Thành Đồ bàn cũng thôi
không nức nở
Trong sương mờ huyền
ảo lắng tai nghe
Từ một làng xa xôi bao
tiếng mõ
Tan dần trong yên lặng
của đồng quê…
(Điêu Tàn-Chế lan
Viên)
Còn đâu nữa những ngày
vàng son của Đồ Bàn đô cũ và còn đâu nữa những cảnh rộn rịp voi, ngựa xe? Tất
cả đều trôi vào quá khứ xa vời!
Ngày nay, du khách đến
thăm thành cổ Đồ bàn chứng kiến tận mắt cảnh tang thương dâu bể không khỏi
chạnh lòng hoài cổ, tiếc thương cho một triều đại đã lùi vào dĩ vãng xa xăm.
Thành Đồ Bàn không còn
nữa nhưng qua các di tích và sử liệu ghi chép, du khách có thể tìm lại hình ảnh
thời xa xưa.Thành cổ Đồ Bàn nằm ở phía bắc TX An Nhơn, tỉnh Bình Định, tọa lạc
trên đất các thôn Nam Tân, Bắc Thuận và Bá Canh của xã Nhơn Hậu và cách thành
phố Quy Nhơn 27 km về hướng bắc Thành do
Chiêm vương Ngô Nhật Hoan đứng ra xây dựng, kiến trúc thật kiên cố. Bên trong
có dựng tháp Bảo chướng, bên ngoài có dãy đồi Kim Sơn án ngữ mặt tây, có núi
Long Cốt làm tiền án và gò Thập Tháp yểm hậu.
Khảo cổ lần 5 Đồ Bàn- Thành hoàng
đế: Nhằm sưu tầm tài liệu góp phần làm cơ sở cho việc phục hồi , trùng tu, tôn
tạo thành Hoàng Đế - Kinh Đô của Hoàng Đế Nguyễn Nhạc, lãnh tụ phong trào nông
dân Tây Sơn, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Bảo tàng tổng hợp Bình Định
khai quật khảo cổ thành Hoàng Đế lần thứ nhất tháng 9-2004 ,lần thứ hai tháng
6-2005,thứ 3 năm 2006 và thứ 4 năm 2007 đã xác định một số kiến trúc cung
đình độc đáo của kinh đô Hoàng Đế nhà Tây Sơn như nền móng cung điện lầu Bát
giác, các thủy hồ, đàn Nam Giao… Với diện tích hơn 300m2 qua 2 đợt khai
quật, diện mạo kiến trúc thành Hoàng Đế dã được khảo cổ học phát lộ ngày một rõ
nét hơn
Thành Hoành Đế qua thư
tịch cổ:
Theo tài liệu lịch sử
để lại cho biết thành Hoàng Đế vốn trước đây là kinh đô của dân tộc Champa (thế
kỷ XI-XV) và có nhiều tên gọi khác nhau:thành vijaya, Phật Thệ, Chà Bàn, Đồ
Bàn... Năm1471, Lê Thánh Tôn cất đại quân hơn 250.000 người sang đánh
Champa, trong đó 100.000 đi bằng đường thủy, 150.000 đi bằng đường bộ. Đại quân
nhà Lê chiếm cửa Thị Nại rồi tiến về Đồ Bàn.Vua Trà Toàn sai em là Po Kaprih
dẫn đội tượng binh gồm 5.000 người ra đối chọi nhưng bị đánh bại,Vua Trà Toàn
rút vào cố thủ thành Đồ Bàn.
Thành Vijaya thất thủ
vào ngày 2 tháng 3 năm 1471 sau bốn ngày giao tranh. Vua Champa là Trà Toàn bị
bắt sống và tự sát trên đường chở về Thăng Long.(05/03/ Al) Trong cuộc
tiếp kiến, Vua Trà Toàn xin vua Lê chỉ làm tội một mình ông và tha cho người
dân Champa. Trên đường về tới Nghệ An, Trà Toàn tự tử chết. Lê Thánh Tôn sai
cắt đầu Vua Trà Toàn treo ở đầu thuyền và cho khắc chữ "Cổ Chiêm Thành
ngươn ác Trà Toàn chi thủ". Ít nhất hơn 60.000 người Champa bị giết
và 30.000 bị bắt làm nô tỳ cho quân Đại Việt. Kinh thành Vijaya bị phá hủy hoàn
toàn, người dân bị tàn sát vô tội vạ, trong đó có 10 ngôi tháp này bị phá
hủy.Đây là cuộc tàn sát đẫm máu nhất của đại việt đối với champa. Hoàng tộc
champa chạy sang malacca( khoảng 20.000 trốn thoát bằng thuyền qua cửa đầm thi
nại, trong đó có con vua trà toàn là Indravarman và bàn la trà
ko lai(Pau liang). Sau cuộc chính biến lịch sử này rất nhiều người
di cư chính trị Champa đã đến các vùng đất Mã Lai an bình , một số khác thì tới
Melaka . Cũng trong đoàn người di cư đó là hai hoàng tử con vua Champa Trà Toàn
, đó là Indravarman và Pau Liang như đã nói ở trên. Bằng chứng được
tìm thấy chứng minh sự gắn kết lịch sử giữa Champa và Mã Lai là Al-kisah 29
trong đó đã kể lại câu chuyện về một người Nakhoda Champa có tên là Sayyid
Ahmad đã làm bạn cùng Hang Tuah( một anh hùng rất nổi tiếng trong lịch sử Mã
Lai) và cùng đến Inderapura (Pahang_Malaysia) để trốn Tun Teja đến Melaka. Sức
mạnh Champa được chứng minh là lớn hơn cả vùng Pahang sau khi được giúp đỡ của
người anh hùng Melaka trốn khỏi Tun Teja. sự có mặt của Nakhoda Champa tại
Melaka và Pahang này lại được chứng minh bằng một cơ sở chắc chắn sau khi tìm
được trong Al-kisah ke-34 nói về cuộc hôn nhân giữa một công chúa thuộc dòng
tộc Champa với một quy tộc ở Melaka.( theo Sejarah
Melayu Champa +Ban La Tra Toan memerintah di ibu kota Sri Vini (Sri Raja Than
Ton). Setelah Kota Vijaya jatuh. Raja Champa pun mati terbunuh. Dengan
kejatuhanibu ota Vijaya ini ramai pelarian politik Cham yang menuju ke daerah
Melayu yang selamatk, antara lain ke Melaka. Yang termasuk dalam
pelarian itu ialah dua orang putera raja Champa, iaitu Indravarman dan Pau
Liang di atas. Gambaran Sejarah Melayu tentang Champa terdapat dalam Al-Kisah
ke29 yang menceritakan seorang Nakhoda Champa yang bernama Sayyid Ahmad
bersahabat dengan Hang Tuah pergi ke Inderapura (Pahang) untuk melarikan Tun
Teja Ke Melaka. Kekuatan Champa berdasarkan fakta jelas lebih besar daripada
perahu Pahang hingga dapat menolong pahlawan Melaka itu melarikan Tun Teja.
Kehadiran tokoh Nakhoda Champa di Melaka dan di Pahang dapat dihubungkan pula
dengan wujudnya pedagang Champa di Banten seperti yang diceritakan oleh Sejarah
Melayu dalam Al-Kisah ke-34 menceritakan perkahwinan seorang puteri keturunan
Champa dengan anak seorang pembesar Melaka.)khoảng 30000 người chạy
sang lào và campuchia sau cuộc tàn sát đẫm máu này.Lê Thánh Tôn giải tán vương
quốc Champa. Thủ đô chính trị, hành chánh và tín ngưỡng của vương quốc Bắc
Champa .Vijaya bị đổi thành Đồ Bàn và cấm người Champa đến cư ngụ.Cũng chính
nơi đây xảy ra cuộc thanh trừng đẫm máu nhất của Nguyễn ánh với cuộc khởi nghĩa
tây sơn.Thế
kỷ XV (1472), sau khi tàn phá vijaya champa,lê thánh tông sát nhập vào Đại Việt
thuộc đạo Thừa Tuyên Quảng Nam. Đơn vị hành chính Quảng Nam Thừa Tuyên thống
lĩnh 3 phủ 9 huyện trị sở đặt tại thành Châu Sa (Quảng Ngãi), thành Chà Bàn
thuộc huyện Tuy Viễn, phủ Hoài Nhơn.
Theo Lịch triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú cho biết “Trong phủ có thành Đồ Bàn, là nơi
vua cũ nước Chiêm ở đó, lộng lẫy kiên cố nay dấu cũ hãy còn”. Theo Thiên nam tứ
chi lộ đồ thư “xã Phú Đa xưa có thành xây bằng gạch gọi là thành Đồ Bàn. Thành
vuông mỗi bề dài một dặm. Có 4 cửa. Trong thành có điện, có tháp. Điện đã bị
đổ, tháp còn lại 2 tòa gọi là tháp con gái’’. Sách Hoàng Việt địa chí chép rằng
‘’Phú Đa gia có lẽ là phiên âm của tiếng chăm Vijaya, huyện Tuy Viễn, trong
thành có 35 toà tháp’’. Sách Đại nam nhất thống chí mô tả ‘’Thành cũ Chà Bàn ở
địa phận 3 thôn: Nam Định, Bắc Thuận và Bả Canh về phía đông huyện Tuy Viễn,
xưa là quốc đô của Champa, chu vi 30 dặm trong thành có tháp cổ, có nghế đá,
voi đá đều là của người Champa’’...
Tường thành Vijaya Champa
Cuối thế kỷ XVIII,
phong trào khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, sau khi đánh chiếm phủ thành Quy Nhơn,
nhận thấy vị trí chiến lược của tòa thành, nhà Tây Sơn đã tôn tạo sử dụng lại
làm đại bản doanh của mình và trở thành kinh đô của vương triều đầu tiên nhà Tây
Sơn. Theo Đồ Bàn thành ký của Nguyễn Văn Hiển “... Đồ Bàn có từ lâu đời, khắc
phục tự nhà Trần, bị phá vỡ tự đời nhà Lê. Khôi phục được từ nhà Tây Sơn, sau
dần dần phá bỏ mà nay nền cũ vẫn còn... Niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 37, nhà Tây
Sơn Nguyễn Nhạc năm thứ 4 bèn nhân nơi đó mà đóng đô, mở rộng cửa đông kéo dài
tới 15 dặm, tường thành được đắp cao rồi xây bằng đá ong, bề cao tới 1 trượng 4
thước, bề đày 2 trượng, mở thêm 1 cửa thành ra 5 cửa, riêng phía trước có hai
cửa, bên tả là cửa Tân Khai, bên hữu là cửa Vệ Môn... phía tây thành có đắp con
đê Đỉnh Nhĩ để phòng nước lụt, phía Tây Nam có đàn Nam Giao để tế trời đất, bên
trong thành xây thêm bức thành nhỏ, chính giữa dựng điện bát giác... phía sau
là điện Chánh Tẩm, hai bên dựng hai nhà thờ, bên tả thờ tổ tiên ông Nhạc, bên
hữu thờ tổ tiên bà Nhạc, trước lầu có cung Quyền Bỗng, hai bên có hai dãy hành
lang là nơi làm việc, trước cửa cung có mở cửa tam quan... bên trong thành thì
có nghê đá, voi đá... Ông Nhạc lên ngôi ở thành đó 12 năm”. Sách Lê Quí Dật sử
cho biết ‘’Nguyễn Nhạc nhân đất cũ của Chiêm Thành, sửa đắp thành Đồ Bàn, đào
lấy đá ong xây thành lũy, mở rộng cung điện...” Đại nam nhất thống chí
viết “Tây Sơn Nguyễn Nhạc chiếm cứ thành này, nhân nền cũ xây đá ong tiếm
xưng là thành Hoàng Đế...’’
Thành Hoàng Đế trong
lịch sử:
Thành Hoàng Đế tọa lạc
trên một vùng gò đồi nay thuộc xã Nhơn Hậu và thị trấn Đập Đá thị xã An Nhơn
tỉnh Bình Định.Theo quốc lộ 1 từ Qui Nhơn ra 20km,qua thị trấn đến thôn Bả
Canh,theo đường huyền trân công chúa, đi qua tháp cánh tiên và đi tiếp khoảng 1km
thì tới.với cấu trúc 3 lớp thành. Thành ngoại hình chữ nhật, chu vi 7.400m,
thành nội chu vi 1.600m, Tử Cấm thành chu vi 600m. Đây là toà thành giữ vai trò
quan trọng trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, nơi đóng đại bản doanh làm bàn đạp từ
đây đánh Nam diệt Bắc. Đây cũng chính là Kinh Đô của chính quyền Trung ương
Hoàng Đế Nguyễn Nhạc. Năm 1776, Nguyễn Nhạc cho xây dựng lại toà thành cổ này,
đến năm 1802 toà thành mất vai trò lịch sử thì nơi đây có bề đày 25 năm giữ vai
trò trọng yếu trong đó có 16 năm là Kinh Đô của Vương triều Trung ương Hoàng Đế
Nguyễn Nhạc (1778-1793). Năm 1799, nhà Nguyễn đánh chiếm thành Hoàng Đế, đổi
tên là thành Bình Định để Chưởng hậu quân Võ Tánh và Lễ bộ thượng thư Ngô Tùng
Châu trấn thủ. Năm 1800, nghĩa quân Tây Sơn vây thành, năm 1801 Võ Tánh và Ngô
Tùng Châu tự vẫn. Năm 1802, quân Tây Sơn bỏ thành ra Bắc. Khi Gia Long lên
ngôi, nơi đây trở thành dinh Bình Định rồi trấn Bình Định. Năm 1813, dỡ bỏ,
triệt hạ các cung điện cũ, lấy vật liệu xây dựng thành mới mang tên thành Bình
Định tại thị trấn Bình Định ngày nay. Khu vực lầu Bát Giác được xây dựng miếu
Song Trung. Từ ấy thành Hoàng Đế chỉ còn trơ một dãy gò đá, gạch ngổn ngang và
lầu Bát Giác thờ Võ Tánh, Ngô Tùng Châu.
Diện mạo kiến trúc
thành Hoàng Đế qua tư liệu khảo cổ:
Kết quả khai quật năm
2004, tìm thấy một công trình kiến trúc văn hoá-thủy hồ hình vành trăng khuyết
dài 17m, rộng 10m còn khá nguyên vẹn, được xây bằng vôi, tường lòng hồ gắn đá,
san hô trang trí, và nền móng một kiến trúc, theo sử liệu ghi chép có khả năng
nơi đây là dấu tích đền thờ tổ của vua Thái Đức.
Kết quả khai quật năm
2005, phát hiện thêm một hồ bán nguyệt phía đông Tử Cấm Thành, xây đăng đối với
hồ bán nguyệt tìm thấy năm 2004, một thủy hồ hình ‘’lá đề ‘’ dài 6m rộng 3m.
Khai quật lần này còn làm lộ rõ một cạnh phía Tây Nam của điện Bát Giác - nơi
thiết triều của Hoàng Đế Thái Đức. Nền điện, hành lang được bó bằng đá sa thạch
(tận dụng đá của Cham pa), và lát gạch vuông khổ 36cm. Chiều dài cạnh nền điện
Bát Giác 7m3, chiều dài cạnh hành lang điện là 8m2, trên hành lang có bốn lỗ
cột tròn âm xuống nền gạch.
Bên cạnh số lượng lớn
vật liệu kiến trúc tìm thấy ở hố khai quật như gạch Chàm, gạch Việt, ngói âm
dương nhiều loại cỡ còn có một số loại hình khác như tiền xu, đạn chì, đạn đá,
vật trang trí bằng đá....
Theo tiến sĩ Lê Đình
Phụng (cán bộ Viện khảo cổ) chủ trì hai cuộc khai quật cho biết: Thành Hoàng Đế
là công trình kiến trúc duy nhất thời Tây Sơn còn lại, di tích được xây dựng
đan xen qua nhiều giai đoạn lịch sử. Do vậy, việc khai quật khảo cổ bóc tách
kiến trúc từng thời kỳ là việc làm cần thiết để tiến hành hội thảo, phục dựng,
trùng tu, tôn tạo.
Lâu nay chúng ta chỉ
hình dung một kinh thành Hoàng Đế Thái Đức qua khảo tả của tác giả Đồ Bàn Thành
ký Nguyễn Văn Hiển, bởi vì tất cả những kiến trúc của Tây Sơn đều bị triệt hạ
và chôn vùi. Do vậy, việc hiểu biết thành Hoàng Đế còn rất hạn chế. Với hai đợt
khai quật hơn 300m2 là chưa đủ và hiện vật thu được còn quá ít. Thế nhưng kết
quả khai quật cho chúng ta một phần diện mạo về kiến trúc cung đình của Thành
Hoàng Đế.
Hy vọng trong một
tương lai không xa Khảo cổ học sẽ dựng lại mặt bằng kinh thành của một vương
triều có công lớn với dân tộc: Thống nhất đất nước sau hơn hai thế kỷ chia
cắt.
Vừa qua, Viện Khảo cổ học Việt Nam phối hợp với Sở
VHTT&DL tỉnh Bình Định tiếp tục khai quật lần thứ 5 thành Hoàng Đế (xã Nhơn
Hậu, thị xã An Nhơn, Bình Định).
Đợt khai quật này, Đoàn khảo cổ sẽ tiến hành khai quật
trong diện tích 900 m2, nằm trong khuôn viên thành nội của thành Hoàng Đế.
Trong đó, tập trung ở 3 hố, 1 hố nhằm khảo sát thủy hồ trong Tử thành (nhiều
người gọi là Tử cấm thành) của nhà Tây Sơn, 2 hố còn lại nhằm khảo sát, xác
định nền móng Tử thành. Kết quả khai quật sẽ là thông tin cần thiết cho việc
công việc phục hồi, trùng tu thành Hoàng Đế trong thời gian tới.
Phát
hiện nhiều dấu tích mới trong thành Hoàng Đế
Bờ
thành Hoàng Đế được xây lại bằng đá ong trong thành
TS Lê Đình Phụng, Viện
Khảo cổ học Việt Nam, người phụ trách khai quật, cho biết: “Tử thành (Tử cấm
thành) nhà Tây Sơn được xác định là kiểu kiến trúc cung đình nên việc xây dựng
phải tuân thủ theo quy luật cân đối. Vì vậy, khi phát hiện ra thủy hồ ở phía
tây thành (còn gọi là hồ bán nguyệt) nơi dành cho các phi tần, cung nữ tắm rửa,
thì nhất định phải có thủy hồ ở phía đông. Nên khi tiến hành khai quật ở phía
đông, đoàn tiếp tục phát hiện ra thủy hồ giống với thủy hồ ở phía tây. Còn hai
hố còn lại đã phát hiện ra bờ móng, công trình kiến trúc của thành nội thành
Hoàng Đế còn giữ lại được chia làm 2 phần: Hoàng cung, nơi triều đình hội họp,
các vị lãnh đạo nhà Tây Sơn làm việc và phần phía sau hoàng cung là nơi sinh
hoạt, ăn ở của tư gia Hoàng đế Nguyễn Nhạc, nơi mà nhân dân địa phương thường
gọi là nền cung cũ hay nền hậu cung”.
Hồ
bán nguyệt phía tây được phát hiện trước đó
Hồ
bán nguyệt, nơi để các phi tần, cung nữ tắm mới được phát hiện ở phía đông
TS Lê Đình Phụng cho biết thêm: “Cuộc khai quật nhằm xác
định không gian Tử cấm thành gồm quy mô, mặt bằng cùng các công trình kiến trúc
thành nội của thành Hoàng Đế; tìm dấu vết để phục vụ cho công tác trùng tu,
phục hồi thành Hoàng Đế dựa trên những cứ liệu có cơ sở khoa học vững chắc”.thành Hoàng Đế có cấu trúc ba lớp gồm: Thành
Ngoại, thành Nội, Tử Cấm thành. Những lần khai quật trước, các nhà khảo cổ học
phát hiện trong khuôn viên Tử Cấm thành có nhiều tượng nghê đá, sư tử và hồ Bán
Nguyệt, hồ Trái Tim…
Tuy nhiên, việc phát hiện thêm nhiều dấu tích lịch sử
nhưng để tiếp tục trùng tu, phục hồi thì cần có thêm những chứng cứ khoa học
thuyết phục của khảo cổ học về các công trình kiến trúc cung đình Hoàng Đế. Bởi
hiện nay, không gian Tử cấm thành và cấu trúc các vòng thành vẫn còn có những ý
kiến trái chiều nhau.
Bờ
móng hoàng thành
Theo một số tài liệu
lịch sử ghi lại, tại vị trí thành Hoàng Đế hiện nay, từng tồn tại 2 vương triều
của 2 tộc người khác nhau, sống cách hơn 300 năm với tên gọi.Đồ Bàn
(Champa), Hoàng Đế (Tây Sơn).Tuy nhiên, kinh đô Đồ Bàn - Vijaya tồn tại thời
gian gần V thế kỷ (XI - XV),liên tục bị chiến tranh tàn phá rồi lại được xây
dựng, tu bổ phục hồi ở nhiều thời điểm khác nhau nên dấu tích không còn nhiều.
Hệ
thống ống dẫn nước trong thành Hoàng Đế xưa
Năm 1776, Nguyễn Nhạc, cho quân sửa lại thành Đồ Bàn làm
đại bản doanh của quân khởi nghĩa, sau đó xây dựng thành kinh đô nhà Tây Sơn.
Từ năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế đặt kinh đô tại Phú Xuân, kinh đô
Hoàng Đế chỉ còn trên danh nghĩa. Năm 1793, vua Cảnh Thịnh tiến chiếm thành
Hoàng Đế. Năm 1801 thành Hoàng Đế đã thuộc về Nguyễn Ánh do tướng Võ Tánh đóng
quân sau khi chiếm được thành từ quân Tây Sơn.
Sau khi chiếm được thành Hoàng Đế, Nguyễn Ánh đã đổi tên
là thành Bình Định. Tới năm 1814 ông cho chuyển thủ phủ từ thành Hoàng Đế về vị
trí là thành Bình Định sau này, nằm cách thành hoàng đế khoảng 3km về hướng
đông bắc làm thủ phủ trị sự của vùng Quy Nhơn-Bình Định.
Một số hiện vật thu được trong đợt khai quật
Sau 2 tháng khai quật tại di tích Thành Hoàng đế (thị xã An Nhơn, Bình Định), đoàn Khảo cổ phát hiện thêm nhiều hiện vật có giá trị như đồ sứ men đơn sắc, đồ sành, đồ đất nung Champa lọ nhỏ, bình tì bà miệng loe, vò, chậu, nồi…Ngày 22/11, Trung tâm Khảo cổ học thuộc Viện Khoa học xã hội Vùng Nam bộ và Ban Quản lý di tích Bình Định công bố kết quả khai quật di tích thành Hoàng Đế.
Theo đó, sau hai tháng khai quật từ tháng 7 đến tháng 9, trên diện tích
500 m2, tại khu vực phía đông Tử Cấm thành, vị trí được tỉnh Bình Định
dự kiến xây dựng đền thờ vua Thái Đức Nguyễn Nhạc.
Kết quả, đoàn phát hiện thêm nhiều hiện vật như đồ sứ men đơn sắc, đồ
sành, đồ đất nung Champa gồm lọ nhỏ, bình tì bà miệng loe, vò…; sứ trắng
men lam Trung Hoa, cả ngự dụng lần dân dụng: chén, đĩa, cốc, nồi… hoa
văn trang trí từ phức tạp đến giản đơn, niên đại khoảng TK XVI – TK XVII
và đồ sành, đất nung thời Tây Sơn – Nguyễn như nắp, đĩa đèn…
Theo PGS TS Bùi Chí Hoàng - Viện Khoa học xã hội Vùng Nam bộ cho biết,
kết quả khai quật từ 27 hố thám sát không chỉ làm phong phú thêm kho
hiện vật đã có từ thành Hoàng Đế mà còn cho thấy sự mất mát không nhỏ
của dấu vết văn hóa Tây Sơn và nhà Nguyễn. Đây có thể là hậu quả của
những biến cố khốc liệt do sự đối kháng giữa hai vương triều.
Nay là thôn châu thành-f. nhơn thành-thị xã An nhơn-
t.Bình định (cách tháp phú lốc 200m)
Qui nhơn 06/11/2012
Thanh trà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét