LỜI NÓI ĐẦU -
VẠN HUÊ
LẦU là một bộ y truyện có giá trị sử liệu của TQ, được phổ biến rộng rãi sang
Việt Nam từ xa xưa. Các vị cụ lão nước ta trước đây đã lấy tích truyện soạn ra
tuồng hát và trình diễn khắp nơi trong dân gian, làm cho nhân vật trong truyện
trở nên quen thuộc.
Truyện
viết vào thời Tống, sau Ngũ Đại, Thập Quốc, thời kỳ mà “năm nước mười đời” đánh
nhau liên miên, dân chúng chết chóc đói khát.
Bắt đầu
từ năm 960, Triệu Khuông Dẫn cướp ngôi nhà hậu Chu, tiêu diệt các lực lượng
phong kiến hùng cứ các nơi, thống nhất đất nước, trừ nước Liêu phía Bắc sông
Hoàng Hà, đánh nước Hạ phía Bắc Trung Quốc... và đóng đô ở Khai Phong lập nên
nhà Tống, lịch sử gọi là Bắc Tống (960- 1127).
Sau thời
kỳ thống nhất, nước Tống luôn bị nước Liêu và nước Hâ ở phía Bắc Trung Quốc tấn
công, làm cho nước Tống nhiều lần thảm bại.
Nước
Liêu gồm các bộ lạc du mục ở phía Đông Bắc Trung Quốc đến phía Bắc sông Hoàng
Hà, năm 916 gọi là nước Khiết Đan, sau đổi thành nước Liêu.
Nước Tây
Hạ gồm các bộ lạc dân tộc Khương ở Tây Bắc Trung Quốc, thấy nước Tống muốn gồm
thâu thiên hạ nên kéo quân xuống phía Nam tranh chấp.
Đến năm
1115, vùng Cát Lâm, Liêu Ninh lại nổi lên một quốc gia mới gọi là nước Kim.
Năm
1125, nước Kim tiêu diệt nước Liêu, rồi kéo binh xuống đánh Tống, bao vây Khai
Phong. Vua Tống đầu hàng, nước Kim tạm rút lui về phía Bắc.
Năm
1127, Kim lại đánh Tống bắt được vua Tống là Tống Huy Tong và vua Tống Khâm
Tông, phá nát kinh đô, làm cho nhà Bắc Tống bị diệt vong.
Sau khi
quân Kim rút lui về Bắc, Triệu Cấm em của Khâm Tông, được một số tôi thần tôn
lên làm vua ở Ưng Châu Hà Nam, xưng hiệu là Cao Tông thành lập nhà Nam Tống
(1127-1287)
Nhưng
triều đình Nam Tống nhu nhược, thu dụng nhiều tôi nịnh nên chính trị không vững
vàng, nhiều lần bị quân Kim đánh phá làm cho nhân dân bị đói kém, sưu thuế nặng
nề, phong trào nhân dân khởi nghĩa nhiều nơi, gồm cả cuộc khởi nghĩa của nông
dân ở Lương Sơn Bạc do Tống Giang điều khiển.
Nói về
việc cải tổ, chỉnh đốn việc cai trị thì thời Bắc Tống có cuộc cải cách của Phạm
Trọng Yêm, thời Nam Tống có cuộc cải cách của Vương An Thạch, nhưng cả hai cuộc
cải cách ấy cũng không cứu vãn được tình thế.
Triều
Tống có hai lần kéo quân đến đánh Việt Nam, nhưng cả hai lần đều bị thua thiệt.
Lần thứ
nhất vào năm 981, quân Tống bị Lê Hoàn đánh bại ở sông Bạch Đằng, tướng Tống là
Hầu Nhân Báo bị giết chết.
Lần thứ
hai vào năm 1076, nước Tống lại đem quân xâm lược nhưng Lý Thường Kiệt đánh phá
không vượt qua nổi sông Cầu và binh Tống bị giết chết quá nhiều, nên tướng Tống
là Quách Quỳ phải rút quân về nước.
Đến thế
kỷ XIII, quân Mông Cổ bành trướng khắp nơi ở Châu Á, và Đông Âu, năm 1234 diệt
nước Kim, năm 1297 diệt Nam Tống thành lập nhà nước Nguyên ở Trung Quốc.
Đó là
bối cảnh chung của một số truyện ghi lại tình hình Trung Quốc thời ấy.
Vạn Huê
Lầu dựa theo những thập niên đầu của thời Bắc Tống giai đoạn chống lại nước
Liêu, và những diễn biến nội bộ của triều đình nhà Tống.
Phần nội
bộ phản ánh hai phe trung và nịnh âm mưu chiếm đoạt quyền thế, tạo ra nhiều âm
mưu xảo trá, tác động vào chính trị của Tống triều.
VẠN HUÊ
LẦU là một quán rượu, được lấy tên đặt cho bộ truyện, nơi đó là chỗ gặp gỡ của
các anh hùng khí phách, mà cũng là nơi mâu thuẫn giữa trung và nịnh, giữa chánh
và tà làm cho cốt truyện lắm điều kỳ thú.
Phần nổi
bật nhất trong truyện là Bao Công xử án Quách Hoè sau mười sáu năm mới phát
giác. Mặc dù Quách Hoè được Hoàng thái hậu che chở, song Bao Công là người ngay
thẳng, tôn trọng công lý, nên đã vạch trần âm mưu của nịnh thần qua những hành
động gian ác chôn chặt trong qúa khứ.
Đọc VẠN
HUÊ LẦU chúng ta tìm hiểu được lòng người tự ngàn xưa, vẫn phân định hai ranh
giới thiện, ác, và đó là những bài học mà chúng ta tìm hiểu trong lẽ sống con
người.
HỒI THỨ NHẤT - NƠI KIM KHUYẾT THIẾU CUNG NỮ
Bấy giờ
triều Tống, vua Chơn Tôn là con thứ ba của vua Thái Tôn, tên là Hằng tức vị năm
Mậu Tuất lấy niên hiệu là Hà Bình phong cho vợ lớn là Lưu phi làm hoàng hậu, vợ
thứ là Lý phi là Thần phi. Cả hai đều được vua yêu mến.
Năm ấy,
hai bà đều có thai, vua mừng rỡ ước ao sanh đặng hoàng nam để nối ngôi.
Còn trong
triều thì bá quan đầy đủ, cũng có người trung thần vị quốc, cũng kẻ gian nịnh
lộng quyền. Những người trung thần như: thái sư Lý Hằng, khu mật sứ Vương Đáng,
thừa tướng Khấu chuẩn, thị chế Tôn Thích.v.v... còn những kẻ gian thần như:
Vương Khâm Nhược, Đinh Vị, Lâm Tri, Trần Hằng Niên là Lưu Thừa Khuê. Năm người
ấy cùng một phe đảng gọi là ngũ quỷ làm rối loạn triều đình.
Lúc ấy
có Bao Chuẩn làm quan Phủ Doãn tại phủ Khai Phong, còn Bàng Hồng làm quan khu
mật, hai người ấy một đàng trung một đàng nịnh, cho nên không thuận với nhau.
Vào năm
Hà Bình thứ ba, nhằm năm Canh Tý, có quan cận thần tâu với nhà vua xin tuyển
thêm cung nữ, vì trong cung thiếu người hầu hạ.
Vua Chơn
Tôn nghe tâu nghĩ thầm:
- Năm
trước ta đã thả ra hơn một ngàn năm trăm cung nữ, lẽ nào năm nay lại tuyển thêm
cung nữ khác. Thôi để ta hạ chỉ cho tuyển thêm một số ít, nhân dịp lựa một nàng
có sắc đẹp nết nàng, ban cho Vương huynh để Vương huynh ta có con nối nghiệp.
Nghĩ như
vậy, vua Chơn Tôn liền hạ chỉ sai Trần Lâm ra tỉnh Sơn Tây phủ Thái Nguyên
tuyển chọn tám mươi mỹ nữ, không được tuyển quá số ấy, kỳ hạn năm tháng phải về
triều phục chỉ.
Trần Lâm
lãnh mạng lui ra, đem thêm tám tên dũng sĩ để hầu cận và một ngàn binh để rước
mỹ nữ về.
Đoàn
người đi độ một tháng thì đến phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây. Các quan địa
phuơng nghe tin đều đón tiếp rước vào thành.
Trần Lâm
truyền chỉ:
- Nay có
thánh chỉ truyền tuyển chọn mỹ nữ, bất kỳ nhà quan hay dân hễ có con gái đẹp
đều phải ghi tên vào sổ để tuyển chọn. Kẻ nào ẩn giấu sẽ bị tội nặng.
Ngày ấy
trong thành phủ Thái Nguyên rất xôn xao, các nàng gái đẹp đều tìm cách gả cưới
không cần kén chọn giàu sang. Vì vậy có nhiều trai nhà nghèo, hèn hạ cưới được
gái đẹp giàu sang. Ấy cũng vì lòng cha mẹ thương con, sợ con gái mình tuyển vào
cung thì không biết ngày nào mà gặp mặt. Chẳng những con nhà dân phải lo sợ, mà
đến cho nhà quan có sắc đẹp cũng phải lo âu trốn tránh.
Bởi vậy
qua một thời gian, Trần Lâm chỉ thu nạp được hai trăm mỹ nữ, nhưng chỉ có hai
mươi người là con nhà qua, còn bao nhiêu là con nhà lê dân hết. Trần Lâm lựa
lại chỉ được 60 người có diện mạo chỉnh tề, còn bao nhiêu đều thả về hết.
Trần Lâm
nói với các quan:
- Năm
trước thiên tử thả cung nữ ra hết, nay phải chọn cho đủ số tám mươi người,
trong đó phải cho cho được bậc quốc sắc thiên hương mới vừa ý thiên tử. Nay con
gái các bậc quan quyền không ra mặt nên tôi buộc lòng phải đến từng nhà tra
xét.
Các quan
nghe Trần Lâm nói đều nhìn nhau lo lắng, trong số đó có một vị quan võ tên Địch
Quảng đang làm chức tổng binh có cô con gái đẹp liệu bề giấu không nổi nên xin
kỳ hạn ba ngày sẽ tìm dâng nạp đủ số.
Trần Lâm
chấp thuận. Các quan đều lui ra, ai về dinh nấy.
Nguyên
Địch Quảng có vợ là Mạnh phu nhân, sanh được hai đứa con gái. Người lớn là Địch
Thiên Kim, mới mười sáu tuổi mà hoa nhường nguyệt thẹn, lại thêm nghề cầm kỳ
thi họa, đẹt phụng thêu hoa, tuy chưa định gả cho ai song không chịu ghi tên
vào sổ tuyển chọn.
Ngày ấy
Địch Quảng về dinh, mặt buồn dàu dàu. Mạnh phu nhân thấy vậy hỏi:
- Hôm
nay có việc chi mà trông tướng quân buồn như vậy?
Địch
Quảng liền kể hết cho Mạnh phu nhân nghe. Vợ chồng đang cùng nhau than thở thì
có Địch Thiên Kim bước vào nghe rõ sự tình liền hỏi:
- Việc
hai anh chị buồn bã em đã nghe rõ hết rồi. Nhưng anh chị ơi, việc đã đến nước
này còn giấu em làm chi.
Địch Quảng
nói:
- Em ơi!
Nay cha đã qua đời rồi, chỉ còn lại mẹ già và hai anh em mình thôi. Nếu anh đem
tên em ghi vào sổ thì mẹ già phải buồn bã khóc than vì phải ca con, e mang bệnh
mà chết. Vì vậy ta định về tâu với thánh thượng dung tha tội không tham dự kén chọn
mỹ nữ.
Thiên
Kim nói:
- Không
nên đâu! Anh là người làm quan lẽ đâu không rõ phép nước. Nếu thiên tử không
chấp thuận lời cầu xin thì làm sao tránh khỏi tội khi quân, liên luỵ đến mẹ già
nữa. Ấy chỉ vì em mà anh mang tiếng bất trung, bất hiếu. Xin anh hãy suy xét
lại.
Địch
Quảng hỏi:
- Vậy ý
em thế nào?
Thiên
Kim nói:
- Theo ý
em thì thì thà liều một mình em mà giữ vẹn cả nhà, còn phần anh khỏi lo tội
nghịch chỉ nữa.
Địch
Quảng nghe nói cứ ngồi than thở mãi.
Hôm sau
Địch Quảng đang ngồi buồn bã thì có quân vào báo:
- Nay có
Trần thái giám dẫn quân đi lục soát nhà của quan, chốc nữa sẽ đến đây. Địch
Quảng nghe báo mặt mày càng buồn bã, còn Mạnh phu nhân thì tay chân bủn rủn.
Thiên
Kim nói:
- Anh
chị đừng lo sợ, em sẽ bằng lòng tiến cung nếu được chọn.
Nói rồi
bèn kêu gia nhân bảo ra đứng ngoài cổng, đón Trần thái giám, nói:
- Xin
đừng xét dinh ta. Địch tổng binh có một người em gái chịu đứng vào sổ kén.
Gia nhân
vâng lệnh ra nói y như lời.
Thiên
Kim lại sai a hoàng đến Phật đường thỉnh mẹ mình là Nhạc thị thái phu nhân vào
hậu đường.
Mọi
người trông thấy nhau đều rơi lệ. Thiên Kim thưa:
- Mẹ ơi
nay có thánh chỉ sai Trần Lâm đến đây chọn mỹ nữ vào cung, song còn chưa đủ số,
cho nên Trần Lâm đến kiểm soát từng nhà. Con không thể cho gia đình mang tiếng
khi quân nên mời mẹ đến đây để tỏ cùng mẹ.
Nói xong
nàng khóc oà lên. Bà Nhạc thị nghe mấy lời tay chân bủn rủn, còn vợ chồng Địch
Quảng tuy dau buồn cũng phải khuyên lơn.
Xảy có
quân vào báo:
- Quan
thái giám Trần Lâm nói nếu có Thiên Kim đã bằng lòng thì phải lập tức trình
diện để kịp tuyển chọn.
Bà Nhạc
phi vừa khóc vừa nói:
-Thôi,
để mẹ đưa con ra khỏi dịch trung cho hết tình mẫu tử.
Thiên
Kim lạy mẹ và hai anh chị rồi từ giã lên kiệu, còn Địch Quảng cũng lên ngựa đưa
em gái đến dịch trung. Ba mẹ con đều vào ra mắt Trần Lâm.
Trần Lâm
xem thấy Thiên Kim thật là tuyệt sắc giai nhân thì cả mừng nói với Địch Quảng:
- Vậy cô
này là con gái của ngài sao?
Địch
Quảng nói:
- Nàng
là em ruột của tôi. Hôm trước ngày có bảo con cháu các quan ai có sắc đẹp thì
ghi vào sổ kén. Sở dĩ tôi chần chờ là vì trong nhà còn có mẹ già, sợ thân mẫu
tôi buồn rầu mà sanh bịnh, nên chưa dám đến đúng ngày. Xin ngài về trào tâu với
thiên tử soi xét.
Trần Lâm
nói:
- Việc
ấy không can chi hết. Nay ngài đã vâng chỉ đem em ra dự tuyển thì có tội gì
đâu. Còn như em ngài nhan sắc như vậy nếu vào cung thì được hưởng vinh hoa phú
quý.
Trần Lâm
chọn Địch Thiên Kim vào đầu sổ rồi từ tạ Địch Quảng đưa nàng Địch Thiên Kim về
cung.
Lúc này
bà Nhạc thị và Thiên Kim lòng đau như cắt, mẹ con khóc sướt mướt không thôi.
Trần Lâm khuyên:
- Xin
lão phu nhân bớt cơn sầu não trở về dinh, sớm muộn cũng có tin tức hồi âm. Tôi
chắc tiểu thư sẽ được trọng vọng.
Lời bàn:
sắc đẹp
của nữ giới là một lợi khí sắc bén xưa nay đã từng làm mất nước khuynh thành,
nhưng trước tình cảm gia đình không thể nghĩ đến cái lợi khí ấy mà vơi đi những
gì đau khổ trong cách biệt.
Trần
Lâm, người có trách nhiệm tuyển chọn mỹ nữ đưa vào cung cũng đã thấy rõ điều
đó. Một Địch Thiên Kim sắc nước hương trời, được đưa vào cung thì quyền quý cao
sang như đã nằm trong bàn tay, nhưng không vì vậy mà lúc chia xa tình mẫu tử
không bị xót xa đau đớn.
Con
đường công danh, phú quý và tình quyến luyến gia đình nhiều lúc tác động nhau,
làm cho con người phải đau khổ.
Trong
cuộc sống xưa nay, người kẻ anh hùng hào kiệt trước bổn phận làm trai phải đem
thân gánh vác trách nhiệm làm người nhưng trong lúc thi hành phận sự, đem chí
khí đảm nhận việc lớn đôi khi vướng mắc tình cảm gia đình mà bỏ lỡ cơ hội lập
thân. Đó là lẽ thường tình mà con người phải đấu tranh giữa tình cảm và trách
nhiệm.
HỒI THỨ HAI - THÁNH CHÚA THƯỞNG ANH MỸ NỮ
Trong
lúc Địch Quảng còn đang bịn rịn cuộc chia ly với em gái mình thì Nhạc thị lấy
ra một cặp ngọc uyên ương trong tay áo trao cho Thiên Kim và nói:
- Con
ơi! Ngọc uyên ương này là vật lúc trước cha con phụng chỉ chinh Tây thắng trận
về trào, được vua ban thưởng. Đó là loại ngọc quý có thể trừ tà ma cà ngăn chăn
đao búa không thể phạm vào người. Từ khi cha con qua đời rồi mẹ còn cất giữ để
làm vật gia bảo. Con nên lấy một hột mà đem theo, còn một hột để lạ cho anh con
làm lưu niệm.
Sau khi
đã trao ngọc quý, Thiên Kim vội vàng lên xe theo Trần Lâm về cung. Bà Nhạc thị
thấy xe Thiên Kim đi rồi thì khóc rống lên một tiếng, té nhào xuống đất. Địch
Quảng lật đật đỡ dậy và khuyên nhủ hết lời, bà Nhạc thị mới gượng gạo lên kiệu
trở về.
Còn Trần
Lâm ra khỏi thành trực chỉ trở về Biện Kinh. Đi một tháng ròng mới đến nơi
truyền quân ở tại ngọ môn chờ lệnh.
Ngày ấy
vua đang ngồi đánh cờ với Bác vương ở điện Trường Lạc, nghe quân vào báo:
- Thái
giám Trần Lâm đi kén mỹ nữ đã về đến, xin vào phục chỉ.
Vua Chơn
Tôn nghe tin mừng rỡ, truyền cho Trần Lâm vào. Trần Lâm vào bái yết, tâu lại
mọi việc đi kén chọn mỹ nữ ở Sơn Tây, ròi dâng sổ bộ lên. Vua truyền dẫn hết mỹ
nữ vào xem.
Trần Lâm
ra ngọ môn đòi hết tám mươi mỹ nữ vào. Vua Chơn Tôn xem sổ thấy người đứng đầu
là Địch Thiên Kim liền dạy đến yết kiến.
Địch
Thiên Kim vâng lệnh bước ra trước mặt vua quì lạy tung hô. Vua xem thấy khen:
- Thật
là tuyệt sắc giai nhân!
Bác
vương cũng khen:
-Chẳng
những là xinh đẹp mà lại còn chỉnh tề thùy mị, không phải là con nhà bần tiện,
song chưa rõ là con bậc quan nào.
Vua nghe
Bác vương nói liền hỏi Thiên Kim:
- Vậy
cha nàng làm quan chi trong phủ Thái Nguyên?
Thiên
Kim tâu:
- Ông
thiếp là Hàm Lâm Địch Thái, cha làm chức Thống chế tên Ngươn. Anh thiếp là tổng
binh Địch Quảng, cả nhà đều hưởng lộc vua nhiều đời.
Vua nghe
tâu rất vui mừng, Bác vương nói:
- Té ra
nàng này đã xinh tốt lại có tài, thật đáng quý.
Vua nói:
- Vương
huynh nói rất đúng! Nàng này quả là dòng dõi trâm anh, thế phiệt. Trẫm có ý kén
một người tài mạo để coi việc nội trợ cho vương huynh, vì từ lâu nay vương
huynh sống cô độc.
Bác
vương lật đật đứng dậy nói:
- Tuy bệ
hạ có lòng tốt như vậy, song tôi không dám vâng lời, Địch Thiên Kim là người của
bệ hạ tuyển chọn, tôi đâu dám đem về làm vợ, lỗi đạo vua tôi.
Vua nói:
- Vương
huynh chớ chối từ. Ý trẫm đã dự tính từ lâu đâu phải buộc vương huynh vào con
đường trái lẽ.
Vua phán
xong liền truyền dẫn Địch Thiên Kim đến Nam Thanh cung và cho thêm mười sáu
cung nữ theo hầu hạ.
Trần Lâm
lãnh mạng đưa Thiên Kim qua Nam Thanh cung. Bác vương tạ ơn lui ra. Còn các mỹ
nữ khác được vua truyền lệnh giao vào Chiêu Dương cung đặng Lưu hoàng hậu phân
phát nơi tam cung lục viện.
Hôm sau,
vua truyền xuất mười sáu ngàn lượng bạc, cho người đem ra Sơn Tây cấp cho những
cha mẹ các mỹ nữ được tuyển vào cung để đền ơn dưỡng dục.
Địch
Thiên Kim khi được vào Nam Thanh cung rồi thì các tỳ nữ đem xiêm y đến cho nàng
thay đổi. Còn Bác vương mở tiệc khánh hạ mời các quan ăn uống no say.
Tiệc
tan, Bác vương vào cẩm trướng làm lễ hiệp cẩn.
Hôm sau,
Bác vương vào triều tạ ơn thì được nghe tin vua sai người đem vàng bạc đến Sơn
Tây trả ơn cho cha mẹ các mỹ nữ được tiến cung, nên vội trở về dinh nói với
Thiên Kim:
- Sẵn
dịp vua sai người về Sơn Tây đem tiền bạc đền công cho cha mẹ của cung nữ,
vương phi nên viết một bức thơ gởi về thăm viếng mẹ và anh chị.
Địch phi
nghe nói cả mừng, sai cung nga đem giấy mực đến viết thơ và trao cho Bác vương
xem. Bác vương trông thấy khen:
- Chữ
viết đã đẹp mà lại rất nhanh, đáng là một nữ lưu ít có.
Bác
vương liền đòi khâm sai vào để trao thơ và dặn:
- Nay
ngươi phụng chỉ ra Sơn Tây, sẵn dịp đem phong thơ của vương phi mà trao cho
Địch Quảng hiện đang làm tổng binh tại phủ Thái Nguyên.
Quan
khâm sai vâng lời lãnh thơ lui ra.
Nguyên
quan khâm sai này họ Tôn tên Tú, rể của Bàng Hồng, hiện đang làm Trị giám viên,
cũng là một người trong gian đảng Bàng Hồng.
Khi Tôn
Tú lãnh phong thơ thì nghĩ thầm:
- “Địch
Quảng là con của Địch Ngươn, lúc Địch Ngươn làm thống chế, còn cha ta làm quan
vận lương, vì đi trễ ngày bị Địch Ngươn xử trảm. Thù ấy không đội trời chung.
Nay gặp được thơ này, chắc là tin lành của Địch Thiên Kim gởi về cho Địch
Quảng. Vậy ta giấu tin lành mà thông tin dữ, đặng làm cho cả nhà bối rối cho bõ
ghét.
Tính như
vậy, Tôn Tú liền giấu thơ đi.
Hôm sau
Tôn Tú vào kho lãnh mười sáu ngàn lượng bạc đem đi phân phát cho các gia đình ở
Sơn Tây có con tiến cung. Khi đến nơi truyền rao cho những cha mẹ của cung nga
đến mà lãnh bạc, nhưng chỉ phát cho mỗi nhà có một trăm hai mười chín lạng bạc,
trong lúc nhận của triều đình đến hai trăm lượng mỗi nhà., Thế là Tôn Tú ém đi
đến saú ngàn năm trăm hai mươi lượng trong đó có phần cua Địch Quảng là một
trăm hai mươi lượng.
Địch
Quảng lâu nay nhớ em, trông tin tức, nay nghe có khâm sai đến vội mời về nhà
hậu đãi, và nói:
- Nay
triều đình sai ngày đến đây đặng phát bạc cho cung nga, vậy ngài có biết tin
tức Địch Thiên Kim thế nào chăng?
Tôn Tú
giả vờ nói:
- Vậy
Địch Thiên Kim có phải là con của ngài không?
Địch Quảng
nói:
- Nàng
ấy là em ruột của tôi.
Tôn Tú
nói:
- Té ra
nàng là em ruột của ngài! Thật tội nghiệp!
Địch
Quảng nghe nói sinh nghi, vội hỏi:
- Vì cớ
gì mà ngài nói như vậy?
Tôn Tú
nói:
- Tôi
nói cho ngài hay xin ngài đừng cho lậu ra thì tôi mang họa. Nguyên khi em gái
ngài vào cung cứ nhớ mẹ khóc hoài, tam cung lục viện ai cũng ghét, nên em ngài
tự ái mà thác đi. Thiên tử nổi giận bắt tội nàng làm nhơ uế trong cung nên
truyền đem thây bỏ ngoài đồng. Khi tôi phụng chỉ đến đây thì thiên tử có dặn
tôi hỏi thăm cha mẹ Địch Thiên Kim để làm tội. May nhờ có Trần thái giám tâu
xin. Nay ngài hỏi thì tôi phải nói thật.
Địch
Quảng nghe nói thất kinh, ngồi sửng sốt, còn Tôn Tú từ giã ra về. Địch Quảng ra
khỏi cửa rồi trở lại.
Lúc đó
bà Nhạc thị đã nghe rõ câu chuyện của Tôn Tú kể lại nên vừa khóc vừa hỏi Địch
Quảng:
- Con
ơi! Lời khâm sai nói đó nếu là sự thật thì mạng mẹ ắt không còn.
Địch
Quảng thưa:
- Lời
khâm sai nói đó có gì xác thực. Nay triều đình phái khâm sai đến phát tiền cho
mọi nhà mà nhà ta không thấy nói đến con e khâm sai giấu tiền rồi kiếm chuyện
bịa đặt.
Nhạc thị
hét to:
- Trời
ơi! Con gái tôi chết thảm như vậy sao?
Nói rồi
té ngửa xuống đất. Vợ chồng Địch Quảng đỡ dậy thì bà đã tắt thở.
Vợ chồng
Địch Quảng khóc than:
- Trong
lúc đang bình an mà họa tới thình lình. Em ta đã thác mà mẹ cũng không còn. Tai
nạn đến dồn dập.
Khóc rồi
mua quan tài chôn cất.
Lúc ấy
con gái Địch Quảng là Địch Loan đã mười tuổi nên đã biết thương biết khóc, còn
Địch Thanh thì còn nhỏ lắm, không biết gì hết.
Ngày kia
vợ chồng Địch Quảng ngồi nói chuyện đau buồn về gia cảnh, Địch Quảng nói:
- Nay em
và mẹ chúng ta đã từ trần, còn chúng ta thì triều đình còn trong cơn giận, nay
mai ắt cho người đến vấn tội, chi bằng từ quan, trở về quê quán để an thân.
Mạnh phu
nhân thưa:
- Biết
lời nói ấy có thực hay không, chi bằng cho người về Tràng An dọ thăm tin tức
thế nào đã rồi sẽ tính.
Địch
Quảng nói:
- Tràng
An xa xôi lắm! Vừa đi vừa về phải mất vài mươi hôm. Nếu chẳng may triều đình
vãn tội thì toan liệu sao kịp. Thôi ta tính về quê thì cứ ra đi cho an thân.
HỒI THỨ BA - GIAN ĐẢNG ÂM MƯU TRỪ CHÁNH SĨ
Sau khi
bàn luận, Địch Quảng làm biểu dâng về triều xin từ chức về quê chôn mẹ.
Bấy giờ
Tôn Tú làm xong công việc cấp phát bạc thưởng cho gia đình cung nga xong trở về
triều, vào Nam Thanh cung báo với vợ chồng Bác vương rằng: Địch tổng binh đi
tuần chưa về nên không lấy được thơ trả lời.
Bác
vương nghe tâu tưởng thiệt nên trọng thưởng cho Tôn Tú rất hậu. Tôn Tú lại góp
tất cả số bạc gian lận đem dâng cho hai tên gian thần là Phùng Chuẩn và Bàng
Hồng hơn một muôn lượng bạc để cầu thân.
Vì vậy
hôm sau Phùng Chuẩn vào tâu với vua:
- Tôn Tú
có công khó ra Sơn Tây, xin bệ hạ thăng chứ chánh ty coi về việc biểu chương
trong triều.
Vua Chơn
Tôn chuẩn tâu. Tôn Tú tạ ơn rồi lo việc bẩm báo trong triều để trình lạ với nhà
vua.
Ngày kia
có biểu chương của Địch Quảng từ chức về quê, Tôn Tú liền đem đến dinh Bàng
Hồng làm một tờ chiếu giả, chấp nhận cho Địch Quảng quy điền.
Còn Địch
Quảng khi tiếp tờ chiếu giả, liền góp nhóp hết tài sản dọn về quê quán.
Qua đến
tháng chín năm Kiến Đức nguyên niên, vua nước Khiết Đơn kéo năm mươi muôn binh
qua xâm phạm Đàng Châu, đánh với Dương Hà nhưng nhờ có tướng Vương Siêu võ nghệ
cao cường nên binh Khiết Đơn không qua nổi. Dù vậy, Vương Siêu vẫn phải làm
biểu chương cấp báo về triều.
Vua Chơn
Tôn hay tin thất kinh, hỏi các triều thần có mưu gì đối phó. Dù vậy Vương Siêu
vẫn phải làm biểu chương cấp báo bề triều.
Vua Chơn
Tôn hay tin thất kinh, hỏi các triều thần có mưu gì đối phó.
Khấu
Chuẩn tâu:
- Tuy
quân Khiết Đơn xâm lấn, nhưng không hề chi, nếu bệ hạ ngự giá thân chinh thì ắt
trừ đặng.
Vua nghe
tâu còn đang lưỡng lụ, xảy có nội thị vào báo:
- Lưu
hoàng hậu và Lý Thần phi đều trổ sanh hoàng tử.
Vua nghe
báo mừng rỡ, muốn bãi trào để vào cung nhìn mặt hai hoàng nhi, nhưng Khấu Chuẩn
lại tâu:
- Nay
giặc đang đánh Đàng Châu, trăm họ phân vân, bệ hạ lại bỏ vào cung trong lúc
chưa ai bàn được mưu gì trừ giặc, hạ thần e quần thần ngã lòng.
Vua nghe
tâu bỏ việc vào cung, ở lại triều thần bàn việc chinh chiến.
Khấu
Chuẩn tâu:
- Nếu bệ
hạ không ngự giá chân chinh thì ắt mấy tỉnh phía Bắc không còn, mà Biện Lương
cũng khó giữ. Xin bệ hạ vì lời tôi mà ngự giá thân chinh, xem việc nước là
trọng.
Lúc ấy
có gian thần là Vương Khâm Nhược sợ vua cầm binh đánh dẹp thì mình phải chịu
dãi gió dầm sương nên xin vua Chơn Tôn dời đô sang Kim Lăng để tránh đỡ, rồi sẽ
liệu binh các tỉnh về mà dẹp giặc Khiết Đơn.
Lúc ấy
lại có Trần Nghiêu Tẩu xin vua dời đô qua Thành đô thì tiện lợi hơn.
Khẩu
Chuẩn nói lớn:
- Ai mà
khuyên vua dời đô thì đáng chém đầu. Kẻ đó chỉ biết có thân mình mà không lo gì
cho đất nước.
Vua Chơn
Tôn thấy triều thần không nhất trí, nên không sao quyết đoán được.
Lúc này
nơi Chiêu Dương cung Lưu hoàng hậu nghe tin Lý Thần phi sanh đặng hoàng nam,
chiều lại hoàng hậu sanh được hoàng nữ thì sanh lòng buồn bã, rạng ngày khiến
nội thị báo với vua rằng mình cũng sanh được hoàng nam nữa.
Hôm sau
vua lâm triều, Phùng Chuẩn thấy vua nghe lời Khấu Chuẩn muốn ngự giá thân chinh
nên can:
- Phụng
không nên rời ổ, rồng không nên rời hang. Nay bệ hạ đem thân đến nơi hiểm địa,
tôi e xã tắc phải nghiêng ngửa, chi bằng sai một đại tướng ra đánh dẹp cũng
xong, xin bệ hạ xét lại.
Vua nghe
tấu chưa kịp nói thì Khấu Chuẩn nổi giận nói:
- Lời
xưa có nói: “Sàm thần loạn quốc, đổ phụ bại gia”. Nói như ông thì chỉ lo cho
bản thân mình mà thôi, chẳng tưởng đến giang sơn, dân chúng.
Phùng
Chuẩn nói nói nổi giận nhưng chưa kịp trả lời thì có vị công thần là Cao Quỳnh
(con của Cao Hoài Đức) bước ra tâu:
- Lời
của tả thừa tướng tâu rất phải, nếu bệ hạ trì hoãn việc ra quân, mà nghe theo
lũ gian thần, tôi e bệ hạ không khỏi mất nước.
Phùng
Chuẩn nổi giận mắng lớn:
- Sao
ông dám ra giữa triều buông lời xúc phạm đến hoàng thượng, lại mắng nhiếc đến
đại thần đến như vậy?
Cao
Quỳnh nạt:
- Ông
thiệt chẳng có công cán chi, chỉ nhờ có va tấc lưỡi mà làm đến đại thần, ông
lại không lo đến nợ nước, cứ khua môi múa lưỡi mà làm hại dân lành.
Phùng
Chuẩn bị mắng chưa kịp trả lời thì vua Chơn Tôn đã phán:
- Trẫm
đã nhất định thân chinh, chư khanh chớ có tranh cãi làm gì nữa.
Phán rồi
liền truyền cho Cao Quỳnh là nguyên soái, thống lãnh ba mươi muôn binh và một
trăm chín tướng, còn Khấu Chuẩn thì làm tham mưu, chọn ngày tế cờ, ngự giá thân
chinh. (Trận này đánh Khiết Đơn hơn mười một năm mới yên).
Lúc này
Lưu hoàng hậu đang ở trong cung đang sợ hãi nghĩ rằng: mình đã báo lỡ rồi, e
đến khi yên giặc, hoàng thượng trở về không thấy hoàng nam e không khỏi tội khi
quân.
Nghĩ vậy
liền khiến cung nữ đòi thái giám Quách Hoè vào thương nghị:
- Hôm
trước ta khiến ngươi báo lỡ rằng ta cũng sanh được hoàng nam, e đến lúc hoàng
thượng về đây ta phải mang tôi khi quân. Còn bên Bích Vân cung thì Lý Thần phi
thì không lổi gì về sau còn giành được ngôi hoàng hậu. Vậy ngươi có kế chi mà
hại cho được mẹ con Lý Thần phi thì lỗi ta mới tránh khỏi.
Quách
Hòe nghĩ một lát rồi tâu:
- Nếu
lệnh bà muốn như vậy thì phải làm như vầy... như vầy...
Lưu
hoàng hậu mừng rỡ, khen:
- Kế ấy
rất là hay.
Liền
khiến cung nữ bồng công chúa theo mình, còn mình sắm sửa với Quách Hoè qua Bích
Vân cung mà thăm Lý Thần phi.
Bấy giờ
Lý Thần phi đang ngồi bồng hoàng tử, bỗng nghe có tin hoàng hậu đến thăm, vội
ra đón tiếp mời vào thết đãi.
Trà nước
xong, hoàng hậu nói:
- Vậy
chớ bên này em có đủ sữa cho hoàng tử bú hay không? Còn chị thì ít sữa không đủ
cho công chúa bú.
Lý Thần
phi nghe nói liền bước lại bồng công chúa mà cho bú, còn hoàng hậu lại bồng
hoàng tử nâng niu một hồi rồi nói với Lý Thần phi:
- Hôm
nay vắng mặt hoàng thượng thì chị em ta buồn lắm, vậy hãy bồng hoàng tử sang
cung chị chơi cho khuây khỏa.
Lý Thần
phi cũng muốn sang chơi cho giải buồn, song sợ qua đó chị em mắc trò truyện
không ai chăm sóc cho hoàng tử, còn giao cho cung nữ thì sợ chúng không hết
lòng.
Hoàng
hậu biết ý nói:
- Không
hề gì, có thái giám là Quách Hòe đây, tánh tình rất thận trọng. Nếu giao cho thái
giám chăm sóc thì khỏi phải lo.
Lý Thần
phi thấy hoàng hậu ân cần không lẽ từ chối, liền giao công chúa lại cho hoàng
hậu, rồi thay đổi xiêm y đi với nhau qua Chiêu Dương cung.
Đến nơi,
hoàng hậu hối thúc cung nữ dọn tiệc rượu mà đãi Lý Thần phi. Trong tiệc, hoàng
hậu cố ép Lý Thần phi uống mãi cho đến chiều.
Lý Thần
phi hỏi đến hoàng tử thì Quách Hòe nói:
- Hoàng
tử đang ngon giấc.
Hoàng
hậu bảo Quách Hòe đừng làm cho hoàng tử giật mình, hãy lén mà trồng trở về Bích
Vân cung.
Quách
Hòe vâng lời ra đi. Hoàng hậu lại nói với Lý Thần phi:
- Em
đừng lo! Quách Hòe là người trung thành lắm. Không mấy thuở em qua đây, vậy chị
em mình ăn uống vui say một bữa cho phỉ tình ao ước.
Lý Thần
phi tin thiệt, cứ ngồi ăn uống chuyện trò cho đến tối mới từ giã hoàng hậu trở
về cung.
Lúc về
đến nơi, Lý Thần phi hỏi cung nữ:
- Vậy
chớ hoàng tử ở đâu?
Cung nữ
thưa:
- Quách
Hòe bồng hoàng tử đến đây thì nói hoàng tử còn đang ngủ say, dặn chúng tôi đừng
giở chăn ra làm hoàng tử giật mình cho nên chúng tôi không dám động, mà hoàng
tử cũng chưa thức dậy.
Lý Thần
phi nghe nói cũng tưởng hoàng tử còn ngủ nên nói với bọn cung nữ:
- Thôi
các người đi ngủ đi.
Cung nữ
vâng lời đi ngủ hết. Còn Lý Thần phi thì thay y phục rồi bước lại giở mền ra
xem thì hoàng tử đâu không thấy, chỉ thấy trong mền có một con mèo chết nằm đó.
Lý Thần
phi thất kinh, té ngửa ra chết giấc. Giây lâu mới tỉnh dậy khóc oà lên. Lúc này
nàng mới biết hoàng hậu và Quách Hòe âm mưu cùng nhau tráo con mèo mà hại con
mình, song chuyện không bằng cớ, vả lại hoàng thượng đi chưa về không biết tỏ
cùng ai.
Nghĩ hết
cách mà không biết phải làm sao cứ ngồi khóc mãi. Bỗng nghe có người gõ cửa, Lý
Thần phi bước ra xem thì thấy cung nữ bên Chiêu Dương cung là Khấu Thừa Ngự
chạy vào thưa:
- Lịnh
bà ơi! Qua canh ba thì cung này bị cháy, mà bà cũng sẽ mang hại nữa. Vậy xin bà
hãy thay đổi áo quần giả dạng nội giám trốn qua Nam Thanh cung mà nương tựa ít
ngày, đặng chờ hoàng thượng về sẽ hay. Tôi có đem theo y phục nội giám đây, xin
bà hãy thay đi cho kịp mà lánh nạn.
Cung nữ
nói xong bỏ chạy ra ngoài. Lý Thần phi lật đật thay quần áo rồi chạy ra khỏi
Bích Vân cung tìm đường trốn qua Nam Thanh cung. Song đêm hôm không biết đường
nào mà đi.
Lúc này
Lưu hoàng hậu và Quách Hòe tráo được hoàng tử rồi liền đốt rụi Bích Vân cung,
rồi đòi Khấu Thừa Ngự sai bồng hoàng tử đem bỏ nơi ao Kim Trì. Thừa Ngự vâng
lời bồng hoàng tử ra đến mé ao thì ngồi trên bờ ao mà khóc không biết cách nào
cưú được hoàng tử. Nàng cứ ngồi khóc mãi cho đến lúc rạng đông thì có Trần Lâm
vâng lệnh Bác vương ra ngự viên hái hoa.
Trần Lâm
nghe tiếng khóc vội chạy lại xem thì thấy Khấu Thừa Ngự đang bồng một đứa con
nít.
Trần Lâm
nói:
- Nàng
bồng con ai vậy? Sao lại ngồi đây mà khóc?
Thừa Ngự
thấy Trần Lâm thì mừng rỡ thuật hết đầu đuôi câu chuyện cho Trần Lâm nghe.
Trần Lâm
kinh hãi nói:
- Nay
tôi vâng lệnh Bác vương ra đây hái hoa, may mà gặp việc này. Thôi nàng hãy trao
hoàng tử lại cho tôi, đặng tôi giấu trong lẵng bông này đem trở về Nam Thanh
cung.
Thừa Ngự
lật đật trao hoàng tử lại cho Trần Lâm. Trần Lâm bỏ gọn vào lẵng rồi van vái
rằng:
- Xin
thiên địa quỷ thần ủng hộ cho hoàng tử đừng khóc, đặng tôi đem ra khỏi hoa viên
này đưa về Nam Thanh cung.
Nói rồi
Trần Lâm đội lẵng đi thẳng vào Nam Thanh cung. Còn Thừa Ngự thì nhảy xuống ao
Kim Trì liều mình tự vận.
Nhắc lại
Địch Quảng từ ngày chôn mẹ xong, thường bàn với Mạnh phu nhân rằng:
- Trước
kia mình có hứa gả con Kim Loan cho Trương Văn là con của Trương Hổ làm quan
tham tướng. Nay nó cũng đã lớn khôn rồi, ta muốn đưa nó về nhà chồng cho an bề
gia thất.
Mạnh phu
nhân cũng đồng ý nên Địch Quảng viết thơ đem cho Trương Văn. Trương văn được
thơ mừng rỡ, sắm sửa lễ vật làm lễ thành hôn. Từ lúc vợ chồng sống với nhau rất
hạnh phúc.
Chẳng
bao lâu Địch Quảng từ trần, Mạnh phu nhân và vợ chồng Trương Văn lo việc chôn
cất.
Khổ
thay! Mạnh phu nhân gia cảnh càng ngày càng sa sút, nhờ có Trương Văn chu cấp
mới khỏi dói rách.
Ngày
kia, bỗng trời nổi cơn bão lụt, nhà cửa ở huyện Tây Hà bị nước cuốn trôi, mẹ
con Địch Thanh đều bị nước cuốn trôi, không mong sống sót.
Lúc ấy
Địch Thanh trôi bập bềnh trên sóng, tấp vào một hòn núi, cây cối um tùm, không
biết là nơi nào. Xảy thấy có một vị đạo nhân đầu bạc trắng, râu mọc năm chòm,
mặt mày tươi tốt, xem rõ không phải người phàm. Địch Thanh lật đật quỳ lạy hỏi:
- Phải
ông là người cứu tôi không?
Đạo nhân
cười nói:
- Nếu
không có ta cứu ngươi thì thân thể ngươi đã vào trong bụng cá rồi. Nay ngươi đã
khỏi nạn, đừng trông về xứ sở làm chi.
Địch
Thanh nghe nói thì khóc lớn:
- Tôi là
đứa bé mồ côi cha, bấy lâu nay nương tựa một mẹ già, đến nay mẹ tôi không biết
sống chết nơi nào, dù tôi có sống cũng chẳng ít gì, xin thầy đem tôi trở về
chốn cũ, đặng tôi chết theo mẹ tôi, còn hơn là sống mà cô thân khổ sở như vầy.
HỒI THỨ TƯ - TÂY HẠ CỬ ĐẠI BINH ĐÁNH TỐNG
Vị đạo
nhân nghe Địch Thanh nói thì khuyên giải:
- Ngươi
chớ lo buồn làm chi. Nay tuy ngươi mắc tai nạn, nhưng ngày sau ngươi có số
hưởng lộc triều đình. Còn mẹ ngươi tuy bị thủy tai, nhưng cũng chẳng hề chi,
chẳng bao lâu ắt được đoàn tụ. Ngươi hãy an tâm ở với ta, học binh thơ, võ nghệ
ngày ra giúp nước cứu dân.
Địch
Thanh nghe nói liền quỳ lạy xin thọ giáo.
Đạo sĩ
nói:
- Nơi
đây là núi Nga Mi, còn ta là Quỉ Cốc.
Từ đó,
Địch Thanh cố gắng học tập, mỗi ngày một tinh thông.
Lúc này
Nam Thanh cung, Trần Lâm đem hoàng tử giao cho Bác vương và tỏ hết sự tình. Bác
vương đặt tên hoàng tử là Thọ Ích, và bảo Địch Thiên Kim nuôi làm con, chờ
hoàng thượng ban sư trở về sẽ tâu mà trừ bọn gian nịnh.
Qua năm
sau, Địch Thiên Kim cũng hạ sinh được một trai, Bác vương đặt tên là Triệu
Bích.
Tháng
ngày thấm thoắt thoi đưa, vua Tống dẹp xong giặc Khiết Đơn thì đã chín năm rồi
mà chưa về. Hoàng tử Thọ Ích đã lên chín tuổi, còn Triệu Bích là con Bác vương
cũng lên tám tuổi. Ngày kia Bác vương lâm bệnh nặng nên từ trần, nhằm ngày rằm
tháng tư năm Canh Thìn. Các quan lo việc tống táng theo nghi lễ đế vương.
Hai năm
sau, vua ban sư hồi trào. Văn võ bá quan đều ra đón rước, lạy mừng và tâu lại
việc Bích Vân cung bị cháy, nên Lý Thần phi và cung nữ trong đó đều bị hại, còn
v nay đã qua đời.
Vua nghe
tâu đem lòng thương xót, truy phong Bác vương làm Trung Hiếu vương. Lúc ấy vua
đa năm mươi mốt tuổi, nhưng chưa có con trai nên hạ chỉ lập Triệu Thọ Ích lên
làm đông cung thái tử, cải tên là Triệu Trinh, và phong con thứ hai của Bác
vương làm Lộ Huê vương.
Qua năm
sau, vua cải niên hiệu là Càn Hưng nguyên niên, sau đó vua mang bệnh băng hà,
thời gian ở ngôi được 25 năm.
Lúc ấy
thái tử đông cung lên mười bốn tuổi, được triều thần tôn lên làm hoàng đế, lấy
hiệu là Nhơn Tôn, cải niên hiệu là Thiên Thành, phong cho Địch Thiên Kim làm thái
hậu, và Lưu hoàng hậu cũng được tôn làm thái hậu. vua lập vợ chánh là Quách phi
làm hoàng hậu và Trương thị làm quý phi (Đến sau thì Quách hậu và Trương quý
phi đều bị phế. Vua lại lập Tào thị là cháu nội của Tào Bân làm hoàng hậu và
Bàng thị là con gái của Bàng Hồng làm quý phi).
Qua
tháng chín năm ấy vua nghe lời sàm tấu của nịnh thần giáng cấp Khấu Chuẩn xuống
là Tư bộ và đưa ra Lôi Châu làm cho Khấu Chuẩn phải bỏ mình từ đó. Đến sau, vua
truy phong lại chức Quốc công nhưng đã không còn.
Bấy giờ
vua nước Tây Hạ là Triệu Nguyên Hiệu sai nguyên soái Táng Thiên Vương, phó soái
là Tử Nha Xai, tả tiên phong là Đại Mạnh Dương, hữu tiên phong là Tiểu Mạnh
Dương đem bốn mươi muôn binh sang đánh Tống. Lúc đến ải Tam Quang thì nhờ có
tướng trấn thủ là Dương Tôn Bảo đánh cầm cự lâu ngày không rõ hơn thua, Dương
Tôn Bảo phải làm biểu sai người về triều cáo cấp.
Vua Nhơn
Tôn lâm triều liền phán hõi các quan:
- Nay
Triệu Nguyên Hiệu sai tướng đem quân xâm lấn biên cương các khánh có kế chi
đánh dẹp chăng?
Văn Ngạn
Bác quì tâu:
- Tuy
binh Tây Hạ xâm lấn nhưng có Dương nguyên soái cầm cự không hề chi. Song có một
điều cần gấp là Dương nguyên soái yêu cầu đem y giáp ra chiến trường cho quân
sĩ mặc để chống lạnh, xin bệ hạ quan tâm việc này.
Vua nghe
lời tầu liền hạ chỉ sai Tôn Tú đăng bảng chiêu mộ nhân tài để sai ra Tam Quang
trợ chiến.
Bấy giờ
Địch Thanh từ ngày vào động theo học võ nghệ với Quỉ Cốc đạo sư, đến nay binh
pháp thông thạo, võ nghệ siêu quần, ngày tháng thấm thoát đã được bảy năm. Ngày
kia Quỉ Cốc tiên sư nói với Địch Thanh:
- Nay
tai nạn của con đã mãn, mà võ nghệ cũng đã siêu quần, vậy con hãy xuống Biện
Lương là nơi gặp thân nhân để phò vua giúp nước.
Địch
Thanh thưa:
-Bấy lâu
nay con ở đây cùng thầy nhờ thầy dạy dỗ, ơn trọng chưa đến. Nay theo lời thầy dạy
cũng muốn xuống Biện Lương, song chưa rõ mẹ con còn sống nơi quê quán hay
không, con xin về nơi đó để tìm mẹ con trước đã.
Quỉ Cốc
nói:
- Ấy
cũng là lòng hiếu thảo của con, song con về quê cũ thì kiếm không đặng. Vậy con
cứ về Biện Lương thì sẽ có thân nhân hội ngộ. Việc ấy không phải thầy gạt con
đâu.
Địch
Thanh thưa:
- Từ đây
xuống Biện Lương đường xá xa xôi biết mấy lấy chi làm lộ phí dọc đường.
Quỉ Cốc
nói:
- Làm
trai lo chi điều ấy. Để thấy cho con một đồng tiền cũng đủ chi dùng. Tiền ấy cứ
sanh sản hoài, muốn xài bao nhiêu cũng đủ, chừng nào con gặp được thân nhân thì
thầy thâu lại.
Địch
Thanh mừng rỡ lãnh đồng tiền rồi tạ ơn ra đi. Vừa xuống khỏi núi, bỗng một cơn
gió nổi lên làm cho Địch Thanh bay bổng lên trời. Qua một lúc gió tan, Địch
Thanh rơi xuống đất thấy mình đứng một nơi đông đảo, bên đường lại có quán cơm,
Địch Thanh bèn bước vào quán hỏi:
- chẳng
biết chỗ này kêu là xứ nào?
Chú quán
nói:
- Chỗ
này kêu là phủ Hà Nam, gần phủ Khai Phong thuộc về kinh đô. Quý khách từ đâu
đến đây mà không rõ?
Địch
Thanh nghĩ thầm:
-Té ra
thầy mình đã dùng phép đưa mình đến kinh đô rồi. Thôi ta sẽ vào đây nghỉ, chờ
sáng mai đi tìm thân nhân xem co đúng lời dặn của thầy ta chăng?
Nghĩ như
vậy, Địch Thanh vào quán bảo dọn cơm nước rồi ngồi lại ăn uống no say.
Chủ quán
nhìn thấy Địch Thanh thì khen thầm:
- Con
nhà ai mà mặt tợ thoa son, mặt sáng như trăng rằm, tướng mạo uy nghi lại ăn
uống như cọp. Đây chắc là một viên hổ tướng chớ chẳng chơi.
Địch
Thanh ăn xong, chủ quán tính hết thảy 1 trăm đồng tiền. Địch Thanh liền mở gói
ra, thấy trong gói có đủ số tiền ấy, nên lấy trả cho chủ quán, và nhủ thầm:
-Thật
đúng là phép tiên. Có một đồng tiền mà xài mấy cũng đủ.
Đêm ấy,
Địch Thanh ngủ lại trong quán.
Hôm sau
cơm nước xong, Địch Thanh lấy tiền trả cho chủ quán rồi đi dạo trong thành phố.
Khi đi qua một cây cầu, Địch Thanh hổi người đi đường mới biết đây là cầu Biện
Hà, nhớ lời thầy dặn cầu Biện Hà là nơi gặp thân nhân, nhưng không biết thân
nhân là ai mà hỏi. Chàng lại nhớ cầu Biện Hà là chỗ thầy thâu lại đồng tiền quý
đó nên thò tay vào túi lấy ra cầm trong tay cho chắc, nhưng vừa lấy ra khỏi túi
thì đồng tiền đã rơi xuống nước mất dạng. Địch Thanh không biết làm sao, cứ
nhìn xuống nước mà khóc.
Lời bàn:
Trong
cuộc sống con người trong cái rủi có cái may, trong cái xấu có cái tốt. Tốt xấu
luôn luôn duyên khởi hình thành mọi biến động của vạn hữu.
Lưu
hoàng hậu sai thái giám Quách Hòe đem mèo đổi hoàng tử mưu sát để đoạt lấy ngôi
vị trong cung, rồi đốt cung của Lý Thần phi để cho mất tích. Nhưng rồi có người
vì lương tâm mà giải cứu cả hai mẹ con. Tiếp đó, vua Tống lại phong cho con
ruột của mình lên ngôi mà không hề biết.
Trong
cái nghịch trở thành cái thuận, rồi trong cái thuận trở thành cái nghịch. Sự
xoay chuyển ngoài ý muốn của âm mưu con người. Vì vậy làm người chỉ nên làm
những việc đạo nghĩa, còn duyên số là do duyên định, tức là luật vạn hữu của
thiên nhiên.
HỒI THỨ NĂM - HÀO KIỆT THƯƠNG NGHÈO NÊN KẾT
NGHĨA
Địch
Thanh khi làm rơi đồng tiền xuống sông thì cứ đứng khóc mà than thở:
- Thầy
ta cho ta đồng tiền ấy chỉ dùng cho đến lúc gặp thân nhân, nay thân nhân chưa
gặp mà đồng tiền mất đi biết làm sao sống nổi, chắc là phải chết đói.
Bỗng có
một ông già bước đến hỏi:
- Ngươi
là con ai, Địch Thanh liền tỏ hết mọi việc. Ông già cười nói:
- Ngươi
muốn gặp thân nhân thì gần đây có mộ ngôi chùa gọi là chùa tướng quốc, chùa ấy
linh lắm, ngươi đến đó xin xăm, cầu nguyện may ra thần thánh chỉ bảo cho.
Địch
Thanh nghe nói nghĩ thầm:
- Thôi,
mình cứ nghe ông già đến đó cầu xin, chừng nào không được sẽ liệu cách.
Nghĩ rồi
liền hỏi thăm chùa lần đến nơi, thấy trong chùa rất đông người đến xin xăm,
hương đèn sáng rực. Địch Thanh len vào rút một cây xăm, đem lại chỗ của một nhà
sư đang đoán quẻ.
Lời xăm
ghi rằng:
HỒI THỨ SÁU - HÀO KIỆT THỬ TÀI PHÂN CAO THẤP
Sau khi
đã bán hết vải, Trương Trung và Lý Nghĩa rủ Địch Thanh đi dạo chơi. Vừa đến
chùa Quan Công, Địch Thanh thấy trước cửa chùa có hai con sư tử bằng đá, bề cao
chừng ba thước, bề dài hơn bốn thước nên nghĩ thầm:
- Mấy
hôm nay mình làm bạn với hai người này, tuy tâm đầu ý hiệp nhưng chưa rõ tài
sức ra sao, thôi để mình vào chùa xách thử con sư tử đá này thì sẽ biết.
Nghĩ như
vậy liền kêu Trương Trung, Lý Nghĩa nói:
- Lúc
trước Sở Bá vương cử đảnh mà làm cho anh hùng trong thiên hạ đều nể phục. vậy
hai em có thể đỡ nổi con sư tử đá này không?
Trương
Trung nói:
- Con sư
tử đá này nặng chừng sáu trăm cân. Để tôi đỡ thử xem sao.
Nói rồi
liền bước tới đỡ lên, rồi chỉ xách đi được mấy bước và nói:
- Nặng
lắm! Không thể đi xa nổi.
Lý Nghiã
nói:
- Thôi
để tôi xách thử coi.
Nói rồi
bước tới xách lên, đi được một vòng rồi cũng để xuống.
Địch
Thanh nói:
- Như
vậy cũng đã mạnh lắm rồi. E khi ta xách không nổi.
Trương
Trung và Lý Nghĩa đồng nói:
- Thì
đại ca xứ xách thử cho biết.
Địch
Thanh bước lại xách con thạch sư giơ lên khỏi đầu rồi đi ba bốn vòng. Trương
Trung và Lý Nghĩa thấy vậy đều lắc đầu nói:
- Cha
chả! Ai dè đâu đại ca nhỏ người mà sức mạnh như vậy. Hai đứa tôi thua xa lắm.
Địch
Thanh xách đi mấy vòng giơ lên để xuống mà mặt không đổi sắc.
Sau đó
Địch Thanh còn lâý cây thanh long đao múa một hồi làm cho Trương Trung và Lý
Nghĩa đều cảm phục.
Ba người
ra khỏi chùa đi một lúc thì thấy một tửu lầu rất đẹp và cao, liền rủ nhau vào
ăn uống. Tửu bảo thấy ba người ngồi một bàn thì cả kinh, vừa chạy vừa nói:
- Lưu,
Quan, Trương ba ông đã xuất hiện nơi đây.
Trương
Trung thấy vậy cười nói:
- Không
hề chi! Tuy mặt mày dữ tợn mà lòng dạ hiền lành, không làm hại ai.
Tửu bảo
nói:
- Té ra
ba ông không phải là người xứ này, vì tôi không biết xin thứ lỗi.
Trương
Trung ngồi nhìn sang bên kia thấy có một căn lầu chưng dọn rất đẹp liền gọi tửu
bảo nói:
- Ồ! Bên
kia có căn lầu rất đẹp, chúng ta muốn lên đó ngồi uống rượu cho vui.
Tửu bảo
nói:
- Xin
các ông ngồi nơi đây uống rượu cũng được, đừng qua đó mà phiền phức.
Trương
Trung nói:
- chúng
ta muốn ngồi nơi đó mà thôi. Hãy mau đem rượu thịt đến đó cho chúng ta.
Tửu bảo
nói:
- Không
được đâu. Ở đó có vị quan lớn là Hồ Khôn, làm chức chế đài, lại còn có một vị
công tử là Hồ Luân ngang tàng, thường ngày áp chế nhân dân, chiếm đoạt nhà cửa
của người ta mà làm nên căn lầu ấy. Trong đó trồng đủ thứ hoa thơm cỏ lạ, lại
chưng diện đủ các vật quý trong thiên hạ, sau đó cải hiệu là Vạn Huê Lầu.
Trương
Trung nói:
- Người
ấy là con quan sao lại hà hiếp thiên hạ?
Tửu bảo
nói:
- Quý
khách chưa rõ. Nguyên Tôn bộ binh là con rể của Bàng thái sư nên quyền thế lắm,
muốn sao được vậy, không ai dám trái ý. Cái Vạn Huê lầu này là để chiêu đãi bạn
bè và khách quý của riêng họ, còn người ngoài không ai dám bén mảng đến. Mỗi
ngày công tử Hồ Luân ra chơi nơi đó, nếu thấy ai vào đó thì bắt về dinh tra
khảo cho đến chết mới thôi. Vậy xin quý khách ngồi nơi đây ăn uống cũng đủ vui
mà khỏi sanh ra điều nguy hiểm.
Trương
Trung và Lý Nghĩa nghe nói đều nổi nóng, hét lớn:
- Thật
là loại bất nhân trong thiên hạ.
Địch
Thanh cũng nổi giận nói:
- Thôi!
Anh em chúng ta qua đó ngồi uống rượu xem chúng nó làm gì cho biết.
Tửu bảo
nghe nói thất kinh quỳ lạy van xin:
- Xin
quý khách đừng làm điều ấy mà liên luỵ đến tôi.
Địch
Thanh nói:
- Chúng
ta làm thì chúng ta chịu, không để liên luỵ tới ai.
Trương
Trung nói:
- Xem
thế thì thằng Hồ Luân dữ lắm nên nó mới sợ hãi như vậy.
Địch
Thanh nói:
- Nếu
chúng ta không lên Vạn Huê Lầu té ra chúng ta sợ thằng Hồ Luân sao?
Lý Nghĩa
nói:
- Đại ca
nói rất phải.
Trong
lúc ấy tên tửu bảo cứ van xin mãi. Trương Trung lấy ra mười lượng bạc cho tên
tửu bảo, nói:
- Ta cho
ngươi số tiền này. Hãy đem đồ ăn và rượu thịt tới đó cho chúng ta vui say. Còn
việc gì xảy ra chúng ta gánh chịu, không để liên van đến ngươi đâu.
Tên tửu
bảo được bạc cũng ham, liền đem rượu thịt qua Vạn Huê Lầu thết khách.
Ba anh
em Địch Thanh vừa ăn uống xoàng xoàng thì đã có người chạy đến báo tin cho Hồ
Luân hay:
- Hôm
nay tửu bảo cả gan cho ba người khách thua phương đến ngồi nơi Vạn Huê Lầu ăn
uống. Bây giờ chúng nó còn say sưa la hét om sòm.
Hồ Luân
nói:
- Thôi,
các ngươi về đi rồi mai đến dinh ta mà lãnh thưởng.
Nói rồi
liền hối gia đinh thẳng tới tử lầu nạt lớn:
- Ba
thằng này ở đâu cả gan dám đến chỗ cấm mà uống ruợu.
Ba người
nghe nói nổi nóng nạt lại:
- Tửu
lầu thì chúng ta đến uống rượu, biết chỗ nào là chỗ cấm.
Bọn gia
đinh của Hồ Luân áp vào, chúng nó toàn là tay dõng sĩ nhưng Trương Trung đã tóm
cổ một lúc hai tên ném ra xa lắc.
Lời bàn:
Ở đời
không có cái gì tồn tại tuyệt đối. Nếu có kẻ cậy quyền hiếp đáp dân lành thì
cũng có kẻ vì sự công bình mà chống lại. Sự mâu thuẫn trong cuộc sống luôn luôn
đối kháng nhau. Cho nên người xưa có nói: “Hữu phước bất khả hưởng tận, hữu thế
bất khả ỷ tận.” Không vì mình có thế mà tận hưởng cái thế lực của mình. Hồ Luân
dù quyền thế đến đâu mà không biết sử dụng quyền thế của mình tất phải có ngày
bị phản ứng. Đó là một bài học làm người cho những ai có quyền thế mà biết thế
nào là đủ.
Cái gì
cũng có chiều ngược của nó. Đừng thấy mình được thế mà ỷ lại vào thế lực của
mình. Thế lực đến lúc nào đó sẽ là mầm mống gây ra thù địch để phá vỡ hiện hữu
gây hại không ít.
HỒI THỨ BẢY - GIẾT ÁC NHÂN, ĐỊCH THANH TRỪ HẠI
Địch
Thanh và Lý Nghĩa khi thấy bọn gia tướng của Hồ Luân áp tới đánh thì mỗi người
đánh một vái làm cho bọn gia tưóng của Hồ Luân té nhào ra xa, ôm đầu chạy hết.
Địch
Thanh cười lớn nói:
- Anh em
ta mới đá có vài cái mà chúng chạy hết rồi. Tuy vậy mà chưa phải yên đâu. Hồ
Luân sẽ đến đây làm dữ, chi bằng rút lui trước hay hơn.
Trương
Trung nói:
- Đại ca
nói rất phải. Tuy chúng ta không sợ gì tên Hồ Luân, nhưng chúng kéo đến hàng
trăm, hàng ngàn thì cũng làm phiền cho hàng xóm.
Anh em
Địch Thanh vửa toan ra đi thì bọn Hồ Luân kéo đến đông nghẹt.
Hồ Luân
hét to:
- Đứa
nào giỏi đánh thì đánh ta đây!
Vừa nói
Hồ Luân vừa chạy xốc tới. Địch Thanh đứng dậy vỗ vai Hồ Luân định tỏ vài lời
phải trái, nhưng bàn tay Địch Thanh đè nặng trên vai, làm cho Hồ Luân té quỵ
xuống đất.
Hồ Luân
hét to:
- Các
ngươi mau bắt chúng nó đem về dinh cho ta.
Địch
Thanh nói:
- Hồ
Luân! Ngươi hãy lại đây mà bắt ta, chớ mấy thằng tay sai của ngươi đã sợ ta
chạy hết rồi.
Hồ Luân
nghe nói nổi nóng xốc lại bị Địch Thanh thộp ngực ném xuống lầu. Mấy đứa gia
đinh thấy vậy chạy lại thì Hồ Luân đã vỡ sọ nằm chết tươi.
Bọn gia
đinh sợ hãi nên vội chạy về báo với Hồ Khôn, còn ba anh em Địch Thanh lúc này
đang lúc lúc tửu hứng, cùng nhau tiếp tục ngồi uống rượu, quên cả việc dự tính
rời khỏi Vạn Huê Lầu.
Lúc này
Hồ Khôn nghe tin Hồ Luân bị té xuống lầu bể óc thì tức giận vội truyền cho tri
huyện sở tại đem quân đến bắt ba anh em Địch Thanh mà trị tội.
Tri
huyện vâng lời dẫn quân đến trước Vạn Huê Lầu bao vây bắt tên tửu bảo để tra
hỏi:
- Ngươi
tên họ là chi?
Tửu bảo
nói:
- Tôi là
Trương Cao bán rượu ở đây đã lâu.
Tri
huyện hỏi:
- Còn ba
người kia tên chi?
Tửu bảo
thưa:
- Ba
người ấy là khách phương xa tới đây, tôi không biết tên. Một người mặt trắng,
một người mặt đỏ và một người mặt đen. Bây giờ họ đang ăn uống, xin quan đòi họ
mà hỏi.
Tri
huyện bèn cho đòi ba anh em Địch Thanh đến hỏi. Ba người đều khai tên họ và quê
quán và kể lại sự việc do Hồ Luân dẫn gia tướng đến hành hung nên bị té rơi
xuống lâu mà chết chớ không ai đánh cả.
Quan
huyện nói:
- Dù sao
các ngươi cũng là kẻ có liên can cái chết của công tử Hồ Luân, một người có
quyền thế trong huyện, không thể bỏ qua được. Ta phải bắt các ngươi đem về xét
xử trước công đường.
Nói rồi
truyền quân bắt dẫn ba anh em Địch Thanh đem về huyện đường.
Trong
lúc huyện quan đang khảo tra thì có tin Bao Công đến. Huyện quan lật đật ra
nghênh tiếp, dẫn Bao Công vào.
Bao Công
nói:
- Trong
ba thằng này có thằng nào chịu giết Hồ Luân không?
Huyện
quan thưa:
- Chúng
nó cũng chịu, nhưng còn kêu nài là công tử hà hiếp chúng nó, và không phải cố
sát.
Bao Công
nói:
- Việc
này cũng là việc lớn, xin ngài cho tôi ba tên này đem về xét xử cho rõ trắng
đen.
Quan
huyện thưa:
- Tôi là
quan sở tại, được giao phó lẽ nào dám làm nhọc công ngài.
Bao Công
nói:
- Ngài
nói ngài là quan sở tại, chỉ để cho ngài tra xét thôi, vậy tôi không phải là
quan sở tại hay sao?
Nói rồi
truyền Trương Long, Triệu Hổ dẫn ba anh em Địch Thanh về công đường.
(Nguyên
vì Bao Công mỗi ngày đều cho quân đi thám thính hay được việc này, sợ để cho
cha con Hồ Luân ấp chế người lành, nên đã đến can thiệp).
Lúc ấy
tri huyện giận Bao Công lắm, song không dám cãi lệnh, bèn lấy lời khai của tửu
bảo, rồi khiến quân đem thây của Hồ Luân về giao cho Hồ Khôn, kể hết đầu đuôi
sự việc.
Hồ Khôn
nổi giận nói:
- Bao
Chuẩn không kiêng nể ai hết. Nó dùng cách mà tha a tên hung thủ ấy. Để ta về
tâu với thánh thượng xem nó có còn giữ được quyền lực hay không.
Nói rồi
lo việc chôn cất Hồ Luân, mà trong lòng căm hận Bao Công rất dữ.
Còn Bao
Công khi về đến nhà truyền quân dẫn ba anh em Địch Thanh ra tra hỏi.
Khi nhìn
thấy mặt, Bao Công thấy ba người ấy tướng mạo đường đường oai phong lẫm liệt,
thì trong ý đã khen thầm, bèn hỏi:
- Các
ngươi là người tỉnh nào? Đến đây làm gì mà giết chết Hồ Luân? Sự thực thế nào
cứ nói rõ cho ta biết.
Trương
Trung liền bước tới thưa:
- Chúng
tôi là người mua bán vải ở Sơn Tây, khi bán xong hàng hóa rủ nhau lên tửu lầu
ăn uống một bữa. Lúc đang ăn uống bỗng có Hồ Luân dẫn bảy tên gia đinh đến mà
đánh chúng tôi, bảo rằng Vạn Huê Lầu là chỗ cấm. Chúng tôi là khách phương xa
không biết, nhưng bọn Hồ Luân áp vào đánh chúng tôi, cho nên tôi nổi giận đánh
chúng nó bỏ chạy xuống lầu hết. Còn Hồ Luân thì đánh với tôi truợt chân xuống
lầu mà chết. Việc này chỉ có tôi gây ra mà thôi, còn hai người bạn tôi là Địch
Thanh và Lý Nghĩa thì vô can. Tôi xin chịu hết mọi lỗi lầm.
Bao Công
nghe nói nghĩ thầm:
- Mình
đã muốn tìm cách tha chúng nó, mà nó lại chịu tội sát nhân.
Nghĩ một
lúc, Bao Công hỏi:
- Có
thật Hồ Luân trượt té xuống lầu chết hay không?
Trương
Trung thưa:
- Thiệt
quả như vậy.
Bao Công
nói:
- Như
vậy thì tại nó té mà chết, can chi mà ngươi chịu án?
Trương
Trung nói:
- Tại
tôi đá công tử rớt xuống.
Bao Công
nạt lớn:
- Thằng
nói bậy! Bên Hồ Luân thì có đông, còn các ngươi chỉ có ba đứa, lẽ nào ngươi đá
Hồ Luân té xuống lầu được?
Nói rồi
đuổi Trương Trung ra, kêu Lý Nghĩa lại hỏi:
- Trong
khi Hồ Luân đánh lộn với Trương Trung, có phải là tại nó té lầu mà chết không?
Lý Nghĩa
thưa:
- Sự
giết Hồ Luân là tại tôi đánh nó nhào xuống lầu bể óc, chớ không phải là Trương
Trung.
Bao Công
nổi giận nạt:
- Khi
nải Trương Trung đã khai rõ ràng là tại Hồ Luân trượt chân té xuống lầu mà
chết, bây giờ ngươi lại nói phách xưng là mình giết. Trong ý ngươi tưởng sát
nhân không phải đền mạng sao?
Lý Nghĩa
thưa:
- Tôi
đành lòng thường mạng, xin quan lớn tha cho Trương Trung.
Bao Công
cười lớn nói:
- Thằng
khùng nói bậy! Hãy đi nơi khác cho xong.
Bao Công
lại kêu Địch Thanh hỏi:
- Khi Hồ
Luân lên đánh với ba đứa bây rồi trượt chân té xuống lầu mà chết phải không?
Địch
Thanh thưa:
- Khi ba
anh em tôi đang uống rượu trên tửu lầu thì có bảy tám tên gia đinh đến hành
hung, chúng tôi đạp cho mấy cái thất kinh chạy hết. Kế đó Hồ Luân xốc đến đánh
tôi, tôi xách giò ném xuống lầu nên bể óc mà chết. Ấy là lỗi tại tôi, xin quan
lớn tha cho hai người bạn của tôi không hề liên quan.
Bao Công
nghe nói liền nạt lớn:
- Thằng
điên nói láo! Thân thể ngươi ốm yếu lại nói xách giò người ta ném xuống lầu.
Thật là phách lối.
Nói rồi
truyền quân đuổi Địch Thanh ra khỏi cửa.
Địch
Thanh nói lớn:
- Tôi
quả là chánh phạm còn hai người kia vô can, xin quan lớn xét lại.
Bao Công
nói:
- Ngươi
có chịu tội thế cho hai thằng này phải không? Quân bay đánh đuổi nó ra mau.
Lúc ấy
có bọn gia nhân của Hồ Khôn đứng ngoài cửa trông thấy Bao Công đuổi Địch Thanh
đi, không tra xét thì chạy vào quỳ thưa:
- Nó đã
chịu án sát nhân sao quan lớn lại thả cho nó đi.
Bao Công
nói:
- Quyền
xử án là quyền của ta, sao ngươi dám xem vào? Một tên ốm yếu, nhỏ bé như thế mà
dám đặt chuyện nói láo, xách người ném xuống lầu, có phải là nó đã khinh thường
sự suy xét của kẻ khác không?
Nói rồi
truyền quân bắt tên gia nhân của Hồ Khôn đánh hai chục hèo về tội vô phép, xen
vào việc xét xử của người có trách nhiệm.
Lúc ấy
Bao Công cũng muốn tha luôn Trương Trung, Lý Nghĩa ngặt vì chưa tìm ra cớ nên
tạm giam ít hôm rồi sẽ tính.
Lời bàn:
Bao Công
muốn tha ba anh em Địch Thanh vì thấu rõ hành động của cha con Hồ Luân là một
phường gian ác, chuyên hà hiếp dân lành. Kẻ gian xảo, ác nhân không bao giờ
được những người hiền lành ưa thích. Mọi hành động của họ bắt nguồn từ thế lực
quyền uy. Ý thức phân xử cuả Bao Công là muốn trừ khử kẻ gian manh, nên có cảm
tình với những ai có hành động bài trừ kẻ xấu. Ý thức ấy liên kết với nhau, nên
Bao Công đã bên vực cho ba anh em Địch Thanh. Cái công bằng và chính đại của
Bao Công là ở chỗ đó. Tâm hồn của lớp người nào liên kết với lớp người đó. Ấy
là lẽ đương nhiên trong cuộc sống.
HỒI THỨ TÁM - DIỄN VÕ NGHỆ, ĐỊCH THANH THEO
THỜI THẾ
Địch
Thanh khi bị đuổi ra khỏi nha môn, vừa đi vừa suy nghĩ:
- Không
biết vì ý gì mà Bao Công lại tha mình như vậy. Hay là ông đã có quen biết với
cha mình thuở trước chăng? Song phần ta thì khỏi rồi còn hai em ra không biết
sẽ thế nào.
Còn đang
suy nghĩ chưa dứt thì đã thấy Trương Trung, Lý Nghĩa lật đật chạy theo hỏi:
- Đại ca
sao còn chần chờ nơi đây. Hãy mau rời khỏi nơi đây.
Địch
Thanh nói:
- Vậy
chớ Bao đại nhân luận tội hai em thế nào?
Trương
Trung, Lý Nghĩa đồng thanh nói:
- Chưa
xử nên chưa biết ý định của Bao đại nhân.
Địch
Thanh nói:
- Ta
muốn ở lại đây chờ hai em luôn thể.
Trương
Trung nói:
- Ôi!
Công việc còn đang kéo dài biết đâu mà chờ. Hiện nay Bao đại nhân dạy dẫn hai
em vào ngục, chờ ngày giải quyết.
Địch
Thanh nói:
- Vậy
thì ta cũng phải vào đó mà ở tù với hai em luôn thể.
Trương
Trung nói:
- Đại ca
là người vô tội, lẽ đâu vào chốn ấy.
Địch
Thanh nói:
- Sao
lại vô tội. Việc giết Hồ Luân là tại ta, không phải tại hai em, sao hai em lại
chịu ở tù thay ta?
Lý Nghĩa
nói:
- Anh em
ta đã thề nguyền cùng nhau sinh tử thì có gì phải phân biệt điều ấy.
Trương
Trung kề tai nói nhỏ với Địch Thanh:
- Bao
đại nhân có ý muốn tha hai đứa tôi, song sợ miệng gian thần phản đối, cho nên
còn tạm giữ ít lâu. Xin đại ca yên lòng trở về quán trọ lâý một trăm lượng bạc
của tôi còn gửi lại cho chủ quán mà dùng đỡ, rồi sẽ tính.
Địch
Thanh trở về quán trọ, và ở đó chờ đợi Trương Trung và Lý Nghĩa.
Bấy giờ
Hồ Khôn nghe gia đinh về báo là Bao Công đã tha tên chánh phạm là Địch Thanh
thì cả giận mắng:
- Bao
hắc tặc! Ngươi thật quá vô tình, không vị nể cha con ta.
Nói rôì
liền hối gia nhân sắm kiệu qua dinh Bao Công mà hỏi cho rõ. Bỗng có tin Tôn Tú
cho người mời sang. Hồ Khôn sẵn kiệu liền thẳng qua dinh Tôn Tú kể hết sự tình.
Tôn Tú
nghe nói nổi giận mắng:
- Thôi!
Việc này để cho tôi sang gặp Bao Công trách cho lão vài lời cho bõ ghét.
Hồ Khôn
từ giã ra về, còn Tôn Tú thì lên kiệu thẳng qua dinh Bao Công. Vừa gặp nhau Tôn
Tú nói:
- Tôi
nghe có ba thằng du côn đánh thách công tử là Hồ Luân, mà tri huyện Phong Khưu
là quan sở tại đương tra hỏi, sao ngài lại giành việc ấy đem về xét xử. Có quả
thật như vậy chăng?
Bao Công
nói:
- Có!
Nhưng tôi hỏi ngài chẳng lẽ vụ án đó chỉ riêng tri huyện Phong Khưu mới tra hỏi
được sao?
Tôn Tú
nói:
- Ngài
tra hỏi cũng được, song tôi lại nghe ngài tha tên chánh phạm là Địch Thanh là ý
gì?
Bao Công
nói:
- Thằng
đó thân hình một nắm mà đánh ai đến chết được, đó là chuyện mơ hồ.
Tôn Tú
nói:
- Nhưng
nó đã nhận là thủ kia mà.
Bao Công
nói:
- Xử án
là đi sự thực đề xét đoán cho công bằng, không thể căn cứ vào lời dối gạt. Ngài
chỉ nghe lời truyền ngôn mà đến đây nhiều lời như vậy. Thôi, từ nay về sau có
chuyện quốc gia đại sự thì ngài sẽ đến hỏi tôi, còn như vụ án nhỏ như vậy bất
quá chỉ là một vụ ngộ sát thôi, ngài đừng đến đây nhiều lời vậy nữa.
Tôn Tú
nghe nói chạm tự ái, trách:
- Nói
như ngài thì mất công bình nhiều lắm, tôi e ức lòng Hồ Khôn thì ông ta tâu cùng
thánh thượng làm cho cái mão ô sa của ngài không còn nữa.
Bao Công
nói:
- Còn
mất cũng không cần miễn là tôi giữ vẹn lòng trung nghĩa mà thôi. Chuyện này dẫu
Hồ Khôn không tâu thì tôi cũng tâu cho thiên tử rõ.
Tôn Tú
nói:
- Con
người đã bị chúng giết, ngài binh vực hung đồ mà tha tên chánh phạm, còn đòi
tâu lên thiên tử làm sao?
Bao Công
nói:
- Ngài
lẽ nào không biết Vạn Huê lầu có phải là chỗ Hồ Khôn chiếm đoạt của người ta, ỷ
thế hà hiếp dân chúng, làm cho ai nấy đều sợ hãi. Nay Hồ Luân đánh người ta,
trượt té xuống lầu bể óc, có phải là do Hồ Khôn dạy con không nghiêm, để cho
con ngang tàng như vậy thì không có lỗi hay sao?
Tôn Tú
nghe nói không dám cãi nữa nên giảng hòa:
- Ngài
ơi! Bề nào Hồ Khôn cũng là người đồng liêu chớ nên gây thù oán làm chi. Còn
việc đó là do tôi nghe lời truyền ngôn không rõ, nên lật đật đến mà thăm hỏi,
xin ngài miễn chấp.
Nói rồi
Tôn Tú từ giã Bao Công, trở qua dinh Hồ Khôn tỏ hết mọi việc Bao Công đã nói
cho Hồ Khôn nghe.
Hồ Khôn
trong lòng hậm hực nói:
- Thôi!
Bây giờ ta hãy nhịn thua lão một phen, thủng thẳng ta sẽ sai người đi kiếm Địch
Thanh mà bắt không khó gì.
Nói rồi
hai người từ giã về dinh.
Bấy giờ
Địch Thanh ngày ngày ngóng trông Trương Trung, Lý Nghĩa mà không thầy về, thì
buồn rầu khôn xiết.
Châu
Thành thấy vậy nói với Địch Thanh:
- Nay
tôi có người bạn là Lâm Quới, mới lên chức Võ viên, hôm trước tôi có khoe với
Lâm Quới công tử là người võ nghệ cao cường, mà không người tiến dẫn. Lâm Quới
có bảo tôi đem công tử đến cho anh ta xem, như quả võ nghệ cao cường thì anh ta
tiến dẫn cho đầu quân.
Địch
Thanh nghe nói nghĩ thầm:
- Lâm
Quới làm chức nhỏ mọn mà tiến dẫn mình sao được.
Tuy nghĩ
vậy, Địch Thanh cũng gượng gạo theo Châu Thành đến ra mắt Lâm Quới.
Lâm Quới
thấy Địch Thanh thân vóc nhỏ nhắn, mặt trắng mày thanh, xem ra không phải võ
tướng, thì đã không vui lòng nên hỏi:
- Ngươi
được bao nhiêu tuổi?
Địch
Thanh thưa:
- Tôi
mới có mười lăm tuổi thôi.
Lâm Qưới
nói:
- Ngươi
là tướng học trò, làm việc võ sao nổi?
Châu
Thành xen vào nói:
- Nhơn
huynh đừng thấy vóc người nhỏ mà khinh khi. Tuy nhỏ mà võ nghệ cao cường. Chẳng
tin cứ thử sức thì biết.
Lâm Quới
nghe nói liền dắt Địch Thanh đến diễn võ trường hỏi:
- Ngươi
thường dùng binh khí chi?
Địch
Thanh nói:
- Thứ gì
cũng được.
Lâm Quới
bèn lấy binh khí trao cho Địch Thanh và bảo Địch Thanh múa một hồi. Quân sĩ
thấy ai nấy đều khen nức nở.
Lúc này
Lâm Quới mới chịu tin, nói với Địch Thanh:
- Thôi
ngươi ở lại đây mà kiến công lập nghiệp.
Từ đấy
Địch Thanh an tâm ở theo quân sĩ mà chờ thời.
Lời bàn:
Lời xưa
có nói: “Gian nan là nợ anh hùng phải vay”
Không
một vị anh hùng nào từ xưa đến nay gây dựng giang sơn sự nghiệp mà không trải
qua những gian nan khổ sở.
Gian nan
khổ sở là bài học đời, bài học của những kẻ có chí lớn thử thách trong lẽ sống.
Đã có
anh hùng thì phải có tiểu nhân mà kẻ tiểu nhân là những ganh tỵ, ghen ghét với
các bậc anh hùng vì quyền lợi và địa vị, cho nên thời nào cũng có.
Tiểu
nhân và anh hùng là hai trạng thái đối nghịch nhau, liên kết với nhau để tạo
nên sức mạnh.
Triều
đình xưa kia là nơi tranh đoạt quyền lợi để tự tồn, vì vậy nơi chốn cao sang
quyền quý bao giờ cũng gánh chịu những hành động nham hiểm của kẻ nịnh.
Nếu nói
về đạo nghĩa làm người thì chỉ có những người trung mới có ý nghĩa bảo tồn, còn
kẻ nịnh thì bất chấp những hành vi nào, miễn tạo được kết quả trong âm mưu của
mình mà thôi.
Ba anh
em Địch Thanh kết nghĩa, đồng lòng làm những việc nhân đạo, nên sướng khổ có
nhau, còn như những kẻ khác tuy không dính líu gì với tình nghĩa ấy mà vì lòng
nhân nên cũng không thể bỏ rơi những người hành động vì đạo nghĩa.
HỒI THỨ CHÍN - CẦU DANH LỢI, ĐỊCH THANH MANG
HỌA
Lúc này
Địch Thanh vào ở nơi dinh lính bộ, ngày đêm buồn bã không nguôi, nghĩ thầm:
- Lúc
xuống núi sư phụ có dặn là đến nơi thì gặp thân nhân, mà nay đã hơn hai mươi
ngày rồi mà chưa gặp ai cả, còn bạn thân thiết lại ở chốn lao tù không biết
ngày nào ra. Nay nghe nói có lệnh dọn dẹp thao trường để thao dượt nhân mã,
song không biết làm thế nào để tiến thân.
Nghĩ vậy
Địch Thanh lần đến giáo trường xem diễn võ, xảy thấy trên bàn có bút mực để
sẵn, Địch Thanh liền lấy bút đề lên vách một bài thơ:
Ngọc còn
ẩn đá có ra chi.
Có thuở
trau dồi nên giống qui.
Chẳng khác
anh hùng chưa gặp vận.
Biện Hoà
dâng đến giữa đơn trì.
Ngày hôm
sau, các quan văn võ kéo đến giáo trường, Tôn Tú nhìn lên vách thấy bài thơ có
ký tên Địch Thanh thì nhớ lại việc Hồ Khôn trước đây liền lẩm bẩm:
- Cha
chả! Thằng này gan thực, dám đề thơ có vẻ khí phách như vậy. Ta sẵn dịp này trả
thù cho Hồ Luân rất tốt.
Nghĩ rồi
liền hỏi quân sĩ:
- Trong
số quân nhân này có ai tên là Địch Thanh chăng?
Quân
nhân thưa:
- Có tên
lính mới tuyển vào thuộc bộ binh của Lâm Quới.
Tôn Tú
liền đòi Lâm Quới đến hỏi:
- Trong
quân của ngươi có tên lính nào tên Địch Thanh chăng?
Lâm Quới
nói:
- Có tên
lính mới tôi mới tuyển vào.
Tôn Tú
nói:
- Hãy
đòi nó lại đây cho ta hỏi.
Lâm Quới
vâng lệnh đòi Địch Thanh đến quỳ trước mặt Tôn Tú.
Tôn Tú
hỏi:
- Tên
ngươi có phải là Địch Thanh ở Sơn Tây không?
Địch
Thanh thưa:
- Phải.
Tôn Tú
nói:
- Hôm
trước ngươi giết Hồ Luân ở Vạn Huê Lầu. Bao Công đã làm ơn tha cho ngươi sao
ngươi chưa về xứ sở?
Địch
Thanh thưa:
- Tôi
nhờ Bao Công mà khỏi tội, song tôi còn muốn ở đây mà lập công danh, cho nên
chưa về xứ sở.
Tôn Tú
nghe nói liền hối quân bắt Địch Thanh trói lại.
Địch
Thanh nói lớn:
- Tôi có
tội gì mà đại nhơn bắt tôi?
Tôn Tú
nạt lớn:
- Ngươi
dám làm bài thơ viết trên vách. Đó không phải là chỗ ngươi làm trò chơi.
Nói rồi
liền hối quân dẫn ra chém. Lâm Quới thấy vậy lật đật quỳ lạy xin cho Địch
Thanh.
Tôn Tú
nạt Lâm Quới:
- Ngươi
không được nói nhiều lời.
Lâm Quới
bị quở không dám nói nữa. Quân sĩ vừa dẫn Địch Thanh ra đến pháp trường, xảy
thấy có năm vị phan vương cũng ra pháp trường thao luyện. Năm vị phan vương ấy
là: Lộ Huê vương Triệu Bích; Nhữ Nam vương Trịnh Ấn; Dõng Minh vương Cao Quỳnh;
Tịnh Sơn vương Hồ Diên Hiểu; và Đông Bình vương Tào Vĩ. Khi ấy năm người đến
nơi, Lâm Quới nói nhỏ với Địch Thanh, và xúi Địch Thanh kêu oan.
Địch
Thanh nghe theo liền la lớn lên:
- Oan ức
tôi lắm!
Nhữ Nam
vương Trịnh Ấn liền kêu quân bảo dừng lại, và hỏi Tôn Tú:
- Vậy
chớ chuyện gì mà tên này kêu oan?
Tôn Tú
bối rối không biết đâu mà trả lời.
Năm vị
phan vương đồng hỏi:
- Sao
chừng này mà không lo thao luyện binh mã lại tru lục quân sĩ như vậy.
Tôn Tú
thưa:
- Nguyên
thằng này là lính mới tuyển vào, lại dễ ngươi dám đề thơ trên vách mà diễu cợt
quan trên, nên tôi xử trảm.
Trịnh Ấn
hỏi:
- Thơ ấy
ở đâu?
Tôn Tú
chỉ thơ trên vách cho Trịnh Ấn xem.
Trịnh Ấn
thấy thơ hay mà không động chạm đến quan trên nên nghĩ rằng:
- Chắc
là Tôn Tú có thù riêng với tên lính này nên mới kiếm cớ mà làm tội như vậy.
Nghĩ như
vậy liền hỏi Tôn Tú:
- Tội đề
thơ ấy có chi mà phải chém?
Tôn Tú
nói:
- Vì nó
dám có hành vi diễu cợt nên phải chém đầu răn chúng.
Trịnh Ấn
nói:
- Việc
trị binh như vậy cũng là nghiêm lắm. Nhưng có tôi đến đây thì cho tôi xin.
Tôn Tú
thưa:
- Lời
đại vương dạy tôi không dám cãi. Song nếu tha nó thì muôn binh sẽ trở nên khinh
lờn phép tắc.
Trịnh Ấn
nói:
- Té ra
ngươi nằng nặc đòi chém cho được mà thôi. Tuy vậy ta cũng nằng nặc xin tha cho
được nó.
Tĩnh Sơn
vương thấy vậy nói với Tôn Tú:
- Tôn
binh bộ sao nỡ vô tình quá vậy. Dẫu cho tội không đáng chém mà Nhữ Nam vương đã
xin thì cũng phải tha mới phải.
Tôn Tú
chưa biết nói sao, ngồi nghĩ một lát rồi nói:
- Nếu
tha cho nó tội chết thì cũng phải phạt nó bốn mươi hèo chứ không thể bỏ qua.
Trịnh Ấn
nói:
- Cái
thẳng thân hình nhỏ xíu mà đánh đến bốn mươi hèo thì còn gì thân xác nó.
Đông
Bình vương nói:
- Thôi,
chỉ đánh nó hai mươi hèo cũng đủ.
Tôn Tú
thấy các vương gia bênh vực nên không dám nói nữa liền bước ra dặn Phạm Khước
lấy cây hèo có tẩm thuốc độc mà đánh Địch Thanh.
Khi đánh
Địch Thanh xong, Tôn Tú khiến bôi tên Địch Thanh và đuổi ra. Năm vị phan vương
truyền nổi chiêng trống lên thao dợt binh mã. Xong cuộc diễu binh ai nấy đều
lên kiệu về dinh.
Lời bàn:
Oán Thù
là một trạng thái đưa đến hành động bất nhân, kẻ nuôi oán thù lúc nào cũng tìm
âm mưu làm hại kẻ khác cốt thỏa mãn sự căm hận của mình.
Nếu oán
thù nuôi trong lòng kẻ không có quyền thế, điạ vị thì còn ít nguy hiểm, còn nếu
nó ở trong con người có quyền thế địa vị thì thật tai hại. Sự trả thù sẽ dẫn
đến những hành động bất nhân, tàn bạo không thể lường trước được.
Lời xưa
có nói: “Oán thù chỉ nên cởi mở mà không nên buộc. Lấy đức báo oán thì oán sẽ
tự tiêu, lấy oán báo oán thì hận thù chồng chất không bao giờ hết”.
Làm
người nên trọng lấy đạo nghĩa, mà không nên coi trọng oán thù. Kẻ nào bỏ được
oán thù thì kẻ ấy sẽ sống cuộc đời thanh thản, không bị ràng buộc trong sự cạnh
tranh vì thế sự.
HỒI THỨ MƯỜI - BỊ HÈO ĐỘC, ĐỊCH THANH CẦU
THUỐC
Sau khi
bị đánh Địch Thanh ra khỏi giáo trường, vừa đi được mấy bước thì thuốc độc thấm
vào người đau nhức không chịu nổi. Tuy vậy Địch Thanh cũng ráng sức đi một đoạn
đường khá dài, cho đến lúc không còn đi nổi nữa Địch Thanh mới ghé vào một cái
miếu bên đường nằm nghỉ.
Người
giữ miếu bước ra hỏi:
- Ngươi
ở đâu mà đến đây nằm liệt ra như vậy?
Địch
Thanh nói:
- Tôi là
lính bộ của Lâm Quới, vì bị Tôn binh bộ đánh hai mươi hèo khi đánh thì không
đau cho lắm, đến khi ra đi thì thấm đòn đau nhức không sao chịu nổi, nên phải
ghé vào đây nằm nghỉ một lúc.
Người
giữ miếu nói:
- Nếu
vậy thì ngươi bị cây hèo có thuốc độc của Tôn binh bộ rồi. Vậy ngươi phải tìm
thầy mà trị cho sớm, nếu không thuốc độc ngấm vào thì ngươi phải chết.
Địch
Thanh than:
- Tôi là
người xứ lạ, nay biết tìm thầy nơi đâu mà chữa.
Người
giữ miếu nói:
- Ở đây
thầy thuốc không thiếu gì, nhưng trị được chất độc ấy thì chỉ có ông An Tu hòa
thượng mới chữa khỏi.
Địch
Thanh hỏi:
- Vị hòa
thượng ấy ở đâu?
Người
giữ miếu nói:
- Hòa
thượng đó ở tại chùa Tướng Quốc cách đây không xa lắm.
Địch
Thanh nghe nói rất mừng, từ giã ra đi tìm đến chùa Tướng Quốc. Đến nơi, hoà
thượng thấy bộ điệu của Địch Thanh thì biết ngay là bị thuốc độc nhiễm vào do
cây hèo độc của Tôn Tú rồi, nên lật đật hối đệ tử đem thuốc ra xoa cho Địch
Thanh. Khi mới thoa vào thì đau nhức lắm, nhưng chỉ chốc lát Địch Thanh hồi
sức, và trỏ lại bình thường.
Từ đấy
Địch Thanh ở lại chùa mà dưỡng bịnh.
Độ năm
sáu ngày thì Địch Thanh đi đứng như thường và nghĩ thầm:
- Nay
nhờ có hòa thượng chữa khỏi bệnh nên mới còn sống sót ơn ấy rất trọng không
biết lấy gì tạ ơn. Ta còn một viên ngọc uyên ương của gia truyền, thôi thì đưa
cho hoà thượng mà tạ ơn.
Nghĩ như
vậy, Địch Thanh đem trao cho hòa thượng.
Hòa
thượng không nỡ lấy nói:
- Ấy là
vật gia bảo của ngươi, ta là người tu hành, sẵn lòng làm phước. Nếu có tiền thì
đền ơn, còn không thì thôi. Ngươi hãy cất đi đừng làm vậy.
Địch
Thanh nhất định không chịu, năn nỉ mại rồi bỏ ra đi.
Hòa
thượng cầm viên ngọc lên xem thấy quý giá vô cùng, đã trong mà lại sáng ngời.
Giữa lúc đó có tin báo Tịnh Sơn vương đến thăm. Hòa thượng vội ra tiếp đón mời
vào trà nước.
Hòa
thượng kể lại việc đã qua và lấy viên ngọc đưa cho Tịnh Sơn Vương xem.
Tịnh Sơn
vương nói:
- Ngọc
này rất quý nhưng tiếc là không đủ cặp, chắc còn một viên nữa đang trao cho kẻ
khác để lưu niệm.
Nói rồi
Tịnh Sơn vương ngồi lại đánh cờ với hòa thượng.
Lời bàn:
Thân
danh sự nghiệp con người rất trọng, kẻ làm nên thân danh sự nghiệp thuộc về
đấng anh hùng. Nhưng trên con đường lập thân để đạt lấy nó không phải dễ. Lời
xưa nói: “càng cao danh vọng càng dày gian nan”.
Địch
Thanh là một nhân tài, lẽ ra đem tài năng của mình dựng nên sự nghiệp không khó
gì, nhưng trong cuộc sống con người chứa đầy tham vọng và tàn ác.
Trong xã
hội ngày nay, chúng ta thấy những kẻ nên danh,được đời ca tụng là anh hùng, là
vĩ nhân, nhưng chính trong cuộc sống của họ cũng phải trải qua biết bao nhiêu
gian nan khổ cức mới thành đạt như vậy. Sự nghiệp càng lớn thì gian nan càng
nhiều. Bởi vậy những người có chí lớn trong thiên hạ, trên đường lập nghiệp họ
không coi gian nguy, khổ sở là quan trọng mà chỉ sợ mình không đủ nghị lực để
vượt quan gian nan khổ cực mà thôi.
HỒI THỨ MƯỜI MỘT - GIẬN GIAN TẶC, BAN CHO GƯƠM
BÁU
Bấy giờ
Tịnh Sơn vương đang ngồi đánh cờ với hòa thượng, xảy thấy có đồ đệ vào thưa:
- Có Sơn
Tây trở lại xin vào chào thầy để từ tạ, nhưng thấy có khách nên không dám vào.
Hòa
thượng nói:
- Ra bảo
nó chờ thêm vài hôm nữa cho thật lành bệnh rồi hãy đi.
Tịnh Sơn
vương nghe nói Địch Thanh lấy làm lạ hỏi:
- Địch
Thanh nào có tên trong giáo trường, còn Địch Thanh nào lại ở đây?
Hoà
thượng thưa:
- Cũng
là một Địch Thanh đó mà thôi. Hôm trước nó ở trong binh bộ, bị Tôn Tú đánh nó
ai mươi hèo có tẩm thuốc độc, may có người chỉ đến đây nên tôi miớ vừa cứu nó
và nó đền ơn cho tôi viên ngọc uyên ương này.
Tịnh Sơn
vương nghe nói khiến đòi Địch Thanh vào mà hỏi.
Địch
Thanh bước vào quỳ ra mắt. Tịnh Sơn vương hỏi:
- Vậy
chớ ngươi với Tôn Tú có thừ oán chi chăng?
Địch
Thanh thưa:
- Tôi là
con nít, còn Tôn Tú là quan chức, hai bực cách nhau xa lắm, lẽ nào tôi dám xúc
phạm đến người trên mà gây thù oán.
Tịnh Sơn
vương nói:
- Hay là
lớp trước có thù oán gì chăng?
Địch
Thanh thưa:
- Chuyện
ấy thì tôi là lớp hậu sanh không rõ được.
Tịnh Sơn
vương nói:
- Hôm
trước ta thấy trong ý bài thơ của ngươi thì tự xưng là anh hùng. Vậy chớ tài
nghệ của ngươi có quả như trong thơ chăng?
Địch
Thanh thưa:
- Chẳng
dám dấu đại vương, nội trong tam lược lục thao, binh thơ chiến sách thảy đều
thông.
Tịnh Sơn
vương nghe nói chưa tin, vì thấy Địch Thanh diện mạo giống như một thư sinh,
nên muốn thử xem gan dạ thế nào, liền hỏi:
- Nay
Tôn Tú đem lòng độc ác, dùng hèo thuốc độc mà hại ngươi, vậy ngươi dám đến mà
giết nó đặng trả thù không?
Địch
Thanh thưa:
- Nếu
được đại vương ban cho Long tuyền kim sợ gì mà không dám giết tên gian thần đó.
Tịnh Sơn
vương nói:
- Vậy
thì ngươi hãy theo ta lãnh cây bảo đao mà trừ tên gian thần ấy.
Địch
Thanh thưa:
- Nếu
đại vương có lòng như vậy thì tôi nguyện đem hết sức mình diệt trừ tên bạo
ngược.
Tịnh Sơn
vương nói:
- Ta sơ
e ngươi vẽ cọp không ra hình thì thế nào?
Địch
Thanh thưa:
- Nếu
được việc thì tôi vì dân trừ bạo, còn nếu không thì tôi có chết cũng cam lòng.
Tịnh Sơn
vương nói:
- Như vậy
mới đáng mặt anh hùng. Thôi hãy đi với ta.
Nói rồi
dạy lại hỏi hòa thượng:
- Ngọc
uyên ương là báu vật gia truyền của nó, thày trả lại cho nó giữ làm dấu tích
của tiển nhân. Còn công ơn thầy cứu nó thì để tôi trả vài đính vàng.
Nói rồi
lấy ra hai đính vàng trao cho hòa thượng.
Hòa
thượng nói:
- Ấy là
tại Địch Thanh năn nỉ và cố đền ơn. Nay đại vương đã dạy như vậy tôi đâu dám
lãnh.
Tịnh Sơn
vương nhất định trao hai đính vàng cho hòa thượng nên hòa thượng cực chẳng đã
phải nhận và trả viên ngọc lại cho Địch Thanh.
Tịnh Sơn
vương từ giã lên kiệu ra về, lại khiến Địch Thanh theo về dinh.
Ngày hôm
sau, Tịnh Sơn vương khiến quân khiêng cây Kim hoàn đao ra, rồi nói với Địch
Thanh:
- Nay ta
giao cây đao này cho ngươi, đặng ngươi chém đầu Tôn Tú.
Địch
Thanh liền bước ra lãnh đao, từ tạ ra đi.
Tịnh Sơn
vương khiến Lưu Văn và Lý Tấn theo sau mà coi chừng Địch Thanh tiếp ứng.
(Nguyên
cây đao này nặng đến một trăm cân của Tống Thái Tổ để lại, vì e ngày sau con
cháu nghe lời sàm tấu của nịnh thần mà làm hư việc nước, nên giao cho năm vị
phan vương luân phiên mà giữa đao ấy mỗi người sáu ngày. Nhằm phiên ai giữ thì
được quyền chém giết bất kỳ văn võ bá quan, hoàng thân quốc thích, hể ai phạm
tội thì chém đầu, mà lúc ấy nhằm phiên của Tịnh Sơn vương giữ cây đao ấy).
Lúc ấy
Địch Thanh xách cây đao ra đ1, ai ai thấy mặt cũng đều tránh, vì đã biết cây
đao của Tống Thái Tổ cho nên sợ hãi. Còn Địch Thanh là người xứ lạ mới đến Biện
Kinh có ít ngày, không biết Tôn Tú ở đâu đặng mà vào lấy thủ cấp.
Lúc này
Tôn Tú đang qua dinh Bàng Hồng mà đánh cờ. Gia nhân của Tôn Tú là Tôn Long thấy
mặt thì biết là Địch Thanh, lật đật chạy qua dinh Bàng Hồng báo cho Tôn Tú hay.
Tôn Tú
nghe nói kinh hãi. Bàng Hồng nói:
- Thế ra
lão Hồ Diên Hiển trao cây kim đao cho nó, vì hôm nay nhằm phiên của lão ấy giữ.
Tôn Tú
nói:
- Không
biết kế chi mà trừ lão, để lão ỷ mình là công thần muốn làm chi thì làm, rất
khó chịu.
Bàng
Hồng nói:
- Thôi!
Haỹ khoan về dinh đã, để xem thử chúng nó làm gì.
Lúc này
Sơn Tây xách đao đi tìm Tôn Tú không được, khi đến một chiếc cầu, Địch Thanh
nghĩ thầm:
- Thôi
ta cứ ngồi đây chờ nó đi ngang qua đây sẽ hạ sát.
Ngồi một
lát thấy đói bụng, Địch Thanh bước lại tiệm bánh gần đó, dựng cây đao ngoài
cửa, rồi vào ngồi ăn.
Lúc đang
ăn, Địch Thanh bỗng nghe tiếng la hét om sòm, liền bước ra xem thì thấy một
đoàn người vừa chạy vừa la inh ỏi.
Địch
Thanh xem kỹ thì thấy một con ngựa tướng mạo rất hung dữ đang chạy qua cầu.
Địch Thanh vội vã chạy theo đuổi bắt. Chủ quán thấy vậy nói:
- Cái
thằng khốn! Nó làm bộ đuổi theo bắt ngựa để khỏi trả tiền bánh. Vậy sẵn có cây
đao đây, ta xiết mà trừ nợ..
Nói rồi
kêu bọn gia nhân ra khiêng cây đao vào.
Bỗng có
Lưu Văn và Lý Tấn chạy đến nạt lớn:
- Cây
đao vủa vua Thái Tổ để lại tại dinh vủa Tịnh Sơn vương, ai dám cả gan khiêng đi
vậy.
Chủ tiệm
nói:
- Ấy là
tại tôi không rõ, tưởng là của ai bỏ quên, xin miễn chấp.
Lưu Văn
và Lý Tấn bèn khiêng cây đao ấy về dinh.
Còn con
ngựa vừa sẩy chạy là con ngựa cùa Đông Phiên đem dâng cho triều đình, tên là
Hỗn long cu. Vua ban cho Bàng thái sư. Ngựa ấy dữ tợn lắm, không chịu ai cưỡi
hết, cho nên phải xiềng nó lại mà nó vẫn hung dữ. Ngày trước nó đã hại chết mấy
trăm gia nhân của Bàng thái sư nen Bàng thái sư muốn giết nó đi, ngặt vì ngựa
của triều đình ban nên không dám giết, phải đóng cũi mà nhốt nó. Nay nó lại phá
cũi mà ra, nên Bàng thái sư truyền rằng hễ ai trừ được con ngựa thì trọng
thưởng.
Lúc đó
Địch Thanh chạy theo mà nắm đầu con ngựa ấy mà đạp một cái, con ngựa liền ngã
xuống chết tươi. Ai nấy thấy vậy đều khen. Bọn gia nhân của Bàng thái sư chạy
đến nói:
- Tráng
sĩ thật đáng bậc anh hùng, xin tráng sĩ theo chúng tôi về dinh lãnh thưởng.
Địch
Thanh nói:
- Không
phải tôi ham thưởng mà chỉ muốn trừ con ngựa dữ mà thôi. Tôi không muốn đi đâu.
Gia đinh
nói:
- Nếu
tráng sĩ không đi thì chúng tôi bị quở, vì thái sư có ra lệnh hễ ai trừ được
ngựa thì ban thưởng.
Địch
Thanh thấy vậy cũng chiều lòng đi theo bọn gia nhân. Đến nơi bọn gia đinh vào
báo:
- Nay có
một tráng sĩ sức mạnh vô cùng, đã trừ được con Hỏa long cu rồi. Hiện đang đứng
ngoài cửa.
Bàng
thái sư nghe nói khiến cho vào. Địch Thanh vào đến nơi quỳ lạy nói:
- Kẻ
tiểu nhân vì muốn trừ ngựa dữ chớ không có ý lãnh thưởng gì hết.
Bàng
thái sư hỏi:
- Ngươi
tên họ là chi? Quê quán ở đâu?
Địch
Thanh thưa:
- Tôi là
Sơn Tây ở tỉnh Sơn Tây, phủ Thái Nguyên.
Bàng Hồng
nghe nói biết là cừu nhân của rể mình, thì nghĩ thầm:
- Ta
phải tìm gạt nó để báo cừu cho rể ta.
Nghĩ rồi
liền nói:
- Ta đã
có lời hứa hễ ai trừ được ngựa dữ thì ban thưởng, vậy tráng sĩ ở lại đây để
sáng mai ta vào triều tâu với thánh thượng gi ban ban quyền tước cho.
Địch
Thanh nói:
- Ngày
trước tôi có phạm tội với Tôn binh bộ, e người thấy mặt thì không dung thứ.
Bàng
Hồng nói:
- Không
hề chi! Có ta đây thì Tôn binh bộ không dám là gì trái đâu. Vậy tráng sĩ cứ ở
theo bọn gia đinh của ta, hoặc ra ngoài huê viên mà nghỉ, ngày mai ta sẽ dắt
vào triều yết kiến hoàng thượng.
Địch
Thanh tuân lệnh. Còn Bàng Hồng thì trở lại thơ phòng, gọi Tôn Tú đến, thuật hết
mọi việc cho Tôn Tú nghe. Sau đó Bàng Hồng nói với tên gia đinh là Lý Kế Anh:
- Nay có
Địch Thanh là người thù của Tôn binh bộ cho ngủ nơi Đơn Quế đình, vậy đêm nay
đến canh ba ngươi đem lửa đốt nhà ấy đặng giết Địch Thanh trả thù cho Tôn binh
bộ. Ngươi làm xong việc ấy sẽ được trọng thưởng.
Lý Kế
Anh thưa:
- Nơi
đây là chốn kinh thành, nếu nổi lửa đốt vào lúc canh ba e làm náo loạn. Vậy để
tôi dụ nói uống rượu cho say, rồi nửa đêm cho nó một đao thì hết đời, mà không
ai hay biết gì hết.
Bàng
Hồng nghe nói gật đầu:
- Như
vậy thì rất tốt, nhưng ta e một mình ngươi làm không nổi.
Lý Kế
Anh nói:
- Giết
một tên say rượu có gì khó đâu. Nhưng nếu tôi giết được xin thái sư trọng
thưởng là tốt rồi.
Bàng
Hồng nói:
- Nếu
ngươi giết được Địch Thanh thì ta tiến cử ngươi làm chức tri huyện nơi một chỗ
tốt.
Lý Kế
Anh thưa:
- Vậy
thì xin thái sư cho tôi một tiệc rượu đặng tôi đến Đơn Quế đình mà dỗ nó ăn
uống cho no say.
Bàng
Hồng liền hối quân dọn tiệc rồi bưng theo Lý Kế Anh.
Bấy giờ
Địch Thanh đang ngồi một mình nơi Đơn Quế đình, bỗng thấy một người đi trước và
hai tên quân bưng mâm tiệc rượu theo sau. Khi đến nơi, Lý Kế Anh bảo để mâm
tiệc rượu xuống, rồi cho hai tên quân trở về.
Địch
Thanh hỏi:
- Hiền
huynh là ai? Quê quán ở đâu?
Lý Kế
Anh nói:
- Tôi là
gia nhân của Bàng thái sư, tên là Lý Kế Anh, quê ở tỉnh Sơn Tây, phủ Thái
Nguyên, trước kia làm tôi cho ông thân sinh của cậu. Đến sau người xin quy
điền, chẳng bao lâu thì từ trần. Kế sau đó bị nước lụt, chết hết cả huyện Tây
Hà. Tôi may sống sót, lưu lạc đến đây là gia đinh cho Bàng thái sư. Nay gặp cậu
ở đây mà cậu lại đang lâm đại nạn, cho nên tôi phải lập mưu mà cứu cậu.
Địch
Thanh nói:
- Chẳng
hay tôi đang bị nạn gì?
Lý Kế
Anh liền thuật hết chuyện Bàng Hồng âm mưu hãm hại.
Địch
Thanh nghe nói thất kinh hỏi:
- Lạ
thạt! Tôi và Bàng Hồng có thù oán chi mà lại âm mưu hại tôi như vậy?
Lý Kế
Anh nói:
- Vậy
cậu không biết Bàng Hồng là người chi của Tôn Tú hay sao?
Địch
Thanh nói:
- Không.
Lý Kế
Anh nói:
- Tôn Tú
là rể của Bàng Hồng cho nên Bàng Hồng muốn trả thù thay cho Tôn Tú.
Địch
Thanh nghe nói nổi giận:
- Bàng
tặc muốn hại ta. Vậy trong nội đêm nay ta phải giết trước mi cho rồi.
Lý Kế
Anh nói:
- Không
nên hành động như vậy vì chưa đến lúc. Tốt hơn là cậu tìm cách trốn khỏi nơi
đây đã.
Địch
Thanh nói:
- Bây
giờ biết ra đường nào?
Lý Kế
Anh nói:
- Tôi đã
liệu trước rồi. Cửa trước cửa sau đều khóa hết, không ra được, duy có phía giáp
ranh ông Hàng Kỳ làm Lại bộ thượng thư, thì hai bên có cây đại thọ cành cây
giao nhau, cậu có thể leo lên cây mà trèo sang bên kia thì thoát nạn.
Địch
Thanh nói:
- Biết
ông ấy có phải là một phe với Bàng Hồng chăng?
Lý Kế
Anh nói:
- Ông
này là một người chánh trực, nên Bàng Hồng thường muốn hại ông ta mà chưa được.
Vậy cậu hãy đi cho mau kẻo trễ.
Địch
Thanh nói:
- Nay
nhờ hiền huynh thương tình thông tin, nếu không thì tính mạng tôi không còn.
Nói rồi
cúi đầu lạy Lý Kế Anh.
Lý Kế
Anh đỡ dậy nói:
- Cậu
đừng làm như vậy. Hãy đi cho mau kẻo bị lộ.
Địch
Thanh liền leo lên cây đại thọ chuyền qua bên vườn của Hàng Kỳ.
lời bàn:
Dù cho
kẻ gian xào đến đâu thì trong âm mưu cũng có lúc sơ hở. Chính những sơ hở ấy
lại tạo thành cơ hội ngàn để cho kẻ hiền lành lọt ra ngoài nguy biến.
Bàng
Hồng là một tay âm mưu nổi tiếng, thế mà không hại được Địch Thanh khi Địch
Thanh đã sa vào trong tay mình. Đó là lòng trời không nỡ hại người ngay nên
khiến Bàng Hồng không lường nỗi lòng nhân ái của Lý Kế Anh, một tên gia nhân.
Trong kẻ
ác có những người thiên. Thiện ác luôn luôn xen kẽ với nhau, diễn biến trong
cuộc sống không thể lường hết được.
Trong
cuộc sống con người, không phải ai lương tâm cũng giống nhau. Nhưng có điều kẻ
ác thường liên kết với người ác, còn người lành thì gặp người lành lại thương
mến nhau. Cái gì phù hợp nhau thì cái đó gặp nhau. Lý Kế Anh, một kẻ tôi đòi,
nhưng lại có lòng nhân, nên thấy Địch Thanh lầm hoạn nạn thì thương cảm. Lòng
thương cảm đã vượt qua mọi nguy hiểm của mình nếu hành động của Lý Kế Anh bị
tiết lộ. Biết vậy nhưng Lý Kế Anh vẫn làm vì lương tâm con người bắt buộc phải
hành thiện.
HỒI THỨ MƯỜI HAI - THOÁT LAO LUNG, ANH HÙNG
LÁNH NẠN
Bấy giờ
Hàng Kỳ đang làm Lại bộ thượng thư, là một vị trung thần, tuổi đã sáu mươi, đêm
ấy ra sau vườn xem trang, thấy sao Võ khúc chói sáng thì biết có Võ tướng quân
ra đời. Trong lúc đang suy nghĩ thì trên cây đại thọ có nhánh động, rồi một
bóng người còn nhỏ tuổi từ trên lao xuống.
Hàng Kỳ
hỏi:
- Ngươi
là ai? Sao đêm khuya dám xông vào vườn ta?
Địch
Thanh nghe hỏi vội vã quỳ xuống thưa:
- Tôi là
Sơn Tây, người ở Sơn Tây vì lánh nạn xin đại nhân cứu tôi làm phước.
Hàng Kỳ
hỏi:
- Ngươi
bị nạn chi?
Địch
Thanh thuật hết câu chuyện từ khi giết được ngựa dữ đến việc Tôn Tú muốn hại
mình cho Hàng Kỳ nghe.
Hàng Kỳ
nói:
- Té ra
ngươi là người bị Tôn Tú chém lúc trước nhờ có ngũ vị phan vương xin đó phải
không?
Địch
Thanh thưa:
- Phải.
Hàng Kỳ
hỏi:
- Ngươi
ở Sơn Tây, vậy cha ngươi tên gì?
Địch
Thanh thưa:
- Cha
tôi tên là Địch Quảng làm tổng binh tại Thái Nguyện, còn ông tôi là Địch Ngươn.
Hàng Kỳ
nghe nói mừng rỡ, liền bảo:
- Trước
kia ông thân của cháu còn ở tại triều có kết nghĩa với chú, tình ý rất hợp nhau
như ruột thịt. Đến sau cha cháu ra trấn nhậm Thái Nguyên thì đường sá xa xôi,
tin tức vắng bặt. Sau đó chú lại nghe tỉnh Sơn Tây bị lụt, chắc là cả nhà không
còn. Đến nay, trời sau cháu đến đấy khiến chú rất mừng. vậy cháu hãy ở lại đây
nương náu chờ thơi, đặng kiến công lập nghiệp.
Địch
Thanh nghe nói liền cúi đầu lạy Hàng Kỳ.
Hàng Kỳ
đỡ dậy nói:
- Từ nay
cháu cứ gọi bằng chú mà thôi.
Địch
Thanh vâng lời, từ ấy ở tại nhà Hàng Kỳ mà ẩn mặt.
Còn Lý
Kế Anh thấy Địch Thanh đã leo qua vách rồi liền trở lại thưa với Bàng Hồng
rằng:
- Tôi đã
dụ Địch Thanh uống rượu say mèm rồi, xin thái sư cho tôi một cây long tuyền
kiếm đặng tôi lấy đầu nó cho rồi.
Bàng
Hồng nói:
- Vậy
nhà ngươi rán mà giữ mình kẻo nó mạnh lắm.
Lý Kế
Anh vâng dạ ra đi.
Bấy giờ
đã canh ba, quân sĩ thâý Lý Kế Anh cầm long tuyền kiếm nên không ai dám hỏi han
gì hết.
Hôm sau
Bàng Hồng thấy Lý Kế Anh không trở lại báo tin nên hõi bọn gia nhân thì được
biết Địch Thanh và Lý Kế Anh đã bỏ trốn mất rồi.
Bàng
Hồng nổi giận một mặt sai bốn mươi tên quân đi tìm kiếm, một mặt sai chặt cây
cổ thụ bên tường, vì nghĩ rằng Địch Thanh trốn được là nhờ cây cổ thụ ấy.
Còn Tôn
Tú nghe tin Địch Thanh bỏ trốn rồi thì cả giận, cùng với Bàng Hồng điểm ba ngàn
quân đến bao vây nhà Hàng Kỳ, cố lục soát tìm bắt Địch Thanh.
Gia nhân
hay tin lật đật vào báo với Hàng Kỳ.
Hàng Kỳ
cười lớn nói:
- Loài
gian tặc làm nhiều điều ngang ngược như vậy.
Địch
Thanh thưa:
- Xin để
cháu ra trừ loài gian tặc cho.
Hàng Kỳ
nói:
- Không
nên! Cháu hãy nghe chú leo lên lầu xem sách mà ẩn mình thì tiện hơn. Lầu này là
của tiên đế lập cho chú xem sách, bên ngoài có tấm bảng cấm, không ai được lên
trên lầu ấy. Nếu nó xét nội nhà mà không thấy cháu thì nó phải ra đi, không dám
xét đến lầu đó.
Nói rồi
dẫn Địch Thanh lên lầu, đóng cửa lại. Lúc Hàng Kỳ bước trở xuống thì đã gặp
Bàng Hồng bước vào nhà. Hàng Kỳ thi lễ xong mời ngồi và hỏi:
- Vả tôi
là người vô tội sao thái sư dẫn quân đến xét dinh tôi.
Bàng
Hồng nói:
- Có
Địch Thanh trốn trong dinh ngài xin bảo nó ra, nếu dấu e khó lòng cho ngài đó.
Hàng Kỳ
nói:
- Té ra
ngài muốn kiếm Địch Thanh sao? Nào tôi có biết Địch Thanh là người thế nào đâu?
Thôi! Mặc cho ngài muốn kiếm thì kiếm, không can chi.
Bàng
Hồng nghe nói liền khiến quân lục soát khắp nội dinh, nhưng không có. Bàng Hồng
nghi Địch Thanh trốn trong Ngự thơ lầu, nhưng không dám lên.
Hàng Kỳ
thấy vậy nói với Bàng Hồng:
- Công
trình ngài đem quân đến đây mà không kiếm được Địch Thanh, thật là uổng công
của ngài lắm.
Bàng
Hồng nghe mấy lời xiên xỏ của Hàng Kỳ thì giận lắm, song không nói gì được, bèn
khiến quân canh giữ Ngự thơ lầu rồi rút quân trở về dinh.
Hàng Kỳ
thấy Bàng Hồng đi rồi thì vỗ tay cười lớn, mắng:
- Gian
tặc! Ngươi đã tìm không ra Địch Thanh thì thôi, sao còn bày đặt sai quân canh
giữ thơ lầu làm chi cho uổng công như vậy.
Từ ấy
Hàng Kỳ cứ dấu Địch Thanh trên Ngự thơ lầu, mỗi ngày cho người đem cơm cho Địch
Thanh ăn mà thôi.
Nhắc lại
việc Tịnh Sơn vương trao cây kim đao sai Địch Thanh đi giết Tôn Tú, nhưng hôm
sau lúc đi chầu về không thấy Địch Thanh trở lại thì gọi Lưu Văn và Lý Tuấn đến
hỏi. Hai người thuật chuyện Địch Thanh trừ được ngựa dữ bỏ quên kim đao ngoài
quán và đi theo theo gia đinh của Bàng Hồng cho Tịnh Sơn vương nghe. Tịnh Sơn
vương than:
- Địch
Thanh là người hữu dõng vô mưu.
Nhắc lại
việc Lý Kế Anh khi ra khỏi thành thì sợ Bàng Hồng cho quân theo bắt, nên không
dám đi đại lộ cứ theo tiểu lộ mà đi. Đến trưa thấy đói bụng bèn vào quán ăn
cơm.
Trong
lúc ăn cơm thấy có hai tên gia đinh của Bàng Hồng kéo đến là Bàng Hưng và Bàng
Hỷ.
Hai
người vào quán nói với Lý Kế Anh:
- Sao
ngươi thả Địch Thanh làm chi mà phải bỏ trốn như vậy? Nau thái sư dạy hai ta
đến bắt ngươi, vậy ngươi phải trở về mà chịu tội.
Lý Kế
Anh nói:
- Không!
Ta không trở về đâu.
Bàng
Hưng nói:
- Sao
vậy?
Lý Kế
Anh nói:
- Lâu
nay tôi ở với thái sư không phạm điều chi lầm lỗi, vừa rồi tôi cứu Địch Thanh
là trả lại ơn xưa, đền đáp nghĩa tình. Nếu tôi trở về thì chắc phải chết. Vậy
hai anh ngồi đây uống rượu rồi trở về nói với Bàng thái sư là không gặp tôi.
Bàng Hỷ
nói:
- Nếu
ngươi không về thì chúng ta phải ra tay.
Nói rồi
áp lại bắt Lý Kế Anh, bị Kế Anh đánh cho mỗi người một đá nhào lăn.
Chủ quán
thấy vậy can:
- Ba anh
em quen thuộc với nhau, sao lại làm như vậy.
Lý Kế
Anh nói:
- Nếu
chúng nó bắt tôi về thì tôi phải giết chúng nó không thể nhịn được.
Chủ quán
nói:
- Thôi!
Ba anh em ngồi lại ăn uống cho vui, đừng đánh nhau nữa.
Bàng
Hưng, Bàng Hỷ biết đánh không lại Lý Kế Anh nên phải làm lành, cùng ngồi lại ăn
uống.
Bàng
Hưng nói:
- Lý
huynh không về thì thôi, chúng tôi phải về thưa lại với Bàng thái sư.
Lý Kế
Anh cười nói:
- Phải
chi lúc nãy hai anh nói như vậy thì tôi đâu có đánh làm chi. Nay Bàng Hồng là
một đứa nịnh thần, chẳng sớm thì muộn cũng mang họa. Tôi tưởng chúng ta ở với
nó cũng chẳng ra chi, nên bỏ trốn tìm chỗ khác mà làm ăn thì khá hơn.
Bàng
Hưng, Bàng Hỷ nói:
- Chúng
tôi cũng muốn như vậy, song trong lưng không có tiền biết lấy chi làm lộ phí.
Lý Kế Anh
nói:
- Nếu
hai anh chịu đi thì mọi chi phí dọc đường từ đây về Sơn Tây tôi chịu cho.
Bàng
Hưng, Bàng Hỷ mừng rỡ, theo Lý Kế Anh trở về Sơn Tây.
Dọc
đường khi đi ngang qua núi Thiên Cái sơn bị mấy tên lâu la ra đón đường, ba
người đánh bọn lâu la chạy hết rồi chiếm cứ hòn núi ấy mà ở.
(Nguyên
núi này trước kia là chỗ của Trương Trung, Lý Nghĩa chiếm cứ, nay hai anh mắc
đi Biện Kinh đã hơn hai tháng mà không thấy về, nay bị Lý Kế Anh chiếm đoạt).
Bấy giờ
Lộ Huê vương là Triệu Bích vào cung hầu mẹ là Địch thái hậu, thấy Địch thái hậu
có sắc buồn thì hỏi:
- Hôm
nay sao mẹ buồn bã vậy?
Địch
thái hậu nói:
- Đêm
hôm mẹ nằm chiêm bao thấy một điềm rất lạ.
Lộ Huê
vương hỏi:
- Chẳng
hay điềm ấy như thế nào?
Địch
thái hậu nói:
- Mẹ
thấy mẹ ăn tiệc, đang cầm một miếng chả, thì trong miếng chả ấy có một cái
xương. Xương ấy đụng nhằm mẹ, máu chảy ra dính vào miếng chả thì miếng chả ấy
liền lại như cũ. Khi ấy mẹ giật mình thức dậy không rõ điềm dữ hay lành.
Lộ Huê
vương nói:
- Xin mẹ
chớ buồn, để con mời người biết giải mộng đến đây mà giải thì rõ.
Nói rồi
lui ra truyền nội giám đi triệu Bao Chuẩn và Hàng Kỳ vào ra mắt.
Lộ Huê
vương thuật lại điềm chiêm bao của Địch thái hậu.
Hàng Kỳ
nói:
- Điềm
ấy rất tốt, có xương có thịt là điềm cốt nhục tương phùng.
Lộ Huê
vương hỏi:
- Chừng
nào mới gặp?
Hàng Kỳ
thưa:
- Nội
đêm nay thì gặp.
Lộ Huê
vương nói:
- Nếu
quả như vậy, thiệt đáng khen cho Thượng thơ lắm.
Hàng Kỳ
thưa:
- Tôi cứ
theo lý mà đoán, không chắc là lầm.
Lộ Huê
vương nói:
- Bao
phủ doãn công việc nhiều lắm, thôi hãy về đi, còn Hàng lại bộ thì ở lại đây
đặng vào ra mắt mẹ ta mà giải điềm cho mẹ ta rõ.
Hàng Kỳ
tuân lệnh ở lại vào ra mắt Địch thái hậu.
Lời bàn:
- Thù
hận là nền móng gây ra biến loạn trong xã hội, nhưng thù hận bao giờ cũng bắt
nguồn từ tham vọng con người. Kẻ nào tước đoạt quyền lợi của mình thì kẻ ấy sẽ
bị mang thù hận đối với những kẻ tham vọng. Tham vọng cá nhân gây thù hận từ cá
nhân đến tập thể và kéo theo những hành động bỉ ổi không thể lường trước được.
Trong
cuộc sống con người, những kẻ vị tha không bao giờ rước thù hận vào người, còn
kẻ vị kỷ thì luôn luôn thù oán hết người này đến người khác.
Đã thù
hận với người khác thì tất nhiên cũng bị thù hận do kẻ khác đối với mình, cứ
thế tiếp diễn mãi không thể cởi bỏ được.
Hãy đem
cuộc sống mình phụng sự cho cái chung, đừng vì quyền lợi riêng tư mà tạo nên
cừu hận. Đó là lẽ sống tốt nhất và cao cả nhất.Tuy vậy, ít ai làm được việc ấy.
HỒI THỨ MƯỜI BA - VÂNG Ý CHỈ TRỪ AN LONG MÃ
Lộ Huê
vương dắt Hàng Kỳ vào ra mắt Địch thái hậu và thuật lại lời bàn của Hàng Kỳ cho
Địch thái hậu nghe.
Địch
thái hậu nhớ đến việc Địch Quảng là anh mình thì lại càng buồn rầu hơn nữa, bèn
hỏi Lộ Huê vương:
- Vậy
con hãy cầm Hàng lại bộ lại nơi đó mà thết đãi, đặng chờ ngày ấy xem có quả như
vậy mẹ sẽ ban thưởng.
Lộ Huê
vương vâng lời cầm Hàng Kỳ ở lại mà thết đãi.
Bấy giờ
Nam Thanh cung xảy ra một chuyện lạ. Nguyên lúc trước Ngọc hoàng có sai rồng đỏ
hóa làm một con ngựa xuống giúp Tống Thái Tổ để gây dựng giang san. Đến nay
thái bình rồi thì ngựa ấy trở về trời mà làm rồng lại, ai dè ngựa ấy lòng phàm
chưa dứt, trốn xuống tỉnh Sơn Tây, phủ Tây Hà làm cho nước lụt tàn hại sinh
linh hết mấy muôn mạng nên Ngọc hoàng giận dữ đày xuống làm long mã giúp Tống
đánh Tây Hạ để lập công chuộc tội.
Rồng
vâng chỉ xuống tại hoa viên, sau Nam Thanh cung ở nơi ao sen, chờ ngày giúp
Tống.
Ngày kia
quan coi vườn thấy ao sen nổi sóng thì thất kinh lật đật vào báo với Địch thái
hậu và Lộ Huê vương hay.
Địch
thái hậu nói:
- Vậy ta
phải sai người lên Long Hổ sơn triệu pháp sư xuống mà trừ yêu quái ấy.
Hàng Kỳ
nghe nói nghĩ thầm:
- Địch
Thanh là học trò Quỉ Cốc, có lẽ trừ yêu quái được. Vậy lúc này may ra có dịp mà
tiến cử nó, may ra có thể xuất thân được.
Nghĩ như
vậy liền nói với Lộ Huê vương:
- Có một
người tráng sĩ sức mạnh vô cùng, lại là học trò của Quỉ Cốc, hôm trước trừ được
ngựa dữ tại Thiên Hơn kiều. Xin sai người triệu tráng sĩ ấy đến xem thử.
Lộ Huê
vương hỏi:
- Tráng
sĩ ấy bây giờ ở đâu?
Hàng Kỳ
nói:
- Bây
giờ đang ở tại nhà tôi.
Lộ Huê
vương nói:
- Nếu
đang ở nhà ngài thì phải sai người đến triệu lập tức.
Hàng Kỳ
nói:
- Tuy
đang ở nhà tôi nhưng không dám ra mặt.
Lộ Huê
vương hỏi:
- Tại
sao vậy?
Hàng Kỳ
liền thuật hết mọi việc Bàng Hồng tới nhà bắt Địch Thanh cho Lộ Huê vương nghe.
Lộ Huê
vương nổi giận lấy long bài trao cho nội giám bảo đến Ngự thơ lầu đuổi hết quân
sĩ của Bàng Hồng đi, rồi triệu Địch Thanh đến lập tức.
Nội giám
vâng lệnh làm y như vậy.
Địch
Thanh được lệnh Lộ Huê vương theo nội giám đến Nam Thanh cung vào ra mắt Lộ Huê
vương.
Lộ Huê
vương hỏi:
- Nơi ao
sen phía sau cung có một con yêu quái, hình tựa giống rồng xanh, phá phách rất
dữ, không ai trừ nổi. Nay có Hàng thượng thơ tiến cử tráng sĩ là học trò Quỉ
Cốc, học được phép trừ cọp bắt rồng. Vậy tráng sĩ có thể trừ con yêu quái đó
hay không?
Địch
Thanh nghĩ thầm:
- Thuở
nay mình theo thầy học võ nghệ, đâu có học phép trừ yêu. Nay chú mình đã tiến
cử không lẽ từ chối.
Nghĩ như
vậy liền nói:
- Loài
yêu ấy để tôi trừ cho, xin điện hạ chớ lo.
Lộ Huê
vương mừng rỡ truyền dọn tiệc thết đãi Địch Thanh.
Đêm ấy
vào đêm 14 tháng 8, trăng tỏ như ban ngày, Lộ Huê vương khiến quân mở mấy tầng
cửa sau vườn. Địch Thanh xách đao ra trước ao hét lớn:
- Nghiệt
súc! Hãy mau lên mà nạp mình.
Tức thì
ao sen nổi sóng, một con yêu quái mình mẩy đỏ như lữa từ dưới ao trồi lên. Địch
Thanh coi lại thì quả là con rồng đỏ. Rồng ấy vung nanh múa vuốt và hét lên
tiếng tựa như sấm. Địch Thanh cầm đao chỉ rồng nói:
- Nghiệt
súc! Chớ nên làm dữ.
Con rồng
liền nhảy lên bờ, há miệng vẫy đuôi xốc lại mà chụp Địch Thanh.
Địch
Thanh ráng sức kháng cự một hồi, nhưng đánh không lại rơi đao xuống đất. Rồng
xốc tới muốn nuốt Địch Thanh làm cho Địch Thanh cả sợ xuất tướng tinh là vì sao
Võ khúc.
Rồng đỏ
trông thấy hét lớn một tiếng, rồi nằm xuống hóa thành một con ngựa lớn, cao độ
năm thước, sắc hồng hai mắt sáng như gương.
Địch
Thanh thấy vậy cười lớn:
- Lạ
chưa! Lúc nãy ngươi là con rồng mà bây giờ trở thành con ngựa. Hay là trời cho
mình con ngựa này chăng?
Nói rồi
bước tới rờ đầu con ngựa, nói:
- Ngựa
ơi! Nếu ngươi muốn theo ta thì gật đầu ba cái.
Con ngựa
nghe nói thì gật đầu lia lịa. Địch Thanh mừng rỡ lạy giữa thinh không cảm tạ
trời đất rồi lên ngựa cho đi chầm chậm khắp bờ ao.
Quân sĩ
trông thấy liền mở cửa vường chạy ra xem.
Địch
Thanh nói:
- Tôi đã
bắt được yêu quái ấy rồi. Nó đã hóa thành con ngựa long cu đây.
Lộ Huê
vương chạy ra khiến quân bảo Địch Thanh dắt con ngựa ấy vào, rồi xem xét thấy
sự việc kỳ dị như vậy vội vào báo với Địch thái hậu và Hàng Kỳ.
Hàng Kỳ
khen Địch Thanh xứng danh một bậc anh hùng. Lộ Huê vương khiến quân cầm yên đem
ra thắng vào ngựa ấy rồi lên cưỡi thử mà ngựa ấy không chịu đi, cất lên một cái
làm Lộ Huê vương muốn té xuống đất, may có quân sĩ đến đỡ kịp.
Lộ Huê
vương nói:
- Ngựa
này không cho ta cưỡi. Hàng thượng thơ thử cưỡi cho ta xem.
Hàng Kỳ
vâng lời lên cưỡi thì ngựa ấy cũng không cho.
Lộ Huê
vương nói:
- Thôi!
Ta thưởng con ngựa và bộ yên ấy cho ngươi.
Địch
Thanh mừng rỡ tạ ơn.
Lời bàn:
Người
xưa, theo quan niệm Đông phương, cấu tạo lẽ sống theo vận mệnh của trời đất,
gọi là thời vận. Thời vận là sự vận chuyển của vũ trụ. Lúc đã đến thời thì
những cơ may ồ ạt kéo đến, giúp cho vận mệnh đạt thành công.
Địch
Thanh, lúc chưa gặp thời thì mọi rủi ro chồng chất, nhưng lúc thời đã đến thì
cái gì cũng suông sẻ.
Tuy
nhiên, theo lẽ trời bao giờ cũng phải dựa theo chân lý, mà chân lý là lẽ sống
nhân đạo cuả con người. Kẻ biết tôn trọng chân lý thì dù có gian nan sớm muộn
cũng gặp được điều lành, còn kẻ không tôn trọng chân lý dù có đạt được toại chí
nhưng sớm muộn cũng bị luật nhân quả đào thải.
HỒI THỨ MƯỜI BỐN - GẶP MỘNG LÀNH HÀNG KỲ TIẾN
CHÁU
Địch
Thanh thấy Lộ Huê vương cho ngựa thì mừng rỡ lạy tạ thưa:
- Nay
điện hạ đã cho tôi con ngựa này, vậy xin điện hạ đặt tên luôn thể.
Nó là
con long cu mà nhà ngươi bắt được ở dưới hồ sen trong đêm trăng thì gọi nó là
Hiện Nguyệt Long cu.
Địch
Thanh tạ ơn, Lộ Huê vương lại nói:
- Ngươi
có tài phép như vậy để mai ta tâu với thiên tử đặng phong thưởng cho ngươi. Vậy
chớ quê quán ngươi ở đâu? Cha mẹ tên chi? Học hành với ai mà tài phép như vậy?
Địch
Thanh thưa:
- Quê
tôi ở tỉnh Sơn Tây, phủ Thái Nguyên. Ông nội tôi là Địch Ngươn làm thống chế,
cha tôi là Địch Quảng làm tổng binh, đều đã qua đời hết. Khi tôi mới chín tuổi,
bị nước lụt, mẹ con lìa nhau mất còn không rõ. Lúc bấy giờ thầy tôi là Vương
Thoàn Quỷ Cốc đem tôi về núi Nga Mi mà truyền võ nghệ, rồi lại dạy tôi xuống
Biện Kinh mà tìm thân nhân, té ra thân nhân đâu không thấy mà gặp bọn gian thần
hãm hại.
Địch
Thanh vừa nói đến đó thì có tên nội giám đến báo:
- Nương
nương dạy đòi điện hạ.
Lộ Huê
vương lật đật chầu mẹ. Địch thái hậu hỏi:
- Khi
nãy nội giám nói có một người trừ được yêu quái phải không?
Lộ Huê
vương thưa:
- Đúng
vậy. Người ấy còn nhỏ tuổi, tên Địch Thanh, quê ở Sơn Tây, phủ Thái Nguyên.
Tiếp đó
Lộ Huê vương thuật hết những lời Địch Thanh nói cho Địch thái hậu nghe.
Thái hậu
nghe nói ngẫm nghĩ một lúc rồi cho đòi Địch Thanh vào yết kiến.
Địch
thái hậu hỏi:
- Ngươi
là con Địch Quảng mà ngươi có anh em gì không?
Địch
Thanh thưa:
- Tôi có
người chị tên là Kim Loan, song lúc nước lụt cuốn trôi không biết mẹ và chị tôi
còn hay mất.
Thái hậu
hỏi:
- Mẹ
ngươi tên chi?
Địch
Thanh nói:
- Mẹ tôi
tên là Mạnh thị.
Thái hậu
hỏi:
- Ngươi
có cô bác chi không?
Địch
Thanh tâu:
- Tôi có
một người cô tên là Địch Thiên Kim. Khi tôi còn nhỏ thì nghe mẹ tôi nói: Cô bị
kén vào cung nên rầu rĩ mà bỏ mình.
Địch thái
hậu nghe nói ngậm ngùi, nghĩ thầm:
- Mình
còn sống đây mà nó lại nói là mình đã chết.
Nghĩ rồi
liền hỏi tiếp:
- Vậy cô
ngươi đau bệnh gì mà chết?
Địch
Thanh nói:
- Khi cô
tôi mới vào ít ngày thì thương nhớ bà nội tôi và cha mẹ tôi nên rầu rĩ mà mang
bệnh chết liền.
Thái hậu
lại hỏi:
- Địch
Thanh! Ngươi xưng là con Địch Quảng, làm tổng binh vậy có gì làm dấu tích để
lại chăng?
Địch
Thanh tâu:
- Có một
hột ngọc uyên ương của ông nội tôi để lại, khi cô tôi vào cung thì bà nội tôi
đã cho cô tôi một hột để làm của gia truyền, còn lại một hột thì để lại cho cha
tôi, nên truyền lại cho tôi đây.
Thái hậu
xem thấy thì bùi ngùi rơi lệ, sai cung nữ mở rương lấy viên ngọc của mình ra.
Hai viên ngọc giống nhau như đúc, chẳng hề khác chút nào.
Thái hậu
liền nhào xuống đất, ôm Địch Thanh khóc òa lên nói:
- Cháu
ơi! Cô là Địch Thiên Kim đây. Cô còn sống mà bấy lâu kẻ Bắc người Nam không rõ
được.
Địch
Thanh thấy thái hậu ôm mình khóc như vậy cũng ngạc nhiên, không nói ra lời.
Lộ Huê
vương mừng rỡ nói:
- Địch
hiền huynh ơi! Ấy cũng là trời sui khiến cho cô cháu sum vầy đó.
Nói rồi
liền lấy y phục của mình đưa cho Địch Thanh thay. Từ ấy ba người vui mừng, tâm
sự với nhau không ngớt.
Địch
thái hậu nói với Lộ Huê vương:
- Con
ơi! Dòng họ Địch của mẹ chỉ còn lại một mình Địch Thanh nối dõi, vậy con hãy
hết lòng bảo bọc tâu cùng thánh thượng phong cho anh con chút đỉnh quyền tước
để làm vinh hiển cho tông môn họ Địch với. Như vậy thì mẹ mới an vui.
Lộ Huê
vương thưa:
- Xin mẹ
chớ lo. Mai con vào chầu tâu hết sự việc cho thánh thượng nghe, thế nào thánh
thượng cũng phong quyền tước cho anh con.
Nói rồi
khiến nội thị dọn tiệc thết đãi Địch Thanh.
Lúc này
Địch Thanh vì mới gặp được người cô nên vui mừng ăn uống say sưa, đến khuya mới
đi nghỉ.
Vào lúc
nửa đêm, Địch Thanh thức giấc nhớ lại chuyện Bàng Hồng Tôn Tú thì nổi giận kêu
hai người nội thị bảo:
- Các
ngươi hãy xách đèn đi với ta.
Hai
người nội thị nói:
- Bây
giờ đã khuya xin ngài vào nghỉ, chớ có đi đâu mà bị nương nương quở phạt.
Địch
Thanh lúc ấy nửa tỉnh nửa say, nghĩ thầm:
- Nếu
nói thiệt ý mình muốn đi giết Tôn Tú e hai người nội thị không dám đi. Chi bằng
tìm cách gạt chúng nó để khỏi lậu tiếng.
Nội thị
thấy Địch Thanh quyết tâm đi dao ban đêm nên không dám cãi, liền xách lồng đèn
dẫn Địch Thanh đi.
Địch
Thanh mặc đồ y phục của Lộ Huê vương, lưng mang một cây bửu kiếm đi với hai tên
nội thị. Lúc này trăng tỏ rạng, tiếng người vắng vẻ, chỉ nghe có tiếng gà gáy,
chó sủa mà thôi.
Địch
Thanh hỏi:
- Đây là
đường đi đâu vậy?
Nội thị
thưa:
- Đây là
đường đi sang ông Hàng thượng thơ.
Địch
Thanh nói:
- Không!
Bây giờ ta muốn qua dinh Tôn Tú mà thôi. Vì ta có thù lớn nên ta muốn đi giết
nó.
Nội thị
nghe nói thất kinh thưa:
- Thưa
ngài! Ngài không nên làm điều ấy.
Địch
Thanh nạt lớn:
- Ta làm
gì mặc kệ ta, sao các ngươi dám cản trở.
Nội thị
không dám cãi, liền dắt Địch Thanh qua dinh Tôn Tú. Đi khỏi cầu Thiên Hớn, vừa
đến dinh Tôn Tú thì thấy bốn phía vách tường cao ngất, bỗng có quan tuần tiễu
xách đèn đi đến sáng rực, trên đèn của hai tên nội thị thấy có đề chữ Nam Thanh
cung bèn lật đật quỳ xuống bên đường đón tiếp.
Địch
Thanh thấy vậy cười lớn hỏi:
- Vậy
chớ các ngươi đi đâu đây?
Quan
tuần tiễu thưa:
- Tôi là
bộ hạ của Tôn binh bộ, nay người sai tôi đi tuần đây đó.
Địch
Thanh hỏi:
-Tôn Tú
có ở trong dinh chăng?
Quan
tuần tiễu nói:
- Người
mắc đi khỏi.
Địch
Thanh hỏi:
-Vậy chớ
nó đi đâu?
Quan
tuần tiễu nói:
- Người
đã sang dinh đề đốc Vương Thiên Hóa ăn tiệc rồi.
Địch
Thanh lại hỏi:
- Có
chắc như vậy không?
Quan
tuần tiễu thưa:
- Kẻ
tiểu nhân đâu dám nói dối.
Địch
Thanh liền khiến nội thị đi qua dinh Vương Thiên Hóa.
Nội thị
vâng lệnh xách đèn trở lại cầu Thiên Hớn, nhưng vừa đi đến cầu thì Địch Thanh
đã thấm rượu không đỉ nổi nữa. Hai nội thị phải dìu Địch Thanh đi, và nói:
- Ngày
đã sáng rồi, xin ngài trở về rồi mai sẽ đi.
Địch
Thanh nạt lớn:
- Không
được! Ta muốn giết tên gian thần ấy mà thôi.
Nội thị
nói:
- Để mai
giết cũng được.
Địch
Thanh nói:
- Nếu
nội đêm nay ta không giết được tên gian thần ấy quyết không làm người.
Lúc ấy
tuy Địch Thanh miệng nói như vậy nhưng chân tay đã bủn rủn, chân bước đi không
nổi nữa. Nội thị túng thế phải đỡ Địch Thanh đứng dựa lan can cầu.
Địch
Thanh ngã tới, nà lui mà miệng thì mắng nhiếc Tôn Tú không ngớt. Qua một lúc
Địch Thanh dựa lan can cầu ngủ đi. Còn hai tên nội thị cũng phải đứng đó mà
chờ.
Giây lát
có người xách lồng đèn từ đầu kia đi lại. Thì ra đó là Bàng Hồng và Tôn Tú. Hai
người đi ăn lễ chúc thọ của mẹ Vương Thiên Hóa. Mãn tiệc vừa về đến nơi thấy
Địch Thanh ngỡ là Lộ Huê vương, liền xuống ngựa đi bộ đến cầu, quì trước mặt
Địch Thanh.
Lúc ấy Địch
Thanh tay cầm gươm, đầu thì cúi xuống, nên hai người nhìn không biết mặt, chỉ
thấy hiệu đèn và y phục ngỡ là Lộ Huê vương mà thôi.
Bàng
Hồng và Tôn Tú quỳ một lúc lâu, thấy Địch Thanh vẫn yên lặng nên nói:
- Để
chúng tôi đưa điện hạ về cung có được không?
Địch
Thanh nghe tiếng nói giật mình thức dậy ngước mặt lên, làm cho Bàng Hồng nhìn
thấy biết không phải là Lộ Huê vương, liền kêu gia đinh áp vào bắt.
Hai tên
nội thị thấy vậy liền cản lại nói:
- Không
nên! Người này là cháu ruột của Địch nương nương đừng làm bậy mà mang họa đó.
Bàng
Hồng nạt lớn:
- Thằng
này quả là Địch Thanh. Khi trước nó đã phạm tội, nay lại dám cả gan mặc đồ sắc
phục của Lộ Huê vương nữa, ấy là tội nặng lắm, còn cản trở sao được.
Nói rồi
hối gia đinh trói dẫn về dinh. Hai tên nội thị thấy vậy sợ hãi bỏ chạy về báo
với Địch thái hậu.
Còn Bàng
Hồng và Tôn Tú vừa giải Địch Thanh đi một lúc thì có một tốp quân binh chạy đến
báo:
- Có Bao
Công sai người đến nhận phạm nhân.
Nguyên
Bao Công được nghe quân tuần về báo là Bàng Hồng và Tôn Tú đang bắt một tội
phạm dẫn về dinh, nên Bao Công sai Trương Long và Triệu Hổ đến nơi xem thử và
ra lệnh mở trói cho Địch Thanh dẫn về công đường.
Bàng
Hồng cà Tôn Tú cả giận nói với Bao Công:
- Chúng
tôi đi ăn tiệc bên Vương đề đốc về đến đây gặp tên Địch Thanh là một thằng trốn
lính, lại ăn trộm đồ sắc phục của Lộ Huê vương mà mặc. Bởi vậy tôi bắt nó về mà
trị tội.
Bao Công
nói:
- Hôm
nay là phiên tôi đi tuần, nếu có tội phạm tôi phải đem về công đường mà xét xử.
Tôn Tú
nói:
- Không
được đâu! Nó là tên lính trốn, mà trách nhiệm tôi coi về binh, phải để tôi mang
về nhà xử tội mới đáng.
Bao Công
nói:
- Tuy nó
là một tên lính, song ngài đã bôi sổ nó rồi, thì nó cũng như một tên thường
dân. Vậy phải để tôi xử tội nó.
Tôn Tú
nói:
- Nó
không phải là bà con chi với ông, sao tôi xem ý như ông muốn binh vực nó vậy.
Bao Công
nói:
- Đó là
việc bổn phận tôi phải làm, nào có binh vực ai đâu.
Bàng
Hồng thấy hai người cãi với nhau thì nói:
- Để tôi
nói một lời. Hễ ai bắt được người ấy thì được đem về xét xử.
Bao Công
nói:
- Thôi!
Đừng nói chi cho nhiều, chúng ta vào tâu cùng thánh thượng, hễ thánh thượng
giao cho ai xử thì phải tuân hành.
Ba người
đều không về dinh mà đi thẳng đến ngọ môn chờ cho đúng giờ vào triều kiến.
Bấy giờ
hai tên nội thị chạy về cung báo với Địch thái hậu. Lộ Huê vương hay tin giận
Địch Thanh và phàn nàn:
- Địch
huynh thật là người lỗ mãng, ai đời ban đêm lại cầm gươm đến cửa bọn gian thần
làm chi để đến nỗi bị chúng bắt như vậy thì còn gì danh dự.
Thái hậu
nói:
- Con
cũng không nên qua dinh Bàng Hồng và Tôn Tú làm chi. Hãy vào chầu và tâu hết sự
tình cho thánh thượng nghe thì hay hơn.
Lộ Huê
vương vâng lời liền mặc đồ triều phục, sẵn sàng chờ sáng thì vào chầu.
Sáng
ngày Bàng Hồng vào chầu và tâu với vua:
- Đêm
rồi hạ thần có gặp một tên lính trốn là Địch Thanh lại ăn trộm sắc phục của Lộ
Huê vương mà mặc, cho nên tôi phải bắt về mà xét xử, nhưng Bao Chuẩn lại tranh
giành việc xét xử ấy, nên tôi phải báo cho bệ hạ rõ.
Bao Công
liền quỳ tâu:
- Vả
Địch Thanh tuy là lính trốn nhưng đã bôi sổ rồi thì cũng như một tên dân
thường. Xin bệ hạ cho tôi lãnh nó đem về tra hỏi.
Vua nói:
- Bất kỳ
lính hay dân, cứ lấy theo luật, hễ giả mạo y phục của vương gia thì giao cho
Bao khanh xử đoán mà thôi.
Bao Công
cả mừng, vừa muốn tạ ơn, bỗng thấy có Lộ Huê vương bước ra tâu hết sự tích Địch
Thanh trừ đặng long cu và Địch mẫu hậu nhìn nhận là cháu ruột.
Thiên tử
nghe tâu làm lạ nghĩ thầm:
- Nếu
Địch Thanh là đây là cháu của mẫu hậu thì là anh em cô cậu với trẫm rồi.
Nghĩ như
vậy liền nói với Bàng Hồng:
- Bàng
khanh không nên làm lếu, sao lại bắt người hoàng thân quốc thích mà gọi là lính
trốn. Nếu mẫu hậu biết việc này thì khó lòng cho Bàng khanh lắm đó.
Bàng
Hồng nghe nói thất kinh, không dám tâu thêm lời nào nữa. Còn Bao Công thấy vua
quở Bàng Hồng thì mừng thầm:
- Nếu Địch
Thanh là người thân thích với vua thì Bàng Hồng từ nay hết dám sanh chuyện rồi.
Vua
truyền đòi Địch Thanh vào chầu. Địch Thanh vâng lệnh bước vào triều bái tung hô
xong. Vua thấy Địch Thanh tướng mạo đường đường, oai phong lẫm liệt thì mừng rỡ
phán:
- Khanh
hãy tỏ bày thân thế cho trẫm nghe thử?
Địch
Thanh quỳ tâu hết lai lịch của mình.
Vua nghe
xong phán:
- Thôi!
Để trẫm phong vương vị cho khanh.
Địch
Thanh tâu:
- Tuy bệ
hạ có lòng đoái tưởng, song tôi chưa có công cán gì, nếu phong vương tước e văn
võ bá quan dị nghị.
Lộ Huê
vương thấy Địch Thanh không chịu lãnh phong thưởng thì khuyên rằng:
- Địch
huynh! Ấy là ý của mẫu hậu đã dạy như vậy, không nên trái ý làm cho mẫu hậu
buồn lòng.
HỒI THỨ MƯỜI LĂM - TỪ VƯƠNG VỊ, ANH HÙNG CỨNG
CỎI
Địch
Thanh tâu:
- Tôi
đâu dám cãi lệnh nương nương và bệ hạ, song chưa có công gì mà phong tước như
vậy thật tôi không dám lãnh. Hễ tôi thắng đặng cấp nào thì tôi xin nhận phẩm
trật ở cấp ấy, như vậy mới phải lẽ công bằng, mà nương nương không mang tiếng
là ỷ thân thế bênh vực con cháu mình.
Vua nghe
tâu cười lớn nói:
- Lời
nói ấy cũng có lý.
Liền hạ
chỉ cho các quan võ ngày mai tựu tại giáo trường để đua tài cao thấp. Bá quan
văn võ đều tuân lệnh lui ra.
Còn Lộ
Huê vương đưa Địch Thanh về Nam Thanh cung ra mắt Địch thái hậu.
Địch
thái hậu hỏi Lộ Huê vương:
- Vậy
hôm nay thiên tử phong cho anh con làm chức chi?
Lộ Huê
vương thuật lại mọi chuyện. Thái hậu tỏ ý không bằng lòng, trách Địch Thanh:
- Cháu
thiệt dại dột! Không nhọc sức mà phong đến tước vương, sao cháu lại còn nài đấu
võ làm chi.
Địch
Thanh nói:
- Làm
trai đầu đội trời, chân đạp đất, phải làm sao cho rạng danh, xứng đáng với chức
tước của mình thì mọi người mới phục.
Thái hậu
nói:
- Cháu
nói cũng phải, song cô e võ tuớng trong triều không thiếu gì tay võ nghệ cao
cường. Nếu có điều gì rủi ro thì biết làm sao?
Địch
Thanh thưa:
- Việc
ấy cháu đã liệu trước và lường được sức mình, xin cô chớ có lo lắng làm chi.
Thái hậu
thấy Địch Thanh nói như vậy, song không thể an lòng liền nói với Lộ Huê vương:
-Con ơi!
Mẹ có một kế làm cho anh con khỏi đấu võ.
Lộ Huê
vương hỏi:
- Kế ấy
thế nào?
Thái hậu
nói:
- Ngày
mai con lấy khôi giáp của Thái Tổ cho anh con mặc, và lấy cây kim đao cho nó
cầm thì cả giáo trường không ai dám đấu với nó.
Lộ Huê
vương vâng lời liền sai thái giám vào Thái miếu mà lấy khôi giáp và kim đao ra
cho Địch Thanh đấu võ.
Lúc này,
Bàng Hồng và Tôn Tú về đến dinh thì mừng rỡ nói với nhau rằng:
- Thằng
Địch Thanh thiệt là dại dột, khi không mà được tước vương lại không nhận, còn
đòi đấu võ làm chi. Nó tưởng trong triều này võ tướng không ai bằng nó sao?
Thôi để nhân cơ hội này cha tính cách hại nó cho biết tay.
Nói rồi
truyền gia nhân đi mời Vương Thiên Hóa, Nhâm Phước, Từ Loan và Cao Ngại đến,
rồi khiến quân dọn tiệc đãi đằng.
Trong
lúc ăn uống, Bàng Hồng nói:
- Trong
buổi chầu vừa rồi các vị có thấy Địch Thanh khi dễ các võ tướng cả triều không?
Vương
Thiên Hóa nói:
- Không
biết tài lực Địch Thanh ra thế nào mà dám thốt lời tự phụ như vậy.
Bàng
Hồng nói khích:
- Thì
ngày mai ra đấu trường tướng quân thử sức nó thì biết. Nếu nó bất tài mà phách
lối thì tướng quân giết chết nó đi cho khỏi bẩn mắt.
Vương
Thiên Hóa nói:
- Chuyện
làm thì không khó, chỉ e thái hậu bắt lỗi thì khó trốn.
Bàng
Hồng nói:
- Không
hề chi đâu. Việc đấu võ là trong chốn đao thuơng, ai ai cũng muốn giữ lấy tính
mạng mình. Nếu không giết người thì bị người ta giết mình. Cho nên không ai có
thể trách được.
Vương
Thiên Hóa nói:
- Nếu
thái sư che chở cho tôi thì tôi lấy đầu Địch Thanh dễ như trở bàn tay.
Bàng
Hồng nói:
- Nhất
ngôn ký xuất,tứ mã nan truy. Đấng anh hùng một lời nói phải giữ lấy.
Tiếp đó
Bàng Hồng nói với Nhâm Phước, Từ Loan, Cao Ngại rằng:
- Nếu nó
chịu thua Vương đề đốc mà đấu với ba ông thì ba ông cũng ráng mà hại nó cho
được.
Ba người
đều vâng lệnh trở về cung.
Ngày hôm
sau, vua ngự tại giáo trường, các quan văn võ đều chầu chực đủ mặt. Vua truyền
chỉ đòi Địch Thanh ra.
Địch
Thanh vâng lệnh bước ra. Vua thấy Địch Thanh mặc giáp phục của Thái Tổ thì vội
vã đứng dậy nghinh tiếp rồi hỏi Lộ Huê vương:
- Vậy
chớ để Địch Thanh mặc khôi giáp ấy là có ý gì không?
Lộ Huê
vương tâu:
- Ấy là
mẫu hậu cho mượn mà dùng đỡ mà thôi.
Vua nói:
- Nếu
cho nó mượn khôi giáp ấy thì chẳng khác nào cho nó mượn cả giang sơn này. Khanh
hãy về thưa với mẫu hậu nếu làm như vậy thì không còn trật tự nữa.
Lúc ấy
Bàng Hồng thấy vậy thì có ý cười thầm. Còn Lộ Huê vương nghe mấy lời vua phán
thì nghĩ thầm:
- Lời
chúa thượng nói rất phải.
Liền trở
về Nam Thanh cung thưa lại cho thái hậu hay.
Thái hậu
nghĩ thầm:
- Mình
làm như vậy cũng không phải lẽ, thế nào các quan triều cũng dị nghị.
Nghĩ như
vậy, thái hậu nói với Lộ Huê vương:
- Con
hãy ra tâu cùng chúa thượng, xin cho phép mọi người đừng xem các vật ấy là của
tiên đế, hãy xem như là của Địch Thanh mà thôi.
Lộ Huê
vương trở vào triều tâu lại lời dạy của thái hậu. Vua nghe tâu mỉm cười nói:
- Té ra
vì lòng lo lắng của mẫu hậu mà có chuyện như vậy.
Liền gọi
Địch Thanh nói:
- Khanh
hãy cẩn thận mà giữ gìn cho lắm chớ việc đấu võ không phải dễ dàng đâu.
Địch
Thanh vâng lời dạy, nhảy lên con Nguyệt Long cu, tay cầm cây Cửu hoàn đại đao
đứng giữa giáo trường, và truyền cho các quan tam phẩm ra đấu.
Lệnh
truyền vừa dứt thì trong đám tướng võ cấp tam phẩm có một vị tổng binh tên Từ
Loan bước ra xin đấu.
- Tôi
xin đấu với Địch thân vương, song người cầm cây đao ấy tôi không dám đấu, xin
bệ hạ giáng chỉ thay cây đao khác.
Vua nói:
- Thái
hậu đã có lời truyền cứ xem đao ấy như của Địch Thanh mà thôi.
Từ Loan
vâng lệnh, nhảy lên ngựa, cầm xà mâu ra giữa giáo trường, vòng tay nói với Địch
Thanh:
-Tôi là
Từ Loan vâng chỉ mà đấu cùng ngài, xin ngài cho tôi thất lễ.
Địch
Thanh cũng vòng tay đáp lại:
- Tôi
cũng xin ngài miễn lễ.
Hai bên
đấu nhau đô năm hiệp, Từ Loan cự không lại xin chịu thua.
Địch
Thanh nói:
- Võ
nghệ như vậy cũng ra đấu làm chi.
Lúc ấy
trong đám tam phẩm thấy Từ Loan thua thì không ai ra đấu cả. Còn trong đám nhị
phẩm thì có một vị chỉ huy tên là Cao Ngại bước ra xin thi đấu.
Đấu được
mười hiệp, Cao Ngại cũng lui ra, nói:
- Địch
thân vương là người võ nghệ vao cường, tôi cự không lại.
Tiếp đó
có một viên tiểu tướng là Thạch Ngọc thấy Địch Thanh giỏi như vậy thì muốn ra
mà đấu thử, song nghĩ rằng:
- Người
ấy là cháu của thái hậu, lại dòng dõi trung thần nếu đấu mà thắng thì e mích
lòng, chi bằng làm thinh thì hay hơn.
Trong
đám nhị phẩm thấy Cao Ngại thua thì không ai dám ra.
Xảy thấy
trong đám nhứt phẩm có một viên đại tướng là Vương Thiên Hóa đang làm Cửu môn
đề đốc. Người này mặt xanh giống Đơn Hùng Tín đời Đường, đầu đội thanh khôi
mình mang kim giáp, tay cầm cây Đại đồng đao, nhảy lên ngựa xốc ra kêu lớn:
- Địch
vương thân! Tôi là Vương Thiên Hóa vâng chỉ thi đấu cùng ngài. Nều có xúc phạm
điều chi xin ngài chớ giận.
Địch
Thanh nói:
- Võ
nghệ của tôi cũng tầm thường, xin tướng quân mở lòng mà tưởng tình nhau chút
ít.
Vương
Thiên Hóa nghe nói cười lớn:
- Chớ
nên khiêm nhượng.
Nói rồi
vung đao xốc tới chém Địch Thanh.
Vương
Thiên Hóa tưởng mình là anh hùng vô địch nên không coi Địch Thanh ra gì cả, ai
dè bị Địch Thanh đánh tới mãi làm cho Vương Thiên Hóa phải lùi ra xa.
Vương
Thiên Hóa nghĩ thầm:
- Không
ngờ cái thẳng thân hình mảnh mai như vậy mà mạnh mẽ quá sức.
Nghĩ rồi
ráng hết sức đánh với Địch Thanh đến bảy hiệp.
Địch
Thanh thấy vậy nghĩ là bọn vô dụng, nhưng nếu nó thua mình thì xấu hổ, còn mình
thua nó thì cũng chẳng hề chi.
Nghĩ rồi
cứ cầm đao đỡ hoài mà không đánh. Lộ Huê vương có ý sợ, nghĩ thầm:
- Vương
Thiên Hóa là người có danh tiếng từ thuở nay, nếu Địch Thanh có bề nào mẫu hậu
trách cứ ta chứ chẳng không.
Lúc ấy
vua thấy vậy thì truyền gióng chiêng cho hai người dừng ngựa lại, rồi đòi đến
phán:
- Hai
khanh cũng đồng sức với nhau, không ai hơn ai thua, thôi để trẫm phong cho Địch
Thanh theo bực nhứt phẩm như Vương Thiên Hóa.
Địch
Thanh tâu:
- Vả sự
giáp chiến không lẽ bằng nhau được, làm sao cũng có một người hơn, một người
thua. Nếu tôi không trên được thì tôi phải ở dưới. Nếu không rõ ràng tôi không
dám chịu chức ấy.
Vương
Thiên Hóa nghe Địch Thanh nói nghĩ thầm:
- Thằng
này tới số rồi. Ta đã nghĩ tình thái hậu không nỡ hại nó té ra nó lại muốn
chết.
Bàng
Hồng nghe Địch Thanh tâu như vậy thì có lòng mừng, liền xen vào:
- Lời
của Địch vương thân tâu cũng phải. Việc đấu võ tất nhiên phải có hơn thua. Vậy
xin bệ hạ truyền cho Địch vương thân phải làm một sanh tử trạng, hễ ai dở thì
chết không được nói tiếng chi.
Vua nói:
- Vả
việc thi võ đây là trẫm muốn biết tài chư tướng chớ chỗ này không phải là chỗ
chinh chiến, cũng không phải là chỗ gây cừu óan, sao lại quyết lòng muốn giết
nhau như vậy? Nếu làm như vậy Địch Thanh có bề nào thì không khỏi mẩu hậu khiển
trách trẫm.
Địch
Thanh nghe mấy lời của Bàng Hồng tâu, và mấy lời phán của thiên tử thì nghĩ
thầm:
- Quân
gian tặc có ý muốn hại ta, nên mới nài tờ sanh tử trạng, nhưng nó lại không
biết là nó sẽ làm hại Vương Thiên Hóa. Thôi để ta xin quyết đấu, may ra thiên
tử cũng nghe theo.
Địch
Thanh liền tâu:
- Xin bệ
hạ cho tôi làm tờ sanh tử trạng, nếu không thì khó định hơn thua.
Vua nghe
tâu chưa kịp phán thì Lộ Huê vương đã xen vào:
- Địch
hiền huynh chớ nên làm như vậy, nếu làm tờ ấy mà hiền huynh có bề nào thì mẫu
hậu trách cứ bệ hạ chớ chẳng không đâu.
Địch
Thanh nói:
- Không
hề chi, cứ để cho tôi làm tờ ấy, còn không thì tôi không thể nhậm chức.
Vua thấy
Địch Thanh nài nỉ phải nhận lời, nhưng truyền chỉ hai bên đều phải có một vị
đại thần bảo lãnh.
Khi ấy
Vương Thiên Hóa thì có Bàng Hồng bảo lãnh, còn Địch Thanh thì không ai bảo lãnh
cả, vì các vị đại thần đều sợ chẳng may mà Địch Thanh có bề nào thì ắt không
khỏi bị thái hậu khiển trách.
Lúc ấy
Thạch Ngọc nghe Địch Thanh tâu như vậy thì đã hiểu ý nên nghĩ thầm:
- Đường
đao của Địch Thanh trội hơn Vương Thiên Hóa rất nhiều, mà lúc nãy Địch Thanh
chỉ đỡ mà không đánh thì chắc có ý chi đây.
Nghĩ rồi
liền đứng ra tâu:
- Tôi là
Thạch Ngọc, xin đứng bảo lãnh cho Địch vương thân.
Vua nhận
lờn, bèn cho Thạch Ngọc đứng bảo lãnh.
Địch
Thanh được người bảo lãnh rồi, liền đem tờ sanh tử trạng dâng lên vua rồi cầm
đao lên ngựa đánh với Vương Thiên Hóa. Khác với lần trước, lần này Địch Thanh
đánh Vương Thiên Hóa đỡ không kịp. Mới được ba hiệp, Vương Thiên Hóa đã quày
ngựa bỏ chạy, bị Địch Thanh chém sả một đao đứt làm hai đoạn.
Chém Vương
Thiên Hóa xong, Địch Thanh xuống ngựa vào ra mắt vua. Vua cả mừng liền khiến
Địch Thanh thay đồ khôi giáp, mặc đồ triều phục theo hàng nhứt phẩm.
Các quan
triều thần ai nấy đều khen Địch Thanh, duy có Bàng Hồng quỳ tâu:
- Vả
Địch Thanh tuy là hoàng thân quốc thích, song không có chức phận gì, lại dám vô
lễ giết một đại thần trước mắt bệ hạ, lẽ ra phải trị tội, sao bệ hạ lại phong
đến nhứt phẩm triều đình, tôi e nhân tâm bất phục, xin bệ hạ xét lại.
HỒI THỨ MƯỜI SÁU - MẾN ANH HÙNG NHƠN TÔN PHONG
TƯỚC
Vua nghe
Bàng Hồng nhưng chưa kịp phán thì Lộ Huê vương đã quỳ tâu:
- Việc
thí võ đã làm sanh tử trạng giữa triều, lời giao ước ai chết nấy chịu, không
được kêu nài, sao thái sư lại tìm cách bắt tội người ta. Như vậy còn làm sanh
tử trạng để làm gì?
Vua nghe
nói thì gật đầu phán:
- Ngự đệ
nói rất phải. Thôi Bàng khanh không nên nhiều lời.
Nói rồi
liền truyền aó mão cho Địch Thanh mặc. Địch Thanh quỳ lạy tạ ơn.
Vua lấy
chức của Vương Thiên Hóa ban cho Địch Thanh, rồi ra lệnh chôn cất Vương Thiên
Hóa rất trọng hậu.
Lộ Huê
vương trở về Nam Thanh cung thuật lại đầu đuôi câu chuyện cho Địch thái hậu
nghe. Thái hậu rất đẹp ý, liền truyền mở tiệc ăn mừng.
Hôm sau,
Địch Thanh đi chầu về ghé vào Nam Thanh cung tạ ơn thái hậu, rồi qua dinh Bao
Công mà tạ ơn. Bao Công thết đãi và lưu Địch Thanh lại để tâm tình.
Địch
Thanh nói:
- Không
biết vi ý gì mà Bàng Hồng và Tôn Tú thù hiềm tôi như vậy?
Bao Công
nói:
- Nguyên
Hồ Luân là con của Hồ Khôn, mà Hồ Khôn là người tâm phúc của Bàng Hồng, nên cái
thù giết Hồ Luân trước kia vẫn chưa dứt. Còn Tôn Tú là rể của Bàng Hồng, phe
đảng với nhau, chuyên hãm hại trung thần.
Địch
Thanh nghe hết đầu đuôi câu chuyện liền nói với Bao Công:
- Vì tôi
chưa rõ đám nịnh thần ấy nên lầm mưu gian. Nếu không có ngài giúp đỡ thì mạng
tôi không còn. Chẳng biết hiện nay hai người anh em của tôi như thế nào?
Bao Công
nói:
- Hai
người ấy là Trương Trung và Lý Nghĩa cũng là kẻ anh hùng. Tôi đang tìm cách tha
họ ra nhưng chưa có cớ, nên còn tại Nam lao.
Địch
Thanh mừng rỡ nói:
- Vậy
xin ngài lưu ý cho.
Nói rồi
Địch Thanh từ tạ ra về. Từ ấy Địch Thanh và Thạch Ngọc tâm đầu ý hợp với nhau
lắm.
Một hôm,
Địch thái hậu cho đòi Địch Thanh vào hỏi:
- Nay cô
muốn sai người về Sơn Tây mà làm cho ông bà, vậy chớ ý chấy tính thế nào?
Địch
Thanh nghe nói liền lạy tạ và thưa:
- Nếu cô
có lòng như vậy thì ơn biết chừng nào.
Thái hậu
liền lấn bốn ngàn lượng bạc sai người đến Sơn Tây mà cất nhà thơ và xây mồ mả,
rồi cho người ở đó mà giữ.
Bấy giờ
Hồ Khôn và Tôn Tú rủ nhau đến dinh Bàng Hồng để bàn mưu tính kế hãm hại Địch Thanh.
Bàng
Hồng nói:
- Tôi đã
có kế hay lắm.
Tôn Tú
hỏi:
- Kế chi
mà hay lắm vậy?
Bàng
Hồng nói:
- Đã hai
tháng nay Dương Tôn Bảo sai người đem bổn chương mà xin giải đồ chinh y ra Tam
Quan cho quân lính mặc. Nay chinh y đã sắp sẵn rồi. Để mai tôi vào chầu tiến cử
Địch Thanh làm Chánh giải quan, còn Thạch Ngọc làm phó giải quan đặng mà hại
phức chúng nó cho rồi.
Tôn Tú
nói:
- Việc
giải chinh y có gì mà hại được mạng chúng nó?
Bàng
Hồng nói:
- Tháng
trước đây tại huyện Nhơn An, Vương Đăng có báo về triều rằng tình hình yêu quái
ở quán dịch thường hại người, nay ta muốn sai chúng nó ra đi, thế nào cũng ghé
vào quán dịch, và bị yêu quái ăn thịt hết.
Hồ Khôn
nói:
- KHông
xong đâu! Yêu quái đối với ai kia, còn như Địch Thanh thì yêu quái nào hại nó
cho được.
Bàng
Hồng nói:
- Chẳng
phải là một chỗ đó. Nêú chúng nó qua khỏi huyện Nhơn An thì ra đến Đồng Quan,
chúng nó cũng bị tay Lưu Khánh chờ sẵn mà giết chết. Để tôi viết thơ sai người
đem ra cho Mã Ứng Long, khiến nó hợp với Lưu Khánh mà trừ Địch Thanh thì không
khó gì.
Hồ Khôn
và Tôn Tú nghe nói đều mừng rỡ nói:
- Nếu
Lưu Khánh mà chịu làm thích khách thì việc ấy ắt xong.
Hồ Khôn
và Tôn Tú bàn tính với Bàng Hồng xong liền trở về dinh.
Hôm sau,
Bàng Hồng vào chầu tâu với vua:
- Nay ba
mươi muôn chinh y đã sắp sẵn, còn thiếu hai vị giải quan, kẻ hạ thần xin chọn
Địch vương thân và Thạch quận mã thì giải chinh y mới đặng, vì đường ra Tam
Quan rất khó khăn.
Vua nghe
tâu liền phán:
- Lời
khanh nói rất phải.
Liền hạ
chỉ phong cho Địch Thanh làm chánh giải quan và Thạch Ngọc làm phó giải quan,
hạn trong một tháng phải đến tại Tam Quan để giao ba mươi muôn chinh y cho
Dương nguyên soái, không được trễ nải.
Địch
Thanh tâu:
- Từ đây
đến Tam Quan dọc đường rất nhiều trộm cướp xin bệ hạ cho tôi đem theo hai người
nữa để làm vây cánh.
Vua hỏi:
- Ý
khanh muốn đem theo hai người nào?
Địch
Thanh tâu:
- Hai
người ấy là Trương Trung và Lý Nghĩa, ngày trước có phạm tội, bây giờ còn đang
bị giam tại ngục, nay sẵn dịp này xin bệ hạ giáng chỉ mà xá tội cho hai người
ấy đặng lập công mà chuộc tội.
Vua nghe
tâu liền hạ chỉ khiến Bao Công tha tội cho hai người ấy rồi truyền lệnh bãi
triều.
Địch
Thanh về dinh thì thấy Thạch Ngọc vào nói:
Việc sai
đi giải chinh y là kế của Bàng Hồng muốn hại chúng ta đó, đại ca có biết không?
Địch
Thanh nói:
- Tuy là
kế độc, nhưng chúng ta đứng làm trai dù gian nan khổ sở đến đâu há sờn lòng hay
sao?
Thạch
Ngọc nói:
- Còn
lúc nảy đại ca tiến cử Trương Trung và Lý Nghĩa là có ý gì không?
Địch
Thanh liền thuật lại các việc từ ngày kết bạn với hai người ấy và đánh chết Hồ
Luân tại Vạn Huê Lầu cho Thạch Ngọc nghe.
Thạch
Ngọc nói:
- Đại ca
thật là người trọn ân trọn nghĩa, có thủy có chung.
Nói rồi
liền về dinh, từ giã gia đình mà lên đường.
Địch
Thanh đến ra mắt Bao Công lãnh Trương Trung và Lý Nghĩa ra để cùng nhau đi giải
chinh y. Bao Công nói:
- Việc
ấy chớ lo song lo cho ngài ra đi trong thàng trời mưa lạnh lẽo, đường xá hiểm
nguy, còn Dương nguyên soái thì trị quân rất nghiêm, nếu ngài để sơ sẩy hay trễ
nải thì ắt Dương nguyên soái không vị tình. Vậy ngài hãy đem cái thơ của tôi
đây mà trao cho Phạm Trọng Yêm thì người ấy sẽ hết lòng mà chiếu cố cho.
Địch
Thanh tạ ơn lãnh phong thơ rồi về dinh.
Hôm sau,
Bao Công đòi Trương Trung và Lý Nghĩa ra và nói:
- Hai
người nhờ có Cửu môn đề đốc là Địch Thanh bảo tấu cùng với triều đình xin tha
cho hai người đặng giải chinh y ra Tam Quan mà đoái công chuộc tội. Vậy hai
người phải đến ra mắt.
Trương
Trung và Lý Nghĩa Địch Thanh làm đến Cửu môn đề đốc thì mừng rỡ vô cùng, vội vã
lạy tạ lui ra tìm đến dinh Địch Thanh xin ra mắt. Anh em gặp nhau mừng rỡ khôn
cùng.
Địch
Thanh thuật các việc từ khi xa nhau đến lúc được triều đình phong chức cho hai
người nghe.
Trương
Trung nói:
- Té ra
bây giờ đại ca đã làm đến chức nhứt phẩm triều đình, lại là vương thân nữa, vậy
thì từ nay về sau hai anh em tôi không nên kêu là đại ca nữa.
Địch
Thanh nói:
- Anh em
ta kết bạn đồng sanh tử, hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất ly, tình nghĩa như
ruột thịt lẽ đâu vì giàu sang mà đổi lòng hay sao?
Lời bàn:
Trong
cuộc sống có lúc bĩ cực thì cũng co lúc thái lai. Kẻ có chí sớm muộn cũng tạo
nên sự nghiệp.
Sự
nghiệp con người thành do bản thân mình. Người xưa có nói:
Làm trai
quyết chí tu thân.
Công
danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Khi nên
trời giúp công cho.
Làm trai
năm liệu bảy lo mới hào.
Chuyện
thân danh trong đời người là vậy, nhưng luận về kẻ gian nịnh và người trung
nghĩa thì có khác nhau. Kẻ phản nịnh bao giờ cũng âm mưu hại người để thủ lợi
cá nhân mình, còn kẻ trung nghĩa thì bao giờ cũng làm điều nhân, lấy đạo nghĩa
làm người trang trải trong cuộc sống. Bàng Hồng muốn hại Địch Thanh, sai đi
giải chinh y, nhưng chính việc đi giải chinh y mà Địch Thanh tìm cách cứu được
hai người bạn mình là Trương Trung và Lý Nghĩa. Té ra âm mưu độc ác của Bàng
Hồng lại giúp cho Địch Thanh giải cứu cho hai người bạn mình để tròn đạo nghĩa.
Trong cái rủi có cái may không lường trước vậy.
HỒI THỨ MƯỜI BẢY - KHỎI NGỤC THẤT ANH EM ĐOÀN
TỤ
Trương
Trung, Lý Nghĩa nghe Địch Thanh nói thì cảm kích vô cùng. Địch Thanh nói:
- Nay
Bàng Hồng bày ra quỷ kế, muốn hại ta với Thạch Ngọc nên tâu với thiên tử sai ta
và Thạch Ngọc đi giải chinh y ra Tam Quan. Việc này rất khó khăn vì đường sá xa
xôi lại nhiều giặc cướp, nếu trễ nải thì Dương nguyên soái sẽ bắt tội.
Trương
Trung và Lý Nghĩa nói:
- Nếu
đại ca đi thì cho hai anh em tôi theo với.
Địch
Thanh nói:
- Cũng
nhờ dịp này mà ta tâu với thánh thượng tha tôi hai em để tháp tùng công việc mà
đoái công chuộc tội. Đến ngày mồng tám tháng chín, Địch Thanh lãnh ba mươi muôn
chinh y và lời phê văn rồi khiến Trương Trung, Lý Nghĩa điểm ba ngàm binh đẩy
xe và lương thảo. Lúc ấy Hàng Kỳ lại trao cho Địch Thanh một phong thở, dặn
giao cho Dương Thanh là người đồng hương, đặng tuỳ cơ mà chiếu cố Địch Thanh.
Hàng Kỳ
nói:
- Đây là
ý kiến của thái hậu lo lắng cho ngài, sợ có điều gì sơ xuất Dương nguyên soái
không biết mà chở che.
Địch
Thanh từ tạ Hàng Kỳ lãnh thơ, rồi qua Nam Thanh cung từ giã Địch thái hậu và Lộ
Huê vương.
Thái hậu
nói:
- Loài
gian tặc nó ganh tỵ lắm, nay nó bảo tấu cho cháu đi đây cũng chính là lập mưu
để hãm hại. Vậy cháu phải cẩn thận và đi cho đúng kỳ, đến Tam Quan thì giao cho
xong chinh y rồi trở về kẻo cô trông đợi.
Địch
Thanh vâng lời, lạy tạ thái hậu, từ giã Lộ Huê vương rồi lên đường. Còn Thạch
Ngọc cũng vội vã tháp tùng.
Bấy giờ
Địch Thanh đầu đội mão kim khôi, trên mão lại có gắn một hột ngọc uyên ương để
trừ tà yếm quỷ, ngăn đỡ đao thương, tay thì cầm kim đao, mình cưỡi con Nguyệt
long cu, tướng mạo đường đường uy phong lẫm liệt. Còn Thạch Ngọc đầu đội ngân
khôi, mình mặc bạch giáp, tay cầm trường thương, cưỡi ngựa bạch long cu, hào
khí trùng trùng, thật đáng tay hào kiệt.
Còn
Trương Trung, Lý Nghĩa tuy chưa co chức phận gì nhưng cũng mặc khôi giáp sáng
rỡ, diện mạo đường đường, đi đến đâu thì các quan sở tại tiếp đón rất trọng
hậu.
Lúc ấy
Bàng Hồng sai gia tướng đem một phong thơ ra huyện Nhơn An, và một phong thơ ra
Đồng Quan mà khiến hai nơi ấy lập mưu hãm hại Địch Thanh và Thạch Ngọc. Trong
thơ nói: Nếu hại được hai người ấy thì sẽ có quyền cao chức trọng, còn ai không
nghe theo thì phải mang họa.
(Nguyên
noi nhà quán dịch huyện Nhơn An có sanh yêu quái đã mấy năm nay, cho nên nhân
dân đều kinh sợ mà đồn lần về Biện Lương).
Lúc ấy,
tri huyện Nhơn An là Vương Đăng tiếp được thơ của Bàng Hồng thì quyết tâm làm
theo để được thăng bổng lộc.
Ngày kia
quân thám thính biết được Địch Thanh đi gần đến huyện mình thì khiến người dọn
dẹp quán dịch ấy cho sạch sẽ, đặng chờ Địch Thanh đến thì đón vào đó an nghỉ.
Cách mấy
ngày sau Địch Thanh đến nơi, Vương Đăng ra rước vào nhà quán dịch thết đãi.
Địch Thanh khiến dừng binh nơi đó nghỉ lại một đêm rồi sẽ đi.
Đêm ấy
khi mãn tiệc, Vương Đăng và các quan đều lui về dinh.
Địch
Thanh nói với Thạch Ngọc:
- Ra xem
quán dịch này trống trải lắm, vậy anh em ta đêm nay không nên ngủ mà phải đề
phòng.
Thạch
Ngọc nói:
- Đại ca
nói rất phải.
Hai
người thức mãi để đàm đạo cùng nhau.
Qua đến
canh hai, Địch Thanh xem thấy trăng tỏ như ban ngày thì gọi Thạch Ngọc ra mà
xem, cà nói:
- Ta
thấy trăng thì nhớ đến đêm rằm tháng tám trước đây tại Nam Thanh cung nơi sau
vườn có con long cu xuất hiện. Cũng nhờ nó mà ta gặp được cô ta là Địch thái
hậu.
Thạch
Ngọc nói:
- Đại ca
nói thì tôi mới nhớ năm ngoái cũng vào dịp rằm tháng tám tôi trừ được con mãng
xà cứu được Thể Hà quận chúa, rồi được kết duyên với nàng, lại được thánh
thượng phong cho tôi làm ngự sử.
Địch
Thanh nói:
- Hèn
chi tục ngữ có nói: Khổ tận cam lai. Thật cũng rất đúng.
Hai
người đang trò chuyện xảy có một trận cuồng phong ào tới.
Thạch
Ngọc nói:
- Đại
ca! Gió này không phải là gió thường đâu, quả là loài yêu quái xuất hiện đó.
Hai
người liền đứng dậy, rút gươm cầm tay, ngó chăm chăm về hướng Đông Bắc, thì
nghe có tiếng ồ ồ. Địch Thanh hét lớn:
- Yêu
quái ở đâu dám cả gan chọc ghẹo chúng ta.
Nói vừa
dứt thì thấy một đạo bạch quang xẹt tới, rồi biến ra một người cao lớn xốc tới
trước mặt Thạch Ngọc.
Thạch Ngọc
nói:
- Đại
ca! Mãng xà đến chọc tôi nữa đó.
Nói rồi
nạt một tiếng, ung gươm chém tới.
Lời bàn:
Người
anh hùng và kẻ gian ác hai bản chất khác nhau. Kẻ anh hùng thì vị tha, đem thân
phụng dự cho đạo nghĩa làm người, còn kẻ tiểu nhân thì vị kỷ, chỉ biết hưởng
thụ riêng mình mà thôi. Hai quan niệm này tạo nên phẩm chất con người trong lẽ
sống.
Địch
Thanh và Thạch Ngọc đứng trước âm mưu của Bàng Hồng mưu hãm hại, không phải
không biết mà vẫn cứ dấn thân vào chốn hiểm nguy. Đành rằng họ cũng có một phần
nào cậy vào tài năng và bản lãnh của mình, nhưng điều căn bản là khí phách anh
hùng của họ.
Ngưòi
anh hùng không sợ gian nguy, miễn là làm nên chuyện đại nghĩa. Chính vì tinh
thần đó mà kẻ anh hùng không sợ chết, không khuất phục trước mọi thế lực hay
gian nguy.
Kẻ anh
hùng thường giao cảm với những người có nghĩa khí, vì vậy trong cuộc sống họ
được giúp đỡ trong lúc gian nguy cũng chỉ vì lòng giao cảm giữa con người và
con người trong cuộc sống mà thôi.
Người
anh hùng không cầu danh lợi, khi danh lợi ấy không hợp với nhân tính, còn kẻ
gian ác thì nói đến danh lợi lại tham lam, vì vậy hành động rất khốc liệt.
HỒI THỨ MƯỜI TÁM - HIỆN THẦN LINH HUYỀN THIÊN
CHO BÁU
Thạch
Ngọc thấy yêu quái xốc đến bên mình liền rút gươm chống cự. Địch Thanh muốn
tiếp ứng, song lại nghĩ rằng mình chưa biết võ nghệ Thạch Ngọc ra sao, nhân
tiện xem thử thế nào cho biết.
Nghĩ như
thế nên đứng xem, xòn Thạch Ngọc thì bị con yêu dụ ra khỏi sân, tiếp đến một
trận cuồng phong thổi đến ào ạt, yêu quái bay đến một chỗ trống dụ Thạch Ngọc
đuổi theo, rồi nạt lớn nói:
- Thạch
Ngọc! Ngươi có giỏi thì đuổi theo ta.
Thạch
Ngọc nổi giận nói:
- Yêu
quái! Ta không sợ ngươi đâu.
Nói rồi
rượt theo yêu quái. Địch Thanh thấy vậy khen:
- Như
vậy mới đáng mặt anh hùng.
Vừa nói
vừa chạy theo để quan sát. Bỗng thấy một đạo bạch quang chiếu vào ngay mặt làm
cho Địch Thanh chóa mắt không thấy đường chạy theo nữa.
Bỗng
nghe có tiếng kêu lớn:
- Địch
đại nhơn. Chẳng nên đuổi theo nữa.
Địch
Thanh dừng lại thấy một người mình cao một trượng, đứng chặn ngang không cho
Địch Thanh đi tới.
Địch
Thanh nạt lớn:
- Ngươi
cũng là lòai yêu quái chăng?
Người ấy
đáp:
- Không
phải! Ta là Huyền thiên chơn võ đây, muốn nói cùng ngươi một điều. Nguyên bộ hạ
ta hạ giới xuống đầu thai nơi Tây Hạ để quấy rối Tống trào hơn hai mươi năm. Vậy
ta cho ngươi hai vậy báu này, một là nhơn diện kim bài, để lúc ngươi giao tranh
với Tây Hạ, thì lấy vật này mà che thân, thứ hai là ba mũi tên Thất tinh, như
gặp nguy hiểm thì lấy ra mà bắn. Ngươi hãy giữ hai bảo vật ấy mà kiến công lập
nghiệp.
Địch Thanh
nghe nói liền lạy tạ mà lãnh hai bảo vật. Người ấy nói:
- Không
cần tạ ơn làm chi, phải cần nhớ lấy những lời ta nói thì có thể đổi hạn làm
phước đức.
Địch
Thanh hỏi:
- Vậy em
tôi là Thạch Ngọc đang giao tranh với con yêu quái ấy lành dữ thế nào, xin ông
cho biết.
Người ấy
đáp:
- Ấy
không phải yêu quái mà là một vật tu luyện lâu năm thành hình đó. Còn Thạch
Ngọc bây giờ có đi mà không có trở lại, chưa biết bao giờ mới gặp nhau.
Địch
Thanh nói:
- Vua
sai đi hai người, nay mất đi một người thì biết nói làm sao mà phục chỉ được.
Người ấy
nói:
- Đến
sau này cũng gặp nhau, đừng có lo gì cả.
Địch
Thanh tạ ơn trở về quán dịch kêu mười sáu tên quân hầu đi tìm Thạch Ngọc.
Quân sĩ
đi tìm mọi nơi trở về báo:
- Chúng
tôi đi tìm khắp nơi mà không thấy ai cả.
Địch Thanh
nghĩ thầm:
- Bắc
cực Đại đế đã dặn mình không nên đi tìm,nhưng bạn bỏ đi không đành.
Nghĩ như
thế liền thẫn thờ đi theo hướng Thạch Ngọc, đi một lúc thì thấy tấm bia chắn
ngang, không cách nào qua được, trên bia có đề chữ:
“Tôi
Thạch Ngọc hiền đệ sẽ có ngày gặp nhau. Bây giờ không thể tìm được”.
Địch
Thanh xem thấy liền lui về nhà quán dịch.
Còn
Thạch Ngọc lúc rượt theo yêu quái cung kiếm chém xả xuống, nhưng không thấy
người mà thấy một cây giáo ba mũi nằm dưới đất. Thạch Ngọc lấy làm lạ bước đến
cầm lên xem thầy thấy cây giáo ba mũi rất vừa tay nên mừng rỡ múa máy một hồi
và nghĩ thầm:
- Ngỡ là
yêu quái, ngờ đâu lại tìm được của trời cho.
Nghĩ rồi
trở về quán dịch tìm Địch Thanh, nhưng vừa quay lưng thì thấy một vị tiên ông
từ trên mây sa xuống nói:
- Nay
nhà ngươi đã được cây thương rồi, song còn võ nghệ chưa được rèn luyện thì cũng
không có ích gì, vậy hãy theo ta mà học binh thư, võ nghệ để ngày sau kiến công
lập nghiệp.
Thạch
Ngọc thưa:
- Đa tạ
tiên trưởng có lòng giúp đỡ, nhưng xin cho biết danh hiệu trước đã.
Tiên ông
nói:
- Ta là
Vương Thiền Quỷ Cốc đây.
Thạch
Ngọc nghe nói liền quì lạy, nói:
-Đệ tử
xin theo học, nhưng để đệ tử giải chinh đến Tam Quan xong sẽ trở về bái kiến.
Quỷ Cốc
nói:
- Việc
giải chinh y đã có Địch Thanh rồi, dầu ngươi có theo cũng chẳng ích gì. Thôi
ngươi hãy theo ta mà đi cho sớm.
Nói rồi
liền chỉ tay vào hai cục đá, tức thì hai hòn đá hóa hai con bạch hổ đưa hai
thầy trò về núi.
Khi đến
nơi, Thạch Ngọc hỏi:
-Thưa sư
phụ! Đây là núi gì?
Quỷ Cốc
nói:
- Núi
này là núi Nga Mi. con hãy ở đây mà lo luyện tập võ nghệ, sau này ra phò vua
giúp nước.
Bấy giờ
Địch Thanh trở về quán dịch thuật hết mọi chuyện cho Trương Trung, Lý Nghĩa
nghe. Trương Trung, Lý Nghĩa kinh ngạc cho là chuyện lạ. Xảy có Vương Đăng bước
vào thăm hỏi.
Địch
Thanh thấy Vương Đăng thì nổi giận mắng rằng:
- Loài
súc sinh! Ngươi đã biết chỗ này có yêu quái, sao còn dám cả gan đem chúng ta
đến đây. Bây giờ Thạch quận mã đã bị yêu quái bắt rồi, sống thác không rõ. Ấy
là tại ngươi bày ra hay tại ai xúi giục hãy mau nói cho ta nghe.
Vương
Đăng nghe nói thất kinh, quỳ lại nói:
- Thuở
nay chỗ này không có yêu quái, đêm nay tại sao xảy ra như vậy, thật tôi không
rõ, xin đại nhơn tha tội.
Địch
Thanh nói:
- Trong
việc này có âm mưu hại người, nếu không khai đừng trách ta không rộng tình.
Nói rồi
liền kêu quân bắt Vương Đăng ra tra khảo. Bị đánh một hồi, Vương Đăng không
chịu nỗi phải khai hết sự thật.
Địch
Thanh nói:
- Lẽ thì
phải giết ngươi cho rồi, song ta cũng làm nhân tha cho ngươi để sau này đối
chứng.
Nói rồi
liền kêu tri phủ giam Vương Đăng vào ngục, chờ khi xét xử.
Ngày hôm
ấy, Địch Thanh kéo quân đi ra, đến Đồng Quan thì có tổng binh là Mã Ứng Long ra
đón tiếp và dọn tiệc đãi đằng.
Hôm sau,
Địch Thanh sắm sửa ra đi thì Mã Ứng Long và Lưu Khánh đưa ra khỏi ải một đỗi xa
xa rồi trở lại.
Nguyên
Lưu Khánh lúc này đang làm chức thám tướng tại Đồng Quan, mới có hai mươi mốt
tuổi, nhưng mạnh khỏe vô cùng. Lúc nhỏ, Lưu Khánh được tiên cho một vật báu gọi
là Tịch Vân phách. Vật báu này có thể dùng bay lên không trung đặng, vì vậy thiên
hạ gọi Lưu Khách là Phi sơn hổ.
Hôm ấy
Mã Ứng Long gọi Lưu Khánh bảo:
- Nay có
thơ của Bàng thái sư khiến ta lập kế giết hại Địch Thanh. Nếu việc này thành
công thì sẽ được quyền cao lộc cả. Vậy ngươi hãy đằng vân theo Địch Thanh, rồi
từ trên mây chém xuống, thì Địch Thanh ắt không tránh khỏi chết. Nếu việc này
thành công thì ngươi cũng được hưởng tước quyền.
Lưu
Khánh cả mừng liền xách đao ra khỏi ải, đằng vân bay theo Địch Thanh.
Lời bàn:
Mọi việc
xảy ra trong đời xấu tốt đều do con người mà sinh ra. Nói đến con người là nói
đến lương tâm và tài năng. Kẻ có ác tâm thì hành động theo ác tâm của mình, kẻ
có thiện tâm thì hành đông theo thiện ý của mình. Mọi hành động đều đi đến chỗ
nhân quả của nó.
Trong
đời có nhiều người không suy tính như vậy mà mọi việc đều đổ vào lý do khách
quan để tránh né lắm lỗi của mình.
Bàng
Hồng một kẻ gian nịnh, tìm cách hãm hại Địch Thanh gây nên mọi xáo trộn trong
cuộc sống, ảnh hưởng với nhiều người khác.
Còn Địch
Thanh thì lấy tư cách một kẻ anh hùng, bất chấp gian nguy, hành động luôn luôn
hướng thiện, nên mọi âm mưu hãm hại của Bàng Hồng đều di đến kết quả ngược lại.
Vô hiệu
hóa sự gian ác của Bàng Hồng chính là thiện tâm của Địch Thanh. Thiện tâm ấy đã
đem đến cho Địch Thanh từng bước khả quan, được nhiều người cưú giúp. Vậy thì
người xưa nói:
Thiện ác
đáo đầu chung hữu báo.
Đó là lẽ
đương nhiên dựa theo triết lý nhân quả của Phật giáo.
HỒI THỨ MƯỜI CHÍN - ĐỊCH THỊ SUM VẦY NƠI TỬU
ĐIẾM.
Bấy giờ
Lưu Khánh vâng lời Mã Ứng Long đằng vân theo Địch Thanh đến Lạc Nhạn Ba thì
thấy Địch Thanh ngồi trên lưng ngựa đi chậm rãi, Lưu Khánh liền hạ xuống rút
gươm chém Địch Thanh, bất ngờ trên đầu Địch Thanh có vật chi xông lên sáng lòa
làm cho Lưu Khánh chóa mắt hoảng sợ không dám chém.
Trương
Trung, Lý Nghĩa trông thấy trên đầu Địch Thanh có vật đen lượn qua lượn lại
liền gọi Địch Thanh nói:
- Đại
ca! Có luồng khói đen như muốn hãm hại đại ca đó.
Địch
Thanh ngước mắt lên xem, rồi nói:
- Ấy là
loại yêu vân đó. Để ta bắn nó một mũi tên xem sao.
Nói rồi
rút tên bắn ra một mũi, làm cho vầng đen hay về hướng đông rồi biến mất.
Bấy giờ
trời đã gần tối, Địch Thanh truyền đóng quân nghỉ ngơi, đợi sáng hôm sau sẽ đi
tiếp.
Đóng
trại xong, Địch Thanh cất bước đi dạo trong thôn xóm, thì thấy nơi ven đường có
một quán rượu, liền bước vào giải khuây. Tửu bảo thấy Địch Thanh mặc khôi giáp
rạng rỡ thì biết là một vị tướng quân, nên ra rước vào, thưa:
- Chẳng
hay lão gia đến đây có việc chi chăng?
Địch
Thanh nói:
- Chẳng
có việc chi cả. Ta chỉ muốn uống rượu giải khuây mà thôi.
Tửu bảo
lật đật bưng rượu ra cho Địch Thanh uống. Trong lúc đang uống rượu, Địch Thanh
thấy bên kia có một người đàn bà ước chừng hai mươi tuổi, mặt mày đẹp đẽ, đứng
nhìn Địch Thanh rất chăm chú.
Địch
Thanh nghĩ thầm:
- Đàn bà
thấy đàn ông sao lại nhìn ngó như vậy?
Người
đàn bà đứng nhìn Địch Thanh một lúc rồi kêu tửu bảo nói:
- Ngươi
hỏi thử vị tướng quân này quê quán ở đâu, tên họ là chi? Được bao nhiêu tuổi?
Tửu bảo
nói:
- Đó là
người khách qua đường, tôi đâu dám hỏi.
Người
đàn bà nói:
- Ngươi
cứ hỏi thử, có gì mà sợ.
Tửu bảo
không dám trái ý, rón rén bước đến hỏi:
- Xin
lão gia rộng lòng cho tôi hỏi một câu.
Địch
Thanh nói:
- Ngươi
muốn hỏi gì thì cứ hỏi.
Tửu bảo
thưa:
- Chẳng
hay lão gia tên họ là chi, quê quán ở đâu và niên kỷ được bao nhiêu?
Địch
Thanh nói:
- Ta tên
là Địch Thanh, quê ở Sơn Tây, mới có 16 tuổi. Ngươi hỏi làm gì vậy.
Tửu bảo
thưa:
- Ấy là
tại cô tôi bảo hỏi, xin lão gia chớ giận.
Nói xong
liền vào nhà trong thuật lại. Người đàn bà nghe xong tỏ vẻ vui mừng, nói với
tửu bảo.
- Ngươi
ra hỏi thêm, xem người ấy ở tỉnh Sơn Tây mà thuộc về phủ nào, huyện nào và làng
nào?
Tửu bảo
không dám trái ý, nhưng lại nghĩ thầm:
- Đàn bà
như vậy thật kỳ cục, thấy đàn ông hình dung tuấn tú thì để ý hỏi han.
Tửu bảo
đến gần Địch Thanh hỏi:
- Chẳng
hay lão gia ở Sơn Tây mà thuộc về phủ nào, huyện nào, làng nào vậy?
Địch
Thanh nói:
- Thuộc
về phủ Thái Nguyên huyện Tây Hà và làng Tiên Dương.
Tửu bảo
trở vào thuật lại. Người đàn bà nghe xong bước ra nhìn Địch Thanh một hồi nữa,
rồi trở vào thưa với mẹ nàng:
- Ngoài
quán có một vị tướng quân còn nhỏ mà diện mạo giống em con lắm, vậy nên con
khiến tửu bảo hỏi rõ họ tên và quê quán thì đúng như vậy.
Mạnh thị
nghe nói liền bước ra xem, rồi lớn tiếng hỏi:
- Địch
Thanh! Mẹ đây nè.
Lúc ấy
Địch Thanh đang ăn uống nghe kêu liền ngửa mặt lên xem, rồi bỏ đũa quỳ xuống
đất khóc lớn:
- Mẹ ơi!
Chị ơi! Đây có phải là chiêm bao hay không?
Mạnh thị
bước lại đỡ Địch Thanh dậy khóc không ra tiếng, nói không ra lời. Địch Thanh ôm
mẹ khóc rống lên.
Hai mẹ
con thuật lại sự tình từ ngày xa cách, rồi mở tiệc đoàn viên, vui mừng không
ngớt.
Bấy giờ
Lưu Khánh đằng vân đi theo chém Địch Thanh không được lại bị Địch Thanh bắn một
mũi tên trúng nơi đùi, liền bay qua hướng đông nhổ mũi tên, rồi đi thám thính,
biết Địch Thanh đã đóng quân, lại thấy Địch Thanh vào quán rượu của Trương Văn
thì nghĩ thầm:
- Trương
Văn là người đồng liêu với mình, ta đến đó thương nghị thử xem.
Nghĩ rồi
Lưu Khánh thẳng đến nhà Trương Văn. Trương Văn thấy Lưu Khánh liền hỏi:
- Lưu
lão gia đi đâu trong đêm tối như vậy?
Lưu
Khánh liền đem các việc trong thơ Bàng Hồng thuật lại cho Trương Văn nghe.
Trương
Văn nói:
- Nếu
vậy thì anh em ta phải rán sức làm cho thành công mà trông cậy về sau. Vậy chớ
Địch Thanh hiện giờ ở đâu?
Lưu
Khánh đem việc đằng vân theo giết hại bị Địch Thanh bắn bị thương kể lại và báo
cho Trương Văn biết nay Địch Thanh đã vào nơi quán rượu rồi.
Trương
Văn nói:
- Nếu
như vậy thì dễ dàng cho chúng ta lắm. Chúng ta phải làm như vầy thì mới xong.
Trương
Văn dặn dò Lưu Khánh xong liền trở về quán rượu đặng phục rượu cho Địch Thanh
say mà hãm hại.
Nhưng
lúc về đến nhà thì Trương Văn thấy mẹ vợ mình ngồi giữa còn vợ mình ngồi một
bên, bèn bước vào thì nghe Kim Loan là vợ mình nói với Địch Thanh:
- Em hãy
uống rượu đi chốc nữa thì anh rể em cũng về đến.
Trương
Văn vừa bước đến thì Kim Loan thấy chồng về lật đật đứng dậy nói:
- Em tôi
là Địch Thanh đó.
Địch
Thanh thấy Trương Văn về cũng đứng dậy chào hỏi. Trương Văn nói:
- Không
ngờ tướng quân lại là em ruột của vợ tôi. Vậy em đường đi có bị thích khách
chăng?
Địch
Thanh nói:
- Có!
Khi ra khỏi ải có thấy một vầng mây đen bay lượn theo hoài, em không biết là
vật chi nên bắn một mũi tên, vật ấy bay đi mất.
Trương
Văn nói:
- Ấy là
thích khách.
Bèn
thuật lại hết sự việc Bàng Hồng gởi thơ khiến Mã Ứng Long sai Lưu Khánh làm
thích khách thuật cho Địch Thanh.
Địch
Thanh nổi giận nói:
- Để mai
em trở lại ải quan mà trừ cho được Mã Ứng Long và Lưu Khánh, kẻo nó nghe theo
đảng nịnh hãm hại trung thần.
Trương
Văn nói:
- Hiền
đệ chớ nóng, Lưu Khánh làm như vầy không phải là thù hiềm chi với em đâu, chẳng
qua là nó tham quyền tước mà thôi. Nếu em dùng kế mà thu phục nó để làm vây
cánh thì rất có ích vì nó là một tay dũng tướng.
Địch
Thanh nói:
- Em sợ
nó không phục chăng.
Trương
Văn nói:
- Ta với
Lưu Khánh thuở nay rất thân thích, nói gì nó cũng nghe theo. Vậy em phải làm
theo kế này thì xong việc.
Địch
Thanh nghe nói mừng rỡ, xin làm y theo kế.
Trương
Văn khiến dọn chỗ cho Địch Thanh nghỉ, rồi đi tìm Lưu Khánh nói:
- Tôi ép
Địch Thanh uống rượu đã say mèm, bây giờ đang ngủ mê man, vậy nhơn huynh hãy ra
tay đi.
Lưu
Khánh vội vàng đến nơi thấy trên bàn rượu thịt còn ê hề liền hỏi Trương Văn:
- Rượu
thịt có phải Địch Thanh ăn còn dư lại hay không?
Trương
Văn nói:
- Phải!
Liền
khiến gia nhân đem thêm rượu thịt đến thết đãi Lưu Khánh và nói:
- Bây
giờ đang lúc đêm khuya, vậy nhơn huynh cứ ngồi ăn uống cho no nê rồi sẽ tính.
Lưu
Khánh vốn là tay bợm rượu, thấy được ăn uống thì còn gì vui thích hơn, nên cứ
ngồi ăn uống mãi.
Trương
Văn cố ý ép Lưu Khánh uống cho say, nên chỉ được một lúc Lưu Khánh đã say mèm,
gục đầu xuống ghế mà ngủ.
Trương
Văn kêu gia đinh đem dây đến trói Lưu Khánh lại rồi mò vào lưng lấy Tịch vân
phách là báu vật của Lưu Khánh, rồi gọi Địch Thanh ra.
Lưu
Khánh giật mình thức dậy thấy mình bị trói biết là mắc kế Trương Văn bèn mắng
lớn:
- Trương
Văn! Ta với ngươi thân thiết với nhau như ruột thịt sao ngươi đành lập mưu mà
hại ta?
Trương
Văn nói:
- Không
phải tôi muốn hại nhơn huynh đâu, ấy là tôi muốn làm ơn cho nhơn huynh đó. Vả
Địch khâm sai đây là cháu của Địch thái hậu, nay vâng lệnh đi giải chinh y cũng
là việc trọng, nếu nhơn huynh nghe lời Bàng Hồng làm quấy như vậy, mai sau
thánh thượng biết được thì nhơn huynh chạy đằng nào cho khỏi tội. Chi bằng theo
phò Địch khâm sai kiến công lập nghiệp thì hay hơn.
Lưu
Khánh nói:
- Nếu
vậy sao không nói cho tôi biết lại trói tôi lại mà làm gì?
Trương
Văn nói:
- Nếu
không làm vậy sợ nhơn huynh không chịu nghe.
Địch
Thanh nói:
- Lưu
tướng quân! Lời xưa có nói: Hễ ăn lộc vua phải đền nợ nước. Lẽ nào nghe lời kẻ
nịnh thần hãm hại tôi trung. Chi bằng theo tôi ra Tam Quan mà lập công thì để
danh muôn thuở.
Lưu
Khánh nói:
- Tôi
cũng muốn như vậy, song sợ Mã tổng binh làm hại vợ con tôi. Vậy để tôi về dắt
vợ con trốn đi thì mới khỏi lo.
Địch
Thanh cả mừng liền khiến t mở trói cho Lưu Khánh để cùng nhau tâm sự.
Lưu
Khánh được mở trói lạy tạ Địch Thanh rồi xem lại thấy mất Tịch vân phách bèn
kêu Trương Văn bảo phải trả lại.
Trương
Văn nói:
- Có lấy
bảo vật đó, nhưng không trả đâu, nếu trả thì anh không chịu trở lại.
Lưu
Khánh nói:
- Người
quân tử chỉ nói một lời, sao anh lại khinh tôi như vậy.
Trương
Văn nói:
- Thì
anh cứ về đi để tính cho xong việc nhà, không ai làm mất bảo vật của anh đâu mà
anh sợ.
Lưu
Khánh thấy Trương Văn không chịu trả, túng thế phải từ Địch Thanh mà trở về.
Lời bàn.
Đời nào
cũng vậy, trong cuốc sống bạn bè tạo nên sức để giúp đỡ lẫn nhau. Cuộc sống đơn
độc không làm nên việc lớn.
Nhưng
bạn bè cũng phải là người cùng chung một chí hướng, nếu bạn bè mà không cùng
một chí hướng thì đã không giúp ích gì nhau, mà còn tác động vào cuộc sống một
đường lối chệch choạc, làm cho Địch Thanh khó đấu tranh để lập thân.
Địch
Thanh theo định hướng trung quân ái quốc, trừ khử nịnh thần, khôi phục triều
đình, nhưng nếu Lưu Khánh không cùng chung chí hướng ấy thì có kết bạn cũng
chẳng ích gì.
Trong
đời, bạn thì nhiều nhưng tìm được người bạn tâm đồng ý hiệp thì rất khó. Vì vậy
khi kết bạn không phải xem ai cũng như ai. Đó là bài học lẽ sống.
HỒI THỨ HAI MƯƠI - TIN TỨC THÔNG THƯƠNG NƠI
DINH TRẠI.
Lúc ấy
Lưu Khánh trở về vào ra mắt Mã Ứng Long trình bày mọi việc về chuyện hãm hại
Địch Thanh không thành công.
Mã Ứng
Long nói:
- Nếu
chúng ta không hại được Địch Thanh thế nào Bàng thái sư cũng cho ta là kẻ bất
tài vô dụng.
Lưu
Khánh nói:
- Ngài
chớ lo. Nội đêm nay thế nào tôi cũng tìm Địch Thanh mà hạ sát.
Mã Ứng Long
nói:
- Vậy
phải ráng làm cho đặng để chúng ta nương nhờ về sau. Lưu Khánh từ giã về nhà
thuật hết mọi việc cho mẹ vợ và vợ hay, và tỏ ý đem gia quyến đi trốn.
Vợ Lưu
Khánh nói:
- Tôi e
ban đêm đàn bà ra cửa ải không được đâu.
Mẹ Lưu
Khánh nói:
- Lời ấy
rất phải, vậy phải giữ bí mật đừng để cho ai biết.
Lưu
Khánh nói:
- Xin mẹ
chớ lo, con đã tính rồi.
Bèn
thuật chuyện nhà Trương Văn cho mẹ nghe. Mẹ con nghe nói đều vui mừng.
Còn Địch
Thanh đêm ấy sợ Trương Trung, Lý Nghĩa trông đợi nên khiến Trương Văn đến trại
quân nói cho hai người ấy hay tin. Trương Văn vâng lời ra đi đến giữa đường thì
gặp một vị tướng quân từ đầu kia đi lại. Trương Văn thi lễ hỏi:
- Tướng
quân có phải là Trương Trung chăng?
Trương
Trung nghe hỏi liền thộp ngực Trương Văn nói:
- Ngươi
là ai mà dám kêu tên họ ta?Trương Văn nói:
- Tướng
quân chớ giận. Tôi vâng lệnh Địch khâm sai đến thông tin cho tướng quân hay.
Trương
Trung nghe nói đổi giận làm vui, hỏi:
- Địch
khâm sai bây giờ ở đâu?
Trương
Văn thuật hết mọi việc cho Trương Trung nghe. Trương Trung tạ ơn nói với Trương
Văn:
- Xin
ngài về trước, tôi đi tìm Lý Nghĩa báo tin rồi sẽ đến sau.
Trương
Văn hỏi:
- Vậy
chớ Lý tướng quân đi đâu mà tướng quân phải đi kiếm?
Trương
Trung nói:
- Vì
trông Địch đại ca không thấy về nên anh em chúng tôi đi tìm mỗi người một nơi.
Trương
Văn nghe nói liền từ giã trở về, còn Trương Trung thì đi tìm Lý Nghĩa.
Vừa đi
tới ngã ba đường bỗng nghe có tiếng đàn bà khóc than kể lể, Trương Trung dừng
lại xem thì thấy chừng hai mươi tên gia đinh cầm gậy đi trước, và sau đó thì có
một người cưỡi ngựa, để một người đàn bà nằm vắt ngang đang vùng vẫy khóc lóc.
Trương
Trung nhìn thấy thì biết ngay là chúng đang bắt vợ một kẻ nào đó, bèn xốc lại
nạt lớn:
- Quân
cường đạo, sao không kiêng phép nước dám bắt vợ con người ta mang đi như vậy?
Bọn gia
đinh nghe nói áp lại đánh Trương Trung, bị Trương Trung đánh chạy trốn hết.
Trương Trung đến trước người cưỡi ngựa hỏi:
- Ngươi
tên họ là gì? Tại sao lại dám làm ngang như vậy?
Người ấy
nói:
- Tôi họ
Tôn tên Vân, tự là Kiến Vân là em ruột của Tôn Tú đây.
Trương
Trung nói:
- Té ra
ngươi là em ruột của Tôn binh bộ sao? Còn người đàn bà này ở đâu mà ngươi chiếm
đoạt vậy?
Tôn Vân
chưa kịp trả lời thì người đàn bà ấy đã quỳ lạy khóc và nói:
- Nhà
thiếp ở cách đây chừng ba dặm, chồng thiếp là Triệu Nhị, chuyên nghề làm ruộng
mà độ nhựt, còn Tôn Vân đây ép chồng tôi gả tôi cho Tôn Vân đem về làm vợ bé,
chồng tôi không chịu nên hôm qua bọn gia đinh đến nhà bắt chồng tôi dẫn đi
không biết sống chết thể nào. Hôm nay chúng lại đến nhà bắt tôi, may gặp tướng
quân cứu mạng thì ơn ấy bằng non.
Trương
Trung nghe nói nổi giận hỏi Tôn Vân:
- Ngươi
bắt chồng người ta đem giấu ở đâu thì phải chỉ nếu không ta chẳng tha mạng.
Tôn Vân
nói:
- Ông
ơi! Người ấy tôi còn giam tạm trong dinh tôi.
Trương
Trung nói:
- Vậy
ngươi phải thả người ấy ra thì ta mới tha chết cho ngươi.
Tôn Vân
lạy lia lịa nói:
- Xin
ông tha tôi về thả Triệu Nhị ra.
Trương
Trung nói:
- Không
được! Ngươi sai gia đinh thả Triệu Nhị ra rồi ta mới tha cho ngươi.
Tôn Vân
thấy Trương Trung nói cứng liền gọi gia đinh sai về dinh mở trói tha Triệu Nhị
lập tức.
Gia đinh
lật đật về dắt Triệu Nhị đến. Trương Trung bảo Triệu Nhị:
- Vậy
ngươi hãy dắt vợ ngươi về đi.
Triệu
Nhị nói:
- Ân
nhân ở đây thì vợ chồng tôi đi đặng, nếu ân nhân đi rồi thì tánh mạng vợ chồng
tôi không còn.
Trương
Trung nói:
- Không
hề chi. Ngươi dẫn vợ ngươi đi khuất nơi đây rồi ta cho nó một đao thì còn đâu
mà làm hại ngươi nữa.
Nói rồi
vừa muốn vung đao chém, bỗng đâu có một người cao lớn, tay xách roi sắt xốc lại
đánh ngay đầu Trương Trung.
Trương
Trung kinh hãi lật đật buông Tôn Vân ra mà cự với người ấy và hỏi:
- Ngươi
tên chi mà dám cả gan đến đánh với ta vậy?
Người ấy
nói:
- Ta là
Phi sơn lang Phan Báo, anh em cô cậu với Tôn Vân đây.
Nói rồi
vung roi đánh với Trương Trung. Đánh được ba mươi hiệp Trương Trung thua chạy.
Phan Báo tượt theo. Vợ Triệu Nhị thấy vậy thì nói với Triệu Nhị rằng:
- Phu
quân hãy chạy theo mà xem thử tánh mạng ân nhân ra thế nào, như thấy ân nhân có
bề nào thì tính trước mà lánh thân kẻo bị Tôn Vân hại nữa.
Triệu
Nhị nghe lời chạy theo mà coi chừng Trương Trung.
Lúc ấy
bọn gia đinh của Tôn Vân là Tôn Mậu và Tôn Cao còn núp trong bụi rậm thấy Triệu
Nhị khiêng về dinh. Trong lúc đang đi lại gặp Lý Nghĩa từ đầu kia đi lại trông
thấy hai người đàn ông khiêng một người đàn bà đang giãy giụa khóc than. Lý
Nghĩa nhảy đến thộp ngực Tôn Cao hỏi:
- Các
ngươi bắt đàn bàn khiêng đi đâu vậy?
Tôn Mậu
thấy Tôn Cao bị thộp thì vội bỏ người đàn bà chạy trốn. Người đàn bà quỳ lại
thuật hết nguồn cơn cho Lý Nghĩa nghe. Lý Nghĩa xong nổi giận hét lên một tiếng
nắm giò Tôn Cao xé ra làm hai mảnh.
Lý Nghĩa
giết Tôn Cao xong liền hỏi người đàn bà:
- Vậy
chớ người mặt đỏ vừa rồi chạy đàng nào?
Người
đàn bà ấy chỉ nẻo cho Lý Nghĩa. Lập tức Lý Nghĩa chạy qua hướng ấy thì thấy
Trương Trung bị thua kẻ địch mà khí sắc thì nhợt nhạt. Lý Nghĩa gọi lớn nói:
- Trương
nhị ca, có em đến đây.
Trương
Trung nghe kêu nhìn lại thấy Lý Nghĩa thì mừng rỡ hỏi:
- Tam đệ
ở đâu mà đến đây vậy?
Lý Nghĩa
nói:
- Sao
nhị ca dở quá vậy? Một tên tướng cướp mà đánh không lại thì làm sao dám ra trận
chiến?
Trương
Trung nói:
- Ấy vì
cây đao của ta quá ngắn nên bất lực đó thôi.
Lý Nghĩa
lập tức xông vào đánh với Phan Báo. Lúc này Phan Báo đã đuối sức nên bị Lý
Nghĩa chém cho một đao rơi đầu.
Trương
Trung nói:
- Tam đệ
thiệt giỏi đó.
Lý Nghĩa
hỏi:
- Vậy vì
cớ gì mà nó rượt nhị ca chạy như vậy?
Trương
Trung liền thuật đầu đuôi câu chuyện cho Lý Nghĩa nghe. Lý Nghĩa nổi giận nói:
- Nếu
vậy bọn này không kể đến phép nước gì cả.
Nói vừa
dứt lời Triệu Nhị đến thi lễ nói:
- Nhị vị
tướng quân hãy đến nhà tôi đặng tôi dùng chút lễ mọn hậu tạ.
Trương
Trung nói:
- Thôi!
Không cần phải đến nhà làm gì. Ta hỏi ngươi thằng rượt ta lúc nảy tên gì, còn
thằng bắt vợ ngươi tên gì vậy?
Triệu
Nhị nói:
- Thằng
rượt tướng quân đó là Phan Báo, anh em cô cậu với Tôn Vân, còn thằng bắt vợ tôi
là Tôn Vân anh em với Tôn Tú, còn Tôn Tú là binh bộ thương thơ đó.
Lý Nghĩa
tức giận nói:
- Nếu
vậy thì ta gặp cưù nhân rồi. Nếu vậy thì anh em chúng ta đến đó mà giết sạch
bọn chúng cho xong.
Trương
Trung nói:
- Anh em
ta không sợ gì chúng nó, nhưng như thế cũng đủ làm cho chúng nó từ nay không
dám hà hiếp dân chúng rồi. Việc cần kíp là chúng ta phải trở về trại xem thử có
gì biến động không.
Hai anh
liền dắt nhau trở về trại, Đến nơi hoi ra thì không có việc chi, bèn dặn dò
quân sĩ rồi rủ nhau đến nhà Trương Văn.
Địch
Thanh nhìn thấy Trương Trung và Lý Nghĩa thì mừng rỡ, lật đật dắt vào ra mắt mẹ
mình. Vào đến nơi hai lạy Mạnh thị và nói rõ việc kết tình anh em với Địch
Thanh.
Mạnh thị
rất mừng nói với Địch Thanh:
- Việc
giải chinh y là trọng, con nên chỉnh tề ra đi kẻo trễ ngày giờ.
Địch
Thanh vâng lời bái biệt mẩu thân rồi cùng nhau lên đường.
Lời bàn.
HỒI THỨ HAI MƯƠI MỐT - MÃ BÀNG SƠN BỊ LOÀI
CƯỜNG ĐẠO
Địch
Thanh nghe mẹ nói như vậy thì từ giã mẹ và hai anh chị rồi lên đường. Trước khi
đi còn dặn Trương Văn:
- Nếu
Lưu Khánh có đến đây thì bảo Lưu Khánh ra Tam Quan mà tìm tôi.
Trương
Văn y lời, tiễn đưa Địch Thanh ra khỏi vài dặm rồi mới trở lại.
Bấy giờ
Địch Thanh cùng với Trương Trung và Lý Nghĩa đốc quân đi rất nhanh, nhưng đi
chưa được vài mươi dặm thì trời sa tuyết, gió lạnh thấy xương, quân sĩ đi không
nổi nên Địch Thanh phải truyền quân hạ trại để dưỡng sức.
Trương
Trung nói:
- Chỗ
này trống trải và ẩm thấp lắm, dẫu có đồn binh cho nghỉ ngơi thì quân sĩ cũng
không trốn khỏi lạnh.
Địch
Thanh nói:
- Thôi
thì cứ dồn quân đỡ nơi đây, để ra đi tìm chỗ nào cao hơn, ấm áp hơn sẽ thay
đổi.
Nói rồi
liền giục ngựa ra đi, quanh quẩn khắp nơi thấy có một ngôi chùa rất nguy nga và
chỗ đất thì cao ráo.
Địch
Thanh nghĩ thầm:
- Chùa
này trông rộng rãi, vậy ta vào xem thử rồi đem quân lại đây mà trú đóng.
Nghĩ rồi
liền giục ngựa đến nơi thì thấy trước cửa chùa có đề ba chữ lớn: BÁO ÂN TỰ.
Địch Thanh liền xuống ngựa bước vào chùa, xảy thấy có một vị sãi ra cửa đón và nói:
- Xin
mời Địch vương thân vào phương trượng đàm đạo.
Địch
Thanh nghe nói lấy làm lạ hỏi:
- Sao
thầy biết tôi là Địch vương thân?
Thầy sãi
thưa:
- Hòa
thương chúng tôi mọi việc đều tiên tri.
Địch
Thanh nghe nói nghĩ thầm:
- Nếu
vậy hoà thượng này không phải người phàm.
Nghĩ rồi
liền theo mấy sãi vào thẳng phương truợng. Ở đó đã có một hòa thượng mắt đen,
mình cao, mặc áo bá nạp, chân đi thảo hài, bước ra đón Địch Thanh.
Địch
Thanh hỏi:
- Hòa
thượng đây danh hiệu là gì?
Hòa
thượng nói:
- Tôi là
Uất Trì Bửu Lâm, con của Uất Trì Cung đời nhà Đường pháp danh là Thánh Giác
trưởng lão, hưởng thọ 385 tuổi.
Địch
Thanh nghe nói thất kinh nghĩ thầm:
- Té ra
hòa thượng cũng là con cháu của công thần. Nhưng là con cháu công thần sao lại
bỏ đời đi tu?
Hòa
thượng hiểu ý nói tiếp:
- Nguyên
khi Đường Thái Tôn vượt biển đi chinh đông, thấy gió lớn, sóng to nên có lời
nguyện sau này dẹp giặc xong, nếu bình an vô sự sẽ cạo đầu đi tu. Đến khi ban
sư, vua muốn làm theo lời nguyện ước, nhưng đình thần can gián. Khi ấy tôi thấy
vậy xin cho tôi được thay thế nhà vua mà tu hành. Bởi vậy nhà vua lập nên cảnh
chùa này cho tôi tu, gọi là chùa BÁO ÂN TỰ.
Địch
Thanh nói:
- Nếu
vậy hòa thượng đi tu đây cũng là vì đáp đền lòng trung nghĩa. Nay tôi vâng lệnh
thiên tử giải chinh y ra Tam Quan, gặp lúc tuyết rơi gió lạnh, quân sĩ đi không
nổi, mà không nơi đồn trú, nên đến xin hòa thượng cho tôi đóng nhờ binh trong
chùa vài hôm, chờ bớt lạnh sẽ đi.
Hòa
thượng nói:
- Ôi
thôi! Chinh y còn đâu mà giải đi.
Địch
Thanh kinh hãi hỏi:
- Chinh
của triều đình, nếu mất đi thì mạng tôi còn gì?
Hoà
thượng nói:
- Xin
ngài chớ lo, ấy cũng là số trời đã định cho ngài nhờ cái họa ấy mà hóa ra gặp
phước.
Địch
Thanh nghe nói lòng rất nghi ngờ, liền từ giã ra đi.
Hoà
thượng nói:
- Trời
đã tối mà tuyết rơi lạnh lẽo, xin ngài ở lại đây một đêm chờ sáng sẽ đi.
Địch
Thanh thấy hòa thượng nói như vậy cũng phải chiều lòng lưu lại nơi chùa một
đêm.
Bấy giờ
tại Ma Bàng Sơn có ba vị đại vương là Ngưu Kiện, Ngưu Cang và Lý Kế Anh.
(Nguyên
Lý Kế Anh là người lúc trước cứu Địch Thanh rồi bỏ trốn cùng Bàng Hưng và Bàng
Hỷ lên Thiên Cái sơn mà ẩn tích. Sau đó Lý Kế Anh thấy Bàng Hưng, Bàng Hỷ tàn
bạo nên bỏ mà đi đến Ma Bàng sơn gia nhập với Ngưu Cang và Ngưu Kiện).
Ngày
kia, có Tôn Thông là gia tướng của Tôn Tú sai đem đến dâng cho Ngưu Kiện 500
lượng vàng, 4 hột minh châu và viết thơ nhờ bọn này cướp đoạt chinh y của Địch
Thanh giải đến để cho Địch Thanh bị hại.
Ngưu
Kiện vì tham tiền và của quý nên thương nghị vớ Ngưu Cang và Lý Kế Anh.
Lý Kế
Anh can:
- Việc
này không nên. Chúng ta chiếm cứ sơn đầu là chuyện bất đắc dĩ mà thôi. Vả lại
nơi đây gần Tam Quan là nơi Dương nguyên soái trấn giữ, nếu họ đem binh đến đây
đánh dẹp thì chúng ta cự sao lại.
Ngưu
Cang nói:
- Đại ca
chớ nên nghe lời ấy. Mấy thuở mà gặp cơ hội tốt như vầy, nếu bỏ qua rất uổng.
Ngưu
Kiện không nghe lời Lý Kế Anh, cứ kiểm điểm lâu la kéo xuống núi đi cướp chinh
y. Lý Kế Anh can không được, bất bình than:
- Ta ở
với bọn này không đặng, mà nếu bỏ đi nơi khác thì Địch Thanh cũng mang hại, chi
bằng ta đến đó tìm Địch Thanh mà báo tin để kịp đề phòng thì hay hơn.
Nghĩ như
vậy, Lý Kế Anh xách roi lên ngựa ra đi.
Bấy giờ
Trương Trung & Lý Nghĩa thấy trời đã hết tuyết rồi mà Địch Thanh chưa về
nên bàn luận với nhau:
- Địch
đại ca đi có một mình, không biết đàng xá thề mà mà đến bữa nay chưa về, vậy ta
chỉ để một đứa ở lại giữ trại, còn một đứa phải đi tìm đại ca mới được.
Nói vừa
dứt thì thấy quân sĩ vào báo:
- Chúng
tôi thấy xa xa có một đạo binh kéo đến, không biết là binh của ai.
Lý Nghĩa
nói:
- Chúng
ta giải chinh y, lẻ nào lại có quân đến cướp làm gì thứ của đó.
Qua một
lúc lại có quân vào báo:
- Đạo
quân ấy đang xốc tới trại ta.
Lý Nghĩa
lật đật bước ra cửa trại xem thử thì thấy có hai vị đại vương dẫn năm ngàn lâu
la áp tới.
Trương
Trung thấy vậy kinh hãi la lớn:
- Giặc
tới! Giặc tới!
Hai anh
em lật đật chạy vào trại nai nịt lên ngựa chống cự, song không kịp nên phải rút
kiếm trong lưng chống đỡ.
Đánh
được năm bảy hiệp, hai người không chống nổi hai tên tướng cướp nên phải bỏ
chạy ra ngoài đồng vắng mà lánh nạn.
Ngưu
Kiện và Ngưu Cang rượt theo, còn quân sĩ thấy Trương Trung và Lý Nghĩa bỏ chạy
nên cũng vỏ trại chạy tứ tán.
Bọn lâu
la vào trại thu đoạt hết chinh y và lương thảo chở về Ma Bàng sơn.
Lúc này
Lý Kế Anh đến nơi gặp Trương Trung và Lý Nghĩa kể lại âm mưu của Ngưu Kiện và
Ngưu Cang vừa rồi là âm mưu của Tôn Tú mua chuộc để làm hại Địch Thanh.
Lý Nghĩa
nghe xong nổi giận nói:
- Té ra
mưu này cũng là do Tôn Tú và Tôn Vân cả. Chúng ta không thể bỏ qua được.
Trương
Trung nói:
- Bây
giờ chúng ta phải đến Ma Bàng sơn mà đòi lại chinh y.
Lý Nghĩa
nói:
- Chúng
ta phải dồn lực lượng đánh một trận mới tiêu diệt nổi.
Lý Kế
Anh nói:
- Việc
chúng cướp chinh y thì đâu còn đó, hãy chờ Địch vương thân trở về sẽ toan liệu.
Trương
Trung nói:
- Vậy
chúng ta phải chia nhau đi tìm đại ca để sớ, lo liệu.
Lý Nghĩa
nói:
- Thôi!
Hai anh em ở nhà lo tập họp binh sĩ lại cho sẵn sàng để tôi đi tìm đại ca.
Nói rồi
quày quả ra đi.
Còn Ngưu
Cang và Ngưu Kiện lúc này cướp được va mươi muôn chinh y đem về Ma Bàng sơn thì
mở tiệc ăn mừng.
Trong
lúc ăn uống, Ngưu Kiện chớt nhớ ra điều gì, vỗ ghế nói:
- Chúng
ta không nghe lời khuyên của Lý Kế Anh nên làm bậy rồi. Vả chinh y này là của
Dương Tôn Bảo, nếu nó biết được chúng ta đoạt chinh y không khỏi cử đại binh
đến, lúc ấy làm sao chúng ta cự lại.
Ngưu
Cang sửng sốt hồi lâu rồi nói:
- Hay là
chúng ta đem trả lại cho chúng nó?
- Ngưu
Kiện nói:
- Bây
giờ việc đã lỡ rồi, nếu đem trải lại cũng không khỏi chết, chi bằng đem vàng
ngọc của Tôn Tú mướn và ba mươi muôn chinh y đến Đại lang sơn mà dâng cho Táng
Thiên vương rồi anh em ta cùng ở đó mà nương tựa. Như ngày sau Táng Thiên vương
có thâu được giang sơn nhà Tống thì chúng ta cũng có quyền cao lộc cả.
Ngưu
Cang khen phải liền truyền lâu la sắm sửa xe cộ, dọn hết các đồ binh khí và
lương thảo cùng ba mươi muôn chinh y kéo qua Đại lang sơn.
Lúc này
Dương Tôn Bảo đóng quân tại Tam Quan, thấy trời đã lập đông mà chinh y chưa
giải đến, bèn sai Tiêu Đinh Quý đi đón mà hối thúc quân binh giải đến cho mau.
Tiêu
Đình Quý tuân lệnh đi đến Ma Bàng sơn thì dừng ngựa lại nghĩ thầm:
- Trên
núi này có hai thằng chủ trại vốn có quen với ta đây đã hơn mười năm. Vậy ta
ghé lên đó mà ăn uống một bữa cho no nê rồi sẽ đi.
Nghĩ như
vậy liền giục ngựa lên núi, té ra sơn trại nay bỏ trống, không còn một tên lâu
la. Tiêu Đình Quý vội trở xuống lấy cơm khô ra mà ăn, rồi nằm dựa gốc cây mà
ngủ.
Còn Ngưu
Kiện và Ngưu Cang đến Đại Lang sơn vào ra mắt Táng Thiên vương dâng vàng ngọc
và chinh y. Táng Thiên vương hỏi:
- Vậy
chinh y ở đâu mà hai ngươi đem đến đây?
Ngưu
Kiện liền thuật hết việc đoạt chinh y của Địch Thanh cho Táng Thiên vương nghe
cà xin đầu hàng làm bộ hạ.
Táng
Thiên vương mừng rỡ thâu các vật ấy và cho Ngưu Kiện và Ngưu Cang làm bộ hạ.
Nhắc lại
Địch Thanh ngủ nhờ nơi chùa BÁO ÂN TỰ một đêm, sáng ra từ giã hòa thượng trở về
trại. Hòa thượng nói:
- Bây
giờ chinh y đã mất rồi, song ngài đừng buồn rầu, chẳng bao lâu thì chinh y cũng
có lại đủ số.
Nói rồi
hòa thượng móc một tấm giấy trong túi trao cho Địch Thanh, trong đó cho bài kệ
như vầy:
Một ngựa
một người vượt cõi tây
Chinh y
tuy mất rủi mà may
Phải
ngừa thích khách nơi đường sá
Sau sẽ
thành công hết hiểm nguy.
HỒI THỨ HAI MƯƠI HAI - ĐÌNH QUÝ ĐEM LÒNG THAM
QUẤY
Lý Nghĩa
thấy Tiêu Đình Quý xốc lại giao tranh thì nói:
- Tướng
quân ơi! Tôi đang bận đi tìm Địch khâm sai, không rảnh mà đem tài năng ra giao
đấu. Xin hẹn ngày khác.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Sao
không nói cho sớm? Vậy Địch Thanh có phải là Địch khâm sai được phái đi giải
chinh y không?
Lý Nghĩa
nói:
- Đúng
rồi!
Tiêu
Đình Quý hỏi:
- Hai
người cùng đi với nhau sao lại tìm nhau?
Lý Nghĩa
nói:
- Hôm
qua Địch khâm sai đi tìm chỗ đóng quân đến hôm nay mà chưa thấy về, nên tôi
phải đi tìm.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Nay ta
vâng lệnh Dương nguyên soái ra đón mà chinh y đây, hay là Địch Thanh sợ oai ta
mà lánh mặt. Còn ngươi thì ăn tiền hối lộ nên tìm cách trì hoãn chăng?
Lý Nghĩa
nổi giận nói:
-Đừng
nói bậy! Địch khâm sai là người hoàng thân quốc thích chức trọng quyền cao, sao
lại sợ ngươi mà lánh mặt? Hay là ngươi âm mưu hãm hại Địch khâm sai rồi tìm lời
nói quấy?
Tiêu
Đình Quý nói:
- Ta
vâng lệnh Dương nguyên soái đến đây hối thúc chinh y, ngươi lại dám tìm lời vu
họa cho ta sao? Nếu ngươi chọc đến ta thì ắt hồn về chín suối đó.
Lý Nghĩa
nói:
- Ôi
thôi! Chinh y đâu còn nữa mà hòng đốc thúc.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Sao
lại không còn?
Lý Nghĩa
nói:
- Chinh
y bị lũ cường đạo trên Ma Bàng sơn cướp hết rồi, cho nên tôi phải đi tim Địch
Thanh về mà đòi lại.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Nói
bậy! Bọn cường đạo trên Ma Bàng sơn đâu còn nữa, chúng nó đã bỏ trốn hết rồi.
Thôi ngươi hãy bó tay mà chịu tội, đặng ta dắt đến nguyên soái nạp cho rồi.
Lý Nghĩa
nghe nói thất kinh, hỏi:
- Nếu
vậy thì tính mạng Địch khâm sai còn gì?
Tiêu
Đình Quý thấy Lý Nghĩa thất sắc như vậy thương tình nói:
- Thôi,
chúng ta phải đi mỗi đứa một ngã tìm cho được Địch khâm sai rồi sẽ thương nghị.
Nói rồi
liền quày quả ra đi. Còn Lý Nghĩa thì trở lại nói với Trương Trung hay, rồi
tiếp tục chia nhau đi tìm kiếm.
Bây giờ
Tiêu Đình Quý đi được vài dặm thì thấy một vị tướng quân đầu đội kim khôi, mình
mặc kim giáp, tay cầm kim đao, cỡi một con ngựa rất cao lớn vừa đi đến. Tiêu
Đình Quý thấy con ngựa thì nghĩ thầm:
- Con
ngựa này tốt lắm, để ta giết người này bắt ngựa đem về nạp cho nguyên soái thì
ắt được trọng thưởng.
Nghĩ như
vậy liền liền núp vào một gốc cây đại thọ mà chờ.
Bấy giờ Địch
Thanh ra khỏi chùa rồi thì cứ theo đại lộ mà đi thăng. Vừa đến cây đại thọ thì
thấy một vị tướng quân nhảy ra nạt lớn:
- Hãy
đóng tiền mãi lộ thì mới được đi.
Địch
Thanh nói:
- Ta đi
vì việc nước, chỉ có một mình, tiền bạc đâu mà đóng mãi lộ.
Tiêu Đình
Quý nói:
- Không
có tiền thì phải để con ngựa lại.
Địch
Thanh nói:
- Ta
đang đi việc gấp, nhờ có con ngựa này mới kịp, không thể trao cho ai.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Nếu
không để ngựa lại thì tính mạng ngươi không còn.
Địch
Thanh nổi nóng vung đao chém đầu Tiêu Đình Quý, làm cho Tiêu Đình Quý đỡ không
nổi rơi roi xuống đất.
Tiêu
Đình Quý thất kinh la lớn:
- Tướng
quân ơi! Tôi không dám đòi tiền mãi lộ nữa, xin tướng quân chớ giận. Thôi tướng
quân đi đi.
Địch
Thanh nói:
- Bây
giờ ta không muốn đi. Ngươi phải dâng lễ tống hành cho ta thì ta mới chịu.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Tôi
không có tiền bạc chớ nếu có bao nhiêu cũng xin dâng.
Địch
Thanh nói:
- Nếu
không có tiền bạc thì dâng cái đầu cũng được.
Tiêu
Đình Quý thất kinh vội quỳ xuống nói:
- Tôi
không phải là cường đạo mà là bộ hạ của Dương nguyên soái sai tôi đến đón Địch
khâm sai mà hối thúc chinh y. Lúc nãy tôi thấy ngài cưỡi con ngựa rất tốt nên
làm bậy không ngờ ngài võ nghệ cao cường, xin ngài rộng lòng tha tội cho tôi.
Địch
Thanh nói:
- Té ra
ngươi là bộ hạ của Dương nguyên soái sai ra đốc thúc chinh y. Ta là Địch Thanh
đây.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Nếu
vậy thì tánh mạng tướng quân còn gì?
Địch
Thanh hỏi:
- Tại
sao vậy?
Tiêu
Đình Quý thuật hết mọi việc mất chinh y cho Địch Thanh nghe.
Liền hỏi
Tiêu Đình Quý:
- Vậy
tướng quân có biết lũ cường đạo ấy đốt hết sơn trại mà đi đâu chăng?
Tiêu
Đình Quý đáp:
- Tôi
tưởng chúng nó không đi đâu xa ngoài Đại lang sơn mà nhập với bọn Táng Thiên
vương.
Địch
Thanh hỏi:
- Vậy
tướng quân có biết Đại lang sơn ở đâu không?
Tiêu
Đình Quý nói:
- Đừng
có nói càn. Có lẽ tướng quân muốn đến đó mà liều mình chăng?
Địch
Thanh hỏi:
- Nơi đó
có gì nguy hiểm sao?
Tiêu
Đình Quý nói:
- Ở Đại
Lang sơn có Táng Thiên vương. Tử Nha Xai, Đại Mạnh Vương và Tiểu Mạnh Vương.
Bọn người ấy đều là anh hùng vô địch, rất đỗi tài sức như Dương nguyên soái mà
đánh mấy năm nay cũng không lại thay, huống chi tướng quân có nhất nhơn nhất mã
sao dám đến đó.
Địch
Thanh nói:
- Nếu
tướng quân biết đường xin cứ dẫn tối đến đó xem sao.
Tiêu
Đình Quý thấy Địch Thanh nói như vậy thì nghĩ thầm:
- Nó đã
muốn chết thì mình cũng ra công dắt nó đến đó cho nó chết, chớ trước sau gì nó
cũng phải chết mà thôi.
Nghĩ như
vậy Tiêu Đình Quý nói:
- Nếu
tướng quân muốn đi thì tôi cũng không tiếc gì công dẫn dắt, song tới đó tôi chỉ
đứng xa xa, chớ không đến đó mà chết chùm với tướng quân đâu.
Nói rồi
liền dẫn đường đưa Địch Thanh đi.
Đi được
vài dặm thì thấy trước mặt có sông Yến Tử hà. Tiêu Đình Quý nói:
- Đường
này có cách một con sông Yến Tử, nếu không muốn sang sông thì phải đi vòng quanh
khá xa mới đến Đại Lang sơn được.
Địch
Thanh nói:
- Xa gần
gì chúng ta cũng đi.
Hai
người liền vòng qua phía trên, đi được mười dặm thì thấy hòn núi rất cao, cờ xí
rực rỡ. Địch Thanh hỏi:
- Núi ấy
có phải là Đại Lang sơn không?
Tiêu
Đình Quý nói:
- Phải.
Nếu tướng quân có lên thì đi một mình chớ tôi không dám giúp đâu.
Địch
Thanh nghe Tiêu Đình Quý nói như vậy liền giục ngựa thẳng lên chân núi và kêu
lớn:
- Bớ
thằng Táng Thiên vương! Ngươi phải trả lại chinh y cho ta, nếu không ta giết
hết không chừa sót một đứa.
Quân sĩ
thấy vậy vội vào báo. Táng Thiên vương nói:
- Có khi
nó muốn nạp mình nên mới dám đến đây đòi chinh y.
Tử Nha
Xai nói:
- Đây là
tên tướng Tống, người có trách nhiệm giải chinh y đến Tam Quan đó.
Táng
Thiên vương nói:
- Tướng
ấy tài cán gì mà dám đến đây gây rối.
Nói rồi
hối quân mang binh khí và khôi giáp đến nai nịt xong lên ngựa xuống núi đối
địch.
Lúc ấy
Địch Thanh đang đứng dưới chân núi xảy thấy một tướng mặt đen, mình cao một
trượng, tay cầm thương giục ngựa đến nói:
- Ngươi
có phải là Địch Thanh chăng? Ta xem tướng mạo ngươi như một nắm xương, sao
ngươi dám cả gan đến đây khiêu chiến.
Địch
Thanh hỏi:
- Vậy
ngươi có phải là Táng Thiên vương không?
Táng
Thiên vương nói:
- Đúng
rồi! Ta là ngự đệ của Tây Hạ vương, đang làm giám quân tổng đô đốc đây.
Địch
Thanh nói:
Ngươi
đoạt chinh y của ta phải mau giao trại lại cho mau.
Táng
Thiên vương cười lớn nói:
- Hèn
chi lời tục có nói trâu nghé không biết sợ cọp thật là đúng. Rất đỗi Dương Tôn
Bảo mà còn chưa dám đến đây xấc láo với ta như vậy, còn ngươi chỉ là đứa con
nít mà thôi.
Địch
Thanh nổi giận vung đao chém tới. Táng Thiên vương cùng Địch Thanh đánh hơn năm
hiệp. Địch Thanh cự không lại, tay chân như muốn rời rã.
Còn Tiêu
Đình Quý lúc này đang núp ở trong rừng ngóng cổ lên xem, thấy Địch Thanh cự
không lại Táng Thiên vương thì kêu Địch Thanh nói:
- Địch
vương thân ơi! Nếu đánh không lại Táng Thiên vương thì nên liều chết cho xong,
nếu không thì để mất chinh y cũng không khỏi tội.
Địch
Thanh nghe nói nổi giận liền thò tay vào túi lấy mũi tên thất tinh ra rồi niệm
chú, tức thì mũi tên hóa ra một đạo bạch quan bắn vào Táng Thiên vương làm cho
Táng Thiên vương nhào đầu xuống ngựa chết tốt.
Tiêu
Đình Quý thấy vậy lật đật chạy ra cắt đầu Táng Thiên vương, còn Địch Thanh cũng
vội vã thu mũi tên về bỏ vào túi.
Tiêu
Đình Quý khen:
- Tướng
quân có phép hay như vậy thì lấy Đại Lang sơn không có gì khó.
Địch
Thanh nói:
- Vậy
thì tướng quân hãy giữ lấy thủ cấp đặng tôi lên núi đòi lại chinh y để kịp ngày
giải đến Tam Quan.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Tướng
quân ráng mà giết cho được Tử Nha Xai thì mới có thể thu hồi chinh y được.
Địch
Thanh nghe theo, liền giục ngựa trở lại chân núi kêu lớn:
- Bọn Tử
Nha Xai! Hãy mau đem trả chinh y cho ta kẻo ta phá nát sào huyệt.
Tử Nha
Xai nghe tin Táng Thiên vương bị giết, thất kinh, lật đật lên ngựa kéo quân
xuống núi.
Vừa
trông thấy Địch Thanh, Tử Nha Xai nạt lớn:
- Sao
ngươi dám dùng tà thuật giết hại đại vương ta?
Địch
Thanh hỏi:
- Ngươi
có phải là Tử Nha Xai không?
Tử Nha
Xai nói:
- Ngươi
đã biết tên ta sao còn dám đến đây nạp mạng?
Nói rồi
vung đao đến đâm Địch Thanh. Hai bên đánh được mười hiệp, chưa rõ ai thua. Tiêu
Đình Quý thấy vậy hô lớn:
- Địch
khâm sai! Đấu sức không lại nó đâu. Phải dùng phép mới trừ được nó.
Địch
Thanh nghe nói liền thò tay vào túi lấy tấm Kim diện bài ra trước mặt rồi niệm
thần chú, tức thì Tử Nha Xai bị hộc máu nhào xuống ngựa chết tốt. Địch Thanh
vung đao chém đầu Tử Nha Xai. Tiêu Đình Quý thấy vậy khen:
- Hay
lắm! Té ra tướng quân lại có một phép nữa cũng rất lợi hại.
Nói rồi
chạy đến lấy thủ cấp của Tử Nha Xai cột chung với thủ cấp Táng Thiên vương chạy
tuốt về Tam Quan.
Còn Địch
Thanh thì đánh nhau với Phiên binh, làm cho chúng chạy tứ tán.
Bấy giờ
trên núi còn hai đại tướng là Đại Mạnh Dương và Tiểu Mạnh Dương hay tin liền
đốc lâu la xuống núi vây Địch Thanh cố báo thù. Địch Thanh rán hết sức chống cự
một hồi, bọn lâu la đánh không lại nên ta rã. Đại Mạnh Dương và Tiểu Mạnh Dương
cũng sợ hãi kéo lâu la bỏ qua Bát Quái sơn mà ẩn trú.
Địch
Thanh thừa thắng giục ngựa lên Đại Lang sơn nhưng vừa lên đến đỉnh thì bị anh
em Ngưu Kiện hối quân bắn tên xuống như mưa, làm cho Địch Thanh không dám xông
lên nữa, phải lui xuống trở về trại. Nhưng khi xuống đến chân núi thì không
thấy Tiêu Đình Quý đâu cả.
Lời bàn:
Háo danh
là một cái bệnh của kẻ bất tài.
Cuộc
sống trong xã hội, kẻ có tài thường lập nên sự nghiệp, để tiếng ngàn thu. Còn
kẻ bất tài thì cũng muốn mình được như vậy, nhưng vì tài năng không có nên
không thực hiện được.
Bởi vậy,
những kẻ bất tài do tánh háo danh thường hay nói xấu chê bai những kẻ khác để
đề cao giá trị của mình. Còn có những kẻ vì háo danh mà phô trương một vài công
tác nhỏ mọn của mình và đắc ý khi được kẻ nịnh bợ ca tụng.
Trong
trường hợp này, Tiêu Đình Quý vì tính háo danh nên đã đoạt công của Địch Thanh
để khoe khoang với kẻ khác là mình đã giết được hai tên tướng cướp nổi tiếng
trong vùng.
Tánh háo
danh của con người còn thể hiện rất nhiều dạng, nhưng hầu hết những kẻ háo danh
là những kẻ bất tài, còn kẻ có tài không cần phải háo danh, vì tài năng của họ
tự nhiên đã đem danh tiếng lại cho họ rồi.
HỒI THỨ HAI MƯƠI BA - MÊ RƯỢU TIÊU ĐÌNH QUÝ BỊ
HẠI
Bấy giờ
Lý Thành làm chức thủ bị ở giữ Ngũ Vân Tấn, có vợ là Trầm thị (em ruột Trầm
Quốc Thanh đang làm ngự sử tại trào) sanh được đứa con trai tên là Lý Đại.
Khi nghe
quân báo có Tiêu Đình Quý đến thì lật đật ra đón tiếp mời vào dinh.
Thấy
Tiêu Đình Quý có hai cái thủ cấp xách theo nên Lý Thành hỏi:
- Thủ
cấp ở đâu mà tướng quân quẩy theo như vậy?
Tiêu
Đình Quý nói:
- Ấy là
thủ cấp của Táng Thiên vương cà Tử Nha Xai đó.
Lý Thành
nói:
- Táng
Thiên vương và Tử Nha Xai là hai tên cướp nổi tiếng xưa nay chưa ai dám giao
tranh, rất đỗi Dương nguyên soái mà còn đánh không lại thay, sao tướng quân lại
giết được nó?
Tiêu
Đình Quý nói:
- Ngươi
nói ta giết chúng nó không được vậy hãy xem thử hai cái đầu này của ai?
Lý Thành
bước lại xem thì thấy quả nhiên là hai cái đầu của Táng Thiên vương và Tử Nha
Xai, liền nói:
- Quả
thật là thủ cấp của hai tướng cướp ấy, song không biết tướng quân làm sao mà
giết được?
Tiêu
Đình Quý nói:
- Táng
Thiên vương bị tôi bắn một mũi tên, Tử Nha Xai bị tôi chém một đao, còn Đại
Mạnh Dương và Tiểu Mạnh Dương bị tôi đánh một trận chúng nó bỏ trốn hết rồi.
Lý Thành
nói:
- Nếu
vậy công của tướng quân rất lớn, chưa ai bì kịp.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Nay ta
lập đặng công lớn như vậy, ngươi lấy chi mà đãi ta?
Lý Thành
nói:
- Thật
tôi cũng có lòng muốn đãi tướng quân, song đêm hôm không sửa soạn kịp, chỉ có
rượu ngon ở đây mà thôi.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Có
rượu đem đây uống chơi cũng được, cần gì phải có món ngon vật lạ.
Lý Thành
lật đật lấy rượu ngon đem ra cho Tiêu Đình Quý uống.
Lúc ấy
Tiêu Đình Quý phần thì đói bụng, phần thì thèm rượu nên uống cho đến say mèm.
Lý Thành
thấy Tiêu Đình Quý say như chết thì bàn với vợ:
- Nay
Tiêu Đình Quý lấy được hai cái thủ cấp này thì công lớn biết dường nào. Nay nó
say mèm rồi thì ta giết nó đoạt lấy công ấy, ắt đặng quyền cao chức trọng.
Trầm thị
mừng rỡ nói:
- Thế
thì dịp may đem đến không nên bỏ qua.
Nói rồi
liền gọi con là Lý Đại cùng bàn bạc để làm chuyện ấy.
Lý Đại
nói:
- Nếu
cha muốn tính việc này thì phải làm cho kín đáo, nếu để lậu chuyện rất nguy
hiểm.
Lý Thành
nói:
- Thì
phải làm cho kín đaó mới được.
Nói rồi
liền đem dây ra trói Tiêu Đình Quý rồi cầm đao muốn chém.
Lý Đại
thấy vậy nói:
- Không
cần giết nó bằng gươm đao. Cha con ta khiêng nó đem ném xuống sông cho mất xác
thì hay hơn.
Hai cha
con trù tính xong liền khiêng Tiêu Đình Quý ném xuống sông Yến Tử rồi trở về
sắp đặt gói hai cái thủ cấp đem đến Tam Quan mà dâng công.
Bấy giờ
Địch Thanh khi thoát ra khỏi vòng vây rồi thì muốn lên núi mà đánh nữa, nhưng
bị anh em Ngưu Kiện bắn tên không lên nổi, nên phải trở về. Lúc đến sông Yến Tử
thì con ngựa không chịu đi vòng mà nhảy xuống nước chạy như bay. Địch Thanh lấy
làm lạ không biết cớ gì. Lúc về đến trại thì Trương Trung, Lý Nghĩa và Lý Kế
Anh ra đón thuật hết mọi việc cho Địch Thanh nghe.
Địch
Thanh nói:
- Không
hề gì. Mất chinh y là việc nhỏ, không cần lo.
Trương
Trung nói:
- Cha
chả! Mất chinh y mà đại ca cho là việc nhỏ thì còn việc gì lớn hơn nữa?
Địch
Thanh nói:
- Hiền
đệ chưa biết, tuy mất chinh y nhưng ta đã lập được công lớn. Vậy Dương nguyên
soái sẽ lấy công đền tội.
Trương
Trung hỏi:
- Vậy
đại ca lập được công gì?
Địch
Thanh nói:
- Ta
giết được Táng Thiên vương, Tử Nha Xai và đánh dẹp quân Tây Hạ đều chạy tứ tán.
Công như vậy mà đền tội không được sao?
Trương
Trung, Lý Nghĩa nghe nói liền hỏi:
- Vậy
đại ca giết được chúng mó mà có lấy được thủ cấp không?
Địch
Thanh hỏi:
- Chớ
Tiêu Đình Quý không đến đây sao?
Trương
Trung, Lý Nghĩa đêù nói:
- Chẳng
thấy ai hết.
Địch
Thanh nói:
- Tiêu
Đình Quý quảy hai cái thủ cấp về trước rồi, ta tưởng là nó đã đem về đây, té ra
không có. Hay là nó đem thẳng về Tam Quan rồi chăng?
Trương
Trung nói:
- Có lẽ
nó đem thẳng về Tam Quan mà mạo nhận công lao đó.
Địch
Thanh nói:
- Không
lẽ nó dám mạo nhận công lao như vậy. Thôi, chúng ta phải phải đến đó coi thử
Dương nguyên soái tính thế nào?
Hai
người vâng lời cùng nhau kéo binh đi thẳng về Tam Quan.
Lúc này
cha con Lý Thành đem hai cái thủ cấp đến dâng Dương nguyên soái.
Dương
nguyên soái nói:
- Cha
con ngươi không có tài năng gì sau lại giết được hai tướng này?
Lý Thành
thưa:
- Khi
ban đêm hai cha con tôi đi tuần gặp hai người say rượu đi ngã tới ngã lui, tay
cầm binh khí không vững, hỏi ra thì một người xưng là Táng Thiên vương, một
người xưng là Tử Nha Xai. Hai người ấy đến hỏi tôi có biết nơi nào chứa đĩ
không. Tôi thấy hai người ấy đã sau mà không cầm khí giới nổi, tôi mới bắn Táng
Thiên vương một mũi tên, còn con tôi là Lý Đại thì chém Tử Nha Xai một đao, lấy
hai thủ cấp đến đây mà dâng công.
Dương
nguyên soái nghe nói thì cũng tin là thiệt, nên nói với Lý Thành:
- Ấy
cũng là phước của cha con ngươi, mà cũng may cho triều đình và lê dân được bình
an. Thôi để ta dâng biểu mà xin phong quan tước cho cha con ngươi.
Nói rồi
liền truyền quân dọn tiệc mà thết đãi cha con Lý Thành.
Trong
lúc đang ăn uống có quân sĩ vào báo:
- Nay có
Địch khâm sai là người giải chinh y đến phê trình văn và xin ra mắt nguyên
soái. Trong phê văn ấy thì trễ quá sáu ngày. Vậy nguyên soái định liệu thế nào.
Dương
nguyên soái nói:
- Nếu
vậy cũng còn quá hết một ngày, vậy thì bắt trói Địch Thanh lại mà dẫn vào đây.
Phạm
Trọng Yêm và Dương Thanh đồng can:
- Trời
tháng này có tuyết sa lạnh lẽo, mà Địch Thanh trễ đây chỉ có quá nửa ngày thôi,
xin nguyên soái rộng dung cho kẻ đi đường khổ sở.
Nguyên
soái nói:
- Vậy
thì xin nhị vị hãy ra đó mà điểm binh, xem lại chinh y có đủ số chăng?
Hai
người ấy vội vã ra ngoài cửa ải tiếp rước Địch Thanh và hỏi:
- Túc hạ
có phải là Địch khâm sai chăng?
Địch
Thanh nói:
- Phải!
Còn nhi vị là ai mà tôi không biết.
Hai
người đồng đáp:
- Chúng
tôi là Phạm Trọng Yêm và Dương Thanh đây.
Địch
Thanh nói:
- Vậy
tôi không rõ, xin hai vị miễn chấp.
Nói rồi
liền lấy ra hai phong thơ, trong cho Phạm Trọng Yêm và nói:
- Thơ
này là thơ của Bao thị chế khiến tôi trao lại cho ngài.
Địch
Thanh lại lấy ra một phong thơ trao cho Dương Thanh và nói:
- Hàng
thượng thơ khiến tôi trao cho Dương tướng quân một phong thơ này.
Dương
Thanh liền nhận thơ bỏ vào túi, còn Phạm Trọng Yêm hỏi Địch Thanh:
- Vậy
chinh y ngài đem đến đây chưa?
Địch
Thanh nói:
- Đem
đến rồi, song còn để tại Đại Lang sơn. Vì bị quân cường đạo cướp hết mà giải
qua Đại Lang sơn rồi.
Phạm
Trọng Yêm nói:
- Nói
vậy ngài đành bó tay chịu tội rồi sao?
Dương
Thanh nói:
- Trễ
nải một ngày hay nửa ngày còn còn có thể can gián được, còn để mất chinh y thì
chúng tôi không biết kế chi để cứu ngài.
Lời bàn:
Kỷ luật
nghiêm khắc chỉ là hình thức để trừng trị những kẻ có tình làm sai, phá rối kỷ
cương của trật tự xã hội. Nhưng nó lại là con dao hai lưỡi để những kẻ gian
mạnh lợi dụng nó mà phá rồi trật tự, làm mất lẽ công bằng.
Dương
Tôn Bảo nắm quyền nguyên soái, quyền uy trong tay mà chỉ biết có kỷ luật cứng
rắn, không hề để ý những hoàn cảnh khách quan xảy đến cho mỗi sự việc, thì đó
cũng là một nhược điểm đáng suy gẫm cho những kẻ đang nắm quyền uy đối với
thuộc hạ. Sự việc trong đời không phải lúc này cũng bất di bất dịch như ý muốn
của mình. Kỷ luật khi nó nằm trong lẽ phải, tức là nằm trong thực tế của sự
việc thì kỷ luật ấy mới là cơ bản ưu tú để răn đời. Còn chỉ dùng nó như một
tảng đá, thì đó là lợi khí của những kẻ xảo quyệt lợi dụng để tránh né, hoặc ám
hại những kẻ bị rủi ro mà thôi.
HỒI THỨ HAI MƯƠI BỐN - HỌ DƯƠNG NỔI GIẬN NƠI
SOÁI PHỦ
Bấy giờ
Dương Thanh và Phạm Trọng Yêm nghe Địch Thanh kể lại đầu đuôi câu chuyện thì
kinh hãi nói:
- Nếu
chinh y bị mất thì tánh mạng ngài không còn.
Địch
Thanh nói:
- Tuy
ngày nay mất hết chinh y, nhưng tôi sẽ đòi lại được, mà dẫu có đòi không được
thì cũng không đến nỗi chết, vì tôi đã lập được công rất lớn.
Phạm
Trọng Yêm hỏi:
- Ngài
có công gì mà có thể chuộc được tội ấy?
Địch
Thanh nói:
- Hôm
qua tôi giết được Táng Thiên vương Tử Nha Xai, vậy công ấy không thể chuộc tội
được hay sao?
Dương
Thanh hỏi:
- Vậy
ngài có chi làm bằng cớ không?
Địch
Thanh nói:
- Sao
lại không. Cả hai thủ của của hai tên ấy tôi đã giao cho Tiêu Đình Quý đem về
trước. Chẳng lẽ đến bây giờ mà chưa về hay sao?
Phạm
Trọng Yêm nghe nói liền quay lại nói với Dương Thanh:
- Lạ
thật! Sao thủ cấp nào mà Lý Thành đem dâng nó, còn thủ nào mà Địch khâm sai
giao cho Tiêu Đình Quý đem về. Việc này tôi rất hồ nghi. Song Tiêu Đình Quý
chưa về thì không biết sự thực ra sao. Còn việc chinh y đây chúng ta phải lập
kế mà nói cho Dương nguyên soái đình lại chờ Tiêu Đình Quý về rồi xét cho rõ
ràng. Nếu chúng ta vào mà nói chinh y bị mất rồi thì Dương nguyên soái vốn có
tính nóng ắt hối quân bắt chém Địch Thanh lập tức.
Dương
Thanh nói:
- Vậy
chúng ta vào mà nói dối rằng chinh y có rồi, đặng cho mọi việc an ổn, chờ Tiêu
Đình Quý về sẽ hay.
Bàn tính
xong, hai người dắt vào ra mắt Dương nguyên soái, đồng thời dắt Địch Thanh cùng
đi.
Dương
nguyên soái hỏi:
- Vậy
chớ chinh y đủ số chưa?
Duơng
Thanh nói:
- Chinh
y đã đủ số rồi.
Dương
nguyên soái hỏi Địch Thanh:
- Trong
tờ phê văn có nói phó giải quan là Thạch Ngọc, sao không thấy Thạch Ngọc đến
đây?
Địch
Thanh liền thuật hết các việc Thạch Ngọc bị yêu quái bắt nơi quán dịch tại
huyện Nhơn An cho nguyên soái nghe.
Dương
nguyên soái hỏi:
- Vậy
trong tờ kỳ một tháng, lịnh thiên tử cho thêm năm ngày, sao còn trễ như vậy.
Vì mấy
ngày tuyết xuống lạnh lẽo quân sĩ không đi được nên mới trễ, xin nguyên soái
rộng dung cho tôi nhờ.
Dương
nguyên soái liền kêu Mạnh Đinh Quốc bảo ra phát chinh y cho quân sĩ, kẻo lâu
ngày lạnh lẽo.
Địch
Thanh nghe nói liền thưa:
- Xin
nguyên soái hãy để chậm lại.
Dương
nguyên soái hỏi:
- Tại
sao vậy?
Địch
Thanh thưa:
- Chinh
y mất hết rồi còn chi đâu mà phát.
Dương
nguyên soái hỏi:
- Sao
lại mất đi, mất lúc nào?
Địch
Thanh thuật lại chuyện mất chinh y tại Ma Bàng sơn cho nguyên soái nghe.
Dương
nguyên soái nổi nóng vỗ ghế hét:
- Chinh
y là vật quan trọng, sao ngươi sơ suất để đến nỗi bị chúng cướp mất, ấy là tội
khi quân.
Nói rồi
kêu quân sĩ bắt Địch Thanh cởi hết áo mão rồi dẫn đi.
Địch
Thanh nói lớn:
- Tuy là
chinh y bị mất hết, song tôi đã lập được công lớn lẽ nào không chuộc được tội.
Phạm
Trọng Yêm thấy vậy thưa:
- Địch
khâm sai xưng rằng đã lập được công lớn, vậy nguyên soái phải hỏi lại cho rõ
ràng rồi mới chém.
Nguyên
soái nói:
- Công
gì mà trừ được tội này?
Địch
Thanh nói lớn:
- Việc
mất chinh y đây không phải một mình tôi có tội, mà cả nguyên soái cũng có tội
nữa.
Dương
nguyên soái nghe nói vỗ ghế hỏi:
- Ngươi
là mất chinh y mà lại đổ tội cho ta hay sao?
Địch
Thanh nói:
- Vả Ma
Bàng sơn cách tam Quan không đầy hai trăm dặm mà nguyên soái là người có trách
nhiệm trấn giữ lại dung cho loài cường đạo ở trong địa phận mình, đến nỗi nó
cướp đoạt chinh y của triều đình, ấy không phải là nguyên soái không làm tròn
bổn phận của mình không?
Dương
nguyên soái nghe Địch Thanh nói như vậy thì nghĩ thầm:
- Lời
Địch Thanh nói có lý, nếu lấy lẽ ra thì ta cũng phải chịu chung trách nhiệm.
Nghĩ như
vậy nguyên soái nói:
- Khi
nãy ngươi nói đã lập công lớn để xin chuộc tội, vậy thì đó là công gì?
Địch
Thanh nói:
- Đó là
công trận chớ công gì.
Dương
nguyên soái hỏi:
- Công
trận gì ở đâu?
Địch
Thanh nói:
- Vậy
chớ giết được Táng Thiên vương và Tử Nha Xai không phải là công trận hay sao?
Dương
nguyên soái nói:
-Táng
Thiên vương Tử Nha Xai thì hai cha con Lý Thành đã giết chết rồi, còn đâu nữa
mà ngươi giết? Chính cha con Lý Thành đã đem thủ cấp hai người ấy nạp nơi đây.
Địch
Thanh nói:
- Hai
cái thủ cấp ấy tôi đã giao cho Tiêu Đình Quý đem về nạp sao lại bảo là của cha
con Lý Thành?
Dương
nguyên soái nghe nói trong lòng sanh nghi, hỏi chư tướng:
- Tiêu
Đình Quý ta sai đi đón chinh y đến bây giờ đã về chưa?
Chư
tướng thưa:
- Tiêu
Đình Quý chưa về.
Dương
nguyên soái nghe nói lại càng sanh nghi hơn nữa, còn đang ngẫm nghĩ thì có quân
vào báo:
- Ngoài
cửa quân sĩ vừa lượm được một phong thơ có đề tám chữ: Cháu nội là Dương Tôn
Bảo xem thơ.Dương nguyên soái xem thấy biết là thơ của bà nội dặn dò về việc
Địch Thanh, nên nói với Phạm Trọng Yêm:
- Nay
hai cái thủ cấp thì hai cha con của Lý Thành xưng là công của mình, còn Địch
Thanh cũng nói như vậy, chưa biết thiệt giả ra sao, vậy đợi Tiêu Đình Quý về
đây rồi mới cứu xét được.
Tuy
nhiên vì nóng lòng nên nguyên soái cho gọi Lý Thành ra đối nại.
Lý Thành
nói:
- Bởi
tôi giết được nên tôi mới có thủ cấp ấy.
Địch
Thanh làm thinh không nói lời nào hết. Dương Nguyên soái thấy vậy hỏi Địch
Thanh:
- Ngươi
nói là công trận của ngươi, sao ngươi không đối nại với Lý Thành?
Địch
Thanh nói:
- Lý
Thành là người bậc nào, còn tôi là người bậc nào mà Nguyên soái lại khinh bạc
tôi như vậy? Vả tôi đây là bậc nhất phẩm triều đình, đã bị trói lại lột hết áo
mão, ngồi dưới đất mà đối nại với Lý Thành làm sao?
Nguyên
soái thấy Địch Thanh nói có lý liền hối quân mở trói cho Địch Thanh, và đem áo
mão cho Địch Thanh mặc.
Địch
Thanh ngồi lên ghế, rồi lớn tiếng nói:
- Nếu
bây giờ muốn cho minh bạch việc này phải chờ Tiêu Đình Quý về đây sẽ đối chứng,
cho tôi mà đối nại với Lý Thành thì mất thể diện tôi nhiều lắm.
Nguyên
soái khiến Trầm Đạt qua Ngữ Vân trấn mà tra chứng xem thử đêm 13 vừa qua có
Táng Thiên vương và ĩ ử Nha Xai say rượu đi dạo chăng?
Trầm Đạt
vâng lời đến nơi dò hỏi. Dương Nguyên soái lại sai quân sĩ đi khắp nơi tìm Tiêu
Đình Quý.
Truyền
lệnh xong, Nguyên soái trở về hậu dinh an nghỉ còn việc ấy giam lại đó chờ xét
xử sau.
Phạm
Trọng Yêm thấy Nguyên soái vào rồi thì cười lớn nói với Dương Thanh:
- Lúc
nãy Nguyên soái có vẻ nóng nảy, nhưng sau khi xem thơ của bà Dư Thái quân thì
có vẻ trầm tĩnh rồi. Vậy thì chúng ta cứ an lòng chờ Tiêu Đình Quý về đây sẽ
cùng nhau tham luận.
Nói rồi
hai người mời Địch Thanh về nơi quán dịch an nghỉ.
Còn Tiêu
Đình Quý sau khi bị cha con Lý Thành đem bị xuống sông, vì lúc đêm tối cha con
Lý Thành vội vã đem ném xuống chỗ nước cạn, nên Tiêu Đình Quý không bị chết
đuối. Lúc tỉnh rượu, Tiêu Đình Quý thấy mình bị trói, bỏ xuống nước, thì biết
là âm mưu của cha con Lý Thành. Sáng hồng sau nhờ có một gã tiều phu đi ngang
qua đó thấy vậy lội xuống mở trói cho Tiêu Đình Quý.
Tiêu
Đình Quý lên được trên bờ rồi liền nói với gã tiền phu:
- Tôi mà
sống được cũng nhờ ơn ông, vậy xin ông theo tôi về Tam Quan, đặng tôi đền ơn
cho ông chút đỉnh.
Tiều phu
nói:
- Ấy là
chuyện làm phước, tôi có cần gì trả ơn. Thôi để tôi đi đốn củi kẻo trưa.
Nói rồi
vội vã ra đi.
Tiêu
Đình Quý vội trở lại Ngũ Vân trấn trong lúc Trầm Đạt đang tra xét quân sĩ và
dân tình, thấy Tiêu Đình Quý về thì mừng rỡ hỏi:
- Vậy
chớ tướng công đi đâu mất để xảy ra việc mạo công này?
Tiêu
Đình Quý hỏi:
- Chẳng
hay chuyện mạo công như thế nào?
Trầm Đạt
liền thuật hết câu chuyện của Địch Thanh và Lý Thành cho Tiêu Đình Quý nghe.
Tiêu
Đình Quý ngẫm nghĩ giây lát rồi nói:
- À? Té
ra vì việc này mà cha con Lý Thành cho ta uống rượu rồi trói bỏ xuống sông đây.
Cha con Lý Thành thật tàn bạo và bất nhân. Nó muốn đoạt công của Địch Khâm sai
mà đành đoạn hại tôi. May không có gã tiều phu giải cứu thì tôi chết mất rồi.
Trầm Đạt
nói:
- Vậy
thì đầu đuôi câu chuyện thế nào xin tướng quân nói cho tôi rõ.
Tiêu
Đình Quý liền thuật hết mọi việc đã xảy ra cho Trầm Đạt nghe.
Trầm Đạt
nói:
- Nếu
vậy thì tội Lý Thành đáng chết.
Tiêu
Đình Quý hỏi:
- Bây
giờ Lý Thành ở đâu?
Trầm Đạt
nói:
- Đang ở
tại Tam Quan. Vậy tướng quân hãy đi với tôi về Tam Quan mà đối nại việc ấy.
Tiêu
Đình Quý nghe nói liền đi theo Trầm Đạt trở về Tam Quan.
Lời bàn:
Quyền
cao chức trọng thì ai cũng ham, vì nó là nguồn gốc của sự sung sướng trong cuộc
sống con người. Nhưng vì tâm lý giữa kẻ quân tử và tiểu nhân có khác biệt:
Người
quân tử thì biết trọng danh dự mình, nên dù được phong thưởng nhưng không xứng
đáng thì không nhận vì họ chỉ nhận những gì do họ làm được, và hưởng những gì
của họ làm ra. Còn kẻ tiểu nhân vì bất tài, nhưng muốn được hưởng thụ nên không
kể đến danh dự, chỉ cốt làm sao được hưởng thụ là sung sướng rồi.
Do đó,
kẻ tiểu nhân thường âm mưu tước đoạt quyền lợi và công lao của kẻ khác.
Trường
hợp bọn Lý Thành điển hình cho hành động của kẻ tiểu nhân ham lợi, nhẫn tâm giết
cả người thân của mình, coi quyền lợi là trên hết.
HỒI THỨ HAI MƯƠI LĂM - LÝ THÀNH GIÀ LỜI NON
LẼ.
Tiêu
Đình Quý và Trầm Đạt về đến Tam Quan vào ra mắt Dương Nguyên soái thuật lại mọi
điều.
Nguyên
soái hỏi:
- Nay
câu chuyện Lý Thành mạo công tuy đã rõ ràng song phải đối chứng cho phân minh.
Nói rồi
sai Mạnh Đình Quốc đòi cha con Lý Thành vào ra mắt:
Lý Thành
vào quỳ lạy thưa:
- Cha
con tôi là người hữu công vô tội, sao Nguyên soái lại bắt như vậy?
Dương
Nguyên soái nói:
- Ngươi
nói cha con ngươi giết Táng Thiên vương và Tử Nha Xai sao ta sai người đi dò
xét thì ai cũng nói không thấy việc đó.
Lý Thành
nói:
- Vì lúc
ấy trời khuya nên không ai trông thấy cũng phải.
Dương
Nguyên soái nạt lớn:
- Vậy
chớ cha con ngươi ép Tiêu Đình Quý uống rượu rồi trói đem bỏ xuống sông Yến Tử
là vì ý gì?
Lý Thành
nghe nói thất sắc thưa:
- Việc
ấy thật tôi không hay biết gì cả.
Nguyên
soái truyền đòi Tiêu Đình Quý đến đối chứng:
- Tiêu
Đình Quý vào đến soái phủ thấy cha con Lý Thành thì nổi nóng xốc lại đạp cho
một đạp, nói:
- Ngươi
là quân tàn nhẫn, bất nhân, ngươi muốn đoạt công trận của Địch Khâm sai, gạt ta
uống rượu rồi trói ta bỏ xuống sông chiếm đoạt hai cái thủ cấp. Nếu không có gã
tiều phu cứu mạng thì ta còn gì. Thôi, để ta xin Nguyên soái đem cha con ngươi
bỏ xuống sông, làm y như ngươi đã hành động với ta lúc đó.
Lý Thành
bị một đạp đau quá khóc om sòm. Phạm Trọng Yêm thấy vậy nói:
- Tiêu
Đình Quý giữa soái phủ không nên vô lễ như vậy.
Dương
Nguyên soái hỏi:
- Ta sai
ngươi đi đón Địch Khâm sai đặng lấy chinh y sao ngươi trở lại Ngũ Vân trấn làm
chi?
Tiêu
Đình Quý liền thuật hết mọi việc cho Nguyên soái nghe.
Nguyên
soái hỏi Lý Thành:
- Chứng
cớ đã rõ ràng như vậy ngươi còn chưa chịu sao?
Lý Thành
nói:
- Việc
ấy chỉ nói bằng miệng lấy chi làm bằng cớ. Xin Nguyên soái cứ theo quân pháp mà
luận hễ ai được thủ cấp thì có công trạng, để khỏi mất công bình.
Nguyên
soái nói:
- Ngươi
nói ngươi giết được hai tướng ấy vậy ngươi có biết chúng nó mặc giáp gì, cầm vũ
khí gì chăng?
Lý Thành
nói:
- Táng
Thiên vương đội huyền bi mão, mình mặc hồng bào, còn Tử Nha Xai thì mặc lạc bào
Vừa nói
dứt lời thì Tiêu Đình Quý nạt lớn:
- Nói
bậy! Táng Thiên vương đội mũ kim khôi, nên khi ấy ta lấy được chiếc ngù mũ, bây
giờ còn đây.
Nói rồi
móc túi lấy ra chiếc ngù mũ đưa cho mọi người xem.
Dương
Nguyên soái thấy vậy bèn nạt Lý Thành, trách:
- Lý
Thành! Ngươi thật già mồm. Bây giờ còn gì để nói chăng?
Lý Thành
nói:
- Chứng
cớ như vậy cũng chưa chắc, vì Địch Thanh làm mất chinh y rồi sợ bị tội nên lo
tốt với Tiêu Đình Quý làm như vậy để kể công chuộc tội.
Phạm
Trọng Yêm nói:
- Lý
Thành? Ngươi nói cha con ngươi giết được Táng Thiên vương và Tử Nha Xai, vậy
khi lấy được thủ cấp rồi ngươi có biết hai cái thây của chúng nó hiện giờ ở đâu
không?
Lý Thành
nói:
- Khi
hai tướng ấy đi dạo chơi có dắt theo bốn tên tùy tùng, cho nên lúc tôi giết
được chúng nó thì bốn tên tùy tùng đã mang xác đem đi rồi.
Phạm
Trọng Yếm nói:
- Còn
hai con ngựa của chúng nó đâu?
Lý Thành
nói:
-Khi hai
tướng ấy đi dạo ban đêm nên không cỡi ngựa.
Địch
Thanh nghe nói cười lớn:
- Ta thấy
ngươi thật già hàm.
Vừa nói
dứt lời thì có quân vào báo:
- Nay có
Ngũ Tư Phong ở trên Bát quái sơn đi với Đại Mạnh Dương và Tiểu Mạnh Dương đem
ba mươi muôn binh đến vây Tam Quan, lại kêu Địch Thanh ra đánh để trả thù cho
Táng Thiên vương và Tử Nha Xai. Xin Nguyên soái định liệu.
Dương
Nguyên soái nghe báo thì kêu Lý Thành nói:
- Ngươi
nói cha con ngươi giết hai tướng ấy, sao bây giờ chúng nó không kêu ngươi ra mà
trả thù, lại gọi Địch Thanh?
Lý Thành
nói:
- Ý
chúng nó muốn đánh với ai thì đánh, tôi làm sao biết được.
Dương
Nguyên soái nói:
- Đến
nỗi như vậy mà ngươi còn chưa chịu là gian dối thì thật là già mồm.
Lúc ấy
lại có quân vào báo:
- Ngũ Tư
Phong đốc binh phá thành rất gấp, cứ kêu tên Địch Khâm sai mà mắng nhiếc.
Địch
Thanh nghe nói nổi giận liền đứng dậy thưa với Nguyên soái:
- Xin
cho tôi ra đánh một trận đặng lập công.
Dương
Nguyên soái chưa kịp nói thì Tiêu Đình Quý lật đật đứng dậy nói:
- Khoan
đã, tuy Địch Khâm sai võ nghệ cao cường, so trận này không nên ra đánh, hãy để
cha con Lý Thành đánh một trận đã, như cha con Lý Thành giết được Ngũ Tư Phong
thì công thuộc về hai cha con Lý Thành.
Dương
Nguyên soái nghe theo lời Tiêu Đình Quý liền sai cha con Lý Thành ra trận và
khiến Phạm Trọng Yếm ra lướt trận.
Cha con
Lý Thành nghe nói thất kinh, lật đật quỳ lạy nói:
- Tuy
cha con tôi là quan võ, song chức vụ chỉ biết đi tuần hành đây đó, nếu ra trận
mạc thì tôi không dám.
Nguyên
soái nạt lớn:
- Ngươi
cũng là quan võ, người ta cũng là quan võ, nếu ngươi sợ chết mà không đi thì kẻ
khác cũng sợ chết như ngươi thì còn ai đi chiến đấu.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Quan
võ sao không dám ra trận, nếu vậy triều đình ban bổng lộc chẳng uổng phí sao?
Lý Thành
liệu bề xin không được, bất đắc dĩ phải vâng mạng lãnh một muôn binh kéo ra
ngoài thành.
Địch
Thanh thấy vậy thưa với Nguyên soái:
- Vả Lý
Thành ra trận đây chắc là bị giặc giết và làm rối loạn binh mã. Xin Nguyên soái
cho tôi theo ứng cứu, giúp Lý Thành đánh với Ngũ Tư Phong.
Dương
Nguyên soái nói:
- Lời ấy
cũng phải, song Khâm sai phải cẩn thận cho lắm, Vì Ngũ Tư Phong là một danh
tướng bên Tây Hạ.
Nói rồi
liền cấp cho Địch Thanh hai muôn binh kéo ra tiếp ứng cho Lý Thành.
Bấy giờ
Ngũ Tư Phong, Đại Mạnh Dương và Tiểu Mạnh Dương đem ba mươi muôn binh vây hãm
Tam Quan, xảy thấy Lý Thành ra trận, liền hét một tiếng làm cho cha con Lý
Thành giật mình làm rớt cây đao và gần té nhào xuống ngựa.
Ngũ Tư
Phong nói:
- Có
phải ngươi là Địch Thanh chăng?
Cha con
Lý Thành nghe nói như vậy thì nằm mọp xuống yên ngựa năn nỉ:
- Xin
Nguyên soái hãy dung tính mạng cho cha con tôi, vì tôi không phải là Địch
Thanh, tôi là Lý Thành tài mọn sức yếu, không phải là địch thủ của Nguyên soái.
Ngũ Tư
Phong thấy vậy cười lớn:
- Ta
không giết các ngươi đâu, hãy trở về kêu Địch Thanh ra đây mà giao đấu với ta.
Lý Thành
nói:
- Tôi đi
đây là tại Dương Tôn Bảo ép buộc, chớ thật tình tôi rất sợ Nguyên soái.
Nói rồi
xá Ngũ Tư Phong một cái rồi quày ngựa trở vào. Nhưng vừa vào đến cửa thành thì
bị Tiêu Đình Quý tóm ngực cha con Lý Thành ném xuống ngựa, hối quân trói lại
bắt ra đánh với Ngũ Tư Phong. Nhưng chưa đến nơi thì Địch Thanh đã giục ngựa
đến trước, nạt lớn:
- Ngươi
có phải là Ngũ Tư Phong đó không?
Ngũ Tư
Phong nói:
- Phải!
Còn ngươi có phải là Địch Thanh đó không?
Địch
Thanh nói:
- Đã
biết tên ta sao không xuống ngựa nạp mình.
Nói rồi
lướt tới chém Ngũ Tư Phong. Hai bên đánh nhau một trận, quân Tây Hạ kinh hãi bỏ
chạy, còn Ngũ Tư Phong nổi giận vung giáo đánh với Địch Thanh hơn hai chục hiệp
chưa phân hơn thua. Địch Thanh liệu thế không xong, lịền thò tay vào túi lấy
Nhơn diện bài ra đưa lên niệm chú, tức Ngũ Tư Phong bất tỉnh, rồi rơi xuống
đất, hộc máu mà nhào xuống ngựa.
Tiêu
Đình Quý thấy vậy cả mừng liền chạy đến cắt lấy thủ cấp, vừa toan vào thành thì
có Đại Mạnh Dương và Tiểu Mạnh Dương phi ngựa đến. Địch Thanh còn cầm Nhơn diện
bài trong tay liền đưa lên niệm chú. Hai tướng cũng hộc máu nhào xuống đất.
Tiêu
Đình Quý cũng chạy lại cắt lấy thủ cấp. Còn Địch Thanh thì đánh đuổi quân Tây
Hạ, làm cho chúng đạp nhào nhau mà chạy tán loạn.
Tiêu
Đình Quý nói với Địch Thanh:
- Bữa
nay tối rồi, hãy về nghỉ rồi ngày mai tiếp tục đánh nữa.
Địch
Thanh nghe theo liền quày ngựa trở về ải ra mắt Dương Nguyên soái.
Dương
Nguyên soái nói:
- Địch
vương thân nhỏ tuổi mà anh hùng dường ấy, thật hơn ta nhiều lắm. Để ta làm biểu
tấu cùng Thánh Thượng nhường quyền nguyên soái cho vương thân.
Địch
Thanh nói:
- Tôi
đâu dám chịu điều ấy. Xin Nguyên soái chớ vội khen:
Dương
Nguyên soái nói:
- Nay
Địch vương thân mà lập được công lớn như vầy thật là hồng phước của Thánh
Thượng, nên mới được một anh tài phò Tống dẹp loạn.
Nói rồi
truyền mở tiệc ăn mừng, khao đãi tướng sĩ.
Tiệc
xong, Dương Nguyên soái truyền quân dẫn cha con Lý Thành ra, và hỏi:
- Lý
Thành! Bây giờ người đã chịu tội hay chưa?
Lý Thành
quỳ lạy nói::
- Xin
Nguyên soái xét lại cho cha con tôi nhờ. Công trận ấy thiệt của cha con tôi mà
thôi.
Tiêu
Đình Quý nghe nói nổi nóng bước tới đạp cha con Lý Thành mỗi người một đạp và
nói:.
- Loài
súc sanh! Đến nước này mà cha con ngươi chưa chịu tội hay sao?
Lý Thành
nói. Có công nào có tội chi mà bảo tôi chịu?
. Nguyên
soái nạt lớn:
- Sự
việc đã rõ ràng trước mắt mà ngươi vẫn tìm cách dối gạt mọi người, không biết
cải hóa.
Nói rồi
truyền quân dẫn cha con Lý Thành ra viên môn mà xử trảm, vợ con Lý Thành là
Trần thị hay tin chồng con mình đều bị chết chém, liền thu gom tiền bạc trốn về
Biện Lương mà mưu toan với Trầm Quốc Thanh đặng làm cáo trạng kiện Dương Tôn
Bảo.
Hôm sau,
Dương Nguyên soái nói với Địch Thanh:
- Địch
khâm sai làm mất chinh y thì đó cũng là tội lớn lắm nhưng giết được năm tên
tướng giặc cùng một lúc thì cũng có thể lấy công mà chuộc tội được. Vậy để ta
dâng biểu về trào tâu với Thánh Thượng xem lượng trên phán thế nào?
Địch
Thanh nói:
- Chuyện
còn đó. Xin Nguyên soái cho tôi đem binh đến Đại Lang sơn mà trừ diệt hết tặc
đảng thu lại chinh y đã bị mất.
Nguyên
soái nói:
- Nếu
Địch khâm sai lấy lại được chinh y thì công lớn biết chừng nào?
Nói rồi
liền phát binh cho Địch Thanh. Địch Thanh lãnh mạng đem binh đi đánh Đại Lang
sơn.
Lúc này
Ngưu Kiện và Ngưu Cang hay tin Ngũ Tư Phong, Đại Mạnh Dương và Tiểu Mạnh Dương
đều bị giết, thì anh em bàn luận thế nào Địch Thanh cũng kéo quân đến Đại Lang
sơn đòi chinh y lại. Hai anh em bàn tính bỏ trốn đi nơi khác để tránh tai họa.
Ngưu
Cang nói:
- Đại
Lang sơn đây là một hòn núi rất hiểm trở, vậy chúng ta bố trí cung tên và cây
đá sẵn, hễ chúng kéo quân đến thì dùng tên bắn xuống, thế tất chúng nó phải
thiệt mạng, sợ gì bỏ trốn đi đâu.
Ngưu
Kiện nói:
- Em nói
cũng phải, song ở đây lương thảo tích trữ chẳng được bao nhiêu. Nếu chúng nó
vây hãm lâu ngày thì làm sao sống được chi bằng ta đem chinh y trả lại cho
Dương Nguyên soái, may ra người rộng lượng mà cho chúng ta đoái công chuộc tội
chẳng hơn sao?
Ngưu
Cang bất bình nói:
- Nếu
làm như vậy chẳng là chúng ta nhút nhát lắm.Thà ở đây mà thủ thế, sống chết còn
rạng danh hơn.
Ngưu
Kiện nói:
- Dương
Nguyên soái là người đại lượng, em thiết tưởng không đến nỗi nào.
Ngưu
Cang nói:
- Nếu
tôi nói mà đại ca không nghe lời thì tình anh em chúng ta phải chia lìa mỗi đứa
một nơi.
Ngưu
Kiện nói:
- Áy là
tại em muốn vậy. Thôi em muốn đi đâu thì đi, ta không ép.
Nói rồi
liền khiến quân góp nhóp chinh y mà chở ra Tam Quan, còn vật dụng bao nhiêu đều
giao lại cho Ngưu Cang lưu giữ.
Lời bàn.
Người
xưa nói: "Mưu thâm họa diệt thâm".
Đó là
luật nhân quả. Hễ mưu mô càng hiểm độc bao nhiêu thì kết quả tai hại bấy nhiêu.
Lý Thành
muốn cướp công của kẻ khác, mưu đồ giết hại Tiêu Đình Quý, đó là một âm mưu
hiểm ác, chỉ thấy danh vọng mà không kể đến nghĩa nhân. Lúc vỡ lở, đáng lẽ phải
phục thiện, để sửa chữa tính gian ác của mình thì lại tìm cách chống chế, để
cuối cùng mọi việc càng tối tăm hơn, không thẽ tự vệ được bản thân.
Ở đời
khi phạm tội lỗi mà biết ăn năn sửa chữa thì đó là điều tốt dù tội ác xấu xa
đến đâu cũng có thể giảm nhẹ được Lý Thành đã rơi vào thế cưỡi trên lưng cọp,
nếu nhảy xuống sợ cọp ăn mất, nhưng không phải vì thế mà tránh được tai họa của
hành động mình.
Tóm lại,
biết phục thiện để sửa mình là điều hay ho và can đảm nhất trong lẽ sống.
HỒI THỨ HAI MƯƠI SÁU - NGƯU KIỆN ĐEM BINH ĐẦU
TỐNG THẤT.
Bấy giờ
Địch Thanh tuân lệnh ra đi đánh dẹp Đại Lang sơn, để Trương Trung, Lý Nghĩa làm
tiên phuông dẫn quân đi trước. Khi đến Yến Tử hà thì thấy xa xa có một đội quân
kéo đến.
Lý Nghĩa
nói với Trương Trung:
- Nhị
ca! Sao lại có đạo binh nào kéo đến đây vậy?
Trương
Trung nói:
- Hay là
binh của Tây Hạ bị thua hôm trước, bây giờ nhóm họp lại chăng?
Lý Nghĩa
nói:
- May
quá! Hôm trước đại ca đã lập được công lớn rồi, nay anh em ta cũng nhân cơ hội
này kiếm chút đỉnh.
Trương
Trung nói:
- Vậy
thì chúng ta phải ráng một phen để phô trương uy danh.
Nói rồi
liền giục binh đến. Chẳng bao lâu hai đạo quân gặp nhau. Trương Trung nạt lớn:
- Loài
phản tặc? Các ngươi đem binh đi đâu đó?
Ngưu
Kiện thấy Trương Trung và Lý Nghĩa thì biết là bộ hạ của Địch Thanh bèn nghiêng
mình thi lễ và nói:
- Tôi
muốn đến Tam Quan mà quy hàng Nguyên soái, chớ không phải phản tặc đâu.
Trương
Trung nói:
- Ngươi
nói ngươi không phải phản tặc thế ra ngươi là cường đạo chăng?
Ngưu
Kiện nói:
- Khi
trước tôi vẫn là cường đạo mà bây giờ tôi đã thôi rồi".
Trương
Trung hỏi:
- Ngươi
là cường đạo ở đâu, hay là ở Ma Bàng sơn.
Ngưu
Kiện nói:
- Phải.
Trương
Trung, Lý Nghĩa nghe nói nổi giận mắng:
- Té ra
ngươi là cường đạo ở Ma Bàng sơn trước đã cướp chinh y của anh em ta, làm cho
đại ca ta thiếu chút nữa mất mạng. Nay ta gặp ngươi đây thì quả là gặp cựu thù
rồi.
Nói rồi
vung đao chém Ngưu Kiện. Ngưu Kiện đỡ đao ra rồi nói:.
- Xin
tướng quân bớt giận, để tôi phân rõ một đôi điều cho tướng quân nghe. Vả chuyện
đoạt chinh y đó không phải là tại tôi ấy là tại Tôn Vân sai người đem thơ và lễ
vật đến cậy tôi làm như vậy đặng trả thù. Khi ấy tôi nghe lầm, đến sau nghĩ lại
ăn năn thì chuyện đã lỡ. Nay tôi đem chinh y trả
lại cho
Dương Nguyên soái, xin tướng quân làm ơn dắt tôi đến ra mắt.
Trương
Trung hỏi:.
- Vậy
ngươi tên họ là chi?
Ngưu
Kiện nói:
- Tôi là
Ngưu Kiện.
Trương
Trung hỏi:
- Còn
một người nữa ở đâu?
Ngưu
Kiện nghe hỏi thì nghĩ thầm:
- Nếu ta
tỏ thiệt Ngưu Cang còn ớ trên núi Đại Lang sơn, ắt là chúng nó đến đó mà đánh
phá.
Nghĩ như
vậy, Ngưu Kiện nói:
- Còn
một người nữa là Ngưu Cang đã bỏ tôi mà đi xứ nào không biết.
Trương
Trung nghe nói thì nạt lớn:
- Ngươi
đã đầu Táng Thiên vương rồi, nay ngươi lại muốn đầu Nguyên soái nữa sao? Thế
thì người có mưu kế chi đây?
Nói rồi
vung đao chém tới. Ngùn Kiện có ý muốn đầu hàng nên cứ đỡ thương không chịu
đánh. Lý Nghĩa thấy vậy nói:
- Ngưu
Kiệm Nếu ngươi có ý muốn đầu hàng thì phải thề đi.
Ngưu
Kiện nói:
- Tôi là
Ngưu Kiện, nếu không thiệt dạ đầu hàng thì phải chết vì gươm đao.
Hai
người thấy Ngưu Kiện đã thật tình liền bãi binh, dắt về ra mắt Dương Nguyên
soái.
Dương
Nguyên soái hỏi Ngưu Kiện:
- Bấy
lâu nay ngươi chiếm cứ Ma Bàng sơn, ta cũng nghĩ ngươi là lũ kiến chòm ong nên
cũng bỏ qua. Đến nay ngươi dám đoạt chinh y của triều đình, làm liên lụy đến
Địch Thanh. Vả lại ngươi đã đầu giặc rồi sao còn đến đây đầu hàng ta?
Ngưu
Kiện nói:
- Xin
Nguyên soái rộng lượng để tôi kể lại mọi việc cho Nguyên soái nghe. Nguyên việc
đoạt chinh y đó là do Tôn Vân viết thơ sai người đem đến Ma Bàng sơn khiến anh
em tôi làm như vậy. Anh em tôi làm lỡ chuyện nay nghĩ lại thì ăn năn, nên đem
chinh y dâng lại cho Nguyên soái để chuộc tội.
Nguyên
soái hỏi:
- Vậy
chớ Tôn Vân là người thế nào mà sai khiến các ngươi.
Ngưu
Kiện nói:
- Tôn
Vân là em ruột Tôn Tú.
Nguyên
soái hỏi Địch Thanh:
- Vậy
ngài có thù chi với Tôn Tú và Tôn Vân chăng?
Địch
Thanh thuật hết sự tình cho Dương Nguyên soái nghe.
Nguyên
soái lại hỏi Ngưu Kiện:
- Vậy
thơ của Tôn Vân bây giờ ở đâu?
Ngưu
Kiện nói:
- Thơ
lúc ấy tôi đốt trại thì đã cháy rụi hết rồi.
Nguyên
soái nói:
- Phải
chi thơ ấy mà còn thời ta cũng bảo tấu với triều đình đặng trừ mối hiểm họa.
Địch
Thanh nói:
- Xin
Nguyên soái để thủng thỉnh rồi bọn nịnh thần cũng phải bị loại trừ. Còn Ngưu
Kiện đây đã biết hối cải xin Nguyên soái mở lòng nhân đức mà dung cho nó một
phen.
Nguyên
soái nói:
- Thôi
ta cũng nghe lời Địch vương thân mà dung cho nó, song phải đánh hai chục heo để
làm gương.
Quân sĩ
đem Ngưu Kiện ra đánh hai mươi hèo, rồi cho ở theo hàng chư tướng mà điều dụng.
Sau đó,
Nguyên soái lại sai Tiêu Đình Quý và Ngưu Kiện đem quân đến đánh dẹp Đại Lang
sơn, trừ bọn thảo khấu.
Tiêu
Đình Quý và Ngưu Kiện tuân lệnh đem ba ngàn binh ra đi. Địch Thanh nói:
Nay Ngũ
Vân trấn thiếu người giữ chức Thủ Bị, vậy xin Nguyên soái cho tôi tiến cử một
người thay vào chức ấy.
Nguyên
soái hỏi:
- Chẳng
hay vương thân muốn tiến cử ai?
Địch
Thanh nói:
-Tôi có
một người anh rể tên là Trương Văn, khi trước có làm chức Du kích nơi Đồng
Quan, vô cớ bị Mã Ứng Long cách chức, nay xin Nguyên soái cho phục chức trấn
thủ nơi Ngũ Vân trấn.
Dương
Nguyên soái liền nhận lời, bèn sai Mạnh Đình Quốc đến Đồng Quang đòi Trương Văn
đến mà nhậm chức.
Bấy giờ
Lý Kế Anh là ân nhân của Địch Thanh, có công cứu Địch Thanh nơi dinh Bàng Hồng
cho đến nay chưa được Địch Thanh nhớ đến công lao nên cậy Trương Trung dẫn vào
ra mắt.
Lúc ấy
Địch Thanh đang ngồi bàn luận với Dương Nguyên soái thì Trương Trung vào báo có
Lý Kế Anh đến xin ra mắt. Địch Thanh sực nhớ lại, than:
- Cha
chả! Bấy lâu nay bận việc nên rất vô tình.
Liền
khiến Trương Trung mời Kế Anh vào.
Dương
Nguyên soái trông thấy Lý Kế Anh đến hỏi:
- Kế Anh
là người nào vậy?
Địch
Thanh liền thuật hết chuyện Bàng Hồng muốn hại mình lúc trước, nhờ Lý Kế Anh
giải cứu, và xin với Dương Nguyên soái cho Lý Kế Anh làm chức Tổng quản ở Ngũ
Vân trấn.
Dương
Nguyên soái nhận lời liền sai Lý Kế Anh ra Ngũ Vân trấn giữ chức ấy.
Nhắc lại
Phi Sơn Hổ là Lưu Khánh từ khi nghe lời Trương Văn về dắt gia quyến ra khỏi
Đồng Quan mà gởi vào chùa, rồi đến ra mắt Mã Ứng Long báo lại mọi việc không
làm tròn trách nhiệm hãm hại Địch Thanh do Mã ứng Long sai khiến.
Mã ứng
Long liền quở:
- Bàng
Thái sư có lòng muốn hại Địch Thanh cho nên khiến ta với ngươi hiệp sức mưu
tính, té ra ngươi làm không thành công hay là ngươi có tình ý gì với Địch Thanh
chăng?
Lưu
Khánh thưa:
- Tôi
cũng muốn làm cho xong việc, song trên đầu Địch Thanh có cái gì như một Luồng
ánh sáng phản chiếu, làm cho đao kiếm không chém được. Vậy để tôi xin đến Tam
Quan tìm cách hạ sát cho xong.
Mã ứng
Long nói:
- Nay
Địch Thanh đi đến Tam Quan đã lâu rồi, ngươi còn làm cách gì mà giết được.
Lưu
Khánh nói:
- Không
hề chi, tôi đi lần này làm sao cũng lấy đầu Địch Thanh cho được thì mới hả dạ.
Mã ưng
Long nói:
- Nếu
vậy thì phải đi cho mau.
Lưu
Khánh nói:
- Xong
việc tôi sẽ về báo lại.
Nói rồi
Lưu Khánh ra đi.
Lúc này
Trương Văn đang bàn luận với Mạnh thị lo lắng về việc Địch Thanh đến Tam Quan
không biết may rủi ra sao xảy thấy một vị sai quan của Dương Nguyên soái đến ra
mắt.
Trương
Văn kinh ngạc, chưa hiểu chuyện gì thì viên sai quan vào nói:
- Tôi là
Mạnh Đình Quốc ở tại Tam Quan, nay vâng lệnh Dương Nguyên soái triệu ngài ra
làm chức Thủ Bị nơi Ngũ Vân trấn.
Nói rồi
đưa ra tờ biểu văn. Trương Văn xem xong mừng rỡ, liền dọn tiệc đãi đằng Mạnh
Định Quốc. Trong lúc ăn uống Mạnh Đình Quốc thuật hết mọi việc từ lúc Địch
Thanh ra đến Tam Quan cho đến nay cho Trương Văn nghe.
Mãn
tiệc, Mạnh Đình Quốc từ giã trở về Tam Quan. Còn Trương Văn thì vào hậu đường
thuật hết chuyện của Địch Thanh cho mẹ vợ và vợ nghe. Mạnh thị mừng rỡ hối
Trương Văn sắm sửa lên đường.
Xảy có
Lưu Khánh đến nói:
- Tôi đã
gởi gia quyến tôi trong chùa rồi, vậy nên đến đây xin nhơn huynh trả Tịch vân
phách lại cho tôi đặng tôi ra
Tam Quan
mà theo Địch Khâm sai.
Trương
Văn nói:
- Như
vậy mới đúng là người quân tử chớ.
Lưu
Khánh nói:
- Làm
trai phải trọng chữ tín mới được.
Trương Văn
nhân đó thuật lại sự việc của Địch Thanh cho Lưu Khánh nghe.
