giải phẫu tới. Thầy cho nấu tức khắc một thứ bột gạo, rồi đắp vào chân
người bệnh, lấy vải quấn chung quanh cho hơi và khói nóng không bay đi. Thế là
hơi bốc lên tận vết thương và người đồng sự của tôi cảm thấy bớt đau nhức, cổ
bớt sưng vù và được khỏe mạnh như thể chưa bao giờ bị đau.
Người ta còn có thể thêm nhiều thí dụ
tương tự, nhưng tôi chỉ nói rằng thuốc ở những miền này có hiệu lực hơn thuốc ở
đây (Châu Au). Và riêng tôi, tôi có thể thêm rằng tôi đã đem theo tôi cây đại
hoàng16 trong một hũ nhỏ, vốn là một thứ thuốc rất tốt. Khi tôi về tới Châu Au
sau hai năm hành trình, tôi thấy cây đại hoàng của tôi đã biến chất khiến tôi
không nhận ra nữa, nguyên chất mất hết công dụng khi chuyển từ những xứ đó về
xứ chúng ta.
Chú thích:
(1) Bản Pháp văn “olivâtres” xám xanh như
trái ô liu.
(2) Cách thứ hai: một thứ võng? Cách thứ
ba: khó tưởng tượng ra được, một thứ bục. Phải tìm hiểu cách xếp đặt trong nhà
vào thế kỷ 17, nhất là miền Nam
lúc đó.
(3) Về y phục phụ nữ, cũng khó nhận cho
rõ. Trong câu ngạn ngữ thường thấy “Mớ bảy mớ ba”, có thể nghĩ như vậy.
(4) Cũng thế, y phục phái nam thời đó
trong địa phương đó, như đã nói, có thể có ảnh hưởng người Chàm.
(5) Một trong những điều xin Tòa thánh
chuẩn là dâng Thánh lễ đội mũ như cách thức người Trung Hoa, khi tế tự bao giờ
cũng đội mũ. Đức Piô V (1504-1572) làm giáo hoàng 1566-1572. Là tu sĩ dòng
Đaminh và làm quan toà Inquisition trước khi ngôi toà thánh Phêrô. Ngài thực
thi công đồng Trente, ban hành sách Giáo lý công đồng Trente, sửa lại sách Kinh
nguyện (1568) và sách Lễ (1570). Được phong hiển thánh năm 1712.
(6) Theo tục người Châu Âu, đi chân không
là vô lễ.
(7) Thời đó, bên Châu Au, linh mục ra
ngoài đường phố thì khoác thêm một áo choàng. Philipphê Bỉnh có nói tới tục này
trong sách “Sổ Sang chép các việc”.
(8) Nhận xét rất đúng, người Việt Nam chưa biết
đóng giầy như ở Châu Âu.
(9) Giáo sĩ quen nếp sống bản xứ: xem
thêm việc ăn cơm.
(10) Theo Borri thì trong khi hội họp
đình đám vẫn mỗi người một mâm
(11) Tục lấy phần về
(12) Thường thì lá cây chứ không phải rễ.
(13) Theo lịch sự, thì cho dù mình không
thích nhưng cố gắng dùng và khen cái mối thịnh tình của người ta.
(14) Không phải là canh, cũng không hẳn
là cháo, nhưng là thứ “potage” bằng nước thịt hay nước các thứ rau nấu chín.
(15) Mercurialle, theo Đỗ Tất Lợi thì có
Mercurialis indica Lour (lộc mai) thuộc loại thầu dầu, không biết có phải vậy
không?
(16) La rhubarbe. Đỗ Tất Lợi, sd,
về cây đại hoàng, tr.468. Ở Pháp người ta làm mút với thân cây này.
Chương 6: Về hành chính và dân chính nơi người Đàng Trong
Tôi sẽ nói vắn tắt đủ để hiểu biết một
cách ngắn gọn. Bởi vì nếu tôi trình bày dài dòng quá thì tôi sẽ đi xa ý tôi đã
định cho tôi trong bản tường trình này. Nói chung thì việc hành chính có cái gì
giống như ở Nhật và ở Tàu. Thế nhưng, người Nhật trọng nhiều về võ thuật hơn về
học thuật. Trái lại người Tàu trọng nhiều về học thuật và coi thường võ thuật.
Người Đàng Trong không hoàn toàn xa người Nhật và lại cũng gần người Tàu, nghĩa
là ở giữa và cũng theo tinh thần của dân tộc mình, vừa trọng võ vừa chuộng văn
tuỳ theo cơ hội. Do đó họ thưởng và đặt lên các chức vụ và cấp bậc trong nước,
khi thì là các tiến sĩ, lúc thì là các tướng sĩ, họ chỉ định và cắt đặt lúc thì
người này khi thì người kia tuỳ theo nhu cầu.
Xứ Đàng Trong có nhiều trường đại học1
trong đó các giảng viên và các cấp bậc được cất nhắc lên theo lối khoa cử, cũng
như ở Tàu. Họ cũng dạy các khoa, dùng những sách và tác giả như nhau, như Khổng
Tử theo kiểu nói của người Bồ. Ông là một tác giả uyên thâm, với giáo thuyết
sâu sắc và có uy tín nơi họ, cũng như nơi chúng ta, chúng ta có Aristote2. Và
thực ra ông kỳ cựu hơn. Sách của ông chứa đầy lý lẽ bác học, nhiều chuyện lạ,
nhiều châm ngôn sâu sắc, nhiều tục ngữ và nhiều sự tương tự, tất cả đều bàn về
thuần phong mỹ tục, như chúng ta có Seneca, Caton, và Ciceron 3. Phải mất nhiều
năm học mới có thể đọc được các câu, các chữ, và các hình để viết. Cuốn sách họ
chuộng hơn cả và họ quý trọng hơn cả là cuốn bàn về triết học luân lý gồm có
đạo đức học, kinh tế học và chính trị học. Thật là thích thú khi thấy và nghe
họ học trong lớp, họ đọc và lớn tiếng xướng bài như thể ca hát. Họ phải làm thế
để cho quen và tập cho mỗi lời một cung giọng riêng của nó, vì có rất nhiều,
mỗi lời chỉ nhiều việc, tất cả đều khác nhau. Vì thế, để đàm thoại với họ thì
cần phải biết những lý thuyết về âm nhạc và phép đối âm.
Tiếng nói thông thường thì khác với chữ
viết họ dạy và họ đọc khi học và viết. Cũng như ở nơi chúng ta tiếng bình dân
chung cho tất cả thì khác, còn tiếng Latinh chỉ dạy trong trường thì khác 4.
Đây là điểm khác với Trung Hoa, văn nhân hay quý phái cũng chỉ có một thứ tiếng
nói gọi là quan thoại, nghĩa là tiếng các tiến sĩ, quan tòa và quan cai trị.
Còn chữ viết như chữ in trong sách thì có tới tám mươi ngàn chữ tất cả đều khác
nhau. Vì thế các cha dòng Tên phải mất tám và có khi mười năm để học những sách
ấy trước khi trở nên tinh thông và có thể đối đáp giao thiệp với họ. Nhưng
người Đàng Trong đã rút bớt rất nhiều, chỉ còn giữ lại chừng ba ngàn chữ họ
thường dùng để viết văn bài, thư tín, đơn từ, ký sự và những sự khác không liên
quan tới sách in, thiết yếu phải soạn bằng chữ Hán. Người Nhật còn tài giỏi
hơn, mặc dầu về sách viết và sách in, họ gắng theo người Tàu, nhưng về các việc
thường thức họ đã sáng chế ra bốn mươi tám chữ phối hợp với nhau để diễn đạt và
trình bày tất cả những gì họ muốn, không hơn không kém gì những vần a, b, c của
chúng ta.
Nhưng mặc dầu có thứ chữ này, chữ Hán vẫn
rất thông dụng ở Nhật. Bốn mươi tám chữ này tuy tiện lợn hơn để diễn đạt tư
tưởng, nhưng không được trọng bằng, đến nỗi người ta khinh chê coi như chữ của
đàn bà.
Việc phát minh tốt đẹp và tài tình về
ngành in đã được thực hiện ở Trung Hoa và Đàng Trong trước khi được biết đến ở
Châu Âu, mặc dầu chưa được hoàn bị. Họ không xếp chữ nhưng dùng cái đục hay dao
mà khắc hay đục trên một tấm gỗ những hình thái chữ mà họ muốn in trên sách.
Rồi họ trải giấy trên bàn gỗ đã khắc đã gọt và cho vào ép cũng như cách chúng
ta làm ở Châu Au khi người ta in trên phiến đồng hay tương tự.
Ngoài những sách chúng tôi đã nói là
những luận thuyết về luân lý, họ còn có những sách khác, như họ nói, giảng về
những sự thần linh như về việc sáng tạo và khởi thuỷ vũ trụ, về linh hồn, về ma
quỷ thần thánh và nhiều giáo phái khác, những sách này gọi là sách kinh khác
với những sách đời gọi là sách chữ 5. Chúng tôi sẽ nói về lý thuyết các đạo
chúa đựng trong những sách đó ở phần thứ hai bản tường trình này, như vậy đúng
chỗ của nó hơn.
Mặc dầu ngôn ngữ của người Đàng Trong
cũng giống ngôn ngữ người Trung Hoa, vì cũng như người Trung Hoa, họ chỉ dùng
những từ có một vần nhưng đọc và xướng lên với nhiều cung và giọng khác nhau,
nhưng có sự khác biệt vì tiếng Đàng Trong phong phú hơn và dồi dào hơn về
nguyên âm, vì thế dịu dàng và êm ái hơn. Họ có tài sành âm nhạc và có khả năng
phân biệt các cung giọng và các dấu khác nhau 6.
Tiếng Đàng Trong, theo tôi, là một tiếng
dễ hơn các tiếng bởi vì không có chia động từ, không có biến cách các danh từ 7
nhưng chỉ có một tiếng hay lời nói rồi thêm vào một phó từ hay đại từ để biết
về thời quá khứ, hiện tại hay tương lai, về số ít hay số nhiều. Tóm lại là thay
thế cho tất cả những biến cách và tất cả những thì, tất cả những ngôi cũng như
những sự khác liên quan tới số và biến cách. Thí dụ động từ avoir trong ngôn
ngữ Đàng Trong có nghĩa là có, từ này không thay đổi gì. Người ta thêm một đại
từ vào là người ta có thể thay đổi cách sử dụng và như thế chúng tôi chia động
từ này như sau: tôi có, anh có, nó có 8. Họ chỉ cần một đại từ mà không trực
tiếp thay đổi động từ. Cũng vậy, để chỉ các thì khác nhau thì họ nói, về thì
hiện tại: tôi bây giờ có, về thì quá khứ: tôi đã có; về thì vị lai: tôi hoặc
sau hoặc sẽ có. Ở cả hai thí dụ trên, từ có không bao giờ thay đổi 9. Do đó
người ta dễ thấy là ngôn ngữ này rất dễ học, và thực ra trong sáu tháng chuyên
cần, tôi đã học được đủ để có thể nói chuyện với họ và giải tội được nữa, tuy
chưa được tinh thông lắm, vì thực ra muốn cho thật thành thạo thì phải học bốn
năm trọn 10.
Nhưng để bắt đầu lại câu chuyện chính của
tôi, tôi đã nói rằng người Đàng Trong không những chỉ trọng các văn nhân, tán
thưởng trình độ học vấn uyên thâm của họ, nâng họ lên những chức vụ cao và có
thế giá, phát cho họ lương bổng hậu hĩ, mà còn rất quý trọng những người can
tràng, có giá trị và giỏi giang về võ bị. Nhưng họ cai trị và khác chúng ta, họ
không có tục lệ làm như ở Châu Âu chúng ta. Bởi vì đáng lý ra họ ban phát cho
các tướng lãnh có tài có công, như người ta thường làm nơi chúng ta, một lãnh
thổ, một bá tước địa, một thái ấp hầu tước để thưởng công, thì họ lại thưởng
bằng cách đặt dưới quyền người họ thưởng một số nhân đinh và một số nhân khẩu
và lính hầu nhất định của chính nhà vua 11. Những người này ở bất cứ nơi nào
trong nước đều phải nhận người được thưởng là chủ, phải phục dịch bằng binh
khí, trong tất cả mọi trường hợp người này cần tới, nộp tất cả các khoản thuế
mà cho người này như trước đó họ nộp cho chính nhà vua vậy. Vì thế, thay vì
chúng ta nói người này là chúa cai quản một địa điểm nào, là bá tước hay vương
hầu cai trị một lãnh thổ nào thì họ lại nói người này là một nhân vật có năm
trăm đinh, người kia có một ngàn đinh, chúa cứ tăng số đinh cho người này,
người khác một ngàn, hai ngàn là tăng thêm quyền, thêm thế giá, thêm nguồn lợi
và tăng thêm của cải cho họ khi cho họ thêm lính hầu mới. Về các cuộc chiến
tranh của họ, tôi sẽ nói ở chương sau. Còn ở đây, tôi phải nói về một việc đáng
được biết, có liên quan tới dân chính. Thứ nhất họ xét xử các sự việc rất nhanh
chóng, như người ta thường làm trong quân đội và như người ta thường nói “trong
thời chiến” (more belli), chứ không kéo dài nơi tòa án qua đường lối các quan
tòa, các công chứng viên, các biện lý với tất cả tờ bồi, thủ tục. Các vị khâm
sai và các quan trấn thủ các tỉnh làm hết các chức vụ đó. Các ông ngồi tòa mỗi
ngày bốn giờ liền, trong một cái sân đẹp và rộng, ngay giữa tư dinh của mình,
hai giờ buổi sáng và hai giờ buổi chiều. Những ai tranh tụng thì tới đó, trình
bày khiếu nại và tố tụng. Vị khâm sai hay quan trấn thủ tự vào cửa sổ mà nghe
người này người kia lần lượt trình bày, kêu cả. Thường thì các quan này là
những người có óc phán đoán ngay thẳng, biết nghe và có kinh nghiệm trong các
vụ tố tụng. Các ngài tra hỏi hai bên một cách xác đáng, nhất là để ý tới ý kiến
của người phụ tá. Rồi hội ý với nhau, chấp nhận cho bên nguyên hay bên bị, nên
họ dễ dàng nhận ra sự thực của vụ việc và tức thì không trì hoãn, họ lên tiếng
công bố án xử và người ta tức khắc cho thi hành không khiếu nại hay hình thức
tố tụng nào khác nữa, hoặc là án tử hình hoặc là án phát vãng hay phạt trượng,
phạt tiền: các ngài lên án phạt tội mỗi người theo hình phạt luật định.
Các trọng tội thông thường phải thú nhận
và bị phạt nặng thì rất nhiều. Nhưng người ta trừng phạt nghiêm khắc nhất những
kẻ gian dối, trộm cướp và ngoại tình. Khi hạng thứ nhất thú nhận là đã vu cáo
một người về một trọng tội mà người đó không phạm thì sẽ bị phát rất ngặt,
nghĩa là chịu hình phạt đáng lý ra người kia phải chịu nếu thực sự đã phạm cái
tội người ta tố cáo. Nếu trọng tội người ta cáo gian đáng phải tử hình thì
người cáo gian này sẽ phải xử tử. Và thực tế cho thấy cách xử này là cách tốt
nhất để biết đích xác sự thực. Còn kẻ trộm cướp thì bị phạt chiếu theo của ăn
trộm, ăn cướp, nếu chúng lấy một của gì quan trọng thì phải chém đầu, nếu là
của không đáng giá bao nhiêu, thí dụ một con gà, thì bị chặt ngón tay nếu là
lần thứ nhất, nếu còn tái phạm thì bị chặt ngón khác, nếu bị bắt lần thứ ba thì
bị cắt tai, lần thứ tư thì bị cắt cổ.
Kẻ ngoại tình, phái nam cũng như phái nữ
bất kể, sẽ bị trừng phạt về trọng tội của họ bằng cách để cho voi giày theo
cách thức như sau. Người ta dẫn phạm nhân ra khỏi thành tới một thửa ruộng và
trước mặt rất đông người đến coi, người ta đặt thủ phạm ở giữa, tay chân bị
trói, ở ngay cạnh con voi. Rồi người ta tuyên án phạt kẻ sắp bị xử và thi hành
án xử theo từng điểm một. Trước hết voi dùng vòi quấn, rồi nắm và ép chặt tội
nhân và nâng tội nhân lên cao, đưa ra cho mọi người trông thấy, rồi tung lên cao
và đón tội nhân rớt xuống trúng ngà. Tội nhân từ cao rớt xuống và vì nặng nên
cắm sâu vào ngà, tức thì voi hất người đó xuống đất rồi dẫm chân lên và đạp cho
tan nát. Voi làm việc này mà không bỏ sót một điểm nào làm cho mọi người có mặt
sửng sốt và sợ hãi. Vì chứng kiến hình phạt kẻ khác chịu mà mọi người phải giữ
trung thành trong đạo vợ chồng.
Không phải ngoài đề vì chúng tôi vừa nhắc
tới hôn nhân, nếu chúng tôi kể qua ở đây mấy đặc điểm riêng biệt để kết thúc
chương này. Không bao giờ thấy người Đàng Trong, tuy còn là lương dân, lại kết
hôn trong những bậc bị luật Thiên Chúa và luật tự nhiên cấm đoán, rất ít trong
bậc thứ nhất thuộc hàng ngang giữa anh chị em họ 12. Những cấp bậc khác được
phép thì ai cũng được, miễn là chỉ có một vợ. Thực ra, những người giàu có,
càng có thế giá và có của thì họ có tục lấy nhiều vợ mọn. Họ còn cho là biển
lận và keo kiệt nhựng ai không cưới nhiều vợ khi mình có đủ tiền của để dễ dàng
làm việc này. Những vợ mọn được gọi bà hai, bà ba, bà tư tuỳ theo thứ tự mỗi
người. Tất cả đều là nàng hầu của bà vợ cả. Bà này được trọng nể là vợ đích
thực, vợ chính thức. Chính bà vợ này chọn các nàng hầu tuỳ theo ý mình và cưới
về cho chồng. Hôn nhân của họ không bền chặt vì luật xứ Đàng Trong cho phép li
dị, tuy không phải chỉ để tuỳ ý và tùy thích của bên này hay bên kia. Để ly dị,
điều cần thiết phải làm trước tiên là chứng tỏ được tại sao mình xin ly dị, vì
có nhiều tội nặng tỏ tường, nếu có tội thật thì được xin ly dị và lấy người
khác. Vì chồng quản lý tài sản của vợ nên họ cũng bỏ nhà mình đến ở nhà vợ mới.
Họ được vợ nuôi, vợ lo cho hết các việc trong nhà, còn chồng ở trong gia đình
chẳng làm gì, không vất vả gì và nếu chỉ có một vài đồng thi họ cũng bằng lòng
vì được mọi sự cần dùng về ăn uống và ăn mặc.
Chú thích:
(1) Nhưng thực ra có hoàn toàn như Borri
nói không? Ở Đàng Trong, nhà Nguyễn cũng bắt chước Đàng Ngoài mở các khoa thi.
(2) Aristote nhà triết học thời danh Hy
Lạp thế kỷ 4 tr.c.n.
(3) Các văn sĩ Latinh, Roma; Seneca thế
kỷ 1 s.c.n, Caton thế kỷ 3-2 tr.c.n, Ciceron nhà hùng biện đại tài thế kỷ 1
tr.c.n.
(4) Thời đó người ta còn dùng Latinh để
giảng dạy ở các trường đại học, còn tiếng mẹ đẻ thì mới manh nha.
(5) Kinh là kinh điển như Tứ thư, Ngũ
kinh, còn sách là sách viết thông dụng không thuộc kinh điển.
(6) Hoa ngữ có năm thanh, còn Việt ngữ có
sáu thanh.
(7) Chia động từ: conjugaison, biến cách:
déclinaison, trong La ngữ.
(8) Động từ tiếng Pháp avoir (có) j’ai
(tôi có), tu as (anh có), il a (nó có), nous avons (chúng tôi có), vous avez
(các anh có), ils ont (chúng nó có).
(9) Một động từ avoir có thể thay đổi
hình dạng rất nhiều tuỳ theo khi nói về hiện tại, quá khứ, tương lai, nghi vấn,
truyền khiến v.v…
(10) Borri thú nhận, tuy biết tiếng Việt,
nhưng chưa đủ để giảng dạy giáo lý cho chu đáo.
(11) Ở Châu Âu nhà vua ban bổng lộc cho
công hầu bá tước bằng đất đai thuộc quyền sở hữu của họ và họ có thể truyền lại
cho con cháu. Ở Việt Nam,
họ chỉ được lợi tức, nghĩa là thay mặt vua thu thuế các hộ, hoặc một trăm hoặc
một nghìn hay hơn nữa. Họ không có quyền để lại cho con cháu, nhà vua vẫn giữ
quyền sở hữu.
(12) Thường gọi là anh em thúc bá.
Chương 7: Lực lượng của chúa Đàng Trong
Như đã nói ở đầu bản ký sự này là Đàng
Trong trước kia là một tỉnh tách rời khỏi xứ Đàng Ngoài. Cụ cố 1 của chúa đương
thời đã vô cớ chiếm đoạt, lập nhà nước và phản nghịch cùng chúa Đàng Ngoài. Rồi
họ trở nên
mạnh dạn hơn khi được cung cấp trong một
thời gian rất ngắn, nhiều thứ súng lớn tịch thu và lượm nhặt được do tàu và
thuyền chiến bị đắm trôi dạt vào bờ biển: thực ra tàu người Bồ cũng như người
Hòa Lan 2 thường đâm vào cồn đá và người bản xứ vớt được như ngày nay có thấy.
Nguyên trong phủ chúa cũng có tới sáu
mươi cỗ và có những cỗ rất lớn. Ngừơi Đàng Trong tinh xảo và có kinh nghiệm sử
dụng, họ vượt cả người Châu Âu đến nỗi họ chẳng làm gì khác mà chỉ ngày ngày
bắn đạn giả và rất lấy làm hãnh diện. Vì thế họ tự cho là có thế lực đến nỗi
vừa thấy những chiếc tàu của Châu Au chúng ta cập bến của họ thì liền bắn súng
để thách thức, nhưng người của chúng ta biết rằng súng của họ chẳng địch lại
được súng của chúng ta, nên người của chúng ta hết sức tránh né tầm bắn. Người
của chúng ta biết rằng theo kinh nghiệm, ta có thể chắc chắn bắn vào chỗ nào ta
muốn với súng của mình, còn họ với súng hỏa mai là một thứ gậy thì không nhằm
bắn trúng được. Điều giúp chúa rất đắc lực trong cuộc dấy binh chống chúa Đàng
Ngoài, đó là ngài có một trăm thuyền chiến và hơn nữa, chúa rất mạnh về đường
biển, như đã mạnh về đường bộ vì có súng ống. Thế là chúa dễ dàng thi hành ý đồ
và âm mưu chống chúa Đàng Ngoài là chủ mình. Việc họ buôn bán thường xuyên với
người Nhật đã đem lại cho chúa rất nhiều đao hay gươm đao theo kiểu Nhật Bản,
với nước thép rất tốt. Trong nước còn có rất nhiều ngựa, tuy thấp bé hơn, nhưng
rất tốt và rất can đảm, dùng để cưỡi và bắn nỏ, hằng ngày không ngớt thao
luyện. Thế lực của chúa rất mạnh đến nỗi khi ngài muốn, ngài có thể cho tuyển
ngay được tám mươi ngàn quân binh chiến đấu. Với tất cả lực lượng này ngài vẫn
còn sợ chúa Đàng Ngoài vốn có lực lượng lớn hơn gấp bốn lần. Vì thế, để có sự
thỏa hiệp và giao hảo tốt thì chúa nhận triều cống về những gì vương quốc của
ngài có thể có cho xứ Đàng Ngoài, nhất là vàng, bạc, lúa gạo, cung cấp ván và
gỗ để đóng thuyền chiến.
Về binh pháp và cách cai trị trong chinh
chiến thì cũng gần như ở Châu Âu. Họ cũng giữ các luật lệ để huấn luyện binh
lực, đánh du kích, tấn công và rút quân.
Ngoài ra chúa còn chuẩn bị vũ khí liên
tục và mộ binh giúp vua Campuchia, cung cấp cho vua này thuyền chiến và quân
binh để cầm cự với vua Xiêm. Vì thế mà vũ khí của Đàng Trong đã lừng danh và
nổi tiếng khắp các nơi qua đường biển cũng như đường bộ.
Ngoài biển họ chiến đấu trên thuyền như
đã nói, mỗi thuyền có súng đại bác và nhiều súng musqueton. Và người ta sẽ
không lấy làm lạ khi biết chúa Đàng Trong luôn luôn có tới một trăm thuyền
chiến có đủ súng ống và nghiêm chỉnh nghênh chiến khi người ta biết những thứ
này đuợc thành lập như thế nào.
Cần phải biết rằng người Đàng Trong không
có lệ dùng những phạm nhân hay người bị án khổ sai để chèo thuyền 3. Khi họ cần
người để chiến đấu trên biển hay để làm một việc gì đó thì tức khắc họ có thể
tuyển mộ ngay được đủ số theo cách thứ sau đây: Họ ngấm ngầm phái đội trưởng và
uỷ viên lúc không ai ngờ rảo khắp xứ đem lệnh chúa bắt ngay lập tức tất cả
những trai tráng có sức cầm tay chèo và dẫn cả tới thuyền, không đếm xỉa tới
con nhà sang hay người có thế giá, bởi vì không ai được miễn. Việc này thực ra
không khó khăn gì như lúc đầu người ta tưởng, vì thứ nhất họ được đối xử tốt
trong thuyền cũng như bất cứ nơi nào khác và được trả lương cao. Hơn nữa, vợ
con họ và cả gia quyến họ đều được chúa cung cấp hết tất cả những gì họ cần,
tuỳ theo cấp bậc, thanh thế, trong suốt thời gian chồng họ vắng nhà. Và những
người này không phải chỉ được dùng để chèo mà còn chiến đấu khi cần và họ chiến
đấu rất anh dũng. Để làm việc này, người ta trao cho mỗi người một súng hỏa mai
hay musqueton với đạn, dao hay mã tấu. Người Đàng Trong không giả đò, họ rất
hăng hái và dũng cảm, với mái chèo, súng và dao, họ can đảm tấn công và trong
hỗn chiến, họ tỏ rõ lòng dũng cảm hiếm có của họ. Thuyền chiến của họ không lớn
cũng không đặc biệt rộng như của ta, nhưng rất lẹ và được trang trí vàng bạc
trông rất ngoạn mục. Đặc biệt mũi thuyền vốn được coi là chỗ trọng vọng nhất
thì toàn bằng vàng. Đó là chỗ của thuyền trưởng và của những người có chức vị
cao, và lý do là vì người thuyền trưởng luôn luôn phải là người đầu tiên xuất
trận, thế cho nên rất hợp lý, vì mục đích đó mà ông đứng ở đằng đầu và ở chỗ
nguy hiểm nhất trong chiếc thuyền.
Trong số những vũ khí tự vệ dùng trong
trận chiến thì có những chiếc khiên nhỏ hình bầu dục, hoàn toàn rỗng, cao, có
thể dễ dàng chắn cả thân người và rất nhẹ, dễ cầm và không hề vướng víu bận bịu
chút nào. Cũng rất có ích cho việc bảo vệ thành trì ở xứ này, đó là cách thức họ
dựng nhà chỉ toàn bằng ván và trên cột gỗ như chúng tôi đã nói. Nếu quân địch
hùng mạnh kéo tới và họ không muốn chống cự, lúc đó mỗi người đem theo nồi niêu
bát đũa và trốn lên núi, sau khi châm lửa đốt nhà và chỉ để lại không gì khác
ngoài đống tro tàn. Quân địch không thể tìm ra được thứ gì để ăn và sinh sống
nên họ phải rút quân về, và họ trở về dựng lại những căn nhà khác trong một
thời gian rất ngắn và khôi phục lại thành phố như trước.
Chú thích:
(1) Ông cố, chỉ Nguyễn Kim.
(2) Coi Pierre Yves Manguin, Les
Portugais sur les côtes du Viet Nam de du Campa EFEO, 1972. Tác giả chứng minh
cụ thể là vào thế kỷ 16-17 thương gia người Bồ, Hà Lan thường đi dọc bờ biển
Đàng Trong, rồi chiếu thẳng đi Macao hay Nhật Bản, ít khi lên tới Đàng Ngoài.
Vì thế trong một thời gian, chưa ai để ý tới xứ Bắc.
(3) Bên Châu Âu người ta dùng tù binh khổ
sai để chèo thuyền, vì thế nói đến galères là nói hình khổ nhục nhã, trái với
Việt Nam,
chèo thuyền chiến là việc của quân binh thiện nghệ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét