Quả Nguyễn Đình
Chiểu có ra Huế chuẩn bị khoa thi Kỷ Dậu (1849), nhưng để
thi Hương hay thi Hội thì mỗi sách chép một phách. Lệ thường,
những người đỗ Tú tài phải thi Hương lại kỳ cho đến
khi có chân Cử nhân rồi mới được thi Hội, vì thế ta mới
có những vị Tú Kép (đỗ 2 khoa Tú tài), Tú Mền (đỗ 3 khoa
Tú tài), Tú Đụp (đỗ 4 khoa Tú tài). Đó là lệ thường,
ngoài ra còn có những lệ luật khác cho phép một số Tú tài
được chính thức dự thi Hội, không cần xin đặc ân. Sau
đây là những loại người được phép ứng thi Hội :
- Cử nhân mới
và cũ (đỗ từ những khoa trước).
- Tôn sinh (người
trong hoàng tộc). Ấm sinh (con quan)
- Giám sinh, Cống
sinh (những người học xuất sắc, do phủ, huyện tiến cống
vào Kinh học đỗ, cho làm Giám sinh, được cấp lương, mũ
áo, miễn thuế, tạp dịch. Song muốn thi Hội còn phải qua
một kỳ Hạch nữa, đỗ mới được thi. Những người đỗ
cũng được gọi là "ông Cống" (danh từ này vốn dành để
gọi những người đỗ Hương cống, tức Cử nhân).
- Huấn đạo, Giáo
thụ (có những người chỉ đỗ Tú tài, nhưng nhờ học lực
cũng được bổ vào hai chức này).
- Học sinh Thượng
hạng, trúng Tú tài (Học sinh là những người có tư chất,
ham học, được tuyển lựa ở địa phương, chước cho đi
lính, tạp dịch).
- Tú tài được
làm việc trong Hàn Lâm Viện.
Trừ Cử nhân và
Giám sinh, những người khác đều phải qua một kỳ Hạch,
đỗ mới được thi Hội.
Đọc Quốc Triều
Đăng Khoa Lục của Cao Xuân Dục, chúng ta thấy riêng triều
Nguyễn có đến 26 vị Tú tài hay Phó bảng, nổi danh nhất
phải kể đến Trần Quý Cáp, xuất thân là học sinh Thượng
hạng, trúng Tú tài, đỗ Tam giáp Tiến sĩ khoa 1904. Trong Giai
Thoại Làng Nho Toàn Tập, ông Lãng Nhân chép "Trần Quý
Cáp đỗ ba khoa Tú tài liên tiếp, theo lệ được thi Hội",
chưa rõ lệâ năm nào, có điều chắc chắn họ Trần khi ứng
thi không có chân Cử nhân.
Chứng minh được
Tú tài có quyền thi Hội vẫn chưa bảo đảm Nguyễn Đình
Chiểu ra Huế chuẩn bị thi Hội. Luật thi Hương xưa nay bắt
Thí sinh phải thi tại nguyên quán, song vẫn có những trường
hợp ngoại lệ cho phụ thí, tức là những người có cha làm
quan xa, đến kỳ thi Hương không về kịp quê quán nên xin
đặc ân được phụ thí tại nơi cư ngu. Tuy là chuyện hiếm,
nhưng Đại Nam Thực Lục Chính
Biên cũng chép ít nhất
tới ba đạo sắc dụ về phụ thí :ï
1) 1821 : từ
Phú Yên về Nam, cho Thí sinh tuỳ tiện phụ thí, từ Bình Định
ra Bắc phải theo nguyên quán.
2) 1834 : Nam
kỳ có biến, học trò Gia Định được phép phụ thí ở Thừa
Thiên
(ĐNTLCB
XXV, 283-4).
3) 1858 : Định
lệ từ nay cho 6 tỉnh Nam kỳ được thi phụ trường Thừa
Thiên.
Lý do : Nguyễn
Chính từ Hưng Hoá không về kịp sinh quán Gia Định, được
phụ thí ở Thừa Thiên, đã đỗ đầu, nhân đó thành lệ
(ĐNTLCB
XXVIII,
427). Nguyễn Đình Chiểu ra Huế từ năm 1846, tức là trước
khi phụ thí ở miền Nam thành lệ (1858) song rất có thể Nguyễn
Đình Chiểu đã xin đặc cách được phụ thí ở Thừa Thiên
vì người cha, Nguyễn Đình Huy, đã từ Gia Định trốn về
Thừa Thiên năm 1833 khi Lê văn Khôi nổi loạn ở Nam kỳ.
Mặc dầu Nguyễn
Đình Chiểu có đủ điều kiện để xin phụ thí, tôi vẫn
tin tác giả Lục Vân Tiên ra Huế để thi Hội chứ không
phải để thi Hương, vì lẽ những người xin phụ thí vốn
là những người đã có mặt sẵn ở Thừa Thiên, không về
kịp quê quán mới có lý để xin phụ thí, đằng này Nguyễn
Đình Chiểu đang ở sinh quán Gia Định, lại lục đục bỏ
ra Huế để đón một khoa thi mà trên nguyên tắc mình không
được phép dự, trừ phi làm đơn xin phụ thí, thiết tưởng
hành động như thế có điều không ổn.
hay là : Những " kỳ thị " của nhà Nguyễn đối với sĩ phu miền Bắc. |
Hay là : Những "kỳ
thị" của nhà Nguyễn đối với sĩ phu miền Bắc
Một điều hiếm
khi thấy các sửû gia nêu lên là sự "kỳ thị" của triều
Nguyễn đối với đám sĩ tử ngoài Bắc : từ cách lựa chọn
học sinh, đến cách tổ chức các khoa thi, chấm thi, bổ quan
chức v.v...rất nhiều đạo dụ cho thấy sự bất công của
nhà Nguyễn. Sau đây là một số những sắc chỉ chép trong
Đại
Nam Thực Lục Chính Biên :
1) Tuyển chọn
Học sinh : 1855 Định ngạch Học sinh cho các tỉnh biên
giới : Cao Bằng, Lạng Sơn v.v...khảo hạch và cấp lương
cho ăn học như các Học sinh từ Quảng Bình vào Nam (tức
là miền Nam được hưởng đặc ân trước).
2) Phụ thí :
- 1821 Định lệ
cho thi Hương từ nay từ Phú Yên vào Nam được tuỳ tiện
phụ thí, từ Bình Định ra Bắc phải theo nguyên quán.
1858 Định lệ cho
6 tỉnh Nam kỳ được thi phụ ở trường Thừa Thiên.
3) Tổ chức các
khoa thi :
- 1834 thi Hội. Lệ
trước các Cử nhân, Giám sinh ở Kinh, ở các Trực (Quảng
Bình, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Quảng Nam) và ở Tả kỳ (Bình
Định, Phú Yên, Bình Thuận, Khánh Hoà) trở về Nam, Hữu kỳ
(Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá) trở ra Bắc đều hội lại để
cùng thi...nhưng số người đỗ chưa được quân bình. Những
kẻ sĩ từ Kinh, Trực trở vào Nam thi chung với các kẻ sĩ
từ Hữu kỳ ra Bắc nên khi điểm duyệt không khỏi có sự
sút kém về phân số (điểm). Từ nay ba kỳ thi Hội, mỗi
kỳ chia làm hai lượt, mỗi lượt để riêng ngày : Cử nhân,
Giám sinh ở Thừa Thiên cùng các Trực và Tả kỳ trở vào
Nam cùng thi một lượt. Đầu bài thi sẽ ra riêng và khi chấm
sẽ tuỳ theo bài văn mà điểm duyệt.
Vua dụ : Nếu mỗi
kỳ thi chia làm hai lượt cũng chưa được tiện, vậy chuẩn
cho trường thi chia làm hai vi :
Vi Giáp : sĩ tử
ở Kinh, Trực và Tả kỳ trở vào Nam.
Vi Ất : sĩ tử
ở Hữu kỳ trở ra Bắc.
Thi cùng một ngày.
Thu quyển xong, Đề điệu (quan trường phụ trách việc Giám
sát) chua luôn hai chữ "Vi Giáp" hay "Vi Ất" vào phía dưới
mấy chữ "kỳ thi thứ mấy"...Vi nào nên lấy bao nhiêu Trúng
cách (đỗ thi Hội), bao nhiêu Phó bảng, sẽ hạ chỉ đặc
cách quyết định cho được thăng bằng, thích đáng (?). (ĐNTLCB
XVI,
50-5).
- 1907 Lệ cũ Cống
sĩ từ Quảng Bình trở về Nam vào Vi Giáp, từ Hà Tĩnh trở
ra Bắc vào Vi Ất, nay Cao Xuân Dục xin cho thi lẫn lộn.
4) Chấm thi :
- 1825 học trò Thừa
Thiên, Quảng Nam không một ai đỗ. Vua sai Lục bộ duyệt lại
quyển văn lấy thêm Cao Hữu Dực ở Thừa Thiên và Trương
Tăng Diễn ở Quảng Nam làm Hương cống (Cử nhân). (ĐNTLCB
VII,
180).
1826 thi Hội, ứng
thí trên 200 người, quan trường lấy đỗ 9. Vua bảo thị
thần Lương Tiến Trường và Nguyễn Kim Xán :"Nay thiên hạ
một nhà, Nam, Bắc đều là tôi con của trẫm. Nam hiền thì
dùng Nam. Bắc hiền thì dùng Bắc; không phải có thiên tư.
Vả lại học trò Nam, Bắc đều là người ở trong giáo dục,
học lực tưởng không hơn kém nhau, thế mà nay 9 người đỗ
đều là người Bắc là sao thế ? Nên lựa lấy một, hai người
từ Thừa Thiên vào Nam để cổ lệ sĩ phong mới phải". Thế
là quan trường lấy thêm Phan Thanh Giản cho đủ số 10 người
(ĐNTLCB
VIII,
28-9).
-1874 Sắc rằng
:"Đặt khoa thi chọn lấy học trò để giúp nhà nước, hạng
Tú tài để đấy không dùng là vô ích, trừ người nào bổ
quan thì không kể. Từ nay thi Hương đình bãi lấy Tú tài,
bắt đầu từ hai trường Hà Nội, Nam Định". Bộ Lễ can
:"Xưa nay quan viên phạm tội nặng mới tướt bỏ tên trong
sổ xuất thân là Tiến sĩ, Cử nhân hay Tú tài. Nay cả nước
nguyên lấy đổ 4, 5000 Tú tài, nhất khái bỏ hết tên ở
sổ, sinh dị nghị. Xin gia ơn cho đình miễn. Vả thi Hương
năm nay ở các trường Hà Nội, Nam Định là làm bù cho khoa
Quý Dậu. Khoa thi Hương các trường Thừa Thiên, Nghệ An, Bình
Định, Thanh Hoá năm ngoái đều lấy Tú tài, nay nếu bãi bỏ
sẽ không công bằng". (ĐNTLCB XXXIII, 108-9).
-1874 Gần đến
kỳ thi hai trường Hà Nội, Nam Định vua lại dụ :"Mỗi trường
không được lấy quá 50 Tú tài". Chủ khảo trường Nam Định
Lê Đức Quang tâu :"Thi Hương năm nay ở hai trường là bù
khoa Quý Dậu. Năm ngoái 4 trường Thừa Thiên, Nghệ An, Bình
Định, Thanh Hoá vẫn lấy số Tú tài như cũ, nay hai trường
Hà Nội, Nam Định xin chuẩn cho lấy trên dưới 100 người".
Vua y. ĐNTLCB XXXIII, 125).
Khoa 1840 khi thấy
văn bài miền Nam sút kém, vua bảo :"Văn phong ở Nam Kỳ mới
mở, quyển văn thi đỗ so với các trường khác không khỏi
có chỗ hơi kém...Đời xưa có người ít văn học mà công
nghiệp rõ rệt, cứ gì phải Khoa mục đâu ?" (ĐNTLCB XXII,
170-2).
Nhưng khi văn bài
sĩ tử miền Bắc sút kém (khoa 1828) vua bảo Hà Quyền, Phó
Chủ khảo Bắc thành :"Bắc thành vốn xưng là nơi văn vật
mà kỳ thi này chỉ được những người hạng bình, hoá ra
chỉ là hư danh à ?". Quyền tâu :"Bắc thành gần đây chức
Giáo, Huấn không được tốt cho nên học trò không lấy ai
mà theo được". ĐNTLCB IX, 103).
5) Bổ quan chức
:
- 1838 Khảo hạch
các Tú tài các khoa từ 40 tuổi trở lên ở Quốc Sử Quán.
Đỗ hạng bình 9 người, cho làm Huấn đạo. Hạng thứ hay
liệt 70 người : những ai ở Hà Tĩnh trở ra Bắc cho về học
tập mỗi người cấp cho hai lạng bạc; ai quê ở Quảng Bình
trở vào Nam cho làm Hành tẩu Lục Bộ (chức quan chuyển đạt
những mệnh lệnh của vua hay của thượng quan) hàng tháng
cấp một quan tiền, một phương gạo (=30 bát gạo).
- 1857 Định : người
nào thi Hội không có phân số (điểm) người từ Quảng Bình
vào Nam 30 tuổi trở lên, từ Hà Tĩnh ra Bắc từ 35 tuổi trở
lên, đã thi Hội hai khoa mà tình nguyện làm việc thì cho ra
làm việc.
- 1875 Trước kia
phàm đỗ Tú tài hai khoa, tình nguyện ra làm việc từ Quảng
Bình vào Nam 40 tuổi trở lên, từ Hà Tĩnh ra Bắc 45 tuổi
trở lên, đều chiểu lệ xét bổ.
- Lệ cũ Cử nhân
Nam, 30 tuổi, Bắc 35 tuổi, đã thi Hội hai khoa mới được
xét bổ. Nay Nam, Bắc cùng cho lấy 30 tuổi làm hạn. (ĐNTLCB
XXXIII, 183-4).
Vì không được
đọc trọn bộ Đại Nam Thực Lục Chính Biên nên tôi
chỉ chép được có chừng ấy sắc dụ, nhưng bấy nhiêu cũng
đủ cho thấy óc thiên lệch của triều Nguyễn. Có lẽ vì
buổi đầu nhà Nguyễn được nhân dân miền Nam nâng đỡ,
nên dành nhiều cảm tình cho người miền Nam. Ngược lại,
dù đất nước đã thống nhất, song người dân Bắc lòng
còn tưởng nhớ nhà Lê, có ý không phục nhà Nguyễn, bởi
thế vua Gia Long bỏ Thăng Long, dời đô vào Huế (nhưng không
quên dời luôn cả Quốc Tử Giám đem vào) và nhà Nguyễn
tỏ ra "kỳ thị" dân Bắc, đấy chẳng qua cũng chỉ là một
phản ứng tự vệ.
Trên đây là những
sự bất công của riêng triều Nguyễn đối với sĩ phu ngoài
Bắc. Còn nói chung về Khoa cử, các nhà nghiên cứu lớp trước
(tôi không muốn trỏ vào những người làm cách mệnh, chán
ghét khoa cử như Phan Bội Châu) ai cũng ca ngợi Khoa cử công
bằng, không phân giai cấp, con nhà nghèo cũng có quyền đi
thi v.v...Kể ra, so với chế độ "con vua thì lại làm vua" quả
Khoa cử công bằng thật. Song tất cả chỉ là vấn đề tương
đối. Chúng ta chẳng ai không nhớ trường hợp Đào Duy Từ
đã đỗ thi Hội, chỉ vì người cha cầm đầu đội nữ nhạc
trong cung vua Lê Anh Tôn, nên bị xoá tên trong sổ những người
Trúng cách. Đào Duy Từ uất ức mới bỏ vào Nam phò tá chúa
Nguyễn. Tại sao lại có lệ lạ lùng ấy ? - Bởi người xưa
liệt các ca sĩ vào loại "xướng ca vô loài" lười biếng,
chỉ rong chơi ca hát, đáng khinh, không được xếp vào loại
công dân có nghề nghiệp hữu ích cho nhân quần.
Ai nghe chuyện cũng
bất bình thay cho Đào Duy Từ, những chẳng thấy ai phàn nàn
hộ (trừ Trần Văn Tích và Nguyễn Tuân) cho một nửa số
công dân Việt Nam cũng bị cấm thi mặc dầu cha ông không
thuộc loại "xướng ca vô loài" : nay là phụ nữ. Phải chăng
phụ nữ không phải là công dân nước Việt ? Chế độ phong
kiến quyết tâm gạt hẳn phụ nữ ra ngoài, Đoàn thị Điểm,
Hồ Xuân Hương đều bó tay, ấy thế mà vẫn có người lọt
lưới, cải nam trang đi học và... đỗ Trạng nguyên ! Vào
cuối thời nhà Mạc, và thời nhà Lê Trung Hưng, bà Trạng
Nguyễn thị Du đã đóng góp cho nền văn học Việt Nam nói
chung và huyện Chí Linh nói riêng nên được dân làng Kiệt
Đặc (Chí Linh) thờ làm thần (Xem bài Nguyễn thị Du, vị
nữ Trạng nguyên độc nhất của ta sinh năm nào ?").
Ngoài phụ nữ và
con nhà "xướng ca vô loài" không được đi thi, thời xưa còn
nhiều cấm lệ mà ngày nay chúng ta thấy lạ lùng khó hiểu,
chẳng hạn cấm những người có đại tang không được đi
thi. Vì sao ? - Vì người xưa trọng đức, có tang phải ở
nhà cư tang, đi thi để mong vinh hiển cho thân mình mà quên
cha mẹ là phạm tội bất hiếu. Người đã mang tiếng bất
hiếu, không thương đến cả cha mẹ mình, thì mong gì đi làm
quan nghĩ đến dân đen ? Đấy là mặt lý thuyết. Song trên
thực tế, ba năm mới có một khoa thi, nếu gặp hai cái đại
tang liên tiếp cộng với một khoa bị tật bệnh không đi
thi được vị chi mất chín năm đèn sách công toi. Chính một
phần vì cái lệ khắc nghiệt đó mới có những cụ già 60
tuổi còn lẽo đẽo lều chõng và đến năm Thành Thái thứ
18 mới sửa lại cho phép những ngưòi có đại tang đi thi,
nhưng ngược lại, tuổi bị hạn chế (1).
Dễ hiểu hơn là
những lệ cấm người nào có cha ông ba đời làm trộm cướp,
phản tặc. Chọn người ra làm "phụ mẫu" dân tất phải kén
người có hạnh kiểm tốt. Song thế nào là "phản tặc ? ".
Với nhà Nguyễn thì làm quan với Tây Sơn, hay cả với nhà
Lê đều là "phản tặc" cả : Lê Đức Quang, Phạm Huy Lê chỉ
vì khai lầm cha ông làm quan với nhà Lê đã bị xoá tên trong
sổ Cử nhân khoa 1831. ĐNTLCB
X, 293-5).
Lại còn một hạng
người tuy không chính thức bị cấm thi mà cũng chẳng khác
bị cấm : đấy là dân làng Thiên Thuộc (sau gọi là làng
Tức Mặc) quê hương của các vua nhà Trần, bị cấm không
được học tập văn nghệ, cốt để giữ tinh thần thượng
võ, treo gương cho thanh niên toàn quốc. Năm 1821, vua Trần Nhân
Tông lập trường học ngay phủ lỵ phủ Thiên Trường (sau
là Xuân Trường) tức là phủ hạt nhà vua, thế mà dân làng
Thiên Thuộc vẫn không được phép học văn. Đã không học
thì thi làm sao được ? nên tuy không bị cấm mà cũng chẳng
khác bị cấm là thế. Song chính nhờ trọng ngành võ bị mà
nhà Trần bao lần thắng trận vẻ vang, sự kiện này ngoài
sử liệu còn nằm trong ngạn ngữ "Đánh giặc đời Trần,
làm quan họ Đặng".
Thành ra có nhiều
cấm lệ mà ngày nay mới thoạt nghe ta thấy "kỳ quặc", song
đặt vào khung cảnh thời xưa, lấy đức làm trọng, đặt
đức trên tài, thì những lệ ấy không phải hoàn toàn vô
căn cứ. Mặc dầu cha ông ta hết sức đề cao đức hạnh
trong cách giáo dục và kén chọn người ra làm "phụ mẫu"
dân, trên thực tế số tham quan vẫn nhiều hơn số những
ông quan liêm chính, nhưng dù ít vẫn còn hơn không.
Châtenay-Malabry,
tháng 6, 1990
(Văn Học, số 7, tháng 11, 1990)
(Văn Học, số 7, tháng 11, 1990)
1. Đại Nam Điển
Lệ; dịch giả : Nguyễn Sĩ Giác. Saigon : Viện Đại học,
1962, tr. 359.
Trong Hồi ký,
Paul
Doumer tỏ ra rất ngạc nhiên thấy một Thí sinh 80 tuổi mới
đỗ Tú tài.
*
* *
* *
Đọc lại Quốc
Triều Đăng Khoa Lục của Cao Xuân Dục (tr. 107) thì thấy
chắc chắn Nguyễn Đình Chiểu ra Huế năm 1849 để thi Hội
chứ không phải thi Hương vì thi Hương đã được tổ chức
năm 1848. Sau đây là chi tiết khoa thi Hội năm 1849 :
Tực Đức năm
thứ hai, Kỷ Dậu (1849),
Quan duyệt quyển : Vũ Tuấn
Mai Anh Tuấn
Quan đọc quyển: Phan Thanh Giản
Trương Quốc Dụng
Lấy đỗ đầu : Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân Đỗ Duy Đê đỗ Cử nhân năm Mậu Thân (1848) v.v...
Quan duyệt quyển : Vũ Tuấn
Mai Anh Tuấn
Quan đọc quyển: Phan Thanh Giản
Trương Quốc Dụng
Lấy đỗ đầu : Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân Đỗ Duy Đê đỗ Cử nhân năm Mậu Thân (1848) v.v...
Theo chỗ tôi
biết thì chỉ có một lần vào năm 1779 chúa Trịnh Sâm mới
mở Hương Hội thịnh khoa, tức là tổ chức thi Hương và
thi Hội cùng một năm. Khoa này Nguyễn Du đỗ Tiến sĩ xuất
thân, Phạm Quý Thích đỗ Đồng Tiền sĩ xuất thân (Đại
Việt sử ký tục biên, tr. 448).
Nguồn: http://chimviet.free.fr/vanhoc/chquynh/loixua1/loixua05.htm#nguyendinhchieu
Nguồn: http://chimviet.free.fr/vanhoc/chquynh/loixua1/loixua05.htm#nguyendinhchieu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét