- Sự gặp gỡ hoàn toàn ngẫu nhiên nhưng lại rất tâm đầu ý hợp.
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi, Trương
Kiều vẫn dùng lời đoan chính khuyên Kim Trọng, có câu:
Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi,
Trương
Mây mưa đánh đổ đá vàng
Quá chiều nên đã chán chường
yến oanh
Trong khi chắp cánh liền cành
Mà lòng rẻ rúng đã dành một
bên
Mái Tây để lạnh hương nguyên
Cho duyên đằm thắm ra duyên
bẽ bàng
Gieo thoi trước chẳng giữ
giàng
Ðế sau nên thẹn cùng chàng
bởi ai?
Vội chi ép liễu hoa nài
Còn thân ắt lại đền bồi có
khi
(Câu 511 đến 522)
Lý luận đanh thép
nhưng vẫn chan chứa tình cảm trước lập luận dẫn chứng "Lứa đôi ai lại đẹp
tày Thôi, Trương"
"Thôi,
Trương" tức là nàng Thôi Oanh Oanh và chàng Trương Cung tức Trương Quân
Thuỵ
"Tây sương ký"
(Mái Tây) của Vương Thạch Phủ đời nhà Nguyên có chép:
Ðời Trinh nguyên
(785- 805) có chàng Trương Cung tự Quân Thuỵ, người mỹ mạo tuấn tú, tính tình
nho nhã. Một hôm sang chơi đất Bồ vào trọ chùa Phổ Cứu. Trong khi đó có người
vợ goá họ Thôi sắp về Trường An (kinh đô nhà Ðường), đường đi qua đất Bồ, cũng
vào trọ ở đây. Bà vợ của họ Thôi là họ Trịnh, Trương Cung là cháu ngoại họ
Trịnh. Kể họ thì bà là dì họ của Trương.
Năm ấy, tướng Hồn
Hàm mất tại đất Bồ, viên hoạn quan Ðinh văn Nhã thay thế, không đủ tài điều
khiển, nên quân sĩ quấy nhiễu, cướp phá dân chúng. Nhà họ Thôi của cải rất
nhiều, tôi tớ cũng lắm, nay ở chốn quê người, không biết nương tựa ai, lấy làm
lo sợ. May mắn, Trương Cung nguyên trước có quen thân với tướng ở Bồ, liền xin
nhờ bảo hộ. Nhờ đó, gia đình họ Thôi mới thoát nạn. Nửa tháng sau, nhà vua sai
người đem cờ thống nhung ra lệnh nghiêm cho quân lính, bấy giờ cuộc loạn mới
yên.
Bà họ Trịnh cám
ơn Trương lắm, bày tiệc nhà trên đãi Trương, nói:
- Dì chẳng may goá bụa, phải đùm bọc lũ con côi, rủi gặp lúc hỗn
quân hỗn quan chắc gì giữ được thân mạng. Hai đứa con thơ yếu của dì sống được
là nhờ cháu, ơn này đâu phải tầm thường. Nay xin cho chúng nó ra chào anh để
biết mặt, mong có ngày đền báo.
Bà liền cho gọi
đứa con trai là Hoan Lang, tuổi mới lên mười ra chào, mặt mày thuỳ mị. Kế gọi
người con gái tên Oanh Oanh, tuổi lên 17 ra chào. Nàng lấy cớ trong mình không
mạnh, từ chối. Bà mẹ nổi giận, bảo:
- Anh Trương mày cứu được mạng mày. Không có anh, giặc nó lôi mày
rồi. Còn gì mà giữ kẽ nữa.
Bấy giờ nàng Thôi mới chịu ra. Nàng trang phục tầm thường, vẻ mặt bơ phờ, không trang điểm gì cả. Mái tóc lơi, đôi mày nhạt, chỉ đôi má ửng hồng. Thế mà nhan sắc đẹp lạ, vẻ lộng lẫy choáng người. Trương giật mình đáp lễ, rồi dần dà đưa lời khơi chuyện, nhưng nàng vẫn không đáp, im lặng mãi đến tan tiệc mà thôi.
Từ đó, Trương say
đắm nàng, muốn bày tỏ tâm tình nhưng không biết làm thế nào được. Nhân có con
hầu thân tín của Thôi Oanh Oanh là cô Hồng, Trương lén ngỏ ý mình, nhờ cô đưa
tin. Hồng bảo:
- Lời cậu nói, con chẳng dám nói mà cũng không dám để lộ. Vả, dòng
họ Thôi thì cậu đã rõ. Sao không nhân chuyện có ơn mà nhờ người mối mai?
Trương thở dài:
- Tôi từ tấm bé, không ưa thích chuyện trai gái. Có khi ngồi bên
bạn lượt là cũng chẳng để ý nhìn ai. Không ngờ nay lại có người làm say mê lòng
mình, đến đỗi suốt mấy hôm, không còn tha thiết đến ăn đến ngủ, sợ ngày một
ngày hai là không sống được nữa. Nếu nhờ người mai mối, nào hỏi nào cưới ít ra
cũng vài ba tháng một năm, bấy giờ tôi chết đã xanh đám cỏ!
Hồng nghe cảm
động, bày Trương viết ít thơ tình sẽ trao cho Thôi. Trương cả mừng, nghĩ ngay
hai bài thơ xuân nhờ Hồng làm cánh chim xanh trao cho người đẹp. Chiều hôm ấy,
Trương được Hồng cầm một tờ hoa tiên đưa đến bảo là của nàng Thôi. Mở ra xem
thấy có bài thơ 4 câu, đầu đề là "Trăng sáng đêm rằm":
Cửa hé theo luồng gió
Trăng chờ dưới Mái Tây
Chạm tường hoa động bóng
Người ngọc đến đâu đây
Trương hơi hiểu ý
thơ.
Tường phía đông
chỗ ở của họ Thôi có gốc cây hạnh, Trương nhân trèo lên bước qua tường, lần đến
mái phía Tây thì thấy cửa hé mở. Hồng đưa Thôi Oanh Oanh đến. Nàng y phục chỉnh
tề, vẻ mặt nghiêm nghị, đanh thép bảo:
- Anh cứu sống nhà tôi, ơn ấy to lắm, nên mẹ tôi mới đem trai thơ
gái dại mà uỷ thác cho anh. Nhưng sao anh lại nhờ đứa hầu những lời nhảm nhí?
Ban đầu thì lấy việc cứu người làm tốt, rốt lại nhân việc người ta khỏi nạn mà
đòi hỏi chuyện nọ kia... Lấy loạn thay loạn, anh có hơn bọn giặc là mấy. Muốn
nhờ con hầu chuyển lời thì sợ không nói gì hết chân tình, nên tạm mảnh hoa tiên
tìm lời bày tỏ. Nhưng ngại anh sinh lòng khó dễ nên phải dùng lời lẳng lơ để
anh thế nào cũng sang. Việc làm trái lễ sao khỏi thẹn lòng. Chỉ xin anh lấy lễ
giữ mình, chớ nhúng mình vào chuyện không đẹp.
Nói xong, nàng
ngoe nguẩy đi vào.
Trương ngồi ngẩn
người, một lúc vượt tường trở ra, lấy làm tuyệt vọng!
Vài hôm sau,
Trương đương ngủ ngoài hiên, chợt có người đánh thức. Chàng giật mình ngồi dậy
thì thấy Hồng bảo: có cô Thôi đến. Trương bàng hoàng, tưởng mình chiêm bao
nhưng vẫn thành tâm chờ đợi. Một lúc Hồng đưa Thôi Oanh Oanh đến. Nàng e thẹn,
ngượng ngùng, nũng nịu... Không có vẻ nghiêm khắc như trước. Trương phơi phới
lòng xuân, tưởng như mình được làm bạn với tiên, nhân gian đâu có con người như
thế.
Chuông chùa đổ,
trời sắp sáng, Hồng đến giục nàng Thôi về. Nàng rấm rứt khóc, suốt đêm không
nói lời nào. Sáng dậy, Trương nửa tin nửa ngờ, cho là chiêm bao chăng? Nhưng
sáng rõ ra thấy cánh tay mình còn vấy chút phấn son, áo còn phảng phất mùi
hương, mấy giọt nước mắt của nàng còn đọng trên gối .....
Từ đó, cả hai hẹn
gặp nhau âu yếm tại mái Tây, thời gian có trót tháng, Trương tối lén vào, sáng
lén ra.
Nhưng rồi mộng
công hầu, Trương từ giã lên Trường An ứng thí. Thế là có cuộc chia ly. Và, cuộc
chia ly nào lại chẳng não lòng đối với đôi bạn tình trai gái. Nhưng Trương đi
vẫn không một lời hứa hẹn gì. Buổi tiễn đưa Trương, Thôi có đọc mấy câu thơ:
Rẻ rúng thôi đành phận
Van lơn nhớ buổi đầu
Xin đem lòng lúc trước
Thương lấy kẻ về sau
Năm sau Trương
thi không đỗ, ở lại kinh đô, viết thư về an ủi Thôi Oanh Oanh. Thôi có thư phúc
đáp. Thư khá dài bày tỏ lòng ân hận chua xót của nàng.
Sau đó, Trương
Quân Thuỵ lấy vợ. Thôi Oanh Oanh lấy chồng. Duyên tình Thôi, Trương bẽ bàng như
thế, vì Trương đã "mây mưa đánh đổ đá vàng" mà nàng Thôi lại
"quá chiều nên đã chán chường yến oanh", dẫn đến hậu quả "để
duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng"
Dẫn điển tích
"Thôi, Trương" Kiều lại cũng dẫn điển tích để nhấn mạnh thêm ý trên
theo thế tương phản:
Gieo thoi trước chẳng giữ giàng
Ðể sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
"Gieo
thoi" là cầm cái thoi diệt cửi ném. "Tấm thư" là chép người tên
Tạ Côn tỏ vẻ bỡn cợt, trêu ghẹo một cô gái láng giềng. Cô đương ngồi dệt cửi
nổi giận, cầm cái thoi ném vào mặt Tạ Côn làm gãy hai cái răng cửa. "Gieo
thoa" nguyên ngữ là "Ðầu thoa chi cự" nghĩa là gieo thoi để cự
tuyệt, tức là chống cự một cách quyết liệt đối với người con trai lả lơi, trây
trưa. Không kháng cự quyết liệt để giữ gìn mình đối với chàng trai nào- kể cả ý
trung nhân- tất bị người khinh là người con gái không trinh thục, đoan chính.
"Thẹn cùng
chàng", tuy Kiều nói mình sẽ bị hổ thẹn, nhưng cũng gián tiếp nói Kim
Trọng cũng bị hổ thẹn. Mà bị hổ thẹn này "bởi ai"? Bởi Kiều hay bởi
Kim Trọng hay bởi cả hai. Nhưng chắc chắn ý Kiều muốn nói là bởi Kim Trọng, đổ
lỗi cho anh chàng này. Mà sự thực là chàng có lỗi. Như vậy biết lỗi thì phải
chừa. Dùng hai tiếng "bởi ai" ở cuối câu rất khéo, dùng thế tấn công
quyết liệt nhưng hết sức đậm đà, thú vị... Cho nên chàng Kim phải chịu bó tay
quy hàng:
Thấy lời đoan chính dễ nghe
Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân
(câu 523 và 524)
Gặp phải một gái
đẹp như thế, một tay có bản lĩnh như thế thì không thêm nể, thêm vì hoàn toàn
sao được. Kiều dám mở cuộc chiến vẻ vang có nhiều thử thách, tất Kiều phải biết
vượt qua để kết thúc cuộc chiến cũng phải vẻ vang
Giá phỏng ở hoàn
cảnh này, Kiều chiều theo ý muốn của Kim Trọng diễn lại cảnh "Thôi,
Trương" Mái tây thì sau khi Kim Trọng về Liêu Dương hộ tang chú, rồi trở
lại vườn Thuý tìm lại Kiều, biết Kiều đã bán mình rồi thì chàng Kim đâu phải
quá nặng tình đau đớn, vừa mến vừa tiếc đến nỗi
Thẫn thờ lúc tỉnh lúc mê
Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao!
(câu 2835 và 2836)
Vừa giáo dục đạo
lý, vừa giáo dục tâm lý ái tình giữa trai gái tiếp xúc nhau để dẫn đến một sự
việc cụ thể: Kim Trọng phải theo đuổi mãi đến 15 năm sau mới:
Ba sinh đã phỉ mười nguyền
Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy
Phải chăng tác
giả Truyện Kiều khéo sắp xếp.
(Theo Ðiển tích Truyện Kiều, NXB Ðồng Tháp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét