Vị
nữ Trạng nguyên có một không hai của nước ta vốn tên là
Nguyễn thị Du, song Vũ Phương Đề, người đầu tiên viết
về bà, từ thế kỷ thứ XVIII, chỉ cho biết bà họ Nguyễn;
Đại
Nam Nhất Thống Chí và Trần Lê Sáng chép bà tên Nguyễn
thị Duệ (1); Bùi Hạnh Cẩn đưa ra tên Nguyễn thị Niên (2);
Đông Châu ngoài tên Nguyễn thị Du còn ghi thêm tên Nguyễn
Ngọc Toàn (3).
|
Bà sinh quán ở
làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương (Bùi Hạnh
Cẩn chép bà người "xứ Đông").
Năm 10 tuổi (Đồ
Nam Nguyễn Trọng Thuật ghi là "năm 20 tuổi") bà theo cha tị
nạn lên Cao Bằng, lúc ấy tuy họ Trịnh đã đánh bại họ
Mạc, chiếm lại kinh đô, nhưng lòng dân theo họ Mạc còn
đông.
Bà là người tuyệt
sắc, lại rất thông minh, 10 tuổi đã biết làm văn bài. Ông
thân bà tiếc tài con gái, cho cải nam trang đi học. Năm 17
tuổi, chúa Mạc mở khoa thi, sĩ tử tham dự rất đông, bà
đỗ thủ khoa (4), còn chính thầy học của bà chỉ đỗ thứ
hai. Có lẽ vì thiếu tài liệu, không thấy Phan Huy Chú ghi
chép những khoa thi cuối của nhà Mạc ở Cao Bằng, nên không
rõ đích xác bà đỗ năm nào.
Khi dự yến đãi
các tân khoa, chúa Mạc thấy nhan sắc và phong cách của bà
sinh lòng ngờ vực, gạn hỏi và khám phá ra bà là gái giả
trai, bèn nạp cung phong làm Tinh Phi (Sao Sa) ngụ ý khen bà vừa
xinh đẹp vừa sáng láng như một vì sao. Thời xưa phụ nữ
không được phép đi thi, thậm chí dự một buổi bình văn
ở nhà Giám (Quốc Tử Giám) cũng không được (Phạm Đình
Hổ, Vũ Trung Tuỳ Bút), bà cải trang đi thi như thế
là phạm tội khi quân, nhưng chúa Mạc không những không trừng
phạt mà còn nạp cung, phong tước phi, tỏ ra rất quý trọng
tài sắc bà.
Nhà Mạc mất, bà
vào rừng ẩn náu, bị quân Trịnh bắt được. Bà chống gươm
xuống đất nói :"Các ngươi bắt được ta thì phải đưa
ta đến nộp chúa của các ngươi, nếu vô lễ thì với lưỡi
gươm này ta sẽ tự tử". Quân Trịnh bèn giải bà về nộp
chúa Nghị Vương, chúa rất sủng ái.
Về già bà xuất
gia đi tu ở chùa Vụ Nông, hạt Gia Lâm, lấy hiệu Diệu Huyền.
Nghị Vương mất,
con là Dương Vương lên nối ngôi, triệu bà ra giữ chức Lễ
Sư dậy cung nhân, nên người ta cũng gọi bà là Lễ Phi (Lễ
là danh hiệu, tước vị là Chiêu Nghi, cao nhất trong 9 bậc
cung tần, dưới loại phi) (5).
Bà thường viện
dẫn nghĩa lý kinh sử, sự tích cổ kim rành mạch, cả hai
chúa Trịnh đều khen ngợi, trọng vọng. Các biểu sớ, văn
bài thi Đại khoa chúa đều nhờ bà khảo duyệt lại. Khoa
Tân Mùi (1631) em họ ngoại bà là Nguyễn Minh Triết, sau đổi
tên là Nguyễn Thọ Xuân, ứng chế xong bảo với bạn hữu
:"Bài của tôi viết, cả triều chưa dễ mấy ai hiểu, có
chăng chỉ bà chị tôi là bà Lễ Phi hiểu được mà thôi".
Quả nhiên, bài đưa ra nhiều điển lạ, quan trường không
hiểu hết, chúa hỏi thì bà lý giải cặn kẽ, chúa cho Xuân
đỗ đầu. (Năm 1647, Xuân làm đến chức Tả Thị lang bộ
Hộ, sau thăng đến chức Thượng thư, Thiếu bảo Cẩn quận
công, thọ hơn 90 tuổi).
Tương truyền nhà
bà có ngôi tiên phần ở núi Trì Ngư, thuộc kiểu đất "Nhất
kính chiếu tam vương" (một gương soi ba vương), bà thờ ba
đời chúa chính ứng với điều này.
Năm 70 tuổi bà
xin về làng, dựng am "Đàm Hoa" để ở, lại được cấp các
thuế trong làng làm ngụ lộc.
Bà mất năm 80 tuổi,
táng ở núi Trì Ngôi (Ngư ?) làng Kiệt Đặc. Ngọn tháp xây
trên mộ gọi là "Tinh Phi cổ tháp", được liệt vào hạng
"Chí Linh Bát Cổ", có khắc mười chữ trên bia :"Lễ Phi sinh
thông tuệ, nhất kính chiếu tam vương".
Trong bia "Chí Linh
Bát Cổ" cũng ghi lại bài thơ đề trên "Tinh Phi cổ tháp"
:
Kính nhan lưu cố thấp;
Tùng cổ thử giang sơn,
Chí kim kỷ minh giáp;
Hoa thảo tự khai tạ,
Ngư tiều tương vấn đáp;
Sơn sắc chính thanh hương,
Thu thanh hà tiêu táp.
Đại ý :"Một cái
tay ngọc ngà vin bẻ cành đan quế thứ nhất khi xưa kia, nay
thì trên cái kiểu đất "hình mặt gương" này còn lưu lại
với đời một toà tháp cổ. Giang sơn này từ bấy lâu nay
trải bao năm tháng mà đổi với cái cảnh cổ tháp này, chỉ
có hoa kia tự khai khai tạ tạ cùng ông ngư phủ, chú tiều
phu khi qua tới mà cùng nhau trò chuyện mà thôi. Đang khi ta
viếng cảnh nhớ người, núi non xanh ngắt một mầu, bỗng
đâu xào xạt tiếng gió thu, giục lòng khách thương kim tự
tích".
Bài thơ này do Nguyễn
Trọng Thuật sao chép lại (Nam Phong số 161, 1931) khi ấy
cổ tháp không còn dấu vết, duy chỉ có một ngôi chùa nhỏ
(am ?) làng Kiệt Đặc còn thờ tượng bà. Trên bàn có bức
hoành đề hai chữ "Hoa Am" và một đôi câu đối :
Đại bút do truyền bát cổ bi.
Lại có một cái
bia do chúa Trịnh (Dương Vương ?) tặng phong là "Chính vương
phủ thị nội cung tần đức lão Lễ Sư". Chúa cấp ruộng
hương hỏa để thờ bà.
Sự tích bà còn
ghi trong Chí Linh phong thổ ký. Làng Kiệt Đặc thờ bà
làm thần.
Bà giỏi cả Hán
văn lẫn quốc âm, sáng tác nhiều, tiếc rằng ngay từ thế
kỷ XVIII đã bị thất lạc gần hết (theo Vũ Phương Đề).
Văn thơ bà có tiếng là hay, song những câu còn được lưu
truyền lại không mấy xuất sắc, nhưng cũng xin chép ra để
khỏi thất lạc :
Bà có soạn một
tập Gia Ký (6) bằng quốc âm, văn vần, ghi chép việc
riêng của mình. Đây là cảm nghĩ ở dọc đường khi lánh
nạn lên Cao Bằng :
Che trên đã có trời xanh phù trì.
Bà lại tự ví
mình với Bạc thị, vợ Hán Cao tổ, có tiếng là người hiền
đức:
Song le Bạc thị vốn duyên Hán hoàng. (7)
Bà xưng là người
hiền cũng không ngoa : trong làng có người làm hại anh bà,
nhưng khi vinh hiển, bà không thèm cậy quyền thế để trả
thù, ai cũng khen phục bà là người độ lượng. Người ấy
sau hết lòng phụng sự bà.
Tự xét về văn
tài mình bà viết :
Ắt là tay thiếp kém gì Trạng nguyên ?
Nếu quả bà thi
đỗ năm 17 tuổi, thì hai câu này chắc viết khi còn trẻ lắm,
vì một khi chính mình đã đỗ Trạng rồi thì không còn lý
do gì để so sánh "kém gì Trạng nguyên" nữa ?
Trong làng có cậu
ấm chọc ghẹo, bà ghét :
Thoảng đem cánh phượng bay cao Thạch thành (9)
Bà còn lập cho
học trò Chí Linh một Văn Hội, ngày rầm, mồng một, họp
tại nhà thờ họ bà ở làng Kiệt Đặc, đợi đầu bài của
bà ở kinh cho chạy ngựa trạm đem về. Riêng sự kiện này
cũng chứng tỏ chúa Trịnh quý trọng bà lắm mới cho dùng
ngựa trạm là của công để phục vụ riêng cho học trò của
bà ở huyện Chí Linh. Bài làm xong đóng hòm gửi về kinh,
bà chấm rồi gửi trả. Bà lại xuất tiền cho người trưởng
họ chu biện cơm nước cho sĩ tử hôm làm bài. Văn học Chí
Linh thịnh là nhờ công không nhỏ của bà.
Sử sách của ta
ít quan tâm tới tiểu sử các tác gia, riêng đối với phụ
nữ càng tỏ ra mơ hồ đến nỗi một vị nữ Trạng nguyên
có một không hai của ta mà sinh năm nào, mất năm nào, lấy
chúa Mạc nào cũng không ai hay, đành phải phỏng đoán. Những
sự kiện khiến ta có thể dựa vào để ước tính là :
Năm 10/20 tuổi bà
lên Cao Bằng lánh nạn rồi cải trang đi học. Năm 17 tuổi
thi đỗ Trạng nguyên, lấy chúa Mạc, sau lại thờ hai chúa
Trịnh Nghị Vương (1623-57) và Trịnh Dương Vương (1657-82).
Năm Tân Mùi (1631) bà chấm thi cho Nguyễn Thọ Xuân đỗ đầu.
70 tuổi về làng dựng am "Đàm Hoa". Mất năm 80 tuổi.
Tất cả những
chi tiết này chỉ có chuyện Nguyễn Thọ Xuân đỗ đầu năm
1631 còn được xác nhận trong Lịch Triều Hiến Chương,
Khoa Mục Chí.
Để tiện việc
phỏng tính, chúng ta cần ôn lại sơ qua quãng lịch sử cuối
thời nhà Mạc :
1592
- Mạc Mậu Hợp thua quân Trịnh, chạy trốn ở huyện Kim Thành (Hải Dương), rồi bị bắt và bị chém ở Thăng Long.
-Lúc ấy lòng dân vùng Đông Bắc (Hải Dương, Kinh Bắc v.v...) còn quy phụ nhà Mạc. Dư đảng nhà Mạc nổi lên khắp nơi, từ sông Nhị hà trở lên miền Bắc khói lửa liên miên, giặc cướp không yên, dân mất mùa, đói kém.
-Mạc Kính Chỉ chiếm Đông Triều, Thanh Lâm, xưng hiệu Bảo Định rồi Khánh Hựu ở Chí Linh. 1593 Mạc Kính Chỉ bị chém ở bến Thảo Tân (Bến Cỏ, Thăng Long).
-Mạc Kính Dụng, con Kính Chỉ, giữ Thái Nguyên, xưng Uy Vương, 1598 bị thắt cổ ở chợ cửa Đông (Thăng Long).
-Mạc Kính Chương chiếm Thiên Thi. 1596 bị giết...
- Mạc Mậu Hợp thua quân Trịnh, chạy trốn ở huyện Kim Thành (Hải Dương), rồi bị bắt và bị chém ở Thăng Long.
-Lúc ấy lòng dân vùng Đông Bắc (Hải Dương, Kinh Bắc v.v...) còn quy phụ nhà Mạc. Dư đảng nhà Mạc nổi lên khắp nơi, từ sông Nhị hà trở lên miền Bắc khói lửa liên miên, giặc cướp không yên, dân mất mùa, đói kém.
-Mạc Kính Chỉ chiếm Đông Triều, Thanh Lâm, xưng hiệu Bảo Định rồi Khánh Hựu ở Chí Linh. 1593 Mạc Kính Chỉ bị chém ở bến Thảo Tân (Bến Cỏ, Thăng Long).
-Mạc Kính Dụng, con Kính Chỉ, giữ Thái Nguyên, xưng Uy Vương, 1598 bị thắt cổ ở chợ cửa Đông (Thăng Long).
-Mạc Kính Chương chiếm Thiên Thi. 1596 bị giết...
1593
-Mạc Kính Cung xưng đế hiệu Càn Thống, giữ châu Yên Bác ở Lạng Sơn.
-Nhà Lê khôi phục Thăng Long, vua Lê Thế Tông về kinh sư.
-Mạc Kính Cung xưng đế hiệu Càn Thống, giữ châu Yên Bác ở Lạng Sơn.
-Nhà Lê khôi phục Thăng Long, vua Lê Thế Tông về kinh sư.
1598
-Tháng 12, Mạc Kính Cung thua chạy sang Tầu từ 1594, được nhà Minh giúp ép Trịnh Tùng cho Kính Cung trấn ở Cao Bằng.
-Tháng 12, Mạc Kính Cung thua chạy sang Tầu từ 1594, được nhà Minh giúp ép Trịnh Tùng cho Kính Cung trấn ở Cao Bằng.
1600
-Bọn Phan Ngạn, Bùi văn Khuê làm phản theo về nhà Mạc, vua phải lánh đi Thanh Hoa.
-Mạc Kính Cung được Bùi thị, mẹ Mạc Mậu Hợp, đón về chiếm Đông Kinh (Thăng Long) dân theo vài vạn. Tháng 12, thua quân Trịnh Tùng, chạy sang Kim Thành.