Lưu
Khánh nói:
- Vậy
thì nhơn huynh trả Tịch vân phách cho tôi để tôi đi ra Tam Quan kiến công lập
nghiệp.
Trương
Văn nói:
- Nếu
nhơn huynh muốn lập công thì ở đây cũng có cơ hội cần gì phải đến Tam Quan.
Lưu
Khánh nói:
- Ở đây
có việc gì mà có thể lập công được.
Trương
Văn nói:
- Vậy
chớ nhơn huynh quên phe đảng bọn gian thần rồi sao?
Lưu
Khánh nghe nói trực nhớ lại sự việc Mã Ứng Long cấu kết với Bàng Hồng mưu hại
Địch Thanh thì lấy Tịch vân Phách rồi từ giã Trương Văn trở lại Đồng Quang đáp
xuống thấy bốn phía vắng tanh, quân sĩ ngủ hết thì nghĩ thầm:
- Bây
giờ chắc Mã Ứng Long đã ngủ rồi,vậy vào kêu nó ra mà cho nó một đao thì rồi
đời.
Nghĩ
vậy, Lưu Khánh bước vào kêu lớn:
- Mã Ứng
Long! Ta là Tốc bảo thần ở cõi trên, Thượng đế sai ta xuống đây, vậy ngươi hãy
ra đây mà tiếp chỉ.
Lúc ấy
Mã Ứng Long đang ăn tiệc cũng đã say rồi, nghe kêu lật đật bước ra sân xem thử.
Vừa ra đến nơi nghe Lưu Khánh nạt lớn:
- Ngươi
ăn lộc vua sao không lo giúp nước lại cấu kết bọn nịnh thần mà mưu hãm hại kẻ
trung lương. Nay ta vâng lệnh Ngọc đế xuống đây mà trị tội ngươi.
Mã Ứng
Long nghe Lưu Khánh nói thì quỳ lạy thưa:
- Xin
tôn thần dung mạng.
Nói vừa
dứt lời đã bị Lưu Khánh chém lấy thủ cấp rồi đằng vân bay đi mất.
Giết Mã
ứng Long xong, Lưu Khánh trở về báo cho Trương Văn hay, trong lúc đó Trương Văn
và gia quyến đề huề lên đường đi trấn nhậm Ngũ Vân trấn.
Hôm sau,
Lưu Khánh thẳng đến Tam Quan ra mắt Địch Thanh thuật lại việc giết Mã ứng Long.
Địch Thanh nói:
- Tuy nó
là bè đảng gian nịnh, nhưng làm như vậy không đúng luật triều đình.
Nói rồi
liền dắt Lưu Khánh vào ra mắt Dương Nguyên soái thuật lại mọi việc. Dương
Nguyên soái khen:
- Làm
như Lưu Khánh mới gọi là kẻ trung liệt.
Nói rồi
phong Lưu Khánh làm phó tướng.
Từ ấy
Dương Nguyên soái truyền chế ra bốn cây cờ. Mà cây cho Địch Thanh thì đề XUẤT
SƠN HỔ, một cây cho Trương Trung thì đề BẮC SƠN Hổ; một cây cho Lý Nghĩa thì đề
LY SƠN HỔ; một cây cho Lưu Khánh thì đề PHI SƠN HỔ. (đến sau có Thạch Ngọc tới
Tam Quan thì Dương Nguyên soái cũng cho Thạch Ngọc một cây cờ đề là TIỂU DIỆN
HỔ. Ấy là đủ NGŨ HỔ )
Lời bàn
Trong
đời người ai cũng có ân oán. Nhưng kẻ quân tử bao giờ ân oán cũng phân minh.
Địch
Thanh lúc hàn vi, hoạn nạn được kẻ thương tình giúp đỡ, đến lúc hiển vinh nhớ
ơn từng người để báo ơn, thì đó là hành động của kẻ quân tử.
Trong
cuộc sống hiện tại, nhiều người đã quên ơn những kẻ đã giúp mình trong lúc khó
khăn hoạn nạn. Họ chỉ biết có hưởng thụ mà không biết việc đền ơn. Bởi vậy, con
người phải luôn luôn kiểm điểm lại thân mình, kiểm điểm lại dĩ vãng để nhớ lại
quá khứ. Quá khứ là đường lối xây dựng tương lai, kẻ nào quên quá khứ của mình
là kẻ vong ân, bội nghĩa, mà cũng là kẻ không hiểu rõ con người của mình trong
cuộc đời.
Đã không
hiểu rõ bản thân mình, không hiểu rõ cuộc đời của mình thì làm sao gọi là kẻ
hiền nhân quân tử được.
HỒI THỨ HAI MƯƠI BẢY - HIỀN ĐỨC PHU NHÂN LÒNG
NGAY THẲNG.
Bấy giờ
Địch Thanh hay tin Trương Văn đưa mẹ mình đến Ngũ Vân trấn rồi liền sắm sửa đến
thăm viếng.
Cuộc gặp
gỡ rất vui vẻ. Mẹ con, chị em đoàn tụ với những mở tiệc vui vầy, chuyện trò
không ngớt.
Còn vợ
Lý Thành là Trầm thị lập tâm quyết về Biện Lương tìm cách báo thù cho chồng con
mình. Khi đến nơi vào ra mắt anh mình là Quốc Thanh, khóc lóc kể hết sự việc.
Quốc
Thanh nghe xong suy tính một lúc rồi nói với Trầm thị:
- Em ơi!
Ấy là tại chồng em muốn mạo công, cho nên phải bỏ mạng, bây giờ biết mưu chi mà
trả thù cho được.
Trầm thị
nói:
- Đại ca
ơi! Tuy chồng em làm như vậy nhưng cũng chưa đến nỗi phải xử tử. Đây là Địch
Thanh cậy thế Dương Nguyên soái mà xử oan. Còn Địch Thanh mang tội làm mất
chinh y thì Dương Tôn Bảo lại bỏ qua, có phải là bất công hay không?.
Trầm
Quốc Thanh hỏi:
- Việc
Địch Thanh làm mất chinh y thế nào em kể lại cho anh nghe.
Trầm thị
liền thuật hết mọi việc. Trầm Quốc Thanh nói:
- Vậy
thì em phải chờ anh đến bàn tính với Bàng Thái sư mà toan liệu mới được. Song
Bàng Thái sư có tính hay ăn hối lộ, nếu em muốn trả thù chồng thì phải lo lót
mới được.
Trầm thị
nói:
- Xin
đại ca chớ lo, miễn là trả được thù chồng dù phải tốn hao bao nhiêu em cũng
chịu.
Trầm
Quốc Thanh nói:
Vậy thì
để anh qua đó lo liệu xem sao.
Nói rồi
liền khiến gia đinh dọn tiệc rồi đi qua dinh Bàng Hồng ra mắt. Bàng Hồng hay
tin liền rước vào trà nước.
Trầm
Quốc Thanh liền thuật hết mọi việc em mình cho Bàng Hồng nghe.
Bàng
Hồng nghĩ thầm:
"Lâu
nay ta có ý hại Địch Thanh, song chưa có dịp may, nay nhân cơ hội này thì cũng
dễ hại nó, lại cũng có cớ mà hại Dương Tôn Bảo nữa".
Nghĩ như
vậy nên Bàng Hồng nói với Trầm Quốc Thanh:
- Việc
này thật khó làm vì Dương Tôn Bảo là người ở trong Thiên Ba phủ, lại là Nguyên
soái trấn Tam Quan binh quyền rất mạnh, ta e hại nó không được mà còn mang họa
vào thân.
Trầm thị
nói:
- Như
vậy đại ca đành chịu thua sao?
Trầm
Quốc Thanh nói:
- Duy
chỉ có cách này thì mới tiện. Phải có một người có gan dạ, liều mạng nhào vô
trước sân triều kêu oan thì ta mới có thể can thiệp được.
Trầm thị
hỏi:
- Phải
kêu oan như thế nào?
Trầm
Quốc Thanh nói:
- Cứ kêu
oan là Dương Tôn Bảo vì bênh vực Địch Thanh và Tiêu Đình Quý mà giết oan Lý
Thành và Lý Đại là chồng con tôi. Tuy vậy tờ cáo trạng ta không làm nổi, phải
nhờ đến
Bàng
Thái sư thì mới được.
Trầm thị
vâng lời xin làm theo y kế.
Trầm
Quốc Thanh liền sang dinh Bàng Hồng nhờ vả.
Bàng
Hồng cười rằng:
- Ta làm
quan đại thần, chỉ lo việc quốc gia đại sự hơi đâu mà xen vào chuyện cá nhân.
Trầm
Quốc Thanh biết ý Bàng Hồng muốn đòi vàng bạc bèn sai quân tùy tùng lấy quả
vàng bạc mà dâng cho Bàng Hồng.
Bàng
Hồng thấy lễ vật mừng rỡ nói:
- Ta
không phải là có ý đòi hỏi gì, song chỉ sợ lưu lại những khó khăn về sau. Nay
túc hạ đã hết lời thỉnh cầu thì ta cũng phải gắng sức giúp cho.
Quốc
Thanh mừng rỡ liền từ tạ trở về thuật lại mọi việc cho Trầm thị hay.
Trầm thị
suốt đêm rầu rĩ, lo lắng không ngủ được. Quốc Thanh thấy thế hỏi:
- Sao
chừng này mà phu nhân chưa an giấc?
Trầm thị
nói:
- Mấy
hôm nay phu nhân của đại ca có ý không bằng lòng tôi đến đây nương nhờ đại ca
nên tôi buồn lắm.
Trầm
Quốc Thanh nghe nói biết ý vợ mình không bằng lòng cho em mình vì chồng con mà
trả thù Dương Tôn Bảo nhưng tình anh em không biết nói sao, đành làm thinh than
thở.
Tối hôm
đó Quốc Thanh nói chuyện với vợ là Y thị:.
- Thánh
thượng sai Dương Tôn Bảo ra trấn Tam Quan tốn kém rất nhiều, vậy mà Tôn Bảo lại
hành khắc quân gia, mỗi việc đều xử chém, làm cho quân sĩ thán oán. Còn em ta
bị giết mất chồng con, không lẽ an tâm mà chịu.
Y thị
nghe chồng nói thì hỏi lại:
- Vậy
chớ Tướng công tính kế chi mà rửa cái hận ấy?
Trầm
Quốc Thanh nói:
- Việc
ấy ta đã thương nghị với Bàng Thái sư rồi, ngài cung chịu giúp, song phải tốn
một muôn lượng bạc mới được.
Nay Thái
sư đã làm xong tờ cáo trạng để mai em ta vào giữa triều mà kêu oan chuyện ấy.
Y thị
nói:
- Nếu
làm như vậy chẳng là quấy làm sao. Vả Dương Tôn Bảo là một người tôi lương đống
của triều đình, tính nết lại ngay thẳng, còn Lý Thủ Bị là một người hèn hạ,
không liên can gì. Nay Tướng công vì tình riêng, muốn trả thù cho một người hèn
hạ, toan hại trung thần, thì chẳng phải là bất trung với triều đình hay sao.
Tôi e làm không xong việc mà mang hại vào thân.
Trầm Quốc
Thanh nói:
- Bổn
phận đàn bà thì biết theo phận đàn bà chớ có xen vào việc lớn trong thiên hạ.
Y thị
thấy chồng nói như vậy thì làm thinh, vào phòng mà an giấc.
Còn Bàng
Hồng từ khi nhận lãnh một muôn lượng bạc của Trầm Quốc Thanh thì trong lòng cảm
khoái, liền dặn bọn quân canh." Mai đây có người đàn bà nào cầm cáo trạng
vào triều kêu oan thì đừng cản trở".
Huỳnh
môn quan thưa:
- Đã có
lời Thái sư dạy bảo, chúng tôi đâu dám làm sai.
Ngày hôm
sau vua tâm trào, Huỳnh môn quan vào tâu:
Nay có
một người đàn bà xưng là Trầm thị muốn vào dâng cáo trạng kêu oan.
Vua nghe
tâu liền phán:
- Người
đó kêu oan cho ai vậy?
Huỳnh
môn quan tâu:
- Người
ấy tố cáo Dương Nguyên soái
Vua
phán:
- Dương
Tôn Bảo là người chánh trực, coi việc binh cơ có can dự gì đến việc dân sự mà
liên can đến đàn bà?
Bàng
Hồng nghe vua phán như vậy liền quỳ tâu:
- Theo ý
tôi tưởng, nếu không có oan lớn thì đàn bà đâu dám đến giữa triều mà tố cáo.
Thế khi Dương Tôn Bảo đã ỷ quyền mà giết oan tướng sĩ chi đây, cho đến nỗi đàn
bà mới
phải
liều mình đến giữa triều kêu oan. Xin Bệ hạ cho vào đây xem thử sự việc ra sao.
Vua nói:
- Trẫm
biết Dương Tôn Bảo là một người trung trực không lẽ ỷ quyền mà áp bức người
ngay, chắc là có ai ganh ghét.
Bàng
Hồng tâu:.
- Xưa
nay đàn bà ai cũng nhút nhát, nay có người dám liều lĩnh như vậy thì chắc có
việc quan trọng, xin Bệ hạ chớ bỏ qua.
Vua nghe
Bàng Hồng nói lắm nên cũng vị tình nhận lời.
Lời bàn.
Thường
tình trong xã hội, khi một nước đang hưng thịnh thì tôi thần chung sức nhau lo
việc xây dựng non sông làm cho dân giàu nước mạnh, còn một nước có hiện tượng
suy yếu thì tôi thần chống đối nhau, chỉ tranh giành quyền lợi để hưởng thụ.
Một
triều chính mà gian thần có thế lực thì thế lực ấy trước tiên cấu tạo bằng chức
vị, sau đó mới dựa vào quyền hành mà tiêu diệt lẫn nhau.
Một ông
vua gọi là minh quân khi chấp chánh phải luôn luôn đề phòng sự phát sinh của
tình trạng ấy.
Vua nước
Tống sở dĩ thiếu minh mẫn bắt nguồn từ sự thiên vị Thái sư Bàng Hồng, mà Bàng
Hồng sở dĩ có thế lực trong triều là nhờ ở Bàng Quý phi là một người có sắc đẹp
lại được vua nuông chiều.
Thế lực
của đàn bà khi đã xâm nhập vào cung vua thì trở thành một sức mạnh không thể
xem thường được.Sức mạnh đàn bà dựa vào sắc đẹp, mà sắc đẹp lại dựa vào những
kẻ có quyền lực ham mê đó. Kẻ có quyền lực đã ham mê sắc đẹp thì sắc đẹp trở
thành vũ khí khống chế mọi lúc, mọi nơi, làm cho kẻ có quyền lực không còn minh
mẫn, không còn đủ sức mạnh để tự chủ lấy mình nữa.
Lời xưa
nói:
“ Một
mai nghiêng nước nghiêng thành.
Sắc đành
đòi một tài đành đòi hai".
HỒI THỨ HAI MƯƠI TÁM - PHONG KHO TÀNG, LẤY KẾ
LÀM KẾ.
Bấy giờ
vua nghe Bàng Hồng tâu trình thì cũng vị nể sai quan Huỳnh môn ra đòi Trầm thị
vào ra mắt.
Trầm thị
vào dâng sớ, cáo tội Dương Tôn Bảo đã vị nể Địch Thanh, không bắt tội làm mất
chinh y, lại còn cướp công của cha con Lý Thành rồi đem xử trảm.
Vua xem
xong tờ cáo trạng nghĩ thầm:
- Dương
Tôn Bảo là người chánh trực lâu nay, lẽ đâu lạ làm việc ấy. Nếu Địch Thanh làm
mất chinh y thì trị tội Địch Thanh sao lại âm mưu với Tiêu Đình Quý mà đoạt
công trận của cha con Lý Thành. Chuyện này phải chờ điều tra cho ra rồi mới
quyết định được.
Nói rồi
hạ chỉ đem Trầm thị giam tại Nam lao, chờ tra xét rõ rồi mới phân xử.
Còn Trầm
thị tuy vua phán như vậy, song có Bàng Hồng ỷ thế đến nói với quân giữ ngục
lãnh Trầm thị đem về dinh Trầm Quốc Thanh. Nhưng Trầm Quốc Thanh thấy vợ mình
không thuận với Trầm thị nên đem Trầm thị gởi vào chùa cho trú ngụ chờ xong
việc rồi sẽ liệu.
Hôm sau,
Vua lâm trào, có quan Huỳnh môn vào tâu:
- Nay
Dương Nguyên soái sai người về triều dâng biểu mà còn chờ đợi ngoài ngọ môn.
Vua nghe
tâu vội cho đòi vào. Sai nhân của Dương Tôn Bảo vào dâng tờ biểu cho vua xem.
Vua thấy trong tờ biểu ấy nói Địch Thanh đã đem chinh y đến Tam Quan rồi, lại
trừ được năm viên đại tướng của nước Tây Hạ, dẹp hết mười mấy muôn binh, cho
nên giặc ấy đã yên rồi. Còn sau thì có nói về việc tiến cử Địch Thanh làm
Nguyên soái mà thay quyền cho mình.
Vua xem
xong rất mừng nói với Bàng Hồng:
- Bàng
Thái sư hãy xem kỹ lời biểu của Dương Nguyên soái đó.
Bàng
Hồng xem xong thất kinh nghĩ thầm:
- Nếu
vậy Địch Thanh đã lập được công lớn, mà Dương Tôn Bảo lại nhường chức Nguyên
soái nữa thì kẻ thù của ta rất mạnh. Nếu vậy mạng ta ắt không còn.
Nghĩ như
vậy liền quỳ xuống tâu:
- Theo
lời cáo trạng của Trầm thị thì Địch Thanh đã làm mất chinh y và mạo công mà
giết cha con Lý Thành để thoát tội, còn Dương Tôn Bảo lại nói Địch Thanh nạp đủ
số chinh y, lại giết được ba viên tướng giặc. Theo ý tôi nghĩ chắc là Dương Tôn
Bảo đồng tình gian dối mà ẩn việc này chớ chẳng không.
Vua nghe
tâu nghĩ thầm:
- Có lý
nào Lý Thành vô tội mà Dương Nguyên soái lại giết oan. Chuyện xảy ra ngoài biên
ải khó mà tin được.
Trong
lúc vua còn đang suy tính thì có quan Phụ Bậc quỳ tâu:
- Tôi
tưởng không lẽ Lý Thành hữu công vô tội mà Dương Nguyên soái đem giết đi. Như
vậy trong việc này có bàn tay của kẻ gian thần nhúng vào để sanh chuyện. Nếu Bệ
hạ muốn rõ ngay gian xin cho Bao Thị Chế ra tận nơi điều tra thì phân biệt chân
giả.
Vua nghe
tâu nghĩ thầm:
"Lời
nói ấy rất phải, song việc này e có bàn tay Thái sư làm chủ sứ, nếu giao cho
Bao Thị chế ra đó điều tra ắt Bàng Thái sư cũng bị tội liên can, đến chừng ấy
Trẫm vị tình mà không làm tội thì mất lẽ công bình, còn làm tội thì thế nào
cũng mất lòng Bàng Quý phi".
Trong
lúc vua đang suy nghĩ thì Bàng Hồng lại quỳ tâu:
- Việc
này xin Bệ hạ giáng chỉ sai sứ ra Tam Quan bắt Dương Tôn Bảo, Địch Thanh và
Tiêu Đình Quý về trào mà tra xét thì mới rõ ngay gian.
Hàng Kỳ
thấy Bàng Hồng tâu như vậy thì lật đật can vua:
- Xin Bệ
hạ chớ nghe lời ấy. Tam Quan là một nơi trọng địa, lại việc chinh chiến với Tây
Hạ cũng chưa yên, nếu Bệ hạ đòi hai người ấy về, tôi e giặc đến thình lình,
không có ai điều binh khiển tướng.
Vua nghe
nói liền phán:
- Lời
của Trầm thị cáo buộc Dương Tôn Bảo, Địch Thanh và Tiêu Đình Quý không có gì làm
bằng cớ. Thôi đi trẫm sai một đại thần ra Tam Quan mà tra xét việc ấy cho rõ
ràng.
Nói rồi
bèn sai quan Thị Lang là Tôn Võ ra Tam Quan tra xét. Tôn Võ tuân lệnh lui ra.
Bàng
Hồng thấy vua sai Tôn Võ đi thì có ý mừng, nghĩ thầm:
- Tưởng
sai ai chứ sai Tôn Võ thì lại càng dễ cho ta nữa.
Còn các
quan trung thần như Phú Bậc, Hàng Kỳ, Văn Ngạn Bác đều nghĩ thầm:
- Nay
Thánh thượng muốn lấy lẽ công bằng sai người ra tra xét mà lại sai Tôn Võ cũng
là phe đảng gian thần, chắc là Bàng Hồng còn âm mưu lập kế chớ chẳng không. Tuy
vậy mà Dương Tôn Bảo là người công bình chánh trực, lại có công rất dày với
triều đình, chắc là bọn gian thần không làm chi nổi mà sợ.
Bàn tính
xong, ai về dinh nấy mà chờ đợi tin tức.
Còn Bàng
Hồng về đến dinh mình ngồi lẩm bẩm:
- Nay
hôn quân lại sai người ra Tam Quan mà tra xét việc ấy, tưởng là ai chớ như Tôn
Võ là anh em chú bác với Tôn Tú thì cũng là người tâm phúc cả ta. Thôi, để ta
sai quân mời Tôn Võ đến đây đặng dặn dò ít lời xem thứ có hại nổi Dương Tôn Bảo
hay không.
Nghĩ như
vậy tiền hối quân mở tiệc rồi sai người đi đòi Tôn Võ đến.
Tôn Võ
vâng lời đến dinh Bàng Hồng hội kiến. Bàng Hồng nói:
- Nay
tôi thấy Thánh thượng sai quan Thị Lang ra Tam Quan thì đường sá xa xôi, cho
nên dọn tiệc tiễn đưa thị Lang lên đường hai là dặn dò Thị Lang một việc.
Tôn Võ
hỏi:
- Chẳng
hay Thừa tướng có việc chi?
Bàng
Hồng nói:
- Vả
Địch Thanh với tôi không có thù hiềm chi, nhưng có thù nặng với Tôn Tú và Hồ
Khôn, chuyện này chắc ngài cũng biết chớ?
Tôn Võ
nói:
- Việc
ấy tôi vẫn biết đã lâu.
Bàng
Hồng nói:
- Vì
việc ấy mà bấy lâu nay tôi muốn hại nó, nhưng đã hại không được mà lại làm cho
nó thêm quyền cao chức trọng. Còn Dương Tôn Bảo làm Nguyên soái nơi Tam Quan đã
hai mươi mấy năm trời thì tự tôn tự đại, không kể đến ai, chẳng có một lễ vật
chi đem về cho ta hết. Nay Thánh thượng sai ngài ra Tam Quan thì việc ấy chẳng
cần phải tôi dặn, cứ theo mấy lời tôi nói đó mà tùy cơ ứng biến, làm sao cho
vừa lòng tôi thì làm.
Tôn Võ
nghe nói liền thưa:
- Xin
Thừa tướng chớ lo. Việc ấy để mặc tôi toan liệu.
Bàng Hồng
lại dặn ràng:
- Khi ra
đến nơi thì làm y như vầy...
Tôn Võ
vâng dạ một lúc rồi ra về.
Khi đi
ngang qua dinh Tôn Tú, Tôn Võ ghé vào mà tỏ. hết việc của Bàng Hồng căn dặn.
Tôn Tú mừng rỡ nói:
- Nếu
hiền đệ hết lòng giúp việc ấy thì ta cũng tìm cách đền ơn cho.
Tôn Võ
nói:
- Việc
anh em trong nhà giúp nhau cần gì phải đền ơn.
Lúc ấy
lại có Hồ Khôn đến dặn dò Tôn Võ về việc hại cho được Địch Thanh mà trả thù cho
con mình. Tôn Võ cũng vâng lời. rồi từ giã về dinh, sắm sửa mà đi Tam Quan.
Bấy giờ
viên sai quan của Dương Tôn Bảo đem sớ về dâng lên triều đình xong lại trao
riêng cho Bao Công một phong thơ của Dương Tôn Bảo, song Bao Công mắc đi chẩn
bần ở Trần Châu chưa về nên phải đi phong thơ cho Hàng Kỳ giữ. Hàng Kỳ mở thơ
ra xem thấy nói Địch Thanh lập được công lớn, bèn dọn tiệc thết đãi các quan,
rồi lại viết một phong thơ gởi ra Tam Quan cho Dương Thanh, kể hết các việc của
Bàng Hồng tại triều đình, bày Trầm thị vào giữa triều đình kiện Dương Nguyên
soái và Địch Khâm sai, rồi đến việc sai Tôn Võ ra Tam Quan kiểm tra kho tàng.
Còn Nam
Thanh cung Dịch Thái Hậu cũng tiếp được thơ của Địch Thanh thì mẹ con đều có
lòng mừng. Song Lộ Huê vương đi chầu không thường xuyên nên chưa hay việc triều
đình sai Tôn Võ ra Tam Quan tra xét việc ấy.
Bấy giờ
Dương Nguyên soái từ ngày thấy Địch Thanh dẹp được giặc Tây Hạ, giết được năm
tướng thì có lòng kính trọng lắm.
Một hôm
có sai quan trở về thuật hết các việc trong triều sai Tôn Võ ra kiểm tra cho
Dương Tôn Bảo nghe, rồi lại trao thơ của Hàng Kỳ cho Dương Thanh xem.
Dương
Thanh xem thơ ấy rồi mỉm cười nói:
- Bàng
tặc thật làm gian kế, cứ mong lòng hãm hại kẻ trung thần.
Liền đem
sự việc kể lại cho Dương Nguyên soái nghe.
Dương
Nguyên soái nói:
- Việc
ấy có mặt Địch Khâm sai ở đây ta có sợ gì? Còn việc kho tàng thì mấy năm nay
không hề có sơ suất, dẫu gian thần có tra xét ta cũng không lo.
Phạm
Trọng Yếm nói:
- Tuy
vậy mặc dầu, dong Tôn Võ là anh em với Tôn Tú, cũng là phe phản thần, tôi e nó
kiếm cớ mà vu khống, chi bằng chúng ta tìm cách mà hại nó trước thì hơn.
Dương
Tôn Bảo nói:
- Như
vậy ngài có kế chi chăng?
Phạm
Trọng Yếm nói:
- Việc
ấy không khó gì. Nguyên soái cứ niêm phong các kho lại không cho kiểm tra. Tôi
tưởng Tôn Võ là đứa tham lam của hối lộ. Ta giả vờ lo lót cho nó thật nhiều.
Chờ khi nó về rồi ta sẽ cho người đón đường mà bắt nó, giật số bạc ấy làm bằng,
rồi làm biểu chương hài tội nó đồng thời tâu hết việc Lý Thành mạo công. Làm
như vậy ắt Bàng Hồng bị tội liên can.
Dương
Tôn Bảo nói:
- Mưu ấy
rất hay, song e Tôn Võ không dám nhận của hối lộ thì biết làm sao?
Phạm
Trọng Yêm nói:
- Việc
ấy Nguyên soái cứ để mặc tôi. Hễ là bọn gian tham thì ham mê của hối lộ, tránh
sao cho khỏi.
Bàn tính
xong, khiến quân dọn tiệc ăn uống, đợi Tôn Võ đến.
Hôm sau,
Dương Tôn Bảo truyền quân niêm phong hết các kho tàng để lập kế hại Tôn Võ.
Còn Tôn
Võ từ ngày rời Biện Lương rồi thì Châu nào, Quận nào cũng đều có các quan địa
phương nghênh tiếp, định của hối lộ, nên đến trễ ngày giờ. Hơn 20 mươi ngày mới
đến Tam Quan vào ra mắt Dương Tôn Bảo.
Dương
Tôn Bảo xem xong chiếu chỉ liền nói với Tôn Võ:
- Bổn
soái trấn thủ nơi đây đã hơn hai mươi năm mà Thánh thượng không sai người đến
tra xét, tôi tưởng lúc nào có Bàng Quốc trượng sàm tấu điều chi, cho nên mới có
việc tra xét như vậy.
Tôn Võ
cười nói:
- Nguyên
soái nói nghe cũng lạ. Vả chăng việc tra xét là ý kiến của triều đình lo vì
việc kho tàng trống rỗng, nên mới sai tôi đi xem xét cho minh bạch, nào có phải
Bàng Thái sư sanh sự đâu.
Dương
Tôn Bảo nói:
- Ấy là
lời tôi nói chơi chớ tôi cũng biết là ý chỉ của triều đình. Song tôi xin hỏi ngài
một điều là tờ biểu của tôi gởi về triều tiến cử Địch vương thân làm nguyên
soái thế cho tôi sao không thấy triều đình phê phán lẽ nào, lại khiến ngài ra
đây tra xét.
Tôn Võ
nói:
- Khi
Thánh thượng xem biểu ấy không thấy nói đến việc tiến cử nên tôi không biết.
Dương
Tôn Bảo nói:
- Quả
ngài không rõ việc ấy sao?
Tôn Võ
nói:
- Thật
tình tôi không hay biết.
Dương
Tôn Bảo liền khiến quân bày tiệc thết đãi Tôn Võ. Mãn tiệc thì trời đã vừa tối,
nên không nói đến chuyện xét kho tàng.
Rạng
ngày Tôn Võ đi khắp các nơi trong thành mà tra hỏi về việc mất chinh y, nhưng
trong quân lính ai cũng không chịu nói có mất chinh y gì cả. Tôn Võ lại hỏi đến
việc cha con Lý Thành mạo công nên bị xử tử thì nhân dân đều nói:
- Quả có
cha con Lý Thanh mạo công nên bị xừ tử.
Sau đó
Tôn Võ đi do thám các chỗ chứa kho tàng thì thấy nơi nơi đều niêm phong lại cả.
Tôn Võ
nghĩ thầm:
- Thế
khi Dương Tôn Bảo đã sài hết kho tàng nên mới sợ ta khám xét mà niêm phong như
vậy. Phải chi nó biết điều mà điều đình với ta thì có khó khăn gì!
Nghĩ như
vậy liền trở về phủ thì thấy Dương Tôn Bảo đã bày tiệc sẵn mà chờ Tôn Võ.
Trong
lúc ăn uống, Tôn Võ nói với Dương Tôn Bảo:
- Nay
tôi vâng thánh chỉ ra đây tra xét công khố, vì ý gì mà Nguyên soái lại niêm
phong các kho tàng như vậy?
Dương
Tôn Bảo nói:
- Tôi ra
trấn thủ Tam Quan đã hai mươi bảy năm chưa có năm nào mà Thành thượng sai người
tra xét. Còn việc xuất phát tiền lương trong ải thì năm nào cũng có thiếu nên
tôi lấy cái nọ đắp cái kia, việc sổ sách không thể ghi rõ ràng mà ngài đến
thình lình như vậy thì tôi tính sao cho kịp.
Tôn Võ
nghe nói nghĩ thầm:
- Như
vậy chứng tỏ kho tàng đang trống rỗng rồi.
Nghĩ như
vậy nên nói với Dương Tôn Bảo:
- Nếu
vậy là ngài muốn tôi không tra xét gì cả sao?
Dương
Tôn Bảo nói:
- Tra
xét hay không là tùy ý ngài. Nhưng tôi muốn nếu có gì không đúng xin ngài hãy
vị tình mà bỏ qua cho.
Tôn Võ
nói:.
- Nếu
Nguyên soái muốn tôi trở về triều mà che chở cho thì phải mua lòng Bàng Quốc
trượng mới được.
Dương
Tôn Bảo nói:
- Nếu
vậy ngài có cách nào nói cho Bàng Quốc trượng giúp đỡ không?
Tôn Võ
nói:
- Tánh
Bàng Quốc trượng tuy dễ mà khó, phải dùng vật thì mới xong.
Dương
Tôn Bảo nói:
- Vậy
thì xin ngài đem về dâng cho Quốc cựu hai muôn lượng, còn ngài một muôn lượng
được chăng?
Tôn Võ
nói:
- Phần
tôi thì Nguyên soái không cần gì lo, miễn Nguyên soái tính thêm cho Bàng Quốc
trượng cho xứng đáng là được.
Dương
Tôn Bảo nói:
- Cha
chả! Bấy nhiêu đó mà chưa đủ sao?
Tôn Võ
nói:
- Bàng
Quốc trượng hay trách móc Nguyên soái từ ngày trấn thủ đến nay gần ba mươi năm
rồi mà không hề có một lễ vật nào.
Dương
Tôn Bảo nói:
- Việc
ấy cũng đúng, nhưng tôi không có liên hệ được với ngài. Năm nay tôi ráng lo
thêm một muôn lượng nữa được chăng?
Tôn Võ
nói:
- Vả
Nguyên soái trấn thủ nơi đây cũng đã lâu, chỉ cần Nguyên soái nạp đủ bảy muôn
lượng thì tôi không tra xét và Bàng Quốc trượng cũng không tâu ra tâu vào làm
chi.
Dương
Tôn Bảo nghe nói cười đáp:
- Nói
như ngài cũng phải, song tôi là một quan võ nghèo, ở nơi biên cương, chạy làm
sao nổi bảy muôn lượng bạc? Thôi để tôi chịu cho Quốc trượng ba muôn, còn ngài
thì hai muôn, cộng tất cả là năm muôn.
Tôn Võ
nói:
- Nguyên
soái đã nói hết lời thì tôi cũng phải vị tình chớ biết làm sao.
Khi hai
người đang nói như vậy thì Tiêu Đình Quý rình bên ngoài nghe được nên nổi giận
nhảy vào thộp ngực Tôn Võ kẻo đùa xuống đất mắng lớn:
- Loài
súc sanh. Nguyên soái ta trấn thủ tại đây đã hai mươi mấy năm, chưa hề sài thâm
của kho, sao ngươi với Bàng Hồng lại muốn ăn hối lộ.
Nói rồi
đánh Tôn Võ một hồi, không khác gì quân sĩ đánh trống khi ra trận.
Tôn Võ
ra lớn:
- Loài
súc sanh! Ngươi dám đánh Khâm sai đại thần như vậy thật là bội phản.
Dương
Tôn Bảo thấy Tiêu Đình Quý làm hư mưu kế của mình, liền bước đến kéo Tiêu Đình
Quý ra, rồi khiến trách:
- Tiêu
Đình Quý! Ngươi không được vô lễ như vậy.
Lúc ấy
Tôn Võ ngồi dậy thở hào hển, quần áo rách hết nổi giận nói:
- Dương
Tôn Bảo dám xúi gia tướng đánh Khâm sai của triều đình như vậy thật không kiêng
phép nước.
Dương
Tôn Bảo bị Tiêu Đình Quý phá vỡ mưu kế nên phải quở Tiêu Đình Quý, rồi kêu võ
sĩ bắt Tiêu Đình Quý và Tôn Võ bỏ vào tù xa, thảo một đạo biểu chương, sai Trầm
Đạt giải Về kinh đô đặng cho Thánh thượng phân xử. Lại viết một phong thơ giao
cho Trầm Đạt đem về Thiên Ba phủ giao cho
Dư Thái
quân biết mọi việc.
Trầm Đạt
vâng lệnh ra đi.
Lời bàn.
Kẻ dua
nịnh bao giờ cũng tham lam và làm những hành động gian xảo. Đó cũng là lẽ đương
nhiên, vì bản chất của những kẻ ấy là mưu cầu quyền lợi cá nhân. Bởi vậy, máu
người trung nghĩa, không vì quyền lợi cá nhân thì không bao giờ biết dua nịnh,
nên việc lànm của họ hướng về đạo nghĩa làm người. Bàng Hồng, Tôn Tú sở dĩ là
kẻ gian thần thì bản chất lúc nào cũng tham lam, mưu hại những kẻ trung thần
chống lại họ. Trong một triều đình sở dĩ có phe phái trung nịnh là do ý thức
tranh đoạt quyền lợi để thụ hưởng.
Kẻ gian
nịnh tạo ra nhiều hình thức khó lường.
HỒI THỨ HAI MƯƠI CHÍN - DƯƠNG NGUYÊN SOÁI DÂNG
BIỂU HẠCH GIAN.
Trầm Đạt
vâng lệnh ra đi thì Dương Nguyên soái vào nội phủ nghĩ thầm:
- Kế
sách vừa rồi mà không dùng được là do Tiêu Đình Quý làm đổ vỡ mà thôi. Còn bọn
gian nịnh toan kế hãm hại ta chẳng lẽ triều đình không nghĩ đến công trạng của
những kẻ khai quốc công thần. Trong triều mà rối loạn như vậy thì ngoài ải khó
lòng yên ổn được. Từ nay về sau việc đại sự không nên dùng những quân mãng phu
như vậy nữa.
Bấy giờ
Trầm Đạt về đến kinh đô thì không vào hoàng thành vì nghĩ rằng nếu mình chưa
đến thông tin cho Dư Thái quân hay mà vào hoàng cung trước e bọn gian thần lập
quỉ kế gì chăng?
Nghĩ như
vậy, Trầm Đạt vào chùa Tướng Quốc gởi tù xa, khiến quân canh giữ rồi đến Thiên
Ba Phủ mà dâng thơ của Dương Tôn Bảo cho Dư Thái quân xem.
Dư Thái
quân xem thơ cười nói:
- Bàng
Hồng thật là tên gian xảo, bày đủ cơ mưu hãm hại trung thần. Tuy vậy mà hại con
ta sao nổi.
Nói rồi
liền khiến quân dọn tiệc mà thết đãi Trầm Đạt, rồi sai người đi dò la tin tức.
Còn Tiêu
Đình Quý ở trong chùa Tướng Quốc thì cứ chửi mắng gian tặc om sòm. Tôn Võ ý
muốn thông tin cho Bàng Hồng hay, ngặt vì kẻ tùy tùng mình đều bị Dương Tôn Bảo
cầm giữ tại Tam Quan, cho nên không còn ai sai khiến.
Ngày hôm
sau, Thiên tử lâm triều thì có Huỳnh quan vào tâu:
- Nay có
Dương Nguyên soái nơi Tam Quan sai phó tướng là Trầm Đạt về trào dâng biểu, bây
giờ còn đứng ngoài môn đợi lệnh.
Vua nghe
tâu nghĩ thầm:
- Trẫm
sai Tôn Võ ra Tam Quan tra xét công khố, Tôn Võ còn chưa về sao Dương Tôn Bảo
lại dâng biểu về là ý gì.
Nghĩ như
vậy liền khiến Huỳnh môn quan lấy biểu dâng để xem cho rõ sự tình.
Huỳnh
môn quan vâng lệnh tiếp lấy bổn chương vào dâng Thiên tử xem thấy bổn chương
mới rõ sự tình. Bàng Hồng ham của hối lộ, bảo Tôn Võ làm tiền.
Vua đưa
tờ biểu cho Bàng Hồng xem. Bàng Hồng xem xong thất kinh, nghĩ thầm:
- Ngỡ là
Tôn Võ có tài cán té ra nó là một thằng vô dụng. Nay sự việc đã ra đến trước
triều, ta biết liệu sao đây?
Nghĩ như
vậy, Bàng Hồng quỳ tâu:
- Xin Bệ
hạ xét lại cho tôi nhờ, vả tôi ra làm tôi triều đình cũng đã lâu năm, chưa có
điều chi sai trái, lẽ nào lại dám đòi ăn hối lộ của Dương Nguyên soái. Nay có
Tôn Võ đó xin Bệ hạ tra hỏi cho minh bạch kẻo Dương Nguyên
soái kết
oan cho tôi.
Vua nghe
tâu liền truyền chỉ đòi Tiêu Đình Quý kiến giá.
Sai quan
tuân lệnh dẫn Tiêu Đình Quý vào chầu. Tiêu Đình Quý xốc vào ngân loan điện
không chút e dè, cũng không triều bái tung hô, nói lớn:
- Nay
tôi vào ra mắt Hoàng đế.
Nói rồi
chỉ xá một cái mà thôi.
Vua
trông thấy bộ tịch tức cười và nghĩ thầm:
- Có lẽ
thằng này bị điên dại chi đây.
Quan Trị
điện thấy vậy nói với Tiêu Đình Quý:
- Sao
ngươi đến trước mặt Vua lại không quỳ?
Tiêu
Đình Quý nói:
- Muốn
tôi quỳ sao? Vậy thì tôi quỳ.
Nói rồi
liền quỳ xuống tâu:
- Tôi là
Tiêu Đình Quý xin quỳ xuống đây.
Vua
trông thấy nghĩ thầm:
- Tên
này khờ khạo như vậy ắt có tính ngay thẳng, thôi quả nhân hỏi thử vài lời xem
sao?
Nghĩ như
vậy, Vua hỏi:
- Vậy
chớ Địch Thanh giải chinh y đến Tam Quan có bị mất hay không?
Tiêu
Đình Quý tâu:
- Giải
chinh y thì cũng có giải đến thiệt, song vì Địch Thanh không cẩn thận nên bị
cường đạo lấy mất hết rồi.
Bàng
Hồng thấy Tiêu Đình Quý nói như vậy thì mừng thầm:
- May dữ
a! Thằng mãng phu này khai đúng ý muốn của ta thật không gì may hơn.
Vua lại
hỏi Tiêu Đình Quý:
- Chinh
y mất hết hay chỉ mất chút ít mà thôi?
Tiêu
Đình Quý tâu:
- Ôi
thôi! Cường đạo nó giật ráo không chừa lại cái nào.
Bàng
Hồng nghe Tiêu Đình Quý tâu như vậy thì sợ Vua hỏi dần dần đến việc mạo công
của ký Thành nên quỳ tâu:
- Vả
Tiêu Đình Quý là bộ hạ của Dương Tôn Bảo, nay đã khai ngay việc mất chinh y, mà
việc ấy đã có thì mọi việc khác đều có. Chắc là Địch Thanh cũng có mạo công mà
trừ tội Còn Dương Tôn Bảo cũng giết oan kẻ có công, đến như việc Tôn Võ đòi
tiền hối lộ cũng chỉ là chuyện bịa đặt. Sự việc đã rõ ràng xin Bệ hạ chớ hỏi
làm chi nữa cho nhọc sức.
Vua
nói:.
- Việc
này còn nhiều tình tiết, vậy Trẫm giao cho một vị công thần để tra xét cho rõ
ràng rồi trình lại.
Bàng
Hồng tâu:
- Vậy
thì Bệ hạ giao việc này cho quan Đại Ngự Trầm Quốc Thanh tra hỏi.
Vua nhậm
lời. Trầm Quốc Thanh liền lãnh chỉ, khiến quân dẫn Tiêu Đình Quý về định mình
đặng mà tra xét.
Tiêu
Đình Quý liền chỉ mặt Bàng Hồng mắng nhiếc làm cho quân hầu sợ hãi lôi Tiêu
Đình Quý ra ngoài ngọ môn, rồi bỏ vào tù xa mà dẫn đến dinh Trầm Quốc Thanh.
Bàng
Hồng lại tâu rằng:
- Xin Bệ
hạ bắt giam Trầm Đạt lại để tra xét việc xong sẽ cho về.
Vua hỏi:
- Ấy là
ý gì vậy?
Bàng
Hồng tâu:
- Nếu để
cho Trầm Đạt về Tam Quan thông tin cho Dương Tôn Bảo hay, tôi e sanh lòng biến
loạn đi chăng. Bệ hạ giam lại chờ ngày xét xử sẽ cho về.
Vua nghe
theo ra lệnh giam Trầm Đạt nơi Thiên lao.
Lúc này
các trung thần thấy Bàng Hồng tâu gì vua cũng nghe nên đem dạ bất bình, song
liệu bề can gián không được nên phải nín thinh ôm hận.
Còn Bàng
Hồng và Tôn Tú sau khi bãi chầu thì khiến người mở tù xa thả Tôn Võ ra, rồi dắt
đến dinh Bàng Hồng cùng nhau đàm đạo.
Trong
lúc đang nói chuyện thì có Trầm ngự sử đến ra mắt và Bàng Hồng và hỏi:
- Nay
tôi đến đây hỏi ý kiến Thái sư về việc tra xét Đình Quý cách nào?
Bàng
Hồng nói:
- Việc
ấy có khó gì đâu, ngài cứ mang Tiêu Đình Quý ra tra khảo, ép nó phải cung khai
rằng công lao của Lý Thành bị Địch Thanh mạo, còn việc mất chinh y thì không
còn lo gì nữa vì Tiêu Đình Quý đã khai trước mặt Thiên tử
rồi. Còn
việc Tiêu Đình Quý đánh Khâm sai thỉ phải xét cho minh bạch mà phục chỉ.
Trầm
Quốc Thanh vâng lời. Bàng Hồng khiến dọn tiệc mà thết đãi mọi người. Mãn tiệc
ai nấy từ giã ra về.
Lúc Trầm
Quốc Thanh về đến hậu đường thì Y thị phu nhân hỏi:
Hôm nay
sao tướng công đi chầu về trễ vậy?
Trầm
Quốc Thanh nói:
- Vì có
việc quan trọng, lẽ phải giữ kín, song tình vợ chồng không thể không nói.
Nói xong
liền thuật hết các việc cho phu nhân nghe.
Phu nhân
nghe xong tỏ vẻ buồn bực, nói:
- Tướng
công ơi! Việc này là việc của người khác không liên can gì đến mình. Còn em của
Tướng công đã gả cho người ta rồi thì cũng thuộc về ngoại thích. Như việc Hồ
Khôn thì Hồ Luân làm nhiều điều ngang trái, vả lại cũng không bà con cật ruột
gì với mình, tướng công phải lấy lẽ công bình mà xử sự để lo việc gìn giữ quốc
gia sao lại theo đảng nịnh mà mong hại tôi trung, như vậy hưởng tộc triều đình
thật xấu hổ.
Trầm
Quốc Thanh cười nói:
- Phu
nhân nói sai rồi. Bổn phận ta nếu không có Bàng Thái sư giúp đỡ thì không được
làm đến chức Ngự sử như vầy, mà phu nhân cũng không được cao mạng phụ nữa.
Phu nhân
nói:
- Nay
Bàng Thái sư tuy quyền cao thế mạnh, song lại làm nhiều điều gian ác thì không
thể tồn tại mãi đâu. Đến lúc nào đó thì gian thần cũng ra gian thần mà để tiếng
xấu muôn thuở.
Trầm
Quốc Thanh nghe nói đến hai tiếng gian thần thì nổi giận, mắng:
- Đừng
có hỗn ẩu, ăn nói không kiêng dè, chuyện không can gì đến mình lại tại sao xen
vào như vậy.
Phu nhân
nói:
- Chẳng
phải là thiếp muốn sinh sự mà chọc giận tướng công, ấy là lời thật lẽ ngay
thiếp muốn tỏ cùng tướng công để suy xét, tránh tai họa về sau.
Trầm
Quốc Thanh nói:
- Đồ hỗn
ẩu! Sao ngươi dám gọi Bàng Thái sư là gian thần, ngươi là đàn bà biết gì mà xen
vào việc nước.
Phu nhân
nói:
- Tướng
công ơi? Nay thiếp lấy lời hơn lẽ thiệt mà can gián chỉ vì tình vợ chồng mà
thôi, sao tướng công lại giận dữ như vậy. Vả Bàng thái sư làm nhiều điều gian
ác, cứ tìm kế hại kẻ trung lương, hay tham của mà làm cho rối việc nước như thế
thiếp gọi là gian thần không đáng hay sao?
Trầm
Quốc Thanh nói:
- Vậy
ngươi biết Bàng Thái sư làm tai hại trung thần chỗ nào đâu hãy nói cho ta nghe
thử?
Phu nhân
nói:
- Công
việc sờ sờ trước mắt mà phu quân không thấy sao, như Dương Tôn Bảo là dòng dõi
công hầu, gìn giữ giang sơn nhà Tống, trấn thủ Tam Quan, ngăn binh ngoại quốc,
thật đáng là trụ cột quốc gia, còn Địch Thanh là cháu của Địch Thái Hậu mà cũng
là dòng dõi trung lương, lại từ khi ra Tam Quan lập được nhiều công lớn. Tướng
võ như hai ông ấy thật là bậc tôi trung, nếu hại hai ông ấy thì lấy ai chống đỡ
giang sơn. Tướng công là người hưởng lộc triều đình, đáng lẽ phải vun quén cho
sức mạnh của non sông, lại xu quyền phụ thế, làm cho nước yếu dân nghèo, có
phải là Bàng tặc xúi giục tướng công làm bậy hay không?
Trầm
Quốc Thanh nổi giận mắng:
- Ngươi
là đàn bà, không biết gì hết sao dám buông lời hỗn ẩu không biết phận mình.
Nói rồi
xốc tới đánh Y thị phu nhân.
Lời bàn.
Theo
thời xưa, người đàn bà là kẻ chỉ lo việc gia đình, không xen vào việc thiên hạ.
Nhưng xét về quan niệm đạo đức thì đàn bà cũng là con người có đủ lương tâm đạo
nghĩa.
Trầm
Quốc Thanh vì chạy theo danh lợi, theo đảng dua nịnh để củng cố bản thân mình,
trong lúc Y thị phu nhân thì lại không có tham vọng như vậy, nghĩ đến quyền lợi
quốc gia hơn là quyền lợi của bản thân. Do đó mà hai quan niệm đối nghịch nhau.
Dù là
đàn ông hay đàn bà lẽ phải là điều cao quý hơn hết, kẻ nào trọng lẽ phải thì
kẻ. ấy có đủ phẩm chất làm người, còn kẻ nào vì quyền lợi bản thân mà quên mất
đạo nghĩa thì kẻ ấy thiếu phẩm chất.
Trong
cuộc sống không thiếu gì người khi chạy theo danh lợi bỏ mất đạo nghĩa, nhưng
điều tốt nhất là khi được người khác thấy được chỗ sai lầm của mình thì mình
phải kiểm để sửa chữa.
Muốn tự
kiểm để sửa chữa thì tự mình phải đứng ra ngoài tham vọng cá nhân thì mới nhận
ra được lẽ phải trái.
HỒI THỨ BA MƯƠI - VÌ NGHĨA KHUYÊN CHỒNG ĐÀNH
TỬ TIẾT.
Trầm
Quốc Thanh thấy vợ cứ khuyên can mãi, không cho cấu kết với Bàng Hồng thì nổi
giận la mắng om sòm.
Y thị
phu nhân cũng không nhịn, phải lớn tiếng nói:
- Thiếp
lấy lời phải trái mà can gián tướng công, mục đích là tránh những hậu họa sau
này, nếu tướng công không nghe thì sau này có hối hận thì cũng đã muộn.
Trầm
Quốc Thanh không nhịn, cứ xốc tới đánh vào mặt phu nhân. Bọn a hoàn trông thấy
vội chạy đến kéo Trầm
Quốc
Thanh ra mà khuyên giải:
- Xin
lão gia bớt giận. Lão gia đã mắng nhiếc phu nhân như vậy cũng đã đủ rồi, sao
còn đánh đập nữa.
Bọn a
hoàn túng thế phải lôi phu nhân vào phòng rồi đóng cửa lại.
Y thị
phu nhân sai con a hoàn là Tố Lan ra nhà ngoài lén nghe thử Trầm Quốc Thanh tra
tấn Tiêu Đình Quý như thế nào đặng trở vào báo cho phu nhân hay.
Lúc này
Trầm Quốc Thanh ra đến công đường vẫn còn sắc giận, liền khiến quân bắt Tiêu
Đình Quý mà tra khảo.
Tiêu
Đình Quý lớn tiếng mắng Trầm Quốc Thanh không tiếc lời.
Trầm
Quốc Thanh nói:
- Tiêu
Đình Quý! Ngươi là một tội phạm đến trước pháp đường mà còn dám hỗn láo như vậy
sao? Ngươi muốn gì?
Tiêu
Đình Quý nói:
- Ta chỉ
muốn trở về Tam Quan mà thôi.
Trầm
Quốc Thanh nói:
- Ta
vâng chỉ đem ngươi về đây tra xét việc Dương Bảo loạn phép nước, Địch Thanh làm
mất chinh y sang đoạt công lao của Lý Thành, còn ngươi thì ăn hối lộ của Địch
Thanh bao nhiêu mà đánh khâm sai, bao nhiêu việc đó ngươi phải khai cho rõ.
Tiêu
Đình Quý nghe nói càng giận dữ thêm, trợn mắt nạt Trầm Quốc Thanh nói:
- Trầm
Quốc Thanh! Ngươi làm Ngự sứ mà nói nhiều điều bất thông lắm. Ta đố ngươi làm
sao ép ta khai bậy được.
Trầm
Quốc Thanh khiến quân dùng đủ cực hình tra tấn nhưng Tiêu Đình Quý vẫn một mực
chửi mắng mà thôi.
Trầm
Quốc Thanh thấy Tiêu Đình Quý gan dạ như vậy nên nghĩ thầm:
"Nó
đã không chịu khai thì ta đành phải làm tờ cung tiêu giả để vào triều phục chỉ
cho xong".
Nghĩ rồi
sai quân dẫn Tiêu Đình Quý đem vào giam nơi Thiên lao để chờ ngày tìm cách hãm
hại.
Còn con
a hoàn Tố Lan đứng rình bên ngoài nghe rõ đầu đuôi liền vào phòng báo lại cho Y
thị phu nhân biết.
Y thị
phu nhân lập tức đóng cửa phòng, lấy viết đề một bài thơ tuyệt mạng như sau:
Thân này
dẫu chết dạ không phiền.
Ba chục
xuân xanh vậy cũng yên.
Miễn
đặng phu quân chừa lánh cũ.
Thiếp về
chín suối cõi thiêng liêng.
Đề thơ
xong, Y thị phu nhân tự vận mà chết.
Bọn a
hoàn thấy phu nhân không có động tĩnh gì đến xô vào phòng thấy phu nhân đã tự
vận nên thất kinh la lớn:
- Ôi
chao! Phu nhân dã tự vận rồi, vây phải mau phi báo cho lão gia hay.
Khi a
hoàn vào đến thơ phòng thì Trầm Quốc Thanh đang ngồi làm bản cung tiêu giả để
vào triều phục chỉ, nên không để ý gì đến việc phu nhân tự vận cả. Khi làm
xong, Trầm Quốc Thanh cười lớn nói:
- Như
lời biểu này thì dẫu Thiên ba phủ cũng không cứu nổi tính mạng của Dương Tôn
Bảo, còn Địch Thanh tuy là cháu của Địch Thái Hậu, nhưng không lẽ Địch Thái Hậu
không rõ phép nước.
Nói rồi
sắm sửa thay áo, cầm tờ biểu và lời cung tiêu giả của Tiêu Đình Quý đem cho
Bàng Hồng xem.
Vừa bước
ra cửa, Trầm Quốc Thanh nghe bọn a hoàn khóc rống lên, nói:
- Lão
gia ơi! Phu nhân đã chết rồi sao lão gia không ngó ngàng như vậy?
Trầm
Quốc Thanh nạt lớn:
- Loài
súc sanh, thứ đàn bà mà hỗn ẩu như vậy có chết đi cũng đáng lắm. Thây kệ nó, cứ
để đấy.
A hoàn
Tố Lan nghe nói khóc sướt mướt, nói:
- Sao
lão gia tệ bạc quá vậy? Lẽ ra phải tìm thuốc gì cho phu nhân uống may ra có
sống lại chăng?
Trầm
Quốc Thanh nạt:
- Vậy
chớ chúng bay không biết kiếm thuốc men cho nó hay sao? Ta không muốn cho nó
sống lại để nó mắng ta là gian thần, phản quốc.
Bỗng có
hai con a hoàn khác chạy đến nói:
- Phu
nhân chết một cách rất thảm thiết, thân xác hãy còn nguyên vẹn, sao lão gia
không cứu chữa mà bỏ đi như vậy?
Trầm
Quốc Thanh nghe báo bước đến cửa phòng, thấy phu nhân nằm ngay đơ thì cười gằn
nói:
- Ấy là
tại cái miệng của ngươi mà mang họa, hãy xuống âm phủ mà cáo với Diêm vương.
Nói rồi
truyền bọn a hoàn đào một cái hầm sau vườn mà chôn xác. Bọn a hoàn không đám
nói, nhưng rất thương tâm không nỡ lấp đất, cứ bỏ xác phu nhân trên vũng bùn
rồi đắp cỏ lên, nhờ đó mà xác phu nhân không bị hủy hoại.
Bấy giờ
Trầm Quốc Thanh hối gia nhân đốt đuốc sang dinh Bàng Hồng ra mắt trình bổn
chương cùng tờ cung tiêu giả cho Bàng Hồng xem.
Bàng
Hồng xem xong mừng rỡ nói:
- Lời
bổn chương rành lắm, sáng mai đem đến dâng lên Thiên tử ắt xong việc.
Trầm
Quốc Thanh nghe Bàng Hồng khen thì lòng dạ phơi phới trở về đinh thì đêm đã
khuya, vào phòng thấy quạnh quẽ nên cũng có ý buồn, than thầm:
- Nay
phu nhân đã thác rồi thì nệm nghiêng gối chếch, đêm nay còn đâu mà trò chuyện
cho vui. Thôi thì ta gọi một con a hoàn vào phòng mà chung gối cho có bạn. Vả
chăng trong số a hoàn chỉ có con Tố Lan tuy tuổi đã lớn mà nhan sắc còn rất mặn
mà, vậy ta bắt nó vầy cuộc mây mưa chắc thú vị lắm.
Nghĩ như
vậy bèn kêu Tố Lan vào phòng.
Tố Lan
vừa bước vào thì Trầm Quốc Thanh đã ôm chầm vào lòng nói:
- Đêm
nay nàng giúp cho ta một cuộc giao hoan cho thật đẹp, ngày mai ta vào triều thế
nào cũng được Hoàng thượng ban khen, chừng ấy ta sẽ cùng nàng tận hưởng.
Tố Lan
thất kinh nói:
- Tôi là
phận tôi tớ, bấy lâu nay phu nhân coi như con trong nhà, nay phu nhân đã tạ
thế, tôi đâu dám bậy bạ, xin gia nghĩ lại.
Trầm
Quốc Thanh nói:
- Ta có
lòng đoái tưởng như vậy, chỉ cần nàng chung chạ với ta một đêm cho thỏa mãn,
sao nàng lại từ chối.
Nói rồi
đóng cửa phòng lại, kéo Tố Lan lên giường vầy cuộc gió trăng. Tố Lan năn nỉ thế
nào cũng không được.
Tố Lan
thấy Trầm Quốc Thanh ham mê như điên dại, cực chẳng đã phải nằm yên để cho Trầm
Quốc Thanh thỏa mãn cuộc mây mưa cho qua cơn bão tố.
Rạng
ngày, Trầm Quốc Thanh dậy sớm vào chầu Thiên tử và tâu:
- Tôi
vâng lệnh tra xét Tiêu Đình Quý ban đầu nó không chịu khai, cho nên phải dùng
hình phạt tra khảo, sau thì nó chịu khai rằng:
- Địch
Thanh làm mất chinh y nên mạo công mà đền tội, còn Tiêu Đình Quý cũng có ăn hối
lộ của Địch Thanh, chịu làm chứng mạo chớ thiệt là cha con Lý Thành có công trừ
giặc mà Dương Tôn Bảo lại không chịu xét cứ nghe theo lời khai mà giết cha con
Lý Thành. Lại khi Tôn Võ đến tra xét kho tàng thì Dương Tôn Bảo lại không chịu
để tra xét, lại niêm phong, rồi khiến Tiêu Đình Quý đánh Tôn Võ vu cho tội đòi
hối lộ.
Tâu
xong, Trầm Quốc Thanh lại dâng tờ bổn chương và tờ cung tiêu cho Thiên tử xem.
Thiên tử
nổi giận mắng:
- Dương
Tôn Bảo thật cả gan. Bấy lâu nay trẫm tưởng nó là người trung nghĩa đại thần,
té ra nó cũng là một loại gian tà không kể đến nợ nước ơn vua. Thôi để trẫm sai
ngươi ra Tam Quan mà bắt nó về đây.
Bàng
Hồng nghe vua phán như vậy thì nghĩ thầm:
- Nếu
bắt Dương Tôn Bảo về trào thì Dư Thái quân và Địch Thái Hậu thế nào cũng binh
vực chúng nó, ta làm thế nào mà giết được.
Nghĩ như
vậy liền tâu:.
- Dương
Tôn Bảo là người trấn giữ biên cương đã hai mươi năm binh quyền rất mạnh, nếu
bắt về trào ắt tìm cách quấy phá triều đình.
Thiên tử
hỏi:
- Vậy
khanh tính thế nào?
Bàng
Hồng tâu:
- Tôi
tưởng Tiêu Đình Quý đã cung khai hết sự thật rồi, không còn tra xét gì nữa, xin
Bệ hạ cho một đạo thánh chỉ buộc Dương Tôn Bảo và Địch Thanh phải tự sát nơi
biên quan, còn Tiêu Đình Quý thì dẫn ra pháp trường mà xử trảm.
Thiên tử
nghe theo khiến Tôn Võ đem một đạo thánh chỉ và ba môn triều điển ra Tam Quan
cho Dương Tôn Bảo và Địch Thanh mà khiến hai người phải tự xử lấy mình. Còn Tôn
Tú thì làm giám thị mà chém Tiêu Đình Quý.
Khi Tôn
Tú và Tôn Võ lãnh được chỉ thị rồi thì có lòng mừng. Còn các trung thần đều quỳ
một lượt mà xin vua xét
lại,
song vua không nghe, mà cũng không ai dám đến Nam Thanh cung và Vô nịnh phủ để
báo tin cho Địch Thái Hậu và Dư Thái quân hay.
Còn Tôn
Tú khi lãnh được thánh chỉ liền gấp rút đến thiên lao bắt Tiêu Đình Quý mà dẫn
ra pháp trường.
Tiêu
Đình Quý ra đi thì chửi mắng vang trời, làm cho ai nấy đều kinh ngạc.
Lúc ấy
có gia đinh nơi Thiên Ba phủ hay tin trên chạy về báo với Dư Thái hậu. Dư Thái
hậu nổi giận lật đật lên kiệu thẳng đến giữa triều đình, song e cứu Tiêu Đình
Quý không kịp nên khiến Đỗ phu nhân, Mộc Quế Anh ra giữa pháp trường mà ngăn
trở không cho quân giám sát xuống đao.
Hai vị
phu nhân ấy vừa đến pháp trường thì gọi lớn:
- Dư
Thái quân khiến khoan chém Tiêu Đình Quý đã, để người vào chầu mà tâu cùng
Thiên tử.
Tiêu
Dính Quý nghe nói lật đật kêu lớn:
- Xin
hai vị phu nhân mau mau lại đây mà cứu tôi kẻo nó làm ngang mà chém tôi thì oan
ức lắm.
Hai vị
phu nhân nói:
- Không
hề chi đâu. Dã có ta đây nếu Tôn binh bộ làm ngang thì lánh mạng nó cũng không
còn.
Tiêu
Đình Quý cả mừng. Còn Tôn Tú thì giận căm gan, song không dám kình chống với
hai vị phu nhân.
Lời bàn.
Ở hồi
này chúng ta thấy hoạt động của nữ giới rất đắc lực Trước hết phải kể đến lòng
trung của Y thị phu nhân, vợ của Trầm Quốc Thanh, dám liều mình tử tiết để
khuyên chồng, không để chồng mình gia nhập vào bọn gian ác. Tấm lòng trung
nghĩa của bậc phu nhân ấy thật khó ai bì kịp.
Còn đến
lúc này thì Dư Thái quân đem thân xông vào cộng việc để can vua và giải cứu cho
Tiêu Đình Quý trong gian nguy.
Trung
thần trong triều đình không ai còn đủ sức để cứu vãn nguy biến, nên phải nhờ
vào sức của nữ nhi. Thật là một điều hi hữu.
Gian
thần sàm tấu khiến cho nhà vua mê muội không còn phân biệt được lẽ phải trái.
Cho nên nhở vua đã mất hết sáng suốt, không còn bản lãnh để trị dân.
Lời nói
của kẻ nịnh và lời nói của người trung nếu không sáng suốt phân biệt thì dễ làm
cho người nghe hôn ám;
HỒI THỨ BA MƯƠI MỐT - DƯ THÁI QUÂN VÀO TÂU KIM
ĐIỆN.
Bấy giờ
Dư Thái quân thẳng dấn kim loan điện, triều bái xong liền tâu:
- Không
biết cớ chi mà Bệ hạ ra lệnh chém Tiêu Đình Quý. Vả Tiêu Đình Quý là một trang
dũng tướng, có công nơi biên ải lại là con cháu trung thần, dẫu có tội chi cũng
nghĩ đến công lao của Tiêu Táng thuở xưa mà dung tha cho nó.
Thiên tử
nghe tâu thì nghĩ thầm:
- Việc
này Trẫm cũng chưa rõ. Cứ theo lời tâu của Bàng
Quốc
trượng mà xử trảm nên thiệt khó biện minh.
Nghĩ như
vậy nên vua vẫn ngồi yên không có lời phán.
Dư Thái
quân lại tâu:
- Xin Bệ
hạ xét lại. Vả chăng con thiếp và chồng thiếp đều vì nước liều mình, duy còn
một chút cháu trấn nơi Tam Quan đã hơn hai mươi năm, nó vẫn luôn luôn tận trung
báo quốc không làm điều chi sai trái. Còn Tiêu Đình Quý thì lâu nay theo cháu
tôi lập được công lao lớn lắm. Nay không biết nó phạm tội chi mà Thiên tử lại
xử trảm nó như vậy.
Thiên tử
thấy Dư Thái quân hỏi nhiều lần thì mới trả lời:
- Nguyên
hôm trước Trẫm có sai Tôn Võ ra Tam Quan mà tra xét tiền lương thì Tiêu Đình
Quý đánh Tôn Võ mà Tôn Võ là Khâm sai của triều đình, như vậy quả là khinh
thường pháp luật. Ngang tàng như vậy thì đáng xử tử lắm.
Dư Thái
quân tâu:
- Tôn Võ
là người vâng chỉ sai đi tra xét tiền lương, mà không tra xét chi hết cứ đòi ăn
hối lộ mà thôi. Khâm sai của Bệ hạ mà hành động như vậy thì cũng như Bệ hạ hành
động có khác gì, vậy thì Tôn Võ có đáng chém không?
Thiên tử
nói:
- Tôn Võ
không có đòi của hối lộ chi hết, mà chém nó chẳng là oan lắm.
Dư Thái
quân tâu:
- Còn
Tiêu Đình Quý cũng không đánh chửi Khâm sai nếu Bệ hạ giết nó thì cũng oan nó
lắm.
Thiên tử
nghe tâu thì mỉm cười nói:
- Tiêu
Đình Quý đã làm tờ cung tiêu mà chịu rằng có đánh khâm sai thì còn oan gì nữa.
Dư Thái
quân tâu:
- Đã làm
tội Tiêu Đình Quý sao không tra xét đến Tôn Võ? Còn nói đến Tiêu Đình Quý mà
không nói đến DươngTôn Bảo thì e rằng luật pháp bất minh chăng?
Thiên tử
nghe mấy lời của Thái Quân thì gật đầu nói:
- Phải!
Dương Tôn Bảo cũng có tội nữa, song trẫm cũng nghĩ nó là dòng dõi công thần, mà
lại có công trấn thủ Tam Quan đã hai mươi mấy năm nay, nên trẫm không nỡ chém
mà làm tội bằng tam bang triều điển mà thôi.
Dư Thái
quân nghe nói thì nổi giận tâu lớn tiếng:
- Chồng
con tôi vì nước bỏ mình đã hết mấy mạng mà Bệ hạ không đem lòng thương tưởng
thì thôi. Nay cháu tôi Dương Tôn Bảo công lao như vậy, Bệ hạ lại nghe lời quân
nịnh mà xử tội tam bang triều điển. Nỡ nào đành làm như vậy? Sao Bệ hạ không
suy đi xét lại cứ nghe quân nịnh làm, chẳng hề nghĩ đến kẻ hiền lương. Vả một
cái án trong dân giã kia còn phải tra đi xét lại, cho biết ai phải ai quấy rồi
mới luận tội, thế mà còn lầm thay, huống chi việc lớn bằng trời như vậy mà Bệ
hạ không tra đi gạn lại, chỉ nghe lời tâu trình muốn giết ai thì giết, muốn
chém ai thì chém. Làm như vậy thì kẻ trung lương bị thác oan, mang tiếng xấu
lưu truyền muôn thuở, mất hết danh giá trung thần đi, chẳng là oan ức cho họ
Dương lắm sao? Vả lại Trầm Quốc Thanh cũng là phe đảng của Bàng Quốc trượng,
Tôn Võ cũng là em của Tôn Tú tôi e bên trong có điều gì gian trá đây. Nếu Bệ hạ
không xét cho kỹ ắt là lầm mưu lũ nịnh chớ chẳng không. Xin Bệ hạ lưu Tiêu Đình
Quý lại, rồi đòi Dương Tôn Bảo và Địch Thanh về triều mà hỏi cho rõ ràng. Nếu
quả có tội thì Dương Tôn Bảo có chết cũng cam lòng, còn Vô Nịnh phủ bị danh nhơ
cũng đáng. Nếu Bệ hạ không xét cho kỹ mà chém trước Tiêu Đình Quý thì bất minh
lắm.
Bàng
Hồng thấy Dư Thái quân tâu như vậy thì nghĩ thầm:
- Mạng
Tiêu Đình Quý đã muôn thác, không ai dám can ngăn không biết mụ già này hay tin
ở đâu mà vào triều nói nhiều câu làm nhục Thiên tử, mà Thiên tử thì ngồi trơ
trơ như hình nộm, không nói chi hết. Nếu giết không được Tiêu Đình Quý thì giết
sao cho được Dương Tôn Bảo và Địch Thanh.
Bấy giờ
mấy vị trung thần ngồi nghe ai nấy đều cho là lời của Dư thái quân đã rõ lại
rất công minh. Chắc là vua phải nghe theo chẳng không.
Thật
vậy, sau khi nghe mấy lời tâu của Dư Thái quân,vua liền truyền chỉ tha Tiêu
Đình Quý, và khiến Tôn Võ trả thánh chỉ lại, đợi Dương Tôn Bảo và Địch Thanh về
trào rồi thiên tử có bổn phận tra xét việc ấy.
Dư Thái
quân tâu:
- Xin Bệ
hạ cho tôi lãnh Tiêu Đình Quý về Thiên Ba Phủ, nếu nó trốn đi tôi chịu tội.
Thiên tử
nghe theo sai bốn tên Thái giám đưa Thái Quân về Thiên Ba phủ và giải Tiêu Đình
Quý đến Thiên Ba phủ giao cho Dư Thái quân.
Dư Thái
quân về đến Thiên Ba phủ thì Đỗ phu nhân và Mộc Quế Anh cũng về đến. Dư Thái
quân nói với hai vị phu nhân ấy:
- Giận
bầy gian tặc bày mưu này kế kia mà hại cháu ta hoài. Tuy vậy nó hại sao cho
nổi. Thôi để ít ngày nữa cháu ta về đây ta sẽ hết sức mà đối nại với loài gian
ấy.
Vừa nói
dứt thì đã thấy Tiêu Đình Quý vào ra mắt. Dư Thái quân hỏi:
- Tiêu
Đình Quý! Vậy chớ câu chuyện ngoài Tam Quan như thế nào hãy kể lại rõ ràng cho
ta nghe.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Địch
Thanh thực có làm mất chinh y, mà có lập nên công trận lớn, cha con Lý Thành
thiệt có mạo công, còn Tôn Võ ra đến Tam Quan thì cứ đòi ăn của hối lộ năm bảy
muôn lượng, nên tôi có nóng giận đánh nó hết ít thoi và ít đạp.
Dư Thái
quân nói:
- Té ra
ngươi đánh Tôn Võ là mắc kế của Bàng Hồng rồi.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Xin
Thái Quân chớ lo, để tôi đến dinh Bàng Hồng lấy quách thủ cấp của nó thì mới đã
giận.
Dư Thái
quân nạt lớn:
- Đừng
có sanh sự mà gây họa. Dù phải dù quấy phải chờ Nguyên soái ngươi về đây rồi sẽ
hay.
Từ ấy,
Dư Thái quân sợ Tiêu Đình Quý ra ngoài sanh sự nên không cho Tiêu Đình Quý ra
khỏi cửa, rồi lại sai người đến thiên lao mà dặn dò ngục quan phải chăm sóc
Trầm Đạt cho tử tế.
Nói về Y
thị phu nhân, tuy giận chồng tự tử nhưng khí số chưa mãn, nên hồn sa xuống cáo
Diêm vương mà tỏ bày nỗi oan ức
Diêm
vương cho người duyệt sổ lại thì số Y thị sống lâu đến 88 tuổi. Bây giờ tuy
chết oan nhưng ít ngày nào cũng được hoàn hồn.
Vì vậy
Diêm vương sai quỷ tốt đưa hồn Y thị đến Trần châu kêu oan với Bao Công.
Lúc này
Bao Công đang vâng lệnh triều đình đi phát chẩn tại Trần Châu, vì nơi đây dân
chúng mất mùa đói kém.
Khi đến
nơi thì Bao Công làm y theo thánh chỉ, cho nên nhân dân rất ngợi khen.
Đến ngày
mồng ba tháng ba, công việc xong rồi, Bao Công trở về triều phục chỉ, nhưng
trong lúc trên đường về xảy có một trận cuồng phong thổi đến làm cho Bao Công
đôi mắt chóa lòa, không thấy gì hết. Quân sĩ đều kinh ngạc.
Bao Công
nghĩ thầm:
- Đây là
một cơn gió lạ, chắc là có oan hồn mách bảo gì đây chớ chẳng không.
Nghĩ như
vậy bèn hỏi:
- Oan
hồn nào đến đây, có chuyện gì oan ức chăng?
Nói vừa
dứt lời thì trận cuồng phong lại thổi tiếp. Bao Công liền khiến quân đình lại,
sai Trương Long, Triệu Hổ lập một cái đài tạm nơi đồng trống, rồi thắp hương
van vái.
Qua đến
canh ba, lại có một trận cuồng phong thổi đến, Bao Công lúc ấy đôi mắt đang lim
dim thấy có một con quỷ đàn bà đến quỳ trước mặt mình mà thưa rằng:
- Thiếp
là Y thị, tên Trịnh nương, vợ Trầm Quốc Thanh đang làm Ngự sử.
Bao Công
hỏi:
- Nếu
nàng là vợ Trầm Ngự sử thì cũng là một vị phu nhân, vậy xin phu nhân đứng dậy
mà thuật hết các việc của Trầm Quốc Thanh cho Bao Công nghe.
Phu nhơn
thưa:
- Vì
chồng của thiếp trước đây không nghe lời can gián của thiếp, nên thiếp tức mình
mà tự vận, thiếp đâu dám trách ai. Chỉ vì thân thiếp hiện đem lấp trong vũng
bùn, mà phần thiếp chưa mãn, nên Diêm vương cho thiếp đến đây kêu oan.
Bao Công
khen:
- Phu
nhân là bổn phận đàn bà mà còn biết ngay vua thương tướng như vậy, thật là đáng
bậc hiền triết phu nhân.
Nói rồi
liền hỏi Y thị rằng:
- Vậy
thi thể phu nhân hiện giờ còn ở nơi dinh Trần Ngự sử chăng?
Phu nhân
nói:
- Thân
thể hiện giờ còn ở tại sau vườn, bên trên có phủ lá cây và cỏ.
Bao Công
nghe nói nổi giận mắng:
- Nói
vậy Trầm Ngự sử thật là người tàn nhẫn, vợ mình làm đến bậc cao mạng phu nhân
mà chết không có quan quách, lại hùa theo bọn nịnh thần làm cáo trạng giả mà
hại kẻ tôi trung. Vậy thì phu nhân hãy trở về kinh sư đi, đặng ta về trào lập
tức toan tính việc ấy cho.
Phu nhân
nghe nói lạy tạ rồi riu ríu ra đi.
Còn Bao
Công thì tỉnh dậy nghĩ thầm:
- Giống
như chiêm bao mà không phải chiêm bao. Đây là việc hiển hiện của hồn oan tố cáo
kẻ gây tội. Như vậy nàng chết đã hai ngày đêm rồi, nếu ta về kịp thì nàng có
thể hoàn hồn được, vì thân thể chưa bị hủy hoại.
Lời bàn.
Theo
quan niệm Đông phương, con người chết sống có định mệnh. Nếu chưa đến lúc chết
mà phải lìa trần thì oan hồn không tiêu tan mà vất vưởng trong cõi tạm. Đó là
trường hợp của Y thị
Tác giả
đã dùng quan niệm ấy để nói lên một hành động báo oán của một người đàn bà chết
oan uổng.
Tuy là
việc cấu kết bằng ý tưởng song cũng là bài học dạy đời, sống phải giữ lẽ công
bình, không làm cho kẻ khác ân hận để rồi sự oán hận ấy di lưu trong cuộc sống.
HỒI THỨ BA MƯƠI HAI - TRA ÁN TRONG TRÀO CÒN
HỮU CỚ.
Đêm ấy
Bao Công không chờ trời sáng, truyền quân đuốc mà đi. Quân sĩ không biết cớ gì
chỉ biết vâng lời, còn các quan phủ, huyện cũng không dám hỏi, chỉ làm tiệc
tiễn đưa
Khi đưa
Bao Công đi rồi, các quan bàn tán với nhau:
- Không
biết có chuyện gì mà Bao Hắc Tử lại nôn nóng như vậy. Khi không bắt lập đài tạm
giữa đồng rồi lại lật trở về triều không kịp đón đưa.
Còn Bao
Công thì cứ hối quân đi riết suốt đêm, cho sáng mới tới Trần Kiều Trấn. Vì quá
mệt mỏi, Bao Công muốn chọn chỗ nghỉ chân, nhưng chưa tìm được.
Tiết Bá
thưa:.
- Phía
trước đây có một tòa Nhạc miễu rộng rãi lắm, có thể cho quân sĩ đến đó nghỉ đỡ
một đêm rồi mai sẽ đi.
Bao Công
nói:.
- Vậy
thì ta hãy đến đó mà nghỉ đỡ một đêm, nhưng không nên làm kinh động dân chúng.
Quân sĩ
vâng mệnh đến miếu ấy thì thấy một vị đạo nhân quỳ thưa:
- Chúng
tôi không hay lão gia đến nên không nghênh tiếp.
Bao Công
nói:
- Ta đi
đến đâu cũng không cho ai biết. Nay vì trời tối, ta xin nghỉ tạm đây một đêm,
sáng sớm sẽ lên đường.
Các đạo
nhơn nói:
- Vậy
xin mời lão gia vào nhà khách an nghỉ.
Bao Công
nói:
- Đừng
lo gì cho ta hết. Ta chỉ nghỉ tạm một đêm để chờ sáng mà thôi.
Ngày hôm
sau, Bao Công lên kiệu hối quân tiếp tục lên đường, nhưng lúc đến Trần Kiều thì
bỗng có một trận gió thổi đến rất mạnh làm cho cái mão Ô sa của Bao Công phải rơi
xuống đất.
Trương
Long và Triệu Hổ vội chạy đến chụp lấy mão dâng lên cho Bao Công.
Bao Công
nạt lớn, nói:
- Gió gì
mà dám lung lạ như vậy?
Quân sĩ
thưa:
- Ấy là
Lạc Mạo Phong đó.
Bao Công
nghe nói mỉm cười, nói tiếp:
- Lạc
Mạo Phong vô lễ, không nên dung tha nó.
Liền sai
Trương Long, Triệu Hổ đi tìm bắt Lạc mạo phong.
Trương
Long và Triệu Hổ nói nhỏ với nhau:
- Không
xong rồi! Lão gia sai đi bắt Lạc mạo phong thì biết nó ở đâu mà bắt.
Hai
người liền quỳ xuống thưa:
- Lão
gia muốn bắt Lạc mạo phong sao? Vả Lạc mạo Phong là gió đâu có hình tượng mà
chúng tôi bắt nó được.
Bao Công
nói:
- Đồ súc
sanh! Ta sai các ngươi làm một việc nhỏ như vậy mà biếng nhác không chịu làm.
Hai
người ấy thưa:
- Không
phải chúng tôi biếng nhác, chính vì nó vô hình nên chúng tôi không thể bắt nó
được.
Bao Công
nạt lớn:.
- Ta hẹn
cho hai ngươi trong một giờ phải bắt cho được Lạc mạo phong dẫn về đây cho ta,
nếu bắt không được thì chém đầu.
Nói rồi
khiến quân quay kiệu lại nơi Nhạc miếu mà chờ
Còn
Trương Long, Triệu Hổ thấy Bao Công nói gắt như vậy thì than thở, vừa đi vừa
lầm bẩm:
- Làm
thế nào mà bắt cho được Lạc mạo phong đây?
Triệu Hổ
nói:
- Trương
huynh ơi. Hôm nay hai đứa ta khốn rồi, chắc là tánh mạng không giữ được.
Trương
Long nói:
- Ấy là
số mạng chúng ta chỉ đến ngày hôm nay thôi cho nên mới sanh ra chuyện lạ như
vậy.
Triệu Hổ
nói:
- Vậy
thì chúng ta cứ đi lần đến Trần Kiều bắt đại một người gọi nó là Lạc mạo phong
đem về nạp cho lão gia vì lão cũng chẳng biết Lạc mạo phong mặt mũi ra sao đâu.
Trương
Long theo lời. Hai người dắt nhau đi thơ thẩn trên cầu một úc thì gặp một lão
tiều gánh củi đi qua.
Triệu Hổ
nói:
- Kìa!
Gã đó là Lạc mạo phong, chúng ta bắt cho mau.
Hai
người vừa áp lại thì gã tiều phu xô ra nói:
- Các
ngươi làm gì vậy?
Trương
Long nói:
- Chúng
ta vâng lệnh Bao Công đi bắt Lạc mạo phong.
Tiều phu
nói:
- Đừng
có nói xàm. Dù có vâng lệnh ai thì cũng phải có giấy tờ mới có quyền bắt bớ
người ta chớ.
Triệu Hổ
nói với Trương Long:
- Gã này
nói nghe có lý. Hay là chúng ta trở về xin lão gia cho chúng ta một tờ trát lệnh.
Bàn tán
xong, hai người trở lại nói với Bao Công:
- Lão
gia ơi! Chúng tôi đã tìm gặp được Lạc mạo phong nhưng không có trát lệnh nên
không bắt được.
Bao Công
mỉm cười nói:
- Thôi
được! Để ta cho các ngươi một tờ trát lệnh.
Nói rồi
trao cho hai người một tờ trát lệnh và hối phải ra đi cho gấp.
Trương
Long và Triệu Hổ lãnh trát ra đến cầu thơ thẩn một lúc thì lại bị một trận
cuồng phong thổi đến, làm cho tờ trát trên tay bay bổng lên trời.
Hai
người thất kinh vội vã đuổi theo để chụp tờ trát lại, nhưng chạy được một lúc
thì tờ trát rơi xuống tấp vào gánh hàng rau của một gã bán rau đang vội vã đem
ra chợ bán.
Trương
Long nói với Triệu Hổ:
- Lạc
mạo phong đây rồi? Chúng ta mau bắt nó đem về nạp cho lão gia.
Nói rồi
hai người áp lại, bắt gã bán rau lôi đi.
Gã bán
rau kinh ngạc không biết chuyện gì, vội năn nỉ:
- Tôi là
người thủ phận làm ăn, không từng phạm pháp, sao lại bắt tôi oan ức như vầy?
Trương
Long, Triệu Hổ nói:
- Ngươi
có phạm pháp hay không cũng mặc kệ, hãy đến trước mặt Bao lão gia mà đối nại.
Nhân dân
trong chợ thấy vậy đem lòng bất bình, chạy theo hai người ấy, xem thử bắt người
bán rau mà dẫn đi đâu.
Lời bàn.
Một hiện
tượng lạ của trời đất đã làm cho Bao Công gây ra một sự việc nực cười.
Bao Công
dựa trên sự tin tưởng có ân oán đọng trong cõi sống, và việc sai hai người tùy
tùng làm công chuyện dò xét mà thôi. Nhưng hai tên tùy tùng thì nì hệt trong nó
mà phải tìm cách thoát ra.
Đứng về
quan niệm triết Đông thì cùng tắc biến, bị tắc thông. Đã có biến thì dĩ nhiên
phải có thông. Ý nghĩa thông đây lại giải đáp bằng nhân quả, tức là cởi mở và
bù những cái nhân đã gây ra từ thuở trước.
HỒI THỨ BA MƯƠI BA - LẠC MẠO PHONG VÔ CAN BỊ
BẮT.
Trương
Long, Triệu Hổ bắt người bán rau dẫn đi thì dân buôn bán trong chợ ai nấy đều
than rằng:
- Tội
nghiệp cho chàng Quách Hải Thọ nhà thì nghèo, mẹ thì già nua lại bị tật nguyền,
mỗi ngày phải đi bán rau để
nuôi mẹ.
Dù nghèo nàn nhưng ăn ở với mẹ rất có hiếu, nên bà con gọi anh ta là Quách hiếu
tử. Con người lương thiện như vậy không biết vì lẽ gì mà Bao lão gia lại bắt
nó. Điều này làm cho chúng ta rất thương tâm.
Nhiều
người rủ nhau đến Nhạc miễu để xin cho Quách
Hải Thọ
khỏi tội.
Lúc
Trương Long, Triệu Hổ bắt Quách Hải Thọ dẫn đến Nhạc miếu thì thưa với Bao Công
rằng:
- Chúng
tôi đã bắt được Lạc mạo phong dẫn về đây.
Bao Công
khiến dẫn vào. Quách Hải Thọ nói:
- Tôi là
người dân lương thiện, sao lại bắt tôi?
Bao Công
xem tướng mạo Quách Hải Thọ thấy có vẻ đoan trang anh dũng thì thầm nghĩ:
- Việc
này ta làm không phải, vì chỉ rớt mão mà làm cho người ta khổ sở như vầy thật
không nên. Tuy vậy cũng nên hỏi thử người này là ai.
Nghĩ như
vậy nên làm bộ nổi giận nạt lớn nói:
- Gã
kia! Ngươi có phải là Lạc mạo phong không? Sao đến trước mặt ta mà không chịu
quỳ.
Gã bán
rau thưa:
- Tôi
không phải là Lạc mạo phong. Tôi tên Quách Hải Thọ, từ nhỏ đến lớn ở tại xứ
này. Gia đình chỉ có một mẹ không có nhà ở, phải ở trong một lò gạch. Khi tôi
còn nhỏ mẹ tôi đi xin ăn mà nuôi tôi, đến chừng tôi mười lăm tuổi thì tôi bị mù
mắt, không đi được. Từ ấy đến nay tôi chuyên nghề trồng rau đem ra chợ mà bán
đặng nuôi mẹ tôi. Đến nay tôi mười chín tuổi, vẫn với nghề bán rau nuôi mẹ, chớ
không có tội lỗi chi, chẳng biết vì ý gì mà lão gia lại sai người bắt tôi dẫn
về đây.
Quách
Hải Thọ nói vừa dứt lời thì thấy dân chúng trong vùng kéo đến tỏ ý là Quách Hải
Thọ đã bị bắt oan.
Bao Công
thấy vậy nói với dân chúng trong vùng:
- Các
ngươi cứ về đi, ta chỉ hỏi qua người này thôi, không có làm tội ai hết.
Dân
chúng nghe nói mới chịu kéo nhau ra về.
Bao Công
nói với Quách Hải Thọ:
- Ta ra
lệnh tìm bắt Lạc mạo phong song chúng nó bắt lầm ngươi dẫn về đây. Nay ta biết
mi là người có hiếu với mẹ nên ta cho ngươi năm lượng bạc đặng đem về nuôi mẹ.
Quách
Hải Thọ mừng rỡ lạy tạ lui ra, quảy gánh rau trở về lò gạch.
Vừa bước
vào chàng đã gọi lớn.
- Mẹ ơi!
Con đã về đây.
Mẹ Quách
Hải Thọ nghe tiếng kêu lật đật hỏi:
- Sao
hôm nay con về sớm như vậy?
Quách
Hải Thọ liền thuật đầu đuôi câu chuyện cho mẹ chàng nghe.
Mẹ chàng
hỏi:
- Ông ấy
làm quan chi mà thương dân quá vậy?
Quách
Hải Thọ thưa:
- Con
nghe người ta nói ông ta là Bao Thị Chế, có người lại nói là Bao Chuẩn, có
người lại nói là Bao Công.
Mẹ Quách
Hải Thọ nói:
- Té ra
ông quan ấy là Bao Công sao? Vậy con hãy đến mời ông ta đến đây đặng mẹ cáo tố
một việc rất lớn.
Quách
Hải Thọ nói:
- Nếu mẹ
muốn cáo tố việc chi thì nói lại với con để con đến đó làm thay cho mẹ.
Mẹ Quách
Hải Thọ nói:
- Con
ơi! Thân mẹ chịu oan khúc như vầy cả trào đình không nên nói với ai cả, chỉ
riêng có Bao Công là người thiết diện vô tư mới có thể nói mà thôi. Nếu con đến
đó mà cáo thế cho mẹ thì cũng không ích gì, vậy con hãy mời ông ta đến đây đặng
mẹ gặp mặt thì mới xong việc.
Quách
Hải Thọ nói:
- Mẹ con
ta ở trong lò gạch này tuy nghèo nàn nhưng con thấy có ai uy hiếp gì đâu mà mẹ
gọi là oan.
Mẹ Quách
Hải Thọ nói:
- Con
ơi! Nỗi oan ức của mẹ đã mười tám năm về trước, con làm sao biết được. Vậy con
hãy mời ông ta đến đây để mẹ tố cáo rồi con sẽ rõ.
Quách
Hải Thọ nói:
- Việc
đã mười tám năm nay thì con không biết được, song con sợ mời ông ta không đến
thì biết tính làm sao?
Mẹ Quách
Hải Thọ nói:
- Con
hãy đến thưa với ông ta rằng mẹ có việc oan ức đã mười tám năm nay, nên mẹ muốn
minh oan cùng lão gia, song mẹ đi không đặng. Xin ngài lấy lòng rộng rãi đến
cho mẹ được phân trần. Con nói như vậy thì ông ta sẽ đến đây. Quách Hải Thọ
vâng rồi ra đi.
Lúc này
Bao Công đang ngồi một mình suy nghĩ thì thấy Quách Hải Thọ bước vào, quỳ thưa:
- Mẹ tôi
khiến tôi mời lão gia đến để tố cáo một việc oan ức.
Bao Công
nghĩ thầm:
- Việc
này cũng lạ. Thuở nay kẻ có việc tố cáo thì tìm đến người có trách nhiệm minh
oan, sao lại gọi ta đến gặp mặt?
Quách
Hải Thọ thấy Bao Công còn chần chờ thì thưa:
- Mẹ tôi
có việc hàm oan rất lớn nên mới sai tôi đến mời lão gia, vì mẹ tôi bị mù lòa
không đi được.
Bao Công
hỏi:
- Vậy
chớ mẹ ngươi ở đâu?
Quách
Hải Thọ thưa:
- Mẹ tôi
ở trong lò gạch, đang chờ lão gia.
Bao Công
liền khiến quân dọn kiệu ra đi với Quách Hải Thọ, làm cho ai nấy ngạc nhiên.
Khi
Quách Hải Thọ về đến nơi thì đứng lại thưa với Bao Công:
- Xin
lão gia dừng lại chỗ này, vì đây là chỗ mẹ tôi trú ngụ.
Nói rồi liền
chui vào lò gạch mà thưa với mẹ:
- Bao
lão gia đã đến đây.
Mẹ Quách
Hải Thọ nói:
- Vậy
thì con nhắc ghế cho mẹ ngồi rồi sẽ mời ông ta vào.
Quách
Hải Thọ nhắc ghế cho mẹ mình ngồi giữa nhà rồi bước ra mời Bao Công vào.
Bao Công
từ trên kiệu bước xuống bảo Trương Long và Triệu Hổ:
- Hai
ngươi hãy vào xem người đàn bà nào có việc chi oan ức rồi ra báo cho ta biết.
Trương
Long và Triệu Hổ vừa vào thì mẹ Quách Hải Thọ nói:
- Hai
ngươi hãy ra đòi Bao Chuẩn vào đây mà ra mắt ta.
Trương
Long,Triệu Hổ ra thưa lại với Bao Công và tả lại hình dáng bà lão mù lòa ấy.
Bao Công
nói:
- Tuy
vậy ta cũng vào đó xem thử sự việc ra sao cho biết.
Nói rồi
xuống kiệu lách mình bước vào lò gạch.
Quách
Hải Thọ thấy Bao Công bước vào liền thưa với mẹ:
- Bao
lão gia đã đến đó.
Mẹ Quách
Hải Thọ hỏi:
- Té ra
Bao chuẩn đã đến đó sao.
Bao Công
nửa giận, nửa tức cười nói:
- Tôi đã
đến đây rồi, bà có việc chi oan ức thì cáo đi.
Mẹ Quách
Hải Thọ nói:
- Ngươi
hãy đến gần đây để ta xem thử có thật Bao Chuẩn hay không?
Bao Công
cũng chìu lòng bước đến gần. Mẹ Quách Hải Thọ quờ tay nhằm lưng Bao Công, rồi
nói:
- Bao
Chuẩn! Ngươi thấy ta mà không chịu quỳ sao?
Bao Công
nghĩ thầm:
- Cứ như
lời nói của người đàn bà này thì không phải là vẻ tầm thường, nên quỳ xuống.
Lúc ấy
mẹ Quách Hải Thọ đưa tay sờ sau ót, chỗ xương yến nguyệt tam sao của Bao Công
rồi nói:
- Bây
giờ ta đã chắc là gặp Bao Công rồi, không còn sợ lầm lẫn nữa.
Bao Công
nghe nói đem lòng nghi ngại, lật đật hỏi:
- Đã
biết ta là Bao Công sao chưa đem việc hàm oan mà kể lại cho ta nghe?
Mẹ Quách
Hải Thọ nghẹn ngào nói:
- Bao
Thị Chế ơi! Ta có một việc oan ức rất nặng. Đã mười tám năm nay ấp ủ trong lòng
mà chịu. Nay gặp được Bao Thị Chế thì nên vì ta gắng sức làm cho ra lẽ ngay
gian.
Bao Công
hỏi:
- Xin bà
có việc gì cứ nói. Tôi đang có việc gấp phải trở về triều.
Mẹ Quách
Hải Thọ nói:
- Vậy
Bao Thị chế đứng dậy rồi ta sẽ nói hết mọi việc cho Bao Thị chế nghe.
Bao Công
liền đứng dậy, lắng tai nghe việc oan ức ra sao.
Lời bàn.
Kẻ có
lòng công minh, chính trực thì không vì địa vị cá nhân mình mà bỏ qua những
việc trong đen tối.
Đã vì
việc công mà dấn thân vào trách nhiệm, nếu vì tự ái mà bỏ qua những trường hợp
phức tạp thì không sao tìm ra những bí ẩn trong cuộc sống.
Bao Công
điển hình cho một kẻ vì công bình, chính trực nên không câu nệ danh dự, mà đến
tận lò gạch để tìm hiểu những oan tình trong quá khứ thì đó là một người đặc
biệt mang tính chất của một kẻ biết nhẫn nại, gác danh dự cá nhân sang một bên.
để phục vụ cho lẽ phải, mà muốn tìm lẽ phải cũng là chuyện không dễ, nếu không
có đủ kiên nhẫn.
Một
người tầm thường không thể làm được những việc như Bao Công.
HỒI THỨ BA MƯƠI BỐN - LƯƠNG TÂM TRA XÉT KHÔNG
NGẠI KHÓ.
Lúc ấy
Quách Hải Thọ nói với Bao Công:
- Bao
thị chế là người thiết diện vô tư, hay tra xét những việc lớn trong thiên hạ,
vậy nay đứng trước sự hàm oan lớn lao của mẹ tội, Bao thị chế có làm nổi không?
Bao Công
nói:
- Đã có
việc oan ức tôi không khi nào bỏ qua.
Mẹ Quách
Hải Thọ nói:
- Tôi là
vợ của Chơn Tôn hoàng đế tên là Lý Thần phi đây.
Cách đây
mưởi tám năm tôi cũng có thai một lần với Lưu Hoàng hậu, đến chừng vua Chơn Tôn
ngự giá thân chinh nới Đằng Châu thì tôi sanh được hoàng nam; tất cả cung nga
nội giám đều biết. Kế đó hoàng hậu báo dối rằng: sanh được hoàng nam. Vì sự dối
trá ấy mà thân tôi mang họa đến thế này.
Bao Công
nghe nói ngồi sửng sốt một hồi rồi nghĩ thầm:
- Khi
tiên đế ngự giá thân chinh thì ta đã thăng lên Tri Giám viện mà dự việc quốc
chánh rồi. Nếu vậy lúc đó ta cũng biết chớ chẳng phải không.
Nghĩ như
vậy bèn hỏi:
- Bà nói
lúc ấy bà ở trong cung vi, mà vì cớ gì lại mang họa?
Lý Thần
phi nói:
- Ấy là
vì Lưu Hoàng Hậu đem lòng ghen ghét mà mưu toan với Thái giám Quách Hòe, bồng
công chúa đến Bích Vân cung nói là thiếu sữa, cậy tôi cho bú. Rồi đó Lưu Hoàng
mời tôi đến Chiêu Dương cung mà yến ẩm. Khi ấy tôi cũng tình thiệt để cho Quách
Hòe bồng Thái tử theo, không dè toan mưu độc. Khi ăn uống rồi tôi muốn đem Thái
tử về thì nói Quách Hòe đã bồng Thái tử về Bích Vân cung rồi. Khi tôi cũng tình
thiệt không đem dạ nghi nan. Đến chừng tôi đến Bích Vân cung hỏi lại cung nga
thì chúng nó nói Quách Hòe bồng Thái tử đến nhưng đang ngủ, tôi nghe vậy tưởng
thiệt. Đến tối, tôi giở ra xem thì thấy một con mèo chết nằm đó mà thôi. Lúc ấy
tôi mới biết Lưu Hoàng Hậu và Quách Hòe mưu hại con tôi. Khi tôi đang khóc lóc
rầu rĩ, không biết mưu kế chi làm cho ra lẽ, vì Thiên tử đang ngự giá thân
chinh rồi. Đêm ấy Hoàng hậu lại sai người đến đốt Bích Vân cung, đặng hại tánh
mạng tôi luôn, song nhờ có Khấu cung nữ đến thông tin cho tôi hay, và cho tôi
một cái kim bài khiến tôi giả làm Thái giám đặng trốn ra cửa thành mà tị nạn.
Khi tôi đi tôi muốn qua Nam Thanh cung mà nương nhờ để chờ Thánh thượng về rồi
sẽ tâu rõ việc ấy.
Bao Công
nghe nói đến đó liền quỳ xuống thưa:
- Khi bà
đến Nam Thanh cung thì Địch Thái Hậu chịu chứa bà hay không?
Lý Thần
Phi than:
-Vì phần
tôi là đàn bà cứ ở trong cung hoài nên không biết đường sá chi hết, nên muốn
đến Nam Thanh cung cũng không biết lối đi, phần vì trời tối, lại có tiếng người
rượt theo nên tôi chạy ra cửa thành, vào nhà dân giã mà ký ngụ. Té ra nhà ấy là
nhà một bà góa, chồng là họ Quách mới qua đời, mà người đàn bà ấy lại đang mang
thai. Khi tôi vào nhà người đàn bà ấy thì tôi nói dối là chồng tôi chết, mẹ
chồng ép gả cho người khác nên tôi không bằng lòng, bỏ trốn. Người đàn bà ấy
cũng có lòng trung hậu, cầm tôi ở lại cho có bạn. Đến sau, người đàn bà ấy sanh
được một đứa con trai, nhưng mới vừa nửa năm thì tạ thế. Vì vậy cho nên tôi ở
đó mà bảo dưỡng thằng con của người đàn bà ấy. Cách một năm, trong xóm ấy bị
hỏa hoạn thì nhà tôi cũng bị cháy rụi, không còn một vật chi, may mà tôi bồng
được đứa nhỏ chạy ra ngoài. Từ đó tôi không có nhà để ở, lưu lạc càng ngày càng
xa kinh thành. Sau nay tôi nghe Thánh thượng về triều, mà Bát Vương thì đã từ
trần rồi, chẳng bao lâu lại nghe Thánh thượng băng hà thì tôi hết trông cậy trở
về cung được nữa, chịu khổ mà ở trong lò gạch này tính ra đã được mười tám năm
rồi.
Bao Công
thưa:
- Vậy
chớ từ ấy đến nay lệnh bà lấy gì nuôi sống?
Lý Thần
Phi nói:
- Nói ra
thì thảm thiết biết chừng nào. Tôi ở trong lò gạch này thì tứ cố vô thân, túng
phải đi xin mà độ nhật, và nuôi thằng nhỏ cho đến lớn, đặt tên nó là Quách Hải
Thọ. Đến lúc nó 12 tuổi thì nó cũng có lòng hiếu kính. Từ ấy mẹ con nương náu
cùng nhau. Tôi nhờ nó siêng năng lo việc buôn bán rau cải mà độ nhật. Nếu không
có Quách Hải Thọ thì mạng tôi cũng không còn.
Quách
Hải Thọ đứng gần nghe rõ sự việc thì sửng sốt, mới hay mẹ mình đã qua đời, còn
mẹ này không phải là mẹ ruột.
Còn Bao
Công nghe hết nguồn cơn thì cả kinh nói:
- Vậy
chớ khi nương nương sanh Thái tử ra có thấy vết tích gì khác lạ không?
Lý Thần
Phi nói:
- Sao
lại không có. Thái tử tay có chữ SƠN HÀ, chân có chữ XÃ TẮC, thì đó mới thiệt
là con ta.
Bao Công
liền quỳ mọp xuống mà tâu:
- Tội
nghiệp cho nương nương chịu khổ hơn mười năm nay mà không ai biết được. áy cũng
là tội của tôi đó.
Lý Thần
Phi nói:
- Ấy
cũng chỉ vì tai họa của ta đó thôi, nếu nay Bao Thị Chế tra xét rõ việc này mà
làm tội Quách Hòe thì dầu ta thác cũng an lòng nơi chín suối.
Bao Công
thưa:
- Xin
nương nương cứ an lòng, hễ tôi về trào thì hết lòng tra xét việc oan này cho
nương nương.
Lý Thần
Phi nói:
- Nếu
Bao Thị Chế đã có lòng xem xét thì việc này ắt ra lẽ.
Bao Công
thưa:
- Xin
nương nương ở nán lại đây ít ngày, để tôi về triều tâu với Thánh thượng đem xa
giá đến rước.
Nói rồi
sai Trương Long, Triệu Hổ đòi các quan đến khiến lập một cái cung viên tạm đặng
cho Lý nương nương và tìm ít con a hoàn đặng hầu hạ.
Lý Thần
Phi nói:
- Thị
Chế chớ nên làm như vậy, vả tôi khổ cực đã hơn mười tám năm nay, cung nhờ có
Quách Hải Thọ nuôi dưỡng việc ấy đã an rồi, chớ nên làm phiền quan quyền và lê
thứ.
Bao Công
lúc ấy ngoài miệng tuy vâng lời, nhưng trong lòng đã có ý định sẵn.
Lý Thần
Phi gọi Quách Hải Thọ đến khiến lạy tạ ơn Bao Công. Bao Công thấy Quách Hải Thọ
nặng lòng hiếu thảo thì cảm phục vô cùng, nghĩ thầm:
- Người
này tuy bây giờ là bần dân, nhưng đã nuôi
dưỡng Lý
Thái hậu là mẹ thì Quách Hải Thọ cũng là anh em với Hoàng Thượng.
Nghĩ như
vậy liền đỡ Quách Hải Thọ dậy, rồi bước ra ngoài kêu quan địa phương vào triều
bái Lý Thần Phi.
Các quan
vâng lời đứng ngoài cửa lạy vào.
Lý Thần
Phi gọi Quách Hải Thọ nói:
- Con
hãy ra thưa với các quan rằng mẹ xin các quan trở về dinh mà an nghỉ, đừng có
chầu chực làm chi. Quách Hải Thọ vâng lời ra trước cửa lò gạch thưa lại với các
quan. Các quan nghe nói không dám trái mệnh liền trở về hết. Bao Công liền vào
thưa với Lý Thần Phi:
- Vì có
quốc gia đại sự nên tôi phải trở về trào. Nay gặp việc này thì tôi lại càng
không dám chậm trễ. Vậy tôi đã khiến các quan địa phương lo việc săn sóc, xin
nương nương cứ an tâm.
Lý Thần
Phi nói:
- Bấy
lâu nay tôi ở nơi lò gạch cũng đã quen rồi, không nên làm phiền dân chúng làm
chi.
Bao Công
lạy tạ Lý Thần Phi rồi lên đường, Các quan theo đưa đón năm bảy dặm mới trở
lại.
Sau đó
các quan địa phương lập cung thất tạm cho Lý Thần Phi nhưng lý Thần Phi không
chịu ở.
Còn Bao
Công về trào nhằm ngày mồng năm tháng ba, bà phu nhân thấy vậy hỏi:
- Tướng
công vâng chỉ đi chẩn bần, nay đã xong việc chưa mà về sớm vậy?
Bao Công
nói:
- Việc
chẩn bần thì chưa xong, song có chuyện quan trọng nên ta phải về sớm.
Phu nhân
hỏi:
- Vậy
chớ việc gì mà tướng công lo lắng như vậy?
Bao Công
nói:
. - Đây
là việc quốc gia đại sự, phu nhân đừng hỏi đến làm chi.
Lời bàn.
Mọi việc
xảy ra đều có nguyên nhân, và nguyên như đều đem đến hậu quả.
Lý Thần
Phi bị gian thẩn hãm hại, làm cho mẹ con phải chia cách hơn mười tám năm. Công
việc bị ém nhẹn tưởng như không còn đưa đến hậu quả, thế mà chỉ trong chốc lát,
sự việc lại vỡ lở đưa đến một hậu quả không lường trượt được Người xưa nói:
Thiện cá đáo đầu chung hữu báo, chỉ tranh lai tảo dữ lai trì. Việc lành dữ
trong xã hội cuối cùng đều có trả, chỉ đến sớm hay đến muộn mà thôi.
Đây là
một bài học của những kẻ có ác tâm. Đừng bao giờ tưởng việc mình làm không có
báo ứng. Kẻ làm việc tốt thì có báo ứng tốt, kẻ làm việc xấu thì báo ứng xấu,
chỉ sớm muộn mà thôi.
Việc báo
ứng là quy luật tự nhiên, không phải cầu khẩn miễn mình cứ giữ đạo làm người
thì sớm muộn cũng gặp đều báo ứng.
HỒI THỨ BA MƯƠI LĂM - BAO THỊ CHẾ MINH OAN
TRƯỚC KIM ĐIỆN.
Hôm sau,
Bao Công vào chầu trong lúc Thiên tử chưa lâm trào, các quan thấy Bao Công trở
về thì mừng rỡ hỏi:
- Bao
đại nhân đã lo xong việc chẩn bần rồi hay sao mà trở về sớm như vậy?
Bao Công
nói:
- Chưa
xong, nhưng vì có việc cần gấp nên phải tức tốc về đây
Bọn nịnh
thần nghe Bao Công nói như vậy thì nghĩ thầm:
- Lão
già này có tánh quỷ quyệt, nay đặt chuyện nọ, mai đặt chuyện kia, không biết
đâu mà lường. Nay lão về đây e có việc không yên.
Còn Bàng
Hồng thì lòng lo sợ, cũng nghĩ thầm:
- Bao
Hắc tử về trào hối hả như vậy chẳng biết có việc chi khiến lòng ta không an. Ta
cầu cho Thánh thượng sai nó đi năm kia tháng nọ, đừng trở về trào thì ta mới
ngồi yên được
Vừa lúc
đó Thiên tử lâm trào, bá quan vào triều bái tung hô. Huỳnh môn quan tâu rằng:
- Nay có
Bao Thị chế hồi trào, còn đứng ngoài ngọ môn đợi lệnh.
Thiên tử
nghe tâu liền đòi Bao Công vào, hỏi:
- Vậy
việc chẩn bần đã xong chưa mà Bao khanh về đây?
Bao Công
tâu:
- Vì có
việc cần kíp nên tôi mới về đây mà ra mắt Bệ hạ.
Thiên từ
hỏi:
- Việc
gì mà Bao khanh gọi là cần kíp?
Bao Công
tâu:
- Vả
phép nước là điều rất trọng, nay gian thần kết đảng với nhau mà khi quân ngộ
quốc, chẳng kiêng pháp luật. Nay Bệ hạ ở trào mà không hay được, còn tôi thì đi
chẩn nơi Trần Châu mà việc khi mạng của chúng nó tôi đều thấu, cho nên tôi phải
hỏa tốc về trào, đặng mà tâu lại cho bệ hạ nghe để mà trừ đảng gian thần thì
mới bình an xã tắc được.
Thiên tử
hỏi:
- Bao
Công nói gian thần nào, ở đâu mà khi quân ngộ quốc không kiêng phép nước.
Bao Công
tâu:
- Trầm
Quốc Thanh đây thật là gian thần, không kiêng phép nước.
Trầm
Quốc Thanh nghe Bao Công tâu như vậy thì kinh hãi nghĩ thầm:
- Không
biết lão này gọi mình là gian thần là ý gì? Vẫn biết mình cũng có hành động sai
quấy nhưng lão làm sao biết được?
Thiên tử
nghe Bao Công tâu như vậy thì hỏi:
- Vì cớ
gì mà Bao khanh lại biết Trầm Quốc Thanh là gian thần?
Bao Công
tâu:
- Trầm
Quốc Thanh thật là đứa đại gian, đại ác, chẳng kể pháp luật triều đình.
Bao Công
mới tâu bấy nhiêu điều thì Bàng Hồng xen vào tâu:
- Vả Bao
Chuẩn đi chẩn bần nơi Trần Châu công việc còn chưa xong, Bệ hạ lại chưa từng
tuyên triệu mà dám bỏ việc trở về, ấy thật là kẻ không tuân phép nước, rồi lại
khua lưỡi đánh lưỡi kiếm điều mà dọa dẫm triều thần. Xin Bệ hạ đừng nghe những
lời vu vơ ấy, và khiến trở lại Trần Châu tiếp tục làm cho xong việc.
Bao Công
nói:
- Việc
này tôi không nói đến Quốc trượng, sao Quốc trượng là người vô can lại gánh vác
làm chi?
Thiên từ
nói:
- Khanh
là người vô can, chớ nói nhiều lời như vậy.
Bàng
Hồng nghe Thiên tử quở thì không dám nói nữa, sắc mặt có vẻ thẹn thùng.
Thiên tử
nghĩ thầm:
- Bao
Công thuở nay là người chánh trực công bằng, nay
không
triệu mà trở về đây chắc là có việc gì quan trọng chớ chẳng không?
Nghĩ như
vậy liền phán:
- Có
việc chi thì Bao khanh hãy tâu cho Trẫm biết.
Bao Công
tâu:
- Vả
Dương Tôn Bảo là người trấn giữ biên cương, chốt ngăn kẻ địch từ 30 năm nay,
công lao rất lớn. Công ấy, tội ấy dù Bệ hạ có chiếu theo luật nước thì cũng
tương công chiết tội được, vậy mà Bệ hạ lại xử tam ban triều điển. Còn Lý Thành
ám hại Tiêu Đình Quý mà mạo nhận công lao. Dương Tôn Bảo chiếu theo quân pháp
mà trị tội thì cũng đáng lắm. Nay vợ Lý Thành là Trầm thị, không giữ bổn phận
đàn bà, dám cả gan đến tâu giữa triều như vậy thì cũng có người chủ sự cho nên
Trầm thị mới dám làm. Còn Tôn Võ ra đến Tam Quan không tra xét công khố mà lại
trả giá đòi ăn hối lộ, ấy là bọn nịnh thần khi quân ngộ quốc đó. Vì vậy cho nên
Tiêu Đình Quý kẻ lỗ mãng giận đánh Tôn Võ như thế, thì cũng không lấy chi làm
trọng tội.
Bao Công
mới tâu đến đó thì Bàng Hồng đã kinh hãi lật đật quỳ tâu:
- Mấy
lời Bao Chuẩn tâu đó đều là vô bằng, xin Bệ Hạ xét lại
Thiên tử
nói:
- Bao
khanh đang ở Trần Châu làm sao biết rõ việc Tam Quan được?
Bao Công
tâu:
- Chẳng
những tôi biết các việc ở Tam Quan mà cả công việc của lũ gian thần ở triều
đình khi quân miệt pháp nữa. Để tôi tâu rõ việc gian thần trong trào cho Bệ hạ
nghe. Bệ hạ không rõ lại giao Tiêu Đình Quý cho Trầm Quốc Thanh tra xét, té ra
bọn chúng che lấp việc Tôn Võ đòi hối lộ cứ tra xét việc mất chinh y hoài, mà
Tiêu Đình Quý cũng không chịu cung chiêu. Trầm Quốc Thanh lập một tờ cung chiêu
giả mà mạo tấu cùng Bệ hạ. Nếu khi ấy không có Dư Thái hậu đến giữa trào mà
phân biện thì Tiêu Đình Quý đã làm quỷ không đầu rồi và Dương Tôn Bảo cũng phải
thác oan về việc ấy nữa. Có phải lũ gian nịnh toa rập nhau mà khi quân vọng
thượng chăng? Vì vậy tôi phải vội vã về triều đặng xin Bệ hạ cho tôi tra xét
việc ấy mà làm cho ra lẽ công bình.
Khi Bao
Công tâu mấy lời ấy thì Trầm Quốc Thanh và Tôn Võ đều lo sợ lắm.
Thiên tử
phán:
- Bao
khanh nói rằng rõ biết việc gian ấy thì tâu hết đầu đuôi cho Trẫm nghe.
Bao Công
liền thuật hết các lời cáo thị của Y thị tại Trần châu cho Vua nghe.
Thiên tử
nghe rồi đến hỏi Trầm Quốc Thanh:
- Người
ấy có phải là vợ của khanh chăng?
Trầm
Quốc Thanh chưa kịp tâu thì Văn Ngạn Bác đã xen vào:
- Nàng Y
thị là bà con cô cậu với tôi, đúng là vợ của Trầm Ngự sử đó. Trầm Quốc Thanh
nghe Bao Công kể hết sự tích của vợ mình thì đã hoảng hồn mất vía, không dám
nói tiếng nào. Thiên từ thấy vậy trong lòng càng thêm nghi. Còn Bàng Hồng thì
lo sợ nghĩ thầm:
- Nếu
vậy thì âm mưu trước đây đã bại lộ cả rồi.
Thiên tử
hỏi Bao Công:
- Khi Y
thị tố cáo thì có nói điều gì nữa không?
Bao Công
tâu:
- Y thị
có nói Trầm Quốc Thanh ăn lộc nước mà không lo việc nước. Nàng có nói vợ của Lý
Thành là em ruột Trầm Quốc Thanh, nên Trầm Quốc Thanh mới oán Dương Tôn Bảo và
Địch Thanh nên mạo tấu như vậy. Khi ấy nàng thấy chồng mình đem dạ gian tà nên
can gián mà Trầm Quốc Thanh không chịu nghe, nên giết nàng như vậy.
Thiên tử
nghe xong liền phán:
- Hôm
nay khanh nói, Trẫm mới biết ngày trước Trẫm lầm.
Lúc ấy
bọn gian thần nghe Bao Công tâu mấy lời thì lo sợ lắm, song không dám nói chi
hết.
Thiên tử
tại phán:
- Lời
Bao khanh tâu đó cũng không lấy chi làm chắc, vì chỉ là lời quỷ mị thì cũng
không biết đâu mà tin. Vả ngày trước Trẫm có sai người ra Tam Quan triệu Dương
Tôn Bảo Địch Thanh về, thôi hãy chờ hai người ấy về đây rồi sẽ tra xét Còn Bao
khanh thì nên trở lại Trần Châu mà lo việc chẩn bần cho xong.
Bao Công
tâu:
- Dương
Tôn Bảo trấn thủ Tam Quan là chỗ hiểm địa trong lúc bình yên vô sự còn không
dám bỏ đi một ngày huống chi lúc này giặc giã nổi lên không ngớt, nếu triệu Tôn
Bảo về kinh e Tam Quan phải mất, mà hễ Tam Quan mất thì xã tắc nhà Tống cũng
không còn. Nay việc Trầm Quốc Thanh giết vợ thì hàm chứa oan tình. Bấy lâu tôi
đã điều tra những việc như vậy, xin Bệ hạ chớ cho là chuyện quỷ mị. Cứ giao cho
tôi tra xét.
Thiên tử
chưa kịp phán thì Trầm Quốc Thanh lật đật tâu:
- Vợ tôi
là Y thị không phải giận hờn tôi mà tự vận, đâu có chuyện ấy? Tôi chắc Bao
Chuẩn ghét tôi nên đạt điều nói như vậy. Xin Bệ hạ chớ nên tin lời ấy.
Bao Công
tâu:
- Xin Bệ
hạ cho tôi mượn ba món bửu bối đặng tôi cứu Y thị sống lại mà tra hỏi cho minh
bạch rồi sẽ biết ai ngay, ai gian.
Trầm
Quốc Thanh nói:
- Vợ tôi
chết đã lâu, nay xương thịt cũng đã rã rồi, làm sao có thể cứu sống lại.
Bao Công
nói:
- Trầm
Quốc Thanh! Đừng có nhiều lời. Vả vợ ngươi cũng thuộc hàng Cao mạng phu nhân,
sao ngươi không tẩm liệm quan quách mà đem vất thây dưới vũng bùn. Ngươi thật
là bất nhân không kể đến tình vợ chồng. Nay ngươi còn dám đến giữa triều mà tâu
gian như vậy?
Trầm
Quốc Thanh thấy Bao Công nói đúng sự thật nên kinh hãi không dám cãi nữa.
Lúc ấy
thiên tử y theo lời của Bao Công, truyền chỉ cho nội giám lấy ba món bửu bối
của Tiên đế để lại giao cho Bao Công để tìm cách cứu vợ Trầm Quốc Thanh.
Bao Công
lãnh chỉ xong thì Tôn Tú quỳ xuống tâu:
- Cứ
theo lời Bao Công nói thì hài cốt Y thị bị vùi xuống bùn. Xin bệ hạ thử hỏi Bao
Công có biết nơi ấy hay không?
Thiên tử
phán:
- Lời
khanh nói cũng có lý. Liền hỏi Bao Công:
Bao Công
tâu:
- Y thị
đã tố cáo rất rõ, nên tôi mới dám tâu.
Thiên tử
hỏi Trầm Quốc Thanh như sự thật không?
Trầm
Quốc Thanh trong lòng rất lo sợ, nên nghe hỏi liền tâu:
- Việc
ấy quả có y như vậy
Thiên tử
nghe tâu thì nổi giận nạt lớn:
- Nếu vậy
nhà ngươi thật không kiêng phép nước, chẳng kể luật vua. Vợ ngươi vào hàng Cao
mạng phu nhân, sao ngươi lại vùi thân trong vũng bùn như vậy. Thật là vô tình
bạc nghĩa.
- Nói
rồi truyền bắt Trầm Quốc Thanh trói lại, lột hết áo mão. Bàng Hồng thấy Trầm
Quốc Thanh làm việc mờ ám như vậy cũng không dám tâu vào.
Thiên tử
phán:
- Nay
trẫm giao Trầm Quốc Thanh cho khanh tra xét cho minh bạch, rồi sẽ phục chỉ.
Nói rồi
truyền bãi trào. Các quan ai về dinh nấy.
Lời bàn.
Cuộc
sống con người là tranh đoạt hưởng thụ, bởi lúc nào cũng sanh ra chiến tranh.
Nếu cuộc
tranh đoạt ngoài chiến trận thì đó là chiến tranh bằng gươm đao, võ nghệ, còn ở
trong trào thì là chiến tranh bằng lý chí.
Đã là
chiến tranh thì ai cũng cần đồng minh để giúp sức vì vậy mà chia ra lắm phe
phái, cấu xé lẫn nhau.
Lời xưa
có nói: "Hễ trâu thì tìm trâu; ngựa thì tìm ngựa".
Vì vậy
kẻ trung thần không thể liên minh với kẻ gì nịnh.
Trong
một triều chính mà gian nịnh cấu kết với nhau tạo nên thế lực thì việc triều
chính sẽ rối ren, đất nước yếu Vậy bổn phận của kẻ cai trị quốc gia có bổn phận
phân định đâu là chính nghĩa, đâu là gian tà thì mới khác phục được tình trạng
rối ren ấy.
HỒI THỨ BA MƯƠI SÁU - HIỀN PHỤ NHỜ ƠN ĐẶNG
SỐNG.
Khi Bao
Công về đến dinh thì nghĩ thầm:
- Việc
này nếu chậm trễ e bọn Tôn Võ sanh gian kế thì khó lòng tra xét.
Nghĩ rồi
liền đến dinh Trầm Quốc Thanh, rồi đi thẳng ra sau vườn, quả thấy có một cây
quế mới trồng. Bao Công khiến quân đào chỗ ấy lên thì thấy thây Y thị chưa rã.
Bao Công
than cho một vị phu nhân hiền đức như vậy mà bị chết một cách thảm thiết như
vầy.
Than rồi
liền hỏi Trầm Quốc Thanh:
- Vậy
người đàn bà này có phải vợ nhà ngươi chăng?
Trầm
Quốc Thanh gật đầu:
Bao Công
khiến khiêng thây Y thị đem vào một chỗ thanh vắng, rồi khiến tỷ tấc đem nước
ấm tắm rửa sạch sẽ, kế đó mới đem ba món bửu bối là: Ôn lương mạo cho đội lên
đầu lấy hoàn hồn chẩm cho gối; rồi lấy phấn hồn hương mà xông
Trong
lúc còn chờ đợi Y thị sống lại thì Bao Công lại truyền bắt Tôn Võ trói lại.
Tôn Tú
thấy vậy nổi giận nói:
- Bao
Chuẩn! Ngươi chưa có phụng chỉ sao dám bắt Tôn Thị lang như vậy? Ngươi phải thả
em ta ra.
Bao Công
nói:
- Khi
nãy tôi phụng chỉ tra xét vụ này mà Tôn Võ cũng liên can trong đám ấy. Hễ người
phạm tội thì tôi được phép bắt hết. Để Y thị sống lại, nếu khai có Bàng Hồng,
Tôn Tú thì tôi cũng bắt nốt. Vậy chớ thuở nay ngươi chưa nghe Bao Công là người
thiết diện vô tư hay sao?
Tôn Tú
thấy Bao Công nói như vậy, liệu bề cãi không lại liền quày quả trở về dinh.
Lúc này
Bao Công đã khiến quân đem Tôn Võ và Trầm Quốc Thanh giam vào Thiên lao, còn
Bao Công thì ở lại dinh Trầm Quốc Thanh mà chờ Y thị tỉnh lại, rồi mới trở về
dinh mình.
Còn Tôn
Tú thì đi thẳng đến dinh Bàng Hồng thuật 1ại việc tranh cãi với Bao Công cho
Bàng Hồng nghe.
Bàng
Hồng buồn bã nói:
- Không
biết ý gì mà Bao Chuẩn hay gánh vác những việc vô can, bươi móc những điều tâm
sự của ta ra như vậy Nếu nó làm rõ trắng đen thì ắt ta cũng không khỏi tội.
Tôn Tú
nghe nói thì than:
- Nếu
vậy thì em ta không tránh khỏi tay Bao Công.
Từ ấy
Bàng Hồng và Tôn Tú suy nghĩ mãi mà không biết âm mưu gì để trừ Bao Công cho
được.
Lúc này
Bao Công khiến các tỳ nữ chăm sóc cho Y thị đến canh ba đêm ấy thì Y thị sống
lại, mở mắt ra, rồi rơi lụy dầm dề. Bao Công khiến đỡ nàng vào phòng rồi trở về
cung đem trả ba món báu vật ấy cho Thiên tử.
Hôm ấy
Thiên tử lâm trào, bá quan vào chầu đủ mặt
Bao Công
quỳ xuống tâu hết các việc Y thị sống lại cho Thiên tử nghe.
Thiên từ
mừng rỡ nói:
- Khanh
thiệt là công đức rất lớn. Thôi Trẫm cho khanh ba món bửu bối ấy để cứu những
người thác oan.
Bao Công
tạ ơn và tâu:
- Hôm
trước Bệ hạ dạy tôi tra xét việc Trầm thị, nay tôi xin Bệ hạ giao tờ biểu
chương ngoài Tam Quan và tờ Ngự trạng của Trầm thị, đặng tôi hạch hỏi cho minh
bạch, và giao Tiêu Đình Quý cho tôi thì mới đối chứng rõ ràng được.
Thiên tử
phán:
- Trẫm y
theo lời tâu của khanh.
Bèn
khiến nội thị lấy tờ biểu chương và tờ ngự trạng trao cho Bao Công, rồi lại hạ
chỉ sai người đến Thiên Ba phủ dẫn Tiêu Đình Quý giao cho Bao Công tra xét.
Bàng
Hồng thấy vậy thất kinh, nghĩ thầm:
- Hôn
quân thật bất nhơn lắm. Giao tờ biểu chương của Dương Tôn Bảo thì chẳng nói làm
chi, còn tờ ngự trạng của Trầm thị thì ắt Bao Hắc tử lâm hại ta chớ chẳng
không. Bao Hắc tử là thằng mặt sắt, hễ gặp việc thì làm, không biết vị nể ai,
còn Trầm thị là phận đàn bà, chắc là non gan lắm. Nếu nó biết tờ ngự trạng do
ta làm thì ta bị tội rất nặng.
Nghĩ như
vậy, lòng rối rắm không nói gì được.
Khi Bao
Công lãnh tờ biểu chương và tờ ngự trạng xem xong liền quỳ tâu:
- Trong
hai tờ biểu của Dương Tôn Bảo nói là Địch Thanh dẹp giặc lập công, và Tôn Võ
đến Tam Quan không xét kho cứ đòi ăn hối lộ, không thấy có việc làm mất chinh
y. Nếu so sánh với tờ ngự trạng của Trầm thị thì không hiệp nhau chút nào. Tôi
chắc là tờ ngự trạng này có ai chủ mưu cho Trầm thị chớ chẳng không. Dương Tôn
Bảo trấn thủ biên cương đã hai mươi năm, có lòng trung quân ái quốc, lẽ nào tư
vị Địch Thanh sát hại cha con Lý Thành là người có công. Việc này tôi dám chắc
Dương Tôn Bảo không có lòng ấy. Thuở nay hễ đàn bà mà đi kiện cáo thì thường
khi phải có người chủ sử. Điều ấy tôi đã thấy nhiều lắm. Nay tôi xét lại Trầm
thị là phận đàn bà, lẽ nào lại dám cả gan đến giữa Triều đình mà cáo trạng, cho
nên tôi mới đoán chắc có người chủ sử cho nó, nếu khi ấy Bệ hạ tra xét cho ra
người chủ sử thì đã rõ việc này có gian thần toan mưu hãm hại kẻ trung lương
rồi.
Thiên tử
nghe tâu thì nói:
- Khi ấy
Trẫm cũng quên phứt điều ấy. Vậy chớ khanh biết người chủ sử cho Trầm thị là ai
không?
Bao Công
tâu:
- Tôi
xem ý tứ đặt để trong ngự trạng thì biết người không phải là người tầm thường,
chắc là một vị đại thần trong trào mới làm nổi tờ ấy. Để tôi tra xét cho ra
người xin Bệ hạ nhận lời tôi, cứ theo luật nước mà làm ngay, đừng có vị tình vị
nghĩa gì hết.
Bàng
Hồng nghe Bao Công nói như vậy thì mặt mày ngắt, không dám nói lời nào hết.
Thiên tử
phán:
- Trẫm
tưởng đại thần trong triều cũng có người ngay kẻ vạy, song nghĩ vì Trầm thị là
vợ của một người võ chức rất nhỏ mà lại từ Tam Quan đến đây xa xôi lắm, lẽ nào
lại làm quen với đại thần đặng để cậy làm tờ ngự trạng ấy, vì vậy Trẫm tưởng
chắc là người chủ sử đó là người ở ngoài Tam Quan, nhưng chưa biết là ai. Thôi
trẫm nói với Bao khanh như vầy, bây giờ chẳng nên tra xét người chủ sử làm chi
cho dông dài, cứ việc tra xét việc ở đây mà thôi.
Bao Công
tâu:
- Chẳng
phải tôi muốn tra xét chủ sử làm chi, song giận người ấy là đại thần trong
trào, hiểu thông pháp luật còn phạm pháp. Ấy thiệt là có dạ khi quân, có lòng
hãm trung lương. Theo ý tôi chắc là loài gian tặc, ham của hối, mà không kể
tiếng xấu lưu truyền. Tuy Trầm thị không quen biết chi với thằng nịnh thần ấy,
song nếu nó vãi vàng bạc ra cho nhiều thì nó cũng hóa ra người quen biết.
Bàng
Hồng nghe Bao Công tâu như vậy thì giận lắm, nghĩ thầm:
- Bao
Hắc tử thiệt là không kể đến ai hết, dám tới giữa trào bươi móc công việc mà
mắng nhiếc ta như vậy. Nếu ta có quyền phép thì chém quách cho đỡ giận...
Bao Công
lại tâu tiếp:
- Xin Bệ
hạ xét lại mà phán đoán cho minh bạch, đặng trừ bọn nịnh thần trong trào. Nay
tôi dám chắc rằng người làm bản ngự trạng này là người Bệ hạ tin cậy và thương
yêu.
Bàng Hồng
nghe tâu như vậy thì nghĩ thầm:
- Bây
giờ lão định quyết cho ta rồi còn gì đâu.
Thiên tử
nghe Bao Công tâu như vậy thì biết ý Bao
Công
định quyết cho Bàng Hồng rồi, nên kêu Bao Công nói:
- Bao
khanh ơi! Trẫm đã nói với Bao khanh cạn lời, sao Bao khanh cứ nài nỉ tra xét
người chủ sử như vậy. Vả người chủ sử không phải là người chánh tội, dẫu có tra
ra cũng không phải là nặng. Thôi Bao khanh đừng để ý đến làm chi.
Bao Công
thấy Thiên tử nói như vậy thì biết ý Thiên tử muốn che chở cho Bàng Hồng, dù có
tra xét cũng chẳng ích gì nên tâu:
- Bệ hạ
đã dạy như vậy thì tôi phải vâng lời.
Thiên tử
mừng rỡ liền dạy bãi chầu, các quan ai về dinh nấy.
Bao Công
về đến dinh liền sai Trương Long đến Thiên Ba phủ đòi Tiêu Đình Quý, Triệu Hổ
đến dinh Trầm Quốc Thanh đòi Y thị, còn Đồng Siêu thì đi bắt Trầm thị, Tiết Bá
thì vào thiên lao mà dẫn Trầm Quốc Thanh và Tôn Võ ra đặng có tra xét việc ấy.
Giây lâu
mọi người dẫn Tiêu Đình Quý, Y thị, Trầm Quốc Thanh và Tôn Võ đến mà không có
Trầm thị. Bao Công hỏi:
- Sao
lại thiếu Trầm thị như vậy?
Đồng
Siêu thưa:
- Trầm
thị trốn đi đâu mất, tôi tìm không ra.
Bao Công
hỏi Trầm Quốc Thanh:
- Vậy
Trầm thị ở đâu ngươi phải khai thiệt nếu không ta chẳng vị tình đâu.
Trầm
Quốc Thanh nghe hỏi nghĩ thầm:
- Vả em
mình là phận đàn bà, nếu bị Bao hắc tử tra thì chịu không nồi mà phải khai sự
thật, chi bằng ta ráng chịu thế cho nàng thì Bàng Quốc trượng mới khỏi liên
can.
Nghĩ như
vậy nên trả lời:
- Trầm
thị không phái là người Biện Kinh, khi tôi hỏi rồi thì tha nó đi, nên bây giờ
tôi không biết nó ở đâu mà chỉ.
Bao Công
nghe nói cười lớn:
- Té ra
ngươi còn muốn gian dối mà không chịu khai.
Trầm
Quốc Thanh nói:
- Chẳng
phải là gian dối, chỉ vì tôi không biết.
Bao Công
nạt lớn:
- Trầm
thị là em ruột của ngươi, sao ngươi lại không biết nó ở đâu? Vả lại án này chưa
tra xét xong, sao ngươi thả nó về.
Nói rồi
liền cho đòi Y thị vào hỏi:
- Ngươi
có biết Trầm Quốc Thanh giấu Trầm thị nơi đâu chăng?
Y thị cứ
sự thực khai ngay.
Bao Công
lại đòi Tiêu Đình Quý đến hỏi:
- Vậy
chớ sự việc ngoài Tam Quan ra thế nào, ngươi có hết thì hãy khai cho ta nghe.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Khi
ban đầu tôi vâng lệnh Nguyên soái đi thôi thúc chinh y, té ra đến nơi thì chinh
y đã bị cường đạo trên Ma Bàng sơn lấy hết.
Bao Công
nghe Tiêu Đình Quý nói thì lắc đầu nghĩ thầm:
- Té ra quả
có mất chinh y rồi, sao không thấy trong tờ biểu của Dương Tôn Bảo nói đến. Hay
là cũng có việc mạo công chăng?
Nghĩ như
vậy liền hỏi Tiêu Đình Quý:
- Ngươi
nói có mất chinh y sao trong tờ biểu của Dương nguyên soái không nói đến chuyện
ấy, nếu vậy là Dương nguyên soái có đồng lòng với Địch Khâm sai mà mạo công
giết cha con Lý Thành chăng?
Tiêu
Đình Quý nghe nói nổi giận, nạt lớn:
- Bấy
lâu nghe đồn Bao Công là người thiết diện vô tư, xử đoán việc gì cũng minh
bạch, thế mà nay ông hỏi như vậy thì tỏ ra không có chút gì công minh cả. Vả
Nguyên soái tôi là người tận trung báo quốc, không một mảy riêng tư, lẽ nào lại
đi bênh vực Địch Thanh mà giết kẻ có công lao? Còn Địch Thanh và Nguyên soái
cũng chẳng có bà con chi cả, lẽ đâu vì Địch Thanh mà bỏ Lý Thành?
Bao Công
nói:
- Cứ
theo ngự trạng của Trầm thị thì nói Lý Thành bắn chết Táng Thiên vương, Lý Đại
thì đâm chết Tử Nha Xai, thì cũng có cớ mà tin đặng. Còn ngươi nói Dương Tôn
Bảo và Địch Thanh không có đồng lòng, hay là ngươi cũng có ăn hối lộ của Địch
Thanh mà nói theo một phe chăng?
Tiêu
Đình Quý nạt lớn:
- Khi
Địch Thanh giết Táng Thiên vương và Tử Nha Xai tôi thấy rõ ràng.
Nói rồi
liền thuật hết mọi việc từ khi thôi thúc chinh y đến lúc cha con Lý Thành mạo
công, cho đến khi Tôn Võ tra xét lương tiền cho Bao Công nghe.
Bao Công
nghe rồi thì khiến kêu Tôn Võ vào hỏi:
- Công
việc ngươi tuân chỉ ra Tam Quan kiểm tra như thế nào hãy nói cho ta nghe.
Tôn Võ
nói:
- Khi
tôi tuân chỉ ra Tam Quan thì Dương Tôn Bảo niêm phong kho tàng lại hết, và nói
với tôi rằng: Lương khố hơn hai mươi năm nay năm nào cũng có thiếu cho nên năn
nỉ với tôi che chở giùm và lo hối lộ cho tôi khỏi kiểm tra. Tôi cũng có lòng
tham nên không tra xét. Trong lúc đang ngồi nói chuyện thì Tiêu Đình Quý nhảy
đến thộp ngực tôi mà đánh. Xin đại nhân xét cho.
Tiêu
Đình Quý nghe nói mắng lớn:
- Loài
súc sanh. Đừng có nói láo. Nguyên soái ta trấn nơi Tam Quan đã hơn hai mươi
năm, công việc chi xuất đều rõ ràng, không hề sai một mảy, thế mà ngươi lại
không nghĩ đến việc tra xét kho tàng, cứ việc kèo nài đòi của hối lộ cho nhiều,
như vậy không đánh ngươi sao được.
Lời bàn.
Những kẻ
có ý thức công bình bao giờ cũng sáng suốt trong việc xét đoán.
Bao Công
sở dĩ được tiếng vô tư là vì trong lúc lúc xét đoán không để lòng tự kỷ mình
xen vào công việc.
Lòng tự
kỷ khi xét đoán một việc gì, nếu để nó xen vào thì lẽ công bằng bị tổn thương.
Mặc dù Bao Công đã thấy đâu là gian thần, đâu là trung chánh, nhưng lúc xét
việc vẫn hãy nghe rõ trà tôn trọng lời nói của hai bên. Có tôn trọng ý kiến của
hai bên thì xét việc mới công bằng và chính đáng.
Tiêu
Đình Quý mắng Bao Công chỉ vì lòng ngay thẳng của mình không chịu nổi những lời
tà ngụy, còn Bao Công thì đi tìm những lời tà ngụy đó để chứng minh cho sự thật
để tìm ra lẽ phải. Trong mỗi công việc thì mỗi tính chất khác nhau, nên. không
thể bắt Bao Công phải thiên vị, dù là thái độ đối xử.
Đây cũng
là bài học cho những ai cầm trong tay quyền hành xét xử trước công lý.
HỒI THỨ BA MƯƠI BẢY - XÉT NGHI ÁN ĐỠ TRUNG DẰN
NỊNH.
Khi Tôn
Võ nghe Tiêu Đình Quý nói như vậy thì mắng lớn:
- Đồ
thất phu! Đừng có nói láo. Khi đó Dương Tôn Bảo năn nỉ lo lót với ta, nào ta có
kèo nài chi đâu mà ngươi nói gian cho ta như vậy?
Tiêu
Đình Quý nạt lại, nói:
- Vả
Nguyên soái ta là người thế tộc, vương hầu, danh vang thiên hạ, chấp chưởng binh
quyền, lẽ nào lại chịu năn nỉ với ngươi để lo lót tiền bạc hay sao.
Tôn Võ
nói:
- Xin
Bao đại nhân xét lại. Vả Tiêu Đình Quý khi trước đã đánh tôi, nay lại nhục mạ
tôi như vậy thật là không nể gì luật pháp.
Bao Công
nạt Tiêu Đình Quý:
- Ngươi
chớ nên lỗ mãng như vậy.
Liền
khiến quân kéo Tiêu Đình Quý ra, rồi khiến đòi Trầm Quốc Thanh vào hỏi:
- Ngươi
nên nói rõ Trầm thị hiện nay ở đâu?
Trầm
Quốc Thanh thấy có mặt Y thị ở đó liệu bề không dấu được liền khai:
- Trầm
thị đang ở Ni am.
Bao Công
liền khiến Trương Long, Triệu Hổ đến ni am mà bắt Trầm thị về. Không dè Trầm
thị hay được việc ấy, liệu bề trốn tránh không nổi nên đập đầu vào cột tự vẫn.
Trương
Long, Triệu Hổ đến nơi thấy sự việc như vậy liền
trở về
báo lại với Bao Công.
Bấy giờ
Bao Công xem xét và luận án:
-“ Nếu
Trầm thị muốn minh oan cho chồng mình sao không đến pháp đường mà đối nại, lại
liều mình như vậy, ấy rõ ràng là cha con Lý Thành mạo nhận công lao rồi đó. Hễ
rõ án cha con Lý Thành rồi thì Dương Tôn Bảo khỏi tội giết oan người có công.
Còn Tiêu Đình Quý đánh khâm sai, lẽ thì cũng nên luận tội, song nghĩ vì Tôn Võ
làm điều trái phép nên Tiêu Đình Quý nổi nóng mà làm càn, chớ không có ý đồ,
nên rộng dung cho Tiêu Đình Quý. Tôn Võ khai Dương Tôn Bảo sài hết của kho nên
lo hối lộ. Việc này sẽ sai người ra Tam Quan minh xét rồi sẽ luận tội. Địch
Thanh làm mất chinh y, chẳng mấy ngày cũng lấy lại được, lại lập nên công lớn,
thì lấy công mà dồn tội cũng được. Trầm thị đã dâng tờ ngư trạng giữa triều
đình, lẽ thì phải tra xét cho ra người chủ sử mà định tội luôn, song bây giờ
Trầm thị đã thác rồi, không còn tra cứu được thì cũng bỏ qua tội người chủ sử
Tôn Võ cãi lời chiếu mạng, không tra xét lương thảo, kèo nài hối lộ, tuy của
tang còn chưa rõ nhưng chứng cứ đã có. Dù vậy cũng không đến nỗi tử hình. Trầm
Quốc Thanh làm đến Ngư sử, hưởng lộc triều đình, đã không lo đền nợ nước lại
mong lòng hãm hại trung lương, gian ác như vậy xử tử đã đành. Y thị là người
hiền đức, khuyên chồng không được phải liều thân. Đàn bà như vậy thật đáng là
bậc trung quân ái quốc thì cũng đáng ban khen mà làm gương cho người khác. Còn
con tỳ nữ Tố Lan, tuy bị oai chủ nhà bắt buộc, song cũng là một đứa bất trung,
án ấy đáng tội treo cổ.
Nếu ngũ
hình không kịp thì làm sao ngăn kẻ gian tà, có công mà không thưởng thì lấy chi
mà khuyên người lương thiện. Vì vậy tôi hết lòng kính cẩn mà định rõ án
này."
Khi Bao
Công lên án rồi thì khiến đem Tôn Võ, Trầm Quốc Thanh và con tỳ nữ Tố Lan giam
vào ngục, còn Y thị và Tiêu Đình Quý thì cho về hết.
Hôm sau,
Thiên tử lâm trào, bá quan bái kiến xong, Bao Công dâng tờ án cho Thiên tử xem.
Thiên tử
xem rồi, nổi giận nói:
- Giận
lũ tặc thần không kiêng phép nước, nếu không có Bao khanh về triều thì Trẫm đã
lầm mưu mà giết oan tôi lương đống. Nay Trẫm y theo lời Bao khanh trừng trị
theo bản luận án. Còn Y thị là người đàn bà có lòng ngay thẳng như vậy, thật
đáng khen. Vậy Trẫm gia phong làm Trung liệt Nguyên hậu, mỗi năm ban bổng lộc
hai lần, gia tài của Trầm Quốc Thanh giao cho Y thị quản thủ hết.
Như vậy
Y thị đã may sống lại còn được hưởng phú quí vinh hoa. Còn Địch Thanh lấy công
đền tội, mà không được phong làm Nguyên soái, chờ ngày lập được công sẽ phong
thưởng.
Khi Bao
Công lui chầu thì dẫn Trầm Quốc Thanh, Tôn
Võ và Tố
lan ra pháp trường xử y như bản án.
Thi hành
bản án xong, Bao Công vào triều phục chỉ thì Thiên tử ban thưởng cho Bao Công
rất nhiều vàng bạc, nhưng Bao Công từ chối không nhận, chỉ quỳ tâu:
- Xin Bệ
hạ sai người ra Tam Quan mà tra xét kho tàng cho minh bạch, để biết rõ nội
tình.
Thiên tử
phán:
- Vậy
thì trong trào hiện nay ai có thể làm việc ấy?
Bàng
Hồng quỳ tâu:
- Tôi
nghĩ tội Địch Thanh làm mất chinh y, mà Dương Tôn Bảo không tâu cùng Bệ hạ thì
hai người ấy đều phạm tội khi quân, xin Bệ hạ xét lại.
Bao Công
nghĩ thầm:
- Ta đã
không hạch tội nó ra thì thôi, nó còn muốn bước ra nữa.
Nghĩ như
vậy quỳ tâu:
- Khi
trước Bàng Quốc trượng tiến cử Tôn Võ ra Tam Quan tra xét thương khố, nay Tôn
Võ bị tội thì Bàng Quốc trượng cũng liên can về tội tiến cử bất lực. Vả lại Tôn
Võ lại đòi ăn hối lộ cho Bàng Quốc trượng nữa thì tội của Bàng Quốc trượng còn
nhiều hơn tội của Dương Tôn Bảo. Xin Thánh thượng theo phép nước mà trị tội.
Thiên tử
nghe Bao Công tâu như vậy thì phán:
- Đây là
việc nhỏ mọn mà cũng không có chí làm chắc. Thôi, Trẫm cũng bỏ qua không làm
tội cho hai đàng hết.
Bàng
Hồng tạ ơn. Vừa muốn tâu nữa thì Thiên tử phán:
- Bàng
khanh chẳng nên nhiều lời.
Bàng
Hồng tâu:
- Chẳng
phải là tôi tranh cãi đâu. Tôi chỉ có ý muốn tiến cử một người ra Tam Quan mà
tra xét thương khố thôi.
Thiên Tử
hỏi:
- Vậy ý
khanh muốn tiến cử ai?
Bàng
Hồng tâu:
- Có
Binh bộ Thượng thư là Tôn Tú tánh rất công bình, chính trực, nếu Bệ hạ sai
người ấy thì rất tốt.
Thiên Tử
liền hỏi Bao Công:
- Nên
sai Tôn Tú đi việc ấy hay không?
Bao Công
tâu:
- Nếu
sai Tôn Binh bộ đi thì cũng được việc.
Thiên Tử
nghe theo, trên truyền cho Tôn Tú ra Tam Quan mà tra xét thương khố.
Bàng
Hồng lại tâu:
- Nếu Bệ
hạ sai Tôn Tú thì cũng nên giao cho Tôn Tú đem Thánh chỉ ra Tam Quan luôn thể.
Bao Công
nghe Bàng Hồng tâu như vậy thì nghĩ thầm:
- Loài
gian tặc thật là độc ác, còn muốn lập mưu Tôn Tú đi đặng mà hãm hại trung thần.
Thôi ta cũng làm thinh để coi chúng nó làm điều gì quấy mà trị tội.
Thiên Tử
truyền bãi chầu. Các quan ai về dinh nấy.
Khi Bao
Công bãi chầu thì đến viếng Dư Thái hậu, thuật hết mọi việc cho Dư Thái hậu
nghe, và khiến Trần Đạt, Tiêu Đình Quý hãy mau mau trở về Tam Quan kẻo lầm mưu
gian thần. Hai tướng vâng lệnh ra đi.
Kế đó,
Tôn Tú đến từ giã Bàng Hồng. Bàng Hồng nói:
- Bấy
lâu nay cha con ta tính kế hại Dương Tôn Bảo Địch Thanh, té ra kế nào cũng
không xong hết. Nay cha tính xin cho con ra đó thì con phải tìm cách mà hành
động để trừ cho được hai tên ấy. Nhưng phải cho khéo léo kẻo lậu sự thì Bao Hắc
tử chẳng chịu dung tình đâu.
Tôn Tú
nói:
- Việc
ấy xin nhạc phụ chớ lo, để con tới đó sẽ tùy cơ ứng biến.
Nói rồi liền
từ tạ ra đi.
Hôm sau,
Bao Công vào triều tâu rằng:
- Nay
tôi còn có một điều rất lớn, nên xin Bệ hạ tra xét cho minh bạch.
Thiên Tử
hỏi:
- Vậy
Bao khanh có chuyện gì hãy tâu cho Trẫm nghe?
Bao Công
tâu:
- Việc
này có liên can đến Tiên Đế, ảnh hưởng rất lớn đến triều-đình, nên lâu nay dẫu
tôi có tài năng đến đâu cũng không tra xét được.
Lúc ấy
các quan nghe Bao Công tâu thì lấy làm lạ không biết việc chi, còn Thiên Tử thì
vội vã hỏi:
- Việc
gì mà quan trọng như vậy?
Bao Công
tâu:
- Nay
tôi xét lại lý lịch của Bệ hạ thì cũng không thiệt là Thiên Tử, cho nên phải
lấy lý mà luận cho minh.
Thiên Tử
và quần thần nghe nói thì ai ai đều sửng sốt, lấy mắt nhìn nhau.
Bàng
Hồng tâu:
- Bao
Chuẩn tâu lời ấy thật là đáng tội khi quân, xin Bệ hạ lấy phép mà trừng trị.
Thiên Tử
hỏi Bao Công:
- Khanh
gọi Trẫm không thiệt là Thiên Tử. Vậy khanh còn biết Thiên Tử nào thiệt hay
không?
Bao Công
tâu:
- Nếu bệ
hạ có bằng cớ chi trong mình thì mới thiệt Thiên Tử, còn như không có bằng cớ
thì chắc là còn có chơn mạng Thiên Tử khác nữa, song tôi không biết lưu lạc nơi
đâu.
Thiên Tử
nghe nói thì cười rằng:
- Vả
khanh là đạo làm tôi sao lại dám hỏi bằng cớ của Trẫm. Trẫm đã trị vì bảy tám
năm nay, thì Hoàng thân Quốc thích, văn võ bá quan không ai dám nói tiếng chi
hết, sao khanh lại dám nói lời ấy.
Bao Công
lại tâu:
-Xin bệ
hạ thiệt cho tôi rõ, rồi sẽ tâu hết các việc cho Bệ hạ nghe. Vậy chớ trong long
thể của Bệ hạ có dấu tích cho khác hơn người thường chăng?
Thiên Tử
nghe hỏi thì cười rằng:
- Trong
bàn tay của Trẫm có hai chữ SƠN HÀ còn ở bàn chân Trẫm có hai chữ Xã Tắc Như
vậy có làm bằng cớ được chăng?
Bao Công
nghe Thiên Tử nói y như lời của Lý Thần phi thì tâu:
- Như
vậy thì Bệ hạ quả là chơn mạng thiên tử rồi, ngặt bây giờ Bệ hạ không rõ mẹ đẻ
của Bệ hạ là ai.
Thiên Tử
nói:
- Mẹ đẻ
của Trẫm đang ở tại Nam Thanh cung chớ ở đâu.
Bao Công
tâu
Nam
Thanh cung Địch thái hậu là mẹ đẻ của Lộ Huê Vương mà thôi chớ không phải là mẹ
đẻ của Bệ hạ đâu.
Thiên Tử
nghe tâu lấy làm lạ, hỏi:
- Khanh
nói Nam Thanh cung Địch thái hậu không phải là mẹ của Trẫm, vậy khanh biết mẹ
đẻ của Trẫm là ai không?
Bao Công
tâu:
-Bây giờ
Quách Hòe ở tại cung nào? Nếu Bệ hạ muốn biết mẹ đẻ của Bệ hạ thì cứ tra hỏi
Quách Hòe thì mới rõ.
Thiên tử
nghe tâu liền chỉ Thái giám vào Vĩnh An cung triệu Quách Hòe.
Thái giám
vâng lệnh ra đi. Thiên Tử lại hỏi Bao Công:
- Nếu
Bao khanh hiểu biết việc ấy thì tâu rõ cho trẫm nghe.
Bao Công
liền tâu hết các việc bị gíó thổi bay mão nơi Trần Kiều, đến việc gặp Lý Thần
Phi trong lò gạch.
Thiên Tử
nghe tâu cả mình rởn ốc, ngồi sửng sốt,không nói chi đặng. Còn các quan thì ai
nấy đều sửng sốt, song không biết chân giả thế nào.
Nguyên
Quách Hòe là người tâm phúc của Lưu thái hậu nên thì khi Nhơn Tôn lên ngôi thì
Thái hậu gia phong Cửu tích cho Quách Hòe, lại cho phép an dưỡng thân già nơi
Vĩnh An cung, khỏi việc sai khiến chi hết. Vì vậy cho nên Quách Hòe ỷ có quyền
thế thì nội trong cung muốn giết ai thì giết, muốn đánh ai thì đánh mà chẳng ai
dám nói điều chi. Mỗi ngày Quách Hòe cứ ăn tiệc và chơi cờ, không biết tới việc
chi hết.
Ngày kia
có Thái giám vào báo với Quách Hòe:
- Thiên
Tử truyền triệu đến cung.
Quách
Hòe cười nói:
- Ta là
người an nhàn vô sự, có việc chi mà Thiên Tử triệu ta? Ngươi hãy trở lại mà tâu
cùng Thiên Tử là ta mắc uống rượu, không rảnh mà đi chầu. Nếu có việc chi cần
thì chờ lúc ta rảnh ta sẽ đến.
Thái
giám nghe nói như vậy thì đem lòng giận, song không dám nói gì hết, cứu đem lời
ấy về tâu lại cho Thiên Tử nghe.
Thiên Tử
nổi giận nói:
- Loài
súc sanh! Nó ỷ thế Thái hậu mà không kiêng phép nước. Thôi, Trẫm cũng vị tình
Lưu Thái Hậu mà cho triệu một phen nữa.
Bèn sai
nội thị đi mời Thái giám đến nói với Quách Hòe rằng:
- Nay có
việc quốc gia đại sự mà văn võ bá quan không nghị nổi, nên phải cho đòi Thái
giám đến, không được nghịch chỉ.
Nội thị
vâng lệnh đến thẳng Vĩnh An cung nói lại y như lời Thiên Tử.
Quách
Hòe nghe nói thì cười rằng:
- Dầu có
việc đại sự đi nữa thì bá quan văn võ nội trào lại không có người nào toan liệu
hay sao. Ta là người già cả rồi mà lại không phải công việc của ta nữa. Thôi để
ngày nào ta rảnh ta sẽ đến.
Lưu Thái
Hậu nói:
- Nếu
nói như vậy thì trái lẽ quân thần rồi. Ta e không khỏi triều thần dị nghị.
Quách
Hòe nói:
- Có
việc chi mà triều thần dám dị nghị.
Thái hậu
nói:
- Thiên
Tử vời nhà ngươi đã hai lần mà ngươi không chịu đến thì không phải ngươi khinh
dể Thiên Tử sao? Thôi, phải đi chầu một chút cho khỏi miệng quần thần bàn luận
thị phi
Quách
Hòe nói:
- Nương
nương phỏng đoán như vậy chớ triều thần ai dám dị nghị gì đâu.
Lưu Thái
Hậu nói:
- Nhà
ngươi đừng nói như vậy. Tuy trước mặt không dám nói nhưng sau lưng không khỏi
tiếng thị phi.
Quách
Hòe nói:
- Nếu
Nương nương nói như vậy thì tôi phải đi.
Lưu Thái
Hậu nói:
- Ngươi
có đi thì đi cho mau để trở về cùng ta yến ẩm kẻo ta chờ.
Quách
Hòe vâng lời, khiến tả hữu đỡ mình lên kiệu đi vào chầu Thiên Tử.
Nguyên
Quách Hòe lúc này đã tám mươi ba tuổi, mà lại mập lắm nên đi không nổi. Mỗi.
lần đi đâu đều phải có người đỡ mới được.
Vào đến
nơi, Quách Hòe tâu:
- Chẳng
hay Thiên Tử triệu tôi có việc chi?,
Thiên Tử
nói:
- Vì có
một việc rất oan ngày trước, nên Trẫm phải triệu ngươi đến mà xét việc ấy.
Quách
Hòe tâu:
- Có
việc chi quan trọng mà oan ức?
Thiên Tử
nói:
- Trước
đây mười tám năm có xảy ra việc ly miêu hoán chúa và thiêu hủy Bích Vân cung,
khanh có biết không?
Quách
Hòe nghe nói thì kinh hãi, nghĩ thầm:
- Việc
ấy đã 18 năm, duy có một mình ta và Lưu Thái hậu biết mà thôi, tại sao hôm nay
lại tiết lậu như vậy? Chắc là có chuyện bất thường, vậy ta cứ dấu nhẹm đi là
hơn.
Nghĩ như
vậy liền tâu:
- Việc
ấy thiệt tôi không biết, xin Bệ hạ hỏi người khác thì hơn.
Thiên Tử
thấy Quách Hòe không chịu nói thì nạt lớn:
- Nay
việc đã tiết lộ ra như vậy mà ngươi còn giấu giếm nữa sao?
- Quách
Hòe tâu:
- Việc
ly miêu hoán chúa và tiêu hủy Bích Vân cung thì tôi đều không biết, xin Bệ hạ
đừng hỏi đến tôi nữa.
Nói rồi
liền khiến kẻ tả hữu đỡ mình lên kiệu trở về cung. Bao Công thấy vậy nổi giận
thộp ngực Quách Hòe nạt lớn:
- Quách
Hòe!Đến nỗi này mà ngươi còn không kiêng phép nước, dám vô lễ như thế sao?
Quách
Hòe nạt Bao Công nói:
- Ngươi
là người chi? Làm đến chức chi mà ngang tàng như vậy?
Lời bàn.
Trong
cuộc sống ai cũng đua chen về danh lợi mà chính vì danh lợi đã đưa con người
đến những hành động bất nhân, bất nghĩa, đến lúc hối hận thì việc đã lỡ rồi.
Kẻ có
lòng nhân đạo thì tránh không làm điều ác, dẫu chết cũng không hối tiếc. còn kẻ
bất nhân,bất nghĩa vì thua vọng mà làm những việc vô nhân tâm, đến lúc xảy ra
tội thì sợ chết, chối quanh.
Không có
kẻ nào tham lam lợi danh mà không sợ chết vì lợi danh là nguồn hưởng thụ của
họ. Đã ham hưởng thụ thì sợ chết là lẽ đương nhiên.
Quách
Hòe lúc dấn thân vào con đường tội lỗi thì chớ nghĩ đến danh vọng và quyền lợi,
rồi đến lúc bị tiết lộ là đau khổ vì sợ chết.
Kẻ sợ
chết thì lắm khi làm những việc trái đạo nghĩa.
HỒI THỨ BA MƯƠI TÁM - TỐNG CHÚA THƯƠNG MẸ
TRONG LAO KHỔ.
Bao Công
thấy Quách Hòe vô lễ như vậy thì hét lớn:
- Thuở
nay ngươi không nghe danh của Bao Chuẩn hay sao?
Quách
Hòe nói:
- Té ra
ngươi cũng chỉ là một đứa thất phu lỗ mãng,chẳng kiêng đến Tiên Đế, không kể
đến Lưu Thái Hậu chút nào, cho nên ngươi mới dám khinh miệt ta như vậy.
Bao Công
nói:
- Quách
Hòe! Tội ngươi đã lớn như vậy mà ngươi không biết hay sao?
Quách
Hòe nói:
- Ai có
tội gì đâu mà biết?
Bao Công
nói:
- Ngươi
là người tàn nhẫn, dám làm chuyện ly miêu hoán chúa, thiêu hủy Bích Vân cung,
hãm hại Lý Thần Phi, đã sâu độc như vậy thì trời đất nào dung tha.
Quách
Hòe nói:
- Ngươi
đừng cậy tài lẻo mép mà vẽ rắn thêm chân, việc ấy đã không có bằng cớ, lại
không có tông tích gì mà ngươi dám nói càn như vậy?
Nói rồi
liền hối kẻ tả hữu đỡ mình lên kiệu đặng trở về dinh.
Bao Công
nạt lớn:
- Quách
Hòe! Ngươi không về cung được đâu. Nếu ngươi cãi lời ta ắt không khỏi tội.
Thiên tử
thấy vậy cũng nổi giận, truyền thị vệ bắt Quách Hòe trói lại. Quách Hòe bị trói
lật đật quỳ xuống năn nỉ:
- Oan
tôi lắm Bệ hạ ôi! Tôi nay đã tám mươi ba tuổi mà chưa làm điều gì lầm lỗi, xin
Bệ hạ đừng nghe lời Bao Chuẩn mà giá họa cho tôi.
Thiên tử
nói:
- Quách
Hòe! Ngươi phải khai ngay việc ly miêu hoán chúa và thiêu hủy Bích Vân cung cho
rõ ràng, nếu không thì Trẫm phải giao ngươi cho tam pháp ty tra xét.
Quách
Hòe nghĩ thầm:
- Việc
này là việc lớn, nếu khai ra thì Lưu thái hậu cũng không khỏi tội.
Nghĩ vậy
liền tâu:
- Nay Bệ
hạ hỏi tôi việc ly miêu hóan chúa và việc thiêu huỷ Bích Vân cung mà việc ấy
tôi không biết, xin Bệ hạ xét lại, chớ nghe lời Bao Công mà oan ức cho tôi.
Bao Công
tâu:
- Xin Bệ
hạ giao việc này cho đại thần tra xét thì mới rõ được, nếu hỏi như vậy thì
Quách Hòe không chịu khai đâu.
Bàng
Hồng tâu:
- Việc
này xin Bệ hạ chọn người khác để tra xét, còn Bao Công là người khống cáo, nếu
giao việc ấy cho Bao Công thì mất lẽ công bằng.
Thiên tử
nghe tâu gật đầu hỏi:
- Theo ý
Bàng khanh thì việc này nên giao cho ai?
Bàng
Hồng tâu:
- Tôi là
người vô can xin Bệ hạ giao cho tôi tra xét.
Bao Công
tâu:
- Việc
này nếu giao cho Bàng quốc trượng tra xét thì chắc có nhiều tà vạy, mà đã tà
vạy thì không thể làm sáng tỏ được. Như vậy Lý nương nương phải vùi thân trong
lò gạch cho đến mãn kiếp mà thôi.
Thiên tử
ngẫm nghĩ một lúc rồi hỏi:
- Theo
lời Bao khanh nói thì việc này nên giao cho ai.
Bao Công
tâu:
- Nay
Bàng quốc trượng gọi tôi là người khống cáo, nếu đứng ra mà tra xét thì mất lẽ
công bằng, vậy xin Bệ hạ giao cho Vương Bỉnh là người chính trực thì mới tra
xét được.
Thiên tử
liền truyền chi giao cho Vương Bỉnh hiện là Hình bộ thượng thơ đem Quách Hòe về
tra xét.
Vương
Bỉnh lãnh chỉ đem Quách Hòe về dinh. Vua truyền bãi triều, các quan ai về dinh
nấy.
Khi vua
về đến cung thì Bàng quý phi ra đón tiếp, thấy mặt vua có vẻ buồn thì hỏi:
- Hôm
nay có việc gì mà Bệ hạ buồn như vậy?
Thiên tử
thuật lại mọi việc của Bao Công cho Bàng quý phi nghe.
Bàng quý
phi nói:
- Tuy
Bao Chuẩn nói như vậy, song việc ấy thiếp tưởng không chắc xin Bệ hạ chớ tin.
Thiên tử
nói:
- Bao
Chuẩn là người chính trực vô tư, lẽ nào đem dạ khi quân mà tâu dối như vậy.
Còn Lưu
thái hậu thấy Quách Hòe đi đã lâu mà không về thì trong lòng nóng nảy lắm. Xảy
có người đến thuật việc Quách Hòe bị bắt cho thái hậu nghe. Thái hậu kinh hãi
làm tờ mật chiếu và lấy vàng bạc, châu báu khiến người đem lo với Vương Bỉnh.
Còn Vương
Bỉnh lãnh Quách Hòe về dinh, rồi thẳng hậu đường mà thuật hết các việc cho phu
nhân nghe.
Mã phu
nhân nói:
- Chắc
là Bao Chuẩn gặp yêu ma ngoài đường rồi về triều đặt điều nói.như vậy. Chuyện
ấy thiếp đây là đàn bà còn không tin huống chi Thánh Thượng cùng văn võ bá
quan.
Vương
Bỉnh nói:
- Bao
Công là người chánh trực, vô tư, lẽ nào lại dám bày đặt chuyện ấy mà khi quân.
Mã thị
lắc đầu nói:
- Tướng
công là người thông minh, trí tuệ, ra giúp triều đình đã mười mấy năm nay, sao
lại không biết việc ấy là việc quan trọng, lại lãnh làm chi những điều cực khổ
như vậy?
Vương
Binh nói:.
- Việc
này không phải ta đứng ra mà lãnh đâu. ấy là tại Thánh thượng hạ chỉ mà phú
thác cho ta, không thể từ chối được
Mã thị
nói:
- Cả
trào văn võ không lẽ hết người cho Thánh Thượng phó thác hay sao? ý vì trào
thần thấy việc quan trọng nên không ai dám mó tay vào, duy có tướng công là
người khờ khạo vụng tính, nên ôm lấy của nợ ấy. Thôi, thiếp khuyên tướng công
một lời ngày mai vào chầu phải từ chối việc ấy thì mới an ổn cho.
Vương
Bỉnh nghe vợ nói như vậy thì vừa buồn, vừa giận song ngồi làm thinh không nói
gì hết.
Lời bàn.
Mã thị,
vợ Vương Bỉnh là phận đàn bà, nhưng xét về sự hiểu biết thì hơn Vương Bỉnh
nhiều.
Thông
thường mỗi việc khi dính líu đến nhiều người thì chẳng khác một sợi dây chằng
chịt, ràng buộc với nhau, quan trọng hơn nữa là việc có quan hệ đến những kẻ có
quyền cao, chức trọng. Dù không tư vị, nhưng vẫn đương nhiên gây thù oán với kẻ
bị tai họa. Cho nên, nếu đứng về lập trường hy sinh để làm sáng tỏ lẽ công bằng
trong xã hội thì chẳng nói làm chi, còn ở đây Vương Bỉnh lại tham danh, muốn
dâng công với triều đình mà xông vào chỗ thù hận thì tất nhiên phải bị tai họa
trút lên công việc làm của mình.
Những
lời khuyên can của đàn bà đôi lúc cũng rất cần cho đàn ông trong cuộc sống.
HỒI THỨ BA MƯƠI CHÍN - ĐIÊU NGU PHỤ GIỤC CHỒNG
LÀM BẤT NGHĨA.
Khi Mã
thị thấy chồng ngồi làm thinh có vẻ buồn thì hỏi:
- Tướng
công ơi! Thiếp can gián tướng công bấy nhiêu lời mà tướng công đem lòng giận
thiếp làm chi?
Vương
Bỉnh nói:
- Không
phải là ta giận phu nhân đâu. Sở dĩ ta làm thinh là đang suy nghĩ cách nào để
tra xét việc ấy cho Thiên Tử.
Mã thị
nói:
- Nếu
tướng công không giận thiếp thì hãy nghe thiếp
một lời
này.
Vương
Bỉnh nói:
- Phu
nhân muốn nói gì cứ nói đi.
Mã thị
nói:
- Lời
xưa có nói: Gây việc không bằng bới việc. Nếu tướng công đem Quách Hòe ra mà
tra thẳng thì đặng lòng Bao Công mà mích lòng Lưu Thái Hậu, tôi e mai sau sanh
thù, sanh oán thì Bao Công cũng điềm nhiên tọa thị, không giúp đỡ cho tướng
công đâu. Chi bằng tướng công nói việc vô bằng, vô cớ mà phục chỉ Thiên Tử đặng
Thiên Tử giao lại cho Bao Công thì mới khỏi gây ra thù oán. Nếu tướng công
không nghe lời thiếp thì ắt là họa tới bên mình chớ chẳng không..
Vương
Bỉnh nói:
- Nói
như phu nhân chẳng là sai lắm. Nếu ta tra đặng án này thì Thiên Tử được mẹ, mà
Lý Thần Phi đặng làm Thái Hậu, lẽ nào Thiên Tử và Thái Hậu không mang ơn ta hay
sao? Nếu hai bà Thái Hậu mang ơn ta thì ai dám thù oán.
Phu nhân
nói:
- Người
đàn bà ấy đã gọi là mẹ vua, sao bấy lâu nay lại cam lòng chịu khổ, không đến
quan địa phương mà minh oan, để đến lúc Bao Công đi đến Trần Kiều rồi mới tìm
cách kêu oan. Tôi chắc là không phải mẹ vua đâu. Sao tướng ông lại thấp trí
vụng toan, lời phải cũng nghe, lời quấy cũng nghe, không biết suy xét như vậy
Vương
Bỉnh nói:
- Lời
phu nhân nói rất phải, nếu ta không nghe theo thì ta thiệt vụng tính lắm.
Mã thị
nói:
- Như
tướng công nghe theo lời thiếp thì có ngày được hưởng tước lộc cao sang chớ
chẳng không.
Vương
Bỉnh nói:
- Bây
giờ ta đã lỡ lãnh chỉ rồi, vậy phu nhân toan tính lẽ nào?
Mã thị
suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Việc
ấy không khó, phải làm sao cho có lợi cho mình mà không để phật lòng hai bên là
được.
Vương
Bỉnh nói:
- Vậy ta
sẽ làm đúng theo lời khuyên của phu nhân.
Vợ chồng
đang thương nghị thì có gia nhân vào báo:
- Có
Vương An đem mật chỉ của Lưu Thái Hậu đến ra mắt.
Vương
Bỉnh mời Vương ân vào, rồi giở mật chỉ ra xem, thấy châu báu vàng bạc rất
nhiều, còn thật chỉ thì khiến Vương Bỉnh làm sao cho Quách Hòe khỏi tội thì sẽ
được hưởng vàng bạc và châu báu ấy.
Vương
Bỉnh xem xong, nói với Vương Ân:
- Vậy
công công hãy về tâu cùng Thái Hậu rằng việc tôi xin vâng theo lời Thái hậu
dạy.
Vương Ân
nói:
- Nếu
đại nhân vâng theo lời ấy thì chẳng những được thưởng bao nhiêu vàng bạc đó
thôi, ngày sau còn cho đại nhân cao thăng quyền tước nữa.
Nói xong
từ tạ ra về, còn Vương Bỉnh trở lại hậu đường nói cho phu nhân hay và khiến gia
đinh đem vàng bạc châu báu vào cho phu nhân xem nữa.
Phu nhân
mừng rỡ nói:
- Tướng
công thấy chưa. Có phải là trí tôi liệu định không lầm, công việc chưa ra gì mà
Thái hậu nương nương ban cho châu báu như vậy, đến khi xong việc rồi ắt được
quyền cao lộc cả chớ chẳng không.
Vương
Bỉnh cũng tươi cười nói:
- Phu
nhân thật là cao kiến.
Hai vợ
chồng mở tiệc ăn mừng. Trong lúc đang ăn uống. Mã thị nói với chồng:
- Quách
công công là người tước vị cao trọng, không lẽ tướng công bắt giam trong thiên
lao như vậy, xin tướng công sai gia đình đến thiên lao mà rước người về đây
đặng cùng ăn uống với vợ chồng ta cho vui.
Vương
Bỉnh nói:
- Phu
nhân nói cũng phải, nhưng giờ này còn sớm lắm e người ngoài xem thấy không khỏi
dị nghị.
Lúc này
Bao Công đi tuần nhưng không ngồi kiệu, mà cũng không cỡi ngựa, mặc đồ thường
phục, đi với Trương Long, Triệu Hổ, Đổng Siêu, Tiết Bá. Khi gần đến nha môn của
Vương Bỉnh thì gặp Vương ân mà Vương ân không biết Bao Công, nên cứ tự nhiên đi
tới. Bao Công thấy Vương Ân mặc đồ thái giám, liền đến gần hỏi:
- Vậy
chớ ai sai ngươi đi đâu đây?
Vương Ân
không thèm trả lời, cứ xăm xăm lướt tới.
Bao Công
nghĩ thầm:
- Giờ
này mà có người sai thái giám ra đường chắc là có duyên cớ chi đây?
Nghĩ
rồi, liền sai Trương Long rượt theo bắt lại:
Vương Ân
thất kinh nói lớn:
- Ai mà
cả gan dám bắt ta như vậy?
Trương
Long nói:
- Bao
đại nhân hỏi ngươi sao ngươi không chịu trả lời, nên Bao đại nhân sai ta đến
bắt.
Vương ân
nghe nói đứng sửng sốt, Bao Công bước đến hỏi:
- Ngươi
vâng lệnh ai mà giờ này lại ra đây?
Vương ân
đáp:
- Tôi
vâng lệnh Thiên Tử chớ ai.
Bao Công
hỏi:
- Thiên
Tử sai ngươi đi đâu đây?
Vương ân
đáp:
- Thiên
Tử sai tôi đến dinh Vương Hình bộ.
Bao Công
hỏi:
- Thiên
Tử sai ngươi đến đó có chuyện chi chăng?
Vương ân
nói:
- Thiên
Tử sai tôi đến đó dặn dò Vương Hình bộ phải tra xét cho ra việc ly miêu hoán
chúa. Vậy đại nhân tha cho tôi về phục chỉ kẻo Thiên Tử trông.
Bao Công
nghe nói cười thầm:
- Ngươi
đừng có xảo trá. Nay việc đã tiết lộ rồi, ta biết ngươi không phải vâng lệnh
Thiên Tử mà do một kẻ nào đó sai khiến.
Nói rồi
liền khiến Trương Long, Triệu Hổ dẫn Vương Ân về nhà.
Khi về
đến nha môn rồi thì Bao Công khiến dẫn Vương Ân ra giữa pháp đường tra xét.
Vương Ân
lớn tiếng nói:.
- Bao
Chuẩn. Ta vâng lệnh Thánh Thượng đến dinh
Vương
Hình bộ, sao ngươi dám bắt ta?
Bao Công
nạt lớn:
- Ngươi
đừng có gian dối. Nếu Thánh thượng có sai ngươi đi đâu thì sai lúc ban ngày,
còn nếu đi ban đêm thì cũng phải có đèn đuốc, sao lại đi âm thầm như vậy. Bên
trong chắc có việc gian dối, nếu ngươi không chịu khai thì ta sẽ tra khảo cho
ra lẽ.
Vương ân
nghĩ thầm:
- Nếu
vậy Bao Chuẩn quả là kẻ thông minh, suy đoán không lầm. Tuy vậy, ta không chịu
khai, không lẽ nó làm chi ta được.
Nghĩ như
vậy, Vương ân nói:
- Bớ Bao
Chuẩn! Ngươi đừng có nói bậy. Rạng ngày ta sẽ tâu lên Thánh Thượng thì ngươi
không khỏi tội khi quân.
Bao Công
nổi giận, khiến quân tra khảo, Vương Ẩn đau quá nên nghĩ thầm:
- Bao
Công là người mặt sắt, không vị nể ai, đến nỗi Thánh Thượng còn phải nể thay.
Ta liệu không thể dấu được vậy thì cứ khai phứt đi cho xong.
Nghĩ rồi
liền đem hết các việc khai hết cho Bao Công nghe. Bao Công lấy lời khai rồi
khiến người đem giam vào ngục và nghiêm cấm không cho ai được tiếp xúc.
Công
việc xong, Bao Công ngồi một mình suy nghĩ:
- Nay đã
lấy được bằng cớ rõ ràng, Lưu Thái Hậu sai người lo lót với Vương Bỉnh để làm
điều quấy, thế mà bấy lâu nay ta cứ tưởng Vương Bình là người công bình, chính
trực thế mà bị vàng bạc làm ngã lòng. Vương Bình cũng là người đồng liêu với
ta, nếu ta làm cho ra lẽ để thân oan cho Lý Thần Phi mà Vương Bỉnh phải rụng
đầu thì cũng thật đau khổ, còn như không làm ra thì ta cũng mang tội khi quân.
Thôi, ta cốt giữ lấy sự thật, còn sự việc đến đó sẽ hay.
Nghĩ như
vậy, bèn vào phòng an nghỉ.
Đêm ấy,
Vương Bình sai người vào thiên lao rước Quách Hòe về dinh mà thết đãi.
Quách
Hòe mừng rỡ nói:
- Tôi
nghe Vương đại nhân phụng chỉ tra xét án này. Vậy đại nhân chừng nào mới tra
xét, xin cho tôi biết.
Vương
Bình nói:
- Việc
này là tại Bao Công bày ra mà hãm hại công công chớ tôi cùng văn võ bá quan
không ai có lòng ấy. Lúc ở trong triều nếu tôi không lãnh mạng tra xét thì chắc
Thiên Tử đã giao cho Bao Công rồi.
Quách
Hòe nói:
- Dẫu
cho Bao Công có tra khảo đến đâu tôi cũng chẳng khai đâu.
Vương
Bỉnh nói:
- Nếu
Bao Công dùng hình phạt nặng nề thì công công làm sao chịu nổi, cho nên tôi
lãnh mạng đem công công về đây mà tra xét cho dễ.
Quách
Hòe nói:
- Vậy
chớ Lưu Thái Hậu có dặn đại nhân điều chi không?
Vương
Bình liền thuật hết các việc Lưu Thái Hậu đem lót tiền bạc cho Quách Hòe nghe.
Rồi lại nói với Quách Hòe:
- Khi
tôi chưa thấy tờ mật chỉ của Thái hậu thì có muốn che chở việc ấy, đến chừng có
mật chỉ rồi thì lại có lòng lo lắng tìm cách bảo vệ cho công công. Nhưng việc
này cũng rất khó, cho nên tôi sai người lén vào thiên lao rước công công về đây
cùng thương nghị.
Quách
Hòe mừng rỡ cùng ngồi lại ăn uống cùng Vương Bình để bàn tính sự việc.
Lời bàn.
Quyền
lợi trong cuộc sống con người rải khắp mọi nếu ở triều đình, người ta tranh
đoạt nhau, âm mưu từng hành động, từng sự việc, chia nhau từng phe phái để cấu
kết với nhau mưu đoạt lợi, thì ở trong gia đình, giữa vợ chồng kẻ thân yêu với
nhau cũng do quyền lợi hưởng thụ mà phối mọi cảm nghĩ.
Lúc đầu,
Mã thị vì sợ chồng mình lấy lòng ngay thẳng công bình mà bị phe đối địch thù
oán, thì về sau, vì sự lợi lộc mà xuyên tạc ý nghĩ ban đầu, không còn sợ hiểm
nguy.
Còn
Vương Bình thì cũng muốn bày tỏ lương tâm của mình qua hành động để dù nguy
hiểm cũng được tiếng thơm thế mà lúc đã ngửi thấy mùi vàng bạc, ý niệm ấy tan
biến hết.
Thế nên,
tiền bạc, của cải làm cho lòng người biến đổi rất nhanh, đổi từ chỗ thiện tâm
đến ác tâm rất dễ.
Bao Công
có tiếng là người thiết diện, vô tư, nhưng ở lúc này, khi Vương Bỉnh, người bạn
đồng liêu bị sa vào tội lỗi cũng biết đau buồn, khổ sở. Như vậy lẽ công bằng do
lương tâm con người mà có, nhưng lương tâm con người lại day dứt trước đau khổ
của tình cảm.
Điều
đáng nói ở đây là Bao Công đã chiến thắng tình cảm cá nhân mình, khi đứng trước
lẽ công bình. Sự chiến lắng ấy chính là bản lãnh đấu tranh, sức mạnh của lẽ
phải.
HỒI THỨ BỐN MƯƠI - VƯƠNG BỈNH HAM CỦA HỐI LỘ
HẠI THÂN.
Trong
khi ăn uống với Vương Bình thì Quách Hòe hỏi
- Bây
giờ đại nhân tính tra xét thế nào xin cho tôi biết.
Vương
Bình nói:
- Việc
này nội trong trào tôi không nể ai hết duy có Bao Công có trí xét đoán tài
tình, nếu sơ xuất không thể qua mắt ông ta được. Bây giờ tôi tính chọn một
người giống hệt công công đem ra giữa pháp đường mà tra tấn, còn công công thì
núp nơi chỗ kín vừa khóc than, vừa kêu oan. Như vậy thì che mắt thiên hạ mới
được.
Quách
Hòe mừng rỡ nói:
- Nếu
đại nhân làm được như vậy thì tôi mang ơn đại nhân rất lớn mà Lưu Thái Hậu cũng
mang ơn đại nhân không nhỏ.
Vương
Bình nói:
- Cái
khó khăn là tìm cho được người giống hình hài công công để thi hành kế ấy.
Quách
Hòe nói:
- Tôi
thấy trong ngục có một người hình dáng giống hệt như tôi, cũng mập mạp và đi
đứng rất khó khăn. Tôi hỏi tên thì được biết người ấy tên Lam, thứ bảy, nên
thường gọi Bảy Lam quê quán vẫn ở Biện kinh, vì có tội sát nhân nên bị án xử tử
song chưa đến ngày hành quyết. Nếu được người ấy chịu thế thì việc ắt xong.
Vương
Bình mừng rỡ nói:
- Nếu
vậy thì rất may mắn cho công công.
Sáng hôm
sau, Vương Bỉnh sai người đòi ngục quan là Châu Lễ đến, và tỏ hết ý muốn của
mình cho ngục quan nghe, hứa thưởng nhiều vàng bạc, châu báu nếu xong việc.
Ngục
quan mừng rỡ vội vã về nơi ngục dẫn Lam Thất đến giao cho Vương Bỉnh.
Vương
Bình xem thấy Lam Thất quả nhiên hình hài giống hệt Quách Hòe, bèn tỏ hết ý
mình cho Lam Thất nghe và dặn không được tiết lộ cơ mưu, nếu xong việc sẽ gỡ
tội cho Lam Thất, lại ban thưởng vàng bạc nữa.
Lam Thất
nghe nói mừng rỡ thưa:
- Thân
tôi như con cá nằm trong chảo, chưa biết chết ngày nào, nếu lão gia tìm cách gỡ
tội cho tôi được thì dù đau đớn, khổ cực đến đâu tôi cũng chịu được.
Vương
Bình nói:
- Nếu
ngươi đành như vậy thì rất tốt, thế nào ta cũng ráng mà giải tội cho ngươi.
Nói rồi
truyền lấy y phục mới thay cho Lam Thất, lại khiến đem rượu thịt thết đãi.
Hôm sau,
Vương Bình vào chầu, Thiên Tử hỏi:
- Việc
tra khảo Quách Hòe ra thế nào?
Vương
Bình tâu:
- Việc
ấy là việc quan trọng cho nên tôi không dám sơ suất xin Bệ hạ cho tôi kỳ thêm
ba ngày nữa đặng tôi tra xét cho phân minh rồi sẽ phục chỉ.
Thiên Tử
nói:
- Trẫm
biết khanh là người công bình, chánh trực cho nên mới phú thác việc này. Vậy
khanh hãy hết lòng tra xét cho phân minh chẳng nên phụ lòng trẫm.
Vương
Bình tâu:
- Vả tôi
là người mang ơi Bệ hạ rất trọng, nay có việc này, thì tôi phải hết sức làm cho
ra lẽ để báo ơn.
Thiên tử
nghe tâu gật đầu khẽ, rồi truyền bãi chầu, các quan ai về dinh nấy.
Khi Bao
Công ra đến cửa triều thì kêu Vương Bình nói:
- Vả tôi
với nhân huynh là nghĩa đồng môn lại tình đồng hương nữa, nên tôi tin cậy ở
nhân huynh lắm. Xin nhân huynh phải lấy lòng ngay thẳng mà tra cho công minh.
Nếu tra ra án này chẳng những có công với hoàng thượng mà tôi cũng mang ơn nữa.
Vương
Bình nói:
- Nhân
huynh lại nói chi lời ấy, anh em mình thuở nay đã cùng nhau tương đắc, lẽ nào
nhân huynh lại không rõ lòng tôi sao?
Bao Công
nói:
- Vả
chăng việc này đối với tôi rất quan trọng, nếu nhân huynh để sơ sẩy thì tôi
không khỏi phạm tội khi quân.
Vương
Bình nói:
- Vả tôi
với nhân huynh là người đồng hương, lại đồng liêu nữa, nếu nhân huynh bị tội
khi quân thì tôi cũng lo phương kế mà gỡ, lẻ nào lại làm cho nhân huynh bị tội
hay sao. Song còn một điều này: Như tôi tra xét không ra thì tôi cũng phải giao
lại cho nhân huynh thẩm đoán lấy.
Bao Công
nói:
- Ấy là
lẽ tư nhiên. Nhưng nếu nhân huynh tra xét không ra thì cũng phải giao gấp lại
cho tôi, kẻo để lâu ngày bọn gian thần âm mưu phá rối.
Vương
Bình gật đầu đồng ý. Hai người giã từ nhau ra về.
Khi về
đến dinh, Vương Bình vào thẳng hậu dinh đêm việc ấy nói cho phu nhân nghe. Phu
nhân nói:
- Việc
ấy tướng công đã sắp đặt xong rồi, sao không tra phứt đi để mà phục chỉ. Nếu để
lâu ngày, tôi e Thái Hậu đem lòng lo sợ, hoặc tiết lộ cơ mưu thì cũng sanh khó
dễ không ít.
Vương
Bình nói:
- Phu
nhân chớ lo, Ta chẳng dại gì để cho công việc kéo dài, nội trong đêm nay ta tra
một đêm rồi rạng ngày chầu vua mà phục chỉ.
Phu nhân
nói:
- Thế
thì rất tốt? Làm để mà không làm gì hết thì chẳng mất lòng ai, lại có lợi nữa.
Đêm ấy,
Vương Bình ra giữa pháp đường, để Quách Hòe núp dưới ghế, rồi đem Lam Thất ra,
khiến hai tên quân tâm phúc là Tiền Thành và Lý Xuân tra khảo.
Lam Thất
làm thinh chẳng nói chi hết, còn Quách Hòe núp dưới ghế thì kêu oan:
- Oan
cho tôi lắm. Việc này Bao Chuẩn đặt điều mà nói láo chớ không có chuyện đó.
Vương
Bình nạt lớn:
- Ngươi
đừng có già hàm. Nếu ngươi không chịu khai, thì ta tra tới nước.
Bèn
khiến quân cứ việc tra khảo. Hễ đánh Lam Thất bao nhiêu thì Quách Hòe la khóc
bấy nhiêu. Tội nghiệp cho Lam Thất bị tra khảo nặng nề mà không dám rên một
tiếng nào. Còn Quách Hòe thì không ai đánh mà khóc la om sòm.
Đêm ấy
Bao Công đi tuần với bốn tên quân tâm phúc. Khi gần đến dinh Vương Bình gặp hai
người đi đường đang nói chuyện với nhau. Một người nói:
- Đêm
nay là đêm quan hình bộ tra khảo Quách Hòe. Việc ấy quan trọng lắm, song không
biết hình bộ tra khảo thế nào.
Người
kia nói:
- Vì tôi
nghe việc ấy nên muốn đến xem, té ra nơi ấy mở cửa mà không cho ai vào hết, lại
nghe trong nhà có tiếng la hét om sòm.
Bao Công
nghe nói sinh nghi, nghĩ thầm:
- Lạ
thay! Vương hình bộ có nói với ta là đến mai sẽ tra khảo Quách Hòe, sao đêm nay
lại tra khảo trước, chắc là có điều chi gian dối chớ chẳng không.
Bèn
thẳng đến cửa dinh Vương Bình mà hỏi người giữ cửa:
- Đêm
nay Vương Hình Bộ tra án Quách Hòe phải không?
Người
giữ cửa thưa:
- Phải.
Bao Công
hỏi:
- Vậy ta
có thể vào xem được không?
Người
giữ cửa thưa:
- Nếu
lão gia muốn vào thì để tôi thưa với lão gia tôi đã.
Bao Công
nói:
- Ta và
quan Hình Bộ là chỗ thân thiết, muốn ra thì ra, muốn vào thì vào, không cần
phải thông báo.
Nói rồi
liền đi thẳng đến pháp đường, xem thấy sự tình như vậy, liền bước đến hỏi Vương
Bình:
- Vậy
chớ nhân huynh tra khảo người nào đó?
Vương
Bình nghe hỏi ngước lên thấy Bao Công thì mất cả hồn vía, lật đật đứng dậy nói:
- Tôi
tra khảo Quách Hòe việc ly miêu hoán chúa, thiêu hủy Bích Vân cung đó.
Bao Công
nói:
- Tôi
xem người đó đâu phải Quách Hòe, mà tiếng nói thì lại giống Quách Hòe.
Nói rồi
liền bưng đèn rọi dưới ghế thì thấy Quách Hòe đang ngồi núp trong ấy, liền kêu
Trương Long, Triệu Hổ áp lại nắm đầu Quách Hòe lôi ra, còn Đổng Siêu, Tiết Bá
thộp ngực Vương Bình trói lại.
Sau đó,
Bao Công dẫn Lam Thất lại gần hỏi:
- Vậy
ngươi tên họ là chi? Sao lại đến đây mà chịu khảo tra thế cho Quách Hòe?
Lam Thất
liệu bề không chối được nên phải khai rõ đầu đuôi câu chuyện.
Bao Công
nghe xong cười lớn, nói:
- Vương
Bình thiệt là gian trá. Thôi, ta cũng chẳng nói chi cho nhiều, để mai vào triều
sẽ tâu Thiên Tử rõ.
Vương
Bình năn nỉ với Bao Công:
- Tôi
lầm lỡ một phen xin nhân huynh bỏ qua, từ đây tôi không làm điều gì quấy nữa.
Bao Công
không nghe lời năn nỉ, truyền dẫn Vương Bình và Quách Hòe về dinh mình, đợi
ngày mai vào tâu với Thiên Tử.
Bọn gia
đinh thấy vậy, lật đật chạy vào hậu đường báo tin cho Mã thị hay. Mã thị run
rẩy, đinh ninh biết là chồng mình sắp bị tội nặng, nhưng không biết kế chi để
giải cứu cứ ngồi khoanh tay mà khóc.
Rạng
ngày, Bao Công dẫn Vương Bình và Quách Hòe đến trước sân triều, các quan trông
thấy ai nấy đều ngạc nhiên, nhưng không rõ việc chi.
Bao Công
quỳ tâu:
- Hồi
hôm tôi đi tuần ở các nẻo đường, đi gần đến dinh Vương Bình thì nghe có tiếng
khóc than. Người đi qua đường nói là Vương Bình tra án ban đêm mà lại không cho
ai vào.Tôi nghe mấy lời ấy thì sanh nghi nên vào xem thì thấy
Vương
Bình làm điều tệ hại, đem dạ khi quân nên phải bắt Vương Bình và Quách Hoè về
đây tâu lại cho Bệ hạ rõ.
Thiên Tử
nghe tâu liền hỏi:
- Vậy
chớ Vương Bình làm điều tệ hại thế nào?
Bao Công
đem hết các việc thuật lại một hồi.
Thiên Tử
nổi giận mắng:
- Loài
súc sanh làm điều gian trá, chẳng kiêng Trẫm chút nào.
Liền
khiến võ sĩ dẫn Vương Bình vào tra hỏi.
Lời bàn.
Bao Công
và Vương Bình là người đồng hương, đồng trào, tình cảm quyến luyến với nhau rất
nặng. Trong lúc Vương Bình dự tính làm sai ý định của Bao Công thì Bao Công đã
gặp mà dặn dò, thế mà trước mặt Bao Công Vương Bình lại dùng lời nói đưa đẩy
cho qua chuyện, còn việc làm thì không thay đổi.
Như vậy
tình cảm với nhau phải bằng tâm hồn, bằng tấm lòng, chớ không phải đưa đẩy bằng
lời nói. Kẻ nào giao tiếp với nhau bằng đầu môi chót lưỡi thì tình cảm không
chân thật mà chỉ cho qua chuyện. Việc làm ăn với nhau trong cuộc sống cũng vậy,
kẻ nào càng đưa đẩy bao nhiêu thì càng không chân thật bấy nhiêu.
Lời nói
để làm hài lòng người khác trong một lúc nào đó thì dễ, mà để bảo vệ danh dự
mình thì thật là khó.
Những kẻ
tinh đời nhận xét qua lời ăn tiếng nói của mỗi người thường hiểu được bản chất
của người ấy.
HỒI THỨ BỐN MƯƠI MỐT - BAO THỊ CHẾ LÃNH TRA
ĐỨA NỊNH.
Khi võ
sĩ dẫn Vương Bình vào chầu thì Vương Bình quỳ lạy tâu:
- Tôi
thần là Vương Bình kiến giá, xin Bệ hạ mở lượng hải hà mà rộng dung cho tôi
nhờ.
Thiên Tử
mắng lớn:
- Ngươi
không kể đến đạo quân thần, làm ra công việc như vậy thì còn mặt nào dám nhìn
trẫm nữa.
Vương
Bình lạy lục, tâu:
- Xin Bệ
hạ dung tha cho tôi được trở lại vụ án đó để lấy công mà chuộc tội.
Thiên Tử
nói:
- Ngươi
đã biết tội sao? Vậy khi trước ai xui ngươi làm như vậy?
Vương
Bình tâu:
- Ấy
cũng tại lòng tôi không cứng cỏi nên mới nghe lầm lời vợ tôi là Mã thị, thấy
của hối lộ thì đem lòng tham, cứ xúi giục tôi bênh vực Lưu Thái Hậu, cho nên
mới sanh ra chuyện này. Xin Bệ hạ xét lại công các của tôi lâu nay mà rộng
dung.
Thiên Tử
phán:
- Ngươi
đã làm đến chức Hình Bộ Thượng thơ sao còn nghe lời đàn bà làm chi. Việc này
Trẫm còn chưa tin, vậy giao cho Bao khanh bắt Mã thị đến tra xét cho ra sự
thực, rồi đem Quách Hòe ra giữa triều đình mà tra khảo cho Trẫm xem.
Bàng
Hồng tâu:
- Vả Bao
Chuẩn là người có tội mà Bệ hạ không nói đến, lại giao cho lão tra án nữa, nếu
làm như vậy tôi e quần thần không phục đâu.
Thiên Tử
nói:
- Vậy
Bao khanh có tội chi Bàng khanh cứ tâu cho trẫm rõ.
Bàng
Hồng tâu:
- Vả
Vương Bình là người của Bao Chuẩn tiến cử, mà Vương Bình làm ra tội khi quân
như vậy thì Bao Chuẩn cũng có tội tiến cử bất lực vậy.
Thiên Tử
nghe tâu chưa kịp phán thì Bao Công đã quỳ tâu:
- Việc
ấy tôi cũng có tội, song tôi lập được công chuộc lại rồi
Thiên Tử
hỏi:
- Vậy
chớ Bao khanh lập được công chi hãy tâu cho trẫm rõ.
Bao Công
tâu:
- Đêm
trước tôi đi tuần du gặp một người nội giám là Vương Ân vâng lời Lưu Thái Hậu
đem của hối lộ lót với Vương Bình, lấy đó mà suy ra thì việc ly miêu oán chúa
là có thêm bằng cớ rồi.
Bàng
Hồng tâu:
- Hôm
trước Bao Chuẩn bắt được người nội giám sao không tâu cho bệ hạ biết để đến hôm
nay bị hạch tội tiến cử không đúng người mới đem ra kể công, xin bệ hạ chớ tin.
Thiên Tử
nghe hai đàng tâu như vậy thì do dự không biết phải trái thế nào, xảy có Phú
Bậc tâu:
- Tôi
xét lại Bao Chuẩn là người trung can nghĩa khí, từ trào thần đến dân dã ai ai
cũng biết, xin bệ hạ chớ nên nghe lời Bàng Quốc Trượng mà bỏ dạ trung thần. Hãy
trao cho Bao Chuẩn tra xét việc này thì mới minh bạch được.
Thiên Tử
gật đầu nói:
- Lời
khanh rất phải.
Bèn kêu
Bao Công hỏi:
- Vậy
chớ Bao khanh đã tha Vương Ân hay chưa?
Bao Công
tâu:
- Tôi
đang giam tại dinh tôi.
Thiên Tử
nghe tâu liền sai Âu Dương Tu đến dinh Bao Công dẫn Vương ân đến tại giữa triều
để đối chứng. Lại sai Bàng Chi Hổ đến dinh Vương Bình bắt Mã thị phu nhân và
lục soát tìm số tiền hối lộ của Lưu Thái Hậu.
Lúc Bàng
Chi Hổ vừa lãnh lệnh ra đi thì có Văn Ngạn Bác quỳ tâu:
- Chẳng
nên sai người nào họ Bàng dự đến việc này, nếu sai đi tra xét của hối lộ ấy tôi
e sanh điều tồi tệ chớ chẳng không.
Thiên Tử
nghe tâu liền phán:
- Vậy
chớ nội trào có ai ra lãnh việc này chăng?
Hỏi vừa
dứt lời thì có Trị Giám viên là Đồ Điêu bước ra tâu:
- Tôi
xin lãnh chỉ cho.
Thiên Tử
nhận lời, bèn sai Đỗ Điêu ra đi.
Chẳng
bao lâu, Âu Dương Tu dẫn Vương Ân đến. Vương Ân quỳ lạy tâu:
- Việc
này Thái Hậu nương nương sai tôi đi, đem theo năm chục đỉnh vàng ròng, ba chục
hột minh châu và một tờ mật chiếu đến cho Vương Bình. Ra đi thì tôi sợ lầm
nhưng tôi không dám cãi lời. Đến chừng tôi giao vật ấy cho Vương Bình xong, vừa
trở ra một đỗi xa thì gặp Bao Chuẩn bắt tôi mà giam tại dinh đã hai đêm nay.
Thiên Tử
nghe tâu chưa kịp nói thì đã thấy Đỗ Điêu đem nạp vàng bạc, châu báu của Lưu
Thái Hậu trước Kim loan điện.
Thiên Tử
thấy mấy vật ấy thì mặt mày có vẻ thẹn thùng và nghĩ thầm:
- Lưu
Thái hậu làm đến bậc Quốc mẫu mà lại đem vàng bạc châu báu mà lo với quần thần,
thì trẫm lấy làm hổ thẹn lắm.
Nghĩ như
vậy bèn khiến Vương ân trở về cung, còn của hối lộ thì trả lại cho Lưu Thái
hậu.
Tiếp đó,
Thiên Tử nói với Bao Công:
- Nay
trẫm giao nội vụ cho khanh tra xét. Vậy khanh hãy hết lòng vì trẫm làm cho ra
lẽ đặng mẹ con trẫm được gặp mặt nhau, ấy là ơn trọng lắm.
Phán rồi
liền bãi chầu, các quan ai về dinh nấy.
Khi Bao
Công về đến dinh thì truyền quân dẫn Vương Bình ra mắng rằng:
- Vả
ngươi là người ăn cơm vua hưởng lộc nước, lẽ ra phải hết lòng giúp nước, có đâu
lại nghe lời đàn bà mà làm điều tồi tệ như vậy?
Vương
Bình nói:
-Thật là
tôi quá ngu si nên nghe lời người vợ bất hiền nay đến nỗi này, xin đại nhân
rộng lòng tha thứ.
Bao Công
nói:
- Ngươi
làm đến chức Hình Bộ Thượng thơ mà hành động như vậy thì chỉ có cái chết mà
thôi.
Vương
Bình lạy lục nói:
- Tội
tôi đáng muôn thác, song đại nhân nghĩ đến tình cố hữu và đồng hương mà ra ơn
xuống phước cho.
Bao Công
nói:
- Tội
ngươi nặng lắm, không thể nào dung tha được.
Nói rồi
khiến quân dẫn Mã thị vào xét hỏi.
Mã thị
thưa:
- Xin
đại nhân chớ tin lời Vương Bình mà oan ức cho tôi. Vả lại tôi là phận đàn bà
đâu dám xen vào việc triều chính mà chồng tôi lại đổ cho tôi, xin đại nhân xét
lại.
Bao Công
nói:
- Đàn bà
như vậy thật cũng già mồm lắm.
Liền
quay lại hỏi Vương Bình:
- Vợ
ngươi đã khai như vậy thì ngươi tính lẽ nào?
Vương
Bình nổi giận mắng Mã thị thì Mã thị cũng mắng Vương Bình. Hai vợ chồng cãi lẫy
nhau, làm cho Bao Công bực mình truyền quân tra khảo.
Cuối
cùng hai vợ chồng chịu đau không nổi phải khai sự thật.
Bao Công
hỏi Vương Bình:
- Vậy
chớ khi vợ ngươi xui khiến ngươi như vậy thì Lưu
Thái hậu
đã sai người đem lễ vật đến chưa?
Vương
Bình thưa:
- Khi vợ
tôi xui khiến tôi làm việc ấy thì Lưu Thái hậu chưa sai người đem lễ vật đến.
Bao Công
hỏi Mã thị thì Mã thị cũng khai như vậy.
Bao Công
nói:
- Vậy
việc này phải chờ tra xét Quách Hòe rồi sẽ định đoạt.
Nói rồi
sai quân dẫn vợ chồng Vương Bình và Quách Hòe giam vào thiên lao.
Hôm sau,
Thiên Tử lâm trào thì Bao Công dâng biểu cho Thiên Tử xem, Thiên Tử xem rồi thì
khiến Bao Công dẫn vợ chồng Vương Bình ra pháp tràng mà xử tử.
Bao Công
vâng lệnh lui ra, làm y như lời Thiên Tử phán.
Lời bàn.
Từ xưa
đến nay, những việc có liên quan đến xét xử dính líu đến nhiều người. Vụ việc
nào lớn thì sự dính líu càng phức tạp hơn, bởi lẽ người có tội bao giờ cũng tìm
cách trốn tránh tội lỗi của chính mình bằng cách mua chuộc kẻ có quyền.
Như
Vương Bỉnh là người không có liên quan gì, được tiến cử tra xét, nhưng lại vì
việc tra xét mà vướng vào tội lôĩ, làm cả hai vợ chồng đều mất mạng.
Sự thật
xưa nay hễ tội lỗi thường hay kéo đến tột lỗi muốn khỏi tội lỗi mà xông vào tội
lỗi. Đó là tâm lý ở đời. Vì vậy Bao Công là người rất rành về tâm lý, nên đã
khám phá ra những tội lỗi liên quan đến sự việc một cách rất tài tình.
Suy
nghiệm về nhận xét và hành động của Bao Công chúng ta mới hiểu thấu được tài
năng đặc biệt ấy.
HỒI THỨ BỐN MƯƠI HAI - TỐNG ĐẾ ÂU LO VÌ THƯƠNG
MẸ.
Hôm sau
Thiên Tử lâm trào phán giữa triều đình:
- Nay
Trẫm giao án Quách Hòe cho Bao khanh tra xét.
Bao Công
tâu:
- Việc
ấy tôi không dám lãnh.
Thiên Tử
nói:
- Nếu
Bao khanh không nhận việc ấy thì Trẫm biết giao cho ai?
Bao Công
tâu:
- Xin Bệ
hạ giao việc ấy cho Bàng Quốc trượng tra xét ắt ra lẽ ngay gian.
Bàng
Hồng nghe Bao Công tâu như vậy thì nghĩ thầm:
- Lạ
thật? Hôm trước lão Bao Hắc tử nói ta không thể tra xét được, cớ gì hôm nay lại
muốn giao cho ta, chắc là lão có mưu kế gì muốn hại ta chớ chẳng không.
Nghĩ như
vậy nên quỳ tâu:
- Hôm
trước Bao Công đã tâu giữa trào là việc ấy tôi không thể tra xét được, nay lại
giao cho tôi nên tôi không dám lãnh. Xin Bệ hạ chọn người khác làm việc ấy.
Bao Công
tâu:
- Nếu
Bàng Quốc trượng không lãnh chỉ thì chắc trong triều không ai làm được việc
này.
Thiên Tử
nói:
- Hai
khanh đều không chịu lãnh chỉ, chẳng lẽ việc này bỏ qua sao?
Bao Công
tâu:
- Xin Bệ
hạ cứ tra xét lại triều đình thì việc này mới minh bạch được.
Thiên Tử
nghe tâu có ý buồn, nên phán:
- Bấy
lâu cũng có nhiều vụ án rất khó mà Bao khanh tra xét rất minh bạch, nay có việc
này là việc mẹ Trẫm mang lấy tai họa, lẽ thì Bao khanh phải hết lòng tra xét,
để mẫu tử tương phùng cớ sao lại từ chối.
Bao Công
tâu:
- Chẳng
phải tôi muốn từ chối, ngặt vì ngày trước Bàng Quốc trượng nói tôi là người chủ
cáo không lẽ tra xét nên tôi không dám lãnh chỉ. Vả lại nếu tôi lãnh chỉ mà tra
án này thì tôi phải tra xét cho minh bạch, và cứ theo luật mà xử đoán. Lỡ khi
Lưu Thái Hậu và Địch Thái Hậu có tội thì hai vị nương nương ấy là bậc mẫu nghi,
không khỏi Bàng Quốc trượng gọi tôi là khi quân, phạm thượng. Vì vậy tôi không
dám lãnh chỉ xin Bệ hạ xét lại.
Thiên Tử
phán:
- Lời
Bao khanh rất phải, song nội trào không ai đủ sức tra xét việc ấy, vậy khanh
hãy cứ phép nước mà làm, hễ Thái Hậu có tội thì cũng cứ luật mà xét đoán, Bàng
Quốc trượng có tội thì cũng nghị tội nữa.
Bao Công
tâu:
- Nếu Bệ
hạ phán như vậy, thì tôi mới dám lãnh chỉ.
Thiên Tử
mừng rỡ truyền bãi chầu, các quan ai lui về dinh nấy. Duy có Bàng Hồng lòng
giận Bao Công lắm, song cũng không dám nói tiếng chi.
Bấy giờ
Lưu Thái Hậu hay tin ấy đem lòng lo sợ, biết Bao Công là người thiết diện vô
tư, không dám đưa của hối lộ cho nên cứ nằm yên than thở mà thôi.
Còn Bao
Công khi lui về dinh rồi thì khiến quân vào nhà lao dẫn Quách Hòe ra. Khi thấy
mặt Quách Hòe, Bao Công nghĩ thầm:
"Bấy
lâu nó dựa thế Lưu Thái Hậu nên không kiêng nể ai, nay sự việc đã có nhiều
chứng cớ, dù có Lưu Thái Hậu cũng không dám khinh khi nữa rồi".
Lúc
Quách Hòe còn đang trầm tư thì đã có bốn tên quân của Bao Công nhảy đến đạp
Quách Hòe một đạp té nhào xuống đất, rồi thộp ngực dẫn đến trước pháp đường.
Quách
Hòe nổi giận, mắng lớn:
- Bao
Chuẩn? Ngươi làm quan đến bực ấy mà không kể phép tắc, lại ngang ngược như vậy.
Ngươi không thấy quyền thế của ta bấy lâu sao? Từ Thiên Tử cho đến văn võ bá
quan không ai dám khi dễ ta chút nào. Nay ngươi làm vậy thiệt là chẳng kiêng
Thái Hậu và không kể gì đến Thánh Hoàng nữa.
Bao Công
nạt lớn:
- Loài
súc sanh! Ngươi đã toan mưu hại ấu chúa, đốt Bích Vân cung, làm cho mẹ một nơi,
con một ngả. Ngươi tưởng việc ấy dấu mãi được sao. Nay ta đã phát hiện ra rồi
thì không lẽ ngươi trốn đâu cho khỏi. Vậy ngươi phải mau mau khai thiệt ra, nếu
còn dấu diếm thì không khỏi bị tra tấn.
Quách
Hòe nói:
- Nếu
nói như vậy thật là dại dột lắm. Vả chăng đời nay chẳng thiếu chi người gian
trá, sao ngươi lại nghe lời một mụ ăn mày mà không suy xét, làm cho xáo trộn
trong triều đình. Có phải là ngươi đem dạ bất nhân, vu oan giá họa cho người
lành hay không?
Bao Công
nói:
- Quách
Hòe! Ngươi đừng già mồm, nếu ngươi nói việc ấy không có, tại sao Lưu Thái Hậu
còn lo lót cho Vương Bỉnh để làm kế tra khảo thế cho ngươi vậy? Còn nếu ngươi
người đàn bà ấy là mụ ăn mày không dính líu gì, tại sao biết bàn tay, bàn chân
của Thánh Thượng có chữ SƠN HÀ XÃ TẮC. Ta cũng biết ngươi muốn liều mạng già để
che dấu nhưng không thể dấu nổi đâu.
Nói rồi
liền khiến quân đè Quách Hòe xuống mà khảo tra một cách nặng nề.
Quách
Hòe vì có gan dạ và sức mạnh nên khảo tra mấy cũng không chịu khai.
Bao Công
thấy tra khảo đến nước mà Quách Hòe vẫn không chịu khai thì nghĩ thầm:
- Thuở
nay ta tra tấn cũng nhiều lắm, nhưng chưa thấy ai gan dạ như vậy.
Liền nói
với Quách Hòe:
- Nếu
bây giờ ngươi không chịu cung khai thì ngày sau thác xuống âm phủ ngươi cũng
không thể dấu được. Vậy ngươi hãy khai phứt đi cho xong để tránh khỏi đau đớn.
Quách
Hòe nói:
- Thà
đến chừng chết xuống âm phủ thì ta cung khai còn bây giờ trước mặt ngươi ta
không thèm khai gì hết.
Bao Công
nghe nói nghĩ thầm:
- Như
vậy là nó có ý khinh dễ và chống đối ta nên mới có thái độ như vậy. Thôi để ta
lập kế khác mà tra khảo nó xem sao.
Nghĩ như
vậy liền khiến quân dẫn Quách Hòe vào thiên lao mà giam lại.
Lúc ấy
Quách Hòe bị tra khảo đau đớn lắm, nên trong mình mê man, ăn ngủ không được.
Bao Công
lui vào hậu đường nghĩ thầm:
-"
Quách Hòe đợi đến lúc chết xuống âm phủ mới chịu cung khai, vậy ta phải tương
kế tựu kế mà tâu cùng Thánh Thượng hay, đặng xin thiết lập một cảnh âm phủ tại
nơi Ngự Huê viên, chờ đến lúc nửa đêm bắt Quách Hòe đến đó mà tra khảo thì chắc
nó phải chịu cung khai. Song việc này phải rất kín đáo, đừng cho ai biết thì
mới nên việc".
Nghĩ rồi
vào tâu với Thiên Tử, xong âm thầm trở về dinh.
Đêm ấy,
vào lúc canh ba, Thiên Tử, Bao Công và mấy người nội thị đến thay đổi y phục,
vẽ mặt, vẽ mày giả dạng y theo cảnh âm phủ. Thiên Tử ngồi giữa mà làm Diêm
vương,
Bao Công
làm Phán quan ngồi một bên để chép lời cung, còn quân sĩ thì đứng hầu hai bên
giả làm quỷ sứ.
Đêm ấy,
Quách Hòe nằm trong thiên lao, tinh thần mỏi mệt, nửa tỉnh, nửa mê, thì có bốn
người hình dung cổ quái, tướng mạo dị kỳ, đầu trâu mặt ngựa dường như quỷ sứ
dưới âm ty, đến bắt Quách Hòe trói lại, khiêng vào Ngự Huê viên.
Đến nơi,
Quách Hòe nghe tiếng rên la thảm thiết, bèn mở mắt ra xem, thấy có một người dữ
tợn đứng giữ cửa nạt lớn:
- Chỗ
này là Quỷ môn quan, không ai được đến đây.
Bọn quỷ
sứ khiêng Quách Hòe nói:
- Thằng
này là Quách Hòe, ở trên dương gian có tội rất lớn, nên chúng tôi vâng lệnh
Diêm vương bắt nó đến cho Diêm vương tra khảo.
Quỷ giữ
cửa nói:
- Đã có
lệnh Diêm vương thì khiêng nó vào.
Quách
Hòe nghe hai đàng nói như vậy thì nghĩ rằng:
- Té ra
hồn ta đã xuống Diêm la rồi, còn gì nữa đâu?
Các quỷ
ấy khiêng đi một lúc nữa thì lại nghe tiếng than khóc om sòm, chiêng khua rổn
rảng. Quách Hòe đinh ninh là mình đã chết xuống Âm phủ rồi, nên chỉ biết thở
dài.
Đến
chừng khiêng tới một chỗ điện các thì các quỷ bỏ Quách Hòe xuống đất mà nói:
- Đã tới
Diêm la điện rồi, hãy quỳ xuống mà hầu tra.
Quách
Hòe nhướn mắt lên xem thì thấy đèn đuốc leo lét trên ngai có một vị Diêm vương
ngồi giữa, hai bên có ngưu đầu mã diện đứng hầu thì cả kinh không dám nhìn, cứ
dập đầu mà xin tha tội.
Thiên Tử
nạt lớn:
- Quách
Hòe, khi ngươi ở dương thế đem lòng bạc ác làm việc khi quân như vậy, bây giờ
xuống đây ngươi đã biết xét tội mình chưa?
Quách
Hòe không biết nói lời nào, cứ lạy lục mà xin tha.
Thiên Tử
nạt:.
- Vả
Tống đế là chơn mạng Thiên Tử mà ngươi dám cả gan toan mưu hãm hại, lại phóng
lửa đốt Bích Vân cung, chút nữa thì nghiệp Tống đã không còn. Tội lỗi của ngươi
như vậy đó bây giờ ngươi đã chịu án hay chưa?
Nói rồi
liền khiến quỷ sứ khiêng Quách Hòe bỏ vào vạt dầu.
Quỷ sứ
tuân lệnh vừa muốn ra tay thì Quách Hòe la lớn:
- Xin
Diêm vương dung tha, để tôi xin khai sự thật.
Tiếp đó,
Quách Hòe khai:
- Khi
tôi vâng lời Lưu Thái Hậu mà làm việc ấy thì cũng bởi tham cuộc giàu sang và
cũng nhơn dịp Tiên đế ngự thân chinh nữa. Nguyên khi ấy Chánh hậu sanh đặng
công chúa, còn Lý Thần Phi sanh đặng hoàng nam, cho nên nương nương đem lòng đố
kỵ, e đến khi Tiên đế ban sư hồi trào thì Lý Thần Phi sanh đặng hoàng nam thì
đem lòng yêu dấu chăng? Cho nên người nằng nặc quyết một, toan mưu mà cho đặng
mẹ con Lý Thần Phi, Người mới khiến tôi liệu định cơ mưu mà lo việc ấy. Xin
Diêm vương xét lại cho tôi nhờ. Vả tôi đã làm thân nô tì, lẽ nào lại không hết
lòng hết sức mà làm cho vừa ý người sao. Lúc ấy cực chẳng đã tôi phải lập mưu
mà khiến nương nương đến Bích Vân cung mà nói công chúa thiếu sữa, đặng có nhơn
dịp ấy mời Lý Thần Phi đem Thái Tử đến Chiêu Dương cung, toan mưu giết mèo mà
tráo. Khi Lý Thần Phi còn đang yến ẩm thì tôi đem mèo ấy qua Bích Vân cung,
giao cho cung nữ mà nói: Thái tử đang an giấc, chẳng nên dở ra mà làm mất giấc
ngủ. Vì vậy cung nữ vâng lời không dám dở ra xem. Đến chừng Lý Thần Phi trở về
cung thì Lưu nương nương lại sai người thiêu hủy cung đình, đặng làm cho biệt
tích. Khi ấy tôi với Lưu nương nương cũng ngỡ là Lý Thần Phi đã chết thiêu
trong cung ấy rồi. Qua đến canh năm, Lưu nương nương lại sai cung nữ là Khấu
Ngự Thừa bồng Thái tử ra Ngự Huê viên mà bỏ xuống Kim thủy trì. Không dè Khấu
Ngự Thừa lại có lòng nhân ái, mách bảo cho Lý Thần Phi tẩu thoát, lại dấu Thái
tử nơi nào không biết, rồi nhảy xuống Kim thủy trì mà liều mình. Lúc ấy cung nữ
bị thiêu chết hơn một trăm người, cho nên Lưu nương nương ngỡ là Lý Thần Phi
cũng chết trong đám lửa ấy rồi. Từ ấy đến nay đã gần hai mươi năm thì cũng biệt
tăm biệt tích, cho nên Lưu nương nương không còn lo tới việc ấy nữa. Bây giờ
thì tôi mới biết Tống Thiên Tử không phải là con Địch Thái Hậu, mà thiệt là con
của Lý Thần Phi ngày trước mà Khấu Ngự Thừa đem giao lại cho Trần Lâm. Trần Lâm
lại đem giao lại cho Địch Thái Hậu bảo dưỡng. Đến chừng Tiên đế ban sư hồi
trào, hay được Lý Thần Phi và Thái tử đều bị chết thiêu nên đem lòng thương
xót. Lúc ấy, Tiên đế đã sợ không người kế vị nên lập con của Địch Thái Hậu làm
Đông cung Thái tử. Bây giờ lây việc ấy duy có một mình Địch Thái Hậu và Trần
Lâm hiểu rõ cơ mưu của tôi mà thôi. Xin Diêm vương xét lại việc ấy; cực chẳng
đã tôi mới phải làm.
Lúc ấy
Bao Công ngồi làm Phán quan ghi hết các lời cung khai của Quách Hòe. Thiên Tử
rơi lệ dầm dề nghĩ thầm:
-
"Nếu vậy thì mẹ ta chịu lao khổ hơn mười tám năm trời, còn ta thì uy nghi
sung sướng như vầy, thật cũng là bất hiếu lắm".
Nghĩ như
vậy liền khiển quân đem Quách Hòe giam vào thiên lao, rồi nói với Bao Công:
- Trẫm
cũng nhờ khanh nên mới minh bạch oan tình mẫu hậu, song trẫm nghĩ đến việc ấy
thì lại càng hổ thẹn lắm, Vì trẫm làm đến Thiên Tử mà mẫu hậu bị cực khổ như
vậy..
Bao Công
tâu:
- Lý
Thái hậu bị gian lao khổ cực là do Lưu Thái Hậu đem lòng ganh ty, vả Quách Hòe
sắp đặt gian mưu. Còn Bệ hạ lúc ấy thì còn thơ ấu, biết đâu dược chuyện đó. Bây
giờ Quách Hòe đã cung khai như vậy rồi, xin Bệ hạ hỏi lại Trần Lâm, cớ gì đã
dấu được Thái tử, mà khi Tiên đế hồi trào lại không tấu trình cho Tiên đế biết.
Thiên Tử
nói:
- Lời ấy
rất vừa ý trẫm.
Bèn
khiến nội thị đem y phục mà thay đổi, rồi trở về cung mà yến ẩm với Bao Công.
Khi quân
sĩ đem Quách Hòe về đến thiên lao thì Quách Hòe nghĩ thầm:
- Thế là
mình đã mắc mưu Bao Công rồi.
Nhưng
khi biết được thì đã muộn, chỉ còn buồn bã mất ăn, mất ngủ đến nỗi xanh xao
không khác gì người đau nặng.
Lúc này
Thiên Tử sai nội thị đến Nam Thanh cung đòi Trần Lâm vào triều kiến.
Nguyên
Trần Lâm từ ngày cứu được Thái tử thì Địch Thái Hậu cho chức an nhàn không sai
khiến đến nữa. Lúc ấy Trần Lâm đã 92 tuổi, đầu bạc như bông mà khí lực còn mạnh
lắm. Khi Thánh chỉ tuyên triệu thì Trần Lâm cũng không biết có việc gì, nên vội
vã đến nơi.
Thiên Tử
thấy Trần Lâm liền hỏi:
- Lúc
trước Khấu Ngự Thừa giao Thái tử cho ngươi, đến lúc Tiên Đế hồi trào tại sao
ngươi không tâu lại? Bây giờ Thái tử ở đâu? Người phải thực thà mà khai ngay
đi.
Trần Lâm
nghe Thiên Tử hỏi vậy thì thất kinh nghĩ thầm:
- Lạ
thật! Sao Thiên Tử biết được việc này mà tra hỏi. Bây giờ biết liệu làm sao?
Nếu cứ sự thật khai ngay thì ta với Địch Thái Hậu cũng không khỏi tội yểm án.
Bao Công
thấy Trần Lâm đang suy nghĩ thì hiểu ý nên nói:
- Việc
ly miêu hoán chúa, thiêu hủy Bích Vân cung thì Quách Hòe đã chịu án rồi, cho
nên Thánh Thượng triệu công công đến mà đối chứng, chớ công công là người vô
tội, có hề chi mà sợ.
Trần Lâm
nghe Bao Công nói như vậy thì an lòng tâu:
- Nguyên
năm ấy tôi vâng lệnh Bác Hiền Vương vào ngự huê viên mà hái hoa. Đến nơi thì
thấy Khấu Ngự Thừa bồng Thái tử ngồi gần Kim thủy trì mà khóc, tôi mới gạn hỏi
sự tình biết được Lưu Thái Hậu đem lòng đố kỵ, muốn hại Thái tử và Lý Thần Phi.
Khi ấy tôi mới giấu Thái tử vào giỏ: hoa đem về Nam Thanh cung mà thuật lại cho
Bác Hiền vương nghe. Lúc ấy Bác Hiền Vương nửa mừng nửa sợ bèn khiến Địch Thái
Hậu cứ việc bảo dưỡng, đặng chờ Tiên đế hồi trào thì sẽ tâu trình. Té ra Tiên
đế chưa kịp ban sư thì Bác Hiền vương đã tạ thế rồi. Vì vậy nên Địch Thái Hậu
sợ oai quyền của Lưu Thái Hậu không dám cáo thú chuyện đó.
Thiên Tử
hỏi:
- Vậy
chớ Địch Thái Hậu đã bảo dưỡng Thái tử ấy bấy lâu bây giờ Thái tử ấy ở đâu?
Trần Lâm
tâu:
- Thái
tử là Bệ hạ đó.
Thiên Tử
nói:
- Nếu
vậy trẫm đây không phải là con của Địch Thái Hậu sao?
Trần Lâm
tâu:
- Không
phải! Bệ hạ thật là con của Lý nương nương.
Thiên Tử
nói:.
- Khanh
thiệt là trung nghĩa, đáng khen lắm. Rồi đó trẫm sẽ phong thưởng để đền ơn.
Nói rồi
khiến người đưa Trần Lâm trở về Nam Thanh cung.
Hôm sau,
Thiên Tử truyền cho nội thị và các quan nhứt phẩm đều phải tùy giá qua Trần
Châu mà nghênh tiếp Thái Hậu.
Còn Trần
Lâm về đến Nam Thanh cung thì thuật hết việc cho Địch Thái Hậu nghe. Địch Thái
Hậu mừng cho Lý Thần Phi còn ở dương thế mà mẹ được gặp con.
Chừng ấy
Lộ Huê vương mới biết Thái tử không phải anh ruột mình.
Bấy giờ
Lưu Thái Hậu hay công chuyện xảy ra như vậy nên lo lắng không yên, xảy có nội
giám vào tâu:
- Nương
nương đã mang khốn rồi. Nay tôi đã thám thính rõ ràng Thiên Tử tra được án ly
miêu hoán chúa vì Quách công công và Trần công công đều khai cặn kẽ. Bây giờ
Thiên Tử đã truyền dọn xa giá ra Trần Châu mà nghênh tiếp Lý Thái Hậu
Lưu Thái
Hậu nghe báo than:
- Không
biết vì cớ gì mà Bao Chuẩn oán thù với ta như vậy cứ mong lòng tra cho ra án
đặng mà hãm hại Quách Hòe. Bây giờ phần ta là đích mẫu, thì không lẽ Vương nhi
đành lòng làm tội, song e Quách Hòe không khỏi bị tội lăng trì. Tuy ta khỏi bị
tội mặc lòng, song mặt mũi nào dám ngó Lý Thần Phi nữa. Thôi, chẳng thà liều
thác phứt cho rồi, chớ sống đây thì càng hổ thẹn lắm.
Nghĩ như
vậy bèn đóng cửa cung tự vận.
Lời bàn.
Mỗi
người có một cuộc đời, trong thời gian hình thành cuộc đời ấy chứa chất không
biết bao nhiêu kỷ niệm đau buồn sướng khổ. Ai cũng muốn vươn lên để tranh đoạt
hưởng thụ, vì vậy tạo ra những hận thù, bất công, độc ác. Cuối cùng cũng đến
chỗ hủy diệt theo luật thiên nhiên mà thôi. Cái giá trị nhất trong cuộc sống là
không để cho mình phải ân hận trước lúc tạ thế.
Lưu Thái
Hậu chỉ vì ganh ty một lúc mà có những hành động phi nhân, dù cho sống trong
cao sang, quyền quý đến đâu mà trước lúc lâm chung bị hối hận, đau khổ, thấy
mình không xứng đáng làm người thì điều đó không bằng sống bình thường mà đến
lúc tạ thế vẫn thấy tâm hồn mình vui vẻ không làm điều gì tội lỗi trong cuộc
sống.
Lời xưa
có nói: Đánh giá một con người, một cuộc sống chỉ chờ lúc họ tắt tở mới biết
được cuộc đời và giá trị con người ấy ra sao. Kẻ có tâm niệm làm người thì
trong lúc sống mỗi hành động phải kiểm điểm, cân nhắc trước khi hành động,
không nên làm bừa vì tham vọng để rồi hối hận khi sắp rời cõi sống.
HỒI THỨ BỐN MƯƠI BA - NƠI LÒ GẠCH TỐNG QUÂN
RƠI.
Khi
Thiên Tử ngự giá đến Trần Châu thì Bao Công đi trước đến ra mắt Lý Thái Hậu
trước để báo tin.
Lý Thái
Hậu hỏi:
- Vậy
Bao đại nhân về trào đã phân biện việc ấy xong chưa?
Bao Công
tâu:
- Án ấy
đã minh bạch nên tôi cùng Thánh Thượng ngự giá đến đây rước nương nương về
cung.
Lý Thái
Hậu mừng rỡ nói:
- Oan
khúc của tôi như thế này mà nay đã tra ra, thiệt là ơn của đại nhân rất trọng.
Nếu không có đại nhân gánh vác việc này thì chắc thân tôi suốt đời phải chịu
cực khổ.
Quách
Hải Thọ nghe nói xen vào:
- Nếu
vậy thì Thánh Thượng cũng không phải là minh
quân. Ai
đời mẹ ruột mà lại bỏ ra thân thể như vậy, lại nhìn người khác là mẹ thì mang
tội bất hiếu biết là nhường nào?
Bao Công
nói:
- Người
nói như vậy thật là quấy lắm. Vả chăng khi ấy Thánh Thượng còn thơ ấu mà biết
đâu đến việc trớ trêu như vậy Người phải suy xét cho kỹ chẳng nên nói bậy mà
phạm đến uy tín của Thánh Thượng.
Lý Thái
Hậu nói:
- Con
ơi! Lời Bao đại nhân nói đó là phải lắm, con đừng có nóng nảy mà lỗi đạo quân
thần. Con cứ làm thinh đứng bên mẹ đây mà thôi.
Quách
Hải Thọ nói:
- Lời
mẫu thân đã dạy con đâu nào dám cãi.
Bao Công
lại tâu:
- Xin
nương nương hãy thay đổi đồ cung trang đi, vì
chút nữa
đây Thánh Thượng sẽ đến ra mắt nương nương và nghinh tiếp nương nương cùng trở
về.
Lý Thái
Hậu nói:
- Thân
tôi bị nạn bấy lâu, ăn mặc rách rưới đã quen rồi, bây giờ cũng chẳng nên mặc đồ
hoa mỹ làm chi nữa.
Bao Công
nói:
- Xưa
khác, nay khác, lúc trước nương nương bị nạn thì không ai biết, còn nay thì
cũng tỷ như cây khô mà trổ bông, đã trở lại bậc quốc mẫu rồi, lẽ nào lại ăn mặc
rách rưới như vậy?
Lý Thái
Hậu nói:
- Đại
nhân đã nói cạn lời như vậy thì tôi cũng nghe theo, song để Thánh Thượng đến
đây, mẹ con gặp nhau rồi tôi sẽ thay đổi cung trang cũng chẳng muộn.
Thái Hậu
nói vừa dứt lời thì cỏ quân sĩ chạy đến báo với Bao Công:
- Thánh
giá đã đến rồi.
Bao Công
lật đật ra tiếp giá. Khi ấy Thiên Tử không muốn kinh động đến Quốc mẫu nên
không cho các quan hộ giá theo đông, chỉ đi tới năm vị đại thần vào đó mà ra
mắt Thái Hậu.
Thiên Tử
đến nơi quỳ dưới đất, còn các quan cũng quỳ theo. Bao Công tâu với Thái Hậu
rằng:
- Thánh
Thượng đến đây đang quỳ trước mặt nương nương đó.
Lý Thái
Hậu nghe nói thì mừng rỡ, lật đật lấy tay quờ lia quơ lịa, song quơ không tới.
Còn Thiên Tử thấy thân thể Thái Hậu như vậy thì lòng đau như dao cắt, nước mắt
nhỏ xuống ròng ròng, bèn quỳ xê lại bên Thái Hậu mà tâu:
- Con đã
quỳ gần bên mẹ đây.
Thái Hậu
nghe nói thì đưa tay quơ nhằm vai Thiên Tử, bỗng khóc òa lên nói:
- Hoàng
nhi ơi. Mẹ con ta cách nhau đã gần hai mươi năm, nay ngỡ là đã không gặp mặt
nhau được nữa. May mà mẫu tử tương phùng như vậy thì cũng nhờ ơn Bao đại nhân
lắm.
Nói rồi
vùng khóc lớn lên. Thiên Tử thấy vậy cũng khóc sướt mướt, không nói ra lời.
Qua một
lúc, Thiên Tử mới nói được:
- Mậu
hậu ơi. Con làm đến bậc Thiên Tử, giàu có bốn biển, vào đài ra các, mà để thân
mẹ chịu cực khổ như vầy thiệt là tội rất lớn, nay còn mặt mũi nào mà ngồi chốn
ngài vàng sửa trị thiên hạ nữa? Tội ấy đáng muôn thác. Nếu mẹ không bắt tội con
thì cũng phế con xuống lập lên người khác để trị vì thiên hạ.
Các vị
đại thần tâu:
- Việc
này không phải tại lỗi Bệ hạ đâu, vì khi đó Bệ hạ còn nhỏ, lẽ nào lại biết Được
gian kế như vậy, bây giờ Bệ hạ lại định tội bất hiếu cho mình, chúng tôi e
không nhằm quốc pháp, xin Bệ hạ đừng nói đến việc ấy nữa. Ngày nay là ngày mẫu
tử đoàn viên, xin rước nương nương về trào đặng cùng hưởng phú quý thì hay hơn.
Lý Thái
Hậu than:
- Bây
giờ tôi đã ra thân tàn tật và chịu khổ đã quen rồi, cũng chẳng cần về chốn cung
vi làm chi nữa. Để tôi ở lại lò gạch này cho qua ngày đoạn tháng thì hơn.
Thiên Tử
nghe Thái Hậu nói như vậy thì tâu:
- Mẹ ơi!
Xin mẹ chớ nói lời ấy. Nếu mẹ có lòng nhân từ không làm tội con, vậy con xin
rước mẹ trở về cung vi đặng phụng dưỡng thì con mới an lòng. Nếu mẹ không đi
thì con không chị hồi trào đâu. Con quyết ở đây hôm sớm cùng mẹ mà thôi.
Nói rồi
khóc òa lên.
Thái Hậu
nói:
- Thân
mẹ mù lòa như vầy, dẫu có về cung cũng chẳng vui gì mà lại còn làm mất thể diện
của con nữa.
Thiên Tử
nghe nói như vậy càng đau xót hơn nữa, liền bước ra ngoài chấp tay khấn vái
trời đất:
- Ngày
nay mẹ con tôi đã được đoàn viên, mà mẹ tôi vì bị mù lòa mà không chịu theo tôi
về triều, tôi không thể nào bỏ mẹ tôi mà đi cho được, cúi xin Hoàng Thiên Hậu
thổ giúp cho mẹ tôi hết mù lòa, để tôi đưa mẹ tôi về cung nuôi dưỡng. Nếu được
như vậy, tôi hứa sẽ xuất kho mà bố thí cho nhân dân tại Trần Châu này, và tha
thuế 10 năm cho dân chúng rồi đại xá tù nhân, để mọi người an hương ân đức.
Vái rồi
vừa bước vào trong thì Lý Thái Hậu đôi mắt bỗng sáng lên.
Lý Thái
Hậu mừng rỡ nói:
- Hoàng
nhi ơi? Bây giờ con mắt của mẹ đã lần lần sang tỏ rồi. Thật là trời phật đã
thương mẹ con ta.
Thiên Tử
và các quan đại thần đều vui mừng không biết nói sao cho hết. Quách Hải Thọ
nhảy tới reo vui, nói:
- Thánh
Thượng vái có mấy lời mà mẹ tôi mắt đã sáng ra rồi, nếu biết vậy thì bấy lâu
nay tôi đã khấn vái cho mẹ tôi sáng mắt ra, đâu để đến bây giờ.
Thiên Tử
nghe Quách Hải Thọ nói như vậy thì hỏi Thái vậy chớ người này là ai mà lại kêu
Mẫu hậu bằng mẹ vậy?
Lý Thái
Hậu nói;
- Nó là
Quách Hải Thọ, vẫn là con nuôi của mẹ đấy, bấy lâu nay mẹ cũng nhờ nó nuôi
dưỡng nên mới sống được đến ngày nay.
Thiên Tử
nói:
- Nếu
vậy thì đáng làm ân huynh của con lắm.
Bèn day
lại nói với Quách Hải Thọ:
- Xin ân
huynh ngồi lại đặng trẫm lạy một lạy mà đền ơn lao khổ.
Nói rồi
vừa muốn lạy thì Quách Hải Thọ vội vã tâu:
- Xin Bệ
hạ chờ làm như vậy mà lỗi đạo tôi thần.
Bao Công
nói:
- Bệ hạ
vì lòng thương mẹ mà không nghĩ đến thân mình, thật đáng quý, nhưng Bệ hạ không
nên làm như vậy mà bỏ đạo vua tôi.
Thiên Tử
nghe Bao Công nói như vậy thì vòng tay nói
với Quách
Hải Thọ:
- Trẫm
nhờ có ân huynh thay mặt trẫm mà bảo vệ Mẫu hậu bấy lâu nay, nên mẹ con trẫm
mới có ngày đoàn viên. Vậy trẫm xin mời ân huynh về trào đồng hưởng vinh hoa
với trẫm.
Quách
Hải Thọ lật đật quỳ xuống tâu:
- Vả Bệ
hạ là con, tôi cũng là con. Bệ hạ chỉ mang ơn sanh thành, còn tôi mang ơn dưỡng
dục. Bệ hạ biết đến nghĩa trọng, lẽ nào tôi không biết trả ơn dày. Xin Bệ hạ
chớ nói đến việc trả ơn mà lỗi niềm tôi chúa.
Thiên Tử
bước đến đỡ Quách Hải Thọ dậy, nói:
- Ân
huynh miễn lễ.
Lúc ấy
Thái Hậu thấy các quan quỳ dưới đất thì nói:
- Các vị
hiền khanh miễn lễ.
Thiên Tử
khiến các quan thi lễ cùng Quách Hải Thọ. Các quan đều vâng lệnh, duy chỉ có
một mình Bàng Hồng mặt có vẻ buồn vì nghĩ rằng mình là đương triều nhất phẩm mà
lại phải thi lễ với một thằng ăn mày như vậy thì hổ thẹn lắm
Tuy suy
nghĩ như vậy song không dám cãi lệnh. Quách Hải Thọ cũng đáp lễ với mấy vị đại
thần, nhưng rất ngượng ngập, vì từ nhỏ đến giờ chưa biết lễ nghi là gì cả. Bao
Công tâu với Lý Thái Hậu:
- Xin
nương nương thay đồ cung trang đặng lên kiệu mà về trào.
Thái Hậu
nói:
- Vậy
thì Hoàng nhi và các quan hãy lui ra, rồi ta sẽ theo sau.
Thiên Tử
vâng lời dẫn các quan lui ra.
Lúc ấy
Bao Công khiến thái giám và các cung nữ đem đồ cung trang vào dâng cho Thái
Hậu. Thái Hậu thay đổi cung trang xong thì Thiên Tử lại khiến đem y phục trao
cho Quách Hải Thọ thay đổi. Quách Hải Thọ lắc đầu nói:
- Tôi
mặc đồ rách rưới lâu nay đã quen rồi, chẳng nên thay đổi long bào làm chi.
Thái Hậu
nói:
- Con
ơi! Bấy lâu nay rách rưới thì mẹ con ta cùng chịu với nhau, nay mẹ đã đổi cung
trang thì con cũng phải mặc long bào mà cộng hưởng phú quý cho vui lòng Hoàng
nhi.
Thiên Tử
nói:
- Ân
huynh đã chịu cực khổ với Mẫu hậu bấy lâu, nay mẹ con trẫm đã sum họp, thì trẫm
là con, ân huynh cũng là con, trẫm bực nào thì ân huynh cũng bậc nấy. Vậy xin
ân huynh hãy thay đổi cho vui lòng mẫu hậu.
Quách
Hải Thọ nói:
- Không
phải là tôi không tuân chỉ, song lâu nay tôi ở nơi quê mùa. Không thông hiểu lễ
nghi, xin Bệ hạ để tôi ở lại đây cho an phận.
Thái Hậu
nói:
- Con đừng
nói như vậy. Vả con với Thánh Thượng tuy có tình anh em, song còn phải giữ niềm
tôi chúa. Chúa với tôi cũng như cha với con, vậy con phải vâng lời chỉ bảo mà
về trào sống gần gũi với mẹ như bấy lâu nay.
Quách
Hải Thọ nói:
- Mẹ đã
dạy như vậy con đâu dám cãi.
Nói rồi
liền thay đổi y phụ, cùng Thái Hậu bước lên kiệu, còn Thiên Tử bước lên long xa
cùng các quan trở về Biện kinh.
Về đến
nơi, các quan trào đều ra khỏi thành nghênh tiếp Thiên Tử truyền dọn yến tiệc
thết đãi để chúc mừng việc đoàn viên.
Lúc ấy
Tào Hoàng Hậu, Bàng Quí Phi đi với tam cung lục viện đến đó mà triều kiến Lý
Thái Hậu. Triều kiến xong, Lý Thái Hậu truyền chỉ ai về cung nấy, rồi than với
Thiên Tử rằng:
- Nay về
đến đây được thấy cung viện như vầy thật là phước lớn. Song nhớ lúc còn ở nơi
Trần Châu nếu không có Bao đại nhân thì không biết đến bao giờ mới được trở lại
nơi đây
Thiên Tử
nói:
- Vậy để
xong việc triều đình con sẽ cho người đến Trần Châu trùng tu miếu võ, chẩn tế
nhân dân. Còn bây giờ Quách Hòe đã đem lòng độc ác như vậy thì cứ phải luật mà
hành hình. Còn Lưu Thái Hậu thì cũng không nhẹ và Địch Thái Hậu cũng có tội khi
quân nữa. Tuy vậy phận làm con, không lẽ dám định án đấy.
Lý Thái
Hậu nói:
- Vả
chăng ngày ấy Trần Lâm cứu Hoàng nhi về cho Địch Thái Hậu bảo dưỡng, thì Địch
Thái Hậu tuy không có công đẻ song cũng có công nuôi, sanh dường đạo đồng thì
Địch Thái Hậu cũng như mẹ, thiết là có công mà không có tội cho hết. Còn Lưu
Thái Hậu tuy có lòng độc dữ, song cũng là vợ lớn của Tiên đế thì cũng là đích
mẫu của Hoàng nhi rồi. Đạo làm con không lẽ định tội cho đích mẫu. Bây giờ mẹ
con ta được đoàn viên thì Hoàng nhi phải xóa bỏ hết những chuyện ấy, chẳng nên
nhắc đến nữa. Còn Trần Lâm có công cứu chúa, ơn ấy phải đền. Khấu cung nga có
lòng nhân ái thì phải âm phong và lập miếu phụng từ. Duy có một mình Quách Hòe
tội
ấy rất
nặng, không thể thứ dung. Phải giao cho Bao Công tra xét mà định tội.
Thiên Tử
nói:
- Mẫu
hậu phán như vậy thật là có nhân từ.
Vừa nói
dứt lời thì có cung nga đến báo:
- Từ
ngày thành giá ra khỏi kinh thành thì Lưu Thái Hậu đã đóng cửa cung mà tự vận
rồi.
Thiên Tử
hỏi:
- Khi
trẫm mới về đây sao không báo trước cho trẫm hay?
Cung nữ
tâu:
- Khi ấy
Chánh hậu nương nương nói Thái Hậu mới về, đang lúc vui mừng nên không cho báo
việc hung tin như vậy.
Lý Thái
Hậu nghe xong thì rơi lệ nói:
- Thế
khi Lưu Thái Hậu sợ tôi mà liều mình chăng? Không dè ta có lòng rộng dung như
vậy mà Lưu Thái Hậu không biết.
Thiên Tử
hỏi cung nữ:
- Vậy
chớ đã tẩm niệm rồi hay chưa?
Ngày ấy,
Thiên Tử truyền chỉ tẩm liệm Lưu Thái Hậu xong thì chọn chỗ đất khác mà an
táng, song không cư tang.
Ngày thứ
Địch Thái Hậu ra mắt Lý Thái Hậu thì cũng muốn noi theo việc lễ mà triều bái
tung hô, song Lý Thái Hậu không cho, dắt tay mời ngồi và trò chuyện cùng nhau.
Địch Thái Hậu cũng sợ Thiên Tử bắt tội khi quân nên có ý khép nép, té ra Lý
Thái Hậu chẳng những không nói đến tội mà còn tạ ơn:
- Trong
khi con tôi bị nạn đó, nếu không có hiền tẩu bảo bọc thì còn đâu nối trị ngôi
trời đặng ơn ấy thiệt là lớn.
Cung nữ
tâu:
- Chánh
hậu nương nương nói Lưu Thái Hậu là người có tội, phải chờ Bệ hạ về xem thử thế
nào đã rồi sẽ tẩm liệm.
Lý Thái
Hậu nói:
- Vậy
Hoàng nhi hãy nghĩ tình Tiên đế mà làm theo lễ an táng nơi Hoàng lăng.
Thiên Tử
nói:
- Việc
ấy không được đâu. Tuy Lưu Thái Hậu là người nguyên phối phối của Tiên đế mặc
lòng, song làm đến tội ấy cũng không thua gì Võ Hậu đời Đường, vì cũng có lòng
muốn làm tuyệt dòng nhà Tống. Nếu bây giờ còn an táng nơi Hoàng lăng e khi con
cũng bị tội với Tiên đế nữa. Thôi, con cũng cho lấy lễ mà tẩm liệm, nhưng không
được chôn vào Hoàng lăng.
Thái Hậu
thấy Thiên Tử nói như vậy thì làm thinh, không nói gì nữa.
Địch
Thái Hậu nói:
- Việc
ấy tuy cũng có công, song lấy theo quốc pháp thì cũng không khỏi tội khi quân.
Nay nương nương cùng Thánh Thượng rộng lòng không định tội là may, xin chớ nói
đến công ơn nữa.
Lý Thái
Hậu nói:
- Tuy
hiền tẩu nói như vậy, song theo ý tôi xét thí chẳng có tội chi cả.
Nói vừa
dứt thì Thiên Tử đến cung mà triều bái Địch Thái Hậu. Kế đó Dư Thái Quân cũng
đến chầu Lý Thái Hậu nữa.
Lý Thái
Hậu truyền dọn tiệc thết đãi. Ăn uống xong đến chiều tối mới về.
Hôm sau,
Thiên Tử lâm trào hỏi Bao Công:
- Khấu
cung nữ có lòng nhân ái, vì cứu trẫm mà phải liều mình như vậy, còn Trần Lâm
thì cũng có công cứu chúa, song một đáng mất, một đáng còn, hai đàng đều có ơn
rất nặng theo ý khanh tưởng phải phong thưởng bậc chi cho xứng?
Bao Công
tâu:
- Khấu
cung nữ công cán rất lớn, xin Bệ hạ gián chỉ mà di táng linh cữu nơi Hoàng
lăng, rồi truy phong Thiên Phi nguyên mẫu, lập miếu mà phụng thờ. Còn Trần Lâm
có lòng trung nghĩa xin Bệ hạ phong đến tước công, rồi cho an nhàn dưỡng lão,
sống thì hưởng lộc triều đình, chết thì đem tên vào Thái miếu. Còn Quách Hoè có
lòng độc ác, bày mưu sâu kế độc thì phải chịu tội rút ruột, cắt lưỡi và phân
thây.
Thiên Tử
nói:
- Vậy
thì trẫm giao cho khanh cứ theo án ấy mà thi hành.
Bao Công
tâu:
- Vả
Quách Hòe và Trần Lâm đều là nội giám hết, mà Trần Lâm có lòng nhân ái, Còn
Quách Hòe thì gian tà, một đàng hại chúa, một đàng cứu chúa, hai nẻo cách nhau,
xin Bệ hạ cho Trần Lâm đến giữa pháp trường mà coi xử tội Quách Hòe cho vui
lòng, đẹp mắt.
Thiên Tử
nhậm lời, phán:
- Phán
đoán như Bao khanh thật vừa ý trẫm.
Liền hạ
chỉ tuyên triệu Trần Lâm trước khi bãi triều. Các quan ai về dinh nấy.
Bao Công
về đến dinh liền sai quân thẳng đến thiên lao bắt Quách Hòe đem ra pháp trường
xử tội.
Quân sĩ
dẫn Quách Hòe đến nơi thì Bao Công và Trần Lâm đã có mặt.
Bao Công
cười, nói:
- Quách
Hòe và Trần công công đều là nội giám mà một đàng vinh hiển như vầy, còn một
đàng thì bị hành hình thế ấy, thật khác xa nhau.
Nói rồi
khiến quân khiên ra một thùng nước để giữa pháp trường và căng Quách Hòe ra xử
tội lăng trì.
Lúc ấy
quân sĩ vâng lời cầm dao mở ruột Quách Hòe, rồi rút ruột ra, cắt bỏ vào thùng
nước, còn thịt thì xé ra từng miếng. Trần Lâm thấy Quách Hòe kêu la om sòm thì
vỗ tay cười lớn nói:
- Quách
Hòe! Bởi ngươi ăn ở bất nhơn, độc ác nên mi mới bị tội như vậy. Thật đáng kiếp.
Nói rồi
cười ngất cho đến hụt hơi mà chết. Quân sĩ thấy vậy đỡ Trần Lâm dậy, nhưng đã
lạnh ngắt không còn cứu được nữa. Bao Công bảo quân sĩ giữ thi hài rồi trở về
triều báo lại với Thiên Tử.
Thiên Tử
nghe tin than:
- Trần
Lâm có công cứu trẫm, chưa được hưởng phong thường mà đã lìa trần.
Bèn
truyền chỉ văn võ thay mắt mình mà lo việc tống táng.
Còn
Quách Hải Thọ lâu nay chịu cảnh bần hàn đã quen, nay về triều thấy việc nghi lễ
rườm rà không muốn ở trào,
nên vào
tâu cùng Lý Thái Hậu xin trở về Trần Châu, Lý Thái Hậu nghe tâu buồn bã nói:
- Con ơi
Mẹ con ta bấy lâu chịu rách rưới đói nghèo, nay mẹ đã tai qua nạn khỏi rồi thì
còn phải ở đây vui hưởng vinh hoa với mẹ thì mẹ mới an lòng.
Quách
Hải Thọ nói:
- Mẹ ơi!
Con là người bần hàn, thuở nay không biết lễ nghi chi hết, nay con ở đây lâu
chừng nào, thì lòng con thêm thẹn với bá quan văn võ chừng ấy. Vì con xét mình
văn không biết một chữ, võ không biết một chiêu, xin mẹ cho con trở về Trần
Châu mà thủ phận thanh bần mà con vui hơn là ở nơi đây trong vinh hoa phú quý.
Vả lại từ Trần Châu đến đây cũng chẳng bao xa, khi nào nhớ mẹ con đến thăm cũng
chẳng khó gì. Còn thân mẹ bây giờ đã có Thánh Hoàng chăm sóc, sớm tối có người
hầu hạ, nên con an lòng không lo đến việc ấy nữa. Xin mẹ đừng trách con không
biết vâng lời.
Lý Thái
Hậu cũng biết lòng hiếu thảo của Quách Hải
Thọ,song
vì không muốn sống trong cảnh phồn hoa, nên muốn trở về với thôn dã. Vì vậy Lý
Thái Hậu nói:
- Con đã
quyết chí không muốn ở lại đây thì để mẹ nói với Thánh Thượng xin sai người qua
Trần Châu lập vương phủ cho con ở, vậy con chờ đợi ít ngày nữa, lúc lập xong
vương phủ con hãy trở về.
Quách
Hải Thọ nghe nói như vậy thì cũng vui lòng.
Ngày
kia, Lý Thái Hậu dạo khắp các cung mà xem nhơn phẩm thế nào. Khí thấy Bàng Quí
Phi, tuy là môi son má phấn, mày liễu mặt hoa, nhưng dưới chân mày có một chỗ
sát khí, thì biết không phải là người thuần lương, bèn thừa dịp nói với Thiên
Tử rằng:
- Mẹ xem
Bàng Quý Phi không phải là người hiền hậu, chắc là có tánh hay đố kỵ. Vậy Hoàng
nhi không nên yêu dấu cho lắm, mẹ e ngày sau nó cũng không khác chi Lưu Thái
Hậu. Con khấu cung nữ và Trần Lâm đã chết rồi mà chưa được truy phong, vậy
Hoàng nhi hãy lo việc ấy, còn Quách Hải Thọ nằng nặc xin trở về Trần Châu, liệu
bề không ép được, con cũng nên gia phong quyền tước và sai người lập vương phủ
cho nó về Trần Châu mà ở.
Thiên Tử
vâng lời, hứa sẽ chu toàn mọi việc.
Lời bàn.
Lý Thái
Hậu bị tai nạn, sống khổ cực gần hai mươi năm, không tham danh vọng, nên lúc
trở về triều không chút oán thù. ấy bởi Lý Thái Hậu thấy được bả vinh hoa phú
quí là miếng mồi tham vọng, làm cho lòng con người tàn nhẫn, ác độc.
Vì tình
mẹ con được tương ngộ nên Lý Thái Hậu trở về triều, chớ không phải vì tham lam
phú quý. Chính vì lẽ đó mà lòng Lý Thái Hậu trở nên từ tâm, quên hết hận thù.
Còn
Quách Hải Thọ, một chàng trai chất phát, sống giữa thôn dã, chỉ biết có tình
người. Không tham lam giầu sang, nên không thích ở lại triều đình. Ấy cũng là
bản chất của con người không có lòng tham, chen chút trong danh lợi.
Từ xưa,
những kẻ xa lánh lợi danh thường hay tìm cảnh sống với núi non đồng ruộng, ấy
cũng chính vì họ đã từng chán ngán mùi thế sự mà tránh xa việc tranh đoạt lợi
danh.
HỒI THỨ BỐN MƯƠI BỐN - AN LẠC VƯƠNG VINH QUI
ĐỊNH CANG LỆ.
Thiên Tử
nghe Lý Thái Hậu nói thì tâu:
- Lúc
con rước mẹ nơi Trần Châu con có lời khấn vái cho mẹ lành tật sẽ xuất khi mà
chẩn bần, và tha thuế cho dân Trần Châu mười năm. Nay mắt mẹ đã sáng rồi con
cũng phải tính cho xong lời hứa ấy.
Lý Thái
Hậu nói:
- Vậy
thì con phải sai người đi lo việc đó cho đúng với lời hứa của con.
Hôm sau,
Thiên Tử lâm trào truyền chỉ truy phong Khấu cung nữ làm Thiên Phi Thục Đức,
phong hàm ân cho Trần Lâm làm trung liệt công và lập miếu mà thờ, lại phong cho
Quách Hải Thọ làm An Lạc Vương, cho phép bất kỳ lúc nào muốn về trào cũng được,
rồi lại gia phong cho Bao Công làm Long Đồ Các Khu Mật Sứ và ban cho một chỗ
ngồi trong trào để lúc đi chầu khỏi đứng. Rồi đó vua truyền chỉ đại xá tù trong
nước, hễ tội lớn thì giảm, tội nhỏ thì tha ngay. Lại truyền chỉ lập vương phủ
cho An Lạc vương ở nơi Trần Châu. Ban thưởng xong vua bãi triều, các quan ai về
dinh nấy.
Cách ít
ngày sau, Thiên Tử lại truyền chỉ cho Bàng Hồng và Bao Công phải nán lại Trần
Châu mà chẩn bần, rồi sẽ về sau.
Lúc ấy,
Quách Hải Thọ bái biệt Lý Thái Hậu rồi ra đi.
Lý Thái
Hậu nói:
- Từ nay
về sau cứ cách ba tháng con về thăm mẹ một lần kẻo mẹ thương nhớ lắm.
Quách
Hải Thọ vâng lời rồi tạ ơn lui ra.
Tháng
ngày thấm thoát trôi qua đúng ba tháng, Bao Công cũng đã chẩn bần xong và nhân
dân ca tụng ơn đức lắm.
Từ ấy An
Lạc vương an hưởng giàu sang, sung sướng không biết chừng nào, song còn một
điều là chưa có đôi bạn thì cũng chưa được vừa lòng cho mấy.
Bấy giờ
có Vương Tăng Nguyên là Tể Tướng của Tiên đế nay đã hưu trí về tại Trần Châu,
lại có một đứa con gái tên là Long Châu, tuổi vừa cập kê mà nhan sắc rất đẹp,
nên Vương Tăng có ý muốn gả cho An Lạc vương.
Khi Bao
Công phát chần xong thì đến viếng Vương Tăng, nên sẵn dịp Vương Tăng ngỏ ý cầu
hôn.
Bao Công
nói:
- Ngài
có lòng thương An Lạc vương như vậy để tôi sẵn lòng giúp cho.
Nói rồi
bèn từ giã Vương Tăng đến gặp An Lạc vương tỏ bày việc ấy. An Lạc vương vui vẻ
nói:
- Tôi
vẫn là người lâu nay sống bần tiện, nhờ có Mẫu Hậu mà được vinh hiển như ngày
hôm nay. Còn cháu Vương Thái sư là cành vàng lá ngọc, tôi đâu dám vọng tưởng.
Bao Công
nói:
- Tuy
ngày trước đại vương nghèo khổ, nhưng nay đã đặng phong vương rồi, một đàng là
vương hầu, một đàng là Tể Tướng, thì hai bên kết duyên với nhau xứng lắm. Nay
Vương Thái sư cậy tôi chớ tôi không phải bày ra chuyện ấy đâu.
Quách
Hải Thọ nói:
- Nếu
đại nhơn đã nói như vậy thì xin đại nhơn dâng biểu về tâu cùng Thánh Thượng,
coi thử Thánh Thượng liệu định thế nào?
Bao Công
nói:
- Lời ấy
rất phải.
Bèn từ
giã Quách Hải Thọ đến ra mắt Vương Tăng thuật lại ý kiến của An Lạc vương cho
Vương Tăng nghe.
Vương
Tăng mừng rỡ nói:
- Vậy
xin đại nhơn hãy gắng lo cho xong việc.
Bao Công
vâng lời thảo một đạo biểu chương đem về Biện kinh mà dâng cho Thiên Tử.
Thiên Tử
rất đẹp ý, vào cung tỏ lại sự tình với Lý Thái Hậu. Lý Thái Hậu nói:
- Vương
Thái sư là người trung hậu mà lại là một cựu
công
thần. Nếu Quách Hải Thọ mà được sánh duyên như vậy cũng có phước lắm.
Thiên Tử
liền phê vào tờ chiếu, khiến Bao Công toan liệu việc ấy Bao Công được chi liền
truyền cho văn võ bá quan nơi Trần Châu sắm lễ vật, rước Vương tiểu thơ về vầy
duyên với An Lạc Vương.
Bàng
Hồng hay được việc ấy thì phiền muộn lắm, vì lúc này Thiên Tử lại sai đi Tam
Quang làm y theo lời xin của Dương Tôn Bảo phong cho Địch Thanh làm phó Nguyên
Soái, và phong thưởng cho các tướng, đặng hiệp sức với Dương Tôn Bảo mà trấn
giữ Tam Quang.
Bàng
Hồng về đến dinh nghĩ thầm:
- Bấy
lâu ta dốc lòng mưu hại Địch Thanh, té ra mưu này kế khác vẫn không hại được,
Mà Địch Thanh lại được phong làm đến Phó Nguyên soái. Ta nghĩ chừng nào thì
giận Bao Hắc Tử chừng ấy, không biết kế mà hại Bao Hắc Tử cho đặng, rồi sẽ lập
kế mà hại Địch Thanh.
Từ ấy
Bàng Hồng lo lắng và buồn rầu không nguôi.
Lúc này
Dương Tôn Bảo tiếp được Thánh chỉ phong chỉ Địch Thanh làm Phó Nguyên soái,
Tương Trung, Lý Nghĩa và Lưu Khánh làm đến chức Thống chế, còn chư tướng đều
thăng cấp nên ai nấy đều vui mừng, mở tiệc vui chơi.
Cách ít
ngày sau, Địch Thanh nhiễm bịnh, cơm cháo không ăn, rên la cả ngày. Dương
Nguyên soái đem lòng lo sợ nên khiến Phạm Trọng Yêm làm biểu chương sai người
vợ trào tâu cho Thiên Tử rõ.
Giữa lúc
ấy có quân thám thính lại về báo:
- Bên
Tây Hạ phong cho Tiết Đức Lễ làm Diệt Tống Nguyên soái khiến đem ba mươi muôn
binh đến đánh nước ta. Bây giờ hãy còn đóng trại cách thành này chừng năm mươi
dặm.
Dương
Nguyên soái tuy nghe báo như vậy, nhưng cũng không đem lo lòng, vì ỷ mình có đủ
sức mạnh đương cự.
Kế đến
thấy binh tướng đem chiến thơ đến. Dương Nguyên soái cũng phê vào chiến thơ hẹn
ngày giao chiến
Hôm sau,
Tiết Đức Lễ đem binh đến khiêu chiến. Tiêu Đình Quý xin ra trận thì Dương
Nguyên soái cũng cho đi.
Tiêu
Đình Quý ra đến trận thì thấy Tiết Đức Lễ mặt xanh, râu đỏ, mình cao một
trượng, tay cầm đại đao, xốc tới đánh Tiêu Đình Quý.Tiêu Đình Quý ráng sức đánh
được vài mươi hiệp, liệu bề cự không lại liền giục ngựa chạy về ải. Tìết Đức Lễ
dốc quân rượt theo. Khi đến ải thì quân trên ải bắn tên xuống, làm cho quân
Phiên chết rất nhiều. Tiết Đức Lễ thấy vậy phải thâu quân quay về trại.
Còn
Dương Tôn Bảo đang ngồi thượng thư với chư tướng xảy thấy Tiêu Đình Quý chạy về
thưa:
- Tiết
Đức Lễ anh hùng vô địch, tôi cự với nó không lại nên phải về đây.
Dương
Nguyên soái nói:
- Thắng
bại là việc thường trong binh gia. Nhưng ra trận chưa được bao lâu, lẽ nào lại
chịu thua sớm vậy?
Tiêu
Đình Quý nghe nói lật đật thưa:
- Tuy
đánh chẳng bao lâu, song biết sức mình không địch nổi, thà thua sớm còn hơn.
Lúc này
Tiết Đức Lễ thừa thắng vây thành, Dương Tôn Bảo nổi giận sai Trương Trung ra
đánh. Trương Trung cũng chỉ đánh được vài chục hiệp rồi cũng quày ngựa bỏ chạy.
Dương Nguyên soái lại sai Lý Nghĩa đem quân ra đối địch. Lý Nghĩa ra đánh vài
chục hiệp rồi cũng bị thua chạy về thành. Bấy giờ Tiết Đức Lễ thấy trời đã tối
nên kéo binh về trại.
Hôm sau,
Tiết Đức Lễ lại kéo binh đến khiêu chiến nữa.
Dương
Tôn Bảo liền nai nịt chỉnh tề dẫn quân ra ứng chiến. Tiết Đức Lễ thấy Dương Tôn
Bảo liền hỏi lớn:
- Tống
tướng tên chi phải nói rõ cho ta biết.
Dương
Tôn Bảo nói:
- Ta là
đại Nguyên soái Tôn Bảo đây. Sao ngươi dám cả gan đem quân xâm lấn bờ cõi Tống
trào. Hãy mau xếp giáp quy hàng kẻo mất mạng.
Lời bàn.
Lời xưa
nói: "Tích thiện phùng thiện, tích ác phùng ác" tức là: Chứa lành thì
gặp lành, chứa dữ thì gặp dữ. Vậy thì lành, dữ chứa ở đâu.?
Trong
cuộc sống con người, thời gian xây dựng cuộc đời đụng chạm không biết bao nhiêu
là sự việc để mưu sinh, mỗi hành động con người chứa đựng nhiều việc lành và
việc dữ.
Việc
lành, dữ ấy di lưu trong cuộc sống của mình để đem đến hậu quả của nó, ấy vậy
lành dữ chứa trong cuộc sống của chúng ta chờ không ở đâu xa lạ cả.
Chúng ta
thấy Lưu Thái Hậu rồi đến Quách Hòe đến Thái giám Trần Lâm và tất cả những
người khác trong chuyện này, kẻ nào chứa lành thì cuối cùng gặp lành, kẻ nào
chứa dữ thì cuối cùng gặp dữ.
Bởi vậy,
người xưa khuyên: Thiện ác đáo đầu chung hữu báo. Tức là: Lành dữ cuối cùng đều
có trả.
Trong
lúc mưu sinh, chúng ta ít người nghĩ đến lẽ như quả nên không tự răn lấy mình,
đến khi nhận hậu quả thì chỉ còn biết hối hận mà thôi.
HỒI THỨ BỐN MƯƠI LĂM - SA CƠ TÔN BẢO BỊ ĐỨC LỄ
NƠI CHIẾN ĐẠI.
Tiết Đức
Lễ nghe Dương Tôn Bảo nói như vậy thì cười lớn:
- Té ra
ngươi là Dương Tôn Bảo, làm Nguyên soái Tống trào mà không rõ thời vận hưng
suy. Lúc này trào Tống đang rối rắm, thiên hạ nay mai thuộc về Tây Hạ mà ngươi
không rõ thiên cơ hay sao?
Dương
Tôn Bảo nghe nói nổi giận, nạt lớn:
- Nghịch
tặc chớ nhiều lời.
Nói rồi
vung dao chém Tiết Đức Lễ. Hai bên giao chiến hơn trăm hiệp. Tiết Đức Lễ cự
không lại liền giục ngựa bỏ chạy, Dương Tôn Bảo vỗ ngựa đuổi theo, không ngờ
Tiết Đức Lễ quày ngựa lại rút Hỗn nguyên chùy đánh ngay vào đầu Dương Tôn Bảo
hào quang chói mắt làm Dương Tôn Bảo đánh không kịp bị ngọn chùy trúng nhằm
vai. Dương Tôn Bảo hộc máu nhào xuống ngựa, nhờ có Trương Trung chạy lại cõng
Dương Nguyên soái chạy vào thành. Tiết Đức Lễ thừa thắng chém giết quân Tống
rất nhiều, rồi mới thâu binh về trại.
Khi về
trại, Tiết Đức Lễ mừng rỡ nói với chư tướng:
- Nay ta
đã đánh Dương Tôn Bảo một chùy, nội trong ba ngày phải rã thịt mà chết. Các
tướng nghe nói như vậy nếu vui mừng mở tiệc hân hoan.
Còn
Trương Trung cứu được Dương Tôn Bảo đem về thành thì Phạm Trọng Yêm lật đật
khiến chư tướng điều trị, và truyền lệnh quân sĩ phải tuần phòng cho nghiêm
ngặt, rồi thảo một tờ biểu chương sai người về tâu với triều đình.
Cách ba
ngày sau thì thấy mình mẩy Dương Tôn Bảo rã từng sớ thịt, biến thành một đống
xương mà thác. Chư tướng thấy vậy đều than khóc, rồi sắm sửa quan quách tẩm
liệm. Phạm Trọng Yêm lại sai người về trào đang biểu cáo cấp và sai Trầm Đạt
phòng linh cữu về kinh đô.
Bấy giờ
Quỳ Cốc Tiên sư đoán biết Tiết Đức Lễ đem quân phạt Tống, đánh chết Dương Tôn
Bảo nên gọi đệ tử là Thạch Ngọc nói:
- Nay
Tây Hạ sai Tiết Đức Lễ đem quân đến đánh Tam Quan, Dương Tôn Bảo đã bị hỗn
nguyên chùy mà thác rồi. Vậy ta cho ngươi một cây quạt tên là Phong vân phiến
đặng để nải Tam Quang mà trừ Hỗn nguyên chùy. Ta lại cho ngươi một bài thơ này,
ngươi hãy xuống đó mà kiến cơ lập nghiệp để hưởng sự giàu sang với đời.
Nói rồi
liền lấy hai vật ấy trao cho Thạch Ngọc.
Thạch
Ngọc lãnh lấy và thưa:
- Bấy
lâu nay nhờ thầy dạy bảo, nay thương pháp đã tinh thông. Vậy thầy sai tôi hạ
san chẳng biết lấy chi đền đáp ơn ấy.
Nói rồi
lạy tạ từ giã xuống núi. Quỷ Cốc liền làm phép cho Thạch Ngọc bay lên mây đáp
thẳng xuống Tam Quan trong chốc lát.
Thạch
Ngọc liền mở thơ ra xem thì thấy thơ rằng:
HỒI THỨ BỐN MƯƠI SÁU - THƯƠNG CÔNG THẦN, DƯƠNG
VĂN QUẢNG TẬP TƯỚC.
Lúc
Thiên Tử tiếp được tờ biểu chương thì nửa buồn nửa mừng. Buồn là Dương Tôn Bảo
bỏ mình nơi chiến đại, mừng là Thạch Ngọc còn sống trở về lập được công lớn.
Kế đó
Thiên Tử hạ chỉ sai văn võ bá quan đến Thiên ba phủ mà tế điện Dương Tôn Bảo
phong hàm ân cho Dương Tôn Bảo làm Điện Võ vương, còn con của Dương Tôn Bảo là
Dương Văn Quảng thì phong làm Thiệu Liệt hầu. Cách vài ngày sau Thiên Tử lại
sai sứ ra Tam Quan phong cho Địch Thanh làm Chiêu Hảo Đại Nguyên soái, Thạch
Ngọc làm Phó Nguyên soái kỳ dư văn võ bá quan nơi Tam Quan đều được thăng ba
cấp.
Lúc ấy
Địch Thanh hội chư tướng lại mà thương nghị:
- Tam
Quan là nơi trọng đại, nay đã khuyết Nguyên soái rồi, vậy phải thân tấu với
trào đình xin chọn người lão thành ra trấn giữ, chứ tôi thì còn trẻ, tài trí sơ
thiển không lẽ Trấn thủ được.
Thạch
Ngọc nói:
- Lời
đại ca nói rất phải. Nếu không kịp chỉnh đốn ắt có cơ thất bại.
Dương
Thanh nói:
- Nhị vị
là người trí dõng kiêm toàn, Tây Liêu đều sợ, mà lại mới lập công lớn nữa. Vậy
thì Địch thân vương lãnh lấy binh phù mà trấn thủ chỗ này ắt vô sự. Và lại Tây
Hạ đã bị thua nhiều trận chắc chúng không dám quấy rối nữa đâu.
Lưu
Khánh nói:
- Việc
ấy chưa chắc, chúng ta phải đề phòng mới được. Thôi để tôi đằng vân qua Tây Hạ
thám thính thử xem chúng có mưu tính gì không?
Phạm
Trọng Yêm nói:
- Lời
Lưu tướng quân nói rất phải. Song có đi thì phải cẩn thận lắm mới được.
Địch
Thanh nói:
- Nếu
hiền đệ có đi thì phải mau mau trở về, đừng có ở lâu mà chúng ta trông đợi.
Lưu
Khánh nói:
- Ấy là
bổn phận tôi phải lo liệu.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Không
xong đâu? Tôi chắc là Lưu Khánh đi không đặng, vì lần trước đã một lần lãnh
mạng đi thích khách Tiết Đức Lễ mê sắc con Bá Hoa Nữ, nên bị nó bắt. Nhờ có
Thạch Quận mã bắt được nó nên mới đổi được Lưu Khánh trở về. Bây giờ lãnh mạng
mà đi thám thính Tây Liêu, nếu ruổi mê gái mà bị bắt nữa thì biết lấy ai mà
đổi.
Thạch
Ngọc nói:
- Tiểu
tướng quân đừng nói vậy mà mất lòng Phi Sơn Hổ. Khi trước đã lỡ một phen thì
lần này chắc không dám nữa đâu. Thôi tướng quân hãy đi đi.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Bây
giờ giặc dẹp đã xong rồi, lẽ thì chúng ta phải bày tiệc ăn uống cho vui, hơi
đâu ngồi tranh cãi như vậy.
Phạm
Trọng Yêm nói:
- Đừng có
nói cợt đùa trong quân ngũ mà phạm tội đó.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Ấy là
lời ngay thẳng của tôi, đâu phải đùa cợt. Thôi để cho Phi Sơn Hổ bị Bá Hoa Nữ
bắt một lần nữa thì mọi người mới biết lời nói của tôi không phải là đùa cợt.
Lưu
Khánh từ giã chư tướng, đằng vân ra đi. Tiếp đó có quân vào báo:
- Nay có
sứ mạng đem chiếu đến.
Chư
tướng nghe báo liền lập bàn hương án tiếp chiếu.
Trong
chiếu gia phong cho Địch Thanh là Chiêu Thảo Đại Nguyên soái, Thạch Ngọc là Phó
Nguyên soái, Trương Trung và Lý nghĩa đều làm chức tướng quân, còn các quan
khác đều gia thăng ba cấp.
Chư
tướng đều mừng rỡ. Địch Thanh truyền dọn tiệc ăn mừng, đồng thời thết đãi Thiên
sứ.
Hôm sau,
Địch Thanh kêu Trương Trung nói:
- Trương
hiền đệ hãy thống lãnh một muôn binh, tất cả đều mặc áo giáp xanh, ra cửa Đọng
phương mà trấn thủ, hễ nghe hiệu báo thì kẻo quân tiếp ứng.
Trương
Trung lãnh lệnh ra đi. Địch Thanh lại kêu Thạch Ngọc dặn rằng:
- Thạch
hiền đệ dẫn một muôn binh, mặc áo giáp vàng, đóng nơi cửa Tây, hễ nghe pháo
lệnh thì xông vào tiếp ứng.
Thạch
Ngọc tuân lệnh kéo quân ra đi. Địch Thanh lại gọi Lý nghĩa ra dặn:
- Lý
hiền đệ dẫn một muôn binh đóng nơi cửa phía Nam, cho quân sĩ đều mặc áo giáp
đỏ, hễ nghe pháo lệnh thì kéo quân vào ứng chiến. Lý Nghĩa vâng lệnh kẻo quân
ra đi.
Địch
Thanh muốn sai Tiêu Đình Quý ra trấn giữ cửa phía Bắc, song lại nghĩ Tiêu Đình
Quý tánh tình lỗ mãng e không được việc nên không dám sai, ngặt vì Lưu Khánh đi
chưa về nên không biết sai ai, cực chẳng đã phải gọi Tiêu
Đình Quý
đến nói:
- Bắc
phương còn thiếu một tướng trấn thủ, vậy tướng quân hãy dẫn quân ra đó mà trấn
đỡ, đợi Lưu Khánh trở về thì giao lại. Tiêu Đình Quý vâng lệnh kéo quân ra đi
nhưng nghĩ thầm:
-"
Tài sức như ta mà Nguyên soái chưa chịu cho ta làm chức ấy, lại còn bảo ta trấn
đỡ đợi Lưu Khánh trở về thì giao lại Nếu vậy Nguyên soái xem ta không ra gì
hết. Thôi bây giờ ta cũng chẳng nói làm chi, để khi gặp giặc ta sẽ ráng sức lập
công, đặng cho Nguyên soái không dám khi ta nữa.
Địch
Thanh phân công xong rồi thì đem năm trăm muôn binh ròng đóng nơi chánh môn mà
trấn thủ".
Lúc ấy
Tây Hạ nghe tin binh mình bị thua như vậy thì buồn bã vô cùng, than thở không
nguôi.
Bỗng có
tướng Mạnh Hùng thấy vậy tâu:
- Tôi
nghe bên Trung quốc có một viên tiểu tướng tên Địch Thanh, hay dùng một cái mặt
quỷ mà nhát tướng ta, lại có tài bắn hay lắm. Nước ta mà bị thua nó thì cũng
chỉ có bấy nhiêu đó mà thôi. Tôi có hai tên bộ tướng có tài la lớn, tiếng hét
như sấm. Hễ ra trận nạt lên một tiếng thì tướng giặc kinh hãi mà rơi xuống
ngựa. Nay tôi xin đem binh qua đánh Trung Nguyên mà trừ cho được Địch Thanh thì
sẽ đoạt thâu giang sơn nhà Tống.
Liêu
chúa nói:
- Nếu
tướng quân có hai người bộ tướng tài năng như vậy thì ta phong cho hai người ấy
một người làm Tả Tiên phương, một người làm Hữu Tiên phương. Còn tướng quân làm
Tổng binh Chủ soái, đặng đem hai mươi muôn binh qua đánh Trung quốc giết Địch
Thanh trả thù cho Tiết Đức Lễ.
Mạnh
Hùng vâng lệnh lui ra giáo trường điểm hai mươi muôn binh mà đi với Tả Tiên
phương là Ngô Liếc và Hữu Tiên phương là Vương Cường. Lúc ấy Bá Hoa Nữ cũng xin
theo trợ chiến, để trả thù cho cha.
Nhắc lại
lúc này Lưu Khánh đằng vân mà đi đã ba ngày, vừa đến kinh đô Tây Liêu thì thấy
các tướng ấy đang điểm quân nơi giáo trường. Lưu Khánh muốn hạ xuống lấy thủ
cấp của chúa soái, song e có một mình không cự nổi, nên vội đằng vân trở về báo
tin cho Địch Thanh hay.
Khi về
đến Tam quang thì thấy đao thương rợp trời, cờ xí nghiêm trang, quân sĩ đều
trấn bốn phía, khác hơn khi trước rất nhiều, nên nghĩ thầm:
- Lạ
thật Không lẽ quân giặc đã lấy được Tam Quan rồi sao mà vây hãm bốn phía như
vậy?
Nghĩ như
vậy bên sa xuống đi vào cửa Bắc môn thì thấy có một cây cờ đen, đề một chữ Hổ,
và quân sĩ đều mặc áo đen, coi ra rất nghiêm chỉnh. Lưu Khánh thấy vậy khen:
- Địch
Thanh là một người thiếu niên, mới làm Phó Nguyên soái mà điều khiển quân sĩ
như vậy, thiệt là đáng bậc tướng tài. Hèn chi Dương Nguyên soái trọng Địch
Thanh lắm.
Lúc ấy
quân sĩ thấy Lưu Khánh về thì lật đật vào báo cho Tiêu Đình Quý hay.
Tiêu
Đình Quý nghe báo nghĩ thầm:
- Chắc
là Lưu Khánh cũng đã về nhà thăm vợ con chớ chẳng không, và cũng đã dò la tin
tức gì bên Tây Liêu nữa.
Nghĩ như
vậy, Tiêu Đình Quý chạy ra nạt lớn:
- Lưu
Khánh! Ngươi dám cả gan về nhà thăm vợ mà không báo cho ta hay. Vậy ngươi còn
thám thính bên Tây Liêu ra thế nào mau phải thưa lại cho ta rõ, kẻo mà chết.
Lưu
Khánh nghe nói lấy làm lạ nghĩ thầm:
- Không
biết Tiêu Đình Quý đặng quyền thế gì mà dám lớn lối như vậy, chắc là nó đã lập
công chi đây chớ chẳng không.
Nghĩ vậy
Lưu Khánh hỏi Tiêu Đình Quý:
- Vậy
chớ Tiêu tướng quân lãnh binh ra chỗ này hay sao?
Tiêu
Đình Quý nói:
- Bớ Lưu
Khánh! Vì ngươi còn chưa rõ nên ta nói cho ngươi nghe. Từ khi ngươi đi rồi thì
có Thánh chỉ gia phong cho Địch vương thân làm Nguyên soái, còn ta làm Phó
Nguyên soái, từ rày về sau ngươi phải vâng lời ta sai khiến, chẳng nên xem ta
như thuở xưa nữa.
Lưu
Khánh nói:
- Thiệt
như vậy hay sao?
Tiêu
Đình Quý nói:
- Ai nói
gạt ngươi làm chi. Vậy ngươi không thây mấy muôn binh đề do ta cai quản đó sao
Lưu
Khánh nói:
- Thánh
Thượng đã gia phong cho tướng quân như vậy mà có gia phong cho tôi chút đỉnh gì
hay không
Tiêu
Đình Quý nói:
- Ta
thấy nhà ngươi cũng có công cán ít nhiều, nhưng chẳng biết ý gì Thánh Thượng
không chịu gia phong cho ngươi chắc là ý Thánh Thượng muốn để ngươi làm vô danh
tiểu tốt để đi thám thính cho tiện nên chỉ phong chức thám tử quân mà thôi. Vậy
bây giờ ngươi hãy theo mà hầu hạ ta đây.
Lưu
Khánh nghe nói thì buồn rầu than:
- Nếu
quả như vậy thì tôi sẽ trở về quê quán, chuyên việc nông trang cho qua ngày,
chớ không xông tên đụt pháo vào sanh ra tử mà làm gì.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Thôi
chuyện đâu còn có đó: Bây giờ Lưu tướng quân hãy tỏ công việc đi Tây Liêu thám
thính cho tôi nghe, rồi tôi sẽ giao hết binh quyền này cho tướng quân mà nghe
lời tướng quân sai khiến. Như vậy tướng quân có bằng lòng không?
Lưu
Khánh nói:
- Làm
như vậy sao phải. Tướng quân vâng sắc mệnh Thiên Tử, lẽ nào lại nhường cho tôi
đặng. Còn việc thám thính.
Tây Liêu
thì Liêu chúa sai Mạnh Hùng làm Nguyên Soái, cầm binh ba mươi muôn, chẳng bao
lâu cũng kéo đến đây.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Nếu
vậy Nguyên soái đoán hay thiệt. Thôi tướng quân có công thám thính nắm rõ tình
hình, vậy tôi phải nhường lại chức Phó Nguyên soái cho tướng quân điều khiển.
Lưu
Khánh nghe mấy lời của Tiêu Đình Quý thì trong lòng nửa tin nửa ngờ, nên nghĩ
thầm:
- Thôi
để ta vào thưa lại nguyên soái hay, đặng có đủ thời gian lo liệu.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Lưu
tướng quân hãy ở lại đây mà quản quân sĩ đi, để tôi về báo với Nguyên soái cho.
Lưu
Khánh nói:
- Không
được đâu. Vả tướng quân chấp chưởng binh quyền, danh chánh ngôn thuận, lẽ nào
giao cho tôi được. Để tôi vào thông báo cho Nguyên soái kẻo trễ nải bây giờ.
Tiêu
Đình Quý nói:
- Tôi đã
hết lòng nhường lại cho tướng quân mà tướng quân không chịu. Thôi, tướng quân muốn
đi đâu thì đi..
Lưu
Khánh vừa đi vừa nghĩ thầm:
- Tiêu
Đình Quý là đứa lỗ mãng, không biết ý gì mà Nguyên soái lại phú thác binh quyền
cho nó như vậy. Thật là khó hiểu.
Nghĩ rồi
đi thẳng vào soái phủ, thuật hết các việc thám thính cho Địch Thanh nghe. Địch
Thanh cũng thuật lại việc vì Lưu Khánh vắng nhà nên sai Tiêu Đình Quý tạm đỡ.
Chứng ấy
Lưu Khánh mới rõ việc Tiêu Đình Quý đòi giao binh quyền lại cho mình.
Lúc này
tại triều, con của Dương Tôn Bảo là Dương Văn Quảng tâu cùng Thiên Tử xin ra
Tam Quang mà lập công.
Thiên Tử
nhậm lời, hạ chỉ cho Dương Văn Quảng ra giúp Địch Thanh mà cự với binh Tây
Liêu.
Hôm sau
có quân thám báo về thông tin:
- Có
Liêu tướng đem binh đến cổng thành.
Địch
Nguyên soái nghe báo liền lên ngựa ra trận, và Lưu Khánh, Tiêu Đình Quý đi theo
trợ chiến.
Lưu
Khánh ra trận nạt lớn:
- Liêu
tặc: Các ngươi còn dám đến đây chịu chết hay sao?
Tướng
Liêu là Ngô Liệc nổi giận xung côn xông tới đánh với Lưu Khánh. Hai bên đánh
nhau được vài mươi hiệp, thì Ngô Liệc hét lên một tiếng vang rền như trời long
đất lở, Lưu Khánh thất kinh gần sa xuống ngựa, vội vàng đằng vân bay lên không.
Ngô Liệc đánh xuống một côn, trúng nhằm đầu ngựa của Lưu Khánh, ngựa ấy bể đầu
chết tươi. Tiêu Đình Quí xốc tới đánh với Ngô Liệc được mười hiệp, nhắm bề cự
không lại liền quày ngựa bỏ chạy, bị Ngô Liệc đánh xuống một côn trúng nơi bả
vai, đau quá, vừa chạy vừa lẩm bẩm:
- Lưu
Khánh thật bất nhơn, chưa đánh được bao lâu mà đã đằng vân bay lên không, bỏ
lại mình ta, nên ta cự địch không lại.
Ngô Liệc
giục binh đuổi theo. Trương Trung Lý Nghĩa kéo binh thẳng tới chận lại đánh
nhầu một trận. Làm cho binh Liêu thua chạy toán loạn.
Ngô Liệc
nổi giận hét lên một tiếng, binh tống kinh hãi không dám rượt theo. Trương
Trung, Lý Nghĩa áp lại mà đánh với Ngô Liệc, Ngô Liệc hét lên một tiếng song
hai tướng đã biết chừng rồi, không hoảng sợ nữa, cứ việc đánh nhầu. Vương Cường
thấy vậy cũng giục ngựa dấn tiếp chiêu.
Lời bàn.
Nhà Tống
trong thời vua Nhân Tôn bị gian thần cấu kết với nhau làm nhiều điều gian ác,
cho nên thời gian đó việc nước rối ren. Nếu không có Bao Công và các trung thần
ra sức diệt nịnh trừ gian thì triều tống đã tan vỡ rồi.
Một
triều đình suy thịnh chỉ nhìn qua hành động của tôi thần thì thấy rất rõ.
Một quốc
gia mạnh yếu là do thể chế cai trị, nếu có những kẻ vì quyền lợi riêng tư cấu
kết phá rối trật tự, làm hại thể chế đó thì quốc gia sắp suy vong.
Lịch sử
các nước từ xưa đến nay đều chứng minh như vậy, cho nên những kẻ vì dân tộc, vì
đất nước, trong lúc tham gia việc nước không vì quyền lợi riêng tư mà làm cho
quốc gia khốn đốn ở thời này, nếu Bao Công không trừ được phe nịnh thẩn thì
không còn nhân tài mà giữ nước khi nguy biến.
HỒI THỨ BỐN MƯƠI BẢY - VÌ BẠI BINH LIỄU CHÚA
DÂNG HÀNG BIỂU.
Bốn
tướng giao chiến với nhau hơn bốn mươi hiệp vẫn chưa định hơn thua. Vương Cường
nạt lên một tiếng rất lớn, làm cho ngựa của tướng Tống đều kinh hãi, Trương
Trung và Lý Nghĩa gần rơi xuống đất, song còn gượng lại được.
Địch
Thanh thấy vậy liền nói với Thạch Ngọc:
- Hình
như Trương Trung và Lý Nghĩa đã yếu sức rồi, vậy phải thâu quân về, ngày mai sẽ
liệu.
Thạch
Ngọc vâng lệnh đánh chiêng thâu quân.
Trương
Trung, Lý Nghĩa lui binh, còn Ngô Liệc và Vương Cường cũng trở về dinh.
Trương
Trung, Lý Nghĩa vào ải hỏi Địch Thanh:
- Vì ý
gì mà Nguyên soái lại thâu quân?
Địch
Thanh nói:
- Ta với
Thạch hiền đệ thấy Liêu tướng võ nghệ cao cường, còn Tiêu Đình Quí đã bị thương
cho nên e hai hiền đệ có điều sơ sẩy nên thu binh về ngày mai sẽ liệu.
Trương
Trung, Lý Nghĩa cảm tạ rồi vào dinh an nghỉ.
Còn Ngô
Liệc và Vương Cường thâu góp tàn quân thấy hao hơn quá nửa nên vào ra mắt Mạnh
Hùng và thuật chuyện cho Mạnh Hùng nghe.
Mạnh
Hùng nói:
- Thôi,
nhị vị tướng quân hãy lui vào hậu dinh an nghỉ, để mai ta ra trận mà trừ khử
Tống tướng cho.
Hai
tướng cảm tạ và lui vào hậu dinh nghỉ ngơi. Ngô Liệc, Vương Cường và Bá Hoa Nữ
đồng kéo quân ra trận.
Còn Địch
Nguyên soái cũng dẫn ba muôn đi với Mạnh Đình Quốc, Trầm Đạt và Dương văn
quảng.
Khi ra
đến chiến trận thì bên phiên có Bá Hoa Nữ là gái, còn bên Tống có Dương văn
Quảng là trai, hai bên đấu chiến nhau. Bá Hoa Nữ thấy Dương văn Quảng hình dung
tuấn tú diện mạo đoan trang, mày thanh, mắt sáng chẳng khác tiên tử xuống phàm,
nên má Hoa Nữ nhìn không nháy mắt, còn Dương văn Quảng thì thấy Bá Hoa Nữ môi
son má phấn, mắt ngọc mày hoa, hình dung yểu điệu, thật là một tuyệt sắc giai
nhân, nên cũng nhìn không nháy mắt. Cả hai đều quên mình đang ở nơi chiến trận.
Đến lúc nghe tiếng quân la ó mới sực tỉnh hỏi thăm tên họ của nhau thì Bá Hoa
Nữ mới biết Tống tướng ấy là Dương văn Quảng, con của Dương Nguyên soái và Mộc
phu nhơn là hai nhân vật lừng danh trong thiên hạ.
Bá Hoa
Nữ nghĩ thầm:
- Cha mẹ
dòng dõi như vậy, sinh con ra mỹ mạo như vậy thật là hạnh phúc. Còn ta đây Cha
mẹ đều chết hết, anh em cũng chẳng có ai, tấm thân đơn độc như vậy chi bằng ta
quy hàng mà kết duyên với Dương công tử để có nơi nương tựa về sau.
Nghĩ như
vậy nên chỉ đánh qua loa với Dương văn Quảng một lúc rồi bỏ chạy. Dương văn
Quảng giục ngựa rượt theo thì Bá Hoa Nữ quày ngựa lại nói:
- Dương
công tử ơi! Xin khoan động thủ để tôi thưa đôi lời đã.
Dương
văn Quảng nói:
- Nàng
muốn nói gì thì nói mau đi.
Bá Hoa
Nữ nói:
- Vả
thân thiếp bây giờ cha mẹ, anh em không có, mà nước Liêu thì đã suy vi rồi, vì
vậy nên tôi muốn quy thuận Thiên triều, đặng mà nương tựa tấm thân, không biết
ý công từ có rộng lòng mà dung nạp chăng?
Dương
văn Quảng nói:
- Nếu
nàng có lòng quy thuận thì triều định cũng rộng lượng bao dung, vậy thì nàng
theo tôi mà trở lại Tam Quang, tôi sẽ thưa cùng Nguyên soái tôi, hay là nàng
trở về dinh Phiên mà làm nội ứng, thì lại càng có giá trị hơn nữa.
Bá Hoa
Nữ nói:
- Vả
thân thiếp là phận gái còn đương thơ ấu, không chỗ nương thân, nên thiếp mới
mong lòng đầu Tống, đặng trao duyên gởi phận cùng công tử, không biết công tử
có bằng lòng không?
Dương
văn Quảng nói:
- Nàng
là phận gái, nếu muốn việc hôn nhân phải có mai mối và sự đồng ý của cha mẹ,
còn nơi đây là chiến trận, đâu phải chỗ tính việc đó.
Bá Hoa
Nữ nghe nói có vẻ hổ thẹn, nói:
- Công
tử ơi! Chẳng phải thiếp có tánh ham dâm, mà mong lòng ân ái đâu, song thân
thiếp bây giờ không nơi lương tựa, cho nên cực chẳng đã mới phải thổ lộ chơn
tình như vậy. Xin công tử chớ chê bai.
Dương
văn Quảng chưa kịp nói thì Lưu Khánh từ trên mây đáp xuống, cười lớn nói:
- Công
tử ơi! Tiểu thơ đã có lòng quy thuận mà tính việc hôn nhân, thì hai đàng cũng
đẹp đôi vừa lứa. Xin công tử bằng lòng đi.
Dương
văn Quảng nói:
- Lưu
tướng quân nói vậy sao phải. Vá chăng đàn bà con gái lẽ nào ra giữa trận mà
tính việc hôn nhân như vậy, đó có phải là kể việc ân ái mà không kể đến việc
liêm sỉ không.
Nói rồi
quày ngựa trở về ải.
Lưu
Khánh thấy Dương văn Quảng làm như vậy thì an ủi Bá Hoa Nữ:
- Tiểu
thơ đã có lòng quy thuận Thiên triều, mà vầy duyên cùng công tử thì đó cũng là
một điều tốt. Việc ấy để tôi tính cho, đừng ái ngại gì cả. Vì tôi đã nghe rõ
mấy lời của tiểu thơ nói với công tử rồi.
Bá Hoa
Nữ nghe Lưu Khánh nói như vậy thì cũng có lòng mừng, nói:
- Lưu
tướng quân có lòng tốt mà giúp nên việc ấy thì thiếp xin cảm ơn ngàn ngày. Vậy
để thiếp trở về dinh làm nội ứng đặng có lập công với triều đình.
Lưu
Khánh nói:
- Tuy
tôi là người thô thiển, nhưng nói ra cũng biết nhớ lời.Xin tiểu thơ cứ an tâm.
Nói rồi
từ giã Bá Hoa Nữ đằng vân mà đi.
Bá Hoa
Nữ thấy vậy khen:
- Tống
đế có nhiều tôi thần tài phép như vậy thật đúng là chân mạng Thiên tử. Còn chúa
ta là tiểu quốc sao dám đem lòng tham quấy để đến nỗi hao binh tổn tướng như
vậy.
Lưu
Khánh khi vào đến ải Tam Quang thì thuật hết mọi việc cho Địch Nguyên soái
nghe.
Địch
Thanh hỏi Dương văn Quảng:
- Công
tử có đành như vậy chăng?
Dương
văn Quảng thưa:
- Không
nên đâu. Bá Hoa Nữ là người ngoại quốc, không biết liêm sỉ, ra giữa trận mà
định việc hôn nhân xin nguyên soái đừng có tính đến việc ấy.
Địch
Nguyên soái chưa kíp nói thì Phạm Trọng Yêm đã xen vào:
- Nay Bá
Hoa Nữ đã chịu quy hàng và làm nội ứng thì hiền điệt đã thành công, lại được
sánh đôi tơ tóc nữa. Vậy hiền điệt đành lòng đi để chú đứng làm mai, dâng biểu
về trao tâu cùng Thiên Tử. Còn việc cháu chê Bá Hoa Nữ đính duyên giữa trận là
hẹp hòi lắm. Như Dương Nguyên soái trước đây đình duyên với Mộc phu nhân không
phải là trận thượng chiêu thân sao?
- Chư
tướng ai nấy đều khuyên lơn Dương văn Quảng, còn Dương văn Quảng ngồi yên không
nói.
Địch
Nguyên soái nói:
- Thôi
để Bá Hoa Nữ quy hàng rồi ta dâng biểu tâu với Thánh Thượng và gởi thơ về Thiên
Ba phủ mà tính việc ấy.
Nói rồi
truyền dọn tiệc thết đãi chư tướng và khen thường ba quân.
Còn mạnh
Hùng về đến dinh thì thương nghị với Ngô Liệc và Vương Cường:
- Nay ta
liệu bề đánh Tống không lại, chi bằng rút quân trở về tâu lại cùng Lang chúa
cầu hòa thì hay hơn.
Ngô Liệc
nói:
- Nguyên
soái chớ nã lòng như vậy. Để mai đây chúng ta đánh liều với Tống tướng một trận
cho biết sức thắng bại thế nào rồi sẽ toan liệu kế khác.
Bá Hoa
Nữ nói:
- Không
nên đâu. Tôi xem Tống tường mỗi người đều có võ nghệ cao cường, chắc là nước ta
không người đánh lại nổi, nếu đánh nữa thì phải thua, chi bằng liệu sức mình tâu
lại với Lang chúa cầu hòa cho khỏi hao binh tổn tướng.
Mạnh
Hùng nói:
- Lời
tiểu thơ nói rất phải. Vậy mai chúng ta nhổ trại trở về.
Nói vừa
dứt lời thì có quân vào báo:
- Có ba
tướng cướp Ngưu Cang, Bàng Hưng, Bàng Hỷ đem vài môn muôn binh đế đây quy hàng.
Mạnh
Hùng dạy cho vào, rồi dùng làm bộ hạ ứng chiến.
Hôm sau
Mạnh Hùng kéo binh đến giao khiêu chiến thì sao Trương Trung, Lý Nghĩa ra đánh
trận thứ nhất, Lưu Khánh và Trầm Đạt đánh trận thứ hai, Nhạc Cang Ngưu Kiện
đánh trận thứ ba, Lý Kế Anh và Trương Văn đánh trận thứ tư. Còn Dương Văn Quảng
thì đem một muôn binh đi đường vòng mà đốt trại của Mạnh Hùng.
Các
tướng đều tuân lệnh kéo quân ra đi. Còn Địch nguyên soái thì đi với Thạch Ngọc
mà ra đánh nơi trung quân.
Trương
Trung và Lý Nghĩa ra đánh trận thứ nhất thì gặp Ngô Liệc. Hai bên giao chiến
với nhau được ba mươi hiệp, Ngô Liệc đánh không lại nên bị giết tại trận.
Lưu
Khánh và Trầm Đạt đem binh ra đánh với Vương Cường, đánh được ba mươi hiệp,
Vương Cường cự địch không nổi, giục ngựa bỏ chạy, bị Lưu Khánh và Trầm Đạt dốc
quân đuổi theo giết chết Vương Cường và binh Phiên vô số.
Còn Lý
Kế Anh và Trương Văn vừa kéo binh ra gặp Bàng Hưng và Bàng Hỷ. Hai bên giao
chiến một lúc thì Bàng Hưng và Bàng Hỷ đánh không lại đuề bị tử trận.
Lúc này
binh Phiên rối loạn, mạnh ai nấy chạy. Địch Thanh và Thạch Ngọc đem binh thẳng
tới vừa gặp Mạnh Hùng thì hai bên giao chiến rất ác liệt. Mạnh Hùng cự không
lại bèn giục ngựa chạy dài. Binh Tống thừa thế đuổi theo, chém giết một trận
tơi bời làm cho quân Phiên hao hơn quá nửa.
Lúc này
Dương Văn Quảng đem một muôn binh, đi đường tắt đến đốt trại, nhưng đến nơi vừa
muốn nổi lửa thì Bá Hoa Nữ chạy ra cản lại nói:
- Công
tử ơi! Khoan phóng lửa đã vì có ngựa và lương thảo rất nhiều, phải lo mà vận
chuyển về ải đã rồi sẽ đốt trại.
Dương
văn Quảng khen phải. Bá Hoa Nữ trở vào truyền quân sắp sửa xe cộ để di chuyển
kho lương. Nàng nói:
- Nay
Nguyên soái bị thua mà trốn về nước rồi, còn ta thì đã đầu hàng nhà Tống. Nếu
chúng bay chịu theo đầu hàng thì khỏi bị giết.
Phiên
binh đều vâng lệnh đầu hàng, Bá Hoa Nữ liền đốc thúc phiên binh chuyển vận
lương thảo mà kéo qua Tam Quan.
Chuyển
vận xong, Dương văn Quảng mới phóng lửa đốt trại.
Địch
Thanh thâu binh về ải, chư tướng hội lại kể công.
Duy có
một mình Dương văn Quảng chưa thấy trở về, nên Địch Thanh đem lòng lo lắng lắm.
Lưu
Khánh nói:
- Ai ai
cũng lo việc chiến đấu, duy có Dương văn Quảng chỉ lo việc đốt trại, mà trại ấy
người canh giữ lại là Bá Hoa Nữ. Tôi định chắc Dương công tử và Bá Hoa Nữ sẽ
hiệp binh làm một đạo, trong giây lát thì hai người ấy sẽ về đây, xin Nguyên
soái chớ lo.
Địch
Thanh nói:
- Tuy
vậy, song ta cũng còn lo sợ lắm, vì cánh họ Dương chỉ còn có một mình Dương văn
Quảng nối dõi, nếu có bề nào ta rất ân hận. Vậy Lưu hiền đệ phải ra công thám
thính xem sự tình thế nào.
Lưu
Khánh vâng lệnh vừa muốn ra đi thì có quân sĩ vào báo:
- Dương
công tử và Bá Hoa Nữ đem một muôn binh vận chuyển lương thảo mà trở về ải rồi.
Địch
Thanh mừng rỡ vào bảo Dương văn Quảng thuật hết mọi việc cho rõ ràng.
Dương
Văn Quảng kể hết sự tình, Địch Thanh nói với Phạm Trọng Yêm:
- Bây
giờ hãy để Bá Hoa Nữ ở tạm nơi dinh của đại nhơn, chờ tôi làm biểu chương tấu
với thiên tử mà định việc hôn nhân này.
Phạm
Trọng Yêm khen phải bèn đem Bá Hoa Nữ vào dinh mình ở chung với tiểu thơ.Rồi mở
tiệc thết đãi.
Bấy giờ
tướng nước Liêu là Mạnh Hùng bị thua một trận tan tành, liền trở về tâu lại với
Lang chúa xin tha tội.
Chúa Tây
Liêu nói:
- Việc
chiến tranh thắng bại là lẽ thường. Vậy tướng quân hãy về dinh an nghỉ.
Mạnh
Hùng tạ ơn lui ra. Còn Liêu chúa thì thương nghị với quần thần rồi làm một đạo
hàng biểu sai sứ đem và ngọc và đồ thổ sản thẳng đến Tam Quang đặng dâng cho
Tống đế mà cầu hòa.
Còn Địch
Thanh từ ngày dẹp yên được quân Phiên rồi thì sa Mạnh Định Quốc về trào dâng
biểu tâu với Thiên Tử.
Lúc này
Bao Công đã lo xong việc chẩn bần rồi nên về triều phục chỉ gặp lúc Mạnh Định
Quốc về dâng biểu cho thiên tử xem. Trong tờ biểu ấy thì nói đến Tây Hạ xâm lấn
lần thứ hai, bị đánh dẹp nên Liêu chúa cầu hòa. Lại tỏ hết chuyện Bá Hoa Nữ đầu
tống, tính việc hôn nhân với Dương văn Quảng nữa.
Thiên Tử
xem xong vui vẻ nói:
- Nay đã
dẹp được Phiên binh là phước lớn của trào đình, còn việc Dương văn Quảng với Bá
Hoa Nữ thì cũng nên định việc hôn nhân cho xong. Song hai người ấy phải về trào
thì mới vầy duyên tơ tóc. Còn các tướng nơi Tam Quang thì mỗi người được vinh
thăng ba cấp.
Mạnh
Định Quốc lãnh chỉ tạ ơn lui ra. Kế đó lại có sứ thần nước Tây Hạ đến dâng biểu
mà cầu hòa.
Thiên Tử
mở biểu ra xem rồi phán:
- Nay
chúa Tây Hạ có lòng tự hối, trẫm cũng rộng dung cho, song từ rày về sau chẳng
nên sanh lòng tham quấy như vậy nữa.
Sứ thần
tạ ơn lui ra. Còn Mạnh Định Quốc thì thẳng đến Thiên Ba phủ trao thơ của Dương
văn Quảng cho Dư Thái quân xem. Dư Thái Hậu mừng rỡ khiến gia đinh dọn tiệc
thết đãi Mạnh Định Quốc. Tiệc mãn, Mạnh Định Quốc tạ từ trở về Tam Quan.
Khi về
đến nơi, ra mắt Địch Thanh và trao tờ chiếu chỉ.
Địch
Thanh đặt bàn hương án tiếp chiếu chỉ và đọc rằng:
- Nay
gia phong cho Thạch Ngọc là Tước hầu, Trương Trung, Lý Nghĩa và Lưu Khánh làm
Chấn Quốc tướng quân, Mạnh Định Quốc làm Oai võ tướng công, Tiêu Đình Quí làm
Oai liệt tướng quân, Trầm Đạt là Trung dõng tướng quân, Ngạc Cang làm Nghĩ dõng
tướng quân, Trương Văn làm Kim xa Đô úy, Lý Kế Anh làm Đô Ty, Ngưu Kiện làm
Thiên hộ, Dương Thanh làm Long Hổ Thương hộ quân. Phạm Trọng Yêm làm tham mưu.
Còn Dương văn Quảng thì lập tước cha mình nên không gia phong nữa, Bá Hoa Nữ
làm nhứt phẩm phu nhân và truyền triệu về trào để định việc hôn nhân ấy.
Địch
Thanh xem chiếu chỉ xong truyền dọn tiệc thết đãi các tướng sĩ.
Hôm sau,
Dương văn Quảng và Bá Hoa Nữ vào từ giã chư tướng trở về kinh đô chầu Thiên Tử,
rồi trở về Thiên Ba phủ ra mắt Mộc phu nhân.
Dư Thái
quân mừng rỡ liền chọn ngày vầy cuộc huê chúc cho hai họ giao duyên. Bá quan
văn võ đến chúc mừng, ai nấy đều hớn hở ngợi khen.
KHUYẾT
DANH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét