Bức
họa của Samuel Baron in trong cuốn A Description of the Kingdom
of Tonqueen,
viết khoảng 1685-6, được nhiều người chú
ý và in lại, coi là bức họa đầu tiên vẽ cảnh Thi Đình
ở Việt Nam.
Samuel Baron là ai
?
S. Baron là một
người Hoà Lan lai Bắc kỳ, có lẽ sinh tại "Ca Cho" (= Kẻ
chợ, tức Thăng Long). Cha là đại diện cho công ty Ấn Độ
của Hoà Lan ở Bắc vào năm 1663, nhưng có thể đã sống ở
đấy từ trước. Lớn lên, S. Baron nối nghiệp nhà, cũng làm
cho công ty Ấn Độ của Hoà Lan, sau chuyển sang làm cho công
ty Ấn của Anh, nhập tịch dân Anh, và cuối cùng bỏ đi buôn
riêng quanh vùng Đông Nam Á. Năm 1678, 1680 và 1682 có trở về
"Ca Cho". Trong sách, S. Baron công nhận mình đã sinh ra ở Bắc
kỳ và viết cuốn này có ý giới thiệu Đằng Ngoài với
người Anh, do đó đã đề cập đến đủ cả mọi vấn đề
: sử ký, địa dư, dân tộc, phong tục, chính sự, y học v.v...
Thoạt mới tìm
thấy bức họa, tôi rất vui mừng tin tưởng ở óc quan sát
cùng cách ghi chép tỉ mỉ và chính xác của người Âu. Tuy
chỉ có một nửa dòng máu Âu trong huyết quản, nhưng cách
trình bày cuốn sách tỏ ra S. Baron đã chịu ảnh hưởng rõ
rệt của nền văn hoá Tây phương.
Nhưng sau khi ngắm
kỹ bức họa, tôi thấy có lẽ nên dè dặt, vì nó không phù
hợp với những điều tôi đọc trong "Nghi thức thi Đình"
của Phan Huy Chú(1). Phan Huy Chú tuy chỉ đỗ Tú tài,
song là con Tiến sĩ Phan Huy Ích, một người đã từng dự
thi Đình thời Hậu Lê, Phan Huy Chú lại viết sách nghiên cứu
về Khoa cử ở Việt Nam, còn S. Baron chỉ là một nhà buôn
và là một người lai, chịu ảnh hưởng Tây phương nhiều
hơn, nên tôi cho sự hiểu biết về Khoa cử của S. Baron chỉ
có giới hạn và tin Phan Huy Chú hơn.
Để tiện việc
so sánh, tôi xin lục đăng cả bức họa của S. Baron và bài
"Nghi thức thi Đình" của Phan Huy Chú :
NGHI
THỨC THI ĐÌNH
"Sáng sớm hôm ấy,
Thượng thiết ty đặt ngai vua ở chính giữa điện Kính Thiên,
đặt hương án và bàn ở trước ngự tọa, đặt ngự tọa
của Chúa ở bên ngự tọa của Vua. Thừa dụ cục đặt bàn
ở hai bên tả, hữu sân rồng, để quyển thi, bút và nghiên
mực ở trên bàn. Các quan Đề điệu, Tri cống cử, Giám thí
chia nhau đứng ở hai bên các bàn để quyển thi. Nhân viên
hai vệ Cẩm y, Kim ngô bày lều thi (2) và quyển thi
ở hai bên sân rồng. Một viên Lễ quan (dùng quan Lễ bộ),
một viên Tuyên chế sách (dùng quan Đông các) đứng ở bên
tả sân rồng (hướng về bên hữu), một viên Nghi chế ty
(đứng ở bên hữu sân rồng hướng về bên tả), hai viên
Tuần xước (lâm thời được sai) đứng ở hai bên tả hữu
sân rồng (hướng về phía Bắc). Quân lính các ty vệ cắm
cờ xí theo nghi thức. Hồi trống nghiêm đầu, các đại thần
văn võ tiến vào chầu, ai nay đều mang phẩm phục đứng sắp
hàng ở ngoài cửa Đoan môn. Hồi trống nghiêm thứ hai, rước
ngự giá Vua đến điện Kính Thiên, rước Chúa ngự lên điện
(hơi về phía Đông). Tự ban dẫn các đại thần đầu ban
và các quan văn võ vào đứng hầu ở hai bên sân rồng (hướng
về phía Bắc). Vua đội mũ xung thiên mặc áo bào vàng, đai
ngọc, lên ngồi ngự tọa. Chúa đội mũ xung thiên, mặc áo
bào tía, đai ngọc, lên ngồi ngự tọa. Vút roi (3).
Cáp môn xướng :"Bài ban, ban tề, cúc cung bái (năm lạy, ba
vái), hưng, bình thân". Các quan chia ban đứng hầu. Lễ quan
vào giữa ngự đạo quỳ xuống. Hai viên Tự ban dẫn các sĩ
nhân vào giữa ngự đạo, đứng sắp hàng hai bên. Xướng
:"Quỵ". Các sĩ nhân đều quỳ. Lễ quan tâu : "Những sĩ nhân
trúng thức kỳ thi Hội này là bao nhiêu người, tên là gì,
vâng vào Điện thí". Tâu xong lui ra đứng chỗ cũ. Tự ban
xướng :"Khấu đầu". Các quan Đề điệu, Tri cống cử, Giám
thí đưa quyển thi, bút, nghiên, mực cho sĩ nhân xong, lại
lui ra đứng chỗ cũ. Quan Tuyên chế đến giữa ngự đạo
quỳ tâu :"Tấu truyền chế". Rồi phủ phục, vẫn quỳ. Quan
Tư lễ giám đem tờ chế sách giao cho quan Tuyên chế, viên
này nhận lấy chế sách rồi đứng dậy, lui ra đứng tựa
về phía Đông sân rồng. Đọc xong, quan Tuyên chế lại đem
chế sách đến giữa ngự đạo quỳ xuống dâng lại cho quan
Tư lễ giám nhận lấy, rồi quan Tuyên chế lui ra đứng chỗ
cũ. Quan Tuần xước dẫn các sĩ nhân ra ngồi ở lều thi (2).
Nghi chế ty đến giữa ngự đạo quỳ tâu :"Lễ tất". Lại
rút voi. Vua về cung. Chúa về nội phủ. Các đại thần văn
võ đều lui ra" (1).
Căn cứ vào Phan
Huy Chú và những bài viết về thi Đình thời nhà Nguyễn -
vì Khoa cử dưới triều Nguyễn tổ chức theo khuôn mẫu nhà
Hậu Lê (4) - tôi thấy có lẽ S. Baron đã sai lầm
ở những điểm này :
A.-
Về bức họa
1)
Vua Lê, Chúa Trịnh.Tranh vẽ vua Lê ngồi chứng kiến
thi Đình, nhưng lại ngồi một mình, vậy thì chúa Trịnh đi
đâu ? Từ 1664, Trịnh Tạc đã đặt chỗ ngồi của Chúa ở
bên tả ngai Vua thành lệ rồi. Thi Đình lại là một chuyện
tối quan trọng : kén nhân tài giúp nước, chọn người phù
tá đắc lực cho mình chính là ở đấy. Năm 1736, Trịnh Giang
còn cho thi Tiến sĩ ngay trong Phủ đường, tự chấm bài ấn
định cao thấp, bài thi ở Điện bỏ đi không đưa cho Vua
chấm (Cương Mục XVII, 30) thì đời nào chúa Trịnh lại
chịu để vua Lê một mình tự do kén chọn người tài giỏi
để thêm vây cánh chống lại Soái phủ ?
Tuy tranh vẽ bỏ
quên chúa Trịnh, nhưng trong sách S. Baron viết rõ Vua và Chúa
chứng kiến hai ngày thi đầu, những ngày sau để cho các quan
Thượng thư đại diện.
2)
Canh phòng. Ngắm
tranh ta có cảm tưởng Vua ngồi đó suốt cả ngày, trong khi
Phan Huy Chú viết sau khi làm lễ khai mạc xong, Vua Chúa đều
rút ngay về cung, các quan cũng nối gót ra về. Tuy Phan Huy Chú
không nói rõ, song các sĩ nhân chỉ làm bài sau khi tất cả
các quan rút lui, chỉ để lại hai ông quan võ Tuần la, Tuần
xước ngồi canh, tiếng là quan to nhưng không đủ chữ nghĩa
để "gà" các sĩ nhân. Vì không hiểu dụng ý này nên S. Baron
mới cho hai ông quan ngồi canh là ông Tuncy (Tiến sĩ) và vẽ
trong khi Vua Lê còn ngồi sờ sờ ra đó, các sĩ nhân đã cắm
cúi viết bài !
3)
Lều hay chiếu ?Theo S. Baron, các cống sĩ ngồi thi
ngay trên sân rồng mỗi người trong một cái lều bằng gọng
tre căng vải.
"Nghi thức thi Đình",
trong bản dịch của Hà Nội, cũng nói các sĩ nhân "ra ngồi
lều thi".
Tôi thấy điều
này cần phải kiểm tra lại vì đã gọi là thi Đình, hay Điện
thí, tức là thi trong cung của Vua thì còn gì cần đến "lều"
nữa ? Thi Đình thời nhà Nguyễn chắc chắn không có lều,
các cống sĩ đi thi chỉ mang mũ áo, hia hốt � vì được coi
là đã làm quan nên khi thi phải mặc áo thụng ngồi viết
� còn các thức khác như giấy, mực, yên, tráp, chiếu ngồi
cho chí đồ ăn, thức uống đều do Vua ban
(5).
Ngô Tất Tố tả
thi Đình diễn ra ở Tả vu và Hữu vu điện Cần Chính. Yên
(bàn) và chiếu đã được bộ Lễ đưa vào bầy từ chiều
hôm trước. Các cống sĩ tuy có quỳ ở sân để lĩnh đầu
bài nhưng sau đó phải đem đầu bài về chiếu ngồi của
mình mà viết (6).
Chu Thiên tả thi
ở điện Thái Hoà. Quan Lễ bộ Thượng thư xuất ban quỳ
trước sân điện xin cho 17 người Trúng cách vào "Đình đối"
(tức thi Đình) rồi nhường chỗ cho quan dẫn đạo dẫn 17
Nho sinh Trúng cách vào phủ phục trước sân. Sau khi được
Vua truyền cho "đăng điện đối sách" các Nho sinh đứng dậy
bước ba bước lên điện. Trên điện đã có sẵn 17 cái yên
và 17 cái chiếu rải khắp điện. Khi Vua cho phép "khai độc
chế sách" các Nho sinh mới cầm đầu bài mở xem trong khi Vua
hồi cung và các quan văn võ ra về chỉ để lại hai ông quan
võ và lính canh (7).
Chu Thiên và Ngô
Tất Tố tiếng là viết tiểu thuyết song những chi tiết về
thi cử, thể lệ cũng như nghi thức, đều có tra cứu chứ
không bịa đặt. Đại Nam Thực Lục Chính Biên xác nhận
các cống sĩ thời nhà Nguyễn thi Đình không ngồi "lều" mà
làm bài ở "bàn thi" :
1822 Cống sĩ làm
bài ở bàn thi tại Tả vu và Hữu vu điện Cần Chính.
1856 Thi Đình ở
điện Khâm Văn : " Trước một ngày, bộ Lễ bầy bàn thi,
chiếu ngồi ở hai nhà hành lang bên Tả, bên Hữu điện Khâm
Văn. Ngày thi, các Giám thí mặc đại triều đến sân điện
Khâm Văn, viên Kinh-dẫn dẫn Cống sĩ vào sân điện quỳ,
ngoảnh mặt hướng Bắc. Viên Đằng-tả đem những bản giấy
vàng chia cho những người thi tiếp lấy giơ cao lên trán rồi
trao lại cho viên Đằng tả, lạy năm lạy rồi đến bàn thi,
chiếu tên mình làm văn. Các viên Giám thí dự việc thi đều
đến nhà Hữu vu, điện Cần Chính chực hầu. Các viên Tuần
la, Tuần sát ở lại kiểm soát. Đến hết trống sưu-không
(bắt đầu canh một, lúc trời tối) phải đem quyển thi và
bản thảo nộp. Quan Tuần la thu xong mới mở cửa cho Cống
sĩ ra " (8).
Robert de la Susse
cho biết điện Khâm Văn sau Vua dùng làm nhà học nên lại
đổi ra thi ở điện Cần Chính và những hành lang dẫn đến
Đại Cung Môn. Robert de la Susse cũng xác nhận hai viên quan ở
lại canh phòng đều là quan võ (9).
Ta thấy rõ, tuỳ
thời, nhà Nguyễn có thể thay đổi nơi thi khi ở điện Cần
Chính khi ở điện Thái Hoà, lúc ở điện Khâm Văn, nhưng
dù thi ngay trên điện, hay tại Tả vu, Hữu vu v.v... thì chỗ
nào các Cống sĩ cũng ngồi chiếu và bàn thi chứ không ngồi
lều.
Tuyết Huy, Trần
văn Giáp và Dương Quảng Hàm đều nói thi cử nhà Nguyễn
rập theo khuôn mẫu nhà Hậu Lê, nhà Nguyễn thi Đình không
có lều thì chắc nhà Lê cũng vậy, dẫu thi ở điện Kính
Thiên hay ở điện Hội Anh (10).
Có lẽ S. Baron đã
lẫn thi Hội với thi Đình. Thi Hội thời nhà Lê các Cống
sĩ ngồi lều thật - như đã thấy trong Tang Thương Ngẫu
Lục (11) - vì thi trong trường thi.
Còn về bài "Nghi
thức thi Đình", tôi ngờ người dịch sơ ý đã thêm chữ
"lều" vào, chỉ vì nói đến thi cử là ai cũng lập tức nghĩ
ngay đến hai chữ "lều chõng" (2).
Tóm lại, không
chắc S. Baron đã thấy tận mắt cảnh thi Đình để mà vẽ,
hay nhờ người vẽ cho tường tận, mặc dầu đã sinh và sống
một thời gian ở "Ca cho". Cung đình là chốn thâm nghiêm dễ
gì ai muốn ra muốn vào cũng được ? Huống chi lại là lúc
có tổ chức một kỳ thi trọng đại nắm vận mệnh quốc
gia? Ngay như thi Hương cũng phải có lính canh gác nghiêm mật
bên trong, và lính võ trang cùng voi, ngựa tuần hành rầm rập
suốt ngày bên ngoài nữa là thi Đình. S. Baron chỉ là một
nhà buôn lẽ nào lại được tự do vào quan sát ? Huống hồ
luật nhà Lê cấm ngoại quốc, dù là Trưởng tầu, qua cung
điện cũng "không được xông xáo đi lại" (Lê Triều Chiếu
Lịnh Thiện Chính, tr. 177) vào xem thế nào được ?
B.
- Về Khoa cử ở Việt Nam
S. Baron thành thực
cho biết những vấn đề nào không nắm vững đều nhờ người
bản xứ có học thức và có tín nhiệm giảng giải hộ. Song
có lẽ vì không hiểu rõ, hoặc khi viết chỗ nhớ chỗ quên,
nên đã lẫn lộn thi Hương với thi Hội và thi Đình. Theo
S. Baron thì Việt Nam có ba loại thi khác nhau: "loại thứ nhất
lấy những người đỗ "Singdo" (Sinh đồ, tức Tú tài), loại
thứ nhì lấy những người đỗ "Hungcong" (Hương cống, tức
Cử nhân) và loại thứ ba lấy những người đỗ "Tuncy" (Tiến
sĩ). Lại chọn trong đám "Tuncy" lấy người nào có khả năng
cử vào chức "Trangiveen" (Trạng nguyên) ngang với chức Giáo
sư hay Viện trưởng".
Chắc S. Baron giở
sách Tầu ra tra cứu, tin rằng Việt Nam tổ chức Khoa cử theo
khuôn mẫu Trung Hoa, không biết rằng ở Việt Nam thời nhà
Lê cũng như thời nhà Nguyễn, Sinh đồ, Hương cống thi chung
một khoa, ai đỗ ba trường thì gọi là Sinh đồ, đỗ cả
bốn trường thì gọi là Hương cống, không có lệ thi Sinh
đồ riêng và Hương cống riêng như ở Trung Quốc(12).
S. Baron tưởng thi
Hội với thi Đình là một, tổ chức bốn năm một lần. Thi
Hương ba năm một lần thì thi Hội cũng thế, vì thi Hội bao
giờ cũng diễn ra ngay năm sau khi có thi Hương. Tuy cũng có
người coi thi Đình là kỳ thi sau cùng của thi Hội, tổ chức
cách nhau độ một tháng, nhưng thi Hội và thi Đình khác nhau
nhiều chỗ. S. Baron nói thi Đình hoặc ở trường thi, hoặc
ở cung điện. Không thể "hoặc" chỗ này, "hoặc" chỗ kia
được. Thi Hội ở trường thi, còn thi Đình phải ở trong
cung điện vì thi Đình còn được gọi là Điện thí. Có đỗ
thi Hội mới được thi Đình. Người đỗ thi Hội gọi là
Trúng cách, có bảng yết, còn đỗ thi Đình, có lễ truyền
Lô (= Lễ Xướng Danh) long trọng và lại phân biệt ba hạng
thi đỗ :
a) Đệ nhất giáp
Tiến sĩ chỉ có ba người, theo thứ tự từ cao đến thấp
là :
Trạng nguyên, Bảng
nhãn, Thám hoa, gọi chung là Tam Khôi
b) Đệ nhị giáp
Tiến sĩ thường chỉ có một người là Hoàng giáp
c) Đệ tam giáp
Tiến sĩ, tức Tiến sĩ hạng ba, số người đỗ không nhất
định.
Triều Lê gọi là
"đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân" hay "Phụ bảng". Ta
không nên lẫn "Phụ bảng" của nhà Lê, tức các ông nghè
hạng ba, với "Phó bảng" của nhà Nguyễn, chỉ có từ 1829,
vốn là những người được điểm cao trong số người thi
Hội không Trúng cách. "Phó bảng" là những người hỏng thi
Hội cũng chẳng khác gì Tú tài là những người thi Hương
không đỗ. Gọi "Phó bảng" là "ông Bảng" không đúng, chức
"ông Bảng" dành cho những người đỗ Tiến sĩ thứ nhì của
hạng nhất (đệ nhất giáp Tiến sĩ, đệ nhị danh) chỉ kém
có Trạng nguyên mà thôi. Ấy là chưa kể dưới triều Nguyễn,
Bảng nhãn tuy hạng nhì song chính là hạng nhất bởi nhà Nguyễn
không có lệ lấy ai đỗ Trạng nguyên(13).
Về sách học, S.
Baron cũng chỉ biết lờ mờ có 9 cuốn (cửu kinh) nhưng lẫn
sách của Khổng Tử với môn đệ của Khổng Tử. Thật ra
sách của môn đệ chỉ có cuốn "Mạnh Tử" còn những cuốn
nói là của Khổng Tử, trừ cuốn "Xuân Thu", cũng chỉ do Khổng
Tử chắp nhặt những gì người đời trước đã viết (Kinh
Dịch, Kinh Thi v.v...) hoặc do học trò Khổng Tử ghi lại
những lời thầy dạy (Luận ngữ, Đại học v.v...)
Nói đến đề mục
các kỳ thi, ta càng thấy S. Baron "hồ đồ". Ví dụ thi Hương
S. Baron hiểu rằng :
Kỳ 1 có 5 câu hỏi,
bài viết phải dùng 24 tờ giấy
Kỳ 2 có 3 câu hỏi,
bài viết phải dùng 12 tờ giấy
Kỳ 3 có 2 câu hỏi,
bài viết dùng 8 tờ
Đúng ra bài dài
hay ngắn không phải tuỳ số câu hỏi nhiều hay ít mà tuỳ
đề tài. Nếu là "kinh nghĩa" (giảng giải kinh sách) hay "văn
sách" (bàn phép trị nước) thì bài viết thường dài, phải
cần đến nhiều giấy, còn "thơ phú" ngắn hơn, quyển thi
dĩ nhiên mỏng hơn. Nhưng "thơ phú" không nhất định phải
thi vào kỳ 3, nhiều khi thi ngay kỳ 2.
S. Baron nhận xét
rằng về mặt khác người Việt thường tỏ ra gian tham nhưng
về thi cử thì tổ chức rất nghiêm túc, rọc phách là một
bằng chứng. Nhưng lại giảng rằng rọc phách tức là khi
Thí sinh nộp quyển văn ở trường phải kèm theo một tờ
giấy riêng kê khai tên tuổi, quê quán v.v...Quyển nộp rồi,
các "Tuncy" mới rọc phách. Như thế là lầm. Trước mỗi khoa
thi Hương chừng mấy tuần, các Thí sinh phải ghi tên bằng
cách nộp ba quyển cho ba kỳ thi đầu, trên mặt quyển phải
khai tên tuổi của cả mình và ông cha ba đời v.v... vào những
chỗ đã được ấn định trước để khi quyển đưa vào
trường thi các ông Đề tuyển, có phận sự rọc phách, đánh
dấu rồi xé đôi tờ khai, cất phần có tên tuổi Thí sinh
đi, nửa ấy gọi là cái phách. Khi nào chấm xong mới kháp
phách và biết tên người thi. Tiến sĩ là khảo quan, chỉ
được chấm quyển khi đã rọc phách, Tiến sĩ không giữ
việc rọc phách.
*
* *
* *
S. Baron không phải
là một chuyên gia mà chỉ là một nhà buôn, cầm bút viết
được đủ mọi vấn đề như thế không phải là dễ, dù
có sai lầm cũng đáng khen nhiều hơn đáng chê. Có điều khi
ta đọc S. Baron cũng nên dè dặt. Nói chung, sách của S. Baron
vẫn là một tài liệu hiếm quý cho chúng ta, vì nó ghi chép
tỉ mỉ đời sống ở Đàng ngoài thời Hậu Lê, cống hiến
nhiều chi tiết không dễ gì tìm thấy trong sử sách của ta,
tỉ như tiền chi tiêu hằng năm của vua Lê được ấn định
khoảng 8000 đô la, trong khi tiền thưởng một viên Tân khoa
đỗ thi Hương, cả tiền mặt lẫn sấp vải đen để may áo,
trị giá 4 đô la. Những gì quá tầm hiểu biết của S. Baron
dĩ nhiên ta phải kiểm tra lại còn những điều S. Baron có
dịp quan sát hàng ngày thì ta có thể tin và không phải là
tác giả không có những nhận định đặc sắc đáng cho ta
lưu ý.
Tháng
8/1991
(Văn Học, tháng 9, 1991)
(Văn Học, tháng 9, 1991)
Chú
thích :
1. Phan Huy Chú. "Nghi
thức thi Đình", Lịch Triều Hiến Chương, Khoa Mục Chí,
tr.
33.
2. Tôi ngờ dịch
giả sơ ý thêm chữ "lều" vào bài. Tôi đã nhiều lần viết
thư về Việt Nam hỏi, chỉ được phúc đáp một lần, tác
giả lá thư khuyên tôi nên giở
Lịch Triều Hiến Chương
ra mà đọc. Rất mong sự chỉ điểm của vị nào có bản
dịch ở Saigon hay bản chữ Hán.
3. "Vút roi" có nghĩa
là ra lệnh phải yên lặng trong khi cử hành lễ.
4. Trần văn Giáp,
Khai
Trí Tiến Đức, tr. 52.
Tuyết Huy, Nam Phong, số 5/1919.
Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, tr. 84.
Tuyết Huy, Nam Phong, số 5/1919.
Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, tr. 84.
5. Mỗi lần vua
ban, dù chỉ là một miếng trầu, các Cống sĩ cũng phải đứng
dậy sửa mũ áo lạy tạ. Nếu không dùng ngay cũng được
tự do mang về nhà, kể cả khay, chén, bát, đĩa đựng thức
ăn cùng dao, đũa v.v...
6. Ngô Tất Tố,
Lều
Chõng, tr. 252-3.
7. Chu Thiên, Bút
Nghiên, tr. 218-9.
8. Đại Nam Thực
Lục Chính Biên, XXVIII, tr. 234.
9. Robert de la Susse,
"Les Concours littéraires en Annam", p. 13.
10. Trần Ngọc,
Văn
Bia Hà Nội, Tập I, tr. 64.
11. Phạm Đình Hổ
và Nguyễn Án, Tang Thương Ngẫu Lục, tr. 226.
12. Ta thường dịch
Tú tài xưa cũng là "bachelier", tôi thấy không được sát lắm
vì nó khiến mọi người liên tưởng đến một kỳ thi riêng
rẽ như thi Tú tài ngày nay. Nếu dịch Cử nhân là "Licencié"
thì nên dịch Tú tài là "Sous admissible" thích hợp hơn. "Sous
admissibles" là những người thi không đỗ nhưng được điểm
cao và có tên trên bảng dự khuyết.
13. Theo lệ "ngũ
bất lập" của vua Minh Mệnh đặt ra thì nhà Nguyễn không
phong vương, không phong Tể tướng, không lập Đông cung Thái
tử, không lập Chánh cung Hoàng hậu và không lấy ai đỗ Trạng
nguyên.
- BARON, Samuel. Description du Royaume du Tonkin. Bản dịch của H. Deseille, không đề xuất bản năm nào.
- CHU THIÊN. Bút Nghiên. Saigon : Đồ Chiểu tái bản, 1968.
- DƯƠNG QUẢNG HÀM. Việt Nam Văn Học sử yếu. Saigon : Bộ Quốc gia Giáo dục, 1968, in lần thứ mười. Fort Smith : Sống Mới tái bản.
- Đại Nam Thực Lục Chính Biên, bản dịch của Hà Nội, XXVIII.
- HÉDUY, Philippe. Histoire de l�Indochine. La conquête 1624-85. Paris : Henri Veyrier 1983.
- NGÔ TẤT TỐ. Lều Chõng. Hà Nội : Văn Học tái bản, 1963.
- NGUYỄN SĨ GIÁC. Lê triều chiếu lịnh thiện chính. Saigon : Viện Đại Học, 1961.
- NGUYỄN KHẮC NGỮ. Việt Nam ngày xưa qua các họa ký Tây phương. Montréal : Nhóm Nghiên cứu Sử Địa, 1988.
- PHẠM ĐÌNH HỔ & NGUYỄN ÁN. Tang Thương Ngẫu Lục. Hà Nội : Văn Hoá, 1960.
- PHAN HUY CHÚ. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, Khoa Mục Chí. Hà Nội : Sử Học, 1961.
- SUSSE, Robert de la. "Les Concours littéraires en Annam", Revue Indochinoise, N°2, Fév. 1913.
- TRẦN NGỌC. Tuyển tập Văn Bia Hà Nội, I. Hà Nội : KHXH. 1978.
- TRẦN VĂN GIÁP. "Lược khảo về Khoa Cử Việt Nam", Khai Trí Tiến Đức, Số 2 và 3, Hà Nội, Janvier-Juin 1941, tr. 41-88.
- TUYẾT HUY. "Khảo cứu về sự thi ta", Nam Phong, số 5/1919 và kế tiếp.
- VŨ PHƯƠNG ĐỀ. Công dư tiệp ký. Saigon : Bộ Quốc gia Giáo dục, 1962.
* *
Công Dư Tiệp Ký I, tr. 137, chép khoảng năm Vĩnh Thọ (Lê Thần Tông, 1658-62) Nguyễn văn Phong làm Đề điệu Hải Dương "sai đào lỗ cho học trò thi Hương ngồi thi, trên chụp một cái lồng thưa", quang cảnh hơi giống với bức tranh vẽ của S. Baron (1685) chỉ khác Thí sinh của S. Baron thi Đình và không phải ngồi dưới lỗ.
Nguồn: http://chimviet.free.fr/vanhoc/chquynh/loixua1/loixua07.htm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét