Thanh Trà
LỜI TỰA
LỜI TỰA
Vương quốc Champa trải dài từ nam đèo
Ngang (tỉnh Quảng Bình) cho đến bờ bắc sông Đồng Nai (tỉnh Bình Thuận). Trong
quá trình hình thành và phát triển, văn hóa Champa đã để lại dấu ấn không chỉ ở
miền Trung, Tây Nguyên, mà còn lan tỏa sang một số quốc gia khác như Trung
Quốc, Nhật Bản, Malaysia, Campuchia, Thái Lan. Đây là nền văn minh phát triển
rực rỡ nhất Đông Nam Á trong suốt gần 18 thế kỷ.
Văn minh Champa biểu hiện phong phú
trên nhiều lĩnh vực, từ văn hóa vật chất với những đền tháp, thành quách, bia
ký, điêu khắc, các trung tâm sản xuất gốm...cho đến văn hóa tinh thần như tôn
giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, chữ viết, nghề truyền thống, nghệ thuật
biểu diễn, qui tắc ứng xử...Người Việt đã tiếp thu từ nền văn minh này nhiều di
sản quý của người Chăm như các giống lúa Chăm, chế tác vàng, hệ thống thủy lợi,
nước mắm, ghe bầu, tín ngưỡng thờ cá Ông...
Bằng tâm huyết của một người con dân
tộc Chăm, tác giả Trà Thanh Toàn, trong suốt quá trình biên soạn gần 16 năm
(1996-2012), đã dành đến 12 năm để đi đến nhiều địa phương khảo sát thực địa,
tham gia vào các hoạt động văn hóa của dân tộc mình để hoàn thành cuốn sách
này. Cùng với đó là việc tham khảo nguồn tài liệu khá phong phú trong và ngoài
nước với các tài liệu lịch sử, khảo cổ, văn hóa, tôn giáo như Minh sử, Tống hội
yếu tập cao, Thủy kinh chú, Cửu phiên chí, Cựu đường thư, Tân đường thư, Chu
phiên chí, Văn hiến thông khảo, Lương thư, Hoàng Lê nhất thống chí, Việt điện u
linh tập, An Nam kỷ yếu… cho đến các công trình của các nhà nghiên cứu lừng
danh như Coèdes, Aurousseau, Boisselier, Dharma, Finot, Garpardone, Hall,
Maspero, Parmentier, Pelliot, Stein, Taylor, Hà Văn Tấn...Tư liệu của tộc họ
Trà ở Kelantan (Malaysia) cũng được tác giả khai thác tối đa trong sách.
Cuốn sách được cấu trúc thành 4 phần:
Cội nguồn của tiến trình lịch sử Champa, Lịch sử Champa qua các triều vương,
Những di sản Champa, Nguyên nhân Vương quốc Champa suy vong. Với cách tiếp cận
lịch đại và cấu trúc, cuốn sách đã dựng lại quá trình phát triển của văn minh
Champa trong quá khứ và diễn biến của nó cho đến tận ngày nay. Đó là lịch sử
Champa được nhìn từ khảo cổ, văn tự, truyền thuyết, lễ hội, cơ cấu tổ chức quốc
gia. Các vương triều trong lịch sử Champa được tác giả trình bày một cách tường
tận, đầy đủ qua nhiều nguồn sử liệu giúp cho bạn đọc có cái nhìn đa chiều về
tiến trình lịch sử của Vương quốc Champa, là cơ sở để nắm rõ sự phát triển của
văn minh Champa. Bằng việc giới thiệu các đền tháp Champa trên dải đất miền
Trung, kiến trúc thành Vijaya, Phật viện Đồng Dương, các bảo vật quốc gia (tượng
cổ Kosa, tượng đồng Avalokitesvara), văn hóa ẩm thực...người đọc sẽ thấy những
giá trị của một nền văn minh còn bỏ ngõ với những đỉnh cao của nó trong văn
minh khu vực Đông Nam Á. Nguyên nhân suy vong của Vương quốc Champa là phần nội
dung lý thú trong cuốn sách này với những kiến giải của tác giả, từ những mâu
thuẫn nội tại trong quản lý đất nước cho đến
bối cảnh lịch sử trong khu vực, những cuộc đụng đầu giữa các thế lực
chính trị dẫn đến sự suy tàn của Champa. Tác giả đã mạnh dạn đưa ra những góc
nhìn riêng trên cơ sở các nguồn tư liệu thuyết phục để trình bày sự thật khách
quan.Tôi đánh giá cao cách làm việc của tác giả với một tinh thần nghiêm túc,
cầu thị và có dũng khí, để mọi người có ‘‘cái nhìn thực chất về bản sắc và văn
hóa của nền văn minh Champa’’.
Một vài điểm còn hạn chế trong cuốn
sách là cách trích dẫn chưa khoa học, khiến người đọc khó theo dõi, cũng như
kiểm chứng lại nguồn tài liệu. Bố cục ở một số phần sắp xếp còn chưa hợp lý,
hình ảnh minh họa chưa phong phú.
Nhưng với những nỗ lực đặc biệt của một
tác giả trẻ, sự kiên trì theo đuổi trong một thời gian dài biên soạn, tác giả đã
góp một viên gạch hữu ích trong việc tìm về một nền văn minh trong quá khứ
những vẫn còn diễn ra trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, không phải chỉ
bằng bản thể của dòng tộc, mà còn bằng công phu lao động khoa học nghiêm túc.
Tôi xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc Lược sử văn minh Champa của Trà Thanh
Toàn, một cuốn sách được biên soạn hết sức công phu, có giá trị nghiên cứu.
Nhà
nghiên cứu : Nguyễn Thanh Lợi
Thay lời cảm tạ
Tập sách nhỏ này, được chọn lọc tham khảo từ một
phần trong gia phả họ Trà của người Chăm ở huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Từ
các tư liệu của nhà nghiên cứu, nhà khảo cổ học trong và ngoài nước có uy tín.
Tôi thiết nghĩ, cuốn sách này, làm sáng tỏ thêm về văn hóa Champa trong quá khứ
đã bị mai một. Nhưng sẽ có thiếu xót, hoặc có sai lệch theo lịch sử rất nhiều,
mong mọi người đóng góp ý kiến để xây dựng và được những người quan tâm lượng
thứ.
Tôi xin thành tâm bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến tất cả các vị, cha mẹ, bác, cô, chú, anh, em cùng bạn bè và nhất là cộng đồng champa kelantan malaysia đã cung cấp dữ liệu, động viên, giúp đỡ, xây dựng, góp ý cho tôi có động lực hoàn thành tác phẩm này.
Tôi xin thành tâm bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến tất cả các vị, cha mẹ, bác, cô, chú, anh, em cùng bạn bè và nhất là cộng đồng champa kelantan malaysia đã cung cấp dữ liệu, động viên, giúp đỡ, xây dựng, góp ý cho tôi có động lực hoàn thành tác phẩm này.
Tp.HCM 12/12/2012
Thanh Trà
Mở đầu
Trong quá khứ, trên dãy đất Việt Nam này có sự tồn tại một nền văn minh:
Vương quốc Champa. Vương quốc Champa có lãnh thổ trải dài từ mũi Hoành sơn phía
bắc, nam giáp Đồng Nai, tây giáp nam Lào, đông giáp biển Đông, thuộc miền Trung
ngày nay. Hầu hết lãnh thổ trải dài theo dãy Trường sơn và biển Đông. Có những
cánh đồng nhỏ nằm dọc theo những con sông đổ ra biển. Phía tây dãy trường sơn
là những bình nguyên Tây nguyên rộng lớn. Khí hậu có hai mùa mưa và nắng rỏ
rệt. Vương quốc Champa chuyên canh cây lúa, đậu, ngô, mía… dọc theo những con
sông từ Tây nguyên đổ ra biển. Vùng Tây nguyên có những tài nguyên quí giá như:
trầm hương, mun, tre… Ngoài ra Tây nguyên Champa còn cung cấp nhiều khoáng sản
quí như: vàng, bạc, đồng, sắt. Động vật gồm: voi, tê giác, sư tử, hưu trắng…nhiều
vô kể. Vương quốc Champa hiện tại tuy nó đã được sát nhập vào nước Việt Nam, nhưng
chúng ta không thể phủ nhận sự ảnh hưởng của nền văn hóa Champa, trong quá khứ cũng
như hiện tại, đối với tổng thể văn hóa 54 dân tộc anh em Việt Nam. Nhất là văn
hóa tộc người Champa có ảnh hưởng rất lớn. Văn hóa Champa đã phát triển một nền
văn minh rực rở, bậc nhất Đông Nam Á suốt gần 18 thế kỷ. Bởi quá trình tồn tại,
định hình lịch sử và văn hóa
phát triển, có bề dày đáng kể trên bốn ngàn năm (Từ người Champa cổ Bàu Trá thời
đại đá, văn hóa Sa Huỳnh thời đại kim khí, cho đến ngày hôm nay). Vì muốn thảo thêm vài nét vẽ cho bức tranh lịch sử, văn
hóa nền văn minh Champa còn bỏ ngỏ, nên tôi một người con trong dòng tộc Champa
mạo muội đặt vấn đề cho đề tài này. Tôi không muốn phê phán hiện tại và quá
khứ, tôi chỉ muốn người và người nhìn thực chất về bản sắc và văn hóa của nền
văn minh Champa, giờ đã chôn chặc vào lòng đất khô cằn, bão lũ miền Trung đầy
nhân bản và nhân văn. Trải dài hàng ngàn năm lịch sử, thăng trầm trong vinh
quang, khổ đau, tủi hờn rồi thất bại. Thế là họ bắt đầu hình thành sự khác
biệt, dù rằng họ cùng một nguồn cội, có chung một dòng máu.
Thời gian thấm thoát trôi, đã qua rồi cái thời gánh con vượt dải Trường
Sơn, cái thời dong buồm thách thức con sóng dữ của biển cả để đi tránh cơn binh
đao. Giờ đây họ đã được yên vui sống trên mảnh đất được gọi nôm na là quê hương
thứ hai , mặc dù có những nơi họ sống trước kia từng là làng quê, đất tổ, là
đất nước của họ. Còn gì xót lại ở họ ngoài dòng máu đỏ và chút ít ngữ vựng
trong ngôn từ. Các tôn giáo lớn trong khu vực du nhập ngày càng mạnh, làm đảo
lộn trật tự xã hội Champa có từ lâu đời. Xung đột giữa ấn giáo, đạo hồi và nho
giáo lên đến đỉnh điểm. Phân biệt tôn giáo đã làm mất đi tính tự hào dân tộc,
mất đi sự đoàn kết thiết yếu để bảo vệ dân tộc Champa. Sao con người không quan
tâm đến nó để kéo lại gần sau hàng thế kỉ xa cách. Xin đừng đổ thừa tôn giáo, tính
phân biệt luôn không chấp nhận những gì hơi xa lạ đối với mình. Một cộng đồng tan
rã, bị dẫm nát qua thời gian theo dòng lịch sử đau buồn, cần lắm những bàn tay
xoa dịu để chữa lành vết thương bao năm tháng…
Từ nhỏ, nhìn chung
quanh là những tháp Chăm u sầu, lở lói với thời gian, lòng tôi luôn hiếu kì về
vương quốc Champa, hay là bản thể con cháu họ Trà Champa. Sự hiếu kì pha lẫn lảng
mạn và nuối tiếc một nền văn minh đã tàn lụi, có lẻ một phần bị ảnh hưởng từ
tập thơ “Điêu tàn” của Chế Lan Viên? Vì đây là vấn đề lớn trong khoa học, tôi
không đủ khả năng xây dựng lại diện mạo của nó, nên chỉ cố gắng phác họa vài
nét mà thôi. Tôi nghĩ rằng đề tài này sẽ góp thêm một hạt cát vào bể cát tri
thức mênh mông của loài người hiện tại trong quá trình tìm hiểu, phân tích, phác
thảo bức tranh nền văn văn minh tộc người Champa Malayo Polynésien, trong tổng
thể nền văn hóa dân tộc Việt Nam một cách khoa học và nhân văn. Đặc biệt việc
nghiên cứu giá trị của một nền văn minh bị bỏ ngỏ, mai một rất nhiều trong hệ
thống văn hóa, thì việc tìm hiểu dân tộc người Champa chính là điều cần yếu, có
ý nghĩa cấp thiết góp phần làm rõ hơn bản sắc văn hóa Việt Nam, đông nam á
Malayo Polynésien, để chúng ta có phương pháp bảo tồn, phát huy giá trị của nó trong
công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam và đông nam á ngày nay. Qui luật của
lịch sử nhân loại là sự sinh tồn và biến đổi một cách biến chuyển liên tục. Sự
sụp đổ hoàn toàn của Vương Quốc Champa vào năm 1832, cho dù bất cứ nguyên nhân
nào, cũng đều nằm trong qui luật tất yếu của lịch sử. Tuy nhiên, nếu một dân
tộc đã có một lịch sử, cho dù quốc gia đó không còn nữa, lịch sử dân tộc đó vẫn
luôn luôn còn hiện diện trong tiến trình của lịch sử nhân loại, ít ra vẫn còn
trong ký ức của dân tộc đó lưu truyền từ đời này sang đời khác và mãi mãi cho
đến tận cùng… của lịch sử nhân loại. Nếu một dân tộc đã có một lịch sử, một nền
văn minh đặc thù, đương nhiên đã có một cội nguồn. Nói đến cội nguồn là nói đến
những gì rất xa và cũng rất gần. Rất xa vì cội nguồn đã có từ chốn hồng hoang, từ
trong mịt mờ của tiền sử. Rất gần vì cội nguồn luôn luôn có trong tâm tưởng của
bất cứ ai còn biết nhớ đến tổ tiên, biết yêu thương những người cùng chung
huyết thống của chủng tộc. Nói huyết thống vì người ta có thể thay đổi tư duy, có
thể thay đổi hoàn cảnh, có thể thay đổi đức tin, nhưng không thể thay đổi được
dòng máu đồng chủng đang luân lưu chảy trong khắp châu thân của mỗi một con
người. Đề tài này chắc chắn rằng sẽ còn nhiều sai xót và không ít người không
đồng ý, vì lịch sử đã qua là “bất di, bất dịch”, trong khi sử liệu về vương
quốc Champa quá ít và đang dần chôn vùi theo thời gian. Tác
phẩm lược sử nền văn minh Champa ra đời được viết trong gần 16 năm, từ năm 1996
đến 2012 do tìm hiểu nhiều nguồn sử liệu, tài liệu khảo cổ, thực địa tập quán
văn hóa, tham khảo, khảo sát liên quan quá nhiều nghành, nhiều tôn giáo. Trong
khi sử liệu champa còn lại quá ít. Do đó cũng không cho phép ghi lại những tài
liệu trích dẫn một cách tỉ mỉ. Bù lại những trích dẫn quan trọng điều có ghi
ngay trong bài viết. Tôi mong rằng mọi độc giả khi đọc sẽ bỏ qua phần này. Nếu có gì thiếu xót
trong bài viết tôi rất mong mọi người rộng lòng tha thứ. Tôi
mong rằng nhiều người sẽ cùng đóng góp và xây dựng cho hoàn chỉnh thêm.
Đồ bàn 20/12/2012
Thanh Trà
A-CỘI NGUỒN CỦA TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ CHAMPA
1-Khái quát:
Từ trong mịt mờ của
tiền sử, khi những thành tựu tiên tiến khoa học hôm nay chưa giúp được nhân
loại vén lên bức màn tiến hóa của vũ trụ, chưa giúp nhân loại hiểu biết hết về
xuất xứ của mình, từ đâu mà ra, từ đâu mà đến. Con người thường nêu lên sự hiện
hữu của mình trên hành tinh này bằng những truyền thuyết. Mà truyền thuyết là
cái bóng của sự thật, được dân gian tưởng tượng và thêu dệt bằng những chi tiết
ly kỳ, làm cho truyền thuyết trở nên hoang đường. Do đó trong truyền thuyết có
sự hoang đường và cũng có “bóng dáng” của sự thật. Nói đến truyền thuyết của
giai thoại, của lịch sử, là nói đến bóng dáng của giai thoại, đến bóng dáng của
lịch sử. Giữa lịch sử và truyền thuyết vẫn có liên quan mật thiết với nhau như
hình với bóng, mà hình nào thì bóng đó. Ví dụ như dân tộc Champa theo chế độ
mẫu hệ từ xã hội nguyên thủy cho đến ngày nay vẫn còn. Trong khi đó theo truyền
thuyết, người mẹ xứ sở là Nữ Thần Po Nưgar.
Do đó cái hình là
chế độ mẫu hệ, còn cái bóng là Nữ Thần Po Inư Nưgar theo truyền thuyết. Ðể
trình bày câu hỏi: Ai sanh ra tổ tiên Champa và họ từ đâu đến? Thật là vấn đề
nan giải, ngoài sự hiểu biết và cách nghĩ của chính hậu duệ người Champa? Vì
tâm có hướng về cội nguồn, thì nguồn sẽ có trong tâm.
Người Champa quan
niệm do trời và đất là Thủy tổ sinh ra tổ tiên của họ. Trời (Dyaus) ở ngôi Cha,
mang dương tính. Ðất (tanưh amaik) ở ngôi Mẹ mang âm tính. Sự tác hợp giữa Trời
và Ðất là sự giao hòa khí dương và khí âm đã tạo thành vạn vật và sản sinh ra
thủy tổ dân tộc Champa. Do đó dân tộc Champa chấp nhận thuyết âm dương, sự kiện
này cũng phù hợp với biểu tượng Linga (dương tính), Yoni (âm tính) . Thần Shiva
được thờ tại các đền Tháp Champa. Đây là quan niệm chung cho các chủng tộc trên
thế giới.
Nguồn gốc tổ tiên Champa:
Từ kết quả sự khai quật của các nhà khảo cổ đã khám phá nền văn hóa Sa Huỳnh
trên phần đất Vương Quốc Champa cổ cũng đã xác định được tổ tiên Champa là cư
dân địa phương trên vùng đất này ngay từ thời tiền sử. Công trình khai quật này
được diễn tiến như sau: Từ năm 1909 Vinet một viên chức người Pháp tình cờ phát
hiện được (tại Ðức Phổ – Quảng Ngãi), tiếp theo đó từ 1923-1951 như Labarre,
Henry Parmentier và nhà Nữ Tiền Sử học tất cả là người Pháp lần lượt đến Sa
Huỳnh và những địa điểm khác nhau thuộc lãnh địa Vương Quốc Champa cổ trước đây,
từ Quảng Bình đến Đồng nai để khai quật khám phá được nhiều mộ Chum khác. Mộ
chum hay là kho chum cao chừng 0m,80 làm bằng đất nung, trong kho Chum chứa
những dụng cụ cần thiết để làm vườn, phá rẩy, chặt cây, nấu nướng như: nồi đất,
rựa v.v.. và những vật dụng khác. Sau năm 1951 vì chiến tranh Việt Nam, nên
công việc khảo cổ bị khựng lại cho đến sau năm 1975, công tác khảo cổ được tiếp
tục với người Tây Phương , cùng với các nhà khảo cổ Việt Nam trở lại Sa Huỳnh, tiếp
tục đào bới lớp đất cũ của vùng cư trú Champa cổ và đào ra nhiều kho Chum mới
dọc theo ven biển miền Trung, với những đồi cát trắng phau nối tiếp nhau trong
gió lộng của miền biển cả. Những kho Chum được đào lên chứa nhiều di tích văn
hóa Sa Huỳnh, với trình độ phát triển khác nhau, được các nhà nghiên cứu khoa
cổ học chia thành hai nhóm, vào 2 giai đoạn khác nhau: Thời kỳ Tiền Sa Huỳnh hay
là Tiền Champa: Di tích văn hóa cư ngụ sớm nhất của văn hóa tiền Sa Huỳnh là
thời đại đồ đá, đồng thau có niên đại cách ngày nay khoảng hơn năm ngàn năm.
Thời kỳ Sa Huỳnh
sắt: Ðây là thời kỳ các dụng cụ mưu sinh được làm bằng sắt như: lưỡi dao, kiếm
ngắn, dao quắm, lao, rựa thuổng, xà beng, liềm hái, đục v.v.. những đồ sắt này
là dụng cụ khai phá, chặt, tìm kế sinh nhai và có loại dùng làm vũ khí như: lao,
kiếm, dao…
Văn hóa Sa Huỳnh
sắt là văn hóa nối liền với thời kỳ tiền Sa Huỳnh (không sắt), gắn liền với
vùng đất mà cư dân đó chính là thần dân của nước champa và chính là cộng đồng
dân cư của đất Nhật Nam, nơi Khu Liên đã dấy binh lập quốc đầu tiên, với danh
xưng Lâm Ấp. Cư dân vùng Văn hóa Sa Huỳnh vào thời đó thường dùng khoan tai hai
đầu thú (hình hai đầu con dê) là biểu tượng của văn hóa Sa Huỳnh. Trên địa bàn
sinh cư của vùng văn hóa Sa Huỳnh trước đây (tức vùng miền Trung nước Việt bây
giờ) đều có nuôi nhiều đàn dê và cho đến ngày nay ta thấy các làng Champa tại
tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận có nuôi Dê, các lễ cúng giỗ, cúng Yang có dùng thịt
Dê để cúng.
Trong các di tích
văn hóa Sa Huỳnh, ngoài những kỹ thuật chế tác đồ trang sức bằng thủy tinh hai
đầu thú (Dê), những cư dân thuộc vùng Vương Quốc Cổ Champa còn sở trường về
công nghệ đồ gốm, mà các nhà khảo cổ học khai quật được trong những mộ Chum ở
dưới lòng đất miền Trung Việt Nam ngày nay, đều có hình loại làm bằng chất liệu
đất sét pha cát, hoặc pha tạp với những chất khác thường gọi là Gấu thô màu đỏ
nâu, xám đen, có khi vàng nhạt, đỏ nhạt giống như những loại đồ gốm các làng
champa ở Hựu An, Phan Lý Chăm Bình Thuận và làng Bàu Trúc, An Phước, Ninh Thuận
ngày nay. Champa đã biến mất cách đây gần 3 thế kỷ, nay chỉ còn để lại các di
tích Chăm rải rác ở các tỉnh Trung phần Việt Nam, như Trà Kiệu, Mỹ Sơn, Đồng
Dương, Khương Mỹ, Tháp Mẫm… Viện bảo tàng Champa, do nhà nghiên cứu Pháp
Parmentier thành lập năm 1919, đã thu thập các bảo vật như tượng, bệ, công
trình kiến trúc, điêu khắc của các đền, cung điện… từ nhiều nơi để tồn giữ. Nhưng
tại đây, trải qua nhiều biến cố lịch sử, các di sản đặc sắc của văn minh Champa
cũng không thoát qua nhiều sự mất mát, lưu lạc. Ngày 9 tháng 12 năm 1946, trong
những ngày đầu của chiến tranh Việt- Pháp, giữa sự hổn loạn và thiếu an ninh ở
Đà Nẵng, viện bảo tàng đã bị xâm nhập. Rất nhiều bảo vật cũng như tư liệu trong
thư viện đã bị đánh cắp. Hơn một năm sau, vào năm 1948, Trường Viễn Đông bác cổ
đã gởi ông Manukus đến để hồi phục lại viện bảo tàng. Hơn 150 bảo vật này đã
được tìm lại từ nhà dân, trại lính, phi trường và tận ở Lào (Savanakhet). Năm
1954, Viện bảo tàng là nơi trú ngụ của khoảng 300 người dân di tản chiến tranh.
Năm Mậu Thân 1968, trong trận đánh chiếm lại Huế, Viện bảo tàng này đã trở
thành trại tập trung và là nơi ăn ở của quân đội Nam Việt Nam. Giữa những sự xô
bồ, hỗn độn, va chạm và không có sự bảo vệ và bảo trì như vậy, thì sự hư hại, hay
mất mác các tượng đá, các công trình điêu khắc tất nhiên đã xảy ra. Gần đây
trong năm 1996, các nhân viên viện bảo tàng đã tình cờ tìm ra được 157 mảnh cổ
vật đã được chôn dưới lòng đất trong khuôn viên của viện bảo tàng. Champa đã
biến mất qua những cơn bão lịch sử, nhưng di sản của nền văn minh này cũng đã
chịu đựng nhiều sự cố không may mắn. Một số phận hẫm hiu của nền văn minh
Champa? Trải qua nhiều thế kỷ, các ngôi tháp Champa ở nhiều nơi bị hư hại và đổ
nát bỡi thời gian và do thiên nhiên tác động. Theo Lê Quí Đôn, Ngô Thế Lân, vào
thế kỷ 18, đã để lại bài thơ, Chà bàn cố thành hoài cổ, cho thấy tình trạng sơ
sát, bỏ hoang của các tháp, điện đài của vương quốc Champa cách đây hơn 300
năm.
Bóng tà dừng ngựa
đứng
Man mác nỗi hư vong
Lăng uyển làm chùa
Phật;
Cung đình thành
ruộng cày
Núi tàn trơ tháp
cổ;
Nước cũ hiện thành
hoang
Thần đạo nguyên vô
cứ;
Cửa tây tràn khắc
bia (bản dịch)
Không khác chi tình
trạng hiện nay của nhiều tháp cổ khắp miền trung Việt Nam. Trong cuộc chiến vừa
qua, di tích Đồng Dương hầu như bị huỷ hoại hoàn toàn do bom đạn. Một mất mát
to lớn đối với những thế hệ về sau.
Hầu như tất cả
những gì ta biết về văn minh Champa là đứng từ góc độ của người không phải dân
tộc Champa. Ngày nay, trong sách giáo khoa Đại học của giáo sư D. Hall về lịch
sử Đông Nam Á, ta có thể biết tổng quát về lịch sử đất nước Champa. Tuy vậy
phần lớn dữ kiện từ sách của Hall là dựa vào những công trình nghiên cứu tiên
phong các học giả Pháp như G. Coedes, H. Parmentier và H. Maspero ở đầu TK 20.
Nói chung về khảo
cổ và sử của các nước Champa, Campuchia và một số nước khác ở Đông Nam Á thì
chỉ vào đầu thế kỷ 20 người ta mới biết được nhiều mà thôi. Trước đó không mấy
ai biết nhiều về Campuchia có một nền văn minh Angkor rực rỡ, cả sử của Nam
Dương cũng mù tịt cho đến khi Coedes khám phá ra vương quốc Sri Vijaya ở
Sumatra, còn sử của Champa thì mù mờ, chỉ biết qua tư liệu của các nước láng
giềng như Việt Nam (Đại Việt sử ký toàn thư) hay của Trung quốc (Tống sử, Minh sử..)
đến khi Finot, Parmentier, Majumdar và Maspero khám phá ra bằng phương pháp có
hệ thống. Cả trong sử của Ấn độ, trước đây hoàng đế Ashoka chả ai biết nhiều, chỉ
nghe tên trong vài kinh điển Phật giáo, đến khi Princep khám phá ra qua bia ký
là có thật, một nhà vua hiền triết chuộng đạo Phật với một vương quốc rộng lớn.
Hiện nay nghiên cứu
về nền minh và văn hóa Champa đã được quan tâm và đã có một số công trình
nghiên cứu có giá trị được xuất bản gần đây ở Việt Nam. Đây là một dấu hiệu
đáng mừng cho sự nghiên cứu Champa học ở Việt nam. Trước đây, trong các thập
niên 1970 và sau 1975, có sự dè dặt trong sự nghiên cứu Champa học, vì ngành
này đa số là do các nhà nghiên cứu nước ngoài, chủ yếu là Pháp, khai phá và
phát triển với sự cộng tác của một số cộng tác viên Champa và Việt. Sự dè dặt
nghi kỵ của người Việt về mục đích chính trị đối với các công trình nghiên cứu
Champa học không phải là không có lý do. Vì đã có nhiều thế lực chính trị lợi
dụng để chia rẽ, hay muốn tách rời địa phận để độc lập làm khó khăn cho Việt
Nam trong những năm chiến tranh chống thực dân, giảm đi tiềm năng và bước tiến
của lịch sử. Nhưng sự dè dặt và nghi ngờ này nếu đi quá cũng có hệ quả là lãnh
vực Chăm học, “sân chơi” chỉ dành cho lực lượng người nước ngoài nghiên cứu, mà
Việt Nam thì chỉ có lưa thưa vài người.
Khi đề cấp đến sở
thích về nghiên cứu văn minh Champa thì mọi người đổi thái độ và hơi dè dặt lo
âu. Cuối thập niên 1990, tổ chức Toyota Foundation đã tài trợ cho Gs Trần Kỳ
Phương xuất bản bộ sách tổng hợp về sự hiểu biết hiện nay về văn minh Champa ở
Việt Nam, như trước đây họ đã tài trợ cho bộ sách về văn minh Đông Sơn do Gs Hà
Văn Tấn xuất bản. Không may là sự việc đã không thành.
Ngày nay Việt Nam
đã khác nhiều và tự tin hơn về đất nước mình qua sự chuyển mình về kinh tế và
tiềm năng trong tương lai. Tư duy cũng đã thay đổi từ thời chiến qua thời bình,
mặc dầu có những khó khăn trong những năm chuyển tiếp. Sự vững tin này cũng thể
hiện trong lãnh vực văn hóa, văn học và nghiên cứu trong những năm gần đây.
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã thành lập. Việt Nam ngày nay là thành viên của tổ
chức ASEAN. Cộng đồng Champa ở Việt Nam là gạch nối với các thành viên
Indonesia, Mã Lai cùng tôn giáo và liên hệ ngôn ngữ. Các nước này đã có những
chương trình hoạt động văn hóa, nghiên cứu chung với cộng đồng Champa. Sợi dây
liên hệ giữa Việt Nam và Đông Nam Á sẽ càng đan kết và thắt chặc.
Lần đầu tiên sau
nhiều năm qua đã có một hội nghị Champa học vào tháng 8/2004 ở Singapore qui tụ
một số học giả từ nhiều nước như Việt Nam, Singapore, Nhật, Anh, Mỹ, Pháp. Nhiều
báo cáo, khám phá mới có giá trị đã được thông báo: những hiểu biết về văn minh
Sa Huỳnh và Champa qua địa điểm khảo cổ Trà Kiệu, liên hệ giữa ngôn ngữ Champa
và các ngôn ngữ dân tộc ở Tây Nguyên. Một điểm đáng chú ý trong các bản báo cáo
là các tài liệu Trung quốc trước kia chưa được quan tâm đến nay đã được một số
học giả nghiên cứu: Minh sử, Tống hội yếu tập cao và Cửu Phiên Chí. “Tổng hội
yếu tập cao” có nhiều thông tin về Champa từ 960-1180 như sự liên hệ của Champa
với triều đình Tống, Chân Lạp, Srivijaya, Đại Việt (thuộc Giao Châu thời bị
Trung quốc đô hộ và sau khi độc lập năm 960) nông lâm nghiệp, thương mại hàng
hải...
Tiếp nối công trình
bỏ dỡ của Boisselier khi ông này mất, Emmanuel Guillon năm 2002 đã xuất bản tác
phẩm về nghệ thuật Champa qua những bảo vật ở viện bảo tàng Đà Nẵng. Sách có
giá trị tham khảo, tổng hợp sự hiểu biết từ trước đến nay kể cả những khám phá
các di vật khảo cổ mới thu thập được.
Ở Việt Nam, các
sách về văn hóa, văn học, nghệ thuật Champa của Ngô Văn Doanh, Trần Kỳ Phương, Pgs ts: Po Dharma, Inrasara...với những hiểu biết mới cũng đã được xuất bản. Lãnh
vực Chăm học như có luồng sinh khí mới mở đầu cho thời kỳ Phục hưng trong
nghiên cứu mà trước đây đã bị bỏ quên, ít được quan tâm trong một thời gian
dài, sau những công trình khám phá tiên phong của các học giả Pháp trong giai đoạn
nữa đầu thế kỷ 20.
-Indrapura vùng
đất từ Đèo Ngang, Hoành Sơn đến đèo Hải Vân (Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên) là vùng giao điểm của hai văn minh từ hướng Bắc và hướng Nam hải đảo.
Đây là vùng đất "đệm" của hai nền văn minh Ấn-Hoa. Di tích Champa
trong vùng này còn ở Mỹ Đức, Quảng Bình, Hà Trung, Thạch An, Bích La cũng như ở
dãi cồn ở Cửa Tùng, Cửa Việt. Di tích Tháp Champa được tìm thấy ở An Xá (Do
Linh), Cam Giang, Cam Lộ, Cổ Thành Ái Tử và Trà Liên.
Tại vùng này, người
ta cũng tìm được nhiều đồ gốm xưa của văn hoá Champa và Trung quốc từ thời
Đường, Tống, Minh.. chứng tỏ xưa kia ở đây cũng có thể là nơi có các hải cảng
thương mại sầm uất không kém cảng Hội An về sau này.
Xa hơn nữa vào thời
tiền sử, vùng này là nơi chuyển tiếp của giao lưu văn hóa Sa Huỳnh và văn minh
Đông Sơn qua Đèo Ngang. Nơi đây còn có các di tích văn hóa Sa Huỳnh ở Cồn Bàu,
đảo Cồn Cỏ, Cổ Trai ở Cửa Tùng. Đồ đồng Đông Sơn đã được tìm thấy ở Tam Mỹ, Phú
Hòa và mới đây tận mãi Bình Định, còn những khuyên tai hai đầu thú và các hạt
chuổi thuỷ tinh thuộc văn hoá Sa Huỳnh, thì tìm thấy được ở Xuân An, Làng Vạc
(Nghệ An, Hà Tĩnh). Văn hoá Sa Huỳnh được các nhà khảo cổ Việt Nam và nước
ngoài cho là có không gian chính từ Quảng Nam đến Đồng Nai.
Tháng 8, 2001 ở
Thừa Thiên, Huế, tình cờ tìm được một ngôi tháp Chăm nhỏ, đỉnh tháp đã mất,
thân tháp cao khoảng gần 2m. Theo Ngô Văn Doanh, ngôi tháp này (gọi là tháp Mỹ
Khánh) có niên đại ở thế kỷ 8. Như vậy là ngôi tháp Chăm cổ nhất hiện còn thuộc
phong cách Mỹ Sơn E1.
Trong chiến tranh
chống Mông cổ dưới đời vua Trần Nhân Tông, liên minh Champa-Việt đã thành công
đẩy lui hiểm họa xâm lăng từ phương bắc qua đường bộ và thủy. Từ sự liên kết
này qua chính sách chiến lược sáng suốt của vua Trần Nhân Tông, mà Jaya Simha varman
III (Chế Mân) cũng đã đồng ý theo lời đề nghị của thượng hoàng Nhân Tông, trong
dịp ông rời nơi tu dưỡng ở núi Yên Tử đi viếng Champa, để lấy công chúa Trần
Huyền Trân, em gái của vua Trần Anh Tông.
Trong hôn nhân
Champa-Việt này, lãnh thổ Champa là châu Ô và châu Rí (Quảng Trị và Thừa Thiên)
đã được nhượng tặng cho Đại Việt. Trong thời trị vì của vua Chế Mân, quyền lực
Champa rất mạnh trãi rộng đến tận Tây Nguyên nam phần. Tháp Yang Prong ở Tây
Nguyên và tháp Jaya Simhalingesvara (tháp Pô Klaung Garai) nổi tiếng ở Phan
Rang là do chính Chế Mân xây dựng. Tuy nhiên sau khi Nhân Tông và Jaya Simha varman
mất, vua Anh Tông hoàn toàn thay đổi chánh sách. Chiến tranh Champa- Việt trở
lại khốc liệt hơn khi Champa đòi lại vùng đất đã nhượng.
Theo Minh sử, một
trong những lý do nhà Minh đã gởi tướng Trương Phụ xâm lăng Đại Việt là Đại
Việt đã nhiều lần xâm phạm lãnh thổ Champa. Sứ giả Champa lúc này đã dùng chiến
thuật ngoại giao rất có tác dụng. Họ đã báo cáo thường xuyên rất nhiều lần và
nhờ nhà Minh trợ giúp quân sự hay mua võ khí để đánh trả Đại Việt. Nhưng cũng chính
sự chiếm đóng đô hộ Đại Việt của nhà Minh, trong một thời gian đã đưa đến các
nguyên nhân dẫn đến sự suy tàn của vương quốc Champa, sau khi Đại Việt dành lại
được độc lập. Theo Wade thì có 2 nguyên nhân chính: Sự chiếm đóng và quản lý
của nhà Minh ở Đại Việt và các quận ở Indrapura đã mở rộng phạm vi Đại Việt, khi
quân Minh rút đi Sự chuyển giao kỷ thuật quân sự (súng ống) của nhà Minh vào
Đại Việt. Ðến thời Lê Thánh Tông, vương quốc Champa hoàn toàn bị mất thế trong
tương quan lực lượng quân sự. Champa bắt đầu tàn lụi sau khi thủ phủ Vijaya bị
tàn phá với dân số một phần bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh mang về Đại
Việt.
Theo Shiro Momoki,
qua các tư liệu như “Tống hội yếu tập cao”, “Chư Phiên Chí” thì Champa vào thế
kỷ 10 đến 11 vẫn còn các cơ cấu xã hội, chính quyền ở phía bắc đèo Hải Vân. Như
vậy quan điểm cho rằng người Việt liên tục mở rộng xuống phía Nam từ thế kỷ 10
là không đúng. Ngay cả ở thế kỷ 14, Champa không suy tàn như ta nghĩ, mà vẫn
phát triển hoạt động thương mại với Trung Quốc và các nước trong vùng. Vải
bông, đồ gốm Chăm xuất khẩu đến các nước Đông Nam Á hải đảo. Cửa Thị Nại là
cảng quan trọng ở biển Nam mà Kublai Khan coi là cảng tiếp nối từ cảng Quảng
Châu đến cảng Qui lam ở nam Ấn Độ. Như vậy sự nam tiến của Đại Việt sau 1390 chỉ
có thể được coi như là một chiến thắng len lỏi từ sau lưng.
-Amaravati
Từ đèo Hải Vân
(Quảng Nam) xuống phía nam đến giáp Bình Định là vùng trọng điểm của văn minh
Champa với các di tích lớn như Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Khương Mỹ, Chiên
Đàn. Nơi đây ở Đồng Dương đã tìm thấy tượng phật đồng rất đẹp đầy mỹ thuật
(hiện còn tàng trữ ở viện bảo tàng Thành phố SG). Đặc biệt các tượng điêu khắc,
kiến trúc ở đền Đồng Dương chịu ảnh hưởng của Phật giáo đại thừa. Trong tất cả
các di tich Chăm, nghệ thuật Chăm Đồng Dương là độc đáo sáng tạo và là nơi duy
nhất có chịu ảnh hưởng tư tưởng từ Trung quốc phương bắc. Di tích Đồng Dương
hầu như đã bị huỷ diệt hoàn toàn trong cuộc chiến tranh vừa qua. Trà Kiệu hay
Simhapura (Thành phố sư tử, từ chữ Simha, Singha nghĩa là sư tử và pura là
thành phố) là kinh đô xưa nhất của Champa ở Amaravati. Trước cả 2 thành phố
"sư tử" khác ở Đông Nam Á là Singapore (Lion City, từ Singha và pura)
và Singburi (Singha và buri (thành phố), gần Ayuthaya, Thái Lan. Xưa kia sư tử
còn hiện diện ở Cận Đông và Bắc Ấn (các vua người Assyria thường đi săn bắn sư
tử như trên các bia khắc đền đã mô tả), sau này sư tử Á châu tuyệt chủng chỉ
còn lại sư tử ở Phi Châu. Theo Ngô Văn Doanh thì từ Trà Kiệu hiện nay là biến
âm từ chữ Chăm cổ ya – sông, nước và chữ Phạn: keo - ngọc, mà người Việt gọi là
thành Sông Ngọc để chỉ thành phố Simhapura. Mariko Yamagata, Ian Glover, Nguyễn
Kim Dung của nhóm nghiên cứu Việt- Anh- Nhật khai quật ở Trà Kiệu (1997-2000)
và ở Gò Cam (2000) gần sông Thu Bồn, cách thành cổ Trà Kiệu 3.5km về phía Đông.
Tại đây đã tìm thấy các hủ đất giống các hiện vật ở Trà Kiệu, các đồ gốm, đồng,
dấu ấn thời Hán, di tích nhà gổ cổ nhất. Dưới tầng khai quật trên là các di vật
thuộc văn hóa Sa Huỳnh, cho thấy có sự liên tục và người Chăm là hậu duệ của
người Sa Huỳnh. Địa điểm Gò Cam gần ba di tích mộ chôn Sa Huỳnh: Gò Miếu Ông,
Gò Mã Voi, Gò Vàng. Ông Yamagata cho rằng Trà Kiệu và Gò Cam xuất hiện sau sự
suy tàn của văn hóa Sa Huỳnh. Tầng cuối nhất của địa điểm khảo cổ Hoàn Châu
(Trà Kiệu) và Gò Cam được thẩm dịnh ở nửa đầu thế kỷ 2.
Mỹ Sơn là di tích
Champa lớn nhất, nằm trong thung lũng, dọc theo một con suối. Nơi đây có nhiều
đền, tháp, bia ký được nhiều triều đại trong lịch sử Champa xây dựng. Nhờ bia
ký tìm được mà người ta biết được là người sáng lập ra Mỹ Sơn vào thế kỷ thứ 4
là vua Bhadra varman I . Dù thủ đô có dời hay ở nơi nào khác do thời cuộc, các
vua chúa Champa vẫn hướng về Mỹ Sơn để tưởng nhớ và xây đền thờ. Thánh địa Mỹ
Sơn vì thế có nhiều kiến trúc khác nhau theo các phong thái riêng của mỗi thời…
Phần lớn những công trình kiến trúc hiện còn ở Mỹ Sơn được xây dựng vào thế kỷ
thứ 10 có chung một phong cách kiến trúc được các nhà nghiên cứu gọi chung là
phong cách Mỹ Sơn A1. Trước phong cách Mỹ Sơn A1 là các nhóm tháp thuộc thế kỷ
8 đến 9. Qua lịch trình phát triển kiến trúc Champa thì trong 2 thế kỷ 8 và 9, có
ba phong cách khác nhau phong cách Mỹ
Sơn E1, phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương.
Trong cuộc chiến
tranh Việt- Mỹ vừa qua, đền Mỹ Sơn A1 và vài di tích lân cận đã bị phá huỷ khi
trúng bom máy bay Mỹ trong một phi vụ oanh kích. Vào năm 1988, trong một công
trình thủy lợi, người ta tình cờ khám phá ra di tích tháp An Mỹ, Tam Kỳ với
nhiều điêu khắc đá như bộ linga- yoni, trang trí kiến trúc (đỉnh, cột tháp),
mảnh vở của tấm bia… Niên đại được thẩm định vào đầu thế kỷ 10, thuộc phong
cách chuyển tiếp từ Đồng Dương đến Mỹ Sơn A1.
Vào năm 1997, tỉnh
Quảng Nam và chính phủ Việt Nam đã đề nghị và xin Liên Hiệp Quốc đưa Trà Kiệu,
Mỹ Sơn và Đồng Dương lên danh sách những di sản của thế giới (World Heritage
list) để bảo tồn. Đây là những di tích văn hóa xưa nhất ở Trung Việt Nam, lâu
hơn Huế 12 thế kỷ. Hiện nay quần thể Mỹ Sơn được công nhận là một di sản văn
hoá thế giới.
Đồng Dương (Indrapura)
một thời là kinh đô Champa dưới triều đại Indrapura. Triều đại Indrapura, do
vua Indra varman II sáng lập, bắt đầu từ năm 875. Các đền tháp phong cách Mỹ
Sơn A1 đều được xây dựng dưới triều đại Indrapura. Sau hơn một thế kỷ phát
triển, kinh thành Indrapura bị tiêu hủy trong trận chiến với vua Lê Đại Hành
vào năm 982. Năm 1000, vua Champa Hari varman II rời hẳn thủ đô về Vijaya ở
phía Nam.
Một số người Champa
cũng đã di cư qua đảo Hải Nam (và hiện nay họ vẫn còn) sau cuộc chinh phạt của
Lê Hoàn vào Amaravati. Một tướng của Lê Hoàn là Lưu Kỳ Tông, phản lại nhà Lê,
tự xưng vương ở Amaravati (986-988) đã cai trị hà khắc, huỷ diệt đền đài và nhiều
bia ký ở Mỹ Sơn, nên một số người Champa đã chạy đến đảo Hải Nam (Trung Quốc). Theo
sử gia Maspero vì bị mất nhiều bia ký (tk 8-10), nên trong giai đoạn này lịch
sử Champa không được biết nhiều.
-Vijaya
Mặc dầu Indrapura
và Amaravati vẫn là lãnh thổ Champa khi dời đô về Vijaya vào năm 1000, Indrapura
và Amaravati đã trở thành các tỉnh ngoại vi, không còn chiếm vị trí quan trọng
về kinh tế, chính trị của Champa. Năm 1286, đất Indrapura phía bắc đèo Hải Vân
nhượng cho Đại Việt khi vua vua Champa cưới công chúa Huyền Trân. Vua Champa
Chế Bồng Nga lấy lại được trong chiến tranh với Đại Việt. Năm 1390, khi Chế
Bồng Nga mất, Indrapura mất hẳn, sau đó không lâu Amaravati cũng rơi vào tay
Đại Việt.
Sau khi bị mất
Indrapura và Amaravati vào tay Đại Việt thì vùng đất từ Bình Định đến Phú Yên
là nơi dân tộc Champa rút về tập trung ra sức chống chỏi lại cuộc nam tiến của
Đại Việt. Khi dân Việt đi vào định cư, thì người Champa có đặc tính và khuynh
hướng là không bám trụ ở lại. Đa số họ dời đi chổ khác xuống phía Nam, chứ
không ở lại với người Việt. Có thể đây vì hai văn hóa có sự khác biệt nhiều.
Tập trung quanh khu
vực kinh đô mới Trà bàn (Vijaya), họ cũng cố gắng lấy lại một cách vô vọng những
vùng đất phía bắc đã bị mất. Nhưng đến năm 1471, kinh đô Trà bàn cũng đã bị
thất thủ và tàn phá khi vua Lê Thánh Tông đem quân chiếm đồ bàn. Đây là cuộc
tàn sát đẫm máu nhất của đại việt với champa, hơn 60000 người bị giết, 30000 bị
bắt về thăng long, vua champa Trà toàn bị bắt và đã bị sát hại ngày 12 tháng 4
âm lịch (1471) trên đường giải về thăng long. Lê Thánh Tông đã dùng chính sách
phá hủy văn hóa, để tiêu diệt dân tộc và năng lực tinh thần nước Champa: đền
đài, cung điện, tháp, bia ký, tư liệu phản ảnh đặc trưng của văn hoá Champa đều
bị phá hủy, quân dân và nghệ nhân bị tàn sát hay bị bắt đi. Mất Vijaya coi như
vận mệnh của Champa đã tàn. Đối với Đại Việt thì Lê Thánh Tông là vị vua thành
công nhất dưới triều Lê trong lãnh vực văn hóa, kỷ cương xã hội dựa vào nho
học. Lê Thánh Tông là đại diện tiêu biểu cho văn minh Trung quốc phương bắc đối
chọi với văn minh Đông Nam Á. Cốt lỏi văn minh bản địa Đông Nam Á của Đại Việt
đã bị đè nén và dần dần bị tan lỏn dưới lớp văn hóa Hán nho. Trong cuộc “xung
đột văn minh” sống còn này, văn minh Champa Đông Nam Á đã phải lùi một bước dài
quyết định trước bước tiến của văn minh nho học Trung quốc.
Không những bị áp
lực từ Đại Việt ở phương Bắc, mà Champa còn đối diện với vương quốc Khmer ở
phía Nam. Vào thế kỷ 12, quyền lực Khmer ở Angkor lan rộng và ảnh hưởng đến
Champa, gây ra các cuộc xung đột giữa Angkor và Vijaya. Từ thế kỷ 12 đến 15,
Champa đã chịu hai sức ép từ Đại Việt và Angkor. Đó cũng là nguyên nhân dẩn tới
sự suy vong của Champa. Sau khi Champa đánh chiếm và tàn phá Angkor năm 1177,
vua Khmer Jaya varman VII đã giải phóng thủ đô Angkor năm 1181, tiến đánh chiếm
Vijaya và Champa. Từ năm 1203, Champa trở thành một tỉnh của Khmer cho đến năm
1220 thì Champa dành được lại độc lập, sau cuộc thảm bại của liên quân Khmer,
Xiêm, Pagan đánh vào Đại Việt, dưới triều vua Sri Jaya Paramesvara varman II mà
bia ký đá ở Chợ Dinh (Phan Rang) cho thấy. Cũng không lạ gì mà rất nhiều kiến
trúc, điêu khắc đền tháp ở Vijaya chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer. Hiện nay
thành Vijaya (Trà Bàn) không còn, chỉ còn chút vết tích tường thành để lại. Chính
giữa thành, trên một gò nhỏ còn trơ lại duy nhất tháp Cánh Tiên (tháp Đồng).
Ngoài ra có hai con voi đá và hai con sư tử đá rất lớn gần lăng Võ Tánh. Điêu
khắc và mô típ của tượng voi và sư tử đá cho thấy chúng thuộc giống các tượng
điêu khắc ở tháp Dương Long. Các công trình kiến trúc khác còn lại hiện nay ở
vùng Vijaya là các tháp Bánh Ít, Bình Lâm, Thủ Thiện, Phú Lộc, tháp Nhạn. Phong
cách kiến trúc này được gọi là phong cách Bình Định hay phong cách Chánh Lộ.
Phong cách Bình Định có niên đại vào khoảng cuối thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 11.
Tháp Bình Lâm là tháp duy nhất ở đồng bằng thay vì như các tháp khác ở trên
đồi. Tháp Bình Lâm gần một thành cổ. Thành này đã bị đổ nát, không còn dấu tích
nữa. Nơi đây chính là vị trí cảng Thị Nại, mà quân Đại Việt và quân Nguyên Mông
Cổ lúc đi đánh Champa đã đổ bộ trước khi tiến về Vijaya theo đường bộ từ cảng.
-Kauthura Vùng đất
này hiện nay thuộc địa phận tỉnh Khánh Hòa. Kauthura nổi bật vào thời kỳ sau
Lâm Ấp mà sử Trung quốc gọi là nước Hoàn Vương. Sử Trung quốc không còn đề cập
đến Lâm Ấp sau đó nữa. Quyền lực của Champa chuyển từ phía bắc xuống Kauthara ở
phía nam. Vì thế thời Hoàn Vương, Champa có nhiều liên hệ và ảnh hưởng với Chân
Lạp và Java. Tính chất thờ thần Visnu và theo Phật giáo trội hơn theo đạo thần
Siva. Thời Hoàn Vương, Champa chịu nhiều đợt tấn công từ Java như bia ký ở đền
Po Nagar cho thấy giặc Java đến cướp tượng thần và phá đền. Vua Satya varman đã
cho dựng lạ vào năm 784 tượng Yan Pu Nagara (nữ thần mẹ đất nước). Đây là bằng
chứng đầu tiên và cổ nhất về tục thờ nữ thần mẹ xứ sở Po Nagar của Champa. Theo
bia ký thì thủ đô của Champa thời Hoàn Vương là Virapura. Vị trí của Virapura
chưa được xác định, nhưng chắc là ở vùng Kauthura hay Panduranga.
Vào thời Hoàn Vương
(758-859), các kiến trúc Champa được xây dựng theo phong cách Hòa Lai (từ tên
tháp Hòa Lai ở đông bắc Phan Rang). Phong cách kiến trúc rất gần với phong cách
Chân lạp và Indonesia. Ở Po Nagar, gần Nha Trang có nhiều bia ký, kể cả hai bia
của vị vua cuối cùng thời Hoàn Vương Vikranta varman III.
-Panduranga (Phan
Rang)
Đây là vùng cứ địa
cuối cùng còn sót lại của vương quốc Champa. Năm 1692, khi vua Po Saut định
chiếm lại lãnh thổ Chăm Kauthura bị mất trước đây, chúa Nguyễn đã gởi quân đánh
chặn và bắt được Po Saut. Chiếm được Panduranga, chúa Nguyễn đổi tên Champa
Panduranga thành trấn Bình Thuận và xác nhập vào lãnh thổ đàng trong. Lãnh thổ
cuối cùng của một nước Champa độc lập coi như bị mất và chính thức không còn
hiện diện nữa. Tuy vậy vào năm 1693, dân Panduranga đã nổi dậy. Thấy khó lòng
dẹp được cuộc nổi loạn này, chúa Nguyễn buộc phải bãi bỏ Bình Thuận và trả lại
Panduranga cho vua Po Saktiraydaputih (em của vua Po Saut) với điều kiện là mổi
năm Champa Pandugara triều cống.
Trong gần suốt thế
kỷ 18, Panduranga nằm giữa vùng tranh chấp của Tây Sơn và chúa Nguyễn. Năm
1802, khi Nguyễn Ánh Gia Long thắng được Tây Sơn, vùng Panduranga được Gia Long
cho thiết lập là vùng tự trị, cai quản bởi Po Sau Nun Can, một bạn đồng hành
thân thiết của Gia Long trong thời kỳ chinh chiến với Tây Sơn. Suốt dưới triều
Gia Long, Panduranga được tự trị như một tiểu quốc dưới sự bảo hộ của vua Gia
Long và tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt. Khi Gia Long mất năm 1820, Minh
Mạng lên ngôi với chính sách trung ương tập quyền và tư tưởng dựa theo mô hình
Thanh triều ở Trung quốc. Panduranga trở thành con chốt trong sự tranh chấp
quyền lực giữa Minh Mạng và Lê Văn Duyệt. Năm 1828 khi vua Panduranga mất, Minh
Mạng tấn phong một viên chức Champa thân với Minh Mạng lên thay thế, nhưng Lê
Văn Duyệt đã thay viên chức này với người con của Po Sau Nun Can. Vị này thân
với Lê Văn Duyệt chịu qui thuận, trả thuế và triều cống Gia Định thành. Kể từ
năm 1828, số phận Panduranga vì thế gắn liền với Lê Văn Duyệt.
Khi Lê Văn Duyệt
mất (1832), Minh Mạng đã ra tay trừng phạt không những các lãnh đạo, chức sắc ở
Gia Định thành và vị vua Champa đã cả gan triều cống tổng trấn Gia Định thành
mà tất cả dân ở Gia Định thành và Panduranga cũng bị vạ lây qua sự trả thù của
Minh Mạng: ruộng bị tịch thu và dân bị bắt xung vào lao công. Sự hà khắc đối sử
tàn nhẩn của Minh Mạng với dân ở Gia Định thành và Panduranga mà trước đây đã
trung thành và giúp đỡ Gia Long trong cuộc chiến với Tây Sơn, đã gây ra làn
sóng bất bình, phẩn nộ nổi dậy khắp miền Nam. Lê Văn Khôi đã tập trung nhiều
thành phần trong xã hội, nhiều sắc tộc (Hoa kiều ở Gia Định, Chăm ở Panduranga)
nổi lên chống lại Minh Mạng. Ở Panduranga, cuộc nổi dậy được lãnh đạo bởi Katip
Sumat, một người Champa theo đạo Hồi. Cuối năm 1833, cuộc nổi dậy của Lê Văn
Khôi và Sumat không thành công. Minh Mạng đã xử tội dân Gia Định và Panduranga
tàn khốc hơn.
Sau khi cuộc khởi
nghĩa của Lê Văn Khôi bị dập tắt, vua Minh Mạng đã bãi bỏ tiểu quốc Panduranga,
xác nhập vào tỉnh Bình Thuận. Đầu năm 1834, Thak Va lãnh đạo dân Panduranga nổi
lên lần cuối cố lập lại vương quốc Champa nhưng chỉ trong vòng một năm, giấc
mộng cuối cùng của Champa đã bị dập tắt. Lê Thánh Tông ở thế kỷ 15 khởi đầu cho
sự suy vong của Champa. Đến đời Minh Mạng ở thế kỷ 19, vị vua nho học theo mô
hình văn minh Hán Trung quốc này đã khai tử vương quốc Champa của văn minh Đông
Nam Á.
Khác với những vùng
khác, Panduranga hiện vẫn còn cộng đồng người Champa sinh sống, đa số tập trung
ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Vì thế nhiều tháp trong vùng (như Po Rome, Po
Klaung Garai) vẫn còn được dùng để thờ cúng và trong các dịp lễ hội, chứ không
bị bỏ hoang như ở các đền tháp ở Amaravati, Vijaya và Kauthura. Tháp Pô Klaung
Garai nổi tiếng ở Phan Rang là do Chế Mân (Jaya Simha varman III) xây lên để
thờ cá nhân mình vào thế kỷ 14. Đền này trước đây còn có tên là Jaya
Simhalingesvara. Tháp vẫn còn được người Việt và Champa dùng để thờ cúng. Trên
các trụ cửa của tháp chính, có các ký tự kể lại việc vua Jaya Simha varman III
dâng đất và nô lệ cho thần Jaya Simhalingesvara.
Tóm lại, đất Việt Thường
xưa kia có các bộ lạc thuộc chủng Mon-Khmer như Vân Kiều, Bru, Pa kô, Tà Ôi hay
có thể Mường và Austronesian cư ngụ trong cùng một không gian. Sau đó đến thế
kỷ thứ 2 thì thành phần Austronesian từ bờ biển đến. Thành phần này đã bị Ấn
hóa, có thể từ Funan hoặc các vương quốc Ấn hóa trong vùng Đông Nam Á. Chủng
Champa Austronesian này văn hóa cao hơn đã đẩy những những dân tộc khác vào
trong nội địa. Sau này ta cũng biết là sau đó người Champa đã cố gắng chinh
phục các dân tộc vùng Tây Nguyên mà dấu vết Champa trên Tây nguyên hiện nay vẫn
còn. Đến thế kỷ 3 và 4 thì đất Việt-Thường, hay Tượng Lâm, Lâm Ấp hoặc
Amaravati đã là của người Chăm Indonesian. Sách Hán "Thuỷ kinh chú"
ghi tên gọi của nước Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chử "Tượng"
chỉ gọi là Lâm Ấp.
Thực sự nói Lâm Ấp,
Hoàn vương hay Champa là một quốc gia hay nước thì cũng không đúng lắm theo sự
định nghĩa của ngày nay. Từ dùng đúng hơn là mandala, từ ngữ mà nhà nghiên cứu
O. Wolters đã đề nghị cho thể chế Champa trong giai đoạn này. "Mandala"
một loại liên hiệp các "tiểu quốc". Người Champa có hai bộ tộc lớn:
bộ tộc Cau và bộ tộc Dừa. Dòng Cau (kramuk vansh) trị vì miền Bắc gồm Indrapura
(Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng nam, Quảng Ngãi) và Vijaya (Bình Định, Phú
Yên). Dòng Dừa trị vì miền Nam gồm Kauthura (Khánh Hoà), Panduranga (Bình
Thuận). Dòng Cau là dòng (cha) và dòng Dừa là (mẹ). Vương quốc Champa là tên mà
người Champa đặt cho đất nước và dân tộc của họ là tập hợp của hai tiểu quốc
trên.
Khi dòng tộc Cau bị Đại Việt đẩy lùi và tiêu diệt mà nơi trấn thủ cuối cùng
là Vijaya (Đồ Bàn, Bình Định) thì họ đã chạy về tiểu quốc dòng Dừa mẹ ở phía
nam. Coi như thành luỹ của dòng cha đã tan vào thế kỷ 15. Vận Champa tàn sau
12tk tranh đấu trên vùng giao thoa Ấn - Hoa. (Ở Âu châu có một vùng tương tự,
đó là vùng Balkans nơi nền văn minh Ki-tô Châu Âu (Công giáo & Chính thống
giáo) Hồi giáo Trung Đông giao thoa : vùng "đệm" của 2 văn minh Âu-Á)
Nhiều nhà nghiên cứu cổ học đã cho rằng: khi Khu Liên dựng nước Lâm Ấp
(Tiền thân của Champa) ở cuối thế kỷ thứ II (theo sử cũ của Trung Hoa và bia ký
Granit tại làng Võ cạnh Nha Trang) chỉ là sự là sự tiếp nối thực trạng văn hóa
Sa Huỳnh Tiền Champa. Từ những năm đầu công nguyên, vùng đất thuộc thừa thiên
huế ngày nay là một phần của quận nhật nam. Cùng một số phận như cư dân của hai
quận giao chỉ và cửu chân, thời triệu đà trước đây, cư dân bản địa quận nhật
nam đã sát cánh cùng nhân dân giao chỉ hưởng ứng cuộc khởi nghĩa hai bà trưng,
giữ quyền cai quản của mình. Hòa đồng cùng cộng đồng người việt phía bắc, cư
dân cổ vùng nhật nam đã nhiều lần khởi nghĩa chống lại ách bắc thuộc phương
bắc, giữ vững nền văn hóa dân tộc. Sau khi lâm ấp thành lập vương quốc Champa
vào cuối thế kỷ 2 sau công nguyên (192), với các trận chiến mang tính quyết
định với phương bắc nhà hán vào các năm 248, 270-280, 347-348, nước champa đã
lan rộng ra phía bắc đến vùng ba đồn sông gianh ngày nay. Vương quốc Champa từ
khi lập quốc đến nửa đầu tk lV, trong vòng 150 năm, từ khi nhà đông hán suy
yếu, nhà ngô và nhà tấn điều phải giải quyết công việc nội bộ giao chỉ. Vương
Quốc Champa có điều kiện củng cố và mở rộng đất nước. Hình thành một vương quốc
độc lập, ra đời sớm nhất của đông nam á, mang sắc thái bản địa và ảnh hưởng nền
văn hóa ân độ. Từ cuối thế kỉ thứ 7, khu vực từ đèo ngang đến bên kia đèo hải
vân đã xảy ra chiến tranh liên miên giữa vương quốc Champa với các triều đại
phong kiến phương bắc: đại tống, nhà tùy...Trong cuộc viễn chinh năm 605 của
nhà tùy, vua champa đã áp dụng chính sách hòa hoản, đồng thời cùng thời gian
này, nhà tùy suy yếu. Năm 618, nhà đường thay nhà tùy, tình hình Champa yên ổn
và phát triển. Từ giữa tk7 đến tk10, trong hơn 350 năm ổn định, ngoại trừ các
cuộc chiến tranh nhỏ với giao châu và bọn cướp biển, vương quốc Champa là một
quốc gia yên ổn và phát triển bật nhất của đông nam á.
Qua những dữ kiện trình bày sơ lược nêu trên đã giúp chúng ta có một cái
nhìn tổng quát về tiến trình cội nguồn dân tộc Champa trong suốt chiều dài lịch
sử thời: Tiền Sa Huỳnh chưa lập quốc, đến thời đoạn Sa Huỳnh sắt (Lâm Ấp) đến Champa;
giai đoạn suy vong sau cùng là dân tộc champa trong cộng đồng Quốc gia Việt Nam
ngày nay. Qua các di tích văn hóa Sa Huỳnh thời tiền Champa tức là giai đoạn Sơ
kỳ Ðồng Thau cách đây bốn ngàn năm, như các nhà khảo cổ học tuyên bố ,cùng với
nghiên cứu xác đáng của Bác Sĩ Stephen Oppenheimer, tác giả quyển sách “Ðịa
đàng ở Ðông Phương” cho chúng ta hiểu biết rằng: Tổ tiên Champa là “Cư Dân Bản
Ðịa” tại vùng đất, quê hương và Vương quốc cổ của họ ngay từ thời tiền sử, chứ
không phải là dân di cư từ các vùng khác đến.
2-Lịch sử champa theo truyền thuyết, ngôn ngữ học và sử liệu
-Theo truyền thuyết: Trong dân gian Champa rằng: từ trong chốn hồng hoang,
dân tộc Champa sống rải rác thành nhiều nhóm khác nhau trong cảnh sống tiêu sơ
mộc mạc của thời Cổ Ðại. Trên thượng giới có một thần Nữ tuyệt thế giai nhân,
có nhiều quyền năng biến hóa đã giáng thế xuống vùng đất dân tộc Champa sinh
sống tại núi “Trầm Hương” người Champa gọi là “Chơk Ghlâu”
tức núi Ðại An Nha Trang tỉnh Khánh Hòa ngày nay. Nữ Thiên Thần này là Pô Inư
Nưgar – Tuy là Nữ Thần linh hiển và tài giởi phi phàm nhưng khi giáng trần, Pô
Inư Nưgar vẫn hành sử quyền năng theo phương cách thế tục. Là người Champa sinh
ra và lớn lên trong lòng dân tộc đã nghe mẹ ru bằng câu ca dao Champa từ lúc
nằm nôi và trầm mình trong môi trường văn hóa dân tộc, trong tín ngưỡng dân
gian champa, được nghe những câu chuyện “bất thành văn” nhưng truyền khẩu từ đời
này sang đời khác về việc dựng nước và giữ nước của người xưa v.v...có lẽ dân
tộc Champa trân trọng nhất là nhân vật truyền thuyết Pô Inư Nưgar một bậc “hiền
mẫu” của dân tộc Champa.
Bà ngao du sơn
thủy, quan sát toàn vùng dân cư Champa sinh sống. Bà chứng kiến tận mắt cảnh
đời kham khổ lầm than của vạn lớp dân Champa, Bà liền gom dân lại thành làng
xóm, tổ chức gia đình xã hội theo chế độ mẫu hệ, xây dựng non sông gấm vóc cho
dân tộc Champa. Bà dạy quần chúng về cách thức trồng lúa, lập hệ thống đê điền
tưới tiêu; hướng dẫn cư dân vùng biển đóng ghe đan lưới để hành nghề dánh cá và
hòa mình vào biển cả. Dạy dân chúng biết xây dựng nhà cửa, chỉ dạy dùng dược
thảo để chữa bệnh và phương cách cúng bái thần linh. Vừa khai hóa dân tộc, xây
dựng xã hội, vừa xây dựng một quốc gia nông nghiệp đơn thuần và sơ khai với một
xã hội ấm êm, thanh bình cho dân tộc. Vì Bà có công tạo dựng non sông gấm vóc
Champa, cai quản dân lành với tất cả tình thương của một người mẹ đối với con
cái, nên trong truyền thuyết dân gian Champa tôn xưng Pô Inư Nưgar là “Thần mẹ
của xứ sở” chứ không tôn xưng Bà là vua Champa. Pô Inư Nưgar có công khai hóa
dân tộc và tạo dựng ra non sông gấm vóc Champa, nên vào thế kỷ thứ IX Vua
Harivarruan I đã xây đền tháp và tạc tượng để thờ Bà, đó là Tháp Pô Inư Nưgar,
người Việt gọi là Tháp Thần Nữ Thiên Y Ana tọa lạc trên ngọn đồi gần xóm Bóng
và biển Nha Trang. Cũng trên đồi này trước đây hồi thế kỷ thứ 7 và thứ 8 có xây
02 cụm Tháp nữa và trong cụm Tháp này có một pho tượng bằng vàng. Năm 774, quân
binh Mã Lai quấy nhiễu vùng Kâuthara (Nha Trang) phá hủy ngọn Tháp và cướp đi
Tượng vàng quí giá này. Mười năm sau tức vào năm 784 ngôi Tháp bị phá hủy mới
được xây lại với pho tượng bằng đá chung quanh các tầng Tháp, ở mỗi gốc tường
của Tháp có hình vũ nữ Apsara và bò Thần Nandin. Những người dân sống chung
quanh đồi Tháp rất tin vào sự linh hiển của Nữ Thần Pô Inư Nưgar và thường hay
đến cúng bái mỗi khi họ muốn cầu xin những phước lành nào đó về việc làm ăn
sinh sống kể cả bệnh tật ốm đau. Ngoài quần thể Tháp Pô Inư Nưgar (Tháp Bà) Nha
Trang, tại một số địa phương khác cũng lập những miếu thờ Nữ Thần như các thôn
Hữu Ðức ở Huyện Ninh Phước, Thôn Bình Nghĩa thuộc Huyện Ninh Hải tỉnh Ninh
Thuận. Tại Bình Thuận có Thôn Lạc Trị thuộc Huyện Tuy Phong, thôn Quản Mía
thuộc huyện Bắc Bình; ngoài ra người ta còn thấy một số chùa người Hoa Kiều tại
các địa phương thuộc hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận có thờ Thần Nữ Thiên Y A
Na tức Pô Inư Nưgar Champa. Ðối với truyền thuyết về tổ tiên Champa do đâu mà
ra, cũng như truyền thuyết về ai có công khai hóa dân tộc và khai sáng ra đất
nước Champa tuy không phải là câu chuyện hoàn toàn có thật, không có chứng cứ
khoa học làm nền tảng, nhưng nó là bóng dáng của trình tự lịch sử dân tộc
Champa, là chất xúc tác làm cho mọi người đồng chủng quây quần về nguồn cội tổ
tiên, nó đem lại sự hợp nhất giữa tiền nhân và muôn ngàn thế hệ cùng màu da thớ
thịt nối tiếp, nó đem lại tính tự hào dân tộc làm cho con cháu quay về một mối. Theo sử Trung quốc (Lương thư) thì người lãnh đạo lập
ra Lâm Ấp (Lin-yi) là một thổ hào địa phương tên là Khu Liên. Trước đó những
người ở vùng này đã quấy vùng Nhật Nam dưới sự bảo hộ người Hán, Lương thư cũng
gọi dân ở Tượng Lâm là "bọn man di" Khu Liên. Cho nên từ Khu Liên có
thể không là tên một người mà là tên chuyển âm từ ngôn ngữ Đông Nam Á cổ, Khu
Liên - Kurung, có nghĩa là tộc trưởng, vua.
Trước hết ta hãy xem sử liệu Trung quốc sau đó các khám phá về bia ký ở Mỹ
Sơn và Trà Kiệu (Simhapura) còn sót lại để tìm hiểu về con người Lâm Ấp.
Mã Đoan Lâm (Ma Tuan-Lin), sử gia người Trung Hoa thế kỷ 13 viết về các dân
tộc phía Nam Trung quốc dựa vào sử của nhà Lương, Hán và Tùy đã miêu tả như sau
về những người và phong tục dân Lâm Ấp vào thế kỷ thứ 4. Đây có thể coi là tài
liệu cổ nhất và lý thú nhất về dân tộc học nói về người Đông Nam Á bằng tiếng
Hán. (Trích từ G. Coedes , dịch từ tiếng Hán ra Pháp rồi sang Anh ngữ từ bản
"Ethnographie des peuples etrangers a la Chine, ouvrage compose au XII Ie
siecle de notre ere, trans., Marquis d' Hervey, Geneva, 1883)
"Cư dân ở đây xây tường nhà bằng gạch nung, phết trên gạch là một lớp
vôi. Nhà được xây trên một nền hay sân gọi là kan-lan (chú thích: kan-lan tiếng
Chăm nghĩa là nền sân, hiện nay người Chăm gọi sân tháp Chăm là kan-lan). Cửa
nhà thường đặt ở hướng bắc, đôi khi ở phía đông hay tây không có một qui tắc
nhất định nào... Đàn ông và đàn bà không có một y phục nào khác ngoài một đoạn
vải ki-peh quấn quanh người (chú thích: từ Chăm). Họ khoét lổ bông tai để đeo
các vòng trang sức nhỏ. Những người có chức sắc đều đi chân đất. Những phong
tục này cũng được theo ở vương quốc Phù Nam và tất cả các vương quốc khác phía
xa quá Lâm Ấp. Vua đội nón cao trang trí với hoa màu vàng và chung quanh viền
nón được tỉa gọn với núm tua bằng lụa. Khi ra ngoài nhà vua cởi voi, đi trước
là các kèn tù và và trống, vua được che dưới một dù làm bằng vải ki-peh, chung
quanh là nô tì cầm cờ xí được làm bằng vải ki-peh.
Đám cưới lúc nào cũng được tổ chức vào ngày thứ tám của trăng. Chính người
con gái đi hỏi con trai, vì con gái được xem là chính yếu. Hôn nhân giữa những
người cùng họ bị ngăn cấm. Vũ khí của họ gồm có cung, tên, kiếm, giáo, và nỏ
làm bằng gổ tre.
Nhạc cụ họ dùng rất giống nhạc cụ của chúng ta : đàn tì bà, đàn bầu 5 giây,
sáo v.v… Họ cũng dùng kèn tù và và trống để báo hiệu cho dân chúng.
Họ có mắt to và sâu, mủi thẳng và cao, tóc quăn đen. Đàn bà buối tóc trên
đỉnh đầu thành hình như búa riều… (chú thích : đây đúng là người thuộc giống
Austronesia ở dọc quần đảo Malay, Indonesia..)
Nghi lễ tang của vua bắt đầu 7 ngày sau khi vua mất, còn các quan đại thần
thì 3 ngày sau khi mất, và người dân thường 1 ngày sau khi chết. Bất kể chức
tước của người mất, thi hài đều được bó lại cẩn thận, sau đó được mang đến bờ
biển hoặc bờ sông giữa nhạc trống và điệu múa, và được hỏa thiêu trên dàn củi.
Sau khi thi hài của vua được hỏa tán, xương cốt còn lại được bỏ vào hủ làm bằng
vàng và ném xuống biển. Còn xương cốt của các quan lại thì đựng trong hủ bạc và
ném xuống cửa sông. Với thường dân, hủ đất đựng cốt ném xuống sông là đủ (chú
thích: đây đúng là phong tục xưa của người Chăm indonesian với nguồn gốc văn
hoá sông, nước, biển)
Mã Đoan Lâm (Ma Tuan Lin) viết về người Lâm Ấp (Lin-yi) ở thế kỷ thứ 4
chứng tỏ cho ta thấy họ là người nói tiếng Indonesian và là tổ tiên của người
Champa hiện nay. Người Champa lúc này đã biết khai thác trầm hương, quế, ngà
voi (vùng họ cư ngụ rất nhiều voi), sừng tê, vàng..
Đặc biệt họ biết dùng cát trắng để nấu thuỷ tinh làm bát, đồ trang sức. Tất
cả các đặc sản vùng này đã có mang sang Trung Quốc trong những hành trình của
các sứ giả Chăm Lâm Ấp. Sử sách Trung Hoa gọi những thuỷ tinh này là "lưu
li" từ chữ Phạn sanscrit verula.
Thế thì bia ký có xác thực sử liệu Trung quốc như vậy không ở thế kỷ thứ 3
và 4?. Năm 1898, kiến trúc Mỹ Sơn được khám phá tình cờ bởi một người Pháp tên
O. Paris trong rừng ở một thung lũng hẹp. Nó đã hoang tàn qua bao thế kỷ. Điểm
lạ là sử ta từ đời Lê không nhắc đến thành phố cổ này, nó biến mất trong bóng
tối đến khi được khám phá. L. Finot và H. Parmentier, G. Coedes đã đến và
nghiên cứu tìm ra được bao văn tự bia ký trong vùng này và phụ cận Trà kiệu,
Đông Dương. Một trong những bia ký (thế kỷ 4) là bia nói về vua Bhadra varman
lập ra Mĩ-sơn và Trà Kiệu trên vùng đất mà người Chăm gọi là Amaravati (Quảng
nam). Đây là bia cổ nhất bằng tiếng Chăm hay bằng tiếng thổ ngữ Indonesian
trong thế giới người Indonesian. Bia nói về sùng bái vật thánh thiêng của nguồn
rạch hay giếng nước của vua. Điều này cho thấy vùng Amaravati (Quảng Nam) là nơi
cư ngụ của người nói tiếng Chăm ở thế kỷ thứ 4. Theo nhà khảo cổ Madeleine
Colani thì các giếng cổ, được tìm thấy nhiều ở Quảng Trị khám phá từ đầu thế kỷ
20 và các năm gần đây của các nhà khảo cổ Việt Nam, có nguồn gốc của dân Chăm
Indonesian.
Sử nước ta có nhắc tới vùng đất Việt Thường và dựa vào một số tài liệu Hán
của Trung Quốc. Như trong Đại Nam Nhất Thống Chí, nói về vùng Quảng Nam:
"Nguyên xưa là đất Việt-Thường Thị, đời Tần (246-207 trước Dương lịch),
thuộc về Tượng quận, đời Hán (206-1trước dương lịch, 1-129 sau dương lịch)
thuộc quận Nhật Nam"
Theo Hán thư: quận Nhật Nam có huyện Lư Dung và Châu Ngô. Ở Lư Dung có bến
nước Lượm vàng, theo truyền thuyết tại Sông Tranh và Sông Tu thuộc đạo Trà Nộ
phủ Thăng Bình thường có sản xuất vàng. Vậy thì từ 2 thế kỷ trước Dương lịch
cho đến thế kỷ 4 (khi Lâm Ấp là dân tộc Chăm Indonesia chủng Austronesian), đất
Việt-Thường hay Tượng Lâm có những dân tộc nào ở đó?.
Theo sử Trung quốc, thì sau Khu Liên, các vua kế tiếp của Lâm Ấp là Phạm
Hùng (Fan Hsiung), Phạm Dật (Fan Yi), Phạm Văn (Fan Wen), Phạm Phật (Fan Fo,
sau này theo bia ký thì đó là Bhadra varman) và Phạm Tu Đạt (Fan Hu-ta). Dưới
thời Phạm Hùng, Phạm Dật và Phạm Văn sứ Lâm Ấp đã dung "chữ viết Hồ"
(tức chỉ Ấn độ chử Phạn) trong văn thư. Điều này chứng tỏ ảnh hưởng từ phía Phù
Nam và Nam Chăm.
Riêng Phạm Văn, cố vấn cho Phạm Dật, một số sử liệu Trung quốc có nói là
người Hán từ Giang Châu. Theo Coedes thì Phạm Văn là người Lâm Ấp sống ở Trung
quốc từ năm 313 đến 316 và đã hấp thụ văn hóa Hán chứ không phải là người Hán.
Trước khi Khu Liên thành lập nước Lâm Ấp (năm 192), thì trước đó vào năm
137, vùng Tượng Lâm đã bị xâm lăng bởi những người xứ phía Nam biên giới Nhật
Nam. Theo Coedes thì giặc "man di" đó nếu không là Champa thì là cũng
những người chủng tộc Indonesian.
Các vị vua trên chắc chắn không phải là họ Phạm mà là Hán phiên âm của chử
địa phương. Rất có thể đó là phiên âm của từ Pô hay Pha. Pô tiếng Chăm
Indonesian là chúa, vua hay lạc trưởng (như Po Nagara).
Như vậy có thể nói là từ giữa thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 4 thì vùng đất sử
ta gọi là Việt-Thường cơ bản là nơi người Chăm Austronesian cư ngụ. Trước đó,
rất có thể là những bộ lạc Môn-Khmer, Mường… đã bị người Chăm đẩy lùi và tiêu
diệt.
Hiện nay ở vùng xứ Quảng trên các cao nguyên có các dân tộc Mon-Khmer như
Vân Kiều, Pa kô, Tà ôi… vẫn còn cư trú, trên Tây Nguyên Nam Trung bộ, người Gia
Rai, Rhade của chủng Austronesian xưa vẫn còn và có ít ảnh hưởng từ Chăm
Austronesian.
Trên đất nước
Champa cổ trước đây đã xẩy ra nhiều cuộc chiến khốc liệt; khi trường kỳ, lúc âm
thầm, có khi chớp nhoáng với Trung Hoa, Ðại Việt, Châu Lạp, Java (Nam Dương),
Mông Cổ, nhất là những cuộc chiến trường kỳ giữa trung quốc và Champa vào năm
605 đoàn quân viễn chinh Trung Hoa, dưới sự Tổng chỉ huy của Tướng Lưu Khương
sang xâm chiếm Champa đánh phá Khú Túc (vùng Thừa Thiên) và Kinh Thành Trà Kiệu
(Quảng Nam), tàn phá kinh thành cướp bốc tài sản và thiêu hủy tất cả những tài
liệu chính sử từ ngày đầu lập quốc và những cuộc chiến kế tiếp với các quốc gia
nêu trên đã biến những trung tâm văn khố, sử liệu Champa thành đống tro tàn.
Do đó muốn tìm
hiểu tiến trình lập quốc Champa từ cội nguồn cho đến ngày sung vong, các nhà
nghiên cứu khoa học phải bằng vào những sử liệu thành văn của một số quốc gia
lân cận có liên quan với Champa trước đây như Trung Hoa, Ấn Ðộ, Ðại Việt, Châu
Lạp và những thành tựu khoa học về ngành ngôn ngữ học, về khảo cổ học để soi
sáng.
- Theo ngôn ngữ
học: Các nhà khoa học Tây Phương nghiên cứu về cội nguồn dân tộc Champa theo
phương diện ngôn ngữ học, đã xếp loại dân tộc champa thuộc nhóm gia đình ngữ
học Mã Lai đa đảo (Malayo Polynesian) hay một danh xưng khác gọi là nhóm gia
đình ngôn ngữ Nam đảo (Austronesian). Nhóm ngữ hệ Mã Lai Ða đảo bao gồm mấy
trăm ngôn ngữ tập trung trong một khoản không gian rộng lớn bao gồm các ngôn
ngữ lục địa Ðông Nam Á – Mã Lai và Champa, toàn bộ ngôn ngữ Phi Luật Tân và cả
ngôn ngữ của Madagascar ngoài khơi Châu Phi.
Vì cùng nhóm
với ngữ hệ Nam đảo (Austronesian) nên ngôn ngữ Mã Lai và ngôn ngữ Champa có
nhiều tiếng rất tương đồng với nhau và nhất là đã có một quá trình giao lưu văn
hóa và bang giao lịch sử trước đây khi Champa chưa mất tên trên địa bàn sinh
hoạt chính trị Ðông Dương.
Trên lãnh địa
của Vương Quốc Champa cổ, tức miền Trung của Việt Nam ngày nay, tiếng champa và
các sắc tộc Hroi, Raglai, Churu, Jarai Radhé, Banar, Stieng v.v... thuộc hệ ngữ
Nam đảo hay là Mã Lai Ða đảo (Malayo – Polynesian) và được khoa ngôn ngữ học
gọi chung là nhánh ngôn ngữ champa (The Chamic Langreceges). Trong nhánh ngôn
ngữ này lại chia thành hai nhánh:
-Nhánh thứ nhất
gồm ngôn ngữ Chăm, Hroi, Raglai, Churu một nhánh phía Nam Champa.
-Nhánh thứ hai
gồm Radhé, Jarai, Banar, Koho là nhánh phía Bắc thuộc lãnh địa Champa.
Sự phân chia
ngữ hệ Nam đảo của các sắc tộc tại Champa thành hai dòng Nam Bắc này, cho chúng
ta thấy phù hợp truyền thuyết về nguồn gốc hình thành quốc gia Champa từ hai
thị tộc khác nhau:
-Thị tộc Nam
còn gọi là dòng Cau (Pinăng), người Champa gọi là “Tâu Thih”; trong bia ký Phạn
ngữ ghi là Kramuka Vams’a.
-Thị tộc Bắc
còn gọi là dòng Dừa (Liu), người Champa gọi là “Tâu Chơk”, trong bia ký Phạn
ngữ ghi: Narikela Vams’a. Hai thị tộc Bắc Nam, người Champa gọi là “Tâu Chơk” và
Tâu Thih ngày nay người ta còn tìm thấy xuất hiện trong lễ hội múa lớn gọi là “Rija
Praung” của người Champa ngày nay.
Qua những sự
kiện trên, khoa Ngôn ngữ học đã gợi mở cho ta thấy cội nguồn lập quốc Champa
khởi đầu, gồm hai thị Tộc trấn thủ 2 vùng khác nhau bất hòa với nhau trước khi
đem đến một quốc gia Champa Thống Nhất và ổn định.
- Theo sử liệu Trung Hoa:
Theo sách Thủy kinh chú, Lịch sử
Champa là một lịch sử chinh chiến oai hùng với các lân bang từ khi lập quốc.
Xem lại sử ta thấy rằng năm 111 trước CN vua Vũ-đế nhà Hán sai Lộ Bác Đức và
Dương Bộc sang diệt nhà Triệu lấy nước Nam Việt đổi lại thành Giao chỉ bộ, và
chia ra làm 9 quận mà 3 quận phía nam là Giao-chỉ, Cửu-chân và Nhật-nam bao gồm
đất Bắc Việt và bắc Trung Việt ngày nay, mở đầu thời kỳ Bắc thuộc của nước ta.
Sách Khâm Định Việt Sử chép rằng phía nam quận Nhật-nam có huyện Tượng-lâm
(khỏang Trà Kiệu, tỉnh Quảng Nam bây giờ), vào năm 102 đời vua Hòa-đế nhà Đông
Hán, người huyện ấy cứ hay sang cướp phá quận Nhật-nam. Đến cuối đời nhà Hán,
khoảng năm 192 ở huyện Tượng lâm có người tên Khu-Liên giết huyện lệnh đi rồi
tự xưng làm vua, đặt tên nước là Lâm Ấp (Lin Yi: Ấp của dân Tượng lâm). Thực ra
chữ Khu-Liên không phải là tên, mà là tiếng xưng tụng như "thủ lãnh".
Dòng dõi Khu-Liên thất truyền nên cháu ngoại là Phạm-Hùng (ta dịch âm từ Fan
Hiong trong sử Tàu; mà Fan lại âm theo Varman của tiếng Chàm) lên nối nghiệp
Ban đầu thì lãnh thổ Lâm Ấp còn gọi
là Indrapura, vùng từ phía nam đèo Ngang cạnh sông Gianh, đến hết vùng
Amaravati (Quảng nam ngày nay). Tiếp đến trở xuống là các vùng tự trị của các
tiểu vương như Vijaya (Bình định), Aryaru (Phú yên), Kauthara (Khánh hòa) và
Panduranga (Bình và Ninh thuận). Có nhiều tác giả cho là lãnh thổ của Lâm-Ấp
bấy giờ chỉ đến đèo Hải Vân mà thôi. Điều này không đúng, bởi vì những bia ký ở
thánh địa quan trọng Mỹ sơn - Srisanabhadresvara (nằm cách Đà nẵng hiện nay về
hướng tây nam khoảng 70 km) đã ghi là thánh địa thờ thần Bhadresvara, là thần
chủ giang sơn Chàm, do vua Lâm Ấp là Phạm Phật (Bhadra varman, trị vì từ 349 -
361) dâng cúng. Nhiều bia đá ở Mỹ Sơn cho biết khá nhiều về giai đoạn lịch sử
ban đầu của Lâm Ấp.
Theo thời gian, Phù Nam (Fu-nan),
một vương quốc ở phương nam hoàn toàn theo văn minh Ấn Độ - tồn tại từ thế kỷ
thứ nhất đến thế kỷ thứ 6 tại vùng đồng bằng sông Cữu Long bây giờ, đã từng
triều cống Trung Hoa trong khoảng thời gian từ năm 253 đến năm 519, và có cảng
Óc Eo rất nhộn nhịp - mạnh dần và thôn tính Kauthara (Khánh hòa) và Panduranga
(Bình và Ninh thuận). Còn Vijaya (Bình định) thì thuộc về Lâm Ấp. Vùng Aryaru
(Phú yên) trở thành vùng trái độn.
Suốt thời Tam quốc sang đến nhà Tấn
người Lâm ấp vẫn thường sang quấy nhiễu quận Nhật nam, có khi tiến đánh đến
quận Cửu chân nữa. Năm 353 đời vua Mục đế nhà Đông Tấn sai quan thứ sử Giao
châu là Nguyễn Phu đánh bại vua Lâm Ấp là Phạm Phật (Bhadravarman) phá hủy hơn
50 đồn lũy. Năm 399 vua Lâm Ấp là Phạm Hồ Đạt lại đánh phá đến tận Giao chỉ bị
quan thái thú Đỗ Viện đánh đuổi. Năm 413 lại tái diễn, nên năm 420 con của Đỗ
Viện là Đỗ tuệ Độ phải kéo quân sang tiểu trừ tận đất Lâm Ấp, từ đó ngưới Lâm
Ấp mới chịu hàng phục cống tiến Trung hoa hàng năm.
Sang đến thời loạn lạc Nam Bắc triều
ở Tàu (420-588) thì nhà Nam Tống cai trị đất Giao châu. Năm 433 vua Lâm Ấp Phạm
Dương Mại cho sứ sang Tàu xin làm chủ đất Giao châu, vua Tống không thuận, nên
quân Lâm Ấp luôn sang quấy phá Nhật nam và Cửu chân. Vua Tống sai quan thứ sử
Đàn hòa Chí đem quân sang đánh Lâm Ấp, tàn phá kinh đô Trà Kiệu (Đồng dương,
Quảng nam bây giờ) và lấy được vô số vàng bạc châu báu. Sử chép Đàn Hòa Chí thu
được một tượng bằng vàng nặng đến nổi mấy người khuân không xuể.
Cuối thế kỷ thứ 5 ảnh hưởng của Lâm
Ấp mở rộng về phía tây đến Nam Lào (Champassak), nhưng đầu thế kỷ thứ 6 thì
vùng này lọt vào tay người Khmer (Chân lạp), lãnh thổ Lâm Ấp bành trướng đến
đèo Cù mông (Phú yên). Người ta đã tìm thấy tấm bia Vat Luang Kau gần chùa Vat
Phou (Champassak, nam Lào), cho biết là vào thế kỷ thứ 5, biên giới Champa mở
rộng đến bờ sông Mekong.
Vào giửa thế kỷ thứ 6, nước Phù nam
lại bị người Khmer thôn tính, trở thành Thủy Chân lạp. Vị vua cuối của Phù Nam
được sử Tàu nhắc đến là khoảng năm 550. Nước Chân lạp (Chen-la hay Zhenla) được
hình thành vào khoảng thế kỷ thứ 5, mà truyền thuyết thần thoại theo văn minh
Ấn kể rằng thần Shiva kết hợp đạo sĩ Kambu Svayambhuva ở xứ Kambujadesha (nên
mới có chữ Kampuchea hay Cambodia bây giờ) với tiên nữ của Đại hồ tên là Mera,
từ đó có giống Khmer (do hai chữ Kambu và Mera ghép lại).
Năm 539- 577, dưới triều vua Rudra varman
khu Mỹ sơn lại bị đốt phá, và đã được vua Sambhu varman (mất năm 629) trùng tu
lại. Đến đời nhà Tùy, năm 602 vua sai tướng Lưu Phương kéo quân sang Giao Châu
dẹp cuộc nổi dậy của Lý Phật Tử, sau khi bình định xong Lưu Phương tiến xuống
đánh Lâm Ấp để cướp của, vua Lâm Ấp là Phạm-Chí (Cambhu varman) thất trận chạy
thoát. Sau khi Lưu Phương vào kinh đô Trà Kiệu gom góp được vô số của cải, đã
lấy đi 18 tấm miếu chủ đúc bằng vàng. Lâm Ấp từ đấy lại xin triều cống như cũ.
Đến đời nhà Đường có ba sự kiện đáng
ghi nhớ
1) Vào đời Thái tông, nước Lâm Ấp
đổi quốc hiệu là Hoàn Vương (?). Cụ Trần trọng Kim chép trong Việt nam sử lược
trang 60: "Đến quãng năm Trinh-quan đời vua Thái tông nhà Đường, (tức
khoảng từ năm 627 đến 630) vua Lâm Ấp là Phạm Đầu Lê mất, con Phạm Trấn Long
cũng bị người giết, người trong nước lập một người con bà cô Phạm Đầu Lê, tên
Chư Cát Địa ( Vikranta varman I) lên làm vua. Chư cát Địa đổi quốc hiệu là Hoàn
Vương quốc. Họ Chư lại kéo quân sang đánh Giao châu và chiếm giữ châu Hoan và
châu Ái.
Nhưng có tác giả lại viết là từ năm
758, sử Trung Hoa không còn gọi nước nầy là Lâm Ấp mà đổi tên gọi là nước Hoàn
Vương (Huan Wang). Dựa vào các bia đá ở Mỹ Sơn thì năm 758 là triều vua
Vikrânta varman II kế vị. Vikrânta varman II là thái tử Prakasa dharma, con của
một hoàng thân Chàm tên là Jaga dharma đã sang Chân Lạp cưới công chúa Carvâni (con
của vua Icanavarman). Về sau chính vua Chàm ở phía bắc Vikranta varman II này (của
bộ tộc Dừa- Narikela vamsa) đã thôn tính vùng Kauthara (Khánh hòa) của các tiểu
vương Chàm ở phía nam (bộ tộc Cau – Kramuka vamsa) . Như thế thì chưa rõ thuyết
nào đúng về niên đại của sự đổi tên Hoàn Vương Quốc.
2) Năm 679 vua Đường Cao tông (Phụ
chú: là ông vua yếu đuối đa tình đã tằng tịu với Võ Tắc Thiên, cung tần của vua
cha và đã đưa bà lên ngôi Hoàng hậu. Vào năm này Cao tông đã ngã bệnh liệt
giường, có lẽ bởi tai biến mạch máu não do chấn động sau cái chết đột ngột của
Thái tử Lý Hoằng. Mọi việc triều chính đều do Võ hậu quyết định cả, người ta
nghi chính Võ hậu đã đầu độc con trai trưởng của mình bởi vì sợ vai trò của bà
bị đe dọa), ra lệnh chia đất Giao chỉ bộ ra làm 12 châu và đặt chức An nam đô
hộ phủ, từ đó có tên An nam.
3) Nạn giặc biển từ Java và Sumatra
mà Sử chép là "Năm 767 có quân Côn lôn và quân Đồ bà từ hải đảo kéo vào
cướp phá đất Giao châu. Quan kinh lược sứ Trương Bá Nghi (Tchang-po Yi) cho đắp
La-thành để chống giữ." Thành Đại la về sau trở nên thành Thăng Long. Thực
ra quân hải đảo là lực lượng hải thuyền của một vương quốc hùng mạnh Sri-Vijaya
ở Sumatra lúc bấy giờ (đã từng khống chế đường hàng hải huyết mạch ở vùng Đông
Nam Á trong suốt 700 năm (từ thế kỷ thứ 7 đến 13). Quân này không những đánh
phá riêng Giao châu mà liên tục tàn hại dân Chàm ở ven biển như Eatran (Nha trang
ngày nay) năm 774 và Panra (Phan Rang ngày nay), vào năm 787. Một bia ký ở tháp
Bà còn ghi lại nổi kinh hoàng này của năm 774. Nếu giả thử quân của đế quốc
Sri-Vijaya chiếm đóng thành công vùng duyên hải Đông dương thì lịch sử khu vực
này đã chắc không như bây giờ.
Vào đầu thế kỷ thứ 9, năm 802 vua
Hoàn Vương là Hari varman I lại đem thủy quân lên đánh phá một số tỉnh Trung
Hoa, và liên tiếp các năm 803 và 806, còn kéo quân xâm lấn Giao Châu. Để trừng
phạt, năm 808 quan đô hộ Giao Châu là Trương Chu đem binh thuyền vào tàn sát
dân quân Champa làm cho vua Hoàn Vương phải dới kinh đô xuống vùng Bằng An ngày
nay, còn gọi là Vệ thành (thuộc xã Thăng Bình, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng
Nam, mà vết tích thành cũ nay không còn nữa - theo Sách Đại Nam Nhất Thống
Chí). Để tránh áp lực từ phương bắc, các vua Chàm Sakti varman và Bhadra varman
II bành trướng lãnh thổ dần về phía nam và phía tây, thâu gồm Panduranga (Ninh
và Bình thuận) và vùng tây nguyên thành một vương quốc mới được gọi là Champa
(Champapura - Champa: hoa sứ; pura: thành, hay quốc gia).
Trong thời kỳ này việc bang giao
giữa Hoàn Vương và Chân Lạp trở nên căng thẳng và đưa đến cuộc tương tranh tàn
phá lẫn nhau trong khoảng hai thế kỷ. Khởi đầu vào năm 810, không rõ vì lý do
gì tướng Champa Senapati Par đem quân tấn công Chân Lạp, mà bia ký ở tháp Bà Po
Nagar còn ghi chiến tích.
Năm 877 dưới đời vua Indravarman II
Champa lại xin triều cống Trung quốc như xưa. Những bia đá ở đền Kok Klor trong
thung lũng Bla trên miền cao nguyên gần Kontum đề năm 914 ghi việc một tộc
trưởng là Mahindravarman xây dựng tháp thờ Bồ tát Mahindra- Lokesvara. Thời kỳ
này sự giao hảo giữa Champa và đế quốc Sri-Vijaya rất là mật thiết. Một bia đá
ở Nhan Biểu (thuộc tỉnh Quảng trị) ghi chuyện một vị hoàng thân tên là
Rajadvara đã dựng hai ngôi tháp vào các năm 908 và 911, và đã hai lần đi hành
hương thánh tích Phật ở Yavadvirapura (tức Java ngày nay).
Năm 950, Chân Lạp dưới quyền vua
Rajendra varman sang đánh phá vùng Kauthara (Khánh hòa) của Champa vào thời vua
Indravarman III, và đã cướp đi tượng Bà bằng vàng do nhà vua dựng lên ở Po
Nagar vào năm 918. Nhưng bia ký của Chân Lạp tại Pre Rup lại ghi rõ hơn là
thành Kauthara bị phá hủy san bằng, vua Champa bị bắt và sau khi bị hành hạ đã
bị tế sống cho thần Harisvayambhu trên bờ sông Visnupadi.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng
đế đổi tên nước ta là Đại Cồ Việt, sau khi An nam dành dược độc lập với Ngô
Quyền xưng vương tại Giao Châu năm 939. Năm 979, Lê Hoàn kế vị xưng là Đại Hành
Hoàng Đế, sai Từ Mục và Ngô Tử Canh đi sứ sang Champa giao hảo. Vua Champa là
Paramesvara varman I, vốn liên kết với một trong 12 sứ quân thời hậu Ngô Quyền
nhưng bất thành, đang đóng đô tại Indrapura (Đồng Dương, Quảng Nam) gần thánh
địa Mỹ Sơn, bắt giam sứ giả. Năm 982 sau khi đuổi quân Tống, Lê Đại Hành bèn
thân chinh đem quân đánh trừng phạt Champa, vua Champa bị giết ngay trong trận,
vua Lê tiến vào kinh đô, đốt phá đền đài và lấy được rất nhiều của cải rồi rút
về. Từ năm 983 kẻ kế vị ngôi vua Champa là Lưu Kỳ Tông xin triều cống vua Lê và
chịu làm chư hầu.
Để tránh áp lực ngày càng lớn của
nước Đại Cồ Việt mới tự cường, nên năm 1000 vua Champa Srihari vamadeva một năm
sau khi lên ngôi đã dời đô từ Indrapura (Đồng Dương, Quảng Nam) xuống Vijaya (có
nghĩa là chiến thắng, mà ta âm là Đồ Bàn hay Chà Bàn) ở vùng Bình Định ngày
nay. Từ đó các bia ký ở Mỹ sơn gọi các vua mới là vua của Vijaya (hay Vijaya
Sri), vua Srihari vamadeva sau khi qua đời đã được thần hóa là Yang Pu Ku.
Năm 1068, vua Champa là Rudra varman
III (Chế Củ), kế vị vua Hari varman II, đem quân xâm lấn đất Việt ở phía bắc.
Bấy giờ vua Lý Thánh Tông, người đã dời đô về thành Đại la, cải danh là Thăng
Long thành và đổi quốc hiệu ra Đại Việt khi mới lên ngôi, đã quyết định thân
chinh xuống đánh Đồ Bàn năm 1069, bắt và giải Chế Củ về Thăng Long. Để đổi lấy
tự do, Chế Củ xin dâng đất ba châu phía bắc Champa là Bố Chánh (Hà Tĩnh và bắc
Quảng Bình), Địa Lý (trung và nam Quảng Bình), và Ma Linh (bắc Quảng Trị).
Đến năm 1074, hoàng thân Than lên
ngôi xưng là Hari varman IV (1074- 1080), nước Champa hưng thịnh trở lại và vua
Hari varman IV cho trùng tu khu thánh địa Mỹ sơn. Sau khi hòa hoãn với Đại
Việt, vua Harivarman IV xua quân đánh Lục Chân Lạp, chiếm Sambor (bắc Phnom
Penh và đông hồ Tonle Sap), giết vua Harshavarman III, tàn phá kinh thành
Somesvara (Angkor), bắt nhiều người Chân Lạp làm tù binh. Năm 1145, vua
Suryavarman II của Chân Lạp phục thù, đánh Champa chiếm Đồ Bàn, tàn phá khu
thánh địa Mỹ sơn. Mãi đến năm 1149 vua Champa mới đuổi được quân xâm lược. Khi
tu bổ Mỹ sơn vua Harivarman IV cho dựng bia đá ghi lại cuộc tàn phá thánh địa
này.
Năm 1166, vua Indra varman IV, một
vị vua Champa rất anh dũng lại xua đại quân xâm lăng Chân Lạp cướp được nhiều
của cải. Sử Miên còn ghi "Jaya (vua) Indra varman IV, vua Chàm, có tính tự
phụ như Râvana, đã vận chuyển quân trên những chiến xa, tiến đánh xứ 'Kam
Bu". Mười năm sau, năm 1177, Indra varman IV lại gởi thuỷ quân xuống phía
nam, vào cửa sông Cửu Long, tiến ngược dòng lên đánh thành Angkor, tàn phá kinh
đô, giết vua Tribhuvanaditya varman và chiếm đóng Chân Lạp. Sau trận này vua
Champa cũng thu đoạt được vô số châu báu, vi thế vua Indra varman IV đã dâng
cúng nhiều vàng bạc cho các ngôi tháp ở Mỹ sơn. Mãi đến năm 1181, Hoàng tử Chân
Lạp mới đẩy lui được quân Champa, lên ngôi vua là Jaya varman VII nuôi chí phục
thù.
Năm 1190 vua Chân Lạp Jayavarman VII
sai các tướng đem một hoàng thân Champa lưu vong tên là Vidyanandana về đánh
Champa, chiếm đóng Đồ Bàn và cướp hết các linh tượng, bắt và giải vua Indra varman
về Chân Lạp, chia nước Champa làm hai chư hầu: tiểu quốc Vijaya (Đồ Bàn) do
người em vợ của vua Chân Lạp cai trị với vương hiệu là Suryavarmadeva, và tiểu
quốc Pandaranga (Phan Rang), do một hoàng thân Champa Vidyanandana cai trị,
nhưng tùy thuộc vào Chân Lạp. Không lâu sau, một hoàng thân Chiêm tên là
Rasupati nổi lên đánh đuổi quân Chân Lạp, lên ngôi là Indra varmadeva ở Vijaya
nhưng lại không tồn tại lâu, và bị quân Chân Lạp quay lại bắt giết vào năm
1192. Vua Surya varmadeva được tái lập nhưng lại quay ra không phục tùng Chân
Lạp, mà bang giao với Đại Việt và Trung quốc. Vua Chân Lạp Jaya varman VII liền
tấn công Champa trong các năm 1192 và 1193 nhưng đều thất bại. Mãi đến năm
1203, vua Chân Lạp mới chiếm được Vijaya, và biến Champa thành một lãnh địa của
Chân Lạp. Nhưng sau khi Jaya varman VII chết quân Chân Lạp phải rút quân, và
Champa mới giành lại được độc lập năm 1220 dưới thời vua Paramesvaravarman II,
khi Chân Lạp bận rộn đối phó với những cuộc xâm lăng của Xiêm La. Từ đó chấm
dứt cuộc tương tranh giữa Champa và Chân Lạp đã kéo dài 32 năm.
Vì cứ can qua chiến tranh liên tục
nên Champa trở nên suy yếu. Khi vua nhà Nguyên là Hốt Tất Liệt (Qubilai) sai
tướng Toa Đô (Sogatu) cầm thủy quân xuống đánh Champa năm 1282, quân Champa
chống cự không nỗi nên quân Nguyên vào Thị Nại, tàn phá kinh đô Đồ Bàn và chiếm
đóng nước Champa trong vòng 5 năm, Vua champa Indra varman V, cùng thái tử Bổ
Đích (Harijit) thoát lên vùng cao nguyên và cầu cứu Đại Việt. Vua Trần Nhân
Tông gởi hai vạn quân và 500 chiến thuyền sang giúp. Đến khi quân Việt đánh bại
được quân Mông năm 1287, cũng giải phóng luôn nước Champa, nên năm 1307 tân
vương Simhavarman III (Chế Mân) tặng vua Trần anh Tôn 2 châu Ô và Lý để làm
sính lễ cưới công chúa Huyền Trân. Vua Chế Mân cũng xây dựng thêm nhiều ngôi
tháp thờ phượng thần linh ở vùng Mỹ Sơn. Ba năm sau khi Chế Mân mất, vua Chế
bồng Nga (Pô Bin Swơr) từng nuôi chí phục thù nên năm 1370 đã kéo quân thủy bộ
đánh phá vào tận kinh đô Thăng Long, nhưng đến năm 1382 lại bị tử trận. Tuy vậy
các vua Champa kế tiếp vẫn luôn gây chiến với nước Việt.
Huyền Trân Công Chúa
Vào thời kỳ này, lãnh thổ Champa khá
rộng. Lãnh thổ Champa trải dài từ các bình nguyên duyên hải nhỏ hẹp cho đến
vùng rừng núi Trường Sơn cũng như các cao nguyên nam Trung phần ngày nay. Người
Champa không chỉ là người Chàm ở duyên hải là đa số mà còn gồm những nhóm dân
thiểu số khác như giống Jarai, Rhade, Churu, Raglai, Stieng hiện vẫn còn sinh
sống ở vùng Tây nguyên mà những câu tục ngữ vẫn còn lưu truyền như "Chăm
anh, Raglai em" (Cam saai, Raglai adei), hoặc "Chăm với Raglai như
hai anh em ruột" (Cam saung Raglai yơu adei ai sa tiam). Ngoài ra lịch sử
Chàm còn cho thấy đầu thế kỷ 14, quốc vương Jaya Simha varman III (Chế Mân) xây
đền Yang Prong ở lưu vực sông Se San. Đền Yang Mun (gần Cheo Reo) ở lưu vực
sông Ba và đền Phú Thọ gần Pleiku được xây dựng vào cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ
15. Vua Po Romê (mà bia ở tháp thờ tại Ninh thuận ghi là Pa Rrame) là người sắc
tộc Churu, trị vì Champa từ 1627 đến 1651, mở đầu một triều đại gồm 14 quốc
vương kéo dài cho đến 1786.
Năm 1402, Hồ Quý Ly xâm lăng Champa
ép vua Champa dhiraya (Ba Đích Lại) nhường đất Indrapura - Chiêm động hay Đồng
dương (Phủ Thăng binh, Quảng Nam) và đất Amaravati-Cổ lụy (Quảng Nghĩa), rồi cải
thành bốn châu là Thăng, Hoa, Tư và Nghĩa, đặt quan An phủ sứ cai trị và di dân
vào khai khẩn. Khi quân Minh xâm lăng nước ta năm 1407, vua champa liền đánh
chiếm lại vùng đất đã nhường năm năm trước.
Đến thời Hậu Lê: Dưới đời Nhân Tông
vua Champa là Ma Ha Bí Cái (Maha Vijaya) gây hấn đánh Hóa châu năm 1444, nên
hai năm sau các tướng Lê Thụ và Lê Khả cầm quân đánh phá Đồ Bàn, bắt Bí Cái,
đưa người khác lên thay, rồi rút quân về. Đến đời Thánh tông, vua mới của
Champa là Trà Toàn lại xua quân hai lần xâm lấn Hóa châu vào những năm 1468 và
1469, vua Thánh tông phải thân chinh kéo quân đánh dẹp và chiếm Đồ Bàn năm 1471
bắt giết Trà Toàn đem đầu về ở Thăng Long. Vua Lê lấy vùng Amaravâti (Quảng
Nam, Quảng Ngãi) và Vijaya (Bình Định) đặt thành "Quảng Nam thừa tuyên
đạo" lấy đèo Cù Mông làm ranh giới, và chia phần đất Champa còn lại làm ba
nước nhỏ là Hóa Anh (Phú Yên, Khánh Hòa), Champa, chỉ còn lại từ Phú yên đến
mũi Kê gà (Phan Rang- Bình thuận), và Nam Phan(Gia Lai, Kontum, Darlac). Theo
những tài liệu Mã Lai, khi Champa bị Lê Thánh Tông tấn công năm 1471, một số
quan chức triều đinh Champa bị bắt, một số bỏ trốn qua Chân Lạp, Mã Lai tỵ nạn.
Vào thế kỷ thứ 16, người Champa
thường buôn bán với người Bồ Đào Nha ở Macao (Trung Hoa). Người Bồ Đào Nha hay
ghé đến vùng Panduranga (Cam Ranh và Phan Rang ngày nay) và tài liệu của người
Bồ Đào Nha đã ghi nhận sự hiện diện của thương thuyền Champa ở cửa khẩu sông
Maenam (Menam), là cửa khẩu chính của nền ngoại thương Xiêm La.
Qua thế tk 17, thời chúa Nguyễn: Năm
1611, nhân các bộ tộc người Champa liên kết lại cùng đánh phá vùng biên giới
phía nam, Nguyễn Hoàng sai chủ sự Văn Phong đem quân vượt đèo Cù Mông tiến
chiếm vùng Phú Yên ngày nay, giữa Vijaya và Kauthara, đổi thành hai huyện Đồng
xuân, Tuyên hóa. Sau đó không lâu vì thấy thuyền bè các nước Tây phương như Bồ
Đào Nha và Hòa Lan đang lân la đến các hải cảng của Champa. Sãi Vương Nguyễn
Phúc Chu rất lo ngại, nên năm 1631 đã gả người con gái thứ ba là Nguyễn Phúc
Ngọc Khoa cho vua Champa là Pô-Rômê để tạo sự hòa hiếu với Champa. Sau năm 1639
thì cuộc giao thương giữa Champa và người Bồ Đào Nha hầu như chấm dứt và người
Chàm quay sang buôn bán với người Hòa Lan sau khi người Hòa Lan làm chủ Malacca
vào năm 1641 và làm chủ con đường buôn bán hồ tiêu qua eo biển Malacca. Năm
1653, vua Chiêm là Bà Thấm, vốn là hậu duệ của hoàng gia Chân lạp, đem quân
đánh phá Phú Yên nên chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần bèn sai cai cơ Hùng Lộc vượt đèo
Cả sang trừng trị. Bà Thấm thất trận dâng thư xin hàng. Chúa Hiền lấy hẳn vùng
Kauthara, lập thành phủ Thái Ninh, sau đổi thành phủ Diên Khánh, trong đó có
thánh tích Champa là Po Nagar (Tháp Bà, Nha Trang ngày nay). Champa chỉ còn lại
vùng Panduranga, phía nam sông Phan Rang. Khi rút về vùng Panduranga, người
Champa tiếp tục lập thờ Thánh Mẫu Po Nagar ở một ngôi đền nhỏ ở làng Hữu Đức, huyện
Ninh Phước, tỉnh Ninh thuận ngày nay.
Khoảng thời gian từ 1675 đến 1685, theo
sử liệu của Thái lan đã cho biết một người anh em của quốc vương Champa đến
viếng triều đình Xiêm La, có lẽ để cầu viện; năm 1680 vua Champa còn gởi hai
phái bộ đến Batavia (tức Jakarta, Indonesia ngày nay) để liên lạc ngoại giao.
Năm 1692, vua mới là Bà Tranh tự bỏ
lệ triều cống. Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Cảnh (hay Kính) kéo
quân xuống hỏi tội và đánh bắt được Bà Tranh và giải về Phú Xuân. Chúa Nguyễn
lấy đất Champa còn lại đặt ra Thuận phủ, năm sau lại đổi ra Thuận thành trấn.
Đến năm 1697 chúa Nguyễn đặt ra Phủ Bình Thuận, lấy đất Phan lang, Phan lý làm
huyện Yên phúc và huyện Hòa đa. Từ đó nước Champa mất hẳn, tuy vậy chúa Nguyễn
vẫn cho người Champa còn lại được tự trị một vùng đất ở Bình Thuận cho mãi đến
năm 1832, khi vua Minh Mạng ra lệnh bãi bỏ vùng tự trị. Người Chàm nổi dậy
chống đối nhưng hai cuộc khởi nghĩa do Katip Sumat lãnh đạo từ 1833 đến 1834 và
Ja Thak Va cầm đầu từ 1834 đến 1835 đều bị quan quân dẹp yên nhanh chóng. Trước
kia những người Chàm theo Hồi giáo di tản sang định cư ở Ayudhya (bắc Bangkok,
Xiêm La) đã tham gia vào một âm mưu lật đổ quốc vương Xiêm La và thay thế bằng
người em của ông ta, vì thế triều đình Xiêm La cho phép những người Chàm tị nạn
về sau, đến định cư ở vùng Bangkok. Con cháu những người nầy hiện vẫn sống tại
đó
Tuy nước Champa đã bị xóa nhưng cuộc
nam tiến của dân Việt vẫn tiếp tục cho mãi đến năm 1714 sau khi thôn tính luôn
vùng Thủy Chân lạp.
3-Lịch sử nền văn minh Champa theo khoa khảo cổ học:
Nhà nghiên cứu khoa học người Pháp Etienne
Aymorier vào năm 1885 đã khai quật dưới lòng đất tại làng Võ cạnh Nha Trang
khám phá ra một văn bia (khắc chữ trên phiến đá Granit) bằng Phạm ngữ (Snskrit)
có niên đại vào cuối thế kỷ thứ II sau công nguyên. Trên văn bia ấy có ghi rõ
công trạng của một vị vua Sri-Mara, người đã khai sáng ra một triều đại Vương
Quốc Champa đầu tiên. Ðối chiếu với sách Thủy Kinh chú Trung Hoa đã nói ở đoạn
trên, ta thấy sử liệu của Trung Hoa và bia ký đã khai quật được hoàn toàn giống
nhau về không gian và thời gian lập quốc. Nhân vật Sri-Mara chính là Khu Liên.
Trên văn bia Phạm ngữ của
SambhuVarman (Phạm Phàn Chí) vào thế kỷ thứ XI có khắc tên một quốc gia cổ mà
trong sách Tân đường Thư có đề cập đến Âu Dương Tu, Tổng kỳ đã phiên âm ra Hán
ngữ là Chiêm Bà tức Champa ngày xưa. Người champa xuất thân từ người tiền thân
nam đảo cổ Malayo Polynésien , tiền thân của tộc người nam đảo ngày nay, sống
trên dãi bờ biển trải dài bắc: từ đảo hải nam trung quốc, nam: bà rịa-vũng tàu
ngày nay. Đông giáp biển champa ( biển đông), tây giáp tây lào. Người champa
định cư trên dãi đất này từ đầu những năm 2000 trước công nguyên. Tài liệu
chính xác nhất là những gì còn lại của nền văn hóa sa huỳnh. Từ thông tin đầu
tiên trong Niên giám 1909 của tập san Trường Viễn Đông bác cổ về việc phát hiện
“một kho chum khoảng 200 chiếc nằm cách mặt đất không sâu, trong một cồn cát
ven vùng biển Sa Huỳnh” (huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi), đến nay hàng trăm di
tích của nền văn hóa này đã được tìm thấy khắp các tỉnh ven biển miền Trung từ
Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận. Diện mạo của văn hóa Sa Huỳnh, từ nguồn gốc đến
các giai đoạn phát triển, từ. loại hình di tích di vật đến đặc trưng văn hóa… ngày
càng rõ nét Suốt 100 năm qua là một cuộc tìm kiếm không mệt mỏi của các nhà
khảo cổ, các nhà nghiên cứu về một nền văn minh cách chúng ta hàng nghìn năm.
M.Vinet - một nhà khảo cổ người Pháp - phát hiện những mộ chum đầu tiên vào năm
1909 và cũng là nơi xuất hiện những hiện vật có niên đại sớm nhất của văn hóa
Sa Huỳnh.
Thật ra thuật ngữ “văn hóa Sa Huỳnh”
không phải có ngay sau khi ông M. Vinet phát hiện khu mộ chum này mà phải đợi
một thời gian dài sau đó, khi bà La Barre - vợ một viên thuế quan Pháp ở Sa
Huỳnh - vốn ham thích trang sức đá quý và thủy tinh trong chum nên đã huy động
dân đào khu mộ chum ở Phú Khương và Thạnh Đức, mỗi nơi thu được 120 chiếc. Đến
năm 1934, một nhà khảo cổ học khác tên M.Colani tiếp tục mở rộng không gian ra
các vùng lân cận như Phú Lu, Đồng Phú (Quảng Ngãi), Tăng Long, Phú Nhuận (Bình
Định). Hàng trăm mộ chum tương tự cũng được phát hiện qua đợt khai quật này.
Năm 1935, bà M.Colani đã công bố những phát hiện của mình cùng các đồng nghiệp
trước đó tại một cuộc hội nghị tiền sử Viễn Đông ở Manila (Philippines).
Báo cáo của M.Colani lập tức thu hút
sự chú ý của các nhà khảo cổ. Cái tên Sa Huỳnh cùng thuật ngữ “văn hóa Sa
Huỳnh” bắt đầu hình thành và liên tục mời gọi tất cả giới khảo cổ. Tuy nhiên,
hai cuộc chiến tranh suốt 30 năm sau đó đã không cho phép họ thực hiện ý định
của mình mà phải đợi đến sau ngày giải phóng miền Nam, các nhà khảo cổ VN mới
làm tiếp những dang dở trước đó . Nền văn hóa Sa Huỳnh ở miền Trung được giới
khảo cổ phát hiện từ hơn nhiều năm trước.10 nhà khoa học Đức - Việt tiến hành
khai quật di chỉ Lai Nghi ở Điện Bàn, Quảng Nam. Kết quả lần này cùng với hai
đợt tiến hành năm trước đã cho ra bức tranh văn hóa Sa Huỳnh chi tiết hơn. Từ
trước năm 1975, các nhà khoa học đã phát hiện ở vùng Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) một
di chỉ chứng minh tại đây đã từng tồn tại một nền văn hóa phát triển đồng thời
với văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc và văn hóa Óc Eo ở miền Nam, có niên đại cách
đây ít nhất 2.400-3.000 năm. Di vật tìm thấy là đồ tùy táng chôn theo người
chết được hỏa táng, đặt trong các mộ chum bằng đất nung và chưa xác định được
chủ nhân, vì vậy giới khảo cổ tạm gọi đó là nền văn hóa Sa Huỳnh. Do hầu hết
các di chỉ đều là mộ táng, lại tập trung ở vùng duyên hải nên giới nghiên cứu
đoán định rằng chủ nhân của chúng cư trú tại các hòn đảo trên Thái Bình Dương,
có tục hỏa táng và chôn ở đất liền.
Do hoàn cảnh chiến tranh, những phát
hiện về văn hóa Sa Huỳnh cũng chỉ dừng lại đó. Riêng tại Quảng Nam, từ những
năm sau 1985, Viện Khảo cổ học Việt Nam kết hợp với bảo tàng tỉnh đã đưa lên từ
trong lòng đất những kho tàng khảo cổ có liên quan đến nền văn hóa này. Các di
vật xuất hiện ở nhiều nơi, đặc biệt dày đặc ở Hội An, Điện Bàn. Năm 1993-1995
với sự tài trợ của Tổ chức Toyota Foundation (Nhật Bản), Đại học Tổng hợp Hà
Nội đã thực hiện một cuộc khai quật khảo cổ lớn tại Hội An. Phạm vi khảo cổ
trên bình diện 70 km2, kéo dài dọc theo sông Thu Bồn. Kết quả có ý nghĩa từ
cuộc khai quật này là ở đâu có dấu vết văn hóa Sa Huỳnh thì nơi đó có vết tích
của văn hóa Champa. Có thể nhận định đã có sự kế thừa nào đó về mặt địa lý giữa
cư dân hai nền văn hóa... Ngoài ra, sự kiện tìm thấy 2 đồng tiền Ngũ Thù, Vương
Mãng niên đại thế kỷ 1, 2 trước công nguyên, cùng các loại gốm văn in hình học
kiểu Hán Hoa Nam tại Hậu Xá, đã xác định một quan hệ giao lưu giữa chủ nhân văn
hóa Sa Huỳnh với bên ngoài. Đồng thời, nhiều hiện vật cũng cho thấy thấp thoáng
những di chỉ cư trú nằm cùng tầng văn hóa với văn hóa Sa Huỳnh... Tuy vậy với
chừng đó chưa thể xác nhận được chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh từ đâu đến; có quan hệ
kế thừa với vương quốc Champa cổ đại sau này hay không? Đợt khảo sát lần này
của Viện Khảo cổ học Quốc gia Đức cùng Đại học Quốc gia Hà Nội tại di chỉ Lai
Nghi (giáp ranh với Hội An) là để làm sáng tỏ những nghi vấn đó. Có một
"trung tâm thương mại" Hội An cổ đại. Tiến sĩ Andreas Reinecke,
Trưởng đoàn khai quật Viện Khảo cổ chung và so sánh thuộc Viện Khảo cổ học quốc
gia Đức, cho biết, kết quả thu được từ khai quật tại Lai Nghi rất lớn và có ý
nghĩa rất quan trọng. Trong ba đợt đào, nhóm đã phát hiện khoảng 40 địa điểm có
văn hóa Sa Huỳnh, với 62 mẫu mộ chum và mộ đất cùng hơn 10.000 di vật có giá
trị. Trong đó số hạt cườm trang sức nhiều chưa từng có từ trước đến nay với 200
loại hạt chuỗi, chế tác bằng 5 loại đá khác nhau, giá trị là hai mề đay (medal)
bằng đá đỏ hình chim nước và hổ chế tác rất tinh xảo, lần đầu tiên được tìm
thấy tại các di chỉ ở Đông Nam Á. Giá trị nữa là 5 bộ đồ đồng (2 gương soi thời
Hán), khuyên tai vàng chưa bao giờ tìm được ở Việt Nam (di chỉ giồng Cá Vồ có,
nhưng loại nhỏ, có hình dáng khác) Nhiều loại trong đó chứng tỏ rằng nghề tiểu
thủ công của cư dân vùng này rất phát triển. Ví dụ hai chiếc lọ gốm gần như
nguyên vẹn được trang trí hoa văn tia mặt trời (thường thấy trên mặt trống đồng
Đông Sơn) lạ mắt, rất đẹp bằng ba màu đỏ đen và trắng, gần như chưa từng phát
hiện từ trước đến nay tại các hố khai quật văn hóa Sa Huỳnh... Những gì tìm
được tại đây, có thể khẳng định rằng Lai Nghi sẽ là một trung tâm khảo cổ lớn
nhất về văn hóa Sa Huỳnh của Việt Nam.
A. Reinecke nhận định "chưa có
gì xác nhận có một mối liên hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh muộn với văn hóa Champa
sớm, nhưng khả năng đã có một bộ phận cư dân văn hóa Sa Huỳnh tiếp tục sống và
phát triển trong văn hóa Champa. Bây giờ chúng tôi chưa có điều kiện so sánh
giữa hai nền văn hóa này. Song có một điều chắn chắn là, qua sự tương đồng của
một số hiện vật tìm thấy tại đây với di chỉ tại một số hòn đảo trên vùng biển
Đông Nam Á (ví dụ khuyên tai ba mấu và hai đầu thú). 2.500 năm trước đã có cư
dân từ đó đến miền Trung Việt Nam.
Tuy vậy phát hiện trong đợt khai
quật khảo cổ này hầu hết là di chỉ mộ táng có niên đại từ thế kỷ 2 trước Công
nguyên đến 300 năm sau Công nguyên. Có 3 di chỉ cư trú, nhưng chưa có niên đại
chắc chắn, do vậy chưa thể coi đó là của văn hóa Sa Huỳnh. Có thể thời kỳ này
người ta làm nhà bằng tranh tre, gỗ nên không để lại vết tích. Quan trọng hơn
cả là qua những hiện vật tìm được có thể nói rằng trong thời kỳ này, Hội An đã
là một trung tâm kinh tế lớn thu hút từ vùng núi dọc sông Thu Bồn, xuống duyên
hải, từ văn hóa Đông Sơn và từ Trung Hoa đến Ấn Độ".Văn hóa Sa Huỳnh phát
triển từ sơ kỳ đồng thau đến sơ kỳ đồ sắt, từ khoảng 2000 năm đến những thế kỷ
trước Công nguyên. Quá trình hội tụ những nguồn gốc khác nhau đã tiến tới giai
đoạn phát triển cực thịnh của văn hóa này vào khoảng 2.500 – 2.000 năm cách
ngày nay. Chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với các văn hóa
hậu kỳ đá mới – sơ kỳ đồng thau ven biển, được coi là những người Tiền Mã Lai -
Đa đảo (Proto Malayo Polynesien). Trong quá trình hình thành văn hóa Sa Huỳnh
có những liên hệ với những nhóm cư dân cùng thời là những người “Tiền Môn –
Khmer” hay Tiền Nam Á. Ngoài ra suốt quá trình phát triển văn hóa này còn có
nhiều mối quan hệ giao lưu rộng rãi với những văn hóa thời kim khí ở Đông Nam
Á. Qua đó có thể thấy chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh nói tiếng Nam Đảo hay Malayo
Polynesien nhiều hơn yếu tố Nam Á. Đặc trưng cơ bản của văn hóa Sa Huỳnh là
táng thức mộ chum, vò suốt từ giai đoạn sớm đến muộn, tuy ở một vài địa điểm vẫn
có sự hiện diện của mộ huyệt đất.
Các khu mộ phân
bố tập trung ở những cồn cát ven biển, lan dần ra các đảo ven bờ, ngoài ra còn
phân bố ở vùng đồng bằng và miền núi phía tây. Di tích là những khu mộ táng
rộng lớn gồm hàng chục, hàng trăm chum, vò gốm chôn đứng trong địa tầng. Loại
hình chum, vò chủ yếu hình trụ, hình trứng, hình cầu đáy bằng có nắp đậy hình
nón cụt hay hình lồng bàn. Đặc biệt trong các mộ táng chum, vò thuộc văn hóa Sa
Huỳnh ít tìm thấy di cốt hay than tro hỏa táng, vì vậy theo các nhà nghiên cứu
táng tục của cư dân Sa Huỳnh có thể là “chôn tượng trưng”.Trong chum/vò chứa
nhiều đồ tùy táng gồm các chất liệu đá, gốm, sắt, đá quý, thủy tinh rất đa dạng
về loại hình: công cụ lao động, vũ khí, đồ dùng sinh hoạt, trang sức. Đặc trưng
về di vật là sự phổ biến của công cụ lao động bằng sắt, đồ gốm tô màu trang trí
nhiều đồ án hoa văn khắc vạch, đồ trang sức bằng đá ngọc, mã não, thủy tinh
vòng, hạt chuỗi, khuyên tai ba mấu, khuyên tai hai đầu thú…
Chủ nhân văn
hóa Sa Huỳnh có nền kinh tế đa thành phần, gồm trồng trọt trên nương rẫy và
khai thác sản phẩm rừng núi, trồng lúa ở đồng bằng, phát triển các nghề thủ
công, đánh bắt cá ven biển và trao đổi buôn bán với những tộc người trong khu
vực Đông Nam Á và xa hơn, với Trung Quốc và Ấn Độ. Những di tích văn hóa Sa
Huỳnh ven biển đã có thể từng là những “tiền cảng thị” (như khu vực Hội An với
di tích Hậu Xá chẳng hạn). Dù rằng việc sản xuất gốm để xuất khẩu ở Đông Nam Á
,đặc biệt là ở Đại Việt và Xiêm, phát triển khá mạnh mẽ vào thế kỷ XIV – XV, thường
là với sự khởi đầu bất ngờ của kỹ thuật Trung Quốc và kết thúc với kỹ thuật bản
địa. Tuy nhiên, lịch sử hải thương của khu vực Đông Nam Á, kết hợp với những
kết quả trong nghiên cứu khảo cổ học ở các quốc gia Đông Nam Á trong thời gian
gần đây, đã phần nào bổ sung cho chúng ta những tư liệu quan trọng về sự xuất
hiện của những sản phẩm gốm thương mại có nguồn gốc Đông Nam Á . Về đồ gốm thì
hầu như tất cả các ghi chép về Champa trong Chufanchi (1225), Dauyi Zhilue
(giữa thế kỷ XIV) và Yingua Shenglan (1416) đều chỉ nói đến việc nhập các đồ sứ
Trung Quốc. Những tài liệu trên hầu như không nhắc đến những sản phẩm gốm ở
Đông Nam Á. Lệnh cấm hoàn toàn các chuyến đi và buôn bán vải hải ngoại được ban
hành năm 1371 (năm thứ 3 niên hiệu Hồng Vũ) trong thời kỳ đầu thời nhà Minh.
Sau đó, nó lại được tái ban hành vài lần và cuối cùng bị bãi bỏ năm 1471 (năm
thứ 6 niên hiệu Long Khánh).
Nó ngăn cấm nghiêm
ngặt những chuyến đi và buôn bán hải ngoại của người Trung Quốc. Kết quả là, buôn
bán gốm từ Trung Quốc bị hạn chế lớn trong thời kỳ này. Gốm Thái Lan, Việt Nam
và Champa xuất hiện ở các vùng bờ biển xung quanh biển nam Trung Quốc như để
thay thế đồ gốm Trung Quốc. Di chỉ tiêu biểu của thời kỳ này là tàu đắm ngoài
khơi đảo Palawan, được khai quật năm 1995. Đồ gốm Champa bao gồm đĩa celadon,
bát men nâu với thân chiết yêu và các vò men nâu của lò Gò Sành.Trong những năm
gần đây, tại các lò gốm Gò Sành và một vài lò gốm khác, tất cả đều ở quanh thủ
đô Vijaya thuộc tỉnh Bình Định ngày nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những
đồ gốm xuất khẩu như đĩa men và bát men celadon và các hũ sành được sản xuất
trong những thế kỷ XIV-XVII mà không hề có sự phát triển trước đó của kỹ thuật
bản địa. Những mảnh vỡ của đồ gốm Gò Sành đã được khai quật thấy ở Ai Cập, đảo
Tioman ở Ma-lai-xia; Santa Ana và Calatagan ở Phi-lip-pin… và thường được tìm
thấy cùng với những đồ sứ Trung Quốc. Có tiếng vang nhất là việc tìm thấy hàng
trăm đồ gốm tráng men celadon của Gò Sành trong con tàu đắm gần hòn đảo Pandaran
ở Philippin.
Không nghi ngờ
gì nữa, những sản phẩm này bắt đầu có trước khi Đại Việt đánh chiếm Vijaya, thế
nhưng những người thợ thủ công thuộc tộc người nào thì còn chưa rõ. Chắc hẳn
Champa cũng đã bị cuốn vào trào lưu sản xuất đồ gốm thương mại chung ở Đông Nam
Á lục địa vào thời kỳ cuối Nguyên (1260-1368) và đầu Minh (1368-1644), khi mà
việc xuất khẩu đồ sứ Trung Quốc bị giảm mạnh vì khủng hoảng kinh tế và do lệnh
cấm buôn bán với nước ngoài. Với việc phân phối rộng khắp bằng đường biển qua
Ấn Độ Dương, đồ gốm Champa được khai quật từ địa điểm A1-Từ trên bán đảo Sinai
ở Hy Lạp, từ thành phố cảng thời trung cổ của Julfar trong phạm vi của Ras al
-Khaimab ở tiểu vương quốc Arập, từ di chỉ Juara trên đảo Tioman ở đảo
Ma-lai-xia và từ di chỉ mộ táng ở bán đảo Calatagan và tàu đắm ở ngoài biển
khơi của đảo Pandanan, Phi-lip-pin. Đồ gốm Champa được xuất khẩu ra nước ngoài
vào khoảng thế kỷ XV và việc sản xuất đồ gốm ở Gò Sành phát triển rất rực rỡ
vào thời gian ấy. Trong bất kỳ trường hợp nào, thì rõ ràng là kinh đô Champa đã
có một mạng lưới buôn bán vào thế kỷ XV, bao gồm cả Hy Lạp, Các Tiểu vương quốc
Arập, Ma-lai-xia, quần đảo Philippin. Thực tế này đã xác nhận sự rộng lớn của
mạng lưới buôn bán của Vương Quốc Champa trên biển. Đồ gốm không giống với vải
lụa, vẫn tồn tại trong các di chỉ mà không bị phân hủy và biến mất, thậm chí
ngay cả khi chúng bị vỡ thành từng mảnh nhỏ. Khi các khu vực (lò) và niên đại
sản xuất của một số đồ gốm khai quật đã được xác định, chúng sẽ là tư liệu quý
giá để làm rõ niên đại và đặc trưng của chính các di chỉ. Nằm ở vị trí trung độ
trên con đường giao lưu quốc tế đông-tây, Trung Quốc với Ấn Độ và xa hơn, tới
Địa Trung Hải, Đông Nam Á sớm trở thành một đầu mối mậu dịch hàng hải quốc tế.
Từ đầu công nguyên, những con thuyền của cư dân trong vùng, thuyền của người
Ấn, người Hoa cùng với nền văn hóa của họ đã thường xuyên qua lại vùng Đông Nam
Á. Trên con đường giao lưu đó, Champa chiếm lĩnh một trong những vị trí quan
trọng và thuận lợi nhất. Các cảng của Champa đóng vai trò như những cảng cuối
cùng trước khi những con thuyền vượt qua vịnh Bắc Bộ vào vùng biển Trung Hoa và
là nơi dừng chân đầu tiên khi từ Trung Quốc đến Malacca, Vịnh Thái Lan hay gần
hơn là tới vùng hạ lưu châu thổ sông Mê Kông mà 7 thế kỷ đầu công nguyên thuộc
vương quốc Phù Nam. Có thể thấy hầu hết các tuyến đường biển đến Trung Hoa hay
từ Trung Hoa đi qua Ấn Độ đều rẽ qua các cảng biển Champa. Từ một đầu mối giao
thông quan trọng, bờ biển Champa đã sớm trở thành một đầu mối giao thương, nơi
trao đổi sản vật và sản phẩm với những thuyền bạn bè qua lại. Champa hùng mạnh
nhất vào khoàng năm 800 đến năm 1000. Trong khoảng thời điểm đó, Người Chăm rất
nổi tiếng trong việc buôn bán các loại gia vị và tơ lụa với các nước như Trung
Quốc, Nusantara ( Indonesia, Malaysia, brunei…ngày nay) và nước Abbasiah ở
Baghdad (Bát Đa- xứ 1001 đêm). Vào khoảng năm 800, người Chăm được biết đến với
tài đi biển rất gỏi và những thương nhân tài ba. Theo ông Tan Sri Prof.
Emeritus Dr. Ismail Hussein, chủ tịch hội nhà văn Malaysia gọi tắt là (GAPENA)
có nói. Vùng biển mà ngày nay được gọi là Biển Nam Trung Quốc thật sự trước kia
được gọi là Biển Champa, nó từng là một vùng thương mại và vận chuyển quan trọng
của người Chăm. Sự hùng cường về thương mại và vận chuyển của đế chế Champa
nhanh chóng được nổi tiếng và rất nhiều người biết đến không chỉ ở Nusantara mà
là toàn thể thế giới lúc bấy giờ, dẫn đến vùng biển này được gọi với tên Biển
Champa.
Người Champa
“có cái nhìn về biển đúng đắn, biết tham dự và dấn thân tích cực vào luồng
thương mại quốc tế “, tận dụng những lợi thế đó để phát triển vương quốc của
mình thành một cường quốc trong khu vực. Hoạt động thương mại biển đã góp phần
quan trọng vào quá trình tồn tại và phát triển của vương quốc Champa trong
khoảng thời gian từ cuối thế kỷ X đến thế kỷ XV. Quan hệ thương mại của vương
quốc Champa từ nửa cuối thế kỉ X đến thế kỉ XV. Trong suốt quá trình phát triển
của mình, vương triều Vijaya đã dày công xây dựng các mối quan hệ với các quốc
gia vùng hải đảo. Vương quốc Champa ngày càng dự nhập mạnh mẽ vào sự phát triển
chung của lịch sử khu vực. Những mối quan hệ được dày công xây dựng, một mặt
nhằm củng cố vị thế của Champa đối với lịch sử khu vực, mặt khác tạo ra những
tiền đề thuận lợi để Champa mở rộng thương mại và dự nhập ngày càng mạnh mẽ hơn
vào nền hải thương khu vực, nhằm bù lấp cho những thiếu hụt của nền kinh tế
trong nước. Các vua Champa rất có ý thức trong việc buôn bán với người nước
ngoài, tạo điều kiện lợi dụng và trọng dụng họ. Sau khi Quảng Đông bị phá hủy
(758), việc làm ăn với thương nhân người Hoa gặp khó khăn. Trên thực tế, từ 877
đến 951, Champa không có quan hệ bang giao gì với Trung Quốc vì sự hỗn loạn
cuối thời Đường. Trong thời gian đó, họ kịp thời mở của làm ăn với thương nhân
Hồi giáo Arập đang ngang dọc khắp thế giới Đông-Tây. Khi Quảng Đông được mở cửa
lại dưới triều Hậu Chu (951-959) và sau đó là triều Tống (960 –1279), vua Đồng
Đường liền xúc tiến lại mối quan hệ giữa hai nước thông qua những nhà buôn Hồi
giáo ở Panduranga. Người Hồi giáo là những người quản lý của khu buôn bán ở
Panduranga. Những thương nhân Hồi giáo này đã có những liên hệ mật thiết với
Vương triều Champa, được tiếp xúc thường xuyên với vua Chăm và được vua Chăm
trọng dụng. Những bằng chứng mà P.Y.Manguin (1979) đã đưa ra cho thấy, trong
những người thuộc đoàn sứ giả Champa sang Trung Quốc vào năm 951 và những năm
sau đó, có người mang tên bắt đầu bằng chữ Pu hay Bu biến âm từ chữ Arập Abu.
Năm 958, người đại diện chính thức của vua Champa là người Hồi giáo có tên là
Abu Hasan (P’s Ho San ). Ông đã thay mặt vua Champa là Indra varman III
(917-960) tặng hoàng đế Trung Hoa nước hoa hồng, cây đèn “ngọn lửa Hy Lạp “ và
những viên đá quý. Năm 961, Abu Hasan trở lại Trung Hoa mang theo thư của vị
vua mới là Java Indravarman I, kèm theo những tặng phẩm được liệt kê ra như gỗ
trầm, ngà voi, vải lụa... và đặc biệt có 20 hũ Arập. Tất cả những tặng phẩm
trên có những thứ là của Champa, nhưng nhiều tặng phẩm như “nước hoa hồng“,
”đèn Hy Lạp “ là hàng của Arập thì chắc chắn là sản phẩm thương mại được các
thương nhân Hồi giáo Arập đem đến trao đổi ở các cảng Champa. Đó đều là những
sản phẩm thương mại có được từ các thương cảng của Champa .Về những mặt hàng
buôn bán xuất khẩu của Champa trong thời kỳ này, chúng ta có thể tham khảo các
loại hàng hóa đã được trao đổi và mua bán tại cảng -thị Hội An và các cảng–thị
khác ở miền Trung như Thanh Hà (Thừa Thiên- Huế ), Nước Mặn, Thị Nại (Bình Định
)... trong các thế kỷ XVII-XVIII, vì sự phồn vinh của các cảng–thị này đương
thời có thể được xem như sự tái sinh của các cảng - thị Champa vào những thế kỷ
trước đó. Về các loại sản vật ở miền Trung Việt Nam vào thế kỷ XVI có thể tham
khảo trong Ô Châu Cận Lục : “... ngà voi, sừng tê, trầm hương, bạch ngọc hương,
tô nhủ hương, biện hương, thổ cẩm trắng, thổ cẩm xanh, da trâu, nhựa thông,
sừng trâu, da hươu, nhung nai, da hươu cái, lông đuôi chim công. Lông đuôi chim
trĩ, hồ tiêu, mật ong, sáp vàng, dây mây ...” .Những loại sản vật này, mà phần
lớn đều là lâm sản nên có thể được xem là những đặc sản của Champa vào những
thế kỷ trước đó, được thu nhập bởi cư dân miền ngược rồi đem trao đổi với cư
dân miền xuôi. Điều đó cho thấy mối liên hệ khá chặt chẽ giữa các vương triều
Champa với các tộc người miền núi mà sợi dây liên kết có lẽ là những dòng sông
chảy từ thượng nguồn ra biển rất phổ biến ở miền Trung Việt Nam. Việc giữ mối
liên hệ bền chặt và lâu dài giữa các vương triều Champa với các tộc người miền
núi đảm bảo cho vương quốc Champa có thể duy trì được một sự cân bằng tương đối
trong việc phát triển kinh tế, giữa kinh tế biển, kinh tế nông nghiệp và kinh
tế lâm nghiệp. Điều này còn có ý nghĩa hơn nữa khi chúng có thể đảm bảo những
sản phẩm thương mại cho vương quốc Champa, để Champa có thể duy trì những mối
quan hệ thương mại, buôn bán với các quốc gia trong khu vực. Các nhà nghiên cứu
đã giải thích hệ thống chính trị - kinh tế của vương quốc Champa theo một mô
hình được gọi “hệ thống trao đổi ven sông“. Theo mô hình này, ”hệ thống trao
đổi ven sông“, có một vùng duyên hải để làm cơ sở cho một trung tâm thương mại,
thường tọa lạc ở một cửa sông. Đây cũng là trung tâm giao dịch hải thương quốc
tế và là điểm kết nối giữa các của sông khác của các vùng lân cận. Cũng có
những trung tâm thượng nguồn, đó là những điểm tập trung ban đầu của các nguồn
hàng có nguồn gốc từ những nơi ở xa sông nước. Những nguồn hàng này được sản
xuất ở các vùng mà các dân cư sống trong các bản làng ở miền thượng du hoặc
thượng nguồn không họp chợ. Sau đó nguồn hàng này được tập kết về các trung tâm
ở ven biển. Mỗi Mandala có riêng một hệ thống trao đổi ven sông như vậy. Biên
niên sử Trung Quốc từ thời kỳ Bắc Tống (960-1127) đã chỉ ra rằng vào cuối thế
kỷ X đã hình thành những tuyến đường biển nối liền những địa điểm cư trú vùng
biển ở quần đảo Philippin, bờ biển Bắc của Đảo Borneo và Champa. Tống sử cho
biết rằng vào năm 977, nhà cầm quyền Brunei đã gửi quà biếu đến đế chế Trung
Hoa và sứ giả của phái đoàn thông báo với triều đình của đế chế rằng May-i (đảo
Midoro) cách Borneo một khoảng 30 ngày đi thuyền. Năm 1003, phái đoàn được ghi
lại sớm nhất mang quà biếu của Philippin đi đến Trung Quốc từ Butuan. Tống sử mô
tả chính thể này ở đông bắc Mindanao như là “một đất nước nhỏ trong biển ở phía
Đông của Champa, xa hơn May-i, có quan hệ thường xuyên với Champa nhưng rất
hiếm khi với Trung Quốc. Nhiều thế kỷ sau, hàng hóa thương mại được chuyên chở
từ miền Trung Việt Nam dọc theo tuyến phía Bắc của Borneo, như được chứng minh
bởi lô hàng trên con tàu Pandanan, ở phía Tây Nam Philippin. Chúng ta không tìm
ra được những bằng chứng về mối quan hệ trực tiếp giữa Philippin và Trung Quốc,
ít ra cho đến đầu nhà Minh. Nhưng với Champa thì thường xuyên và khá độc đáo.
Dường như Champa đã đóng vai trò độc quyền trong quan hệ với Philippin một thời
gian dài (từ trước thế kỷ X đến XIII ). Do đó, thương mại và cống nạp của
Philippin đến được Trung Quốc là thông qua Champa. ”Con đường của đồ gốm thương
mại Quảng Đông có lẽ từ Trung Quốc tới Champa và rồi tới Butuan”. Champa đóng
vai trò trung gian là trạm trung chuyển đồ gốm giữa Trung Quốc với những miền
định cư ở rìa phía Đông của biển Nam Trung Quốc như Ma-i, đảo Borneo và BuTuan.
William Scott cũng đã đưa ra những cứ liệu lịch sử để minh chứng cho nhận xét
của Peter Burns và Roxanna Brown, trên cơ sở những ghi chép của Tống Sử: “Đoàn
triều cống đầu tiên đến Trung Quốc dường như đi từ Buutan ngày 17-3-1001”. Năm
1007, Butuan thỉnh cầu với Hoàng đế Trung Hoa để được nhận một vị trí tương tự
như Champa, nhưng lời thỉnh cầu bị từ chối với lý do là Butuan ở dưới trướng
Champa. Chỉ vào khoảng thế kỷ XIII thì con đường liên hệ trực tiếp LuZon và
Fujian mới trở nên phổ biến, trước đó tất cả các việc buôn bán với Trung Quốc
đều đi bằng con đường của Champa. Nhiều khả năng, những con thuyền chạy trên
vùng biển Butuan-Champa là thuyền của Champa, bởi trong thời kỳ này nghề đóng
thuyền và đi biển của Champa đã rất phát triển và thủy thủ Champa là những
người dày dạn kinh nghiệm. Champa đã lợi dụng vị trí trung gian của mình giữa
Philippin và Trung Hoa để xúc tiến những hoạt động thương mại. Biển Champa có
thể được xem là“sân chơi” Của các tộc người Malayo Polynésien. Dấu vết của sự
kiện này vẫn được tìm thấy ở những vùng đất đai mà ngay nay người Mã Lai vẫn
đang nấm quyền sở hữu, cụ thể là tiểu bang Kelantan của Malaysia.
Sự nổi tiếng về
thông thương qua lại giữa Champa và Malaysia lúc bấy giờ mạnh đến nổi khiến
vùng đất này (bang Kelantan) được gọi là “ nơi dừng chân của Chepa”. “ Chepa” ở
đây là Champa phát âm theo giọng địa phương của người Kelantan-Pattani. Có lẽ
chúng ta hãy nên trả lịch sử về cho lịch sử. Và những đứa con Melayo-polynesian
(cụ thể là sắc dân Chăm. Cũng như phần lớn các quốc gia Đông Nam Á khác trong
lịch sử, Champa đã chủ động dự nhập mạnh mẽ vào hệ thống thương mại khu vực để
bù lấp những thiếu hụt của nền kinh tế nước mình, biến tiềm năng kinh tế bên
ngoài thành bộ phận kinh tế quan trọng của mình. Có thể thấy rằng Champa có
những mặt hàng có giá trị, đáp ứng được nhu cầu của các thị trường Trung Quốc
và Tây Á. Champa với các thế mạnh của mình về vị trí địa lý,đội tàu thuyền hùng
hậu, cũng như những mặt hàng thương mại có giá trị, không những đã trở thành
một trạm trung chuyển hàng hóa (Entrepôt) cho các thị trường lớn trên thế giới,
mà còn là nguồn cung cấp hàng hóa quan trọng cho nền thương mại khu vực và thế
giới. Hoạt động thương mại thực sự trở thành một thế mạnh và là nền tảng cho
toàn bộ nền kinh tế Champa. Một nguồn hàng bí mật mà người Champa thu mua từ
Butuan (Philippin) suốt nhiều thế kỷ mà các thương nhân Trung Hoa không hề hay
biết. Vương quốc Champa đã có thể giấu Trung Quốc vị trí chính xác của Butuan.
Champa muốn giữ bí mật vì đây là nơi sản xuất vàng có quy mô lớn và rất quan
trọng. Những cuộc khai quật ở Butuan đưa ra được những bằng chứng về việc sản
xuất vàng trên quy mô lớn, cả vàng thường và vàng thau, đã cho phép chúng ta
thấy Champa là một nguồn vàng bí mật mà Trung Quốc không biết. Những mối liên
hệ và quan hệ thương mại giữa Champa và Butuan chắc chắn đã có trước ít nhất là
từ thế kỷ X. Với việc khai thác tối đa những nguồn lợi vốn là thế mạnh của
mình, cùng với việc dự nhập mạnh mẽ vào luồng thương mại khu vực và quốc tế,
Champa trong một thời gian dài trở thành một cường quốc thương mại trong khu
vực, đóng vai trò là một trung tâm liên vùng – trung tâm thu gom và phân phối
hàng hóa với chức năng trung chuyển giữa trung tâm liên thế giới với các vùng.
Từ đây, chúng ta thấy một phần nào câu hỏi trong lịch sử champa: vì sao champa
lại có vàng nhiều, trong khi đất nước họ không có mỏ khai thác vàng. Mật độ
phân bố và quy mô các di tích tháp champa cho biết đó là những khu vực tụ cư
đông đúc và lâu đời, một xã hội sức có nền sản xuất khá phát triển và do đó,
vào giai đoạn cuối của nền văn hóa này có thể đã hình thành một hình thái “nhà
nước sơ khai” kiểu liên minh bộ lạc. Cùng trên địa bàn mà sau này hình thành
nhà nước Lâm Ấp – vương quốc Champa, mối quan hệ giữa văn hóa Sa Huỳnh và văn
hóa Champa được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Những năm gần đây, nhiều cuộc
khai quật khảo cổ học đã được tiến hành nhằm tìm hiểu mối quan hệ này. Địa bàn
quan trọng là tỉnh Quảng Nam vì đây được xem là trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh
và văn hóa Champa. Trong nhiều di tích các nhà khảo cổ đã tìm thấy những mảnh
gốm vừa mang đặc điểm của gốm Sa Huỳnh và cả đặc điểm gốm Champa. Đây là nguồn
tư liệu quan trọng để chứng minh con đường phát triển từ văn hóa Sa Huỳnh lên
văn hóa Champa. Bên cạnh đó các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra từ thư tịch cổ một
số “yếu tố Sa Huỳnh” trong xã hội và văn hóa Chaqmpa. Từ không gian và thời
gian, trên cơ sở những tư liệu khảo cổ học, đến nay có thể cho rằng nhà nước
Champa là sự tiếp nối văn hóa Sa Huỳnh, được hình thành trên cốt lõi văn hóa Sa
Huỳnh dưới ảnh hưởng những yếu tố văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, Trung Đông.
Phân bố trên
dải đất miền Trung Việt Nam, nhưng trung tâm của văn hóa Sa Huỳnh là khu vực
Quảng Nam – Quảng Ngãi, còn khu vực Nam Trung Bộ, từ Phú Yên đến Bình Thuận
những di tích và di vật thời tiền – sơ sử chỉ được phát hiện và nghiên cứu từ
sau năm 1975. Cho đến nay số lượng di tích ở khu vực này không nhiều và có thể
nói, tính chất và diện mạo của “văn hóa Sa Huỳnh” ở đây có phần khác biệt so
với vùng trung tâm, kể cả giai đoạn nối tiếp từ văn hóa Sa Huỳnh sang văn hóa
Champa. Văn hóa khảo cổ ở đây có những nét độc lập nhất định so với vùng trung
tâm của văn hóa Sa Huỳnh. Ngay từ giai đoạn đồ đồng ở khu vực Khánh Hòa đã phân
lập được một văn hóa khảo cổ là “văn hóa Xóm Cồn”.
Theo công trình
Văn hóa Xóm Cồn với tiền sử và sơ sử Khánh Hòa thì văn hóa Xóm Cồn là một văn
hóa khác Sa Huỳnh và sớm hơn “Sa Huỳnh cổ điển”. Xóm Cồn là một văn hóa có niên
đại sớm nhất thuộc thời đại kim khí ở Khánh Hòa nói riêng và miền Trung Việt
Nam nói chung, mặc dù chưa xuất hiện di vật bằng kim loại nhưng dựa vào sự tiến
bộ của đồ gốm cũng như trong bối cảnh đồng đại của khu vực, văn hóa Xóm Cồn có
thể được xem là mở đầu cho thời đại kim khí khu vực miền Trung. Tại tất cả các
di tích thuộc văn hóa này hoàn toàn vắng mặt những di vật và sắc thái văn hóa
đặc trưng của Sa Huỳnh như chum, vò lớn, vũ khí công cụ bằng sắt, khuyên tai
hai đầu thú và khuyên tai ba mấu… Đến giai đoạn muộn sơ kỳ thời đại Đồ Sắt, ở
một số di tích mộ vò ở Nam Trung bộ như Hòa Diêm (Cam Ranh, Khánh Hòa), Hòn Đỏ,
Bàu Hòe (Bình Thuận) có nhiều yếu tố khác biệt mộ chum vò Sa Huỳnh điển hình và
thậm chí còn có những yếu tố gần gũi với văn hóa Đồng Nai ở miền Đông Nam bộ
như hình dáng chum, vò mai táng, hiện tượng di cốt và than tro hiện hữu trong
chum, vò táng…
Như vậy, văn
hóa Sa Huỳnh với giai đoạn đỉnh cao là “Sa Huỳnh cổ điển” vào sơ kỳ đồ sắt cần
được hiểu là kết quả hội tụ sự phát triển của từng khu vực trong các giai đoạn
thuộc thời Đồng thau trước đó (khoảng 1.500 – 500 trước công nguyên), cho đến
nay biết được là ở Quảng Nam có Bàu Trám, Quảng Ngãi có Long Thạnh, Bình Châu,
Cù lao Ré, đảo Lý Sơn, Bình Định có Bàu Đỏ, Phú Yên có Gò Ốc, Gò Bộng Dầu,
Khánh Hòa có Xóm Cồn, Bích Đầm, Hòn Tre, Ninh Thuận có Hòn Đỏ, Bình Thuận có
Bàu Hòe, đảo Phú Quý… Ngoài ra những phát hiện khảo cổ học ở Tây Nguyên gần đây
cũng góp phần chứng minh cho sự phát triển “văn hóa đa tuyến” ở khu vực miền
Trung: văn hóa Biển Hồ (Gia Lai), Lung Leng (Kon Tum), những di tích ở Đăk Lắk,
Đăk Nông… đều thể hiện những đặc trưng riêng biệt đồng thời vẫn có “yếu tố Sa
Huỳnh” trong di tích và di vật, nhất là về mộ chum, cách thức mai táng và đồ
tùy táng chôn theo. Những nhóm di tích hay văn hóa khảo cổ này có sắc thái văn
hóa rất đa dạng từ biển và hải đảo đến núi và rừng, vừa độc lập với nhau vừa có
mối giao lưu hoặc quan hệ tộc thuộc với nhau và cùng tham góp vào quá trình đưa
văn hóa Sa Huỳnh phát triển lên đỉnh cao trong thời đại sơ kỳ Đồ Sắt (khoảng
500 năm trước Công nguyên đến đầu công nguyên). Đây cũng là hiện tượng và quy
luật chung của các văn hóa thời đại kim khí như văn hóa Đông Sơn ở phía Bắc với
các tuyến phát triển ở lưu vực sông Hồng, sông Mã và sông Cả, văn hóa Đồng Nai
với các tiểu vùng phù sa cổ Đồng Nai, lưu vực Vàm Cỏ và vùng ngập mặn ven biển
Đông Nam Bộ.
Như vậy, nam và
cực nam Trung Bộ là nơi tụ hội từ biển – đảo vào, từ rừng – núi xuống của nhiều
tộc người và ngữ hệ từ sau thời kỳ đá mới. Sang sơ kỳ kim khí càng phân lập, về
cơ bản có hai hệ: Nam Đảo ở biển và ven biển và hệ Nam Á ở đồi núi và rừng. Hai
hệ này lại phân chia thành nhiều nhóm tộc người khác nhau nhưng cũng tăng cường
giao lưu giao tiếp (cả xung đột nữa) về kinh tế, văn hóa, xã hội với nhau. Phân
bố trên dải đất này văn hóa Sa Huỳnh là thành quả đóng góp của nhiều nhóm cư
dân – tộc người, trong đó mang đậm dấu ấn văn hóa biển của những người thuộc
ngữ hệ Malayo – Polynesien cư trú trên vùng đảo và quần đảo Đông Nam Á (và rộng
hơn), bên cạnh dấu ấn văn hóa của những người thuộc ngữ hệ Nam Á – Môn Khmer cư
trú trên dải Trường Sơn – Tây Nguyên. Quá trình tiếp xúc, giao lưu giữa các tộc
người đã tạo nên sắc thái đặc trưng từng vùng, từng khu vực. Từ nền văn hóa sa
huỳnh mà các nhà khỏa cổ học khai quật được, chứng minh rằng người champa là
tiền thân của người nam đảo Malayo – Polynesien. Các nhà sử học từng quan niệm
miền Trung là vùng đất giao thoa văn hóa giữa miền ngược và miền xuôi cũng như
giữa miền Bắc và miền Nam. Theo mô hình “mạng lưới giao thương miền ngược –
miền xuôi” của Bennet Bronson, hệ thống giao thương ven sông là đặc trưng tiêu
biểu của một trung tâm thương mại duyên hải, vốn thường được xây dựng tại một
cửa sông và đóng vai trò trung tâm xuất nhập khẩu hàng hóa. Ngoài ra, cũng có
những trung tâm thương mại nằm sâu trong đất liền hay ở miền ngược xa xôi, có
chức năng như những “trạm cung cấp” hoặc các điểm tập trung ban đầu đối với
nguồn hàng hóa xuất xứ từ những vùng ở xa sông nước hơn. Cư dân sống ở miền ngược
hoặc các làng bản thượng nguồn thường sản xuất và vận chuyển lâm sản đến trung
tâm thương mại ở cửa sông, nơi họ tìm thấy dân cư tập trung đông đúc hơn và qua
đó có thể tiếp xúc với một “nền kinh tế có trình độ kỹ thuật sản xuất tiên tiến
hơn”. Các học giả đã áp dụng mô hình của Bronson trong việc nghiên cứu lịch sử
các nhà nước cổ đại ở bán đảo Malaysia và Sumatra, cũng như Champa – một vương
quốc cổ chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ ở miền Trung Việt Nam. Mô hình này cũng
hoàn toàn phù hợp với các điều kiện địa lý của miền Trung, nơi vương quốc
Champa đã hiện hữu trong quá khứ. Tại khu vực này, hầu hết sông ngòi chảy từ
Tây sang Đông, và từ các dãy núi và cao nguyên đổ ra biển. Dọc theo mỗi con
sông, ở miền ngược, có nhiều làng mạc tụ cư của các dân tộc thiểu số. Nhờ những
con sông này, các dân tộc vùng cao thông thương giao lưu với các trung tâm
thương mại ven biển nằm ở cửa sông. Các hiện vật khảo cổ cho thấy sự giao
thương giữa miền ngược – miền xuôi đã diễn ra từ thời tiền sử. Những hiện vật
khảo cổ mới phát hiện (có niên đại từ thế kỉ thứ 5 TCN đến thế kỉ thứ 2) đã
giúp các nhà khảo cổ học có những khám phá mới về hệ thống giao thương miền
ngược, miền xuôi ở miền Trung từ thời tiền sử.Từ thập niên 1990, các nhà khảo
cổ học Việt Nam và quốc tế đã khai quật được nhiều những hiện vật tại các di
chỉ khảo cổ ở miền Trung, đặc biệt lưu vực sông Thu Bồn thuộc địa bàn tỉnh
Quảng Nam; cung cấp cho chúng ta những hiểu biết toàn diện hơn về quá khứ của
vùng đất này cũng như một kiến thức sâu sắc về hoạt động tương tác giữa miền
ngược và miền xuôi trong suốt thời tiền sử.
Các hiện vật
khảo cổ tìm thấy ở miền Trung cho thấy nơi này chịu ảnh hưởng của hai nền văn
hóa ngoại lai, đó là của nhà Hán Trung Quốc (206 TCN – 220) và của Ấn Độ. Những
hiện vật này chứng minh trong quá khứ đã tồn tại mối quan hệ hải thương giữa
một số cảng-thị và các tiểu quốc ở miền Trung với các cảng-thị khác ở Trung Hoa
và tiểu lục địa Ấn Độ. Miền Trung đóng vai trò quan trọng trong “Con đường Tơ
lụa trên Biển” (Maritime Silk Road) trong giai đoạn từ năm 500 TCN đến năm 300,
nhờ vào các nguồn tài nguyên rừng phong phú cũng như địa thế thuận lợi, nơi có
nhiều ví trí tiềm năng để xây dựng các trung tâm trung chuyển hàng hóa tiện
dụng.
Văn hóa Sa
Huỳnh dọc sông Thu Bồn
Các nhà khảo cổ
đã khai quật một số lượng lớn các di chỉ mộ táng của văn hóa Sa Huỳnh dọc hai
bên bờ sông Thu Bồn, cũng như dọc theo các phụ lưu của sông này đổ xuống vùng
xuôi. Năm 1985, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã khai quật bãi mộ táng thuộc văn
hóa Sa Huỳnh ở làng Tabhing nằm sâu trong nội địa thuộc địa bàn tỉnh Quảng Nam,
dọc theo một dòng sông chảy vào Bến Giằng, một vị trí giao thương quan trọng
trong khu vực. Làng Tabhing là nơi cư trú của người Katu, một dân tộc thiểu số
nói tiếng Môn-Khmer ở dãy Trường Sơn. Từ năm 1997, các nhà khảo cổ học Việt Nam
phối hợp với các nhà khảo cổ học Nhật Bản tiến hành khai quật các di chỉ Sa
Huỳnh tập trung ở khu vực miền núi sâu trong đất liền, dọc theo các vùng trung
du và thượng lưu sông Thu Bồn.
Các di chỉ khảo
cổ khai quật được ở cả đồng bằng duyên hải lẫn vùng sâu trong đất liền thuộc
lưu vực sông Thu Bồn cùng bộc lộ hai giai đoạn văn hóa: một giai đoạn đầu và
một giai đoạn sau. Các hiện vật văn hóa khảo cổ khai quật được tại các khu vực
ở thượng nguồn lẫn hạ lưu cho thấy việc giao thương đã xuất hiện từ thời đó và
phát triển liên tục từ giai đoạn đầu cho đến giai đoạn sau; chúng là những bằng
chứng hiển nhiên chứng minh sự tương tác giữa miền ngược và miền xuôi suốt thời
kỳ tiền sử.
-Văn hóa Sa
Huỳnh và Thương mại quốc tế
Thư tịch cổ của
Trung Hoa cũng cung cấp chứng cứ cho thấy miền Trung Việt Nam đã xuất khẩu các
loại gỗ thơm sang Trung Hoa. Theo những ghi chép của triều đình Trung Hoa từ
thế kỉ thứ3, như cuốn “Nam Châu dị vật chí” (Nanzhouyiwuzhi), thì trầm hương
được sản xuất tại châu Nhật Nam (nay là miền Trung Việt Nam) nơi cư dân thu
thập gỗ trầm từ rừng núi. Hầu hết các nhà khảo cổ học nghiên cứu tại miền Trung
đều đồng ý với quan điểm rằng có thể chứng minh sự tồn tại của một mối quan hệ
quốc tế giữa các nền văn hóa Sa Huỳnh, Ấn Độ và Trung Hoa, diễn ra theo các
giai đoạn sau: Giai đoạn đầu, từ thế kỉ thứ V TCN đến thế kỉ thứ II, miền Trung
(lưu vực sông Thu Bồn) là vùng đất giao thoa giữa hai dòng văn hóa, chịu ảnh
hưởng của Trung Hoa từ phương Bắc và Ấn Độ từ phương Nam. Dựa vào các loại hàng
hóa nhập khẩu, các nhà khoa học kết luận rằng trong thời kì này văn hóa Trung
Hoa từ phương Bắc có sức ảnh hưởng mạnh hơn văn hóa Ấn Độ từ phương Nam. Giai
đoạn thứ hai là khoảng thời gian tiếp theo, từ thế kỉ thứ II đến thế kỷ thứ V,
Ấn Độ và Trung Hoa có sức ảnh hưởng ngang nhau đối với miền Trung. Tuy nhiên,
ảnh hưởng của Ấn Độ đã trở nên vượt trội hơn so với Trung Hoa từ thế kỉ thứ V
trở đi. Không gian văn hóa của các di chỉ khảo cổ Sa Huỳnh ở miền Trung, từ
vùng duyên hải đến vùng núi, có sự trùng lắp chính xác với các di chỉ khảo cổ
vương quốc (các tiểu quốc) Champa hình thành trong các thế kỉ sau đó.
Thu Bồn – Con
sông dài nhất trong các sông chính ở miền Trung
Sông Thu Bồn
thuộc tỉnh Quảng Nam là con sông dài nhất trong các sông chính ở miền Trung.
Lượng mưa trung bình ở khu vực này xấp xỉ 4.000 mm/năm. Nhờ có lượng mưa dồi
dào, sông Thu Bồn có nguồn nước đầy đủ quanh năm. Đây là dòng sông chính kết
nối các vùng núi với các vùng duyên hải. Chính vì vậy con sông đóng vai trò
quan trọng trong việc trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi. Từ thế kỉ
thứ V, các triều đại Champa đã tôn thờ con sông này như một dòng sông thiêng,
đặt tên là Mahanadi (Sông Mẹ Vĩ Đại) hay Nữ thần Ganga, vợ của Thần Siva. Lưu
vực sông Thu Bồn là giao điểm của tất cả các sông chính ở tỉnh Quảng Nam. Nhiều
khu chợ sầm uất dọc sông Thu Bồn là các địa điểm tập trung lâm sản trước khi
chuyển đến phố – cảng Hội An. Thượng nguồn của sông Thu Bồn là nơi giao nhau
giữa vùng núi và vùng trung du. Nơi đây có bến Hòn Kẽm – Đá Dừng ở thôn Thạch
Bích, là nơi các nhà khảo cổ phát hiện được tấm bia đá có niên đại từ thế kỉ
thứ VII. Theo chữ khắc trên bia này thì bia thuộc triều vua Prakasa dharma (thế
kỷ thứ 7): “Sri Prakasa dharma, vua Champa luôn chiến thắng, người chủ của vùng
đất này,… đã dựng bia tại đây để thờ thần Amaresa (Siva)”. Các chữ Champa khắc
trên bia là bằng chứng rõ ràng nhất cho thấy khu vực này trước đây do các vua
Champa cai trị. Thôn Thạch Bích cũng có những di chỉ khảo cổ tiền sử được khai
quật vào tháng 8.2001. Từ đây, các nhà nghiên cứu kết luận rằng “hệ thống giao
thương miền ngược – miền xuôi” đã được cư dân Champa sớm thiết lập từ thế kỉ
thứ VII, hoặc cũng có thể có trước cả thời kỳ Champa.
Các nhà khảo cổ
đã phát hiện được nhiều tác phẩm nghệ thuật của người Chàm tại các khu chợ ven
sông nổi tiếng thuộc hạ lưu sông Thu Bồn. Các tác phẩm này là bằng chứng cho
thấy tất cả các địa điểm này đều có mối liên hệ với các di tích lịch sử Champa.
Do vậy, các nhà nghiên cứu cũng giả định rằng các mô hình tương tác giữa miền
ngược và miền xuôi trong khu vực này đã được hình thành từ các thời kì xa xưa
hơn, với mục đích tập trung nguồn lâm sản để xuất khẩu, thậm chí còn trước cả
thời hoàng kim của phố-cảng Hội An trong các thế kỉ XVII và XVIII. Dần dà các
mô hình này được phát triển thành “mạng lưới thương mại mậu dịch rộng khắp và
trở thành các khu chợ trung chuyển và xuất khẩu quan trọng bậc nhất ở biển
Đông”.
‘Hệ thống giao
thương miền ngược và miền xuôi’ trong thời kỳ Champa (từ thế kỉ thứ II đến thế
kỉ thứ V)
Nền kinh tế của
vương quốc hay các tiểu quốc Champa, ngoài nền tảng ngư nghiệp và nông nghiệp,
phần lớn tập trung vào thương mại duyên hải với Ấn Độ, Trung Hoa và các vùng
quốc gia khác ở Đông Nam Á. Champa chính là nguồn cung cấp gần gũi nhất, từ
đây, Trung Hoa đã có thể nhập cảng nhiều loại xa xỉ phẩm như ngà voi, sừng tê,
quế, trầm hương và hương liệu…, đồng thời các cảng trung chuyển hàng hóa ở vùng
duyên hải cung cấp chỗ neo đậu an toàn, nước ngọt và củi gỗ cho các tàu đi dọc
bờ biển từ Nam Á lên Đông Á. Do vậy, vương quốc Champa đã cung ứng những thương
nhân trung gian quan trọng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động thương mại trong vùng
biển phía nam (còn gọi là Nam Hải).
Sự hưng thịnh
của các vương triều Champa được thể hiện qua các công trình kiến trúc tôn giáo.
Mẫu mực của các kiến trúc này có thể thấy ở sự phong phú của các đền-tháp Phật
giáo và Ấn Độ giáo xây bằng gạch tại miền Trung. Đáng chú ý nhất trong số
đền-tháp này là quần thể kiến trúc Ấn Độ giáo tại Thánh địa Mỹ Sơn gồm 68 ngôi
đền xây dựng từ cuối thế kỉ thứ IV đến thế kỉ thứ XIII. Tổ chức UNESCO đã đưa
quần thể kiến trúc này vào Danh sách Di sản Văn hóa Thế giới từ năm 1999. Ngoài
ra còn một phức hợp của Thánh địa Phật giáo Đồng Dương xây dựng năm 875, hiện
nay là một trong những công trình kiến trúc lịch sử Phật giáo quan trọng nhất ở
Đông Nam Á.
Theo đánh giá
của các nhà sử học, cư dân của vương quốc Champa (urang Campà) là những thương
nhân rất tài giỏi. Dọc theo các con sông chính trong khu vực, họ đã thiết lập
một mạng lưới kinh tế để trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi. Các
thương nhân này nắm giữ việc trao đổi các nhu yếu phẩm giữa cư dân ở vùng duyên
hải và cư dân ở vùng núi.
Người Katu ở
miền ngược
Các khu vực
miền núi của tỉnh Quảng Nam là quê hương của người Katu, một dân tộc thiểu số
nói tiếng Môn-Khmer. Người Katu, hiện nay có dân số khoảng 50.000 người, đã
trân trọng và ra sức gìn giữ bản sắc văn hóa truyền thống của tổ tiên họ truyền
lại. Một số ít người Katu hiện đang sống tập trung ở tỉnh Sekong của CHDCND Lào
dọc theo biên giới với Việt Nam. Họ vẫn còn lưu giữ “những phong tục, truyền thống,
kiến thức và văn hóa dân gian rất phong phú về thiên văn học, y khoa và các
ngành khoa học khác
Các ngôi làng
rải rác của người Katu ở tỉnh Quảng Nam được xây dựng từ thượng nguồn cho đến
hạ lưu của các con sông chính trong khu vực. Ngày nay, người Katu sống gần đồng
bằng nhất tập trung tại thôn Phú Túc, phía Tây thành phố Đà Nẵng, cách bờ biển
khoảng 15km. Người Katu tự gọi mình là “Phương”, nghĩa là “người sống ở núi
rừng”.
Muối là mặt
hàng quan trọng nhất trong trao đổi buôn bán giữa người miền xuôi và miền
ngược. Muối được nhấn mạnh trong hầu hết các nghiên cứu về người miền ngược. Họ
thậm chí còn xây dựng một con đường mậu dịch chính gọi là “Con Đường Muối”. Vào
giữa thế kỉ XX, nhà dân tộc học người Pháp Jacques Dournes (Dam Bo) đã mô tả
sinh động “con đường lớn” này kéo dài từ miền núi đến miền biển trong những
công trình nghiên cứu của ông về các dân tộc thiểu số ở cao nguyên miền Trung.
“Con Đường Muối” kết nối miền ngược và miền xuôi cũng như mang các tộc người
lại gần với nhau, không chỉ để trao đổi nhu yếu phẩm mà còn vì văn hóa và hôn
nhân liên sắc tộc.Thậm chí ngày nay, người Kinh ở đồng bằng, người Katu sống ở
miền ngược vẫn thực hiện mua bán muối trong lưu vực sông Thu Bồn.
Việc mua bán
muối với người miền xuôi đầu thế kỉ XX cũng được nhắc đến trong các câu hát dân
gian của người Katu:
“Ngài là chủ
muối,
Chúng tôi luôn
là bạn của ngài,
Vì ngài mang
trâu cho chúng tôi có thịt ăn,
Và giúp mua bán
thuận lợi,
Nên chúng tôi
uống rượu với ngài,
Nhà “gươl” của
chúng tôi là nhà của ngài,
Vì ngài hùng
mạnh và giàu có,
Chúng tôi muốn
làm bạn với ngài”.
“Mạng lưới giao
thương miền ngược – miền xuôi” ở miền Trung Việt Nam: Mẫu hình đa sắc tộc cộng
cư trong khu vực
Nhờ có vị trí
địa lý nằm giữa miền Bắc và miền Nam Việt Nam, tỉnh Quảng Nam là vùng đất hội
tụ các nền văn hóa. Điều này giải thích cho việc cộng cư của các sắc tộc nói
tiếng Nam Đảo và các sắc tộc nói tiếng Nam Á (Môn-Khmer) cũng như dân tộc Kinh
hoặc người nói tiếng Việt với các cư dân bản địa trước đây của vùng đất này.
Trong suốt thời kỳ tiền Việt (nước Việt Nam hiện đại – ND), vào thế kỉ XVI, cư
dân sống ở lưu vực sông Thu Bồn vẫn dùng ngôn ngữ Champa của riêng họ và gìn
giữ các phong tục Champa cổ. Những cư dân sống ở đồng bằng này có thể đã bắt
đầu nói tiếng Việt vào một thời điểm nào đó trong thế kỉ XVII. Sự pha trộn ngôn
ngữ phản ánh rõ rệt trong ngữ âm độc đáo của người nói tiếng Việt sống ở lưu
vực sông Thu Bồn.Yếu tố văn hóa của vương quốc Champa vẫn còn tồn tại ở miền
Trung. Theo hầu hết các tường thuật của người phương Tây và người Nhật Bản đến
miền Trung hay Cochin-China (tên người phương Tây dùng để gọi Đàng Trong trước
hậu bán tk XIX – ND) trong suốt các tk XVI và XVII, thì ảnh hưởng của văn hóa
Champa vẫn còn rất mạnh, khi vùng đất này được gọi là Kẻ Chiêm hay Xứ Chiêm.
Các chứng cứ ngôn ngữ và lịch sử chỉ rõ rằng một hình mẫu của sự cộng cư từ lâu
đã là đặc trưng của mối tương tác giữa các dân tộc sinh sống ở lưu vực sông Thu
Bồn nói riêng cũng như ở miền Trung nói chung. Theo những tài liệu có dấu vết
thời gian rõ ràng từ sử liệu cổ Trung Hoa và các bia ký ghi nhận thì vương quốc
cổ Champa chính thức xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ II, tức năm 192 khi quốc
gia Lâm Ấp ra đời. Thật ra vương quốc này trước đó có rất nhiều tên: Hồ Tôn
Tinh, Tượng Lâm... Sau này được đồng hóa với các tên Lâm Ấp, Hoàn Vương Quốc,
Champa (Campapura), Phan Rang (Panduranga), cuối cùng là trấn Thuận Thành
(Pradara).Về vùng đất Tượng Lâm, các sử liệu Trung Hoa xác quyết đó là phần đất
ở vùng cực Nam quận Nhật Nam xưa kia, trực thuộc quyền quản trị hành chánh của
Giao Châu thời Bắc thuộc; ngày nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định
(có tài liệu ghi đến cửa Đại Lãnh, Phú Yên). Những nhà khảo cổ phương Tây cho
rằng Tượng Lâm có thể là phần đất chạy dọc theo bờ biển, từ đèo Ngang đến đèo
Hải Vân, nằm trong lãnh thổ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và
Thừa Thiên, gọi chung là Thanh Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên. Một số học giả
người Champa xác nhận lãnh thổ Tượng Lâm bao gồm: Indrapura (Bình Trị Thiên),
Amavarati (Quảng Nam) và Vijaya ( Bình định), sau này gọi chung là Bắc Champa. Các
triều vương Champa mà người sáng lập Khu Liên lên ngôi năm 192, trị vì trong
nhiều năm, nhưng không biết mất năm nào và ai là người kế vị. Sử cổ Trung Hoa
(Lương thư) cho biết trong khoảng thập niên 220-230, con cháu Khu Liên có gởi
phái bộ đến thống đốc Quang Đông và các thái thú Giao Châu (Lã Đại và Lục Dận)
triều cống và duy trì quan hệ ngoại giao. Từ sau nửa thế kỷ thứ hai sau công
nguyên, phần lãnh thổ cực nam Giao Chỉ trở nên khó trị, dân cư bản địa liên tục
nổi lên chống lại chính sách cai trị hà khắc của chính quyền đô hộ nhà Hán.
Huyện Tượng Lâm trở thành nơi tranh chấp thường trực giữa quan quân đô hộ nhà
hán và nhân dân địa phương.
4-Lịch sử nền văn minh Champa qua văn tự và văn hóa lễ hội
Về ngôn ngữ, người Champa được nhiều nhà nhân chủng học xếp vào dòng Nam
Đảo (Malayo Polynésien), nghĩa là có nguồn gốc xuất phát từ các hải đảo phía
Nam, vùng biển Đông Nam Á. Điều này có thể đúng khi đối chiếu văn hóa của người
Champa với văn hóa của các dân tộc cùng hệ ngôn ngữ tại Đông Nam Á vào thời tạo
dựng. Nhưng qua những khám phá khảo cổ gần đây, văn minh và văn
hóa của người Champa tại Việt Nam không hoàn toàn do ngoại nhập mà có sự pha
trộn yếu tố văn minh và văn hóa của những nhóm cư dân bản địa có mặt từ trước. Nếu
đứng trên bình diện lịch sử hình thành ngôn ngữ thì chúng ta thấy văn tự của
tộc người Champa chưa hẳn có một ngôn ngữ biệt lập. Vì sao? Vì chúng ta biết
lúc đầu thổ dân Champa bản địa đã sử dụng ngôn ngữ cổ Mã Lai, rồi là thổ ngữ
Nam Đảo; về sau lại có sự pha trộn ngữ âm thuộc nhóm Môn Khmer. Tiếp sau đó là
những đợt di dân của các tộc người thuộc nhóm hải đảo như: Java, Sumatra; các tộc
người phương Bắc như: Văn Lang, Hán triều,… và những đợt du nhập văn minh Ấn
Độ, Ả Rập,… đã làm cho văn tự tộc người Champa biến đổi sâu sắc. Tuy nhiên, sự
biến đổi ấy chúng ta thấy yếu tố Nam Đảo vẫn còn được bảo lưu mạnh nhất; có sức
ảnh hưởng, chi phối đậm nét đến lối phát âm chính của tộc người Champa. Ở miền
Bắc vương quốc Champa cho đến cuối năm 192, chúng ta thấy do nhu cầu trao đổi
thư tín ngoại giao chính trị và giao lưu văn hóa với các nước chịu ảnh hưởng
văn hóa dưới triều Hán, điều này diễn ra sôi nổi tại Giao Chỉ, nên văn tự
Champa có dùng chữ Hán. Nhưng đến thế kỷ thứ III, chúng ta lại thấy các đợt
triều cống được cử sang Giao Chỉ của vương quốc Lâm Ấp, những bia ký tìm được
đều khắc bằng chữ Sanskrit, ngay cả tên nước là Campapura cũng mang dáng dấp
địa danh Ấn Độ,… Điều này cũng có nghĩa là văn tự Ấn Độ đi theo các nhà truyền
giáo đã được phổ biến rộng rãi tại Lâm Ấp và trở thành quốc ngữ của Champa.
Ngoài các bia ký, văn học Champa có nhiều thể loại gồm có các sử thi (Akayet)
như Akayet Deva Muno, các trường ca như Ariya Cam-Bini, Ariya Sah Pakei, các
giai thoại, cổ tích cổ điển... Akayet Deva Muno là thi phẩm ca nổi tiếng, đóng
vai trò quan trọng trong văn học Champa và được phổ biến rất rộng rãi. Có lẽ
đây là tác phẩm đầu tiên được sáng tác bằng chữ akhar thrah (chữ viết Champa
thông dụng). Tác phẩm kể về cuộc chiến đấu cam go anh hùng của Deva Muno chống
lại Deva Samulaik, cứu công chúa Ratna và mang lại hòa bình cho thế giới trần
gian. Năm 1975, G. Moussay đã xác định nguồn gốc Mã Lai của thi phẩm Akayet
Deva Muno. Sử thi Akayet Deva Muno vay mượn cốt truyện Hikayat Deva Mandu của
Mã Lai. Bản in sử thi này đã được chuyển tự ra tiếng Pháp, Việt, Mã Lai. Gần
đây, Insara trong một bài nghiên cứu đã hiệu đính và sửa chửa một số sai lầm
trong các bản chuyển tự.
Sau thời đại Po
Rome vào thế kỷ 18, có hai tác phẩm Ariya Sah Pakei và Ariya Bini-Cam xuất
hiện. Ariya Sah Pakei nói về một chuyện tình và phản ảnh nhân sinh quan Champa.
Ariya Bini-Cam nói lên sự xung đột giữa hai tôn giáo Bàlamôn Ấn độ và Hồi giáo
qua một chuyện tình đổ vỡ giữa một hoàng thân Champa và công chúa Hồi giáo. Sự
xung đột và mất niềm tin của người Champa với văn hóa Ấn Độ dẫn đến sự sụp đổ
của vương quốc Champa .
Đứng trước
những đền, tháp Champa còn lại không bị hủy mất qua chiến tranh và thời gian
với các điêu khắc đặc sắc khác nhau đã làm nhiều người phải rung động trước cái
uy nghi, hùng tráng và vẽ đẹp huyền bí của chúng. Với rất ít ký tự để lại, việc
thẩm định niên đại, xếp loại các kiến trúc, điêu khắc và tìm hiểu quá trình
phát triển nghệ thuật Champa là một công trình khó khăn cần sự nghiên cứu công
phu tỉ mỉ không những qua tư liệu lịch sử mà còn qua tín ngưỡng tôn giáo, phong
cách cấu trúc, điêu khắc của tháp, đền, và nghệ thuật trang trí tạo hình.
Từ một số các
tháp, đền đã biết được niên đại qua bia ký hay tư liệu lịch sử làm chuẩn, ta có
thể thẩm định thời kỳ hay xếp loại các công trình khác chưa biết qua các phong
cách kiến trúc hay nghệ thuật tạo hình của các tháp. Các nhà nghiên cứu nghệ
thuật Champa như H. Parmentier, P. Stein, J. Boisselier ở thế kỷ trước đã sắp
xếp và phân loại để phát họa ra những nét chính của quá trình lịch sử phát
triển nghệ thuật Champa. Hiện nay cách phân loại phong cách nghệ thuật tạo hình
của P. Stein (và cải tiến thêm bởi Boisselier năm 1963) vẫn còn được coi là
khuông mẫu chuẩn có giá trị khoa học làm nền tảng cho những ai nghiên cứu về
nghệ thuật Champa.
Trong di tích
quần thể Mỹ Sơn, thì đền Mỹ Sơn E1 là xưa nhất dưới thời trị vì của vua Prakasa
dharma (Vikranta varman I) vào thế kỷ 7. Điêu khắc ở mi cửa đền bằng đá rất đẹp
với hoa văn trang trí thật phong phú và điêu nghệ. Tượng ở đền Mỹ Sơn E1 ít
nhưng đều là các kiệt tác trong nghệ thuật Champa, vì thế phong cách của nghệ
thuật này được đặt theo tên đền. Phong cách Mỹ Sơn E1 bắt đầu sắc thái bản địa
trong nghệ thuật, thoát khỏi sự sao chép máy móc của phong cách Ấn độ. Phong
cách Mỹ Sơn E1 được coi là phong cách cổ điển Champa. Tính cách lý tưởng của
truyền thống Gupta Ấn độ kết hợp hài hòa với sức sống tự nhiên bản địa. Các
điêu khắc tượng, thú vật được thể hiện rất sống động. Ở đây có sự tương tự với
nghệ thuật Dvaravati của người Mon (vùng Miến điện và Thái Lan hiện nay) và
nghệ thuật Indonesia. Ảnh hưởng của nghệ thuật Khmer tiền - Angkor cũng được
nhận rõ. Điều này cho phép các học giả xác định niên đại của chúng bằng cách so
sánh với các tác phẩm điêu khắc Khmer mà niên đại đã được biết. Sự ảnh hưởng
của hai nghệ thuật phong cách Mỹ Sơn E1 và Khmer tiền-Angkor là do sự liên hệ
gia đình giữa vua Champa và hậu duệ vua Khmer Ishanavarman I, người xây dựng
Sambor Prei Kut.
Vào thời Hoàn
Vương (758-859), các kiến trúc Champa được xây dựng theo phong cách Hòa Lai.
Phong cách Hòa Lai bắt nguồn ở phía nam có những sắc thái khác với phong cách
Mỹ Sơn E1 phát triển ở phía bắc vào thời kỳ trước trong thế kỷ 7. Đặc trưng của
phong cách Hòa Lai là chú trọng về kiến trúc hơn là trang trí. Di tích Hòa Lai
có ba tháp lớn, thon cao rất đẹp thể hiện ưu thế nổi bật của kiến trúc lên trên
điêu khắc trang trí. Đền Mỹ Sơn C7 cũng thuộc phong cách Hoà Lai. Vào thời kỳ
này, nhiều tượng đồng đã được tìm thấy ở Champa và chịu ảnh hưởng của Phật giáo
Đại thừa. Các tượng này chỉ có thể là có nguồn gốc từ Java mang đến Champa hay
được đúc lại ở địa phương phỏng theo tượng đồng Java của phong cách nghệ thuật
Nalanda. Sự hiện diện của các tượng đồng này dĩ nhiên có liên quan đến những
cuộc tấn công của Java vào Champa và khắp Đông Nam Á lục địa ở cuối thế kỷ thứ
8. Mặc dầu không nhiều nhưng các tượng này có ảnh hưởng đến nghệ thuật Champa
suốt một thế kỷ rưỡi sau đó. Không những nghệ thuật tạo hình bị ảnh hưởng từ
Java mà cả tín ngưỡng Phật giáo đại thừa từ Java đã được các vua Champa cuối
thế kỷ 9 áp dụng. Vua Champa trở thành tín đồ trung thành của tôn giáo mới này.
Sau phong cách
Hòa Lai là phong cách Đồng Dương. Các tượng ở đền A13, B4 trong quần thể Mỹ Sơn
đều bắt nguồn từ phong cách Đồng Dương. Các đền ở Đồng Dương được xây cất rất
đồ sộ, nhưng khác với Hòa Lai là trang trí trên đền rất dầy đặt và nổi bật chứ
không bị kiến trúc đền lấn át. Đa số các mô típ trang trí Đồng Dương có ảnh
hưởng từ Indonesia và các tượng điêu khắc thể hiện rõ ràng tín ngưỡng Phật giáo
đại thừa. Khuôn mặt trên tượng được điêu khắc với những nét phóng đại các đặc
tính chủng tộc của người Champa (như môi dày, mủi rộng).
Kế tiếp phong
cách Đồng Dương là phong cách Khương Mỹ. Phong cách Khương Mỹ thể hiện sự
chuyển tiếp từ Đồng Dương đến phong cách Mỹ Sơn A1 và Trà Kiệu (thế kỷ 10).
Nghệ thuật và kiến trúc Chăm theo phong cách Mỹ Sơn A1 và Trà Kiệu được coi là
thời kỳ hoàng kim của nghệ thuật Chăm. Về kiến trúc, phong cách Mỹ Sơn A1 có
sức sống mạnh mẽ, tinh tế, trang nhã. Kiến trúc đền Mỹ Sơn A1 thể hiện sự cân
bằng, quí phái về hình dáng với các trang trí ở đền rất kín đáo thanh tao,
không có quá nhiều chạm trổ chi tiết không cần thiết. Các cửa và mặt đền có
những cột tạo thành những khuôn chứa các tượng những người thờ phụng rất trang
nhã. Về điêu khắc, các tượng ở Mỹ Sơn A1 và Trà Kiệu mặc dù có chút ảnh hưởng
Indonesian nhưng rất là đặc thù nguyên tác Chăm. Các tượng thú vật rất thật và
sống động. Tượng vũ công apsara có thân hình uốn cong cân xứng với khuôn mặt
trầm tỉnh, đẹp đẽ và mĩm cười thoát trần (như tượng vũ công Trà Kiệu ở viện bảo
tàng Đà Nẵng). Sự quí phái và trang nhã của các tượng vũ công đạt đến tuyệt
đỉnh của nghệ thuật Champa.
Sau phong cách
Mỹ Sơn A1 và Trà Kiệu là phong cách Chánh Lộ thể hiện thời kỳ biến động trong
chiến tranh với Đại Việt khi Champa dời đô về Vijaya (Bình Định). Tháp Chánh Lộ
(Quảng Ngãi), đền Mỹ Sơn E4 và khu tháp Chiên Đàn (Quảng Nam) là tiêu biểu của
phong cách Chánh Lộ vào thế kỷ 11. Tính tự tin trong nghệ thuật kiến trúc và
tạo hình có vẽ mất đi. Như Trà Kiệu, các điêu khắc người (như vũ nữ, nhạc công)
của Chánh Lộ vẫn còn các động tác cân xứng với thân mình thường cong lại. Nhưng
cái mĩm cười thần bí hấp dẫn của Trà Kiệu không còn. Đồ trang sức ít, miệng lớn
và nét chạm khô khan hơn. Chỉ có điêu khắc các thú vật huyền bí là còn có thể
so sánh ngang hàng được với Trà Kiệu. Các tượng Gajasimha (đầu voi người sư tử)
ở các tháp Bằng An và Thu Bồn cũng thuộc phong cách Chánh Lộ. Sau Chánh lộ, ta
thấy điêu khắc Chăm có tính trang trọng và thô cứng, thể hiện trong các quần
thể kiến trúc ở Vijaya ở các tháp Po Nagar, Bình Lâm, Thủ Thiện, Cánh Tiên (tháp
Đồng), Dương Long, Hưng Thạnh, Phước Lộc (Tháp Vàng). Ảnh hưởng kiến trúc Khmer
(như prasat) được nhận thấy ở một số tháp. Các tháp này đánh dấu sự chuyển tiếp
đến phong cách đặc sắc cuối cùng của nghệ thuật Champa: phong cách Tháp Mắm
Bình Định.
Tháp Mắm không
còn, nhưng những tượng thần, môn thần, bệ đá điêu khắc, các mảng trang trí đền
hầu như còn được giữ khá toàn vẹn và đầy đủ. Tên tháp Mắm được nhà khảo cổ Pháp
J.Y.Claeys gọi khi ông khai quật chung quanh một cái tháp đã bị đỗ và tàn phá.
Tên tháp được đặt theo tên ông Nguyễn Mắm chủ nhân khu đất mà nhà khảo cổ người
Pháp đã đào và khai quật. Phong cách Tháp Mắm (giữa thế kỷ 12) đặc sắc ở điêu
khắc những tượng môn thần và thú vật huyền thoại. Những tượng này dường như mục
đích chủ yếu là trang trí. Cảm tưởng chung trước điêu khắc tượng là rất dầy
đặc, nặng nề, quá nhiều chi tiết, được chạm trổ rất chi li. Tượng động vật có
nét chung là có xu hướng huyền thọai, hoang đường hóa, phóng đại hơn là hiện
thực. Các con gajasimha, cá sấu makara, chim garuda, rồng đã biến thành những
trang trí kiến trúc đẹp. Các tượng chim thần garuda trang trí góc tháp với hai
tay đưa cao cho thấy ảnh hưởng của nghệ thuật Angkor. Phong cách Bayon của kiến
trúc và nghệ thuật Angkor nói chung có ảnh hưởng nhiều đến phong cách Tháp Mắm (như
tháp Hưng Thạnh có dáng của một đền thờ Khmer).Trong nghệ thuật Chăm, phong
cách Tháp Mắm nổi bật không kém hai phong cách Đồng Dương ,Trà Kiệu.
Người Champa đã
để lại ở Việt Nam ngoài di sản văn hoá và kiến trúc còn có các di sản địa vật
và kinh tế mà người Việt đã nhận lại.
Quảng Nam có lụa Phú Bông
Có khoai Trà Đoá có sông Thu Bồn
Như Mã Đoan Lâm đã viết về "vải
bông ki-pei", "trồng bông", dệt vải lụa màu người Champa rất
giỏi và sản xuất nhiều. Người ta đã tìm thấy ở nhiều di tích Sa Huỳnh những "con
lăn" bằng đất nung là cùng với màu sắc hoa văn trên vải lụa và nhiều dọi
xe sợi bằng đất nung. Trong 31 đồ triều cống cho nhà Minh, có tới 13 đồ vật
bằng vải bong: vải in hoa đỏ, vải in hoa cải củ, vải bông trắng, vải bông đen, khăn
tay, khăn vấn đầu…
"Khoai đất lạ", thịnh hành
với đất cát ven biển, sông, cũng như mía, vốn có nguồn gốc quê hương từ hải đảo
Thái Bình Dương và Châu Mỹ, được cư dân Nam Đảo Mã Lai du nhập vào khu vực hàng hải Đông Nam Á. Quê
hương của cây bông là Ấn Độ. Cư dân cổ Sa Huỳnh, cư dân Champa cổ thường xuyên
có mặt ngoài khơi, ngoài đảo xa. Vì thế họ đã có sự giao lưu kinh tế văn hoá
với thế giới hải đảo Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Họ đã nhập và thuần hóa
các thực vật để trồng trọt như khoai, mía, bông và xây dựng được các vùng đặc
sản mà ngày sau người Việt thừa kế: Khoai Trà Đoá, đường mía Quảng Ngãi, bông
Điện Bàn, Phan Rang, Phan Rí...
Lúa Chiêm từ Champa đã được đưa vào
Việt Nam từ thế kỷ 10. Theo Lê Quý Đôn, có nhiều loại lúa từ Champa đã được
mang vào Trung quốc như lúa tẻ có lông, lúa tẻ chín sớm (lúa tiên), lúa tiễn tử
(lúa 60 ngày, lúa chín trễ hơn gọi là lúa 80 ngày, lúa 100 ngày). Lúa Chiêm từ
Việt Nam đã lan qua Trung quốc tạo nên một cuộc cách mạng kinh tế lớn lao. Có
thể so sánh đây là cuộc cách mạng xanh (green revolution) đầu tiên trước cuộc
cách mạng xanh sau này ở thế kỷ 20. Vua Tống Chân Tông (998-1022) đã mang lúa
Chiêm vào Trung Quốc, sau này đã được áp dụng khắp nơi ở Nam Trung quốc, người
Trung quốc gọi loại lúa này là “lúa tiên”. Lúa Champa, theo sử Trung quốc, được
nhà Tống mang áp dụng vào đầu thế kỷ 11, bắt đầu tữ tỉnh Phúc Kiến, mang đến
Triết Giang để cấy trồng sau những vụ mất mùa do hạn hán và để tăng thêm thu
hoạch. Lúa Champa tăng trưởng và chín rất nhanh nên có thể trồng được hai vụ
lúa trong năm. Năng xuất vì thế rất cao. Đến thời nhà Minh thì các tỉnh phía
nam sông Dương Tử từ Triết Giang, Phúc Kiến đến Hải Nam đều dùng lúa Champa.
Cuộc cách mạng sản xuất nông nghiệp đã đưa đến sự tăng trưởng nhanh chóng về
dân số và kinh tế với sự bành trướng và xuất hiện của các trung tâm đô thị mới.
Người Trung quốc còn gọi lúa Champa là lúa do trời ban cho (lúa tiên). Đại Việt
và Trung quốc lớn mạnh cũng một phần do sự phát triển nông nghiệp qua lúa
Chiêm.
Âm nhạc, văn hoá Champa có ảnh hưởng
vào xã hội Việt Nam, nhất là trong đời Lý-Trần. Chiêu văn vương Trần Nhật Duật
là một thí dụ điển hình. Giỏi âm nhạc, Trần Nhật Duật cũng có niềm say mê đặc
biệt các ngôn ngữ nước ngoài, rất thích chơi với người nước ngoài, tìm hiểu
phong tục, tập quán, văn hóa và triết lý của họ. Từ Thăng Long, ông thường cưỡi
voi đến chơi thôn Da-da-li - một thôn gồm người Việt gốc tù binh Champa, sau
gọi trệch là thôn Bà Già, có lẽ ở mạn Cổ Nhuế, Từ Liêm - có khi ba bốn ngày mới
về. Văn hóa Champa nhất là về âm nhạc, triết lý không những lôi cuốn ông mà có
ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, văn hóa Việt Nam trong các triều đại Lý, Trần.
Các điệu nhạc cung đình, chèo và quan họ trong dân gian đều có nguồn gốc ảnh
hưởng từ văn hóa Chăm. Một số kiến trúc chùa đình thời Lý-Trần trong giai đoạn
này cũng có mang nét ảnh hưởng kiến trúc Champa như một số hình tượng chim thần
Garuda. Triết và đạo lý giữa hai dân tộc Việt Nam-Champa cũng giao lưu và ảnh hưởng
nhau. Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông lúc về hưu cũng đã không ngại đường xa thân
hành qua Champa để bàn bạc, trao đổi, học hỏi văn hóa đạo Phật và sống chung
như anh em với vua quan Champa trong một thời gian
Theo An Nam Chí lược của Lê Tắc,
tháp Bảo Thiên 11 tầng ở hồ Hoàn Kiếm là do tù binh Champa xây dựng. Nhiều chùa
ở Hà Nội như chùa Châu Lâm, quận Ba Đình có các tượng “bà banh”, một số tượng
đứng trên bệ đá có điêu khắc chim thần Garuda. Ngay cả ở Thanh Hóa, Nghệ An
người Champa đã cư ngụ từ thế kỷ 7-9 để lại đi tích “nhạn tháp” ở Nghệ An. Dọc
sông và bờ biển Thanh Hóa đã tìm thấy các di tích điêu khắc Champa. Mai Hắc Đế
nổi dậy chống Trung Quốc ở thế kỷ 8 chống Trung quốc có cha là người Champa, mẹ
Việt.
Ngôn ngữ Champa còn để vết ảnh hưởng
trên các dân tộc Tây nguyên. Từ thuở xưa, người Champa ở bờ biển đã tiến vào
vùng Tây nguyên nơi các dân tộc nói tiếng Mon-Khmer (nhánh Bahnaric) cư ngụ.
Qua đó một số các dân tộc chuyển ngữ và nói các ngôn ngữ mà ngày nay ta gọi là
Jarai, Rhade, Roglai.. Những ngôn ngữ này, cùng với tiếng Champa, được gọi
chung là ngôn ngữ Chamic. Vào thế kỷ 12, vua Jaya Hari varman đánh chiếm vùng
Tây nguyên của người Thượng mà các bia ký Champa thường gọi là người Kiratas.
Rải rác trên Tây nguyên có các tháp (như Yang Prong, Đắc Lắc), các tượng, tác
phẩm điêu khắc tìm được ở Yang Kum (kontum), Drang-Lai (Đắc Lắc).
Hiện nay người Champa còn ở rải rác
các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang. Nghiên cứu về văn hoá và văn minh
Champa được chú ý hơn gần đây ở trong nước qua các công trình của Ngô Đăng
Doanh, Trần Kỳ Phương … Kho tàng văn minh và văn hóa Champa bắt đầu được khai
thác trở lại. Ngoài ra ở các thôn Champa còn có những văn tự viết trên lá buông
truyền từ nhiều đời, hiện chưa được xử dụng thiết thực. Ngoài Inrasara có những
bài viết giá trị về văn hoá Champa, đầu năm 2007, tôi có đọc trên báo ở Việt
Nam nói về ông Lâm Gia Tịnh, người Champa, trước đây là thành viên biên soạn từ
điển Champa -Việt -Pháp, xuất bản năm 1971, nay đã về hưu ở Ninh Thuận đã bỏ ra
cả đời để sưu tầm thư tịch cổ trên lá buông và chữ viết của người Champa. Theo
ông, thư tich cổ trên lá buông là vật gia bảo nên rất khó sưu tầm. Truyền nhau
qua nhiều đời cho đến lúc mối mọt đục nát thì đem ra thả sông hoàn trả về đất
trời chứ không mua bán hoặc biếu tặng. Người ta không hiểu nội dung thư tịch
nói gì nhưng phải giữ lại vì sợ mang tội với người xưa. Phần lớn thư tịch cổ
trên lá buông chép lại các chuyện cổ tích, các sự kiện, đạo bùa, sấm truyền,
tập tục xưa… Những bó lá buông thường được cất giữ trên mái nhà. Dù chiến tranh
loạn lạc hay bất trắc người Champa cũng nghĩ đến lá buông trước tiên. Hy vọng
trong nay mai, kho tàng này sẽ được sử dụng đúng mức và nhân lực nghiên cứu
Champa sẽ được tăng cường và hổ trợ thêm.
Người Champa sinh sống ở đây từ
trước công nguyên, thuộc tộc Mã Lai - Đa Đảo (Malayô - Pôlynêdi) và thiết lập ở
vùng ven biển Nam Trung Bộ những cộng đồng bộ lạc có nền văn minh khá rực rỡ
(văn hóa Sa Huỳnh như các nhà khảo cổ gọi). Trên địa bàn này có hai bộ lạc
Chàm: bộ lạc cư trú trên vùng đất Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận
và bộ lạc Dừa cư trú trên vùng đất Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Từ thế
kỷ X, hai bộ lạc này thống nhất thành một quốc gia: Vương Quốc Champa. Vùng đất
Quảng Nam được coi là trung tâm của vương quốc ấy, ở đây có những kinh đô của
nó: Đồng Dương, Trà Kiệu (kinh đô hành chính) và Sơn Mỹ (kinh đô tôn giáo).
Quảng Nam là nơi có nhiều vết tích của quốc gia Champa. Thời nhà Hán chiếm Giao
Chỉ, người Việt và người Chàm đã có những lúc liên kết với nhau chống lại sự
xâm lược. Người Chàm tranh đoạt được độc lập trước rồi đến thế kỷ X, hai quốc
gia Đại Việt và Champa trong mấy trăm năm khi thì hòa hiếu khi thì xung đột
nhau, trong nhiều thế kỷ liền và cuối cùng Champa bị Đại Việt chinh phục. Quảng
Nam xưa là đất của Champa cổ, lại là nơi trung tâm của quốc gia này. Còn giữ
lại những di tích lớn của nền văn minh Champa: Trà Kiệu, Mỹ Sơn và Đồng Dương.
Nhưng trước khi lên đường đi thực địa hãy ghé thăm Viện bảo tàng nghệ thuật Chàm
ngay trong thành phố Đà Nẵng để có thêm những ý niệm về nghệ thuật Champa, và
cũng để thưởng thức những hiện vật không thể tìm thấy được ở đâu khác.
Viện bảo tàng độc đáo này thành lập
năm 1936 (xây dựng từ 1915) những hiện vật trưng bày ở đây tìm thấy từ cuối thế
kỷ XIX trên các vùng đất cổ của Champa (từ Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên -
Huế đến vùng cực nam Trung Bộ), nhưng chủ yếu là thu thập từ Trà Kiệu, Mỹ Sơn
và Đồng Dương, ba kinh đô của Champa. Tất cả có khoảng ba trăm hiện vật đều là
bản gốc, làm bằng chất liệu sa thạch và đất nung thuộc ba giai đoạn lớn:
-Thế kỷ VII - VIII
-Thế kỷ IX - XII
-Thế kỷ XIII - XIV
Hiện được bố trí thành bốn phòng:
- Phòng Mỹ Sơn
- Phòng Trà Kiệu
- Phòng Đồng Dương
- Phòng Tháp Mẫm
Và hai hành lang:
- Hành lang Quảng Trị, Quảng Nam,
Quảng Ngãi, Công Tum.
- Hành lang Quảng Bình - Bình Định
Nghĩa là phân chia theo các vùng mà
hiện vật được tìm thấy ở đó. Nhìn chung các hiện vật gồm hai loại: Những bàn
thờ và những tượng thần, những đồ dùng trang trí (trụ cửa, sư tử, voi, chim,
thủy quái). Mỗi phòng trưng bày có nhiều công trình nghệ thuật, tất cả đều hết
sức phong phú, và để có thể tìm hiểu chu đáo, bạn không thể mất một vài ngày.
Chỉ cần một bàn thờ ở phòng Mỹ Sơn chẳng hạn, bản thân nó là một tổ hợp nghệ
thuật đa dạng: đế bàn thờ hình vuông, có những hình chạm nổi chạy quanh chân đế
với những cảnh tu hành, cảnh sinh hoạt dân gian, cảnh vũ trụ, lên phía trên một
ít lại là hình những chim thần Garuđa và những vũ nữ thần tiên. Trên đỉnh là
tượng thần Scanđa cầm lưỡi tầm sét đứng trên một con sông, sau lưng là một cái
giá gắn vào đuôi công cong lên, tỏa ra... Chỉ một pho tượng vũ nữ đủ khiến
người xem xúc động mạnh, không thể hình dung nổi tại sao từ những tảng đá vô
tri lại có thể tạo nên những đường nét uyển chuyển, sống động dường như trước
mặt mình không phải là những tượng đá mà là những con người thật. Chỉ một trụ
Lynga ở hành lang Quảng Bình và một tượng Apsara, người xem không chỉ khâm phục
trước một thứ nghệ thuật trừu tượng, mà còn kinh ngạc trước một vòng vú căng
đầy thể hiện sức sống dạt dào của con người. Với những hiểu biết thu nhập được
ở bảo tàng Chăm, chúng ta về thăm Mỹ Sơn - kinh đô tôn giáo xưa của Champa. Ông
Cadic, chuyên viên Ba Lan đã giúp ta khôi phục lại di tích lịch sử này thường
bảo: Theo tôi Mỹ Sơn không kém gì Ăng-Co, tôi không nói về qui mô, chỉ nói về ý
nghĩa lịch sử và nghệ thuật.
Từ Đà Nẵng đi Mỹ Sơn, xe theo đường
số 1, qua cầu trên sông Thu Bồn khá đẹp rẽ về hường tây, theo một đường bộ khác
dẫn tới Trà Kiệu - một kinh đô Champa cổ, rồi lại tiếp đến Mỹ Sơn. Có thì giờ
cũng nên dừng lại ở Trà Kiệu, ở đây vẫn còn một số di tích xưa: một gò cao, mấy
đoạn thành và một bộ sưu tập những di vật cổ, nhất là những đồ dùng sinh hoạt
của người Chàm (chốn kinh đô cũ) hiện chỉ thấy bày ở nhà thờ Trà Kiệu. Trên gò
cao này là một nhà thờ Đức Bà xây theo kiểu hiện đại, đứng ở đó nhìn quanh bốn
phía toàn cảnh Quảng Nam - Đà Nẵng hiện ra với tất cả vẻ diễm lệ của nó. Trà
Kiệu cũng là một cơ sở Kitô giáo vào hạng xưa nhất nước ta.
Đi khỏi Trà
Kiệu chừng 10 km là đến Mỹ Sơn nhưng chưa phải đến ngay, từ nơi xe dừng lại ở
một trạm bên đường đi vào tận Mỹ Sơn, phải đi bộ qua một lối mòn giữa những
truông cây lúp xúp, quanh co lên lên xuống xuống, mất 5 km nữa và khi đã băng
qua một con suối nhỏ, những cái tháp Mỹ Sơn hiện ra từ những cây cối rậm rạp
thật đột ngột. Ngước nhìn lên dãy núi cao trước mặt là núi Răng Mèo - dễ ngỡ
mình lạc vào một chốn thiên nhiên kì lạ. Những mạch đá đen tuyền như những khối
tạo hình tuyệt đẹp, gắn lên nền xanh cây cối, toát lên vẻ huyền bí đầy chất tôn
giáo. Phát hiện ra một nơi như thế này rồi xây kinh đô tôn giáo đồ sộ, tráng lệ
quả là một kì công.
Trước mắt du
khách là đền Mỹ Sơn đang được phục hồi sửa sang lại sau bao nhiêu tàn phá của
bom đạn. Đây vốn là một tổng thể kiến trúc thật đồ sộ với đường kính khoảng 2
km, một con suối sâu cắt ngang thành hai khu riêng biệt. Tất cả trước kia có
tới 68 công trình, xây trong các thế kỉ IV - XII. Khi người Pháp phát hiện ra
khu này, chỉ còn 25 tháp và hiện nay con số còn lại càng ít hơn nữa. Những hố
bom lớn đã thay thế cho những công trình kiến trúc cổ. Nhiều ngôi tháp đã thành
nhưng đống gạch vụn. Cả khu đền ở trên nền đất cao hầu như bị phá trụi mà đó
lại là nơi trước kia có những đền, tháp lớn nhất, đặc sắc nhất. Chỉ còn lại một
ít đền tháp ở khu nền thấp nhưng chẳng có cái nào nguyên vẹn. Nhưng dù chỉ còn
có thế ta cũng đủ chiêm ngưỡng tài năng nghệ thuật của người Champa xưa.
Mỹ Sơn là nơi
thiêng liêng nhất của quốc gia Champa, tất cả các vua đều đến làm lễ thờ cúng
khi có những việc trọng đại nhất. Đây cũng là nơi sau mỗi trận chiến thắng, nhà
vua mang lễ vật quý dâng hiến và trong suốt 7 thế kỉ liền tất cả các vua (trừ
các nhà vua thời Đồng Dương), đều kế tiếp nhau xây dựng, trùng tu những đền,
tháp nơi đây. Đền, tháp Mỹ Sơn không lớn lắm, nhưng về mặt nghệ thuật thì quả
là đạt tới một trình độ cao, có thể sánh với bất cứ công trình kiến trúc cổ nổi
tiếng nào trên thế giới. Không còn phân biệt được đâu là kiến trúc, đâu là điêu
khắc, cả hai thứ nghệ thuật này quyện với nhau thành một. Màu đất nung của các
đền tháp giữ một sức bền gần như vĩnh cửu đến kì lạ. Cho đến nay, kĩ thuật xây
đền tháp của người Chàm (các lớp gạch không thấy những lớp vữa gắn, mà vẫn cố
kết rất vững chắc, hàng thế kỉ liền không bị hủy hoại bởi khí hậu và thời gian)
vẫn là một đề tài tranh luận chưa kết thúc.
Ở vùng đất này,
người Chàm không còn, nhưng những công trình họ để lại khiến ta tưởng chừng họ
vẫn còn sống cạnh đâu đây. Văn hóa Cham làm cho dân tộc Champa trở thành bất
tử.
Nhưng việc khôi
phục lại khu di tích đồ sộ này thật không đơn giản. Năm 1978, sau giải phóng
không bao lâu đã bắt đầu khai hoang và gỡ mìn ở khu này. Trong công việc thuần
túy văn hóa ấy máu đã đổ: 6 chiến sĩ bộ đội địa phương đã hi sinh và 11 người
khác bị thương. Năm 1980, theo đề nghị của Chính phủ Việt Nam, Ba Lan đã gửi
những chuyên gia giỏi sang cùng với những cán bộ kĩ thuật của ta tiến hành khảo
sát, đo đạc, sửa sang và bắt đầu phục hồi khu di tích này. Ba năm sau, một vài
nhóm tháp ở đây đã được gia cố và bảo đảm đúng với kĩ thuật và nghệ thuật phục
hồi di tích lịch sử. Những người Ba Lan đã ăn ở và làm việc tại hiện trường
hàng năm trời, và ở đây không ai không nhắc đến Cadich, tên gọi trìu mến của
kiến trúc sư Ba Lan Kazimir Kwiatkowski người yêu Mỹ Sơn đến say mê.
Từ Bình Định
trở vào là vùng đất của quốc gia Champa ngày trước còn gọi là Panduranga, kinh
đô nước này đặt ở Panrăn (trên đất Phan Rang), còn nơi thờ cúng quan trọng nhất
là ở Kauthara (Nha Trang). Biên cương của nước Đại Việt càng lấn dần về phía
Nam thì nước Champa bỏ đất Quảng Nam lấy Chà Bàn làm trung tâm.
Ngày nay, Chà
Bàn (còn gọi là Phật Thệ) vẫn còn di tích: những tháp vàng, tháp đồng, tháp
đôi... nằm giữa một thành lũy khá rộng 1.100m dài 1.400m. Thành chà bàn nằm
trong khu vực nay là phường nhơn thành, thị xã an nhơn. Tháp đồng hình vuông
góc đá màu trắng, có hai tượng voi và các tượng quái vật. Thành xây bằng đá
ong, có hào, đường đi lát đá hoa cương. Di tích đồ Bàn cách Quy Nhơn 26km,
khách du lịch thường đến thăm.
Một di tích rất
quen thuộc của văn hóa Champa cổ là Tháp Bà ở Nha Trang. Tháp được dựng trên
ngọn đồi cao phía bắc sông Cái, đứng trên đỉnh đồi này toàn cảnh Nha Trang hiện
lên. Và không chỉ thành phố. Cả những dãy núi mờ lam ở trời Tây, cả con sông
xanh lượn giữa một vùng đồi và vùng vườn xanh ngắt, cả mặt biển mênh mông lấp
loáng nắng sáng nắng chiều ở phía biển đông. Người Việt thường gọi đây là đền Tiên Y Thánh Mẫu. Thật ra đó là
nơi người Champa ngày xưa thờ nữ thần Yama của họ. Trong tháp còn có tượng toàn
thân nữ thần, tạc bằng đá xanh, ngồi xếp bằng trên một đế cao rộng bằng đá
khối. Đường nét pho tượng cực kỳ tinh tế, toát lên vẻ dịu dàng sâu lắng. Không
chỉ có tháp thờ nữ thần Yama, trên ngọn đồi này còn có những ngọn tháp khác:
tháp thờ nữ thần Cricambhu tháp thờ Lynga, tháp thờ Ganesa, chưa kể những ngọn
tháp đã đổ vỡ. Hương Kỳ Nam, hương trầm thoang thoảng trên bàn thờ, làm tăng vẻ
huyền bí ở những nơi đây. Trong những công trình kiến trúc của nước Champa cổ
còn lại không thể không nhắc tới tháp Chăm ở gần thị xã Nha Trang, công trình
khá tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc Champa.
Hiện nay người
Chàm sinh sống ở Việt Nam đa số sống ở các tỉnh ven biển Nam Trung Bộ (số còn
lại theo Hồi giáo ở vùng Châu Đốc). Tập trung nhất là ở vùng Vân Canh nơi giáp
hai tỉnh Bình Định và Phú Yên (nhóm này gọi là Chăm Hroi, chịu ảnh hưởng văn
hóa của người Ê-Đê và Ba-Na ở Tây Nguyên).
Ở Bình Thuận và
Ninh Thuận người Chàm ở thành làng, làng nhỏ có vài trăm, làng lớn có trên một
ngàn nhân khẩu. Nhà cửa dựng thành hàng lối thẳng tắp, mỗi khu nhà có tường hay
hàng rào bao bọc, ngõ quay về hướng nam hoặc hướng tây. Trong mỗi khu nhà có
một số ngôi nhà khác nhau: nhà khách (thang tôn), nhà của cha mẹ và con nhỏ
(thang cành), nhà của con gái đã lập gia đình (thang dâu), nhà bếp (thang kinh)
và nhà tục (thang yơ) dùng làm kho thóc, buồng tân hôn và chỗ ở của vợ chồng
con gái út.
Y phục người
Chàm gần giống y phục cổ truyền của người Việt ở địa phương, riêng phụ nữ mặc
áo dài chui qua đầu. Đàn ông lớn tuổi thường để tóc dài, quấn khăn và mặc
xà-rông.
Người Chàm theo
các tôn giáo khác nhau: ở Nam Trung Bộ hai phần ba theo đạo Bà-la-môn, số còn
lại theo Hồi giáo cũ. Gia đình người Chàm ở Bình Thuận và Ninh Thuận là gia
đình nhỏ mẫu hệ (khác với người Chàm ở Nam Bộ sống theo gia đình phụ hệ), chồng
thường ở bên nhà vợ. Người Chàm theo đạo Bà-la- môn có tục hoả táng người chết.
Người Chàm có cả một kho tàng văn học nghệ thuật dân gian hết sức phong phú:
truyền thuyết, cổ tích, những bài hát trữ tình, những trường ca độc đáo, đặc
biệt là những điệu múa đầy chất thơ.
Một màn múa
từng làm rung động khán giả châu Âu: dưới bầu trời chiều loáng thoáng mây
trăng, pho tượng đá thiếu nữ Chàm cạnh ngôi tháp cổ bước ra ngoài đời nhảy múa
theo đường nét "nhà trời". Nàng gần như khỏa thân một cách trinh
bạch, chỉ có vài sợi kim tuyến buông trên mình. Dáng điệu nàng uyển chuyển đến
mức kỳ lạ. Gương mặt, đôi mắt, bàn tay, cổ tay và cả thân mình nàng nói bằng
thứ ngôn ngữ quyến rũ. Cô gái biểu diễn điệu múa này được báo chí Pháp đặt tên
là "Cô bé thiêng liêng" (La Gamine Sacrée). Người xem không còn phân
biệt đó là một nàng tiên hay một cô gái trần tục.
Tuy vậy, tộc
người Champa vốn dĩ đã có một nền văn hóa bản địa vững chắc, nên cho dù chịu
các đợt du nhập văn hóa một cách ào ạt, nhưng cũng không bị đồng hóa. Đến khi
vương quốc Champa tan rả vào thế kỷ XV, một biểu hiện cụ thể chúng ta thấy tộc
người Chăm đã sáng lập ngôn ngữ “Chăm mới” còn được áp dụng cho đến ngày nay.
Văn tự “Chăm mới” có nhiều yếu tố trùng hợp và mang dáng dấp của ngữ hệ Nam
Đảo, nhất là với ngôn ngữ Malaysia và Indonesia. Khi chúng ta nghiên cứu quá
trình hình thành và phát triển của ngôn ngữ Champa thì không thể không nghiên cứu
ảnh hưởng của các tôn giáo nhân tố chính có ảnh hưởng đến hệ thống ngôn ngữ của
xứ sở.
-Lễ hội văn hóa
tinh thần Champa: Về lễ nghi, lễ hội: Có thể nói, lễ nghi-lễ hội của tộc người
Champa được biểu hiện đầy đủ hàng năm trong 10 ngày Lễ hội Katê diễn ra vào
ngày mồng 01 tháng 07 Lịch Champa (khoảng đầu tháng 10 Dương lịch). Ngày nay,
lễ hội này của tộc người Champa được tổ chức trên bình diện không gian rộng
lớn, nhằm tưởng nhớ các vị Nam thần như Pô Klong Garai, Pô Rôme… và trời đất,
ông bà tổ tiên đã phù hộ cho họ. Lễ hội Katê là biểu hiện một phần tư duy phồn
thực đối lập với nhân tố dương thì có nhân tố âm - Lễ Chabur - Lễ cúng các vị
Nữ thần vào tháng 9 lịch Chăm. Sự liên kết giữa Nam thần - Nữ thần, giữa Trời -
Đất, Cha - Mẹ, Đực - Cái, Vùng cao - Vùng thấp… là nét đặc trưng phổ quát trong
nền văn hóa Champa được thể hiện qua nghi lễ hội hè, sắc phục cho đến nhiều
loại nghệ thuật khác. Cho nên, lễ hội Katê chứa đựng nội dung và ý nghĩa ấy. Lễ
nghi Katê được tổ chức từ Bi môn, Kalan (đền tháp) đến Paley (làng), đến Nga
wôm (gia đình), tạo thành một dòng chảy của lễ hội phong phú, đa dạng. Lễ hội
Katê tại đền tháp được điều hành bởi Ban tế lễ gồm: thầy cả sư (Pô Dhia) trụ
trì đền tháp làm chủ lễ, thầy kéo đàn Kanhi (Ôn Kadhar) hát thánh ca, bà Bóng
(Muk Payâu) dâng lễ vật lên các vị thần, ông Từ ( Camưnay) chủ trì lễ tắm
tượng, và cùng một số tu sĩ Bà-la-môn (Paseh) phụ lễ. Lễ vật dâng cúng Katê tại
đền tháp bao gồm: 01 con dê, 03 con gà làm lễ tẩy uế đất tháp, 05 mâm cơm với
muối vừng (lithey thap), 03 cổ bánh gạo và hoa quả. Ngoài ra còn có rượu,
trứng, trầu cau, xôi chè… Sau khi lễ vật đã chuẩn bị xong, ban tế lễ đã sẵn
sàng thì lễ hội bắt đầu tiến hành theo các bước sau:
Lễ rước y phục
(Rokaw khan pô yang): Tất cả các y phục của vua chúa thờ ở đền tháp Champa đều
do người Raglai cất giữ. Do vậy, khi đến ngày lễ Katê thì người Champa phải làm
lễ đón rước người Raglai chuyển y phục về lại các đền tháp. Đây là nghi lễ mở
đầu cho ngày hội diễn ra rất trọng thể.
Lễ mở cửa tháp
(Pơh băng yang): Sau khi Lễ rước y phục kết thúc thì các tu sĩ xin phép thần
Siva làm lễ mở cửa tháp dưới sự điều hành của thầy Cả sư (Pô Dhia) và ông Từ
giữ tháp (Camưney). Lễ vật cúng xin mở cửa tháp gồm có: rượu, trứng, trầu cau,
nước tắm thần có pha trầm hương và các hương vị khác. Trong không khí trang
nghiêm, thầy cúng xướng lên các câu kinh hành lễ: Chúng con lấy nước từ sông
lớn. Chúng con đội về tháp cúng thần. Thần là thần của trời đất. Chúng con lấy
những tấm khăn dệt đẹp nhất. Lau mồ hôi trên mình, tay chân của thần. Sau khi
đọc xong lời cầu nguyện ông Camưnay cầm lọ nước tắm thần tạt lên tượng thần
Siva. Tiếp đó, thầy kéo đàn Kanhi và bà Bóng tiến đến trước cửa tháp chính ngồi
bên tượng thần Nadin làm lễ xin mở cửa tháp: Hãy xông hương trầm bằng lửa
thiêng. Hương trầm của người trần dâng lễ. Hương trầm bay tỏa ngát không gian. Chúng
con xin mở cửa tháp cúng thần. Khi đoạn hát lễ kết thúc, thì Đoàn lễ tiến vào
tháp, bà Bóng và ông Từ bắt đầu mở cửa tháp trong khói hương trầm tỏa ra nghi
ngút. Lễ mở cửa tháp kết thúc. Lễ tắm tượng thần (Mưney yang): Lễ tắm tượng
thần được diễn ra bên trong tháp. Lễ này gồm có thầy Cả sư, thầy kéo đàn Kanhi,
bà Bóng, ông Từ và một số tín đồ thuần thành thực hiện. Khi mọi người đã ngồi
vào bàn lễ, thì bà Bóng rót rượu dâng lễ, thầy kéo đàn Kanhi bắt đầu xướng
kinh. Có đoạn: Chúng con xin mở cửa tháp tắm thần. Chúng con mang nước này từ
sông thiêng. Xin tắm, gội đầu, rửa tay chân cho thần. Xin thần phụ hộ độ trì
chúng con. Còn ông Từ thì cầm lọ nước tắm lên pho tượng đá, mọi người bắt tay
cùng nhau tắm thần. Lúc này những tín đồ thuần thành lấy nước từ trên thân
tượng bôi lên đầu, lên thân thể mình để cầu sức khỏe, tài lộc, may mắn. Lễ mặc
y phục cho tượng thần (Angui khan aw Pô yang): Sau khi lễ tắm thần kết thúc thì
đến nghi lễ mặc áo cho thần. Lễ thức được tiến hành theo lời xướng thánh ca của
thầy Kanhi. Lời thầy xướng lễ đến đâu thì y phục thần được mặc vào đến đó. Đầu
tiên là lễ mặc váy. Lời thầy xướng lễ như sau: Nghe tiếng thác đổ trên cao. Thần
Pô Klong Garai mặc váy viền hoa về dự lễ. Tiếng thác đổ xuống rì rào. Thần Pô
Klong Garai mặc áo bào về dự lễ. Tiếng thác đổ xuống vịnh sâu. Thần Pô Klong Garai
đội mão vàng về dự lễ. Khi thầy kéo đàn Kanhi xướng lễ thì ông Từ, bà Bóng mặc
váy, áo cho tượng thần. Cứ như vậy cho đến kết thúc bài hát là lễ mặc y phục
hoàn thành.
Đại Lễ (mưliêng
yang): Sau khi lễ mặc y phục hoàn tất, lúc này tượng thần đã mang trên mình bộ
long bào lộng lẫy, thì cũng là lúc vật dâng cúng được bày ra trước bệ thờ. Đại
lễ bắt đầu, lúc này các vị hành lễ xướng mời các vị thần về dự lễ. Các vị thần
được mời như: thần Pô Nưgar (thần Mẹ xứ sở), thần Pô Klong Garai (vua Champa
trị vì năm 1151- 1205), Pôrôme (1627- 1651), Pô Par (tướng quan văn)…
Mỗi vị thần
được mời về dự thì bà Bóng dâng lễ vật, thầy kéo đàn Kanhi xướng bài thánh ca,
bà con dự lễ chắp tay cầu thần phù hộ. Lời hát lễ của thầy Kéo đàn Kanhi có
đoạn như sau: Hát về Nữ thần Pô Nưgar: Thần là Nữ thần xứ sở vĩ đại. Thần sinh
ra đất nước con người. Thần mẹ cho trần gian cuộc sống. Thần cho cây cối tốt
tươi con người nảy nở. Thần mẹ sinh ra cây lúa ruộng vườn tốt tươi.. Hát về
thần Pô Klong Garai: Vào canh một, canh hai. Pô Klong Garai hiện về hưởng lễ
vật. Vào canh hai, canh ba. Pô Klong Garai hiện về hưởng lễ vật. Ngài Pô Klong
Garai dựng lên tảng đá vĩ đại. Ngài đem ngăn sông đắp đập giữa núi. Dân làng
phủ phục, tôn vinh Ngài làm vua. . Xây tháp, tạc tượng thờ thần Pô Klong Garai…
Hát mời thần Pô Rômê. Nước tràn về đập vỡ ra, Pô Rôme hiện về đắp đập giữ nước,
Thần dẫn nước vào ruộng cho dân làng cày cấy. Nước về đập vỡ ào ra, Trai làng
chất đá đắp đập ngăn sông. Trai làng bơi thuyền trên sông nước, Hoàng hậu tắm
mình trong dòng nước mát trong lành.. Hát về thần Pô Par. Em lên cao nguyên đã
lâu. Nhớ hái rau rừng đem về cho anh. Em lên vùng núi đã lâu. Nhớ chặt cây trúc
đẹp làm ống rượu cần cho anh.…Cứ như thế thầy kéo đàn Kanhi hát mời trên 30 vị
thần về dự, mỗi vị thần là một bài hát lễ. Thầy Cả sư thì làm phép đọc kinh cầu
nguyện xin thần về hưởng lễ vật mà phù hộ độ trì dân làng. Kết thúc phần đại lễ
bằng vũ điệu múa thiêng của bà Bóng. Sau lễ nghi thì đến lễ hội: Trong lúc bà
Bóng đang xuất thần điệu múa thiêng trong tháp để kết thúc đại lễ thì bên ngoài
bắt đầu mở Hội. Những điệu trống Ghinăng, kèn Saranai cùng vang lên, đánh nhịp
say sưa với những điệu múa và lời dân ca Champa làm hấp dẫn, say mê lòng người.
Không khí Hội cứ thế mà náo nhiệt, rộn ràng cho đến lúc mặt trời ngã về chiều
thì lễ hội Katê trên các tháp Chăm kết thúc.
Lễ hội Katê ở
làng: Sau khi lễ Katê ở tháp kết thúc, thì không khí hội lại bùng lên ở làng
Champa. Trước ngày lễ dân làng phân công nhau quét dọn đền thờ, nhà làng, chuẩn
bị sân khấu, sân bãi… Làng xóm như thay da đổi thịt. Cùng với việc trên, một bộ
phận khác chuẩn bị lễ vật cúng thần. Các cô thợ dệt thì xem xét kỹ lưỡng khung
dệt, tơ sợi; một số khác thì chuẩn bị Chum (Buk) để dự thi đội nước do dân làng
tổ chức. Nếu như Katê ở Đền tháp nặng về phần lễ, thì Katê ở làng phần lễ rất
đơn giản, còn phần Hội đóng vai trò quan trọng; diễn ra các trò chơi như thi
dệt, đội nước, đá bóng, văn nghệ… Cuộc thi diễn ra trên một sân bãi rộng, các
khung cửi đã được xếp thành hàng. Các cô gái dự thi đã chuẩn bị sẵn tơ sợi,
trong hơn một giờ đồng hồ nếu cô nào dệt được một tấm vải dài nhất, đẹp nhất
thì sẽ thắng cuộc. Những chiếc thoi đưa hối hả, những sợi chỉ giăng mắc đủ màu
tạo nên một nền vải Chăm muôn màu, muôn sắc. Ở một địa điểm khác, cuộc thi đội
nước diễn ra sôi động. Các cô gái Chăm duyên dáng khéo léo đội chum nước thi
nhau về đích với một nét văn hóa độc đáo. Cuộc thi kết thúc, Hội làng tan dần.
Mọi người hân hoan trở về mái ấm gia đình để cúng tế gia tiên.
Katê ở gia
đình: Khi lễ Katê ở làng kết thúc thì lễ Katê gia đình mới được tổ chức. Trong
thời gian này gia đình nào có điều kiện thì mới tổ chức, nếu gặp lúc kinh tế
khó khăn thì có thể mỗi dòng họ cử một gia đình để tổ chức, chứ không nhất
thiết gia đình nào cũng cúng lễ Katê. Chủ lễ cúng Katê là người trong gia đình
hoặc là người lớn tuổi trong tộc họ. Vào ngày lễ này mọi thành viên trong gia
đình đều có mặt đông đủ cầu mong tổ tiên thần linh phù hộ cho con cháu làm ăn
phát đạt, tránh rủi ro, gặp nhiều điều may mắn trong cuộc sống. Đây cũng là dịp
ông bà, cha mẹ giáo dục cho các thế hệ con cháu nhớ ơn, kính trọng tổ tiên. Trong
dịp lễ này, mỗi gia đình cũng chuẩn bị bánh trái mời họ hàng, bạn bè đến thăm
viếng, chúc tụng nhau. Làng Champa chìm trong niềm vui, thân thiện, tình đoàn
kết xóm giềng. Họ thực sự quên đi những vất vả, lo âu của đời thường để tận
hưởng những giây phút thăng hoa ngắn ngủi trong cuộc sống còn nhiều khó khăn,
bề bộn…Tóm lại, lễ nghi lễ hội Champa chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. Song Katê
lại biểu hiện một lối đi riêng. Đặc điểm của lễ hội văn hóa này mặc dù có tiếp
thu tục thờ thần Siva của Ấn Độ nhưng vẫn sùng kính, tôn thờ những vị anh hùng
dân tộc, biểu hiện của sự tiếp thu văn hóa bên ngoài để biến thành tài sản độc
đáo của riêng mình. Đấy chính là cái để nền văn hóa Champa mãi trường tồn trước
thử thách lịch sử. Ngày nay, nền văn hóa ấy đang góp phần làm phong phú thêm
vườn hoa văn hóa trong tổng thề văn hóa dân tộc Việt Nam. Mặt khác, nếu như
chúng ta biết phát huy những giá trị thực dụng như trong thời gian tồn tại mà
nó đã làm thì cũng là một trong những phương pháp đưa nền văn hóa Champa nói
riêng, tổng thể văn hóa Việt Nam nói chung được vững mạnh hơn. Và nhất là đưa
Việt Nam thoát khỏi cảnh nghèo đói về kinh tế, lạc hậu về công nghệ, suy thoái
về lối sống văn hóa, đạo đức trong thực tại. Thật vậy, biết một tác phẩm văn
học hay, thì người viết chờ có người đồng cảm. Cũng vậy, từ xưa nay có rất
nhiều nhà khoa học trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, có
rất nhiều hứng thú khi nghiên cứu về một đất nước Champa trong quá khứ. Nhưng
để viết đúng và khoa học đất nước ấy qua vài trang giấy thì thật không phải dễ.
Hơn nữa, uống nước nhớ nguồn là tư tưởng của những nhà dân tộc học. Vì có như
thế chúng ta mới hiểu hết ý nghĩa và giá trị của kiếp sống nhân sinh. Trên ý
nghĩa đó, để hiểu về văn hóa tộc người Champa, chúng ta không thể không có cái
nhìn khách quan những đóng góp to lớn của champa cho xã hội, loài người hôm nay.
Đó chính ý nghĩa phổ quát. Còn ở đây, người viết muốn nêu lên rằng: vương quốc
Champa chịu ba mũi dùi chiến tranh Trung Hoa, Đại Việt và Chân Lạp tấn công, Với
chúng ta ngày nay thì việc nghiên cứu đề tài này như là một bài học cho cuộc
đời mình, vì nó cho chúng ta biết phần nào về diện mạo của một dân tộc trong 54
dân tộc làm thành nước Việt Nam thân yêu.
5-Lịch sử nền văn minh Champa qua tôn giáo và Cơ cấu tổ chức quốc gia
-Tôn giáo:
Đạo Bà La-Môn (Brahmanism) cũng gọi là Ấn giáo hay Ấn Độ giáo (Hinduism),
là đạo bản địa của người Ấn (Hindus), hình thành ở Ấn Độ khoảng năm 1.500 trước
Công nguyên hoặc sớm hơn nữa, tức là có trước Phật giáo ít lắm cũng khoảng 10
thế kỷ. Không xác định ai là giáo chủ hay người mở đạo. Bậc chân sư đắc đạo
hướng dẫn tâm linh cho tín đồ được gọi là guru.
Tôn giáo này
chủ trương đa thần (polytheism). Trời hay Thượng đế của Ấn giáo là một Trimurti
(tam vị nhất thể) gồm ba ngôi: Brahma (đấng sáng tạo), Vishnu (đấng bảo tồn),
và Shiva (đấng hủy diệt).
Các bộ kinh
chính viết bằng tiếng Sanskrit: Vedas (Phệ đà), Upanishads (Áo nghĩa thư),
Bhagavad Gita (Chí tôn ca)…
Vũ trụ quan.
Thực tại tuyệt đối sinh thành và bảo tồn vũ trụ, vạn vật được gọi là Brahman,
có thể xem như tương đồng với khái niệm Đạo của Trung Hoa, hay Logos của Hy Lạp
cổ đại vào thế kỷ 5 trước Công nguyên.
Nhân sinh quan.
Con người bị ràng buộc trong vòng vô minh (ngu dốt) và huyễn ảo nhưng lại có
khả năng thoát khỏi chúng.
Đời người có 4
mục đích: dharma (hoàn thành các nghĩa vụ luân lý, luật pháp và tôn giáo);
artha (mưu sinh và thành đạt trong xã hội); kama (thỏa mãn các ham muốn nhưng
biết tiết chế và điều độ); moksa (giải thoát khỏi vòng luân hồi) bằng cách giải
trừ hết các nghiệp (karma) vì khi chết mà vẫn còn nghiệp thì phải chịu tái sinh
vào kiếp sau ở thế gian, tức là luân hồi (samsara).
Đời người phải
trải qua 4 giai đoạn:
brahmacharga
(học tập);
grhastha (lập
gia đình, tạo sự nghiệp);
vanaprastha (hướng về tâm
linh);
sanrgasu (thoát ly xã hội để tu
hành).
Luân lý. Con người chịu 3 trọng ân:
ơn trời, ơn thầy, ơn tổ tiên. Phải tu tập theo 3 con đường: karmamarga (phụng
sự); jnanamarga (trí tuệ hay minh triết); bhaktimarga (sùng tín trời).
Giữ 10 giới răn: ahimsa (không giết
chóc); satya (không nói dối); asteya (không trộm cắp); brahmacharya (không
buông thả theo ham muốn); aparigraha (không tham lam); saucha (phải sạch sẽ,
tinh khiết); santosha (biết bằng lòng); tapas (kỷ luật với bản thân); svadhyaya
(phải học tập); ishvara pranidhana (vâng phục mệnh trời).
Nghi lễ: Có 5 thánh lễ chính:
Mahashivarati (giữa tháng 2), Holi (trong mùa xuân), Ramnavami (cuối tháng 3),
Dusserah (đầu tháng 11), và Diwali (giữa tháng 11). Tín đồ hành lễ tại nhà
riêng và trong đền thờ.
Đạo Bà La Môn có 900 triệu tín đồ
(năm 2005). Có khoảng 30 triệu người theo Ấn Độ giáo sống tại hải ngoại. Văn
hóa Bà La Môn đã sớm ghi dấu ấn ở Sri Lanka và các nước Đông Nam Á (Campuchia,
Indonesia, Lào, Mã Lai, Myanmar, Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam),
hiện nay vẫn còn đền thờ và tín đồ ở các nước này. Bà La Môn cũng có ở một số
nước phương Tây (Anh, Mỹ…). Thức giả Âu Mỹ đặc biệt kính trọng tư tưởng của các
guru như Sri Ramakrishna Paramahamsa (1836-1886) và đệ tử của ông là Swami
Vivekananda (1863-1902)…
II.Giáo điển:
Kinh Vệ Đà (Veda) xem như là cội gốc
của Bà La Môn Giáo và là suối nguồn của nền văn minh Ấn. Trong kinh có những
bản thánh ca để ca tụng các vị thần, như thần lửa, thần núi, thần sông ... Phần
lớn ca tụng những vẻ đẹp huy hoàng, tưng bừng , mầu nhiệm của cuộc sống trong
vũ trụ. Toàn thể bộ kinh gồm bốn tạng:
1. Rig Veda: thi tụng cái
biết.
2. Yajur Veda: nghi thức tế
tự.
3. Sama Veda: ca vịnh thần chú.
4. Atharva Veda: (triển khai ý nghĩa
ba bộ kinh kia).
Tư tưởng chủ yếu của Vệ Đà được biến
đổi từ Đa thần qua Nhất thần, từ Nhất thần sang lãnh vực Triết học ngang qua ba
thời đại: Vệ Đà Thiên Thư (Veda), Phạm Thiên Thư (Brahmana) và Áo Nghĩa Thư
(Upanishad).
III. Tư tưởng Đạo Bà La Môn:
Theo trình tự thời gian, tư tưởng Vệ
Đà đã đạt tới quan niệm một đấng Thượng Đế hữu ngã sáng tạo vũ trụ và một bản
thể tuyệt đối vô ngã làm cội nguồn chung cho vũ trụ. Tuy nhiên, trên đại thể,
kinh Vệ Đà vẫn thiên trọng về quan niệm một đấng Thượng Đế hữu ngã hơn.
Thời Vệ Đà Thiên Thư, dân chúng sùng
bái cúng tế để cầu xin sự trợ giúp của các thần linh, hình thức phần chính
thuộc về Đa Thần giáo. Sang thời kỳ Phạm Thiên Thư, tín đồ chán việc tế lễ và
thờ tự nhiều Thần, nên tuyển lọc lại vài vị Thần quan trọng để phụng thờ, sau
thờ một Thần là đấng Phạm Thiên (Brahma), vị thần tối cao toàn năng, siêu việt,
sáng tạo ra vạn vật vũ trụ. Thế là đối tượng tín ngưỡng của đa phần dân Ấn Độ
chuyển từ Đa thần giáo sang Nhất thần giáo. Qua đến thời kỳ Áo Nghĩa Thư không
chỉ giới hạn trong nghi thức tế tự, mà bao gồm môn triết học cao siêu.
Áo Nghĩa Thư là những bộ kinh luận
được các giáo sĩ Bà La Môn trước tác nhằm khai triển nền giáo lý Vệ Đà trên
phương diện triết học. Trong khi các kinh Vệ Đà chú trọng về nghi thức thờ
phụng thì Áo Nghĩa Thư muốn tìm hiểu thêm về tự ngã và tự thể của con người và
mối liên hệ của chúng với bản thể tuyệt đối của vũ trụ vạn vật. Nội dung căn
bản của Áo Nghĩa Thư cho rằng con người, cũng như mọi chúng sinh đều có một tự
thể bất sinh, bất diệt, thường tịch và vô trụ như Bản thể tuyệt đối, thường
được gọi là Atman hay Tiểu ngã (một linh hồn bất diệt). Khi tự ngã của con
người hay của chúng sinh chưa hoà nhập với Bản thể tuyệt đối (Brahman, đấng
Phạm Thiên hay Đại Ngã), thì Tự ngã của con người vẫn còn phải luân hồi trong
vòng sinh tử. Họ chủ trương “Brahma-Atman đồng nhất” và con người giải thoát là
con người hoà đồng vào bản thể của vũ trụ. Tiểu Ngã hoà đồng với Đại Ngã vô
biên trong một trạng thái hằng hữu vĩnh cửu.
Trên địa hạt xã hội, dân chúng Ấn Độ
được phân chia thành bốn giai cấp:
1. Hàng Tăng lữ thuộc giai cấp Bà La
Môn (Brahman).
2. Vua chúa thuộc giai cấp Sát Đế
Lỵ, (Kshastriya).
3. Thương buôn, nông phu và thợ
thuyền (Vaisya).
4. Tiện dân bần cùng thuộc giai cấp
Thủ Đà La (Sùdra).
5. Ba-ri-a (Pariah) giống người cùng
khổ, bị coi như sống ngoài lề xã-hội loài người, bị các giai-cấp trên đối-xử
như thú-vật, vô cùng khổ nhục, tối tăm.
Hệ thống giai cấp này theo chế độ
cha truyền con nối, các người khác giai cấp không được cưới nhau, không được
cùng nhau hành lễ tế tự và không được ăn chung bàn. Giai cấp Thủ Đà La là giai
cấp cùng đinh bị khinh miệt và bị hành hạ, nên đời đời làm nô lệ phục vụ cho ba
giai cấp trên. Giai cấp này bị khinh bỉ đến nỗi một người Thủ Đà La đến gần một
giếng nước, thời giếng nước ấy xem như đã trở thành dơ bẩn, không dùng được cho
ba giai cấp trên và người Thủ Đà La nào vi phạm tội ấy có thể bị ném đá cho đến
chết.
Chính sự kỳ thị này đã gây ra một tổ
chức xã hội cực kỳ bất công. Cho đến cuối thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch đẳng cấp
Bà La Môn hoàn toàn ngự trị trên toàn thể dân chúng Ấn, họ hợp nhất quyền lực
chính trị vào quyền lực tôn giáo, đặt thêm nhiều nghi lễ tế tự phiền toái để
trói buộc dân chúng nhằm củng cố giai cấp thống trị. Thời kỳ này có nhiều luận
chấp về Tự Ngã và nảy sinh nhiều phe phái, từ những luận chấp về quá khứ, về
tương lai, cho đến luận chấp về hiện tại Niết Bàn. Tất cả các luận chấp này đều
dựa vào sự xúc đối phân biệt của sáu giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý
thức).
IV. Tư tưởng Triết học Đạo Bà La
môn:
Vào thời kỳ đầu, với trình độ nhận
thức con người còn thấp kém, tư tưởng triết học Bà-la-môn giáo chủ yếu dựa vào
hình thức tế tự, mang tính chất đa thần. Vì họ tin tưởng rằng, nhờ những nghi
thức tế lễ mà người ta có thể thông cảm với thần linh, được thần linh che chở
và giúp đỡ cho giải thoát. Tới khi trình độ nhận thức ngày càng cao, con người
bắt đầu ý thức về sự tồn tại của mình. Họ suy ngẫm về cuộc đời, số phận và đi
tìm lẻ sống cho con người. Để đáp ứng nhu cầu đó nên tư tưởng triết học
Upanishad đã ra đời.
Đây là đỉnh cao của triết học
Bà-la-môn giáo. Mọi tư tưởng của bất kỳ môn phái nào sau này, chúng ta sẽ không
biết gì đến nơi đến chốn nếu không tìm hiểu cội nguồn của tất cả các hệ thống
Upanishad. Vì vậy triết gia Schopenhauer đã thốt lên rằng: “Khắp thế giới không
có gì lợi ích nâng cao tâm hồn con người bằng các Upanishad. Nó đã an ủi đời
sống của tôi, nó sẽ an ủi tôi khi tôi chết”. Sự xuất hiện của Upanishad đánh
dấu bước chuyển tiếp từ thế giới quan thần thoại tôn giáo sang tư duy triết
học. Tư tưởng đó được thể hiện trong các vấn đề chủ yếu sau:
1. Thực Tại Tối Cao Brahman:
“Cái gì là thực tại đầu tiên, duy
nhất, tối cao, là căn nguyên của tất cả, mà khi nhận thức được nó người ta sẽ
biết được mọi cái và có thể giải thoát được linh hồn con người khỏi mọi lo âu
khổ não của cuộc đời”. Upanishad đã cho rằng: đó là “Tinh thần vũ trụ tối cao
Brahman”. Brahman là thực tại có trước nhất và là thực thể duy nhất, tuyệt đối,
tối cao, vĩnh viễn, vô danh vô sắc v.v… là bản thể của tất cả, ở ngoài mọi giới
hạn của thời gian và không gian… Brahman là thực tại siêu việt khách quan, ở
ngoài và ở trong con người.
Chandogya Upanishad nói: “Toàn thể
vũ trụ là Brahman” và cũng nói “cái ngã tiềm ẩn trong lòng ta, đó là Brahman”.
Cả Mundak và Katha Upanishad đều xác nhận: “Tự ngã không thể đạt được bởi học
vấn, trí tuệ hay kiến thức. Ngài có thể đạt được bởi người nào mà Ngài lựa
chọn. Đối với người ấy Tự ngã tự thể hiện bản tính của mình”. Taittiriya
Upanishad có nhắc đến lời dạy của đạo sĩ Varuna về Brahman cho con như sau:
“Cái ở đấy mọi sự vật sinh ra, cái ở
đấy mọi sự vật sống được và cái ở đấy mọi sự vật trở về sau khi chết. Con hãy
tự hiểu lấy, cái đó là Brahman”.
Như vậy, Brahman là nguyên lý siêu
việt, thường tại, vô thủy vô chung, là quỹ đạo chi phối vạn vật theo một trật
tự như là điều lý có sẵn. Trong khi đó, vạn vật là những thực tại hữu thủy, hữu
chung, được điều lý và định hướng trong Brahman.
Brahman là một thực tại đồng nhất,
vượt ngoài các ý niệm, các tổng số ý niệm; nhưng để lý giải cho những người chưa
có trình độ thực nghiệm tâm linh thì phải mượn những ý niệm. Vì thế, Taittiriya
Upanishad đã hình tượng hóa Brahman như một cái tổ chim có ba con chim nhô cái
đầu ra là Viraj, Hiranya Garbha và Ishvara: “Khi tuyệt đối được quan niệm là
độc lập, tự hữu thì gọi là Brahman. Khi được coi là hiện thân thành vũ trụ thì
gọi là Hiranya garbha, khi được coi là thượng đế sáng tạo hữu ngã thì gọi là
Ishvara. Ishvara trở thành Brahman,Vishnu và Shiva khi ba chức phận của Ngài
được phân biệt”
Không thể miêu tả Brahamn, nhưng
Mundaka Upanishad đã lấy hình tượng con nhện giăng tơ để miêu tả hành động sáng
tạo và thu hồi của Brahamn như sau: “Cũng như con nhện giăng tơ và rút tơ về,
cũng như cỏ sinh trên mặt đất, cũng như lông mộc trên thân người sống, thì nơi
đây trong vũ trụ, phàm cái hữu tồn là xuất tự Bất di bất dịch”.
Bất lực trong việc miêu tả Brahman,
Brihad Aranyaka Upanishad dùng toàn bộ những chữ “không” để nói: “Brahman không
lớn, không nhỏ, không ngắn, không dài, không rực rỡ, không tối tăm, không mùi,
không vị, không mắt, không tai, không tiếng nói, không hơi thở, không trong,
không ngoài, không tiêu hủy mà cũng không bị tiêu hủy”.
Mặc dù không thể miêu tả được
Brahman là gì, nhưng Brahman vẫn có những tính thiết yếu là: Thực hữu (Chat), Ý
thức (Chit), An lạc (Ananda). Brahman là thực hữu vì không phải là hư không,
Brahman là ý thức vì là nguồn gốc của mọi nhận biết, Brahman là an lạc vì đó là
hạnh phúc vĩnh hằng.
Mandukya Upanishad cho rằng con
người chỉ có thể cảm nhận Brahman bằng trực giác tâm linh (Turiya). “Turiya là
bản chất của ý thức về tự ngã duy nhất, nơi mà tất cả muôn vật trong thế giới
đều trở về, yên vui, thanh tịnh, không hại”.
2. Tự Ngã Atman:
Tự ngã Atman là một thực thể nội tại
trong mỗi cá nhân. Hơi thở là nguồn sống vật chất thì Atman là hơi thở siêu
nhiên, là nguồn sống thiêng liêng. Atman là thực thể làm cho con nguời vượt lên
trên vạn vật. Có thể nói Atman là thành phần của Brahman trong con người.
Brahman là cái ngã vũ trụ đại đồng, còn Atman là cái ngã cá nhân. Braman chỉ có
một, Atman là số nhiều, nhưng cái nhiều ấy chỉ là giả tưởng vì bản chất cả hai
chỉ là một. Cho rằng khi thân xác chết thì Tự ngã (Atman) lại trở về hợp nhất
với Đại ngã (Brahman).
Tự ngã Atman không phải là lý trí,
tình cảm và giác quan, nhưng Atman là nguồn cội của các sinh hoạt tinh thần ấy.
Không có Atman, tất cả sinh hoạt tinh thần và thể chất đều chấm dứt. Nhưng ngay
khi cả sinh hoạt tinh thần và thể chất chấm dứt thì Atman vẫn tồn tại bất diệt.
Với nhiều nỗ lực, nhưng Upanishad cũng không thể nói rõ về Atman, cho nên luôn
cảnh giác rằng tự ngã không thể hiểu được, tự ngã phải cần được thực hiện.
Katha Upanishad nói: “Atman không thể nhận biết được bởi sức mạnh của trí óc,
cũng không thể nhận biết được bởi giác quan”.
3. Giải Thoát Và Thực Trạng Giải
Thoát:
Cứu cánh mọi triết học, tôn giáo
chính là vấn đề giải thoát. Brihad Aranyaka Upanishad nói: “Bậc chân tri sau
khi chết sẽ vượt qua không gian lên tới cõi hạnh phúc vĩnh hằng”. Cõi hạnh phúc
vĩnh hằng là cảnh giới dành cho những người đạt giải thoát thực sự. Còn những
kẻ tội lỗi thì phải chịu sự chi phối của định luật nghiệp báo, bị đọa đày khổ
sở trong vòng luân hồi cho tới khi dứt nghiệp và đạt được chân tri. Ngoài ra
Chândogya Upanishad cũng nói đến hai nẻo đường giải thoát: đường của tố phụ
(Patri Yana) và đường của thần linh (Deva Yana).
Đường của tố phụ dành cho những
người ra sức hành thiện, những người ấy sau khi chết sẽ được vào cõi trời
(thiên đường). Nhưng khi hưởng hết phước báo trong một khoảng thời gian tương
ứng, họ sẽ trở lại trần gian. Chỉ khi nào con người đi vào nẽo đường của thần
linh, không bị nô lệ bởi vật chất, đồng nhất được Brahman với Atman ngay tại
chính mình, bấy giờ mới được giải thoát và được hưởng hạnh phúc viên mãn vĩnh
hằng.
Nhưng muốn được giải thoát thì phải
trải qua tiến trình tu tập. Phải toàn tâm kiên trì tu luyện đạo đức
(karma-yoga) và tu luyện tri thức (jnàna-yoga), nhằm diệt mọi dục vọng, lo âu,
phiền não, rũ bỏ hết mọi ràng buộc, lôi kéo bởi thế giới vật dục biến ảo, vô thường
của thế giới trần tục; dày công thiền định (dhyàna) suy tư chiêm nghiệm nội
tâm, “thực nghiệm tâm linh” bằng trực giác; nhận cho ra chân bản tánh của mình,
để đạt chân lý tối thượng hòa nhập vào bản thể tuyệt đối. Đó chính là sự giải
thoát, ý nghĩa tối cao của cuộc sống.
Nhưng nhận thức được sự đồng nhất đó
với linh hồn bất tử không phải là điều cảm giác hay trí tuệ thông thường có thể
đạt được. Nó có thể đạt được nhờ vào sự thực nghiệm tâm linh. Thực nghiệm tâm
linh là sự thực nghiệm ngay trong sâu thẳm tâm hồn mình. Phải trải qua mức cảm
nghiệm, nhưng trước hết là phải đưa nhận thức quay về chính mình. Kinh
Upanishad đã nói: “Atman chẳng có thể nhận biết được bởi học vấn, bởi sức mạnh
của trí óc. Atman chẳng thể nhận thức được bằng giác quan. Tự ngã mở các giác
quan ra ngoài, bởi thế người ta chỉ trông ra thế giới bên ngoài mà không nhìn
về bản ngã”. Có 3 con đường chính để đạt đến giải thoát:
- Con đường tri thức đòi hỏi tu hành
khổ hạnh, chuyên tâm rèn luyện, sẵn lòng thoát ly thế giới trần tục.
- Con đường hành động theo nguyên
tắc tâm linh vị tha, vì lợi ích chung, vì cái thiện, vì đại ngã.
-Con đường cuối cùng, rộng rãi nhất,
dành cho mọi người đó là con đường sùng tín, hết lòng tin yêu, tôn kính Đấng
tối cao – Atman có thể hoà nhập với Braman trong tình yêu và bằng tình yêu cao
cả thiêng liêng.
Giải thoát là con người không còn bị
đau khổ nữa, bởi vì đau khổ là trạng thái con người bị giới hạn. Ta không còn
khao khát, ghét bỏ, mơ tưởng…con người ra khỏi thế giới nhị nguyên tương đối, bước
vào cảnh giới nhất nguyên tuyệt đối.
4. Tự Ngã:
Upanishad thừa nhận một Atman hiện
hữu trong con người. Và cũng cho rằng có tự ngã bất biến, cuộc sống con người
như thế nào là do sự quyết định của đấng tối cao Brahman. Sự mặc khải của đấng
sáng tạo sẽ quyết định sự giải thoát của một con người
Tóm lại, nói đến Ấn Độ là nói đến
một nền văn hóa với nhiều truyền thống tôn giáo. Nơi đây có nhiều triết thuyết
ra đời với nhiều tư tưởng khác nhau. Nhưng tất cả các học thuyết sau này đều
dựa vào tư tưởng triết học Upanishad; vì từ rất sớm, nó đã chiếm một vị thế cực
kỳ trọng yếu trong mọi khái niệm và xã hội của con người cổ đại và cho đến hiện
nay.
Balamon giáo và triết học phật giáo
Là một phần trong cái hùng vĩ nền
triết học Ấn Độ, Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự đóng góp to lớn, không
những trên bình diện triết lý u huyền mà còn để lại những ảnh hưởng sâu đậm
trong từng nếp nghĩ, cử chỉ hay quan niệm sống của toàn thể dân tộc Ấn Độ. Và
cũng vì là hai thực thể có cùng chung một dòng máu nên trong quá trình phát triển,
cả hai đều đã có những ảnh hưởng nhất định lên nhau. Nhưng vì ra đời muộn hơn
nên đã có không ít quan niệm cho rằng Phật giáo là sự hệ thống lại các tư tưởng
Ấn độ giáo, hoặc cũng có ý kiến cho rằng đạo Phật là phản biện của chủ nghĩa
tôn giáo Ấn... Còn có rất nhiều nữa những quan niệm hoặc là thế này hoặc là thế
kia để so sánh những mệnh đề đã tồn tại từ lâu trong lòng của hai khối tư tưởng
một thời đã từng được xem là đối kháng của nhau. Với tư cách là một thành viên
của Phật giáo, chúng ta đã có suy nghĩ gì về những lời bàn luận trên? Thiết
nghĩ, muốn hiểu được, có lẽ chúng ta phải hiểu được bản chất triết học của
Bà-la-môn là gì. Nhưng bằng cách nào? Ở đây, người viết xin thông qua những
phạm trù nhận thức căn bản nhất của Phật giáo để xem Bà-la-môn giáo đã được
hiểu như thế nào? Tuy nhiên, với những giới hạn nhất định của một bài viết –
không phải là một bài khảo cứu chuyên nghành – nên sự cho phép ở đây chỉ được
giới hạn trong những điểm cơ bản nhất mà người viết cho rằng thật cần thiết để
đánh giá về một trào lưu tư tưởng đã có quan hệ sâu đậm đối với Phật giáo trong
suốt chiều dài lịch sử.
Sơ lược về tư tưởng Bà-la-môn giáo
Nói đến Bà-la-môn giáo là nói đến cả
một hệ thống tôn giáo bao gồm cả hai mặt: Tôn giáo tính và triết lý tính vô
cùng đa dạng và phức tạp. Nếu căn cứ vào sự tịnh tiến theo chiều ngang của thời
gian, Bà-la-môn giáo được xem là sự tích hợp của một quá trình đi lên và trưởng
thành của dân tộc Ấn, mà trong đó, các thế hệ đi qua luôn là tiền đề cho người
sau kế tục. Có lẽ chính vì vậy mà nhà nghiên cứu văn hóa Ấn Macdonell đã nhận
xét: “Ngoài Trung Quốc ra, không còn nước nào trên thế giới có thể tìm được
nguồn gốc ngôn ngữ, văn học, tín ngưỡng và lễ nghi tôn giáo cùng những tập tục
tập quán xã hội của mình qua một sự phát triển không ngừng trong hơn 3000 năm
như ở Ấn Độ”.
Thật vậy! Kể từ khi thiết lập nền
văn hóa Veda tại vùng Ngũ Hà rồi tiến xuống định cư tại vùng đồng bằng Ấn –
Hằng, người Aryen đã từng bước xây dựng một Ấn Độ hết sức đặc sắc mà trước hết
là sự hình thành nên các bộ Veda để làm nền tảng. Từ những gì còn được biết
ngày hôm nay cho thấy rằng sự phát triển tư tưởng Ấn được đánh dấu bằng sự ra
đời của các bộ kinh Veda (1000-600 B.C) gồm Rig-Veda, Sama-Veda, Yajur-Veda,
Athava-Veda, sau đó nhờ sự khai triển của các thế hệ người Aryan mà các bộ sớ
giải lần lượt ra đời cùng với sự phóng thích nguồn tư tưởng đã được ẩn chứa
trong đó. Chẳng hạn như sự ra đời của Brahmanas (1000-800 B.C) giải thích những
nghi lễ trong Veda. Nó có nhiệm vụ giải thích tại sao một người Bà-la-môn phải
làm như vậy. Bộ Àranyaka (600-200 B.C) lại giải thích và phụ chú về bộ
Brahmanas. Cuối cùng là những bộ Upanishads (800-500 B.C), đây là phần tinh hoa
nhất của giáo lý Veda. Nó ẩn chứa nhiều thông tin liên quan đến triết học của
Bà-la-môn. Chính sự hoàn thiện của Upanishads đã làm chỗ y cứ để các thế hệ của
Veda giáo triển khai. Hầu như mọi kiến giải về nó được xem là vô tận. Mỗi thời
sẽ có những bậc đạo sư khác thừa kế và mở rộng. Kết quả là có vô số các tập
giải thích và đã được hệ thống trở lại thành những pho mà ngày nay nó vẫn còn
được người Ấn coi đó là một trong những công trình vĩ đại của toàn tri thức Ấn.
Cho nên, có thể nói không quá rằng, nguồn cảm hứng của sự phong phú trong tư
tưởng Ấn Độ chính là ở đây.
Theo Chandradhar Sharma, tiến sĩ
triết học trường Đại học Banaras Hindu, trước khi Upanisads ra đời, các bộ Veda
ít mang tính triết học. Nó chủ yếu được hình thành từ lòng sùng kính đối với
tín ngưỡng thần linh. Nội dung của các bài ca trong Rig-Veda cho thấy, đời sống
tinh thần của người Ấn vẫn còn rất phức tạp nhưng lại đang ở trên bình diện của
sự sơ khai, ít nhất là cho đến lúc người Aryen định cư tại Ấn Hằng. Những thắc
mắc giản đơn về thế giới tự nhiên đã đem đến cho họ những kích thích nhất định.
Tuy nhiên, sự hoảng sợ trước sức mạnh của thiên nhiên đã buộc họ phải quan niệm
rằng đứng đằng sau các hiện tượng kia phải là một thế lức có sức mạnh ghê gớm.
Và thế là khái niệm thần linh ra đời, nó trở thành một thế giới quan chung nhất
cho tất cả thành viên của Veda giáo. Sự ra đời quan niệm thế giới thần linh
được mở rộng về số lượng và vai trò của các vị thần đối với đời sống con người.
Chính điều đó làm cho nó trở thành một tôn giáo của đa thần. Dần dần, với sự
góp mặt của sự tiến bộ nhận thức, thế giới thần linh được đẩy lên bình diện cao
hơn, đó là xu hướng về siêu hình học và triết lý thần học mà điển hình là các
khái niệm về Purusa - chúa tể các vị thần. Từ căn bản này, Upanisads đã phát
triển lên biểu tượng Đấng sáng tạo Brahman. Tuy nhiên, sự hình thành đấng tối
cao của Veda giáo không được hiểu theo nghĩa tập quyền về tay của Đấng tạo hóa
mà phải được xác định ở sự biểu hiện thông qua hình ảnh các vị thần khác của Ấn
giáo. Nói như Mark Muller thì thay vì đi tìm khái niệm cho một đấng tối cao,
Veda đã tôn kính đấng sáng tạo dựa trên sự tôn kính các vị thần khác. Cho nên
Chandradhar Sharma kết luận rằng không có sự phát triển từ Đa thần sang đơn
thần rồi đến Nhất nguyên luận của Upanisads mà nó là sự thống nhất tư tưởng từ
các Mantra đầu tiên sang Upanisads, nghĩa là nó là sự tiến bộ từ quan niệm hình
tượng sang tư tưởng triết học. Điều này thật rõ ràng khi ta biết rằng giữa
những hệ thống lễ nghi phức tạp của tập Bràhmana là sự hiện hữu của vô vàn các
triết lý mà các tập Upanisads đã hệ thống một cách đáng khâm phục. Mối quan hệ
giữa Mantra và Upanisads luôn là một biến số mà trong đó kết quả lại đưa về
nhất nguyên luận với các tập Upanisads là đỉnh cao chứa đựng những tư tưởng
này. Như nhà hiền triết Narada đã hỏi Sanatkumàra: Thưa ngài, tôi biết
Rig-Veda, Yajuh,... Với tất cả điều này giúp tôi hiểu các Mantra và những cuốn
sách thánh, nhưng tôi không biết về cái Tôi bản ngã.. Tôi nghe nhiều người như
Ngài nói rằng, chỉ những ai biết được cái Tôi này mới thoát khỏi ưu phiền. Hay
như Munkada đã nói: “Có hai loại tri thức mà con người phải thấu hiểu... Loại
tri thức thấp là những gì mà Rig-veda, Yajur,... mang đến, còn tri thức cao chỉ
Brahman bất tử mới biết”.
Như vậy, đi tìm bản chất của bản ngã
cùng các quy luật của nó chính là nội dung mà bao thế hệ Veda đã và đang nỗ lực
xây dựng nhằm hoàn thiện thiên chức thiêng liêng mà Đấng tối cao Brahman đã
giáo phó. Và cũng từ những quan kiến về Bản ngã này mà toàn bộ hệ thống triết
lý Bà-la-môn giáo được hoàn thiện. Nói khác hơn, triết học Bà-la-môn lấy tư duy
hướng ngã làm cơ sở. Đây chính là phạm trù căn bản để từ đó cho phép chúng ta
nhận xét về những đặc tính mà các tư tưởng khác hoặc là kế thừa, hoặc là phản
đối.
Mối quan hệ giữa Phật giáo và
Bà-la-môn giáo
Cùng bắt nguồn trên mảnh đất của
triết lý, lẽ tất nhiên Phật giáo và Bà-la-môn giáo không thể nào không có những
mối quan hệ sâu đậm được. Nhưng, đó là quan hệ gì? Từ xưa đã có rất nhiều ý
kiến, nhận xét được đưa ra để biện giải cho vấn đề này. Trong đó, với mục đích
phân biệt rõ hơn về hai trào lưu tư tưởng mà đã có ý kiến cho rằng Phật giáo là
một trào lưu độc lập và đã phủ nhận sự minh triết của Bà-la-môn giáo tồn tại
trong Phật giáo. Ngược lại, cũng có người khi nhìn thấy những điểm chung nhất
giữa hai giáo phái đã vội cho rằng Phật giáo là sự tổng hợp đỉnh cao của
Bà-la-môn giáo. Nói khác hơn, một bên nỗ lực tách riêng còn một bên cố gắng đưa
đến sự hợp nhất mà trong đó cả Phật giáo và Bà-la-môn giáo chỉ là hai mặt của
tư tưởng Ấn.
Tuy nhiên phủ nhận hay khẳng định sự
chính xác của một hoặc hai xu hướng trên không phải là vấn đề ở đây. Vì sao? Vì
nếu là phủ nhận hoặc khẳng định thì điếu đó đã cho thấy rằng nó ít nhiều không
khỏi có sự hiện hữu của sự phiến diện. Nó có thể xuất phát từ những tự ái cá
nhân hoặc tự ái tôn giáo để rồi đưa đến sự thiếu khách quan trong nhận định.
Cho nên ở đây mối quan hệ tác động sẽ là đối tượng để chúng ta đề cập.
Lịch sử đã cho thấy rằng, Phật giáo
xuất phát chậm hơn các trào lưu tư tưởng của Bà-la-môn giáo. Nói cho chính xác
thì khi Phật giáo ra đời, nền triết học Bà-la-môn giáo đã đạt đến đỉnh cao của
nhận thức tính và nó đang đi vào sự suy sụp do khuynh hướng của tôn giáo hình
thức chi phối tính triết lý hàm súc trong văn học Veda. Trong khung cảnh sa sút
ấy, Phật giáo ra đời và được xem là sự cải cách lớn nhất đầu tiên trong lịch sử
tư tưởng Ấn. Mọi giá trị của Bà-la-môn giáo đã được xem xét lại khi thời bấy
giờ Phật giáo đưa ra nhiều kiến giải mang tính đột phá cao. Chẳng hạn, chỉ bằng
vào sự phủ nhận tính thực hữu của bản thể Brahman và thay vào đó là tự tính vô
hữu ngã thôi, Phật giáo gần như đánh đổ cả hệ thống giáo lý của Veda, ít nhất
là trên bình diện triết học. Ngoài ra, ở các phạm trù khác đều tìm thấy những
dấu vết của sự bất đồng của Phật giáo đối với Bà-la-môn giáo.
Thế nhưng, nếu căn cứ vào đó mà cho
rằng Phật giáo không có sự liên hệ nào cả với Bà-la-môn giáo thì chưa chính
xác. Vì, khi đi sâu vào nội dung của Phật giáo ta rất dể dàng tìm thấy nhiều
yếu tố của Bà-la-môn giáo mà chính xác hơn là của Veda. Và điểm chung nhất mà
ta có thể tìm thấy ở bất cứ đâu trong giáo lý Phật giáo so với Bà-la-môn giáo
là sự xu hướng của quan niệm là tư tưởng luân hồi khổ đau và tìm cầu giải
thoát. Có thể nói đây là hai phạm trù không riêng gì giáo phái nào mà hầu như
tất cả những trào lưu tư tưởng Ấn đều đặc biệt quan tâm và luôn tìm cách tiếp
cận. Và do xuất phát từ xu hướng đó mà gần như những danh từ, những thuộc tính,
những phương pháp thi thiết của cả hai giáo phái đều có biểu hiện cho thấy nó
rất gần gũi mà đã không ít người gần như không còn phân biệt được đâu là của
Phật giáo, đâu là của Bà-la-môn giáo. Về điểm này, Kimura Taken đã nhận xét như
sau:
Khi Phật đối đáp với người
Bà-La-Môn, Ngài không thể gạt hẳn tín ngưỡng của họ ra một bên; vả lại đứng
trên lập trường thần thoại mà nói thì Phạm Thiên cũng luôn luôn được biểu hiện
trong Phật giáo, lý do chính là ở đó. Hơn nữa, theo sự suy định của tôi, tín
ngưỡng Văn Thù, Quan Âm của Đại thừa Phật giáo sau này phần lớn cũng do thần
thoại Phạm Thiên mà ra, về sau đã đóng vai trò rất trọng yếu trong Phật giáo về
mọi phương diện. Do đó khi nói đến Phạm Thiên là vị nhân - cách - thần trung
tâm ở thời đại Phật đã hàm ngụ một ý nghĩa rất trọng yếu trong bề mặt nghiên
cứu Phật giáo sử Ấn Độ.
Một điểm nữa cho thấy rằng tư tưởng
Phật giáo có quan hệ gần gũi với Bà-la-môn giáo, đó là việc Đức Thích Ca Mâu Ni
Phật, giáo chủ khai sáng Đạo Phật, là một người được giáo dục trong môi trường
của Veda. Từ khi sinh ra, lớn lên và thậm chí cả khi đi xuất gia tu hành, ngài
cũng trang bị cho bản thân bằng những kinh nghiệm đã được hấp thu từ nền giáo
dục của truyền thống Veda. Sự tham cầu học và đạt được những kết quả tối cao
trong phương pháp của hai đạo sĩ A-la-la và Uất-đầu-ca, sự tìm cầu giải thoát
bằng đường hướng khổ hạnh khốc liệt,... đã cho thấy rõ điều đó. Và mặc dầu, khi
đã giác ngộ được con đường giải thoát hoàn toàn khác với giáo lý Veda, nhưng để
diễn đạt được những gì mà ngài đã tìm được sau hơn 6 năm tìm kiếm đến với chúng
sanh thì bắt buộc ngài phải sử dụng những thuộc từ phổ thông cho dù theo truyền
thống của Veda thì nó có thể được hiểu ở nghĩa khác.
Tóm lại, từ những sự tương đồng và
dị biệt cơ bản trên cho thấy giữa Bà-la-môn giáo và Phật giáo đã có sự liên hệ
hết sức mật thiết về cả ngôn ngữ lẫn tư tưởng triết lý. Chỉ có điều cần phải
nhắc lại rằng, bất cứ sự đánh đồng nào giữa hai tư tưởng này đều không có nghĩa
là nó thuộc về nhau. Vì sao? Vì ngay trong mục đích căn bản mà mỗi xu hướng đều
cho thấy nó hoàn toàn không phải là một hay có sự vay mượn nào cả, ngoại trừ
sau này, khi Hindu giáo được chấn chỉnh thì mới có sự tổ hợp một số tư tưởng
phi Veda, như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo. . . được đưa vào và giải
thích theo phong cách của Hindu để có thể hiểu được như là một khía cạnh chính
thống của Veda. Một Phật giáo chủ trương vô thật ngã và xây dựng nền đạo học
trên cơ sở ấy, còn một bên là Bà-la-môn giáo thừa kế tư tưởng đề cao Bản Ngã
tuyệt đối và tìm cách lý giải về điều đó thì làm sao có thể là một hay vay mượn
tư tưởng được. Và nếu có đi nữa thì cũng chỉ là giao thoa trên bình diện ngôn
ngữ mà thôi.
Bà-la-môn giáo với hiện tượng luận
Phật giáo
Xuất phát từ một nền triết học mang
nặng thiên hướng tâm linh nên lẽ tất nhiên các giá trị về vũ trụ hiện tượng
không phải là đối tượng đáng được các nhà hiền triết của Veda chú ý. Bởi lý do
đó mà mặc dù Ấn Độ đã có lịch sử lâu đời, và họ cũnh chính là người đã đóng góp
những phát minh quan trọng nhưng sự chuyên sâu trong những lĩnh vực về vũ trụ
hiện tượng nhưng vẫn không thể nào bì được với các nền văn hóa phương Tây. Đó
chính là một hạn chế nhất định của văn minh Ấn vậy.
Thế nhưng bù lại, nền triết học Ấn
lại giúp cho nhân loại khám phá được những quy luật của hiện tượng. Chính những
quy luật này, thông qua cách triết lý của Ấn Độ, nó đã hình thành nên những
quan niệm về thế giới hiện tượng mà trong đó trục xoay chính là con người và
đời sống của họ. Riêng Bà-la-môn giáo còn đi xa hơn khi đã tạo nên một khung
cảnh vũ trụ mà trong đó nó chịu sự đạo diễn bởi các thần linh. Chính các thần
linh này khi đã được hình tượng hóa thì đã lộ rõ một bức tranh của cuộc sống
con người không hơn không kém. Và có lẽ dựa trên nền tảng này mà Upanisads đã
để cho Atman - đại diện cho con người – được đồng nhất tính với Brahman – biểu
trưng cho vũ trụ. Sự đồng nhất này, trước hết vẫn là một biểu tượng vị nhân của
triết lý Ấn. Trong Chàndoya Upanisad, đạo sĩ Uddàlaka trả lời Svetaketu: “Như
vậy, con ơi! Cái thực thể tế vi mà con không nhận thức được, chính nhờ cái thực
thể tế vi ấy mà cây lớn này đã mọc và tồn tại được. Con ơi! Con hãy tin rằng,
cái thực thể tế vi ấy tràn ngập trong toàn thể vũ trụ. Đấy là chân lý, đấy là
Tự ngã. Cái ấy là Con, hỡi Svetaketu”.
Như vậy, đứng trên lập trường nhân
sinh để quy định tính chất vũ trụ, Bà-la-môn giáo đã diễn dịch một hệ thống vũ
trụ to lớn nằm trọn trong tiểu vũ trụ là con người. Một điều thú vị là Phật
giáo cũng nhất trí rằng vạn pháp đều do tâm con người biểu hiện. Tư tưởng này
từ lâu đã nổi tiếng với câu kệ của kinh Hoa Nghiêm:
Nhược nhơn dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật
Ưng quán pháp giới tánh
Nhất thiết duy Tâm tạo.
Nói cách khác, sự nhất quán về nhân
sinh chủ quan giữa Bà-la-môn giáo và Phật giáo là một sự thật không thể phủ
nhận được. Tuy nhiên, nếu như Bà-la-môn giáo với đặc trưng là tư tưởng Veda đã
cho sự cấu thành của hiện tượng nằm trong những quy luật của thần thánh thì sự
khác biệt của Phật giáo lại thuộc về quy luật nhân duyên. Atharva Veda nói:
“... Chỉ hơi thở của Người đủ thành sinh khí cho toàn đại vũ trụ, đủ tạo nên
vạn vật, sự chi phối hoàn bị đến độ đều nằm sẵn trong từng cá thể vi ti nhỏ
nhặt nhất”. Trong Yajur Veda cũng bảo rằng: “... Vạn vật phát hiện tự nơi ngài
và vũ trụ đã có sẵn trong ngài.... cũng như cây sồi có sẵn trong hạt sồi, cũng
như trái cây có sẵn trong mầm hạt cây, sẵn sàng nảy nở và phát triển, muôn vật
hữu hình đã có sẵn ở Brahman và mọi mầm mống đều phát sinh tự nơi Ngài”. Ngược
lại những quan niệm đó, kinh Phật Tự Thuyết, nguyên lý Duyên khởi được Thế Tôn
tóm tắt:
Do cái này có mặt nên cái kia có
mặt.
Do cái này không có mặt nên cái kia
không có mặt.
Do cái này sinh nên cái kia sinh.
Do cái này diệt nên cái kia diệt.
Quy luật nhân duyên là mối quan hệ
chính yếu mà Phật giáo đề cập khi biện giải về hiện hữu hữu thể. Nó cho biết
rằng tất cả các hình thái biểu hiện của hiện hữu đều nằm trong một tổ hợp và
các giá trị trong tổ hợp đó hoàn toàn không được khẳng định ở sự thực hữu, mà
ngược lại nó mang trên mình những biến thiên nhất định tùy thuộc vào những điều
kiện có liên quan.
Trong Bà-la-môn giáo, sự khắng khít
theo quy luật nhân duyên không phải là không được tìm thấy. Nếu như trong Phật
giáo, sự liên hệ nhân duyên đưa đến các biểu tướng sanh, trụ, dị, diệt thì
trong Bà-la-môn giáo sự biểu hiện đó lại thuộc về ba ảnh dụ của ba vị thần
Brhamas - tượng trưng cho sáng tạo (sanh), Vishnu - vị thần bảo hộ (trụ và dị)
và Shiva - vị thần hủy diệt (diệt). Chính sự đấu tranh của ba vị thần này cho
thấy rất rõ về quy luật tác động lên nhau của Bà-la-môn giáo khi quan niệm về
hiện tượng là nguyên lý thứ hai tồn tại song song với nguyên lý tối cao thứ
nhất. Và gần như một quy tắc, chính sự tranh đấu trong nguyên lý thứ hai mà thế
giới hiện tượng được liên tục hình thành và biến chuyển. Chỉ có điều, sự biến
chuyển này, theo Veda giáo thì con người không thể thấu triệt được bản chất của
nó, vì đơn giản là nó thuộc về những quy tắc của nguyên lý tuyệt đối, mà đã là
như vậy thì hiển nhiên chỉ có Brahman mới có đủ thẩm quyền để biết mà thôi. Sự
triết lý như thế thì những quy luật thần thánh chính là cơ sở để có thể thuyết
minh về hiện tượng, mặc dầu nó vẫn đi theo quy luật của nhân duyên.
Phật giáo thì khác hơn khi xác nhận
sự vận động trong phạm vi của luật nhân duyên, các hiện hữu không được hiểu là
do một năng lực tiên nghiệm nào sáng tạo và duy trì. Nó là kết quả của các năng
lực được tích hợp từ vô số các trạng huống mà các nhân duyên đã không ngừng vận
động. Bản thân của các yếu tố được gọi là nhân, là duyên lại một lần nữa không
có các thực hữu thể. Và Phật giáo kết luận Không tánh là thực tánh của các
pháp. Đức Phật đã hơn một lần khẳng định về điều đó:
Chư Phật, Lưỡng Túc Tôn
Tri pháp thường vô tánh
Phật chủng tùy duyên sanh
Thị cố thuyết nhất thừa.
Vì là không tánh nên quy luật nhân
duyên được vận hành và trở thành năng lực chi phối sự vận động của các pháp. Sự
chuyển vận này làm kéo theo các hệ quả mà sanh trụ dị diệt, có, không,… là
những biểu tướng phải có.
Thế nên, trên bình diện tổng quát,
hiện tượng luận của Bà-la-môn giáo vẫn được hiểu bằng quy luật nhân duyên của
Phật giáo. Nhưng sự khác biệt vẫn nằm ở bản chất nền tảng của Bà-la-môn giáo
được quy nạp vào quy luật thần tính và sự bất khả tri của con người. Chính điều
đó làm cho sự vận động mất đi tính khách quan vốn có và đưa nó trở thành phụ
thuộc vào ngoại tại tuyệt đối. Đây là điểm khác biệt rõ nhất khi Phật giáo chủ
trương các pháp vận động phụ thuộc vào chính những điều kiện nằm trong hệ quy chiếu
mà nó đang hiện hữu. Thiết nghĩ, khi so sánh về phạm trù ấy, chúng ta chắc hẳn
phải lưu ý đến điểm này.
Bà-la-môn giáo và Bản thể luận Phật
giáo
Như đã nói ở trên, thế giới hiện
tượng trong Bà-la-môn giáo chẳng qua cũng chỉ là biểu hiện của bản thể Brahman,
sự xu hướng về Thực thể Tiên nghiệm đã làm cho nó hoàn toàn đồng nhất tính với
nguyên lý tuyệt đối và không bao giờ đi ra khỏi sự chi phối của nguyên lý đó.
Advaita Swami Dayananda, đạo sĩ nổi tiếng của Advaita Vedanta, một hình thức
cách tân của Bà-la-môn giáo, đã tán dương như sau:
Cả thế giới vũ trụ chỉ là Một. Cái
Một đó là Brahman và cái Một đó là đơn nhất và toàn bộ chứ không phải được cấu
thành bằng những bộ phận hay yếu tố nào hết. Đó là Brahman, cái tuyệt đối. Và
bản thân anh, người đang tìm tòi Brahman cũng là Brahman. Bởi lẽ Brahman khác
biệt với anh thì Brahman sẽ không còn là Brahman nữa, và sẽ là nhị nguyên, không
phải nhất nguyên. Anh sẽ là chủ thể và Brahman là khách thể. Anh không còn là
cái toàn bộ (the Whole). Triết thuyết Advaita bắt nguồn từ các Thánh điển
Vedas, mà truyền thống xem là sách thần khải, được trao truyền cho các bậc minh
triết thời xưa, gọi là rishis. Sách Upanisads là bộ phận kết thúc của thánh
điển Vedas, không những bàn luận về Brahman mà còn giảng dạy một cách có hệ
thống về Brahman nữa…Theo tôi, nghiên cứu thánh điển Upanisads chính là phương
pháp trực tiếp để thành tựu cái Ta chân thật, tức Atman, cũng tức là Brahman. Thành
tựu cái Ta thật tức là phát hiện cái Ta thật đó chính là cái toàn bộ, là Thượng
đế, là cội nguồn của tất cả.
Theo Chandradhar Sharma phạm trù
Brahman được hiểu theo hai nghĩa. Một, nó được xem là sự rộng lớn, hiểu thấu
tất cả, bao hàm tất cả các tính chất tốt đẹp – Saprapancha, Saguna và
Savishesa. Nó được Shankaràchàrya cho là thuộc về thượng đế hữu hình hay là
Brahman cấp thấp. Ngược lại, nghĩa thứ hai cho rằng, Brahman là tầm thường,
không có gì đặc biệt, mơ hồ không rõ ràng, và nó được xem là lý tánh tuyệt đối.
Nếu như ý nghĩa về Thượng đế là biểu trưng cho quan niệm vật chất của cái tuyệt
đối thì ý nghĩa tuyệt đối lại là bản thể của hiện tượng. Cả hai đan xen vào
nhau, như là Một mà không phải một; tuy không phải một nhưng chính là một.
Nhưng làm sao để có thể từ một cái bản ngã Atman mà lại đồng nhất với đại ngã
Brahman? Câu trả lời đơn giản chỉ ví cả bản ngã lẫn đại ngã đều thuộc về những
biểu hiện của cái tuyệt đối mà thôi. Sự nhận biết cái tuyệt đối bằng Ý thức tự
ngã là việc bất khả thi và là một điều kiêng kỵ của người Bà-la-môn mỗi khi
phải lý giải về điều này. Cho nên có thể thấy rằng, sự đồng nhất tất cả hiện
tượng là kết quả của một Brahman duy nhất. Từ đó, mọi sự khu biệt dù đang ở
dạng nào thì nó vẫn chỉ là sự biến động về hiện tượng nhưng trong sâu thẳm của
tuyệt đối, nó vẫn cứ là một phần không thể thiếu của quy luật đồng nhất tính.
Đây chính là cơ sở mà theo Giáo sư Lương Duy Thứ nhận định rằng, nó là của tất
cả nguyên lý khác thuộc triết học Bà-la-môn giáo.
Riêng Phật giáo, quan niệm Bản thể
luận chỉ thật sự được chú trọng khi trào lưu phân hóa tư tưởng đã bước vào đỉnh
cao. Chính trong thời đại đó, các phạm trù triết học Phật giáo như Duyên Khởi,
Tánh Không, Chân Như, Niết Bàn,… được đẩy mạnh về phương diện triết lý hóa và
làm xuất hiện nhiều luận giải có giá trị và ảnh hưởng rất lớn cùng các bậc luận
sư nổi tiếng một thời như Mã Minh, Long Thọ, Vô, Trước, Thế Thân,... Từ trong
trào lưu đó, bản thể luận của Phật giáo, đặc biệt là truyền thống Bắc truyền,
đã giải thích và biện luận về con đường được các nhà Đại thừa xem là phản ánh
chân chính những lời dạy của Phật. Nó cho rằng, các pháp không phải chỉ được
biểu hiện bằng sự vô thường, khổ, không như lập luận của Tiểu thừa Phật giáo,
mà còn có khả năng được thể nhập nếu đương sự siêu vượt được khái niệm về tính
tương đối và tuyệt đối của vạn vật. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy rằng: Nhữ
đẳng Tỳ-kheo, tri ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả, hà
huống phi pháp . Nghĩa là: Này các Tỳ Kheo, các ông phải biết rằng, pháp của
Như Lai nói ra giống như chiếc bè qua sông vậy. Chánh pháp còn phải “bỏ” huống
gì là không phải chánh pháp.
Sự siêu vượt này còn được đề cập
trong rất nhiều kinh luận khác nhau. và có điều thú vị là hình như điều đó có
mối quan hệ nào đó khi ta so sánh với tư tưởng về bản thể luận của Bà-la-môn
giáo ở trên. Điều này cũng được Kimura Taken tán đồng rằng:
Phật giáo tuy không thừa nhận Thần
và Phạm là thật tại hình nhi thượng nhưng trên thực chất, lại có cái khí vị tự
giác và an lập hình nhi thượng học: “Ta là Phạm” (Aham Brah màsmi) và “cái ấy
là ngươi” (Tat tvam aci) của Áo-Nghĩa-Thư; và Phật tự xưng là Phạm Thân (Brahma
kaya) và Phạm Thành (Brahma bhuto) lý do cũng chính là ở đó. Như vậy, ta thấy
một mặt Phật giáo đối kháng Bà-la-môn, mặt khác lại dùng ngôn ngữ của Bà-la-môn
giáo để biểu minh sự tự giác có tính chất hình nhi thượng... Sau này, tư tưởng Pháp Thân dần dần đã mang
đầy đủ ý nghĩa hình nhi thượng học chính là đã lấy tư tưởng trên làm bối cảnh.
Tuy nhiên, sự giống nhau về các phạm
trù được xu hướng là điều dĩ nhiên một khi nó đã được đẩy lên bình diện của sự
siêu vượt khái niệm. Trong hệ quy chiếu mà không còn có trục xoay, hay nói đúng
hơn là không còn chỗ trụ – như Kinh Kim Cang đã nói: “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ
tâm” - thì tất cả sự so sánh đều không còn có ý nghĩa. Và chúng ta có thể gọi
nó là gì cũng được hoặc là Brahman hay Phật tánh, Chân Như, Thiên chúa hay
Đạo,... thì nó vẫn không vì thế mà bị đặt để vào trong sự bất đồng của chúng
ta. Điều quan trọng ở đây chính là phải nhận biết được rằng, với Bà-la-môn
giáo, quy tắc đồng nhất giữa bản thể và hiện tượng được quy định bởi tư tưởng
thật hữu, tất nhiên phương cách đưa ra vẫn chủ yếu là sự hướng về, trở về với
thực hữu tuyệt đối ấy.
Còn trong Phật giáo, sự đồng nhất
lại chính là sự nhận ra chứ không phải trở về. Vì sao? Vì Đức Phật đã khẳng
định rằng: “Các ngươi là Phật sẽ thành/ Ta đây là Phật đã thành”. Và vì thế nên
Kinh Pháp Hoa mới nói rằng: “Chư Phật Thế tôn vì nhất đại sự nhân duyên xuất
hiện ưu thế, Khai thị chúng sanh Ngộ Nhập Phật Tri Kiến”. Thật không còn gì để
mà hướng đến khi đệ tử Phật biết rằng chính bản thân mình đã là một bản thể
hoàn chỉnh. Đây chính là điểm đặc sắc và tiến bộ nhất làm cho Phật giáo tuy đã
có sự tương đồng với Bà-la-môn giáo về mặt danh từ của Hình nhi thượng nhưng
vẫn khẳng định được đặc tính tự lực thể nghiệm và thành tựu Pháp thân Phật của
chính mỗi người. Và cũng chính vì thế mà trong Phật giáo, những giá trị tế lễ,
cầu cúng hay van xin để được hoàn thiện đều bị phủ nhận, mà điều đó lại chính
là phương pháp rất được các thế hệ Bà-la-môn giáo, không những từ thời sơ khai
mà còn tận hôm nay, đặc biệt ưa chuộng và xem đó như là một con đường đưa đến
sự hội nhập với bản tánh Brahman.
Quan điểm giải thoát của Bà-la-môn
với Phật giáo
Đi từ trong bản thể luận đến hiện
tượng luận, cả Phật giáo lẫn Bà-la-môn giáo đều thống nhất rằng, cuộc đời này
là sự giả tạm, là đau khổ. Bởi thế cho nên, sự giải thoát khỏi lĩnh vực đó
chính là yêu cầu cấp thiết nhất mà tất cả các thế hệ tư tưởng Ấn Độ đều nỗ lực
tìm kiếm. Tuy nhiên, do sự thú hướng của tư tưởng khác nhau nên lịch sử Ấn đã
cho thấy có rất nhiều những quan niêm về lĩnh vực này.
Đối với Bà-la-môn giáo, sự giải
thoát chính là sự trở về với bản thể Phạm Thiên. Nhưng tại sao phải trở về? Bởi
vì tiểu ngã Atman đã ngày càng đi ra khỏi những quy luật của Đấng sáng tạo.
Nguyên nhân là do linh hồn đã bị vô minh, dục vọng làm ô nhiễm để rồi bị trôi
lăn trong sanh tử luân hồi không bao giờ trở về được nữa. Muốn diệt được dục
vọng, vô minh thì không gì khác hơn là dùng Yoga để đạt được những trạng thái
thiền định. Chính trạng thái thiền định này giúp cho người Bà-la-môn hạn chế
tới mức thấp nhất những ảnh hưởng của Ý thức, cái mà họ cho rằng chính nó là
nguyên nhân của sự phân biệt đối đãi, vô minh, ham muốn. Bởi thế, Bà-la-môn
giáo chủ trương dùng trí tuệ đạt được bằng cách thể nhập các loại định Yoga để
loại bỏ sự kiềm tỏa của Ý thức, lúc đó sự giải thoát mới có thể được xảy ra và
bản ngã hoàn toàn được thể nhập vào đại ngã Brahman. Một ảnh dụ thường được các
Bà-la-môn dùng để ám chỉ điều này là sự không mộng mị của một giấc ngủ. Câu
chuyện giữa Indra và Prajàpati trong Upanisads kể lại trong một lần đối đáp,
Prajàpati đã trả lời câu hỏi của Indra rằng, người được hưởng giấc ngủ say
không mộng mị là bản ngã.
Còn đối với Phật giáo, phạm trù giải
thoát bao gồm: đối tượng để giải thoát, phương pháp và kết quả:
1. Đối tượng để giải thoát
Về đối tượng, Phật giáo đồng ý với
Bà-la-môn giáo khi cho rằng cuộc đời của con người là đau khổ. Và nỗi khổ này
không có nguyên nhân nào khác ngoài vô minh, ái dục. Muốn hết khổ thì phải loại
bỏ những nguyên nhân ấy. Tuy nhiên, quan điểm về vô minh của Phật giáo khác với
Bà-la-môn giáo ở chỗ, nếu Bà-la-môn cho rằng vô minh là do mối quan hệ giữa Ý
thức và cảm giác hiện tượng quá sâu đậm dẫn đến sự mê đắm mà đánh mất tính chất
thanh cao của Bản ngã nên bị luân hồi sanh tử, thì Phật giáo lại cho rằng “Bất
tri Đệ nhất nghĩa đế vị chi vô minh”. Theo Phật giáo Nam truyền giải thích, vô
minh là không liễu tri được Tứ Đế, còn Bắc truyền Phật giáo thì cho rằng không
giác ngộ được bản chất như thật của các pháp gọi là vô minh. Bản chất như thật
ở đây tức là bản chất không thật tánh của các pháp và Phật tánh viên dung của
chúng sanh. Và Phật giáo cho rằng muốn giải thoát thì trước hết phải liễu tri
được Đệ nhất nghĩa đế ấy. Cho nên, đối tượng giải thoát tất nhiên là con người,
nhưng đi sâu vào nội dung thì Bà-la-môn giáo chú trọng ở vấn đề đưa bản ngã con
người ra khỏi tầm ảnh hưởng của Ý thức, còn Phật giáo thì lại phát triển Ý thức
lên đỉnh điểm của nhận thức, tức là Diệu Quan Sát Trí để chuyển hóa tâm thức và
giác ngộ thật tánh các pháp.
2. Phương pháp giải thoát
Do hướng đến sự thể nhập của bản ngã
vào Đại ngã làm đối tượng nên các phương pháp của Bà-la-môn giáo để tiếp cận
bao gồm thực hành các lễ nghi, nghiên cứu Veda và thực hành Yoga với mục đích
hạn chế Ý thức để đạt được giải thoát. Trong khi đó, Phật giáo lại cho rằng
giác ngộ được các pháp như thật “nó đang là” mới được gọi là giải thoát. Điều
này đã được đức Phật dạy rằng: “Yah pratìtysamutpàdam paysyati so dharmam
pasyati, yo dharmam pasyati so buddham pasyati” (Ai thấy lý Duyên khởi, người
ấy thấy Pháp. Ai thấy Pháp, người ấy thấy Phật”). Bởi vậy, trong Phật giáo, các
pháp môn, dù là lễ bái, dù là niệm Phật, hay tọa thiền, đả thất,… tất cả đều
lấy việc việc nâng cao sự nhận thức của tâm thức lên đến tột đỉnh của sự giác
ngộ. Nói khác hơn, tất cả chỉ vì hoàn thiện tính năng tự hoạt của tâm, mà một
trong các đại diện của cái tâm ấy là Ý thức.
3. Kết quả
Để nói về kết quả của sự giải thoát,
Bà-la-môn giáo và Phật giáo đều rất ít nói về kết quả. Bởi đấy là chuyện “ẩm
thủy tự tri” cho nên thật khó để có thể trình bày những gì mà cả hai trào lưu
tư tưởng đã đạt đến.
Trong Bà-la-môn giáo, Chàndogya
Upanisads đã phải dùng đến câu chuyện giữa Prajapati và Indra. Trong câu chuyện
này đề cập đến 4 giai đoạn thể nghiệm Atman của Indra. Bốn giai đoạn đó là:
- Thức(Vishva)
- Mộng(Taijasa)
- Ngủ say không mộng(Pràjna)
- Ý thức tâm linh(Turiya)
Với sự hoàn tất cả bốn giai đoạn
trên, người Bà-la-môn có thể được đồng nhất Atman với Brahman đồng thời tận
hưởng hạnh phúc của sự vĩnh hằng. Đây là thực tại mà theo Bà-la-môn giáo, nó
không thuộc về phạm vi của ngôn từ. Cho nên, mọi sự cố gắng để diễn tả về nó
đều vô ích.
Trong Phật giáo, sự giải thoát tuy
là rất khó nói nhưng không phải mang màu sắc của huyền thoại như trong Veda. Nó
đã được đức Phật và chư vị Đại đệ tử Phật chứng ngộ một cách rõ ràng. Trong
kinh Trung Bộ, đức Phật đã mô tả lại những gì Ngài đã thành tựu được sau 49
ngày nhập định quán sát. Nó có thể được tóm tắt vào những giai đoạn:
- Giai đoạn Sơ thiền: diệt trừ dục
và các bất thiện pháp, đi kèm với tầm và tứ, một trạng thái hỷ lạc do ly dục
sanh.
- Giai đoạn Nhị thiền: diệt tầm và
tứ, phát triển nội tĩnh và nhất tâm, một trạng thái hỷ lạc do định sanh.
- Giai đoạn Tam thiền: diệt hỷ,
chánh niệm tỉnh giác với một lạc thọ về thân.
- Giai đoạn Tứ thiền: diệt trừ các
cảm thọ lạc và khổ, ly hỷ và ưu, phát triển xả và niệm thanh tịnh.
Sau khi đã thanh tịnh tâm, Ngài phát
triển tâm về các phạm trù mà nó đã đem đến cho những thành tựu mà sau này được
gọi là sự chứng ngộ của bậc Thánh.
Như vậy, sự chứng ngộ trạng thái
giải thoát trong Phật giáo là một sự thật rất rõ ràng như là một kinh nghiệm đã
được từng trải. Nhưng Phật giáo rất ít khi nói về điều đó, hay nói khác hơn,
đạo Phật ít quan trọng đến việc trình bày trạng thái ấy như là một cái gì. Tại
sao? Thứ nhất là kinh nghiệm giác ngộ trong Phật giáo có nhiều tầng bậc khác
nhau tùy thuộc vào nỗ lực dụng công thanh lọc tâm của hành giả nên nó không có
một tiêu chuẩn nhất định, vì vậy, nếu trình bày những kinh nghiệm chứng ngộ ấy
tất sẽ có hại cho những người chưa có sự trải nghiệm và dẫn đến sự phỉ báng hay
cố chấp. Thứ hai là nó thuộc về lĩnh vực của thực nghiệm, nên sự nói về sẽ có
thể trở ngại cho người học. Bởi thế nên trong Phật giáo rất thận trọng khi nói
về những kinh nghiệm này.
Kết luận
Tóm lại, căn cứ trên cái nhìn của
Phật giáo, Bà-la-môn giáo với tư tưởng Veda vẫn xứng đáng là nguồn cảm hứng cho
sự bộc phát những tư tưởng triết học của dân tộc Ấn. Và Phật giáo cũng nhìn
nhận rằng, trong một giới hạn nào đó, giữa Bà-la-môn và Phật giáo đã tìm thấy
nhau ở những điểm chung:
- Công nhận cuộc đời là đau khổ và
đưa ra những phương pháp để hỗ trợ chúng nhân được giải thoát khỏi những đau
khổ ấy.
- Lấy con người làm trung tâm để
khảo sát mặc dù Bà-la-môn giáo vẫn cho rằng con người là một phần thuộc về cái
Tuyệt đối.
- Đều lấy sự phát triển trí tuệ làm
cơ sở để diệt trừ vô minh ái dục, là những nguyên nhân đưa con người vào vòng
sinh tử luân hồi.
- Đối với hiện tượng và nhân sinh,
cả hai đều chấp nhận quy luật nhân duyên nghiệp báo chi phối cuộc sống con
người.
- Sự chung đụng về ngôn ngữ đã dẫn
đến những sự giao thoa không thể tránh khỏi khi cả hai cùng phát triển trên một
mảnh đất của triết lý này.
Tất cả những điểm trên đây, dù chưa
được đầy đủ, nhưng rõ ràng là một sự thật không thể nào chối cải được. Tuy
nhiên, không phải vì thế mà cho rằng Phật giáo là một phần của hệ tư tưởng
Bà-la-môn như có nhiều người đã lầm tưởng. Vì sao? Vì dù đã phát triển chậm hơn
và phải chịu những tác động của hệ tư tưởng này nhưng Phật giáo vẫn không ngừng
thể hiện mình trong toàn bộ những gì còn để lại của nền triết học Ấn Độ. Và để
phản ánh được những cái riêng của mình trong một tổng thể to lớn của nền văn
minh Ấn Độ ngàn năm, Phật giáo đã phải thể hiện mình ở những nét đặc sắc nhất.
Chính những nét đặc sắc đó đã nói lên rằng giữa Phật giáo và Bà-la-môn giáo vẫn
là hai trào lưu tư tưởng với hai mục đích khác nhau, nhưng lại giống nhau ở xu
hướng. Đó là khẳng định khả năng thành tựu mục đích tối hậu của con người ở sự
giải thoát khỏi mọi khổ đau, nhưng để đạt được mục đích đó thì mỗi trào lưu lại
đưa ra một phong cách rất khác nhau như đã phân tích ở trên. Vì vậy không có lý
do gì để cho rằng Phật giáo là sự tổng hợp đỉnh cao của tư tưởng Ấn Độ.
Ở bất cứ một giáo hệ nào của Phật
giáo, ta cũng thấy rằng tính cách thực dụng linh động của đạo Phật. Ta không
bao giờ thấy những câu như: "Chân lý là thế nầy, chân lý là thế kia",
mà chỉ thấy tinh thần của những câu như: "Nếu làm như thế nầy, ta sẽ đến
chỗ này; nếu làm như thế kia, ta sẽ đạt đến chỗ kia", hay "Nếu muốn
đi đến đó thì phải hành động như thế này, nếu muốn đi đến chỗ kia thì phải hành
động như thế kia". Lìa tính cách thực dụng ấy, tất cả những lý thuyết nào
được mệnh danh là Phật giáo đều không phải đích thực là Phật giáo. Duy chỉ có
bộ Upanishads được dịch giả Thạch Trung Giả giới thiệu với tên Áo Nghĩa Thư
được hình thành sau nhất, đã nói lên sự thâm sâu vô cùng của tôn giáo này. Tuy
nhiên, trên mảnh đất thuộc vương quốc Champa, chúng ta thấy đạo Bà-la-môn có
nhiều sự biến đổi, pha trộn khác với Bà-la-môn giáo nguyên thủy. Về hình thức
kiến lập thế giới nhân sinh, Bà-la-môn giáo quy định rõ trong Luật Manu. Luật
này phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp mà đứng đầu là giai cấp tu sĩ
Bà-la-môn, được cho là sinh ra từ miệng của Phạm Thiên (Brahma), được hành lễ
tế tự, giảng dạy chân lý, luật lệ. Tầng lớp này đa số là người Ấn Độ. Thứ hai
là giai cấp Sát-đế-lợi (Ksatriya), được sinh ra từ cánh tay của Phạm Thiên,
thuộc tầng lớp vua quan binh sĩ cai trị xã hội mà đa số là người Champa gốc Nam
Đảo nắm giữ. Thứ ba là giai cấp Phệ-xá (Vaisya), được sinh ra từ đầu gối Phạm
Thiên, thuộc tầng lớp thương gia và phú nông; mà đa số là người Champa giàu có
và người Thượng gốc Nam Đảo nắm giữ. Thứ tư là giai cấp Thủ-đà-la (Sudra), được
sinh ra từ hai bàn chân của Phạm Thiên, thuộc tầng lớp thợ thủ công và bần nông
làm công cụ để các giai cấp trên sai khiến; tầng lớp này thuộc các sắc dân miền
núi và tù binh. Người Champa theo đạo Bà-la-môn còn gọi là Chăm Jăt, Chăm chính
thống. Bà-la-môn giáo cho đến thế kỷ III được xem là tôn giáo chính của tộc
người Champa, nhưng chỉ có nới ra trong tầng lớp vương tộc để hành lễ mà thôi.
Đạo này phát triển mạnh tại miền Nam Champa và gần như giữ vai trò độc tôn dưới
triều vua Bhadravarman I (thế kỷ IV). Và cho đến thế kỷ X, đạo Bà-la-môn vẫn
còn giữ vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, tinh thần tộc người Champa. Tuy
nhiên, do sự giao lưu văn hóa với các nước phương Bắc, nhất là Phật giáo Đại
thừa và phương Nam thuộc Phật giáo Tiểu thừa, nên xã hội Champa không chịu sự
định dạng khắc nghiệt như luật Menu qui định và dưới triều vua Indravarman II
(thế kỷ X) nhà vua đã quy y Phật có pháp danh là Paramabuddhaloka, thì
Bà-la-môn giáo và Phật giáo cùng đồng hành phát triển. Cho đến thế kỷ XIX chúng
ta thấy giai cấp Thủ-đà-là còn tồn tại ở Champa. Và ngày nay, tính chất
Bà-la-môn giáo còn được giữ gìn rõ nét trong các dịp tế lễ của dân Chamap theo
Bà-la-môn được cử hành do thầy Paseh, Tapah; Champa theo đạo Bani thì do thầy
Char, Po Adhya, Po Bac hành lễ, nhưng so với nguyên thủy thì nó có sự cải biến
rất nhiều.
Phật
giáo: Phật giáo du nhập vào Champa có từ lâu đời từ những năm trước công nguyên
qua con đường thương mại, đầu tiên phải nói đến người Ấn Độ. Vào những thế kỷ
trước và sau công nguyên, vương quốc Champa hình thành và phát triển trên mọi
lĩnh vực, đặc biệt là thương mại giao thương với các thương gia Ấn Độ, vượt
biển sang buôn bán ở các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Champa. Đứng
trước một đất nước giàu có về vàng, trầm hương và các hương vị khác đã hấp dẫn
các tàu buôn và thương nhân Ấn Độ. Ngoài việc buôn bán trao đổi sản phẩm, còn
có việc truyền đạo. Có hai loại: một là các tăng lữ Bà La Môn, hai là các Phật
tử, thầy tu. Qua các di tích khảo cổ và các bia ký, vào khoảng giữa đầu công
nguyên, chắc chắn đã có cuộc giao lưu văn hóa thương mại giữa người Ấn Độ và cư
dân Champa. Đó là cơ sở hình thành Phật giáo và Bà La Môn giáo đầu tiên ở vương
quốc cổ Champa. Để minh chứng cho việc hình thành Phật giáo, chúng ta có thể
điểm qua các di tích khảo cổ có liên quan đến Phật giáo là 22 địa điểm có dấu
tích Phật giáo, nổi bật địa điểm có dấu chân Phật là biểu tượng của Phật, trong
đó địa bàn miền Trung có 03 địa điểm (Hưng Ấn – Bình Thuận, núi Địa Điểm, hòn
Santcô – Bình Định). Gần đây phát hiện thêm dấu chân khổng lồ ở biển Sa Kỳ –
Quảng Ngãi, có kích thước từ 0.3 m đến 3 m, rộng khoảng từ 0.15 m đến 0.9 m,
theo các nhà khoa học và khảo cổ học như ông K.C. Ananda cho rằng: đây là dấu
chân của tượng Phật có niên đại từ thế kỷ thứ II trước CN khá phổ biến ở Ấn Độ.
Những di tích trên có thể minh chứng cho thấy Phật giáo đã hình thành rất sớm ở
vương quốc Champa. Ngoài ra bia Võ Cạnh có niên đại thế kỷ thứ III cũng ghi lại
những người lập ra vương quốc Champa, là Crimara bằng chữ Phạn, cho ta thấy
rằng họ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn minh Ấn Độ. Đặc biệt, trong bia ký
theo Louis Finot dịch ra, ý nghĩa cho rằng “ Trên trần thế này là không vĩnh
cửu; ý nghĩa về sự hóa kiếp này sang kiếp khác, lòng thương chúng sinh, sự hy
sinh cái của mình cho lợi ích của người khác”. Tất cả những điều đó chứng tỏ hậu
duệ của Crimara có khuynh hướng rõ rệt về đạo Phật và có thể kết luận rằng ông
vua đó thuyết pháp đạo giáo của Đại từ bi. Tấm bia trên có niên đại vào thế kỷ
thứ II sau CN được coi là tấm bia sớm nhất ở Đông Nam Á, cho thấy ảnh hưởng
Phật giáo phát triển sâu sắc ở vương quốc Champa cổ đại qua các công trình
nghiên cứu đã minh chứng cho Phật giáo Champa theo Phật giáo. Các nhà khảo cổ
đã tìm thấy rất nhiều tượng Phật trong các di chỉ vùng Indrapura, Vijaya,
Kauthara và Panturanka. Đặc biệt là các nữ thần phái Mật Tông mà phổ biến nhất
là Bồ Tát Prana Paramita, Bồ Tát Avalokitesvara (Bồ Tát Quán Thế Âm) và
Lokesvara (Nam Phật) những vị Bồ Tát này là Phật Amitahba hay A Di Đà hiện thân
để cứu độ chúng sinh. Một số tượng Phật bằng đồng tìm thấy tại động Phong Nha
đánh dấu sự có mặt của Phật giáo du nhập vào thời kì hưng thịnh nhất của Phật
giáo Champa vào thế kỷ thứ IX. Đạo Phật được nhà vua Indra varman II cho xây
dựng tại Indrapura (Quảng Nam – Đà Nẵng) một tu viện lấy tên là Laskmida
Lokeskvara vào năm 875. Ngày nay là khu di tích Đồng Dương gồm 30 kiến trúc bị
hư hại hoàn toàn chỉ còn lại nền móng cùng các tượng đá và bàn thờ Phật hiện
trưng bày trong Bảo Tàng Điêu Khắc Chăm–Quảng Nam đã chứng minh cho triều đại
Phật giáo Đại Thừa. Đặc biệt Phật giáo Champa có sự giao thoa với tín ngưỡng Bà
La Môn giáo. Trên địa bàn tỉnh Quảng Bình tại động Phong Nha…có nhiều di tích
Phật giáo như một pho tượng làm bằng đất nung có kích thước 8cm-10cm,trong đó
có bia ký Dạng chữ Chăm cổ nhưng rất khó cho việc dập lại chính xác. Tuy nhiên
cũng đã đọc được Curiputra phù hợp với tính chất Phật giáo trong hang động
này”. Tại động Lạc Sơn (huyện Tuyên Hòa) có những động được người Chăm biến
thành động thờ Phật. Tại Quảng Khuê có sưu tầm được một đầu tượng Bồ Tát
(Boddhisattva) chịu ảnh hưởng sâu sắc của nghệ thuật Trung Quốc có thể thấy
tượng này có niên đại vào thế kỷ IV-V. Ngoài ra còn có tượng Quan Âm nguồn gốc
Mỹ Đức, thể hiện trong tư thế đứng, đội mũ chóp nhiều tầng thu nhỏ dần lên cao,
một gương mặt thể hiện phúc hậu, hai tay trước đưa ngang, một tay cầm hoa sen,
một tay cầm bình nước cam lồ, cổ đeo vòng trang sức, cánh tay có đeo vòng tay,
y phục là kiểu sampot. Đặc biệt là vùng Quảng Ngãi đã khai quật năm 1948, kế
cận phía Nam khu Phật điện Đồng Dương (Quảng Nam) di tích núi Chồi đã tìm được
lò nung tiểu phẩm Phật giáo bằng đất nung có đến 71 mảnh hình là nhĩ, trong đó
có 35 cái còn nguyên, trong lòng thể hiện sáu nét khắc họa Đức Phật đang thuyết
pháp với hai đệ tử đứng hai bên, phía sau Đức Phật có vầng hào quang. Đây có
thể là loại tượng Phật được phật tử đem cúng dường vào đền Phật giáo.
Đầu thế kỷ thứ XX, các nhà khảo cổ
đã khai quật các di tích từ Quảng Bình cho đến vùng đất Nam Panturangar
(Ninh-Bình Thuận) có hàng chục di tích và hàng trăm hiện vật mang dấu ấn Phật
giáo, trong đó phải kể đến sưu tập tượng Phật Chămpa tại Bảo Tàng Lịch Sử Việt
Nam - Thành phố Hồ Chí Minh. Có 6 tượng Phật Chămpa bằng đồng có nguồn gốc sưu
tầm ở Quảng Bình, Quảng Nam, Bình Thuận. Đặc biệt các pho tượng sau đây:
Tượng Phật Avalokitesvara ở Đại Hữu
– Quảng Bình, tượng cao 34 cm với tư thế đứng, đầu đội mũ 3 tầng trang trí hoa
văn rất tinh xảo, đeo hai bông tai dài chấm ngang vai, có khuôn mặt phúc hậu,
mắt nhìn về cõi xa xăm, trang trí vòng hai bắp tay, 2 cánh tay cầm nụ sen và
con óc, thân mình thon gọn để trần, mặc váy sampot 2 tầng, tượng có niên đại
thế kỷ VII. Tượng Phật ngồi thiền với tư thế kiết già cao15 cm với khuôn mặt
hiền hậu, pho tượng có nét đặc trưng của tượng Phật Ấn Độ, phong cách Amaravati
(tk II-IX).
Tượng Phật Đồng Dương: tượng Phật
Thích Ca Mâu Ni cao 1m22. Đây là pho tượng nổi tiếng nhất của vương triều Đồng
Dương, là pho tượng có niên đại thế kỷ thứ III, tượng tạc theo tư thế đứng đang
thuyết pháp (chuyển pháp luân) gốc từ Sanath (Lộc Uyển). Chúng ta đối diện với
một hình tượng Đức Phật bắt nguồn từ các dạ xoa nặng nề có trước đó. Tượng Phật
được các nghệ nhân khắc họa với khuôn mặt phúc hậu, đôi mắt sáng đang nhìn vào
cõi xa xăm, muốn giải thoát con người khỏi dục vọng trần thế, với một tay tư
thế chuyển pháp luân trong dáng điệu bắt ấn, một tay cầm cà sa phủ kín một vai,
đôi chân đứng trên bệ sen.
Chúng tôi chứng minh một vài pho tượng
trên để thấy rằng Phật giáo Champa rất phát triển và hưng thịnh một thời đã vào
vùng đất này. Tuy nhiên, qua tiếp thu văn hóa Ấn Độ cũng chính là quá trình bản
địa hóa, Champa hóa các yếu tố văn hóa ngoại lai để hình thành nền văn hóa
Champa đặc sắc, cũng như Phật giáo Champa cũng mang một số nét riêng khác biệt
so với Phật giáo của một số nước Đông Nam Á. Sự thay đổi chủ yếu dựa vào giáo
lý và sự phát triển của trường phái Phật giáo đặt trên một niềm tin tưởng là có
thể giải thoát cho tất cả mọi người thay vì nó chỉ đến với những ai từ bỏ cuộc
sống vật chất và chùa chiền. Việc phân ly tôn giáo này đánh dấu bởi sự xuất
hiện của Đại Thừa (Mahayana Buddhism) (Maha: lớn, Yana: con thuyền) khác biệt
với trường phái cổ xưa hơn là phái Tiểu Thừa (Hinayana Buddhism) và Phật giáo
Nguyên Thủy (Theravada Buddhism). Hai trường phái khác nhau chủ yếu là ở việc
tín đồ Đại Thừa đặt ra vấn đề tự giác để đi kèm theo sự giác tha, coi trọng
việc giải thoát chúng sinh rộng lớn và đề cao hạnh Bồ Tát, một nhân vật cứu độ,
có những công đức lớn có thể chưa rõ với các Phật tử Chămpa. Ngoài ra, quan
niệm Phật giáo của họ tin vào thuyết nhất nguyên của vũ trụ có thể hiểu được
một khi vô minh bị đẩy lùi, giải thoát cho các Phật tử để thực hiện niết bàn
ngay tại thế gian này.
Nghiên cứu về Phật giáo Champa để
thấy rằng Phật giáo đóng một vị trí khá quan trọng trong đời sống tinh thần của
cư dân Champa, đồng thời song song tồn tại phát triển với Bà La Môn giáo từ đầu
thế kỷ trước công nguyên đến thế kỷ thứ IX. Tìm hiểu về Phật giáo Champa để
thấy rằng trong xã hội Chăm có sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Chính
Phật giáo đã tạo ra sự cân bằng của hai thế giới này, mang tới một chiều sâu
tinh thần cho tất cả mọi thể chất. Chính vì vậy Phật giáo đóng vai trò khá quan
trọng trong xã hội Chăm xưa, góp phần làm nên diện mạo nền văn hóa Chăm rực
rỡ
Ngày nay, dòng tư tưởng Phật giáo
gần như vắng bóng trong sinh hoạt tín ngưỡng của tộc người Champa. Nhưng thực
tế trong lịch sử thì Phật giáo có một vai trò rất lớn trong đời sống tộc người
này. Tuy nhiên, để vẽ nên những gam màu hết sức tổng quát cho việc định hình
Phật giáo nước này thì ngay cả những nhà sử học cũng có rất nhiều mối quan tâm.
Để trả lời cho câu hỏi: Phật giáo được du nhập vào Champa như thế nào thì thật
không phải là vấn đề nhỏ. Chúng ta có thể kinh qua các thư tịch cổ Trung Hoa
miêu tả về việc mua bán với người Champa vào những thế kỷ VII đã ghi lại rằng:
cộng đồng người Champa vào thời kỳ này rất kính mến Phật Thích Ca. Đặc biệt,
lúc quân nhà Tuỳ đánh chiếm Champa đã thu được rất nhiều chiến lợi phẩm, trong
đó nổi bật nhất là 1.350 pho kinh Phật. Đặc biệt, vào thế kỷ thứ I, Phật giáo
là tôn giáo chủ đạo xung quanh khu vực trung tâm của xứ Kauthara. Nhà nghiên
cứu L. Finot đã có những khảo cứu bia Võ Cạnh – Nha Trang cho biết thêm: “Nhà
vua dựng bia để thể hiện ý thức về sự vô thường của cuộc đời, về lòng trắc ẩn
đối với chúng sanh; về sự hy sinh của cải mình cho lợi ích chung” Căn cứ vào
những sử liệu vừa nêu, chúng ta có thể cho rằng Phật giáo được truyền vào
Champa những niên kỷ thứ I sau Cn. Xét bối cảnh lịch sử Ấn Độ về khía cạnh tôn
giáo cho đến lúc đức Phật nhập diệt, trải qua một trăm năm biến chuyển trong
cộng đồng Tăng lữ thì uy đức của đức Phật vẫn còn đang bao trùm các vương quốc
ở đây, nên tinh thần qui hướng Phật giáo một cách tuyệt đối vẫn còn sâu đậm. Từ
đó tư tưởng của Arya, Samiti, Nikaya và Sarvativada theo đà đó phát triển mạnh
mẽ. Và tất nhiên những thương buôn là những Phật tử và những vị Sa-môn theo gót
viễn du giao lưu văn hóa có những bước thành tựu khả quan mà trong đó hải cảng
Champa là địa điểm thuyền cập bến nhiều nhất. Khi thuyền cập bến thì những vị
chân tu Phật giáo tìm về nơi vắng vẻ để tu tập – đồng thời hoằng hóa làm nghĩa
vụ khai ngộ cho chúng sanh. Do vậy, Phật giáo bước đầu đã đặt nền móng nơi
đây.Qua dòng thời gian, tuy Phật giáo Tiểu thừa, nhất là phái Arya
Sammitinikaya được du nhập cùng lúc với Bà-la-môn giáo, nhưng không phát triển
mạnh được vì chủ trương xuất thế giải thoát tự thân, chứ ít phát huy vai trò
nhập thế hoằng dương chánh pháp. Chỉ có Phật giáo Đại thừa thuộc phái Sarva
Stivadanikaya ở miền Bắc phát triển mạnh vào thế kỷ thứ V đến thứ IX, nhất là
vùng châu thổ quận Cửu Chân, Nhật; đặc biệt là các dòng thiền phát xuất từ
Trung Hoa, Đại Việt.
Hồi giáo: Hồi giáo được người Ả Rập
truyền bá vào Đông Nam Á từ thế kỷ thứ VII, mạnh nhất là từ các quần đảo
Sumatra, Java, bán đảo Mã Lai và các hải đảo nhỏ phía Đông Nam Philippines.
Người Java tiếp nhận đạo Hồi từ các thương nhân Ả Rập trong cuộc trốn chạy
những cuộc thánh chiến đẫm máu đang xảy ra quanh vùng biển Địa Trung Hải và
Trung Đông vào tk thứ VII đến tk thứ IX. Trong cuộc ly tán ấy, nhất là vào đời
vua Indravarman III (918-959), tộc người Champa trong môi trường buôn bán với
các thuyền nhân Ả Rập đến từ các hải cảng Basra, Siraf và Oman đã tiếp nhận đạo
Hồi, nhưng không được nồng hậu lắm vì ngôn ngữ bất đồng. Đạo Hồi được truyền bá
vào vương quốc Champa thông qua trung gian, nên Hồi giáo Champa có nhiều khác
biệt so với Hồi giáo chính thống. Cuộc truyền bá đáng kể nhất là sự kiện tể
tướng Po Klun Pilih Rajadvara tiếp nhận tị nạn một số gia đình hoàng tộc Rahdar
Ahmed Abu Kamil, Naqib Amr, Ali trốn chạy chính sách cai trị khắc nghiệt của
những tiểu vương Java. Những người tị nạn này đã nhân dịp ấy truyền bá giáo lý
Hồi giáo cho các gia đình hoàng gia Champa. Đặc biệt, vua Po Alah (Po Ovlah, Po
Âu Loah hay Po Allah) học đạo ở La Mecque đến 37 năm rồi mới về nước lên ngôi
trị vì đất nước Champa đến 36 năm (1000-1036) tại Sri Bini (Qui Nhơn). Trong
không khí ấy, đủ cung cấp cho chúng ta thông tin về việc du học tôn giáo của cư
dân Champa và đặc biệt, việc xây dựng các đền thờ Siva và nhà thờ Hồi giáo tại
Amavarati (Mỹ Sơn-Quảng Nam), đã làm thay đổi diện mạo tôn giáo của đất nước
này. Sau đó, do áp lực chiến tranh nên một mảng lớn tín đồ theo Bà-la-môn giáo
tản cư sang Chân Lạp, bị nhóm Hồi giáo Mã Lai đồng hóa, và cộng đồng Champa tại
đây được gọi chung là Khmer Islam. Nhất là vùng Châu Đốc, người Champa Islam
theo đạo Hồi chính thống, mỗi ngày hướng về La Mecque cầu kinh 5 lần. Còn tại
miền Trung,các thầy Char (Po Char) của người Chăm Bani(theo Hồi giáo cải biến)và
tín đồ chỉ giữ đạo vào mùa chay ramadan mà thôi. Hiện nay, Hồi giáo Champa rất
thịnh hành tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, nhưng cũng bị biến cải dần theo
phong tục và lối sống của người địa phương, mất dần tính chính thống của đạo
Hồi Ả Rập. Người Champa tại Ninh Thuận, Bình Thuận theo Bà-la-môn giáo có đến
60% và 40% thì theo đạo Bani. Người champa mâu thuẩn vì 2 đạo này trong suốt
chiều dài lịch sử.
-Danh xưng vương quốc Champa là quốc
hồn quốc túy của dân tộc champa, bằng chứng cụ thể là trong những tấm bia ký
(văn bia) còn lưu lại ở khu Thánh địa Mỹ Sơn (Quãng Nam) cho thấy vua Champa
tên là SambhuVarman qua đời năm 629, trước đó đã thỉnh cầu Sambhadrecvara ban cấp
sự “Diễm Phúc” cho nước Champa chứ không nói cho nước Lâm Ấp, Lin-yi hay Hoàn
vương. Sau đó cũng qua bia ký khác ở Mỹ Sơn quần thể có một vị vua khác là
Vikrata varman I đã tự xưng là “Vua vĩ đại, chúa Thượng của Sri Champapura”,
chứ không hề sử dụng danh xưng nước theo như cách gọi của Trung Hoa.
Vua (Pa-Tao) đứng đầu quốc gia, có
quyền hành tuyệt đối về mọi mặt. Nhà vua được sự phụ giúp các sứ Thần ngoại
giao trong chánh sách đối ngoại phần lớn với các nước. Trung Hoa, Ðại Việt, Nam
Dương, Mã Lai, Chân Lạp, Phù Nam; ngoài ra có các triều thần đủ lãnh vực an
ninh, kinh tế, chánh trị, quân sự v.v... để phụ giúp nhà vua điều hành đất
nước. Bộ máy chính quyền Trung ương được đặt dưới quyền lực của 2 vị Ðại thần
và các phụ tá đặc trách mỗi lãnh vực khác nhau.
Nhà Vua Champa được bảo bộc và góp
sức bởi các giới tăng lữ Bà La Môn, các nhà Chiêm tinh, phong thủy nổi tiếng,
các triều thần, các bộ thị vệ an ninh. Các đội phòng vệ Hoàng gia, các cung
phòng đặc trách ghi lễ khánh tiết và đặt biệt các vị triều thần tài cán chuyên
lo trị nước an dân.
Tổ chức guồng máy Quốc Gia: Ðất nước
được chia thành 4 vùng:
Amaravati: ở phía Bắc Champa từ
Quảng Bình đất Quảng Nam Ðà Nẵng bây giờ.
Vijaya: Thuộc Quãng Ngãi, Bình Ðịnh
bây giờ.
Khâuthara: Thuộc Ninh Thuận và Bình
Thuận.
Bốn vùng của đất nước Champa được
trải dài dọc theo miền duyên hải, một bên là biển cả, một bên là núi rừng
trường sơn thâm u và trập trùng; ở giữa núi rừng và biển cả là một dải đất hẹp
nên sông ngòi ngắn và không rộng, mỗi mùa mưa thường gây lũ lụt và vì không có
đồng bằng rộng không có nhiều hồ chứa nước, nên nước mưa đã trút hết xuống biển
cả và thường bị thiếu nước và hạn hán khi mùa nắng ráo.
Mỗi vùng có các lãnh chúa trông coi,
có tác giả còn gọi là các tiểu vương. Trong các lãnh chúa vùng có một số mặt có
vẻ độc lập với trung ương như về mặt dân sinh, tôn giáo, xã hội giáo dục nhưng
vấn đề ngoại giao, quốc phòng và tài chánh ngân khố vẫn thuộc nhà vua ở Trung
ương. Chăm là nhóm dân cư gốc Nam Đảo (malayo-polynésien) sinh sống trên những
vùng đất thấp dọc duyên hải miền Trung, Champa là toàn thể các nhóm dân cư
thuộc vương quốc Champa cũ gồm cả người Champa đồng bằng lẫn người Thượng (gốc
Nam Đảo hoặc Môn Khmer), sinh sống rải rác trên các vùng rừng núi phía Tây dãy
Trường Sơn.
Champa là tên
một loài hoa màu trắng hồng nhạt, hay trắng vàng nhạt, có hương thơm ngào ngạt
có thể tìm thấy tại khắp nơi trên duyên hải miền Trung. Người Việt gọi là hoa
sứ (hoa đại) tên khoa học là Michelia Champaca Linn. Không biết người Champa đã
chọn loài hoa sứ này đặt tên cho xứ sở mình từ hồi nào, nhưng chữ Champa đã
được tìm thấy trên một bia ký có từ thế kỷ thứ 6 tại Mỹ Sơn, viết bằng chữ Phạn
(sanscrit). Trước đó, trong bộ Geographica năm 150 sau công nguyên, Claudius
Ptolémée (90-168), nhà địa lý gốc Hy Lạp và là sứ giả của hoàng đế La Mã
Marc-Aurèle Antonin tại Alexandrie (Ai Cập), đã có lần nói tới một xứ tên Zamba
trên vùng Viễn Đông. Sách Tân Đường thư, do Âu Dương Tu và Tổng Kỳ biên soạn
thế kỷ 10, phiên âm là Chiêm Bà khi nói về Hoàn Vương Quốc (vương quốc Lâm Ấp
cũ). Về sau Champa được người Việt biết qua tên phiên âm Hoa ngữ là Chiêm Thành
(Tchan-tcheng).
Trước kia người
Việt gọi cộng đồng người Champa là Chiêm, Chàm, Hời… Những danh xưng này được
đọc theo cách viết của người Trung Hoa, hay theo cách phát âm của người miền
Trung, do đó không phản ánh trung thực danh xưng chính xác của người Champa
hiện nay.
- Chiêm là tên
gọi những cư dân sinh sống trên lãnh thổ Chiêm Thành ; danh xưng Chiêm thỉnh
thoảng vẫn được nhắc nhở trong sử sách và tài liệu nghiên cứu, dân gian ít ai
nói tới.
- Chàm là cách
đọc trại đi từ chữ Champa ; danh xưng Chàm hiện còn rất thông dụng trong dân
gian, một vài địa danh còn giữ chữ Chàm kèm theo như Cù Lao Chàm tại Quảng Nam,
Tháp Chàm tại Phan Rang, quận Phan Lý Chàm, xã Ma Lâm Chàm tại Bình Thuận...
Trong nước, những nhà dân tộc học đã thay chữ Chàm bằng danh xưng Chăm từ lâu ;
điều này đã làm hài lòng cộng đồng người Chăm tại cả Thuận Hải lẫn Châu Đốc, vì
là cách gọi đúng nhất theo lối phát âm từ chữ Champa.
- Danh xưng Hời
rất ít được nhắc đến, người chỉ thấy chữ này xuất hiện một vài lần trong tập
thơ Điêu Tàn, năm 1937, của Chế Lan Viên. Hời là cách đọc trại đi từ chữ Hroi
(H’roi hay Hờ Roi), tên của một bộ lạc sơn cước sinh sống trên vùng rừng núi
phía Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Người Hroi thật ra cũng
là người Champa, vì trước kia là thần dân của vương quốc Champa cũ di tản lên
Tây Nguyên tránh loạn rồi định cư luôn tại đây, họ vẫn còn giữ ngôn ngữ và một
số phong tục tập quán của người Chăm đồng bằng trong những sinh hoạt thường
nhật. Ngoài ra còn phải kể thêm những nhóm Bahnar Chăm, Bru-Vân Kiều, Kaho,
Raglai, Rhadé, Djarai, Stiêng, Churu v.v..., tất cả đều là thần dân của vương
quốc Champa cũ di tản lên cao nguyên trong những giai đoạn loạn lạc rồi ở luôn
tại đây. Trên khắp cao nguyên, những nhóm người mới hòa nhập và pha trộn với
các nhóm người cũ tạo thành những sắc dân hỗn hợp mang hai dòng máu Chăm-Thượng
trong những thời điểm khác nhau. Người Chăm lai Thượng gọi là Chăm Pal, nhưng
người Việt ít biết đến tên này. Vì không có truyền thống đặt tên cho từng nhóm
người, dân chúng gốc Kinh gọi chung tất cả những cư dân sinh sống trên miền núi
phía Tây là người Hroi, sau đó biến âm thành người Hời.
Chữ Hời mang
một nội dung xấu, đó là những nhóm man di chuyên đi cướp bóc, vì trong quá khứ
người Hroi đã nhiều lần tiến công vào các làng xã người Kinh cướp bóc lương
thực, trong những giai đoạn khó khăn, dưới thời các chúa Nguyễn. Sau này người
Chăm tại Thuận Hải gọi những cư dân gốc Chăm sinh sống tại các tỉnh Quảng Nam,
Quảng Ngãi và Bình Định là Chăm Hoi hay Chăm Hroi. Sử sách Việt Nam thời Nguyễn
gọi chung là Mọi Đá Vách.
Ngoài ra cũng
có một số người Chăm lai Việt gọi là Chăm Yuôn (Yuôn hay Yun có nghĩa là người
Việt). Người Việt gọi là Kinh Cựu, nhưng danh xưng này rất ít người biết đến vì
người Kinh Cựu luôn tự nhận mình là người Kinh. Cũng nên biết những binh sĩ hay
tội đồ gốc Kinh, bị đày ra vùng biên địa giáp ranh với Chiêm Thành, đã lập gia
đình với những phụ nữ Chăm (mà họ cho là người Kinh cổ xưa), từ đó mới sinh ra
chữ Kinh Cựu.
Về ngôn ngữ,
người Champa được nhiều nhà nhân chủng học xếp vào họ Nam Đảo (Malayo Polynésien),
nghĩa là có nguồn gốc xuất phát từ các hải đảo phía Nam vùng biển Đông Nam Á.
Điều này có thể đúng khi đối chiếu văn minh, văn hóa của người Champa với văn
minh, văn hóa của các dân tộc cùng hệ ngôn ngữ tại Đông Nam Á vào thời tạo
dựng. Nhưng qua những khám phá khảo cổ gần đây, văn minh và văn hóa của người
Champa tại Việt Nam không hoàn toàn do ngoại nhập mà có sự pha trộn yếu tố văn
minh và văn hóa của những nhóm cư dân bản địa có mặt từ trước.
Trong thực tế
không có bộ tộc nguyên thủy nào có tên Chăm. Chăm chỉ là tên gọi của nhiều nhóm
dân cư sau này chọn sinh sống trên lãnh thổ của vương quốc Champa hay Chiêm
Thành cũ, gọi chung là người Champa, chứ không phải tên riêng của một nhóm
chủng tộc. Sau này cộng đồng người Champa đồng bằng chấp nhận danh xưng Chăm,
và đồng hóa nguồn gốc Nam Đảo của mình với nền văn minh và văn hóa Chiêm Thành
cũ, để phân biệt với các nhóm Champa khác xuất phát từ nhiều nguồn gốc ngôn ngữ
và chủng tộc khác nhau. Có thể nói vương quốc Champa xưa kia là một liên bang
đa chủng và đa văn hóa.
Các tiểu vương
Champa
-Vùng phía Bắc
Champa bao gồm các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên-Huế hiện nay, nằm
giữa đèo Ngang và đèo Hải Vân. Đây là vùng đất thường xảy ra giao tranh, xung
đột giữa nhà Hán và Lâm Ấp trong thời kỳ Bắc thuộc vào các thế kỷ từ thứ 2 cho
đến thứ 9; và sau này, giữa các triều đại Việt Nam và Champa trong các thế kỷ
từ thứ 10 cho đến thứ 14. Ranh giới cực bắc của Champa là Đèo Ngang thuộc tỉnh
Quảng Bình, khoảng vĩ tuyến 18. Vào thời Tiền Lê, cuộc xung đột đầu tiên giữa
Đại Cồ Việt và Champa đã xảy ra vào năm 982 khi Lê Hoàn đem quân tấn công vào
châu Amaravati ở Quảng Nam hiện nay. Đến triều Lý, năm 1044, Lý Phật Mã tấn
công Champa, đánh phá thành Phật Thệ, đã có nhiều ý kiến cho rằng thành Phật
Thệ tức là Vijaya hay là thành Chà Bàn ở Bình Định ngày nay. Sau đó là cuộc tấn
công của Lý Thường Kiệt năm 1069 vào thành Đồ Bàn [Vijaya], bắt được vua Chiêm
là Chế Củ, và đây là lần đầu tiên vùng đất miền cực Bắc Champa được đề cập đến
trong Việt sử với danh hiệu là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính, vùng đất này được
sử sách Đại Việt nhắc đến như là sự hiến dâng của Chế Củ cho nhà Lý để đổi lấy
tự do. Đó là giai đoạn miền Bắc Champa rơi vào những cuộc tranh chấp triền miên
trong nhiều thập kỷ (Nguyễn Xuân Hoa 2002: 36-37). Cho tới khoảng năm 1078, một văn bia
của Hari vaman, tìm thấy tại Mỹ Sơn, đề cập đến sự ổn định và xây dựng lại
vương quốc Champa của vị vua này, như sau: “ The enemy had entered into the
kingdom of Champa and installed themselves as masters; having taken possession
of all the royal property and the wealth of the gods; having pillaged the
temples, the monasteries, the salas, cells, hermitages, villages and various
edifices together with the horses, elephants, padatis (infantry?), oxen,
buffaloes, and the crops; having ravaged everything in the provinces of the
kingdom of Champa; having plundered the temples of Srisanabhadresvara and all
that the kings of past times had granted as endowments to Srisanabhadresvara;
having taken all the riches of the god and carried away the men belonging to
the temple, the dancers, musicians … servants, together with the various
properties of Srisanabhadresvara; the temple remained empty and devoid of
worship as the .Then His Majesty Vijaya Sri Harivarmadeva, yan Devatamurti
ascended the throne. He completely defeated the enemies, proceeded to the
Nagara Champa, and restored the temple of SrisanabhadresvaraThe kingdom of
Champa became prosperous as of old … ” (Majumdar 1989: III, 160). [.. Kẻ thù đã
vào vương quốc Champa, tự xưng là những kẻ cầm quyền; đã cướp đi tài sản của
hoàng gia và của cải của chư thần; đã phá hủy đền thờ, tu viện, nơi an cư, làng
mạc và các tự viện khác cùng với ngựa, voi, trâu bò và mùa màng; đã hủy diệt
mọi thứ trong các tỉnh thành của vương quốc Champa; đã cướp đoạt những ngôi đền
thờ thần Srisanabhadresvara và tất cả những phẩm vật mà các vị vua trước kia đã
phụng hiến cho thần Srisanabhadresvara; đã vơ vét tất cả của cải của thần và
cướp đi những nhân sự tùy thuộc ngôi đền, các vũ nữ, nhạc công… những người
phục dịch cùng với tài sản trù phú của Srisanabhadresvara; ngôi đền bị cướp
sạch và bỏ phế… Rồi đức vua Vijaya Harivarmadeva yan Devatamurti lên ngôi. Ngài
đã tiêu diệt hết quân thù, phục hưng lại Nagara Champa, và trùng tu ngôi đền
của Srisanabhadresvara… Vương quốc Champa lại trở nên hưng thịnh như xưa . Những
thông tin trên về triều đại của Harivarman phù hợp với những ghi chép trong thư
tịch cổ của Việt Nam về Champa vào giai đoạn này. Các địa danh của miền cực bắc
Champa nêu trên như Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính xuất hiện trong thời Lý, đã
được nhiều sử liệu và sử gia xác định đó là vùng đất ở phía nam Đèo Ngang thuộc
tỉnh Quảng Bình và một phần phía bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay, như sau: Địa Lý,
đời Lý đổi ra Lâm Bình, đời Trần đổi ra Tân Bình, đời Lê Trung Hưng đổi ra Tiên
Bình, thuộc tỉnh Quảng Bình gồm các huyện Lệ Thuỷ, Phong Phú, Phong Lộc nay
thuộc huyện Lệ Thủy và Quảng Ninh; Ma Linh, đời Lý đổi ra Minh Linh, đời Minh
đổi ra Nam Linh, đời Lê lập lại Minh Linh thuộc tỉnh Quảng Trị gồm hai huyện
Minh Linh và Gio Linh nay là huyện Vĩnh Linh và Gio Linh; Bố Chánh, nhà Minh
đổi ra Trấn Bình, nhà Lê đổi lại Bố Chánh, thuộc tỉnh Quảng Bình gồm các huyện
Bình Chánh và Tuyên Chánh nay thuộc các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch và Tuyên
Hóa (Hoàng Xuân Hãn 1966: 80-81; Đào Duy Anh 1964: 177). Như vậy, Địa Lý, Ma
Linh và Bố Chính bao gồm địa vực từ phía nam Đèo Ngang đến cửa Nhật Lệ ngày
nay. Đời nhà Trần, khoảng năm 1306, theo Việt sử, vua Chiêm là Chế Mân đã đổi
hai châu Ô- Lý hay Ô- Rí để cầu hôn với Huyền Trân Công Chúa, đó là vùng đất
được xác định ở phía bắc Đèo Hải Vân thuộc một phần phía nam tỉnh Quảng Trị và
tỉnh Thừa Thiên-Huế ngày nay. Nhà Trần đã gọi khu vực từ cửa Việt vào đến cửa
Tư Dung/Tư Hiền là châu Ô và châu Lý; vào năm 1307 thì đổi thành châu Thuận và
châu Hóa (Đào Duy Anh 1964: 177).Về tư liệu Chiêm Thành, để tìm hiểu các địa
danh/danh hiệu của vùng đất này, có một minh văn Champa quan trọng được tìm
thấy tại nhóm tháp D của thánh địa Mỹ Sơn, niên đại khoảng năm 1192, đã ghi
chép các địa danh từ Bình Định và Quảng Nam ra đến Quảng Bình bằng tiếng Chăm,
như sau: “Jaya Indravarmadeva on Vatuv escaped from the Cambodians and came to
Amaràvatì. He rebelled and levied troops at Amaràvatì, Ulik, Vvyar, Jriy, Traik
and in many districts (anekapramana). He went to escape Vijaya. The Prince
[Vidyànandana] led his troops into battle, defeated [Jaya Indravarmadeva], and
compelled him to return to Traik; [the Prince] pursued, captured, and killed
him at Traik. The Prince has since reigned without opposition… [C.92 B, 19-22;
cf. Finot 1904: 975]” (Majumdar 1985: III, 204; Southworth 2000: 237-38). Jaya
Indravamadeva on Vatuv đã trốn thoát từ người Cam-pu-chia và chạy tới
Amaràvatì. Ông đã nổi dậy và khởi binh trong nhiều huyện thành khác nhau (anekapramana)
tại Amaràvatì, Ulik, Vvyar, Jriy and Traik. Ông đánh chiếm Vijaya. Hoàng tử
Vidyànandana dẫn đại binh tham chiến, đánh bại Jaya Indravarmaeva, và buộc ông
phải chạy về lại Traik; Hoàng tử đã truy nã và giết ông tại Traik. Vì vậy, từ
đó Hoàng tử không còn người đối nghịch Những địa danh như Vijaya, Amaràvatì,
Ulik, Vvyar, Jriy và Traik đã xuất hiện trong văn bia Chiêm Thành trên đây, mà
ta có thể đối sánh chúng với các với các địa danh đã xuất hiện trong các thư
tịch cổ của Việt Nam và Trung Hoa như sau (tính từ Nam ra Bắc):
1/ Vijaya, đã xuất hiện trong một
bia ký của Jaya Harivarmadeva tìm thấy tại Po Nagar Nha Trang (C.30, A2) khoảng
năm 1160 và thường được đề cập đến trong thư tịch cổ Việt Nam với danh hiệu là
Trà Bàn/Chà Bàn hay Đồ Bàn hoặc Phật Thệ (Hoàng Xuân Hãn 1966: 62-66; Đào Duy
Anh 1964: 174-76) là địa vực nằm trong tỉnh Bình Định ngày nay. Đương thời,
tiểu quốc này được thư tịch Trung Hoa gọi là Tân Châu để phân biệt với Cựu Châu
hay Amaràvatì ở vùng Quảng Nam ngày nay. Tiểu quốc Vijaya đã phát triển liên
tục từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 15, được minh chứng bởi các di tích kiến trúc to
lớn có niên đại từ thế kỷ 11-15 hiện vẫn tồn tại như Tháp Bạc (c.11th), Bình
Lâm (c.11th), Dương Long (c. 12th-13th ), Hưng Thạnh (12th-13th), Cánh Tiên
(13th-14th), Thốc Lốc(14th-5th), Thủ Thiện tọa lạc dọc theo sông Côn; còn đầm
Thị Nại Sri Boney chính là cảng-thị của tiểu vương quốc này;
2/Amaràvatì, xuất hiện trong văn bia
của Java Harivarmadeva tại Mỹ Sơn (C.101) khoảng năm 1157 và tại Po Nagar Nha
Trang (C.30) năm 1160 (Southworth 2000: 237-38), là khu vực hạ lưu sông Thu Bồn
bao gồm Mỹ Sơn là thánh địa, Trà Kiệu là hoàng thành và Đại Chiêm Hải Khẩu là
cảng-thị. Danh hiệu này được phiên âm là A-mu-la-bu (A-mộc-lạt-bổ) trong Minh
sử khoảng năm 1481/1482
3/ Ulik, đã được nhắc đến trong sử
sách Việt Nam dưới tên gọi châu Ô và châu Lý hoặc Rí từ đời Trần, năm 1307
[Ulik > Ô-Lý/Ô-Rí]. Vùng đất này được xem là lễ vật của Chế Mân dâng cho vua
nhà Trần để cầu hôn với công chúa Huyền Trân gồm khu vực từ phía bắc Đèo Hải
Vân nay thuộc vùng đất từ phía nam tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế, đặc biệt
khu vực xung quanh Huế với di tích quan trọng là Thành Lồi tọa lạc bên dòng
sông Hương cùng với các dòng sông khác như Ô Lâu, sông Bồ chảy vào đầm phá Tam
Giang, có cửa Tư Hiền/Tư Dung làm cảng-thị với tháp Linh Thái nơi thờ nữ thần
Pô Nagar/Po Yang Inu Nagar tương tự thánh địa Pô Nagar Nha Trang của tiểu quốc
Kauthara
4/ Vvyar, đã được đề cập đến trong
thư tịch Việt Nam như trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư [Hồng Đức Bản Đồ] có tên
là Việt Môn (Hồng Đức Bản Đồ 1964: 48) chính là cửa Việt hiện nay thuộc huyện
Gio Linh và Triệu Phong của tỉnh Quảng Trị [Vvyar > Việt]. Dọc theo sông
Thạch Hãn có nhiều di tích nghệ thuật quan trọng đã được phát hiện như Hà
Trung, Trà Liên, Thạch Hãn có niên đại từ thế kỷ 9 đến 11/12; và nhiều địa danh
có âm cổ của từ Việt như Gio Việt, Việt An, v.v.. Cửa Việt là cửa biển lớn nhất
của Quảng Trị và nó cũng là cửa biển quan trọng nhất của khu vực giữa Đèo Ngang
và Đèo Hải Vân, cửa Việt có địa thế tương tự cửa Đại Chiêm ở vùng Hội An và hạ
lưu sông Thu Bồn của châu Amaravati trong tỉnh Quảng Nam;
5/ Jriy, đã được nhắc đến với tên là
Di Luân Môn trong Thiên Nam Tứ Chí Lộ Đồ Thư [Hồng Đức Bản Đồ] khoảng năm
1630-53; còn trong Bình Nam Đồ [Hồng Đức Bản Đồ] khoảng năm 1653- 90 thì gọi là
Nhật Lệ Hải Môn Thâm (Hồng Đức Bản Đồ 1964: 48, 141), tọa lạc ở cửa Nhật Lệ
thuộc thị xã Đồng Hới hiện nay. Địa danh Jriy có thể đã được chuyển âm thành
Địa Lý (?) vào thời Lý năm 1064. Giữa thế kỷ 16, khoảng năm 1553-1555, trong
sách Ô Châu Cận Lục có nhắc đến nhiều địa danh có âm tương tự đã tồn tại ở vùng
này, chẳng hạn, sông Thổ Rí chảy vào cửa Nhật Lệ (Dương Văn An 2001: 28). Sự
biến âm của địa danh này có thể đã được diễn ra như sau: Jriy > Rí/Di >
Lý >Lệ. Về vùng phía tây cửa Nhật Lệ có những di tích Phật giáo Chiêm Thành
đáng lưu ý như Đại Hữu, Mỹ Đức, Thu Thư thuộc thế kỷ 9-10, v.v. còn về vùng
thượng lưu của sông Lý Hòa thì có hang động Phong Nha với các di tích Phật giáo
Champa quan trọng;
6/ Traik, địa danh này được nhắc đến
dưới thời Lý là Bố Chánh bao gồm các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch tọa lạc ở vùng
cửa sông Gianh, có thể từ Gianh là một biến âm của từ Trạch [Traik > Trạch
> Gianh] . Đây là vùng đất cực bắc của Champa giáp giới với Đại Việt, nằm ở
phía nam Đèo Ngang, cho nên theo minh văn Chăm nêu trên, Jaya Indravamadeva mới
bị Hoàng tử Vidyànandana giết tại đây. Vùng này cũng có các di tích nghệ thuật
Champa quan trọng như Lâm Ấp Phế Lũy, Hoàn Vương Phế Lũy,và một minh văn Phật
giáo Champa tìm thấy ở Ròn thuộc thế kỷ 9-10, v.v.. Dựa theo quan niệm Hindu về
sự hình thành các tiểu quốc trong mandala Champa, mỗi tiểu quốc được hình thành
dựa vào một ngọn núi thiêng, tượng trưng cho thần Siva; và một giòng sông
thiêng tượng trưng cho nữ thần Ganga, vợ thần Siva. Dọc theo giòng sông thiêng
này mỗi tiểu quốc thiết lập ba trung tâm trọng yếu, đó là: một trung tâm thương
mại hay cảng thị tọa lạc ở một cửa sông; một trung tâm quyền lực của hoàng gia
hay là hoàng thành; một trung tâm tôn giáo của hoàng gia hay là thánh đô. Vào
khoảng thế kỷ thứ 7, căn cứ vào những yếu tố địa dư và những di tích lịch sử đã
liên hệ với châu Amaràvatì của Champa ở địa bàn tỉnh Quảng Nam ngày nay, ta có
thể tìm thấy mô hình về sự hình thành của một tiểu quốc được bộc lộ như sau: -Ngọn
núi thiêng là núi Mahaparvata/ Đại Sơn Thần hay núi Răng Mèo-Giòng sông thiêng
Ganga hay sông Thu Bồn-Cửa sông hay cảng-thị Đại Chiêm Hải Khẩu , Cửa Đại tọa
lạc ở vùng Hội An-Hoàng thành là Simhapura/Thành phố Sư tử ở vùng Trà Kiệu, Thánh
đô là Srisanabhadresvara hay Mỹ Sơn. Những tỉnh thành (tiểu quốc?) có danh hiệu
tiếng Chăm nêu trên của miền Bắc Champa đều gắn liền với một cửa biển, nó bộc
lộ rằng mỗi tiểu vương quốc thuộc mandala Champa được thiết lập dựa vào một
cảng-thị là trung tâm hải thương quốc tế; điều đó đã phù hợp với mô hình
‘riverine exchange network / hệ thống trao đổi ven sông’ của Bennet Bronson nêu
ra về sự trao đổi nội và ngoại thương dựa vào những giòng sông chính trong khu
vực cùng với sự trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi cũng như giữa
những tiểu quốc với nhau, mà, địa lý của vương quốc Champa đã đặc biệt thích
ứng Áp dụng mô hình này để tìm hiểu địa-văn hóa/kinh tế của vùng Quảng Nam ngày
nay, hay là Amaravati của Champa xưa kia, ta thấy rằng sông Thu Bồn và những
chi lưu của nó đã đóng một vai trò thiết yếu trong việc trao đổi hàng hóa giữa
miền ngược và miền xuôi. Dọc theo những giòng sông lớn này có nhiều khu chợ sầm
uất ở miền trung du như Trung Phước, Ái Nghĩa, Túy Loan, v.v… giữ vai trò trung
chuyển hàng hóa giữa miền ngược, nơi có những nhóm sắc tộc nói tiếng Môn-Khmer
sinh sống và cung cấp các loại lâm sản quý, chẳng hạn trầm hương, quế, sừng tê
ngưu, ngà voi, v.v.. với miền xuôi; nguồn lâm sản này được tập trung vào một
cảng- thị quan trọng ở vùng hạ lưu sông Thu Bồn nơi giữ vai trò của một trung
tâm ngoại thương mà diện mạo của nó có thể hình dung được qua sự phồn thịnh của
cảng-thị Hội An nổi tiếng của Đàng Trong vào những thế kỷ 17-18. Sự phồn vinh
của cảng-thị Hội An đương thời chính là sự tái hiện của một cảng-thị Champa trước
kia
Tiểu quốc Vijaya Champa vào đầu thế
kỷ 15 (1436) đã được mô tả bởi một học giả Trung Hoa tên là Fei Hsin/Phí Tín,
người đã tháp tùng đoàn hải hành của Trịnh Hòa tại Đông Nam Á, như sau: “ xứ
này ở dọc theo duyên hải, và có một hải cảng gọi là Tân Châu [Qui Nhơn]. Về
phía Tây là Giao Chỉ, và Trung Hoa nối liền về phía Bắc. Khi các chuyến tàu chở
hàng của ngoại quốc cập đến xứ này, để đón các sứ thần, vị thủ lĩnh đội một cái
mão có ba tầng bằng vàng, mặc y phục thêu thùa, đeo vòng vàng trên ngực và cánh
tay, đi giày bằng vỏ đồi mồi và đeo một sợi đai có nạm tám viên ngọc vuông.
Ngài trông như một vị thần hộ pháp lộng lẫy. Ngài cỡi một con voi, được hơn năm
trăm thổ binh hộ tống trước sau, có người mang gươm bén và giáo ngắn, có người
mang khiên giáp sáng ngời, họ đánh trống và thổi tù và bằng vỏ dừa, ngài cùng
những cận thần khác đi ra ngoại thành để đón nhận phẩm vật của vua ban. Vị thủ
lĩnh xuống voi chắp tay và cúi đầu cảm tạ ơn vua đã ban phẩm vật và xin dâng
những cống phẩm của địa phương. Xứ này có nhiều voi và tê ngưu to lớn, vì vậy
ngà voi và sừng tê được bán tới những xứ khác với sản lượng lớn” (Su
Chung-Jen/Tô Tông- Nhân 1967: 198-211). Qua mô tả trên chúng ta có thể phân
tích rằng, người cai quản cảng-thị Tân Châu/Vijaya là một thủ lĩnh/lãnh chúa;
còn hoàng thành của nhà vua phải là một nơi khác cho nên vị thủ lĩnh của
cảng-thị mới phải đi ra ngoại thành để dâng và nhận phẩm vật của vua ban.
Cảng-thị của Tân Châu/Vijaya đương thời tọa lạc tại đầm Thị Nại về phía
Ðông-Bắc thành phố Qui Nhơn ngày nay. Quanh đầm Thị Nại có thành Thị Nại (thuộc
huyện Tuy Phước), có thể đó là nơi đồn trú của vị thủ lĩnh/lãnh chúa của cảng
-thị; về phía Tây có Thành Cha (thuộc huyện An Nhơn), có thể là Thành Chà Bàn
sau này (?), đó là nơi đóng đô của nhà vua (Thành Thị Nại và Thành Cha chỉ cách
nhau chừng 7 –8 km theo đường chim bay). Các kiến trúc tôn giáo của hoàng gia
là các nhóm tháp Bình Lâm, Bánh Ít (thế kỷ 11-12), Dương Long, Hưng Thạnh (thế
kỷ 12-13) và các tháp Cánh Tiên, Thủ Thiện, Thốc Lốc (thế kỷ 14 -15). Trong một
cấu trúc tương tự về các cảng-thị của Champa, chúng ta có thể so sánh với một
phức hệ khác dựa theo sông Trà Khúc của tỉnh Quảng Ngãi nơi có cửa Sa Kỳ /Cửa
Đại với thành Cổ Lũy (nơi đồn trú của thủ lĩnh cảng-thị) và thành Châu Sa (nơi
đóng đô của vua và hoàng tộc) được thiết lập ở hai bên bờ sông. Chúng tôi mong
sẽ có dịp trở lại chủ đề này trong một chuyên khảo khác. Sau khi Lê Thánh Tông
đánh chiếm thành Chà Bàn năm 1471, hoàng tộc Champa của Vijaya phải sống lưu
vong ở Malacca (khoảng 20000 người); năm 1481/82 một sứ thần được vua Cổ Lai,
một vị vua Champa lưu vong, cử đến triều đình nhà Minh dâng sớ nhờ giúp đỡ để
lấy lại lãnh thổ đã mất vào tay Đại Việt, trong sớ kể rằng lãnh thổ Champa bao
gồm vùng đất như sau: “Đất nước của chúng tôi bao gồm 27 xứ, 4 phủ, 1 châu, và
22 huyện. Lãnh thổ này trải dài về phía Ðông giáp biển, phía Nam giáp Chân Lạp,
Tây giáp Núi Rừng của người Lê [Lê Nhân Sơn], và Bắc giáp A-mu-la-bu“ (Wade
2003: 14). Hiện nay, có một làng ở phía nam chân Đèo Hải Vân tên là Nam Ô thuộc
thành phố Đà Nẵng, địa danh này góp thêm chứng cứ cho việc xác định châu Ô là ở
phía bắc Đèo Hải Vân. Cứ theo Hồng Đức Bản Đồ, 1653-90, (sdd, trang 48) thì thứ
tự các cửa biển nay thuộc tỉnh Quảng Bình, tính từ Bắc vào Nam, như sau: Thuận
Cô Môn nay là cửa Ròn; Cương Giản Môn nay là cửa Gianh; Di Luân Môn nay là cửa
Lý Hoà (?); An Niên Môn nay là cửa Doanh; Nhật Lệ Môn nay là cửa Nhật Lệ (Tập
bản đồ hành chính Việt Nam, Nhà xuất bản Bản Đồ, 2003, tr. 38). Như vậy, cũng
có khả năng Jriy là Di Luân Môn hay là cửa Lý Hòa [Jriy>Di>Lý] (?). Nhưng
theo Đồng Khánh Địa Dư Chí, 1886-87, thì Di Luân Môn chính là cửa Ròn (Đồng
Khánh Địa Dư Chí 2003: 1355); còn sách Đại Việt Địa Dư Toàn Biên, thời Minh
Mạng, của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu thì gọi cửa Ròn là đồn biển Tấn và cho
biết trước đó cửa này gọi là cửa biển Di Luân (Phương Đình Nguyễn Văn Siêu
1997: 246). Theo nhà địa lý học Lê Bá Thảo, thì vào khoảng thế kỷ 14, có một
cái bàu lớn nay gọi là Bàu Sen nối liền với cửa Nhật Lệ thông với biển, cho
biết, đương thời cửa Nhật Lệ là một cửa biển lớn (Lê Bá Thảo 2003: 211-15).
Trong các cửa biển tại Quảng Bình, cửa Nhật Lệ là cửa quan trọng nhất từ thời
Lê, nhưng ngoài ra, cửa Lý Hoà cũng là một thương cảng lớn (Lương Duy Tâm
1998). Tóm lại, hiện thời, chúng tôi chưa thể xác định chính xác địa danh của
Di Luân Môn, nhưng đại thể, địa danh Jriy của Champa nằm trong địa vực huyện
Quảng Trạch, Bố Trạch và Quảng Ninh hiện nay, nó có thể đã được phiên âm thành
Di hoặc Lý hoặc Lệ (?). Vùng đất giữa đèo Ngang và đèo Hải Vân đã được các tác
giả người Pháp định danh là Indrapura, về danh hiệu này đã được Southworth phân
tích và phủ nhận trong một chuyên khảo về địa-chính trị Champa (Quach-Langlet
1988: 28-29; Southworth 2000: 237-40; Trần Kỳ Phương 2002: 63-74, note 10). Ngoài
ra, nhiều cửa biển của những giòng sông chính ở miền Trung mà dựa vào đó có khả
năng tồn tại những tiểu quốc độc lập khác mà chúng ta chưa thể xác định được
danh hiệu của chúng, mặc dầu những tiểu quốc này đã được đề cập đến trong các
thư tịch cổ của Trung Hoa khi liên hệ đến Champa với danh xưng là ‘quốc’, chẳng
hạn: Môn Độc Quốc, Cổ Đan Quốc, v.v.. Những tiểu quốc này được thiết lập trên
những cửa biển sau: Cửa Hàn trên sông Hàn thuộc thành phố Đà Nẵng; Cửa Kỳ Hà
trên sông Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam; Cửa Dung Quất trên sông Trà Bồng và Cửa
Sa Kỳ/Cửa Đại trên sông Trà Khúc thuộc tỉnh Quảng Ngãi; Cửa Tuy Hòa trên sông
Ba hay sông Đà Rằng thuộc tỉnh Phú Yên; Cửa Phan Rí trên sông Lũy và Cửa Phan
Thiết trên sông Cà Ty/Cái thuộc tỉnh Bình Thuận (Southworth 2000: 237-244; Trần
Kỳ Phương 2002: 64-65). Dọc theo những giòng sông này đều có những nhóm
đền-tháp quan trọng như: Khương Mỹ, Phú Hưng (Tam Kỳ, Quảng Nam), Chánh Lộ,
Thành Châu Sa, Thành Cổ Lũy (Quảng Ngãi), Tháp Nhạn, Thành Hồ (Phú Yên), Pô
Đam, Phố Hài (Bình Thuận), v.v.. là những chứng cứ về sự tồn tại của những di
tích hoàng gia Champa tại những tiểu quốc đương thời. Tên của ngọn núi thiêng
và giòng sông thiêng này đã xuất hiện trong những minh văn Champa được phát
hiện tại Mỹ Sơn từ cuối thế kỷ thứ 4 cho đến thứ 7 (Majumdar 1985: III, 4-8;
21-26). Thuật ngữ mandala (circles of kings) được các nhà nghiên cứu dùng để
diển tả một hệ thống chính trị kinh tế đã được phát hiện tại hầu hết các quốc
gia cổ ở Đông Nam Á. Mandala là vương quốc bao gồm nhiều tiểu vương quốc hoặc
lãnh chúa. Trong mỗi tiểu quốc của mandala có một vị tiểu vương thường được
thần linh hóa và tự xưng là lãnh đạo của các thủ lĩnh khác, mà trên lý thuyết,
đó là những thuộc hạ và chư hầu của họ. Mỗi tiểu vương trong mandala là người
duy nhất có đặc quyền được nhận cống phẩm mang đến bởi các sứ thần và là người
có uy quyền tối cao lãnh đạo quân đội. Cũng luôn luôn có khả năng xảy ra những
tình trạng là một vài vị thủ lĩnh trong mandala có quyền từ chối vai trò chư
hầu của họ và cố xây dựng cho riêng họ một hệ thống chư hầu mỗi khi họ có cơ
hội nổi dậy. Để ngăn ngừa tình trạng này, tiểu vương trong mandala ứng xử với
các chư hầu bằng cách không can thiệp vào nội bộ của những thủ lĩnh địa phương
để giữ một khoảng cách tương đối với thủ phủ , và tạo những mối quan hệ hôn
nhân hoặc mời họ tham gia vào ứng thí đại biểu của hoàng gia, v.v. (Wolters
1999: 27-40; Nakamura 1999: 60). Nhiều nhà nghiên cứu đã giải thích hệ thống
chính trị-kinh tế của vương quốc Chiêm Thành [Champa] theo một mô hình được gọi
là ‘ hệ thống trao đổi ven sông/riverine exchange network’. Theo mô hình này,
‘hệ thống trao đổi ven sông’ có một vùng duyên hải để làm cơ sở cho một trung
tâm thương mại thường tọa lạc ở một cửa sông. Đây cũng là trung tâm giao dịch quốc
tế. Ngoài ra,cũng có những trung tâm ở thượng nguồn, đó là những điểm tập trung
ban đầu của các nguồn hàng có gốc từ những vùng xa sông nước. Những nguồn hàng
này được sản xuất ở các vùng không họp chợ bởi các cư dân sống trong các bản
làng ở miền thượng du hoặc thương nguồn. Mỗi tiểu quốc trong mandala có riêng
một ‘ hệ thống trao đổi ven sông’ như vậy (Bronson 1977: 39-52; Hall: 1985:
1-25; Hagesteijn 1989; Nakamura 1999: 60). Về việc áp dụng mô hình ‘hệ thống
trao đổi ven sông’ để tìm hiểu lịch sử và văn hóa miền Trung, chúng tôi đã bước
đầu công bố trong một tham luận tại hội thảo khoa học về ‘Văn hóa làng các dân
tộc thiểu số tỉnh Quảng Nam’ do Phân viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật miền
Trung tại Thành phố Huế tổ chức tại Huế ngày 28 tháng 5 năm 2004 (Trần Kỳ
Phương 2004). Trong các tộc người nói tiếng Môn-Khmer ở miền tây Quảng Nam,
người Katu là sắc tộc đông người nhất, sống phân bố dọc theo các giòng sông lớn
của Quảng Nam như sông Thu Bồn, sông Vu Gia, sông Côn, sông Túy Loan, v.v..
Người Katu hiện nay có khoảng 50.000 người sống ở huyện Nam Giang, Tây Giang và
Đông Giang (trước kia là huyện Hiên và Giằng) tỉnh Quảng Nam, ngoài ra còn có
một bộ phận sống ở huyện Nam Đông phía bắc đèo Hải Vân thuộc tỉnh Thừa Thiên
-Huế. Về sinh hoạt kinh tế -văn hóa- xã hội của người Katu, trong đó có mối
quan hệ với thương nhân miền xuôi mà người Katu gọi là ‘các-lái’ hay
‘thương-lái’, đã được tường thuật bởi Le Pichon vào năm 1938 trong một chuyên
khảo về người Katu ở Quảng Nam (Le Pichon 1938). Theo cụ Quách Xân, một chiến
sĩ cách mạng lão thành, mất năm 1999, người đã từng sống nhiều năm với dân tộc
Katu tại Quảng Nam trong chiến tranh, thì việc trao đổi hàng hóa giữa miền
ngược và miền xuôi dựa theo sông Thu Bồn vẫn diễn ra một cách sinh động cho đến
những năm 50 của thế kỷ trước.Trao đổi hàng hóa giữa miền ngược và miền xuôi ở
vùng Quảng Nam đã được phản ảnh qua câu ca dao sau: “Ai về nhắn với nậu /bạn
nguồn, Măng le /Mít non gởi xuống cá chuồn gởi lên”Trong một chuyên khảo dựa
vào luận án tiến sĩ của mình, Wheeler cũng đã phân tích và chứng minh rằng
cảng- thị Hội An trong các thế kỷ 17-18 đã kế thừa những thành quả về sự thiết
lập các mối quan hệ nội và ngoại thương của Champa trong các thế kỷ trước đó
Sau khi đã thống lãnh toàn bộ các
khu vực có dân cư sinh sống trên vùng duyên hải miền Trung, từ thế kỷ thứ 2 đến
thế kỷ 8, các nhóm người hải đảo gốc Malayo Polynésien bắt đầu thiết đặt nền
tảng vật chất để trị vì lâu dài : xây dựng kinh thành, phổ biến lối sống định
canh và tổ chức xã hội theo kiểu lãnh chúa. Vì trình độ văn hóa không cao nhưng
giỏi chinh chiến, những nhóm này một mặt chỉ lưu giữ một phần của nền văn minh
hấp thụ qua các đạo sĩ và thương nhân Ấn Độ (chữ Phạn và văn hóa Ấn Độ) đến đây
trao đổi hàng hóa hay tạm trú, mặt khác vẫn duy trì một số tập tục, văn hóa bản
địa cổ truyền của mình. Qua những di tích và văn hóa còn lại, người ta nhận
thấy tất cả đều có sự pha trộn giữa yếu tố bản địa và Ấn Độ. Tuy vậy, với thời
gian, văn hóa Ấn Độ dần dần trở thành yếu tố độc tôn, lấn át văn hóa bản địa ở
phía Nam và Trung Hoa ở phía Bắc.
Nhưng các đạo sĩ và thương gia Ấn Độ
chỉ truyền bá văn minh, văn hóa, tổ chức xã hội, kỹ thuật hàng hải, buôn bán và
canh tác nông nghiệp của họ cho giới vương quyền và các lãnh chúa địa phương mà
thôi, quần chúng dân gian không được chiếu cố tới. Sự phân biệt này có nhiều lý
do, thứ nhất là quần chúng dân gian không có trình độ văn hóa cao, thứ hai là
họ không phải là thành phần có quyền quyết định, thứ ba là sự tuân thủ các điều
luật của đạo Bà La Môn, đẳng cấp này không thể giao tiếp với đẳng cấp kia. Và
qua đó, những đạo sĩ Bà La Môn dần dần được các lãnh chúa trọng vọng và giữ
những vai trò cao trong triều chính để giúp họ cai trị hữu hiệu và lâu
bền.
Luật Manu của đạo Bà La Môn
(Brahmanism) phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp (castes). Đứng đầu là Brahman,
tức giới đạo sĩ (phần lớn là người Ấn Độ), được cho là sinh ra từ miệng của
Brahma (Phạm Thiên), nắm quyền văn hóa tư tưởng và học thuật. Thứ hai là
Ksatriya (Lý Đế Lợi), tức đẳng cấp vua chúa, quí tộc, chiến sĩ (phần lớn là
người Chăm gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai cánh tay của Brahma nên nắm quyền
chính trị và quân sự. Thứ ba là Vaisya (Phệ Xá), tức giới thương gia và phú
nông (đa số là người Chăm giàu có và người Thượng gốc Nam Đảo), được sinh ra từ
hai đùi của Brahma nên có quyền làm kinh tế và xây dựng. Thứ tư là Sudra (Thủ
Đà), tức đẳng cấp thợ thủ công, bần dân (đa số là các sắc dân miền núi và tù
binh), được sinh từ hai bàn chân của Brahma chỉ để bị sai khiến và làm nô
dịch.
Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, do chịu
ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa và Phật phái Đại Thừa, không thấy có sự
phân chia đẳng cấp xã hội trong những bia ký tìm được trên lãnh thổ Bắc Chiêm
Thành. Ngược lại trên lãnh thổ Nam Chiêm Thành, đẳng cấp Sudra vẫn tiếp tục tồn
tại cho tới thế kỷ 19. Ngày nay đẳng cấp Brahman chỉ còn thấy trong các dịp tế
lễ của giáo dân đạo Bà La Môn (các thầy Paseh, Tapah) và đạo Bani mà thôi (các
thầy Char, Po Adhya, Po Bac), nhưng đã biến dạng rất nhiều so với nguyên
thủy.
Người Champa theo đạo Bà La Môn được
gọi là Chăm Jăt, tức người Champa chính thống. Đạo Bà La Môn trở thành tôn giáo
chính trong giai đoạn đầu, từ thế kỷ 3 (theo bia Võ Cảnh ở Nha Trang). Tuy gọi
là tôn giáo chính nhưng chỉ giới vương tôn quí tộc mới có quyền hành lễ và dự
lễ mà thôi, quần chúng dân gian hoàn toàn bị cấm. Đạo Bà La Môn lúc ban đầu
phát triển mạnh tại miền Nam Chiêm Thành rồi phát triển ra miền Bắc từ thế kỷ
thứ 4, dưới triều vua Bhadravarman I (Fan-houta hay Phạm Hồ Đạt), người sáng
lập ra triều đại Gangaraja (sông Gange, Ấn Độ). Đạo Bà Là Môn giữ vai trò độc
tôn trong các triều chính cho đến thế kỷ 10, sau đó nhường vai trò lại cho đạo
Phật Tiểu Thừa (Thevada). Dưới triều vua Indravarman II (thế kỷ 9), pháp danh
Paramabuddhaloka, đạo Phật và đạo Bà La Môn cùng nhau phát triển, nhiều tu viện
và chùa được xây dựng tại Đồng Dương thờ Buddha và thần Siva.
Phật giáo Tiểu Thừa tuy được du nhập
cùng lúc với đạo Bà La Môn nhưng không phát triển mạnh vì không thừa nhận tính
cực đoan của giai cấp cầm quyền đương thời, do đó chỉ phát triển mạnh trong
giới dân gian. Phật giáo tại Champa có hai phái : phái Arya Sammitinikaya (Tiểu
Thừa) và phái Sarva Stivadanikaya (Đại Thừa), đa số Phật tử Chăm trong giai
đoạn đầu theo phái Tiểu Thừa. Miền Nam Chiêm Thành không có dấu vết gì về Phật
giáo Đại Thừa ; ngược lại tại miền Bắc, do ảnh hưởng Trung Hoa, Phật giáo Đại
Thừa do các tu sĩ Trung Hoa mang vào phát triển mạnh từ thế kỷ thứ 6 đến thứ 9,
nhất là trong giới dân gian sinh sống tại châu thổ sông Hồng và sông Mã (Cửu
Chân, Nhật Nam), sau đó thì mất hẳn.
Ngôn ngữ của người Champa cũng rất
khó xác định. Nói người Champa có một ngôn ngữ đặc thù là không đúng. Thổ dân
bản địa lúc ban đầu có lẽ đã trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ cổ Mã Lai,kế là
thổ ngữ Nam Đảo.Về sau một số dân cư từ phía Nam tràn lên miền Bắc và miền núi
lập nghiệp góp phần pha trộn ngữ âm Môn Khmer vào tiếng địa phương. Rồi những
đợt di dân từ ngoài biển (Java, Sumatra), những dân tộc phương Bắc (Văn Lang,
Trung Hoa) và những nền văn minh khác (Ấn Độ, Ả Rập) liên tiếp gia nhập vào vùng
đất này, ngôn ngữ của người Champa đã biến đổi, phân hóa thành nhiều hệ khác
nhau (nhất là các sắc dân miền núi), mặc dầu vậy yếu tố Nam Đảo vẫn là mạnh
nhất, ảnh hưởng và chi phối đến lối phát âm chính của người Champa.
Tại miền Bắc, do ảnh hưởng của Trung
Hoa những bậc vương tôn có thể đã sử dụng chữ Hán trong các văn thư trao đổi
với các quan lại nhà Hán tại Giao Chỉ cho tới năm 192, lúc đó còn là lãnh thổ
thuộc nhà Hán (quận Tượng Lâm). Nhưng đến đời con cháu Khu Liên, người sáng lập
vương quốc Lâm Ấp đầu thế kỷ thứ 3, nhiều phái bộ được cử sang Giao Chỉ triều
cống, các văn thư đều viết bằng chữ Hồ (tức chữ Phạn cổ). Điều này chứng tỏ
người Ấn Độ (tu sĩ và thương nhân) đã vào Lâm Ấp truyền giáo và giao thương
trước thế kỷ thứ 2 và đã phổ biến chữ viết. Những địa danh và tên các vương
triều từ thế kỷ thứ 3 trở đi đều mang tên Ấn Độ, kể cả tên nước (Campapura là
tên một địa danh tại miền bắc Ấn Độ). Chữ Phạn trở thành chữ quốc ngữ của vương
quốc Champa cổ từ thế kỷ 2. Những bia ký tìm được đều được khắc bằng chữ
sanskrit, tức chữ Phạn cổ.
Lâu dần chữ Phạn cổ có nhiều thay
đổi. Người Champa pha trộn và biến cải chữ Phạn cổ thành tiếng "Chăm
mới", nhất là từ sau thế kỷ 15 khi vương quốc miền Bắc bị tan rã, dân
chúng Nam Champa chỉ sử dụng chữ "Chăm mới" và còn áp dụng cho đến
ngày nay. Chữ "Chăm mới" có nhiều trùng hợp với các loại chữ viết của
các dân tộc hải đảo Đông Nam Á, nhất là với ngôn ngữ Malaysia và
Indonesia.
Đạo Hồi được người Ả Rập truyền bá
vào Đông Nam Á từ thế kỷ thứ 7, mạnh nhất là trong các quần đảo Sumatra, Java,
bán đảo Mã Lai và các hải đảo nhỏ phía đông nam Philippines. Người
"Java" (cách gọi chung những nhóm dân cư hải đảo thời đó) hấp thụ
giáo lý đạo Hồi qua các giáo sĩ và thương nhân Ả Rập trốn chạy những cuộc thánh
chiến đẫm máu đang xảy ra quanh vùng biển Địa Trung Hải và Trung Đông từ thế kỷ
thứ 7 đến thế kỷ thứ 9. Yếu tố hấp dẫn dân cư Nam Đảo theo đạo Hồi là tính
(thiện) tuyệt đối của nó : không tôn thờ hình tượng và xây dựng đền đài như đạo
Bà La Môn. Dân cư hải đảo, đa số là thành phần ngư dân, đã theo đạo rất đông vì
không muốn tham gia xây dựng đến đài tôn thờ các vị thần Ba La Môn giáo nữa.
Khi các "hải tặc Java" (cách gọi những ngư phủ không hành nghề đánh
cá mà chỉ chuyên đi cướp bóc ngoài khơi Biển Đông) đổ bộ lên miền Trung, họ đã
mang theo một số sinh hoạt của nền văn minh và văn hóa Hồi giáo đến với các
nhóm dân cư bản địa. Đó chỉ là những hiện tượng rời rạc vì đa số dân cướp biển
không có trình độ văn hóa cao, không thể vừa cướp bóc vừa truyền đạo.
Nhiều thuyền buôn Ả Rập từ các hải
cảng Basra, Siraf và Oman đã đến buôn bán với Champa trong các thế kỷ 7 và 9,
nhưng không được đón tiếp nồng hậu vì ngôn ngữ bất đồng, do đó không thể truyền
đạo cho dân chúng địa phương. Hơn nữa thương nhân Ả Rập không ở lại như người
Ấn Độ vì sợ cướp bóc, thêm vào đó họ cũng không thích hợp với khí hậu nhiệt đới
gió mùa của miền Trung. Đạo Hồi được truyền bá vào vương quốc Chiêm Thành qua
trung gian các nhà ngoại giao và thương nhân Java và Sumatra ngoài khơi Biển
Đông. Vì lẽ đó, đạo Hồi tại Champa có nhiều khác biệt so với đạo Hồi chính thống.
Mốc thời gian đạo Hồi được du nhập vào Champa là thế kỷ 10. Dưới thời vua
Indravarman III (918-959), tể tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận cho một số gia
đình hoàng tộc Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqib Amr, Ali (trốn chạy chính sách cai
trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java) vào tị nạn. Những người này đã nhân
dịp truyền bá luôn giáo lý đạo Hồi cho các gia đình hoàng gia Champa.
Trong các thế kỷ sau mới có thêm các
giáo sĩ, thương gia và giáo dân Hồi giáo Java từ Biển Đông vào giảng dạy giáo
lý, lần này cho quần chúng. Qua tư cách và lối sống đạo của các người Hồi giáo
Java, giáo lý đạo Hồi chinh phục nhanh chóng đức tin của quần chúng Champa,
thật ra họ cũng không muốn bị tước hết tài nguyên nhân vật lực để xây dựng
những đền đài Bà La Môn giáo nữa. Nhiều người Champa đã được thương nhân và
giáo sĩ Java đưa sang Ả Rập học đạo. Đạo Hồi được đông đảo người theo và trở
thành tôn giáo thứ hai của vương quốc Champa, sau đạo Bà La Môn, từ thế kỷ thứ
11 đến thế kỷ 15. Chữ Ả Rập được du nhập vào vương quốc Champa cùng với đạo
Hồi, nhưng không lấn át được chữ Phạn.
Vị vua theo đạo Hồi được biết đến
nhiều nhất là Po Alah (Po Ovlah, Po Âu Loah hay Po Allah), trị vì 36 năm
(1000-1036) tại Sri Bini (Qui Nhơn). Po Alah học đạo ở La Mecque 37 năm rồi mới
về nước trị vì. Dưới triều vua Po Alah, đạo Bà La Môn và đạo Hồi phát triển rất
mạnh, nhiều đền thờ Siva và nhà thờ Hồi giáo được xây dựng tại Amavarati (Mỹ
Sơn-Quảng Nam). Đạo Hồi rất thịnh hành tại Thuận Hải (các tỉnh Ninh Thuận, Bình
Thuận ngày nay), nhưng cũng biến cải dần theo thời gian, theo phong tục và lối
sống của người địa phương, mất dần tính chính thống của đạo Hồi Ả Rập. Đạo Hồi
tại Thuận Hải có tên là đạo Bani (Hồi giáo biến cải), người Champa theo đạo
Bani được gọi là Chăm Bani để phân biệt với người Chăm theo đạo Hồi chính
thống, gọi là Chăm Islam. 3/5 người Chăm tại Thuận Hải theo đạo Bà La Môn, 2/5
còn lại theo đạo Bani. Tuy vậy tại Thuận Hải cũng có ba làng Chăm Islam (2 ở
Văn Lâm và 1 ở Phước Nhơn, huyện Ninh Phước, chiếm tỷ lệ 30% so với người theo
đạo Bani).
Về sau, khi bị áp bức và chiến tranh
đe dọa, một mảng lớn giáo dân theo đạo Bà La Môn và đạo Hồi chạy sang Chân Lạp
và Java sinh sống. Khi định cư tại Chân Lạp, người Chăm bị nhóm Hồi giáo Mã Lai
đồng hóa, cộng đồng Champa và Mã Lai tại đây được gọi chung là Khmer Islam. Tại
Chân Lạp sau một thời gian xung đột chính trị và tôn giáo với người Khmer (theo
đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa), một số người Champa đã chạy về Châu Đốc
lập nghiệp, đa số là thành phần tu sĩ, trí thức, nông dân và thương nhân. Người
Champa tại đây học kinh Coran viết bằng chữ ẢRập. Được những thương nhân ẢRập
di cư truyền cho cách thức buôn bán, người Khmer Islam và Chăm Islam rất giỏi buôn
bán.
Tại miền Trung, các thầy Char (Po
Char) của người Chăm Bani thay mặt giáo dân giữ đạo. Tín đồ Bani chỉ giữ đạo
vào mùa chay (ramadan) mà thôi, không nhất thiết phải cầu kinh 5 lần một ngày
hay ăn chay trường. Ngược lại người Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc giữ đạo đúng
theo luật của Hồi giáo chính thống : tín đồ đều hướng về La Mecque 5 lần trong
ngày để cầu nguyện, họ rất kiêng cử trong việc ăn uống và rất khắt khe trong
việc lập gia đình.
Các dòng vương tôn Champa
Theo lịch sử, các dòng vương tôn cầm
quyền tại Champa đều xuất thân từ hai dòng họ lớn. Mỗi dòng họ lấy một vật tổ
(totem) làm biểu tượng. Dòng vương tôn ở phía Nam lấy cây Cau (Kramukavansa)
làm biểu tượng, những nhà nghiên cứu gọi là chi bộ, bộ tộc hay thị tộc Cau.
Dòng vương tôn ở phía Bắc lấy cây Dừa (Narikelavansa) làm biểu hiệu, gọi là chi
bộ, bộ tộc hay thị tộc Dừa. Chỉ những truyền nhân xuất thân từ hai dòng họ này mới
được công nhận lên ngôi vua, tức phải thuộc đẳng cấp Brahman và Ksatriya. Những
người dân thường, cho dù có tài giỏi hay anh dũng đến đâu cũng không được công
nhận là vua nếu không chứng minh có liên hệ huyết thống đến hai dòng họ này,
tức phải do một phụ nữ mang dòng máu vương tôn sinh ra. Trong lịch sử Champa,
nhiều người xuất thân là dân thường phải biện hộ có thần linh yểm trợ để lên
ngôi vua như Phạm Văn (nguyên là một người chăn dê gốc Hoa), Lưu Kỳ Tông (một
người Việt muốn lên làm vua nhưng không được dân chúng tuân phục) hay nhiều vị
tướng khác sau khi đã hạ đối thủ chính trị.
Thật ra người dân thường khó giữ
được ngôi cao trong xã hội Champa vì không bao giờ có cơ hội, hơn nữa những
người thuộc giai cấp vương tôn, đặc biệt là giới vương tôn nữ phái, chỉ lập gia
đình với những dòng vương tôn với nhau, do đó không có những cuộc hôn nhân
không môn đăng hộ đối và ít có những cuộc hôn nhân dị chủng, dị giáo. Phụ nữ
quí tộc Chăm chỉ chọn chồng cùng đẳng cấp, đa số cung phi của các vua Champa
đều xuất thân từ các gia đình quí tộc. Khi một vua Champa cưới một người vợ
ngoại quốc, ông ta chỉ có thể lập gia đình với con gái của những vua chúa thuộc
các vương triều khác, chứ không thể lấy một người thường dân.
Xã hội Champa tuy theo chế độ mẫu hệ
nhưng lại phụ quyền. Trong gia đình, người đàn bà, gọi là Mẹ cả, đảm nhiệm vai
trò chọn người kế thừa, bàn thảo tương lai con cái, chọn chồng cho con gái,
đứng ra cưới hỏi, gìn giữ bàn thờ tổ tiên, giữ gìn hương hỏa. Ngoài xã hội,
người đàn ông có toàn quyền quyết định việc canh tác, giao thiệp và buôn bán,
nhưng chỉ người con trai hay đàn ông nào được sinh ra bởi một người mẹ thuộc
dòng quí tộc mới được chấp nhận làm vua hay giữ vai trò cao trong triều
đình.
Tài liệu cổ và truyền thuyết Chăm
cho biết truyền nhân của những dòng họ vị vua cai trị vương quốc Champa là hai
vị nữ thần được sinh ra bởi nữ thần Sakti Bhagavati, vợ của Siva : Visitrasaga
cho các vua phía Nam và Uroja cho các vua phía Bắc. Chỉ những người mang dòng
máu từ những phụ nữ này mới được giữ những địa vị cao và nắm giữ vai trò lãnh
đạo, con cháu của họ có thể là những người sinh sống tại đồng bằng hay trên
miền núi.
Hình tượng Linga (bộ phận sinh dục
tượng trưng cho sức mạnh của phái nam, biểu tượng của khả năng tái tạo) tượng
trưng cho thần Siva (nam tính) hiện thân qua nữ thần Uroja. Hình tượng Yoni (cơ
quan sinh sản của phái nữ, biểu tượng của khả năng dưỡng dục) tượng trưng cho
nữ thần Bhagavati (nữ tính) hiện thân qua nữ thần Visitrasaga. Uroja còn được
gọi là thần Núi, Visitrasaga là thần Biển. Tượng Uroja được xây dựng trên các
triền núi ở phía Bắc, tượng nữ thần Bhagavati được tôn thờ nhiều trên những
vùng bình nguyên phía Nam, cạnh các bờ biển. Vị thần bảo vệ vương quốc Nam
Champa là nữ thần Yan Po Nagar Bà Mẹ Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu.Chính những
phân chia dòng tộc Nam Bắc này mới nảy sinh ra huyền thoại các bộ tộc Cau và
Dừa.
Về bộ tộc Cau, theo truyền thuyết,
vào thời xa xưa một vị vua cai trị phương Nam một hôm thấy bên cạnh cung đình
có một cây cau trổ một buồng trái thật lớn và thật đẹp. Đến ngày trổ hoa, buồng
cau không nở, nhà vua thắc mắc liền sai một gia nhân trẻ tuổi trèo lên hái
xuống xem sao. Gia nhân mang xuống dâng lên vua. Vua lấy gươm báu chẻ mo cau ra
thì thấy một em bé mặt mũi hồng hào đẹp đẽ. Nhà vua rất vui mừng, nhận làm con
nuôi và đặt tên là Radja Po Klong, tức hoàng tử Po Klong (Po Klău). Mo cau bọc
hoàng tử được dùng làm mộc đỡ của hoàng gia và mũi nhọn của mo cau được biến
thành gươm báu của nhà vua. Mộc đỡ và gươm báu sau này trở thành biểu tượng cho
uy quyền của các vị vua Champa phía Nam.
Hoàng tử Po Klong không chịu bú sữa
của người thường mà chỉ bú sữa của một con bò tơ ngũ sắc. Đó cũng là lý do giải
thích tại sao người Champa ở phía Nam sau này từ chối giết và ăn thịt bò. Hoàng
tử Po Klong càng lớn lên càng đẹp và khỏe mạnh. Nhà vua sau đó gả con gái và
cho kế nghiệp. Khi lên ngôi, Po Klong cho xây một cung thành tuyệt mỹ trải rộng
trên bảy ngọn đồi, đặt tên là Băl. Băl sau này là thủ đô của các tiểu vương
quốc Champa theo tiếng "Chăm mới", như Băl Cău ở Phan Rang, Băl Canar
ở Phan Rí (thôn Tịnh Mỹ) của bộ tộc Cau. Chuyện bò ngũ sắc là dựa theo truyền
thuyết Bò Thần của đạo Bà La Môn bên Ấn Độ, ý muốn nói bò là một vị thần, dân
chúng phải tôn thờ không được ăn thịt hay sử dụng phó sản của bò để tỏ lòng tôn
kính thần linh.
Về bộ tộc Dừa, các dòng vương tôn
phương Bắc cũng dựa theo truyền thuyết trên để tạo sự huyền bí về dòng dõi
vương quyền của mình,nhưng đổi buồng cau thành buồng dừa và mo cau thành mo
dừa. Theo lời kể lại,một vị hoàng tử được sinh ra từ một mo dừa,làm con nuôi
một vị vua, lấy một cô công chúa và sau đó được tôn lên làm vua. Không rõ vị
vua này tên gì, các nhà nghiên cứu Champa và khảo cổ chưa tìm ra sử tích.
Thật ra các dòng vương tôn phía Bắc,
vì chịu ảnh hưởng muộn màng nền văn minh Ấn Độ, phải tìm trong kho tàng dân
gian một câu chuyện huyền bí đề cao dòng tộc vương quyền của mình để tỏ ra
ngang hàng với các dòng vương tôn phía Nam. Tuy nhiên, do chịu nhiều ảnh hưởng
của văn hóa Trung Hoa lúc ban đầu, thay vì phải thờ vật tổ (cây Cau hay Bò
Thần) như người phía Nam, người Chăm phía Bắc đề cao cây Dừa như một biểu tượng
huyền bí của uy quyền - như người Hoa đề cao con rồng hay con phượng. Hơn nữa,
vật tổ của người Chăm phương Bắc không mang ý nghĩa tôn giáo mà chỉ thuần túy
là một biểu tượng. Tượng mà người Chăm miền Bắc tôn thờ là Buddha, Siva và các
vị thần Ấn Độ khác. Một vị vua làm được nhiều tốt cho dân chúng, khi chết đi
được dân chúng tạc tượng và lập đền thờ tôn kính như một vị Phật. Tên vị vua
quá cố thường được kết hợp với tên thần Isvara (tức Siva), do đó tên sau cùng
của các vị vua quá cố thường có thêm chữ "vara" Bradresavara, Sambhudresavara
để thần thánh hóa ngôi vị của mình, vua là do thần sai xuống cai trị dân
gian.
Qua sự phân chia này, trong suốt
dòng lịch sử của vương quốc cổ Champa, các bia ký ghi lại rất nhiều tranh chấp
giữa hai bộ tộc về quyền lãnh đạo, không bộ tộc nào chịu nhường bộ tộc nào. Bộ
tộc Dừa bị coi là bộ tộc bình dân (không tinh khiết) thường bị các dòng vương
tôn bộ tộc Cau (tự nhận là truyền nhân chính thống) khinh thường. Tuy nhiên vì
quyền lợi của đất nước, nhiều lúc hai bộ tộc này đã biết kết hợp lại thành một
để đối phó với kẻ thù chung. Ba bia ký tại làng Võ Cạnh, Hòn Cúc, Mỹ Sơn có ghi
danh hiệu của vua Bhadra varman tại đền Tháp trên toàn lãnh thổ Champa, sự kiện
này theo Louis. Finot đã chứng tỏ Champa là một quốc gia độc lập và thống nhất
quyền năng của nhà vua Trung ương, các Lãnh chúa hay Tiểu vương của mỗi vùng
đều phải khép mình dưới quyền lực nhà vua.
Theo sử liệu kinh đô đầu tiên của
Champa là Trà Kiệu. Còn Khu Túc chỉ là một thành lũy mới xây có tánh cách Quốc
Phòng khi Khu Liên vừa mới dựng nước.
Năm 758-859
kinh đô mới là Virapura
Năm 875-991 có
lẽ vì Ðại Việt có những hoạt động quân sự gần gũi với biên giới Champa, nên vua
Indra varman II mới dời đô về Vijaya ở Bình Ðịnh để được yên ổn hơn.
Ðến triều vua
Hari varman IV (1074-1081) đặt Kinh Ðô tại kinh thành Champapura. Có lẽ lúc này
ở Vijaya Bình Ðịnh chỉ là thành quách Quốc Phòng kiên cố để ngăn quân Ðại Việt,
còn Kinh Ðô đã dời về Champapura. Sau khi thành Ðồ Bàn thất thủ 1471, kinh đô
Champa dời về Virapura của Châu Panduraga tức vùng Phan Rang ngày nay.
Về quốc phòng: Theo sử liệu Trung
Hoa, Champa thời đó có khoản 40,000 quân đến 50 ngàn quân thời Phạm Văn khoản
thế kỷ IV.
Năm 1360 thời vua Chế Bồng Nga với
những chiến công hiển hách, làm cho vua quan nhà Trần phải bỏ cả thành Thăng
Long (tức Hà Nội bây giờ) mà chạy, chứng tỏ Champa đã có một lực lượng quân sự
hùng hậu và tinh nhuệ.Lực lượng quân đội gồm có: Bộ Binh,Hải Binh,Kỵ Binh và
Tượng Binh (qua điêu khắc tại đền Tháp thuộc quần thể Mỹ Sơn) thấy rõ phần nào
về khả năng quân sự của Vương Quôc Champa.
Nguồn: http://champatra.blogspot.com/2015/11/luoc-su-nen-van-minh-champa.html
Nguồn: http://champatra.blogspot.com/2015/11/luoc-su-nen-van-minh-champa.html
Tác giả đã dày công nghiên cứu.
Trả lờiXóa