-Bọn Phan Ngạn, Bùi văn Khuê làm phản theo về nhà Mạc, vua phải lánh đi Thanh Hoa.
-Mạc Kính Cung được Bùi thị, mẹ Mạc Mậu Hợp, đón về chiếm Đông Kinh (Thăng Long) dân theo vài vạn. Tháng 12, thua quân Trịnh Tùng, chạy sang Kim Thành.
1601
-Mạc Kính Cung lại thua, bỏ Kim Thành, trốn lên Lạng Sơn.
-Vùng Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc bình định.
-Mạc Kính Cung lại thua, bỏ Kim Thành, trốn lên Lạng Sơn.
-Vùng Hải Dương, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc bình định.
1609
-Mạc Kính Cung chiếm Lạng Sơn rồi quấy rối Thái Nguyên, sau thua quân Trịnh phải chạy vào hang động ẩn náu.
-Mạc Kính Cung chiếm Lạng Sơn rồi quấy rối Thái Nguyên, sau thua quân Trịnh phải chạy vào hang động ẩn náu.
1613
-Trịnh Tráng dẹp xong Yên Quảng, đi kinh lý vùng này.
-Trịnh Tráng dẹp xong Yên Quảng, đi kinh lý vùng này.
1616 -Mạc Kính Cung
nhường ngôi cho Mạc Kính Khoan (Biên Niên Lịch Sử Cổ
Trung Đại)
(Theo Lê Quý Đôn thì mãi đến 1621/23 Mạc Kính
Khoan mới tiếm ngôi).
1618 -Mạc Kính Khoan
chiếm Thái Nguyên, Cao Bằng, thua quân Trịnh Tráng, chạy trốn.
1621-23 -Mạc Kính Khoan xưng Khánh Vương, hiệu Long Thái, cùng
Kính Cung chiếm giữ Cao Bằng, nhưng biệt lập (theo Lê Quý
Đôn).
1623
-Trịnh Tráng lên ngôi, phải dẹp dư đảng của em là Trịnh Xuân, về đóng ở Thanh Hoa.
-Mạc Kính Khoan thừa cơ kéo quân đến Gia Lâm, dòm dỏ kinh sư, người theo hàng vạn, bị Trịnh Tráng đánh tan phải chạy về Cao Bằng
-Trịnh Tráng lên ngôi, phải dẹp dư đảng của em là Trịnh Xuân, về đóng ở Thanh Hoa.
-Mạc Kính Khoan thừa cơ kéo quân đến Gia Lâm, dòm dỏ kinh sư, người theo hàng vạn, bị Trịnh Tráng đánh tan phải chạy về Cao Bằng
1625
-Mạc Kính Cung bị diệt. Mạc Kính Khoan xin làm phiên trấn, triều đình thuận nhưng bắt bỏ đế hiệu.
-Mạc Kính Cung bị diệt. Mạc Kính Khoan xin làm phiên trấn, triều đình thuận nhưng bắt bỏ đế hiệu.
1638
- Mạc Kính Khoan mất, con là Kính Vũ lên ngôi, lại xưng đế hiệu Thuận Đức.
- Mạc Kính Khoan mất, con là Kính Vũ lên ngôi, lại xưng đế hiệu Thuận Đức.
1657
-Trịnh Tráng mất, được truy phong Nghị Vương. Con là Trịnh Tạc (Dương Vương) lên nối ngôi.
-Trịnh Tráng mất, được truy phong Nghị Vương. Con là Trịnh Tạc (Dương Vương) lên nối ngôi.
1667
-Mạc Kính Vũ thua quân Trịnh Tạc, chạy trốn sang Tiểu Trấn Yên của nhà Thanh.
-Mạc Kính Vũ thua quân Trịnh Tạc, chạy trốn sang Tiểu Trấn Yên của nhà Thanh.
1669
-Nhà Thanh bắt Trịnh Tạc trả lại 4 châu ở Cao Bằng cho Mạc Kính Vũ.
-Nhà Thanh bắt Trịnh Tạc trả lại 4 châu ở Cao Bằng cho Mạc Kính Vũ.
1677
- Mạc Kính Vũ theo Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh. Quế mất, triều đình gửi thư cho nhà Thanh kể tội Kính Vũ. Khi Kính Vũ thua quân Đinh văn Tả chạy sang Long Châu, nhà Thanh bắt giao trả họ Trịnh. Nhà Mạc đến đây mới dứt.
- Mạc Kính Vũ theo Ngô Tam Quế chống lại nhà Thanh. Quế mất, triều đình gửi thư cho nhà Thanh kể tội Kính Vũ. Khi Kính Vũ thua quân Đinh văn Tả chạy sang Long Châu, nhà Thanh bắt giao trả họ Trịnh. Nhà Mạc đến đây mới dứt.
A/
Câu hỏi thứ nhất : Bà sinh năm nào ?
a)
Sớm nhất vào năm 1589
Mãi đến tháng
12 năm 1598, Mạc Kính Cung mới dựa thế nhà Minh, được về
trấn đóng ở Cao Bằng. Gia đình bà chỉ có thể di cư lên
Cao Bằng sớm nhất vào năm sau (1599), khi ấy bà mới 10 tuổi
:
b) Muộn nhất
vào năm 1591
- Bà chỉ phò hai
chúa Trịnh thì muộn nhất phải mất cùng năm với Trịnh
Tạc (1657-82), nếu mất sau 1682 thì thành "nhất kính chiếu
tứ vương" chứ không phải "tam vương" nữa. Nếu bà mất
vào năm 1682, thọ 80 tuổi, thì bà sinh muộn nhất vào năm
:
10 tuổi theo cha
lên Cao Bằng tức là vào năm :
Khi ấy Hải Dương,
quê bà, đã bình định từ 1601, thì gia đình bà còn chạy
lên Cao Bằng làm gì ? Tất nhiên không phải bà sinh năm 1602.
- Gia đình bà chạy
lên Cao Bằng muộn nhất phải vào đầu năm 1601, ngay trước
khi Hải Dương bình yên, như vậy bà sinh muộn nhất vào năm
:
c) Bà sinh năm
1590
Nguyễn Trọng Thuật
viết :"Năm 20 tuổi, nhà Lê khôi phục Thăng Long, bà theo cha
lên Cao Bằng ...". Từ cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ
XVII, nhà Lê "khôi phục" Thăng Long ba lần :
1. Năm 1593, sau khi
Mạc Mậu Hợp chết, lúc ấy Mạc Kính Cung chưa trấn đóng
Cao Bằng, tất nhiên gia đình bà không chạy lên Cao Bằng,
lên với ai ?
2. Năm 1623, Nghị
Vương Trịnh Tráng mới lên ngôi, đang lo diệt dư đảng Trịnh
Xuân, kinh thành rối loạn, phải bỏ về Thanh Hoa. Mạc Kính
Khoan nhân cơ hội tiến quân đến Gia Lâm, dòm dỏ kinh sư,
nhưng một tháng sau bại trận, bỏ chạy về Cao Bằng, quân
Trịnh chiếm lại Thăng Long. Nếu khi ấy bà 20 tuổi, thì bà
sinh năm :
Thọ 80 tuổi, tức
là bà mất năm 1683, sau Dương Vương một năm, trường hợp
này lại rơi vào cảnh "nhất kính chiếu tứ vương", không
ổn.
3. Năm 1600, bọn
Phan Ngạn, Bùi văn Khuê làm phản, theo nhà Mạc, vua Lê phải
lánh về Thanh Hoa, Mạc Kính Cung toan chiếm giữ Thăng Long,
nhưng thua quân Trịnh, phải chạy đến Kim Thành, rồi lên
Lạng Sơn. Nếu năm ấy bà 20 tuổi thì bà sinh :
Cho là bà lấy Nghị
Vương ngay khi mới lên làm chúa (1623) thì lúc ấy bà đã :
e già quá, chắc
chúa Trịnh không nạp cung.
Có lẽ Nguyễn Trọng
Thuật sơ ý viết nhầm 10 tuổi thành 20 tuổi, vì các sách
khác đều ghi bà lên Cao Bằng năm 10 tuổi. Nếu bà lên Cao
Bằng năm 10 tuổi thì bà sinh năm :
Kiểm
chứng lại :
Nếu qủa bà sinh
năm 1590 thì trước hết không phản với thuyết trình bầy
trên đây cho bà sinh sớm nhất năm 1589, muộn nhất năm 1591.
Những chi tiết khác cũng đều phù hợp :
1600 , Bà 10 tuổi,
lên Cao Bằng. Khi ấy nhà Lê vừa khôi phục Thăng Long, Hải
Dương chưa bình định, mà Mạc Kính Cung thì đã trấn đóng
Cao Bằng được hơn một năm, đủ thì giờ ổn định tình
thế, lại có nhà Minh ủng hộ đằng sau, lòng dân còn quy
phục nhà Mạc, gia đình bà chạy lên Cao Bằng là phải.
1607 , Bà 17 tuổi,
đã lên Cao Bằng và cải trang đi học được 7 năm, đủ sức
đi thi. Mạc Kính Cung chiếm giữ Cao Bằng đưọc 9 năm, đủ
thì giờ tổ chức khoa cử.
1609 , Mạc Kính
Cung thua quân Trịnh phải chạy vào hang động ẩn náu, tất
bà cũng chạy theo, cho nên quân Trịnh mới bắt được bà
ở trong rừng, nhưng không rõ vào năm nào. Trịnh Tráng mãi
đến năm 1623 mới chính thức làm chúa, và đến khi chết
(1657) mới được truy phong làm Nghị Vương. Câu "quân đem
bà về nộp chúa Trịnh Nghị Vương..."rất tối nghĩa. Nếu
quả bà bị bắt khi Trịnh Tráng mới lên làm chúa (1623) thì
lúc ấy bà vừa 33 tuổi, kể ra cũng còn trẻ, có thể được
nạp cung. Chỉ sợ bà bị bắt từ trước, quân đem về nộp
không phải cho chúa Trịnh Tùng, mà là nộp cho Trịnh Tráng,
lúc ấy là Thanh quận công, tuy chưa làm chúa nhưng từ 1612
đã thống lãnh quân đội đi dẹp họ Mạc mấy lần, Tráng
là người sau này sẽ làm chúa và được phong tước Nghị
Vương.
1631 , Bà 41 tuổi,
đủ già dặn để khảo duyệt lại các bài văn thi Đại khoa,
Nguyễn Thọ Xuân nhờ bà được đỗ đầu.
1670 , Bà mất năm
80 tuổi, trước Dương Vương Trịnh Tạc 12 năm, hợp câu "nhất
kính chiếu tam vương".
B.
- Câu hỏi thứ hai : Bà lấy chúa Mạc nào ?
Bà chỉ có thể
lấy một trong ba chúa Mạc đã chiếm giữ Cao Bằng là :
- Mạc Kính Cung,
con Kính Điển, Điển là cháu gọi Mạc Đăng Dung bằng ông,
- Mạc Kính Khoan,
cháu gọi Kính Cung bằng chú,và là cha của Kính Vũ,
- Mạc Kính Vũ,
cũng gọi là Kính Hoàn, là con của Kính Khoan.
a) Bà không thể
lấy Mạc Kính Vũ (1638-77)
Mãi đến 1638 Kính
Vũ mới lên ngôi mà 1631 bà đã theo về chúa Trịnh và chấm
thi ở Thăng Long, tất nhiên không phải Vũ cho bà đỗ Trạng,
và bà tất không lấy Vũ.
b) Bà cũng không
thể lấy Mạc Kính Khoan
(1616/21/23-38)
(1616/21/23-38)
- Cho là bà lấy
Kính Khoan từ khi Khoan mới lên Cao Bằng (1616) và tổ chức
thi cử ngay, thì năm ấy bà đã :
26 tuổi mới thi
đỗ thì không lấy gì làm sớm đối với một người nổi
tiếng là thông minh xuất chúng; 26 tuổi mới xuất giá thì
lại càng không sớm đối với một phụ nữ thời xưa, thứ
nhất lại là một người rất đẹp, càng vô lý.
- Nếu 17 tuổi bà
thi đỗ và lấy chúa Mạc, tất phải vào năm :
Khi ấy Mạc Kính
Khoan chưa lên Cao Bằng và có thể cũng chưa chính thức lên
ngôi. Theo Lê Quý Đôn, sau khi Mạc Mậu Hợp chết, Kính Khoan
còn lẩn quất trên 20 năm ở vùng Đại Từ, Vũ Nhai, rồi
mới lên Cao Bằng. Biên Niên Lịch Sử Cổ Trung Đại chép
:"năm 1616 Kính Cung nhường ngôi cho con là Kính Khoan" tính ra
cũng trên 20 năm sau khi Mạc Mậu Hợp bị chém ở Thăng Long.
Nếu 1616 Khoan mới lên Cao Bằng thì tất nhiên Khoan không phải
là người cho bà đỗ Trạng, và bà cũng không lấy Khoan.
c) Bà chỉ có thể
lấy Mạc Kính Cung nếu bà thi đỗ và lấy chúa Mạc ở Cao
Bằng năm 1607, khi ấy Kính Khoan chưa lên Cao Bằng, và Kính
Vũ chưa lên ngôi.
Câu "nhà Mạc mất,
bà theo về chúa Trịnh Nghị Vương" không đúng, phải sửa
lại là :" Mạc Kính Cung bại trận, bà trốn theo vào rừng,
bị quân Trịnh bắt, nộp cho Trịnh Tráng (sau này làm chúa
và khi chết được phong tước Nghị Vương). Nhà Mạc chỉ
"mất" với Mạc Kính Vũ.
Sau đây là bảng
tóm tắt những năm đáng ghi nhớ trong đời bà (nếu có lầm,
chắc cũng chỉ xê dịch khoảng 10 năm) :
1590 , Sinh ở làng
Kiệt Đặc.
1600 , 10 tuổi, lên
Cao Bằng tị nạn.
(1607) , 17 tuổi
thi đỗ, lấy Mạc Kính Cung (có thể thi đỗ lấy Mạc Kính
Cung muộn hơn mấy năm).
(1623) , 33 tuổi,
lấy Trịnh Tráng (có thể lấy từ trước).
(1631) , 41 tuổi,
chấm thi ở Thăng Long, cho Nguyễn Thọ Xuân đỗ đầu.
1660 ,70 tuổi về
làng, dựng am "Đàm Hoa" để ở.
1670 , Mất năm 80,
táng ở núi Trì Ngư, làng Kiệt Đặc.
Châtenay-Malabry
tháng 5, 1990
(Văn học, số 53-54, tháng 7 & 8, 1990)
(Văn học, số 53-54, tháng 7 & 8, 1990)
1. Trần Lê Sáng,
Phùng
Khắc Hoan, tr. 30.
2. Bùi Hạnh Cẩn,
Lê
Quý Đôn, tr. 159.
Sử Ký Toàn Thư
IV,
189 chép Nguyễn thị Niên là vợ Bùi văn Khuê, vì có chị
lấy Mạc Mậu Hợp, thường ra vào trong cung. Hợp thấy đẹp,
mưu giết Khuê để toan chiếm.
3. Đông Châu,
Nam
Phong số 24. Có thể tên này do chúa Trịnh đặt cho, vì
các cung tần của vua Lê, chúa Trịnh, tên đệm chữ "Ngọc".
4. Các sách đều
chép bà đỗ thủ khoa, một vài chỗ nói bà đỗ Trạng nguyên,
không rõ đó là sự thực hay thấy nói đỗ thủ khoa vội
cho ngay là phải đỗ Trạng ? Nhà Nguyễn có lệ không lấy
ai đỗ Trạng nguyên, song nhà Mạc hầu như khoa nào cũng lấy
người đỗ Trạng, nên tôi cũng để bà đỗ Trạng cho thích
hợp với truyền thống nhà Mạc.
5. Đại Nam Nhất
Thống Chí chép :"Vua Lê triệu vào dậy cung nữ, phong cho
tước hiệu là Nghi Ái quan".
6. Theo Vũ Phương
Đề thì đến thế kỷ 18, văn thơ bà đã thất lạc gần
hết. Nguyễn Trọng Thuật viết trong Nam Phong số 161
: "Sách này (Gia ký) còn truyền đến gần đây mới mất"
không rõ tác giả có bằng chứng hay chỉ chép theo họ Vũ
mà quên rằng với họ Vũ thì "gần đây" có nghĩa là thế
kỷ thứ XVIII, còn vói họ Nguyễn thì "gần đây" có nghĩa
là đầu thế kỷ thứ XX ?
7. Có bản chép
:
Song le Bạc thị vốn duyên Hán thần.
8. Có bản chép
:
9. Có bản chép
:
Nguyễn Trọng Thuật
kể là "một ông quan trong làng đến hỏi, bà giận, viết
câu này". Thiết tưởng nếu ông quan dến hỏi là có đủ
nghi lễ, nếu bà không thuận thì thôi, cớ sao lại ghép cho
người ta tội "hỗn hào" ? Thuyết "cậu ấm chọc ghẹo" hợp
lý hơn.
- Biên Niên Lịch
Sử Cổ Trung Đại, Hà Nội : Khoa Học Xã Hội, 1987.
- Bùi Hạnh Cẩn,
Lê
Quý Đôn, Hà Nội : Văn Hoá, 1985.
- Đại Nam Nhất
Thống Chí, III, tr. 437, Hà Nội : Khoa Học Xã Hội, 1971.
- Đồ Nam (Nguyễn
Trọng Thuật), "Bà Sao Sa, Nữ Trạng nguyên", Nam Phong số
161, 9-1931, tr. 342-4.
- Đông Châu (Nguyễn
Hữu Tiến), "Bà Lễ Phi Nguyễn Thị", Nam Phong số 24,
6-1919, tr. 501-2.
- Khâm Định
Việt Sử Thông Giám Cương Mục,
XV & XVI, Hà Nội : Văn
Sử Địa, 1957.
- Lê Quý Đôn,
Đại
Việt Thông Sử, Hà Nội : Khoa Học Xã Hội, 1978.
- Ngô Sĩ Liên,
Đại
Việt Sử Ký Toàn Thư,
IV, Hà Nội : Khoa Học Xã Hội, 1968.
- Nguyễn Bá Trác,
Hoàng
Việt Giáp Tý Niên Biểu,
Saigon : Bộ Quốc Gia Giáo Dục,
1963.
- Phan Huy Chú, Lịch
Triều Hiến Chương, Khoa Mục Chí,
Hà Nội : Sử Học, 1961.
- Quỳnh Cơ, Mai
Quốc Liên, Văn Phác, Chuyện Hay Sử Cũ, Hà Nội : Thanh
Niên, tr. 24-6, 1989.
- Trần Lê Sáng,
Phùng
Khắc Hoan, Hà Nội : 1985.
- Trần Trọng Kim,
Việt
Nam Sử Lược, Saigon : Tân Việt, 1953.
- Vũ Phương Đề,
Công
Dư Tiệp Ký, Saigon : Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Dịch giả
: Nguyễn Đình Diệm.
Tập III, tr. 118-22
"Lễ phi sinh thông tuệ..."
Tập III, tr. 34-41
"Nguyễn Công Thọ Xuân"
* *
Bài này viết
năm 1990, đến 1993 tôi được đọc "Bà Tiến sĩ
thời Mạc" (Những bà giáo thời xưa, Hà Nội: Phụ nữ,
1988) của Đỗ thị Hảo cho biết bà Nguyễn thị Duệ đỗ
Tiến sĩ ở Cao Bằng thời Mạc Kính Cung, khoa Bính Thìn (1616).
Chính ra Chí Linh Phong Vật Chí chép bà Duệ đỗ năm
Mậu Thìn, tức là 1628 hay 1688, song theo Đỗ thị Hảo thì
có lẽ Mậu Thìn không đúng vì từ 1628 đến 1644 quân Trịnh
không đánh nhau với quân Mạc trận nào, mà năm 1631 thì bà
Duệ đã ở Thăng Long cho Nguyễn Minh Triết đỗ Tiến sĩ,
có lẽ vì thế, dựa vào chữ "Thìn" Đỗ thị Hảo đã đổi
Mậu Thìn sang Bính Thìn ?
Có điều không
ổn là từ 1609, Mạc Kính Cung đã thua quân Trịnh phải chạy
vào hang động ẩn náu. Việc bà chạy trốn theo vào rừng
rồi bị quân Trịnh bắt nộp Trịnh Tráng chứng tỏ khi ấy
bà đã thành hôn với Kính Cung, tức là bà đã đỗ Trạng
từ trước.
Nếu Biên
Niên Lịch Sử Cổ Trung Đại
chép đúng thì 1616 Mạc Kính
Cung nhường ngôi cho Kính Khoan, thế thì còn tổ chức thi cử
kén người làm gì ?
Chữ "Thìn" chưa
chắc là đúng, nay ta thử căn cứ vào chữ "Mậu"và đổi
Mậu Thìn sang Mậu Thân (1608) thì thấy nó không xa với thời
điểm tôi tính là mấy (1607). Tuy nhiên, vì dựa vào Chuyện
Hay Sử Cũ, nói bà đỗ năm 17 tuổi (xét ra có lý bởi bà
rất thông minh), nhưng lại là đỗ ở... Thăng Long và vào
cuối thời nhà Mạc (1527-1592) cho nên tôi đã dè dặt đặt
(1607) trong ngoặc đơn, có nghĩa là có thể muộn hơn mấy
năm.
Ngoài ra bà Đỗ
thị Hảo còn cho biết thầy học của bà Du họ Cao và câu
"nhất kính chiếu tam vương"còn có thể hiểu là bà Du sống
dưới triều ba vì vua Lê, tức là :
Lê Thần tông
:1619-42 rồi 1649-62
Lê Chân tông
:1643-48
Lê Huyền tông
: 1663-71
Hoặc trải qua
ba đời chúa Trịnh :
Trịnh Tráng :
1623-57
Trịnh Tạc :
1657-82
Trịnh Căn : 1682-1709
Hoặc ba vương
triều, tức là triều nhà Lê, triều nhà Mạc và cả triều
các chúa Trịnh nữa.
Trước hết,
"chiếu tam vương" mà hiểu là "tam vương triều" thì có lẽ
hơi gượng ép.
Còn nói bà "sống",
với nghĩa "phục vụ" dưới triều ba vua Lê Thần tông, Chân
tông, Huyền tông thì có thể được vì cộng cả ba đời
vua là :
Ta đã biết bà
thọ 80 tuổi, vậy thì 28 năm còn lại gồm 18 năm đầu đời
khi bà còn đi học và 10 năm cuối đời khi bà đi tu, không
phục vụ ai cả.
Về các chúa
Trịnh nếu kể bà sống dưới Trịnh Căn e không ổn vì Trịnh
Căn lên ngôi năm 1682, cho là bà chỉ phục vụ Căn có một
năm rồi đi tu thì bà mất năm :
Và sinh năm :
Vậy thì làm
thế nào đỗ năm 1608 (theo tôi tính) hay 1616 (theo bà Hảo tính)
được ? Bà phải sống dưới thời Trịnh Tùng (1571-1623) và
Trịnh Tráng, Trịnh Tạc mới hợp lý.
Suy nghĩ kỹ,
tôi vẫn thấy "tam vương" trỏ vào Mạc Kính Cung, Trịnh Tráng
và Trịnh Tạc đúng hơn cả.
Nguồn: http://chimviet.free.fr/vanhoc/chquynh/loixua1/loixua06.htm#nguyenthidu
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét