Nói tới công chúa đời Trần người ta thường liên tưởng ngay
đến Huyền Trân công chúa do Thượng hoàng Nhân Tôn trong một
chuyến đi thăm Chiêm Thành đã hứa gả cho quốc vương Chế
Mân để kết mối giao hảo giữa hai nước; thứ nữa, người
ta nghĩ đến An Tư công chúa gả cho Thoát Hoan để mong hoà
giải với quân Nguyên; nàng công chúa thứ ba đời Trần còn
được nhắc nhở tới là Thiên Ninh công chúa vì có dính liếu
tới một vụ loạn dâm với em ruột.
Trong Việt Sử
Tiêu Án, Ngô Thì Sĩ đã chê trách nhà Trần về hai điểm
:
Dù ở Âu hay Á,
xưa hay nay, thì phụ nữ vẫn thường được dùng làm "vật
hi sinh" trên bàn thờ tổ quốc. Riêng đời Trần không phải
chỉ Huyền Trân hay An Tư công chúa mới được đem ra làm
vật đổi chác. Theo thứ tự ta phải kể :
1) Năm 1228, gả
Ngoạn Thiềm công chúa - em vua Thánh Tôn, con Thái Tôn - cho
Nguyễn Nộn. Nộn là cư sĩ chùa Phù Đổng, vì bắt được
vàng ngọc không dâng lên triều đình nên vua hạ chiếu bắt
giam. Tự Khánh, anh thứ hai của Linh Từ quốc mẫu - mẹ Lý
Chiêu Hoàng - xin cho Nộn được đánh giặc chuộc tội, vua
sai đi đánh dẹp người Mán ở Quảng Oai. Nộn chiếm cứ
vùng Bắc Giang, Đoàn Thượng chiếm vùng châu Hồng (Hải Dương).
Nộn giết Đoàn Thượng, chiếm quân và cướp của châu Hồng,
thanh thế lừng lẫy. Thủ Độ lo lắng, một mặt sắc phong
cho Nộn làm Hoài đạo Hiếu vũ vương, một mặt gả Ngoạn
Thiềm cho để ngầm dò la tin tức. Nộn biết ý, dọn cho công
chúa ở riêng một nơi nên công chúa không làm gì được cả.
2) Năm 1286, tướng
Nguyên là Ô Mã Nhi đánh rất gấp, quân ta tan vỡ, bọn Trần
Kiện, Lê Tắc(1) đem cả nhà đầu hàng quân Nguyên.
Triều đình phải sai người đưa công chúa An Tư - em gái út
của Thánh Tôn - đến cho Thoát Hoan để xoa dịu.
3) Chế Mân, dựa
vào lời hứa của Thượng hoàng Nhân Tôn, dâng kỳ hương
cùng báu vật xin cưới Huyền Trân. Triều đình chỉ có hai
người bàn nên gả là Trần Khắc Chung và Văn Đạo Tái, con
Trần Quang Khải. Sau Chế Mân dâng thêm hai châu Ô, Lý, vua
Anh Tôn mới quyết định. Tháng 6 năm 1306, vua Anh Tôn gả em
gái là Huyền Trân cho Chế Mân. Tháng 5 năm 1307 Chế Mân chết,
theo tục lệ Chiêm Thành thì Hoàng Hậu phải lên dàn hỏa
thiêu chết theo. Tháng 10, vua sai Trần Khắc Chung sang điếu
tang và tìm cách đem Huyền Trân cùng Thế tử Đa Gia, con Chế
Mân, về. Sử chép trên đường về Trần Khắc Chung và công
chúa Huyền Trân tư thông với nhau loanh quanh mãi trên biển
đến tận tháng 8 năm 1308 mới cập bến(2).
4) Năm 1363, Minh
Tôn gả Nguyệt Sơn công chúa cho Ngô Dẫn vì Dẫn có viên
ngọc rất lớn, bán được nhiều tiền, trở nên giầu có.
Dẫn cậy giầu, tư thông với người khác, khinh khi công chúa.
Công chúa tâu lên, Dẫn được miễn tội chết nhưng gia sản
bị tịch thu.
Ngô Thì Sĩ viết
:"Nhà Trần quen làm lối này, cốt được lợi trông thấy,
đem má phấn đánh đổi lấy tràng thành, gả Ngoạm Thiềm
cho Nguyễn Nộn, An Tư cho Thoát Hoan đều lối ấy cả"(3).
Ngô Sĩ Liên cũng
chê trách : "Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi mệnh
có khó gì mà đem gả cho người xa, không phải giống nòi,
cho đúng lời hẹn trước rồi sau dùng mưu gian trá cướp
lại thế thì tín ở đâu(4) ? ". Phê bình như thế
e có hơi khe khắt. Trước hết, khi gả Huyền Trân, vua Anh
Tôn không thể biết trước năm sau Chế Mân sẽ chết, việc
dùng mưu đón Huyền Trân về để tránh cho công chúa khỏi
bị hỏa thiêu không thể coi là " gian trá" đánh lừa lấy
được thành rồi thì cướp người về như một vài người
đã trách cứ. Còn " đổi mệnh " không gả, theo lời bàn của
Ngô Sĩ Liên, thì cũng không phải là thủ tín.
Chẳng qua các sử
gia ghét nhà Trần về tội loạn luân nên thấy cái gì nhà
Trần làm cũng đáng chê trách. Ở nước ta, dùng " mỹ nhân
kế " nào phải chỉ nhà Trần ? Sử chép rõ ràng về nhà Lý
:
1) Năm 1029, gả
Bình Dương công chúa cho châu mục lang là Thân Thiệu Thái.
2) Năm 1036, Lý Thái
Tôn, sợ khó khống chế các tù trưởng quản lĩnh các châu
miền thượng du, kết mối giao hảo bằng hôn nhân, gả công
chúa Kim Thành cho châu mục Phong Châu là Lê Tông Thuận, gả
công chúa Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà Thiên
Lãm.
- Năm 1082, gả Khâm Thánh công chúa cho châu mục Vị Long là Hà Di Khánh.
- Năm 1126, đem Diên Bình công chúa gả cho Dương Tự Minh là thủ lĩnh phủ Phú Lương.
- Năm 1144, lại gả công chúa Thiều Dung cho Dương Tự Minh lúc này cai quản các khe động dọc theo biên giới đường bộ và phong Minh làm Phò mã lang.
Thế là một mình
Dương Tự Minh được cưới tới hai nàng công chúa và nhà
Lý đã dùng tới 5 công chúa làm " vật hi sinh ", nhà Trần
4. Sử nhà Lê tuy không ghi chép tỉ mỉ về các công chúa như
nhà Trần, nhưng cũng cho biết năm 1706 đem người tông nữ,
lấy danh nghĩa quận chúa gả cho tù trưởng Triều Phúc người
Ai Lao. Ngô Thì Sĩ đã viết sử lẽ nào không biết những
chuyện này ?
Quả thật đời
Trần người trong họ lấy lẫn nhau rất nhiều. Sử chép :
1) Trần Liễu, anh
Thái Tôn, con Thượng hoàng Trần Thừa, lấy Thuận Thiên công
chúa, con vua Lý Huệ Tôn và Thuận Trinh. Thuận Trinh là em ruột
Trần Thừa, Trần Liễu và Thuận Thiên là con cô con cậu.
2) Năm 1225, Trần
Cảnh, tức Thái Tôn, lấy Chiêu Hoàng, em Thuận Thiên.
3) Sau khi Lý Huệ
Tôn chết, giáng Huệ hậu làm Thiên Cực công chúa, gả cho
Thủ Độ tức là chị em họ lấy nhau. Hai người vốn đã
có tư tình với nhau từ trước.
4) Năm 1237, vì Chiêu
Hoàng không có con, Thủ Độ ép Thái Tôn lấy Thuận Thiên,
lúc ấy đã có mang ba tháng với Trần Liễu. Trường hợp
này vừa là con cô con cậu lấy nhau, vừa là em chồng lấy
chị dâu.
5) Vua Thái Tôn hứa
gả em gái là Trưởng công chúa Thiên Thành(5) cho
Trung Thành vương(6) và đã cho Thiên Thành tới ở
nhà Nhân Đạo vương, là cha đẻ ra Trung Thành vương, để
chờ ngày cưới.
6) Năm 1251, Hưng
Đạo vương muốn lấy Thiên Thành, đang đêm lẻn vào phòng
Thiên Thành thông dâm. Thụy Bà Trưởng công chúa, chị Thái
Tôn và Thiên Thành, mẹ nuôi Hưng Đạo vương, đang đêm gõ
cửa cung nói dối là Hưng Đạo vương đã bị Nhân Đạo vương
bắt giam, xin vua cứu giúp. Sự thật, khi vua sai người tới
thì Hưng Đạo vương còn trong phòng Thiên Thành và lúc ấy
Nhân Đạo vương mới biết. Hôm sau Thụy Bà phải dâng mười
mâm vàng sống xin cưới Thiên Thành cho Hưng Đạo. Vua bất
đắc dĩ phải gả và bồi thường cho Trung Thàng vương. Như
vậy Thiên Thành có họ với Trung Thành vương, lại là cô
ruột Hưng Đạo, vì Hưng Đạo là con Trần Liễu, anh ruột
Thiên Thành.
7) Năm 1258, Thánh
Tôn lấy Thiên Cảm là con Trần Liễu, tức là con chú con bác
lấy nhau.
8) Thụy Bảo công
chúa, con vua Thái Tôn, lấy Uy Văn vương Toại.
9) Gả công chúa
tên Thúy, con Thái Tôn cho Thượng vị Văn Hưng hầu(7).
10) Thiên Thụy công
chúa, con vua Thánh Tôn và Thiên Cảm, tức cháu nội Thái Tôn
và cháu ngoại Trần Liễu, lấy Hưng Vũ vương Quốc Nghiễn,
là con Hưng Đạo, cháu nội Trần Liễu, vừa là con cô con
cậu (Hưng Đạo và Thiên Cảm là con Trần Liễu) vừa là cháu
chú cháu bác lấy nhau.
11) Thiên Thụy lại
tư thông với Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư là tôn thất
nhà Trần, nhờ có công đánh quân Nguyên được Thượng hoàng
Thánh Tôn nhận làm con nuôi.
12 & 13) Năm 1274,
Nhân Tôn, con Thánh Tôn, lấy Bảo Thánh, rồi Tuyên Từ, đều
là con Hưng Đạo vương. Trường hợp này giống Thiên Thụy
lấy Quốc Nghiễn.
14) Anh Tôn, con Nhân
Tôn, cháu Thánh Tôn, chắt Thái Tôn, lấy Văn Đức phu nhân
năm 1292, là con Hưng Ngượng vương Quốc Tảng, cháu nội Hưng
Đạo, chắt Trần Liễu. Thế là cháu cô cháu cậu (Hưng Đạo
và Thiên Cảm là con Trần Liễu) hay chắt chú chắt bác lấy
nhau.
15) Sau Anh Tôn lại
bỏ Văn Đức phu nhân mà lấy em ruột phu nhân là Thánh Tư.
16) Anh Tôn lấy
Huy Tư là con Thụy Bảo công chúa và Trần Bình Trọng. Thụy
Bảo là em Thánh Tôn, Anh Tôn là cháu nội Thánh Tôn, tức cháu
lấy cô.
17) Năm 1301, Thiên
Trân công chúa, con Anh Tôn, Anh Tôn là con Nhân Tôn, cháu Thánh
Tôn, lấy Uy Túc công Văn Bích, cháu nội Trần Quang Khải.
Quang Khải và Thánh Tôn là anh em, tức cháu chú cháu bác lấy
nhau.
18) Thiên Trân chết,
Uy Túc lại lấy Huy Thánh công chúa.
19) Thượng Trân
công chúa, em Anh Tôn, chắt Thái Tôn lấy Văn Huệ công Quang
Triều, con Quốc Tảng, cháu Hưng Đạo, chắt Trần Liễu, tức
chắt chú chắt bác lấy nhau.
20) Minh Tôn, con
Anh Tôn, cháu Nhân Tôn, lấy Huy Thánh tức Lệ Thánh, con gái
lớn Huệ Vũ vương Quốc Chẩn / Trẩn. Trẩn là em Anh Tôn
: Con chú con bác lấy nhau.
21) Minh Tôn gả
Huy Chân, con Nhân Tôn, cho Uy Giản hầu năm 1317.
22) Mẹ Huy Chân
là Trần Thị Thái Bình, cung tần của Thượng hoàng Anh Tôn.
23) Năm 1318 Minh
Tôn gả Thiên Chân Trưởng công chúa cho Huệ Chính vương.
24) Năm 1337 Hiến
Tôn, con Minh Tôn, lấy Hiển Trinh, con gái lớn Huệ Túc vương
Đại Niên.
25) Năm 1342, Thiên
Ninh công chúa, con Minh Tôn, lấy Hưng/Chính Túc vương Kham.
26) Năm 1349, Dụ
Tôn, con Minh Tôn, lấy con gái thứ tư Huệ Túc vương là YÙ
Từ Nghi Thánh.
27) Năm 1351, Dụ
Tôn loạn dâm với Thiên Ninh là chị ruột. Nguyên năm 1339
Dụ Tôn bị chết đuối ở Hồ Tây, được thầy thuốc Tầu
Trâu Canh dùng kim châm cứu khỏi nhưng đoán sau này lớn lên
sẽ bị liệt dương. Sau quả nhiên sự việc xảy ra đúng
như vậy, Trâu Canh được vời đến chữa, khuyên vua giết
một đứa con trai nhỏ tuổi lấy mật hoà với thuốc dương
khởi thạch mà uống rồi thông dâm với chị hay em ruột.
Vua nghe theo, thông dâm với Thiên Ninh công chúa.
28) Huy Ninh công
chúa, con Minh Tôn, lấy Tôn thất Nhân Vinh. Sau Nhân Vinh bị
Nhật Lễ giết, Nghệ Tôn là anh, lại gả Huy Ninh cho Quý Ly.
29) Duệ Tôn, con
Minh Tôn và Lê Đơn Từ, cô Quý Ly, lấy Hiền Trinh là em họ
Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau.
30) Duệ Tôn lấy
Thái bảo Trần Liêu làm phi.
31) Năm 1375 Duệ
Tôn gả con là Trang Huy công chúa cho Nguyên Dẫn, con Cung Chính
vương. Cung Chính vương và Duệ Tôn đều là con Minh Tôn, tức
con chú con bác lấy nhau.
32) Thiên Huy hay
Thái Dương công chúa, con Nghệ Tôn, lấy Phế Đế là con Duệ
Tôn. Nghệ Tôn và Duệ Tôn cùng là con Minh Tôn, mẹ Nghệ Tôn
là Minh Từ, mẹ Duệ Tôn là Đơn Từ, là hai chị em ruột,
cô của Quý Ly : vừa là con chú con bác, vừa là cháu dì cháu
già lấy nhau.
33) Sau khi Phế Đế
chết, Thái Dương tư thông với Nguyên Uyên, con Cung Tín vương
Thiên Trạch, em Nghệ Tôn : con chú con bác lấy nhau.
34) Năm 1393, Nghệ
Tôn giận đem gả Thái Dương cho Nguyên Hãng là em Nguyên Uyên
để làm nhục.
35) Tuyên Huy công
chúa, con Duệ Tôn, lấy Quan Phục Đại vương Húc, con Nghệ
Tôn, giống trường hợp Thái Dương lấy Phế Đế.
36) Quý Ly gả Trang
Huy công chúa, con Tôn thất Nhân Vinh (bị Nhật Lễ giết) cho
Mộng Dữ, con Nguyên Đán, cháu bốn đời của Quang Khải.
37) Thuận Tôn, con
út Nghệ Tôn, lấy Thánh Ngẫu là con gái lớn của Quý Ly và
Huy Ninh công chúa. Huy Ninh là em Nghệ Tôn, tức là con cô con
cậu lấy nhau. Thuận Tôn lại là cháu nội của Đơn Từ,
cô của Quý Ly, lấy con gái Quý Ly, tức anh em họ lấy nhau.
38) Hồ Hán Thương,
con của Huy Ninh và Quý Ly, lấy Trần thị.
Tóm lại, nếu không
phân biệt nội ngoại thì ít nhất cũng có gần 40 vụ người
trong họ Trần lấy nhau còn ghi trong sử sách.
Không riêng gì Ngô
Sĩ Liên, và Ngô Thì Sĩ chê trách nhà Trần, ngay cả Lê Quý
Đôn, đầu óc tương đối cởi mở, cũng hạ bút :"Họ Trần
lập Hoàng hậu lấy chị em con chú con bác cùng họ làm vợ.
Nhờn lễ loạn luân như thế mà vẫn điềm nhiên không coi
là kỳ quái...Triều Lê ta gia pháp rất đúng, giáo dục luân
thường rất rõ ràng, khi chọn phi tần tất lấy trong con em
các dòng họ công thần và con nhà tử tế mà lễ trật
phân biệt, tôn ti rạch ròi, không có cái tệ bất chính trong
chốn buồng the của đời trước "(7).
Nhưng nếu ta tò
mò lật sử ra sẽ thấy gì ?
1&2) Lê Thần
Tôn, con Kính Tôn và Trịnh thị Ngọc Trinh, em Trịnh Tráng,
lấy Trịnh thị Ngọc Trúc/Hành, con Trịnh Tráng, tức con cô
con cậu lấy nhau. Trước đó Ngọc Trúc đã lấy chú họ vua
là Cường quận công Lê Trụ, sinh được bốn con. Trụ bị
bắt giam, Trịnh Tráng đem Trúc gả cho vua, thế là cháu lấy
thím họ.
3) Lê Chân Tôn,
con Thần Tôn, lấy Trịnh thị Phương Từ, em Ngọc Trúc.
4) 1663 Lê Huyền
Tôn, con Thần Tôn, cháu ngoại Ngọc Trinh, lấy Ngọc Áng, con
thứ Trịnh Tạc, cháu Trịnh Tráng, tức cháu cô cháu cậu
lấy nhau (Tráng và Ngọc Trinh đều là con Trịnh Tùng).
5) Lê Dụ Tôn, con
Hi Tôn, cháu Thần Tôn, chắt Ngọc Trinh, lấy Ngọc Trang là
cháu 7 đời của Trịnh Tráng (Tráng sinh ra Tạc, Tạc sinh ra
Căn, Căn sinh ra Vĩnh, Vĩnh sinh ra Bính, Bính sinh ra Cương, Cương
sinh ra Ngọc Trang).
6) Duy Phường, con
Dụ Tôn và Ngọc Trang, bị Trịnh Giang tố cáo tư thông với
vợ Trịnh Cương, tức cha đẻ ra Ngọc Trang.
7) Duy Vĩ, con Hiển
Tôn, cháu Thuận Tôn, chắt Dụ Tôn và Ngọc Trang, đính hôn
với Tiên Dung quận chúa, con Trịnh Sâm, cháu Trịnh Doanh, Doanh
và Ngọc Trang đều là con Trịnh Cương. Thế là cháu lấy
cô họ.
Đấy là chưa kể
trường hợp Lê Tương Dực loạn dâm với vợ lẽ của cha
và những vụ chưa minh định được vì sử chép quá sơ sài
như :
- Lê Thái Tổ lấy
nguyên phi là Lê thị Ngọc Dao, con Thủ tướng Lê Sát. Sát
người Lam Sơn, trên bảng 93 công thần được xếp hạng nhì.
- Huệ phi của Thái
Tổ là Lê thị Nhật Lễ, con Thủ tướng Lê Ngân, cũng người
Lam Sơn, và được xếp hạng tư trên bảng công thần.
- Lê Nhân Tôn gả
em gái là Vệ Quốc Trưởng công chúa cho con Thái úy Lê Thụ,
cũng có tên trên bảng công thần.
Xét rằng thời
xưa những người nắm quyền cao phần nhiều đều trong hoàng
tộc thì rất có thể Lê Thụ, Lê Ngân, Lê Sát, đều có họ
với Thái Tổ, đặc biệt Sát và Ngân đều quê ở Lam Sơn.
Mặt khác, 93 người có tên trên bảng công thần đều cùng
họ Lê thì chắc một số vì có công lớn được ban quốc
tính (được nhận họ của vua làm họ của mình) khó mà biết
rõ sự thật, như Lê Lễ, cũng có tên trên bảng công thần,
người ở Lam Sơn, được ban quốc tính, lại chính là cháu
gọi Thái Tổ bằng cậu
(8).
Triều Lý có vua
Thần Tôn năm 1128 lấy con gái Điện Tiền Chỉ huy sứ Lý
Sơn là Lệ Thiên hoàng hậu.
Có lẽ Lê Quý Đôn
cũng như hai vị sử gia họ Ngô chỉ kể tội riêng nhà Trần
vì theo thuyết " nữ nhân ngoại tộc ", con chú con bác kể
như là họ thân lấy nhau phạm tội, còn con cô con cậu họ
sơ, kể như lấy người ngoài, không có tội gì cả. Thời
xưa nội ngoại phân biệt rất kỹ cho nên Phạm Đình Hổ,
trong
Vũ Trung Tuỳ Bút, cho rằng người nào không có
con trai cho con gái ăn thừa tự cũng phạm tội loạn luân (9).
Nhưng theo con mắt
đời nay, trai gái cũng là con cả, cùng chung một huyết thống
thì không thể cho con chú con bác lấy nhau là có tội mà con
cô con cậu lấy nhau lại vô tội được. " Nữ nhân ngoại
tộc " không phải là luật tự nhiên, chẳng qua là một đạo
lý do người đặt ra nhưng không phải là một đạo lý được
khắp mọi nước tôn thờ. Ngược lại, loạn luân là một
hiện tượng tự nhiên, ở đâu cũng có. Việt Nam ta có câu
:
Thóc giống đầy bồ, lúa má nhà ta.
Ở Pháp, trên đài
truyền hình thỉnh thoảng vẫn thấy người ta khuyến khích
con cái mạnh dạn tố cáo phụ huynh đã cưỡng hiếp con em
trong nhà. Tại Bretagne, hiện có một gia đình cha con ăn ở
với nhau đã có mấy mặt con. Theo Gilbert Prouteau, thời Trung
Cổ, Âu Châu có những buổi lễ của phù thủy, sau khi múa
hát xong thì tha hồ cha mẹ loạn dâm với con, anh với em. Người
Hi Lạp và Incas thời xưa chính thức cho phép con cùng cha lấy
nhau và còn khuyến khích người trong hoàng tộc lấy nhau để
giữ cho huyết thống hoàng gia không bị pha trộn với những
dòng máu khác (10) vì họ cho rằng những cuộc hôn
phối này không có hại gì cho đời sống, người cùng chung
một huyết thống và giáo dục lấy nhau dễ hợp nhau hơn,
như thế chỉ có lợi chứ không có hại. Cho nên " Nữ nhân
ngoại tộc " không nhất thiết là luật chung của thiên hạ.
Thuyết này do người đặt ra thì người cũng có thể đặt
khác hoặc hủy bỏ, dựa vào nó kết tội nhà Trần là " bất
chính " và cho nhà Lê là " gia pháp rất nghiêm " e không ổn,
với cách suy luận ngày nay.
Để chứng minh
nhà Trần có tội, Ngô Thì Sĩ viết : " nhà Trần lấy vợ
người cùng họ, âm dương không phải lứa đôi nên có tai
biến (11) " chỉ vì sử chép :
- Năm 1300 người đàn bà ở Hồng Lộ sinh con trai hai đầu.
- Năm 1304, người dàn bà ở kinh thành sinh con gái hai đầu, bốn chân, bốn tay.
- Năm 1350, làng Thiên Cương (Nghệ An) có người con gái hoá trai.
Theo Nho giáo thì vua
là con Trời, vua hành sự không phải thì Trời ra tai để răn
dậy. Đấy là một phương pháp để hạn chế uy quyền vua,
không cho lộng hành, vua tuy có quyền sinh sát nhưng còn phải
e dè sự kiểm soát của Trời. Ngô Thì Sĩ vì có thành kiến
với nhà Trần nên chỉ vạch tội nhà Trần mà cố ý bỏ
qua những tai dị xẩy ra không thiếu gì dưới thời Lê Trịnh,
cũng như đời Lý.
Ngày nay tuy chúng
ta không tin những tai dị xẩy ra vì Trời muốn vua phải sửa
lỗi, nhưng y học công nhận người trong họ không nên lấy
lẫn nhau dễ mắc bệnh máu loãng khó cầm. Có điều lạ là
không thấy sử chép họ Trần mắc bệnh này, mặc dầu những
bệnh kỳ lạ khác đều được ghi lại như :
- Lê Ngọa Triều
vì hoang dâm không ngồi dậy được nên khi lâm triều phải
nằm.
- Lý Huệ Tôn bị
trúng gió sinh chứng cuồng dịch, khi thì xưng là Thiên tuớng
giáng hạ, tay cầm giáo và mộc, trên búi tóc cắm lá cờ
nhỏ, đùa giỡn múa may suốt ngày, khi thì toát mồ hôi, trong
người ráo khát, uống rượu say ngủ li bì, hôm sau mới tỉnh,
không làm được việc phải giao hết chính sự cho Trần Tự
Khánh là anh vợ (12).
- Trần Dụ Tôn
bị liệt dương.
- Vệ Quốc Trưởng
công chúa bị câm.
- Lê Thần Tôn bị
bệnh ung thư mà băng.
- Trịnh Giang dâm
loạn, thông gian cả với vợ lẽ của bố là Đặng thị.
Một lần bị sét đánh gần chết, từ đấy sợ hãi, đào
hầm dưới đất trú ẩn không dám ra nữa, chính sự giao lại
cho em là Trịnh Doanh (13).
Sử không ghi chép
người trong họ Trần bị bệnh máu loãng có thể nào vì người
xưa biết phép điểm huyệt cầm máu nên không nhận ra chứng
bệnh máu loãng ?
Người ta thường
cho rằng người họ Trần lấy lẫn nhau để bảo vệ ngôi
báu không để lọt ra ngoài vì chính nhà Trần đã cướp ngôi
nhà Lý một cách êm thắm qua cuộc hôn nhân dàn xếp giữa
Lý Chiêu Hoàng 8 tuổi, với Trần Cảnh 9 tuổi. Theo Văn Hòe
thì Thủ Độ, người chủ mưu sang đoạt cơ nghiệp nhà Lý,
đã ra lệnh : " Con gái nhà Trần phải gả cho họ Trần " (14).
Tuy nhiên, mặc dầu Thủ Độ đã phòng xa nhưng nhà Trần vẫn
mất vì lấy người họ khác, không phải một lần mà tới
hai lần :
- Cung Túc vương
Dục, con trưởng của Minh Tôn, vì bất tài không được lập
làm Thái tử, say mê một người con hát đẹp hay đóng vai
Tây vương mẫu, lấy làm vợ mặc dầu người này đã có
mang với chồng, cũng là phường chèo, tên là Dương Khương.
Sau đẻ ra Nhật Lễ được Dục nhận làm con. Các vua Hiến
Tôn, Dụ Tôn và Dục đều mất, Thái hậu, mẹ Dục, lấy
cớ Nhật Lễ được Dục chính thức nhận làm con thì có
quyền lên ngôi. Năm 1369 Nhật Lễ lên ngôi rồi có ý muốn
trở về họ Dương của cha đẻ nên bị Nghệ Tôn giết. Nhà
Trần suýt mất lần thứ nhất.
- Minh Tôn lấy hai
người cô của Quý Ly : Minh Từ sinh ra Nghệ Tôn, Đơn Từ
sinh ra Duệ Tôn. Nghệ Tôn cướp lại ngôi trong tay Nhật Lễ
ít lâu nhường ngôi cho Duệ Tôn. Duệ Tôn lấy em họ Quý
Ly là Hiển Trinh sinh ra Phế Đế. Nghệ Tôn nghe Quý Ly giết
Phế Đế lập con út mình là Thuận Tôn lên ngôi. Thuận Tôn
lấy Thánh Ngẫu là con gái lớn của Quý Ly và Huy Ninh công
chúa đẻ ra Thiếu Đế. Quý Ly ép Thuận Tôn nhường ngôi
cho Thiếu Đế khi ấy mới hai tuổi, sau lại cướp ngôi của
Thiếu Đế, tức cháu ngoại mình, mà lập ra nhà Hồ.
Nói rằng nhà Trần
mất vì cái vạ ngoại thích cũng được, song sự thật làm
gì có một dòng họ nào nắm được chính quyền mãi mãi ?
Nhà Trần nếu không mất vì " cái vạ ngoại thích " ắt cũng
mất vì một lí do khác.
Còn nói rằng người
họ Trần lấy lẫn nhau để giữ ngôi báu cho họ Trần cũng
chưa hẳn hoàn toàn đúng vì Thủ Độ đã tư thông với chị
họ là mẹ Lý Chiêu Hoàng từ trước khi Trần Cảnh được
Chiêu Hoàng nhường ngôi, khi ấy đã có ngôi báu đâu mà giữ
? Phải nói rằng họ Trần vẫn lấy lẫn nhau từ trước nhưng
đặc biệt được Thủ Độ khuyến khích từ khi Trần Cảnh
lên ngôi mở đầu cho nhà Trần.
Không rõ lấy tài
liệu ở đâu, Ngô Thì Sĩ viết : " Con nhà chài lưới chả
biết lễ nghĩa, tập tục loạn luân như thế từ đời Kính,
Hấp đã có " (15).
Tổ tiên nhà Trần
lập nghiệp ở hương Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, phủ Xuân
Trường, tỉnh Nam Định, làm nghề đánh cá trở nên giầu
có. Trong
An Nam Chí Lược, Lê Tắc cho biết Trần Thừa
nhờ có công đánh giặc được phong chức Thái úy, em là Kiến
Quốc được làm Đại tướng quân. Tuy nhiên nhà Trần vốn
không phải gốc Việt mà từ đất Mân (có nơi nói là Quế
Lâm) ở Trung Quốc sang từ đời Trần Kính, Kính sinh ra Hấp,
Hấp sinh ra Lý, Lý sinh ra Thừa, Thừa sinh ra Cảnh. Nếu nhà
Trần biết rõ gốc gác của mình như thế ắt có chép gia
phả và không đến nỗi không hiểu lễ nghĩa như Ngô Thì
Sĩ nói. Không giữ lễ là một chuyện, không biết lễ lại
là một chuyện khác.
Ngoài những cuộc
hôn nhân với người trong họ, hoặc với người ngoài vì
chính sự, sử nhà Trần còn ghi chép đôi nét về những sinh
hoạt khác của các công chúa :
1) Phàm người nào
lấy công chúa, nếu công chúa chết hay bỏ đều không được
lấy người khác, có lấy cũng phải giấu. Có lẽ đây là
luật lệ chỉ áp dụng với người ngoài, vì khi Thiên Trân
công chúa, con Anh Tôn, mất thì Uy Túc công Văn Bích lại lấy
Huy Thánh công chúa (16).
2) Bắt đầu từ
1266 các công chúa cũng như vương hầu, cung tần được phép
chiêu tập những người xiêu tán không có sản nghiệp làm
nô tì để khai khẩn ruộng hoang, đắp đê ngăn nước mặn
ở ven biển độ hai, ba năm sau khai thành ruộng. Nhưng từ
1397, Quý Ly chỉ cho các Đại vương va Trưởng công chúa được
có ruộng không hạn định.
3) Võ học. Nhà
Trần chấn chỉnh văn học nhưng cũng rất trọng võ học,
xét ra có phần còn trọng võ hơn văn, như năm 1281, khi Nhân
Tôn mở nhà học ở phủ Thiên Trường (Xuân Trường) lại
cấm người làng Tức Mặc, quê hương vua, không được vào
học văn nghệ, cũng như không cho hiệu quân Thiên Thuộc (những
binh sĩ ứng tuyển ở Tức Mặc) học văn sợ khí lực kém
đi (17).
Khi các vương hầu,
công chúa lập trang trại thì phải luyện binh lính trừ bị
thành từng đội quân bản bộ. Thưở ấy trai tráng trong nước
theo luật " toàn quốc vi binh " khắp nước từ trên xuống
dưới đều tinh thông võ nghệ nên mới đẩy lui được cả
quân Chiêm lẫn quân Nguyên mấy lần định xâm lăng. Do đó
ta mới có câu khen " đánh giặc đời Trần ..."
Do truyền thống
tinh thần thượng võ ấy, các công chúa cũng luyện tập võ
nghệ đến trình độ có thể điều binh khiển tướng như
khi quân Minh sang, công chúa Thiên Huy cùng với Thị Trung họ
Hồ là Trần Nguyên Chi đem dân tránh loạn ra Đồ Sơn, trong
khi công chúa Thiên Gia và Trung sư lệnh Trần Sư Hiền ngược
sông Cái, đầu hàng quân Minh
(18).
Đặc biệt năm
1369, khi Nhật Lễ lên ngôi dự tính trở về họ Dương của
cha đẻ, nhà Trần suýt mất. Khi ấy người họ Trần tuy lo
sợ nhưng không thấy ai nhúc nhích. Cung Định vương vốn đã
không có chí làm vua, lại có con gả cho Nhật Lệ, càng e dè.
Công chúa Thiên Ninh phải đứng ra khuyến khích : " Thiên hạ
này là của cha ông ta lẽ nào bỏ cho người khác ? Ông nên
đi đi, tôi sẽ đem gia nô dẹp yên nó cho ". Cung Định vương
nghe theo, cùng với Tuyên vương Chương Túc hầu Nguyên Đán
hẹn với Thiên Ninh ở Đại La giang, thuộc Thanh Hoá, để
khởi binh, giết được Nhật Lễ năm 1370. Cung Định vương
lên ngôi năm 1371 và phong cho Thiên Ninh làm Lạng quốc Thái
Trưởng công chúa, đổi tên là Quốc Hinh
(19). Cung
Định vương tức là vua Nghệ Tôn.
Ngày nay nhắc đến
Thiên Ninh công chúa người ta chỉ nhớ tới tội loạn dâm
với em, mà cũng không xét kỹ xem có thực là " tội " hay không
? " Tội " là khi công chúa ưng thuận vì bị kích thích, ham
muốn một cuộc phối hợp với em ruột. Nhưng nếu Thiên Ninh
ưng chịu chỉ vì thầy thuốc Trâu Canh phán như thế mới
chữa cho Dụ Tôn khỏi chứng liệt dương thì đấy lại là
chuyện khác. Trâu Canh đã từng cứu Dụ Tôn thoát chết một
lần, lời nói ắt có giá trị. Nếu Thiên Ninh hi sinh để
cứu Dụ Tôn thiết tưởng đấy là " công " chứ không còn
là " tội " nữa, hay ít ra cũng " tội " nhỏ mà " công " lớn.
Thêm vào đấy còn cái công đánh dẹp Nhật Lễ, giành lại
ngội báu cho nhà Trần. Chỉ tiếc rằng Thiên Ninh lại dem
cơ nghiệp nhà Trần giao vào tay Nghệ Tôn, trước đã không
có chí làm vua, sau lại một mực tin dùng Quý Ly, nên nhà Trần
lại mất về tay nhà Hồ.
Tuy sử không chép
nhiều, nhưng ta cũng thấy rằng các công chúa đời Trần không
phải chỉ thụ động tuân theo thượng lệnh, hoặc nằm trong
lòng địch dò la tin tức như công chúa Ngoạn Thiềm, hay lấy
mỹ sắc xoa dịu đối phương đê đem lại hoà bình cho đất
nước như Huyền Trân hay An Tư, hoặc lấy người cùng họ
để giữ ngôi báu nhà Trần khỏi lọt vào tay họ khác, mà
còn có những hoạt động như lập trang trại, luyện tập
quân sĩ, điều binh khiển tướng, ít nhất cũng tích cực
đóng góp vào công việc mở mang đất nước và gìn giữ ngai
vàng cho nhà Trần.
Châtenay-Malabry,
tháng 2, 1993
(Văn Lang,
số 5, tháng 6 - 1993)
1. Lê Tắc là tác
giả An Nam Chí Lược.
2. Trong " Chuyện
nàng công chúa có ân sâu với Huế ", Nhớ Huế (30/8/92)
tác giả viết rằng thuyền của Huyền Trân đi 7 ngày đã
tới Cửa Thuận, chờ đợi 2 tháng tin bắt cóc hoàng tử Đa
Gia không thấy nên công chúa lên kiệu về kinh, 20 ngày tới
Thăng Long và chỉ ba tháng sau công chúa xuất gia, nhằm ngày
Tết Nguyên Đán năm Kỷ Dậu (1309) nghĩa là 6 tháng sau khi
dời Chiêm Thành. Thuyết này e không ổn vì Chế Mân mất tháng
5/1307, vua sai Trần Khắc Chung sang đón Huyền Trân từ tháng
10/1307, cho là hai tháng sau Trần Khắc Chung mới đến Chiêm
Thành và đón được Huyền Trân về thì họ phải khởi hành
vào khoảng đầu 1308, sáu tháng sau Huyền Trân đi tu, phải
vào khoảng giữa 1308 chứ không thể vào Tết 1309, vì có một
lỗ hỗng khoảng 6 tháng không biết họ đi đâu.
3. Việt Sử Tiêu
Án, tr. 222
4. Toàn Thư,
II, tr. 93.
5. " Trưởng công
chúa ", là chị em ruột của vua, con của Thượng hoàng, chứ
không phải là " công chúa lớn nhất " (Cuơng Mục, VII,
tr. 29).
6. " Từ 1241, anh
em vua phong vương, con trưởng các vương cũng phong vương, con
thứ phong Thượng vị hầu. Làm chế độ vĩnh viễn. (Toàn
Thư II, tr. 17 và Cương Mục V, 38).
7. Thông Sử,
tr.
115-6.
8. Thông Sử,
tr. 165,
Toàn Thư III, tr. 69.
9. Vũ Trung Tuỳ
Bút, tr. 69.
10. Les Miroirs
de la Perversité, tr. 346.
11. Việt Sử
Tiêu Án, tr. 221.
12. Cương Mục,
IV, tr. 64.
13. Sử Ký Tục
Biên, tr. 159.
Theo Vũ Trung Tuỳ Bút thì người bị sét đánh là Trịnh Sâm, con Trịnh Doanh, và Trịnh Giang, Trịnh Doanh đều là con Vũ Thị.
Theo Vũ Trung Tuỳ Bút thì người bị sét đánh là Trịnh Sâm, con Trịnh Doanh, và Trịnh Giang, Trịnh Doanh đều là con Vũ Thị.
14. " Trần Thủ
Độ ", Trung Bắc Chủ Nhật số 182.
15. Việt Sử
Tiêu Án, tr. 170.
16. Toàn Thư
II, tr. 97.
17. Toàn Thư
II, tr. 47 và Cương Mục V, tr. 500. Tuy vậy, những tướng
giỏi đời Trần như Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Trần
Nhật Duật v.v...đều tài kiêm văn võ.
18. Toàn Thư
II, tr. 17-8.
19. Toàn Thư
II, tr. 137-8,
Cương Mục VI, tr. 59-64.
- Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Tổ biên dịch Phạm Trọng Điềm, Hoa Bằng, Trần văn Giáp. Hà Nội : Văn Sử Địa, 1957.
- Lê Quý Đôn, Đại Việt Thông Sử, Hà Nội : KHXH, 1978. Biên tập : Mai Ngọc Mai.
- Lê Tắc, An Nam Chí Lược, Viện Đại học Huế, Ủy Ban Phiên dịch sử liệu Việt Nam, 1961.
- Ngô Sĩ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Hà Nội : KHXH, 1967-73. Cao Huy Giu dịch.
- ?, Đại Việt Sử Ký Tục Biên, Ngô Thế Long và Nguyễn Kim Hưng dịch, Hà Nội : KHXH, 1991.
- Ngô Thì Sĩ, Việt Sử Tiêu Án, bản dịch của Hội Việt Nam nghiên cứu liên lạc Văn hoá Á châu, Văn Sử tái bản ở Mỹ.
- Phạm Đình Hổ, Vũ Trung Tuỳ Bút, bản dịch của Nguyễn Hữu Tiến, Đông Nam Á tái bản ở Paris.
- Prouteau Gilbert, Les Miroirs de la Perversité, Paris : Albin Michel, 1984.
- Vân Hạc, " Thanh Niên Đời Trần ", Trung Bắc Chủ Nhật, số 61, 18/5/1941.
Văn Hòe, " Trần Thủ Độ ", Trung Bắc Chủ Nhật, số 182, 7/11/1943.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét