1. Theo Việt Điện U
linh
Mai Thúc Loan sinh vào
khoảng cuối thế kỷ 7, tại thôn Ngọc Trừng, Hoan Châu, nay thuộc huyện Nam Đàn,
Nghệ An, bố Mai Thúc Loan là Mai Sinh là người champa, mẹ là Vương Thị nguyên
gốc Lộc Hà – Hà Tĩnh. (Tại xã Mai Phụ huyện Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh hiện nay chỉ
còn lại 8 gia đình họ Mai).
Đền thờ Mai Hắc Đế
Năm Mai Thúc Loan 10
tuổi, mẹ đi hái củi bị hổ vồ, ít lâu sau bố cũng mất. Ông được người bạn của bố
là Đinh Thế đem nuôi, sau gả con gái là Ngọc Tô cho. Sinh thời Mai Thúc Loan
vốn rất khỏe mạnh, giỏi vật, học giỏi và có chí lớn. Ông mở lò vật, lập phường
săn, chiêu mộ trai tráng trong vùng nhằm mưu việc lớn. Vợ ông giỏi việc nông
trang, nhờ đó “gia sản ngày một nhiều, môn hạ ngày một đông”.
Nhờ chí du ngoạn lại
được vợ hết lòng ủng hộ, Mai Thúc Loan kết thân với nhiều hào kiệt, sau này trở
thành những tướng tài tụ nghĩa dưới lá cờ của ông như Phòng Hậu, Thôi Thặng,
Đàn Du Vân, Mai Hoành, Tùng Thu, Tiết Anh, Hoắc Đan, Khổng Qua, Cam Hề, Sỹ Lâm,
Bộ Tân,…
Khởi nghĩa Hoan Châu
do Mai Thúc Loan lãnh đạo nổ ra vào năm Khai Nguyên thứ nhất đời vua Đường
Huyền Tông ở Trung Hoa, tức năm Quý Sửu (713). Khởi nghĩa nổ ra tại Rú Đụn, còn
gọi là Hùng Sơn (Nghệ An). Tương truyền lúc đó ông cùng đoàn phu gánh vải nộp
cho nhà Đường, đã kêu gọi các phu gánh vải nổi dậy chống quân Đường. (“cống
vải” là một chi tiết của truyền thuyết, sưu cao, thuế nặng mới là nguyên nhân
khiến nhân dân nổi dậy chống lại ách đô hộ nhà Đường, nổi bật là khởi nghĩa
Hoan Châu). Đây là cuộc khởi nghĩa có sự chuẩn bị, biết chọn thời cơ, không
phải một cuộc bạo động.
Từ dấu tích lịch sử khó phai...
Từ dấu tích lịch sử khó phai...
Năm 713, Mai Thúc Loan dựng cờ khởi nghĩa, tập hợp phường săn
quanh vùng có đến mấy trăm người để thêm sức mạnh. Chọn Sa Nam làm căn cứ đã
cho thấy tầm nhìn quân sự của ông bởi địa thế này vừa có thế công cũng có thể
thủ. Căn cứ có Rú Đụn hiểm trở và kín đáo, hai bên có sông Lam bao bọc. Ông cho
xây đắp chiến lũy thành Vạn An ở ngay thị trấn Nam Đàn bây giờ, chứa voi trận,
khí giới, vũ khí, lương thực dự bị để tính kế lâu dài. Khi binh hùng tướng
mạnh, căn cứ vững chắc, nhân dân một lòng ủng hộ, chẳng mấy chốc Mai Thúc Loan
đã thu được một vùng đất đai rộng lớn, trước hết chiếm giữ Hoan Châu làm căn
cứ, sau đó mở rộng thế lực ra các châu huyện rồi tiến công đánh chiếm Tống Bình
phủ thành (nay là Hà Nội) giải phóng cả nước. Mai Thúc Loan đã xưng đế (tức vua
Mai Hắc Đế), chọn thành Vạn An (Nam Đàn, Nghệ An) làm quốc đô. Dưới sự trị vì
của Mai Hắc Đế, nước ta đã giành được độc lập, tự chủ trong gần 10 năm (713 -
722). Cùng với khởi nghĩa Hai Bà Trưng, khởi nghĩa Lý Bí, khởi nghĩa Phùng
Hưng, công cuộc giành quyền tự chủ của Khúc Thừa Dụ - Khúc Hạo, Dương Đình Nghệ
và chiến thắng Bạch Đằng của Ngô Quyền, khởi nghĩa Hoan Châu của Mai Thúc Loan
là một trong những cuộc khởi nghĩa vào loại lớn nhất của thời kỳ chống Bắc
thuộc, là một trong những mốc son quan trọng trên con đường đấu tranh giành độc
lập của dân tộc, phá vỡ vòng tròn luẩn quẩn 1000 năm Bắc thuộc. Ý nghĩa và bài
học lịch sử của cuộc khởi nghĩa này vẫn vẹn nguyên giá trị trong công cuộc xây
dựng, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Lễ rước trong lễ hội Đền
Vua Mai
Đến những giá trị trường tồn
Công ơn của Mai Thúc Loan và nghĩa quân đến
ngàn đời sau vẫn luôn được biết đến như những chiến công hiển hách nhất của dân
tộc. Cũng từ chiến công đó mà tạo nên một lễ hội có một không hai ở Nghệ An: Lễ
hội Đền Vua Mai, lễ hội đã góp phần tô thắm thêm giá trị lịch sử - văn hóa hào
hùng của xứ Nghệ nói riêng, cả nước nói chung. Lễ hội Đền Vua Mai mang đậm nét
văn hóa truyền thống gắn liền với những truyền thuyết, sự tích lịch sử về Mai
Hắc Đế và nghĩa quân. Lễ hội là một di sản phi vật thể của quê hương Nam Đàn,
mang đầy đủ hai yếu tố lễ và hội. Phần lễ bao gồm lễ Mộc dục, lễ Khai quang, lễ
Yết cáo, lễ Rước nước, lễ Đại tế và lễ Tạ. Ngày 13 tháng Giêng sẽ tiến hành các
lễ: Rước nước, Mộc dục, Tế Gia quan. Ngày 15 tháng Giêng là ngày Đại tế (lễ Tế
thần) có ý nghĩa thỉnh mời và đón rước các chư vị thần linh về dự hội để dân
làng chúc tụng, tỏ lòng biết ơn đấng thần linh. Đây là nghi lễ trang trọng nhất
trong hệ thống lễ kỳ Đại tế có thể kéo dài đến hết ngày 17 tháng Giêng.
Phần hội cũng diễn ra không kém phần
sôi nổi. Ban ngày, du khách thập phương sẽ được hòa mình vào các trò chơi dân
gian gắn liền với truyền thuyết, sự tích lịch sử Vua Mai và nghĩa quân, được
trở về với những nét văn hóa xa xưa rất đỗi thú vị như đua thuyền, cờ thẻ, chọi
gà, du tiên, đấu vật... Ban đêm được thưởng thức dư vị ngọt ngào của làn điệu
ca trù, ví phường vải, chèo, tuồng, hát giao duyên... Không chỉ dừng lại ở đó,
trong những ngày diễn ra lễ hội, nhân dân còn chuẩn bị thêm cỗ cúng dâng lên
đền thờ vì người dân cho rằng lễ hội không chỉ là để mời linh hồn Vua Mai,
tướng lĩnh của ngài mà còn là không gian cho cả những người đã mất, những người
của quá khứ về dự hội. Phần cỗ này sau khi cúng tế sẽ được bày biện mời khách
thập phương.
Các trò chơi dân gian trong lễ hội Đền Vua
Mai
Bác Lê Trọng
Hùng (73 tuổi, xã Vân Diên) chia sẻ: "Hằng năm, cứ đến ngày giỗ Vua Mai,
nhân dân các xã gần xa đều háo hức chờ đón, làm mâm cỗ kính thờ lên vị vua đã
làm nên lịch sử trong thời kỳ chống Bắc thuộc”. Cứ dịp giỗ Vua Mai, mỗi gia
đình ở đây chuẩn bị mâm cỗ tươm tất để mời anh em, bạn bè xa gần đến chiêu đãi,
với quan niệm cho rằng mời được càng nhiều người đến phá mâm cỗ thì năm đó làm
ăn càng phát đạt. Tuy tốn kém, mệt nhọc nhưng người dân tin rằng họ sẽ được
thần linh và những người đã khuất chứng giám, độ trì vì vậy không khí hứng
khởi, vui tươi, niềm nở luôn hiện lên trên khuôn mặt của những người con bản
địa trong những ngày diễn ra lễ hội.
Lễ hội Đền Vua Mai hằng năm thu hút hàng vạn người tham
gia, không bó hẹp ở miền quê Nam Đàn, Nghệ An mà còn mở rộng ra các tỉnh khác
như Hà Tĩnh, Hải Phòng, Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh, Nha Trang, Vũng Tàu... Tất thảy
mọi người về tham dự lễ hội để tìm sự thanh thản, yên tịnh trong tâm hồn, hòa
nhập vào không gian sôi động, lành mạnh của các trò chơi dân dã và gửi gắm niềm
tin, hy vọng cho một năm mới an lành, thành đạt, may mắn. Năm nay kỷ niệm 1.300
năm khởi nghĩa Hoan Châu và 1.290 năm ngày mất của Mai Hắc Đế, lễ hội Đền Vua
Mai càng trở nên trang trọng, linh thiêng, hoành tráng hơn. Trao đổi với chúng
tôi, ông Thái Văn Nông – Chủ tịch UBND huyện Nam Đàn cho biết: "Đây là lễ
hội được tổ chức hằng năm, tuy nhiên năm 2013 là năm kỷ niệm tròn 1.300 khởi
nghĩa Hoan Châu nên sẽ nâng tầm cao hơn, mọi công tác chuẩn bị cho lễ kỷ niệm
đã được chúng tôi hoàn tất từ trước ngày 14-2 (tức 25 tháng Chạp). Trong thời
gian qua, chúng tôi đã chuẩn bị nhiều tài liệu, làm việc với nhiều đơn vị liên
quan để tổ chức tốt lễ kỷ niệm này”
Tháng 4 năm 713, Mai
Thúc Loan lên ngôi vua, sử gọi ông là Mai Hắc Đế. Ông cho xây thành lũy, lập
kinh đô Vạn An, tích cực rèn tập tướng sỹ. Cuộc nổi dậy của ông được hưởng ứng
rộng rãi ở trong nước và có thể có cả sự trợ giúp của Lâm Ấp và Chân Lạp.
Năm Giáp Dần – 714,
Mai Hắc Đế tiến binh đánh thành Tống Bình (Hà Nội ngày nay). Thái thú nhàĐường
là Quách Sở Khách cùng đám thuộc hạ không chống cự lại được, phải bỏ thành chạy
về nước. Lực lượng Mai Hắc Đế lúc đó lên tới chục vạn quân.
Nhà Đường bèn huy động
10 vạn quân do tướng Dương Thừa Húc và Quách Sở Khách sang đàn áp. Quân quan
nhà Đường tiến theo đường bờ biển Đông Bắc và tấn công thành Tống Bình. Sau
nhiều trận đánh khốc liệt, từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Lam, cuối cùng
Mai Hắc Đế thất trận, thành Vạn An thất thủ, nghĩa quân tan vỡ. Không đương nổi
đội quân xâm lược, Mai Hắc Đế phải rút vào rừng, sau bị ốm rồi mất năm 1722 (có
tư liệu nói ông mất do bị rắn cắn).
Từ thời điểm đánh
chiếm Hoan Châu, lên ngôi vua, củng cố lực lượng, Mai Thúc Loan đã giải phóng
toàn bộ đất nước và giữ vững nền độc lập trong 10 năm (713-722).
Tương truyền,con trai
thứ ba của ông là Mai Thúc Huy lên ngôi Hoàng Đế tức Mai Thiếu Đế và tiếp tục
chống trả các cuộc tấn công của nhà Đường tới năm 723. Tương truyền từ sau cuộc
khởi nghĩa này, nhà Đường không bắt dân An Nam đô hộ phủ nộp cống vải quả hằng
năm nữa.
Đời sau nhớ ơn Mai Hắc
Đế, lập đền thờ ông ở trên núi Vệ Sơn và trong thung lũng Hùng Sơn. Các sắc
phong lưu ở đền gồm một loạt 7 đạo chỉ dụ của các triều đại tuyên dương công
đức, trong đó hầu hết đều xếp Ngài vào hàng “THƯỢNG ĐẲNG TỐI LINH MAI HẮC ĐẾ
THIÊN TÔN”
Ngày nay, tại địa phận
xã Vân Diên, huyện Nam Đàn, có khu di tích tưởng niệm ông. Một bài thơ chữ Hán
còn ghi trong Tiên chân báo huấn tân kinh để ở đền thờ, ca tụng công đức ông
như sau (bản dịch):
Hùng cứ châu Hoan đất
một vùng,
Vạn An thành lũy khói
hương xông,
Bốn phương Mai Đế lừng
uy đức,
Trăm trận Lý Đường
phục võ công.
Lam Thủy trăng in, tăm
ngạc lặn,
Hùng Sơn gió lặng,
khói lang không.
Đường đi cống vải từ
đây dứt,
Dân nước đời đời hưởng
phúc chung.
Tại thôn Nhu Kiều, xã
Quốc Tuấn, huyện An Hải, thành phố Hải Phòng có đền thờ 2 con của Mai Hắc Đế đã
thay cha chỉ huy chiến đấu ở mặt trận Đông – Bắc và anh dũng hy sinh, đó
là Mai Kỳ Sơn và Mai Thị Cầu. Năm 1926, vua Khải Định đã sắc phong: THƯỢNG ĐẲNG
TÔN THẦN BẠCH ĐẦU ĐẾ Mai Thị Cầu là nữ tướng.
2. Theo Mai Hắc Đế –
Truyền thuyết và lịch sử (tác giả Đinh Văn Hiến)
1- Cuộc khởi nghĩa Mai
Thúc Loan được chuẩn bị công phu và lâu dài trên cả nước.
Qua phát hiện của tác
giả từ hai bản thần phả của một ngôi đền ở Hà Nội và một ngôi đền ở Hải Phòng,
ta biết Mai Thúc Loan có vợ là Phạm Thị Uyển ở châu Đường Lâm (thị xã Sơn Tây
ngày nay), một địa điểm xa quê hương đến mươi ngày đường, nhưng lại cạnh nách
bộ máy cai trị đầu não chế độ đô hộ (đặt tại Tống Bình – Hà Nội ngày nay). Rồi
khi con là Mai Thị Cầu và Mai Kỳ Sơn, đủ tuổi ông lại cho cả hai về làm dâu,
làm rể ở Điều Yên (An Hải, Hải Phòng). Tiếp đến, khi khởi nghĩa nổ ở Hoan Châu,
thì dưới sự lãnh đạo của quan lang đạo châu Đường Lâm và là ông ngoại bà Phạm
cũng như của hai chị em Cầu, Sơn; nhân dân cả hai nơi đều phất cờ hưởng ứng.
Theo tác giả, điều đó là các chứng lý khẳng định rằng: ít ra đã hơn hai chục
năm trước khi châm ngòi khởi nghĩa, Mai Thúc Loan đã nghĩ tới và thực hiện kế
hoạch xây dựng ở Đường Lâm và Điều Yên hai căn cứ chuẩn bị cho khởi nghĩa!
2- Về mặt quân sự, Mai
Thúc Loan xứng đáng xếp vào hàng các thiên tài của đất nước.
Mai Thúc Loan vốn chỉ
là một cậu bé sớm sống côi cút, tứ cố vô thân, quanh năm làm thuê cuốc mướn,
không một ngày đến lớp; chỉ nhờ vào quyết tâm tự rèn luyện, tự học mà có sức và
giỏi vật, võ hơn người; mà am tường chữ nghĩa, biết rộng, hiểu sâu hoàn cảnh
đất nước bị đô hộ, mà thù giặc, thương dân, ủ ấp hoài bão cứu nước nhà, nòi
giống. Đã vậy, lại sống vào buổi giao thời khó khăn hồi ấy, thế mà ông lại
trường kỳ mai phục, chuẩn bị hơn 20 năm, khảo sát kỹ tình hình, xây dựng căn cứ
dựa vào nhau trên 3 địa bàn chiến lược (trong đó địa bàn Đông Bắc là nơi mà 200
năm, rồi 600 năm sau, lần lượt Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn cũng lại chọn làm căn
cứ quân sự và nhờ đó lập nên hai chiến công Bạch Đằng lịch sử). Mai Thúc Loan
đã vận động Kim Lân, Chân Lạp (Malaysia và Cambodia) cùng vài nước nữa chi viện
hơn 20 vạn quân, mở cuộc tổng tiến công quét sạch 20 vạn quan lính đô hộ nhà
Đường ra khỏi nước. Việc thành, vua Mai lại tài tình mời số quân chi viện này
quay lui. Tác giả cho rằng tới ngần ấy việc, Mai Thúc Loan xứng đáng được xếp
vào hàng các bậc thiên tài xưa nay của đất nước, ít ra thì cũng là vẻ mặt quân
sự, ngoại giao vậy.
3- Khởi nghĩa
Phùng Hưng là một phần khó tách rời của cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan.Tìm
ra mối tương quan cậu cháu ruột giữa Mai phu nhân và Phùng Hưng, liên hệ với
việc sau khi vua Mai thất bại, trên căn cứ Đường Lâm lại nổ ra cuộc khởi nghĩa
Phùng Hưng, lại liên hệ việc nhân dân Nghệ An đã lập đền thờ Phùng Hưng, tác
giả Đinh Văn Hiến đã coi cuộc khởi nghĩa Phùng Hưng là đoạn cuối của khởi nghĩa
Mai Thúc Loan và điều đó chứng tỏ ảnh hưởng cuộc khởi nghĩa này đã kéo dài đến
gần hết cả thế kỷ thứ 8.
Theo An Nam Chí lược
của Lê Tắc, tháp Bảo Thiên 11 tầng ở hồ Hoàn Kiếm là do tù binh Champa xây
dựng. Nhiều chùa ở Hà Nội như chùa Châu Lâm, quận Ba Đình có các tượng “bà
banh”, một số tượng đứng trên bệ đá có điêu khắc chim thần Garuda. N_ cả ở
Thanh Hóa, Nghệ An người Champa đã cư ngụ từ thế kỷ 7-9 để lại đi tích “nhạn
tháp” ở Nghệ An. Dọc sông và bờ biển Thanh Hóa đã tìm thấy các di tích điêu
khắc Champa. Mai Hắc Đế nổi dậy chống Trung Quốc ở thế kỷ 8 chống Trung quốc có
cha là người Champa, mẹ Việt.
4- Gia đình Mai Thúc
Loan là một gia đình anh hùng.
Trước đây ta chỉ biết
có hai nhân vật anh hùng trong gia đình vua Mai: Mai Thúc Loan chết vì bệnh
trong khi vẫn đang chỉ huy cuộc kháng chiến; con út là Mai Thúc Huy kế vị, đã
hy sinh trong chiến đấu chống Dương Tư Húc. Nay cuốn sách cho biết thêm: Trên
mặt trận phòng ngự Tống Bình chống cuộc tái xâm lăng của nhà Đường, Hoàng tử cả
và Mai Hoàng hậu đã anh dũng hy sinh trên mặt trận Duyên Hải Đông Bắc, Mai Thị
Cầu và Mai Kỳ Sơn cũng đánh đổi mạng mình nhằm cứu một số lớn nhân dân bị giặc
bắt làm con tin để chiêu hàng hai vị. Như vậy là cả gia đình vua Mai đã “vì
nước quên thân”.
Tóm lại, Mai Hắc Đế
là một vị anh hùng dân tộc. Vào thế kỷ thứ VIII, do chính sách cai trị hà
khắc, tàn bạo của các quan lại nhà Đường, ông đã đứng lên vận động nhân dân
khởi nghĩa giành độc lập về cho dân tộc. Cuộc khởi nghĩa của ông, cũng như của
Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Nam Đế trước ông và của Phùng Hưng, của cha con họ Khúc
sau ông, phản ánh ý chí quật cường, bất khuất của dân tộc ta, quyết không
chịu đem thân làm nô lệ cho ngoại bang.
Giáo sư sử học Phan
Đại Doãn trong bài giới thiệu đầu cuốn sách viết: “Đó là những câu chuyện lịch
sử (và một số truyền thuyết được lịch sử hóa) phản ánh một vòng hào quang đẹp
đẽ, lâu bền của cuộc khởi nghĩa Mai Thúc Loan còn đến ngày nay, mà chúng ta có
nhiệm vụ phát huy mọi giá trị văn hóa, tinh thần của nó…”.
3. Khu mộ, đền thờ và
lễ hội Mai Thúc Loan
- Khu mộ họ Mai nằm ở
Núi Đụn, xã Vân Diên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An
- Đền thờ Mai Thúc
Loan và người con trai kế nghiệp là Mai Thúc Huy nằm ven chân đê 42, thuộc khối
Mai Hắc Đế, thị trấn Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Lễ hội vua Mai diễn
ra trong 4 ngày:13-14-15-16 tháng 01 âm lịch hàng năm tại thị trấn Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An.
Ngày 13 tháng 01: Lễ
khai Quang tại khu mộ, đền thờ và mộ thân mẫu của vua Mai.
Ngày 14 tháng 01: Lễ
yết cáo tại khu mộ, đền thờ và mộ thân mẫu của Vua Mai.
Lăng mộ Mai Hắc Đế
Ngày 15 tháng 01: Đại
tế. Buổi sáng các làng trong vùng rước kiệu về đền vua Mai để hội tế theo nghi
lễ của triều đình.
Buổi chiều là lễ dâng
hương tại mộ và lễ tạ tại đền.Trong lễ hội ngoài các nghi lễ, phần hội là các
trò chơi dân gian như đấu vật, đua thuyền, hát văn, hát đối, hát ví, đánh đu,
leo cột mỡ, đi cầu kiều, cướp cờ, đánh cờ… Trong đó đua thuyền là trò độc đáo nhất.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét