Hiện
nay nhiều người còn băn khoăn về xuất xứ cũng như ý tứ của câu tục ngữ
“Thanh thế, Nghệ thần” và “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”.
Hiện nay nhiều người còn băn khoăn về xuất xứ cũng như ý tứ của câu tục ngữ “Thanh thế, Nghệ thần” và “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”.
Xưa nay đã có nhiều cơ quan và thức giả viết về tục ngữ độc đáo trên mỗi khi có dịp đề xuất đến đất và người xứ Nghệ.
Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn sách Đại Nam nhất thống chí (hoàn thành năm 1882) viết: “… Nghệ An… rất kính cẩn việc thờ thần, tục ngữ nói: “Thanh thế, Nghệ thần”(1)
H. Le Breton cho xuất bản cuốn An Tĩnh cổ lục (Le vieux An Tinh) vào năm 1936 lại viết: “An Tĩnh có câu phương ngôn rất nổi tiếng “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”(2)
GS. Đặng Thai Mai xuất bản cuốn Thơ văn Phan Bội Châu vào năm 1958 đã lại viết về thần xứ Nghệ:
“Dưới chế độ phong kiến, thần linh có một địa vị quan trọng trong
đời sống con người. Xứ Nghệ trong nước Việt Nam cũ nổi tiếng về các vị
thần xứ sở. Từ lâu một câu tục ngữ khá phổ biến vẫn lưu truyền mãi về
đời sau này: “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”(3)
Như vậy là sang đến thế kỷ 20, câu tục ngữ “Thanh thế, Nghệ thần” đã có dị bản khác là “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”.
Cả Quốc sử quán triều Nguyễn và cả hai tác gia H. LeBreton, Đặng Thai Mai đều không đề cập tới xuất xứ của câu tục ngữ trên.
Theo chúng tôi thì câu tục ngữ trên có thể xuất xứ từ câu nói của Nguyễn Thư Hiên được chép ở phần Thanh Hóa trong sách Dư địa chí
do Nguyễn Trãi biên soạn, hoàn thành vào năm 1435 có lời tập chú của
Nguyễn Thiên Túng, lời cẩn án của Nguyễn Thiên Tích, lời thông luận của
Lí Tử Tấn (Lý Thị), cả ba tác gia trên đều sống đồng thời với Nguyễn
Trãi.
Về Thanh Hóa, phần cẩn án của Nguyễn Thiên Tích có chép câu nói của Lí Tử Tấn: “Lý
Thị nói: Đất Thanh Hóa là đất cuối sông đầu núi, nhỏ hẹp, thấp
trũng, loạn ở thì hợp, trị thì không thích hợp. Đinh, Lê ở Đại Hoàng,
Hồ ở Tây Nhai, xe đổ đáng lấy làm gương. Đối với Thái Tổ thì câu nói
của Nhữ Thuyết cũng đáng tin”(4).
Đáng
chú ý có phần tập chú của Nguyễn Thiên Túng ngay sau phần cẩn án ở
trên đã chép câu nói của Nguyễn Thư Hiên liên quan đến 4 xứ như sau: “Nguyễn Thư Hiên nói: Thế xứ thanh, thần xứ Nghệ, nước Hưng Thái, ma Cao Lạng đều rất đáng sợ”(5).
Như vậy là ở cuốn sách quý Dư địa chí viết đầu thế kỷ XV này nói lên nhiều điều về câu tục ngữ trên.
Có
thể nói Nguyễn Thư Hiên đã nói lại câu tục ngữ được lưu truyền trong
dân gian trước đó, chúng ta có thể ngờ rằng câu tục ngữ trên xuất
hiện sớm hơn năm 1435. Văn bản (năm 1435) trên không có 2 chữ “cậy” như
sách của các tác gia ở thế kỷ 20 và không chỉ đề cập đến 2 xứ Thanh,
Nghệ mà còn đề cập tới Hưng Thái và Cao Lạng.
Như vậy là từ đầu thế kỷ 15 đến gần hết thế kỷ 19 các tác gia Dư địa chí và Đại nam nhất thống chí gần như giữ nguyên nội dung của tục ngữ về thế và thần hai xứ Thanh Nghệ:
- “Thế xứ Thanh, thần xứ Nghệ” hoặc rút gọn “Thanh thế, Nghệ thần” .
Mãi sau hơn 500 năm, sang đến đầu thế kỷ 20, câu tục ngữ trên mới có nội dung biến đổi như ta đã biết: “Thế xứ Thanh, thần xứ Nghệ” (Thanh thế, Nghệ thần) trở thành Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần.
Như trên, chúng tôi đã đề cập, 2 tác gia viết đầu tiên câu tục ngữ có
thêm 2 chữ “cậy” là H. Le Breton và Đặng Thai Mai. H.Le Breton còn đưa
ra lời giải thích câu tục ngữ “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”,
nghĩa là tỉnh Thanh Hóa dựa vào ân huệ của vua, đất Nghệ Tĩnh được
thần phù hộ. Nếu cho đến ngày nay đất Thanh Hóa được hưởng những đặc ân
của triều đình thì bởi vì đấy là quê hương của triều Nguyễn. Nhưng
Nghệ Tĩnh không ganh tỵ về chuyện đó vì Nghệ Tĩnh là đất được lựa chọn
cho những vị thần bảo hộ. Các vị thần ấy đều được thờ cúng một cách
trịnh trọng vô chừng. Nghệ Tĩnh lấy làm hãnh diện có 4 trong số những
ngôi đền đẹp nhất An Nam: “Nhất Cờn, nhì Quả, tam Bạch Mã, tứ Chiêu Trưng”(6)
Giáo sư Đặng Thai Mai thì giải thích: “Thanh
Hóa là đất đế vương. Nghệ Tĩnh là đất linh thần. Thần xứ Nghệ phần lớn
là những nhân vật lịch sử. Lịch sử Nghệ Tĩnh luôn gắn với nước nhà.
Trong các thời kỳ khủng hoảng bi đát của dân tộc người xứ Nghệ vẫn tự
hào với những di tích anh hùng và những nhân vật lẫy lừng của xứ sở”(7).
GS. Đặng Thai Mai tuy có viết ra dị bản khác với nguyên gốc ban đầu của tục ngữ “Thanh thế, Nghệ thần”
nhưng ở lời giải thích trên chúng tôi thấy GS đã nói đúng với ý của
các thức giả đáng kính ở thời Hậu Lê và đầu Nguyễn - Nghệ Tĩnh là đất
linh thần.
Tiến sĩ Trần Danh Lâm (1705-1777) thời Hậu Lê làm Hiệp trấn Nghệ An đã viết tác phẩm Hoan Châu phong thổ thoại vào những năm 1741, 1742. Trần Danh Lâm đã ngợi ca thần xứ Nghệ thiêng liêng muôn đời: “Dấu thiêng liêng truyền mãi muôn đời”.
Trong Hoan Châu phong thổ thoại
nổi tiếng, ông ngưỡng mộ 18 ngôi đền thiêng xứ Nghệ. Mở đầu là hai ngôi
đền ở gần biển, đó là đền Cờn và đền Chế thắng phu nhân. Trần Danh
Lâm viết: “Cần hải sóng trào trong suốt, thuyền băng qua nhờ công giúp đỡ của Thánh Nương”.
(Đền Cờn: Trần Anh Tông hành quân đánh Chiêm Thành qua đấy, nằm mơ
thấy nữ thần tiên xin giúp công. Ngày mai sóng lặng, binh thuyền vượt
biển bình yên, được phong làm thần - nguyên chú).
- “Loan nương đền sát bên bờ, trông thấy lại khâm phục anh linh người cung nữ”. (Đền Chế thắng phu nhân, cung nữ Trần Duệ Tông hy sinh giúp đại quân qua cơn sóng gió ở huyện Kỳ Anh ngày nay - nguyên chú).
Kết thúc Hoan Châu phong thổ thoại là 2 đền thiêng của miền Tây xứ Nghệ:
- Đền Tứ Dương hai vị thần nương, thiêng liêng rõ rệt (đền hai vị nữ thần ở xã Tứ Dương, huyện Tương Dương - nguyên chú)
- Đền Nghĩa Hưng, Thái Dương công chúa, linh ứng thần kỳ (đều ở sách Nghĩa Hưng, huyện Quỳnh Lưu - nguyên chú).
Tiến sĩ Trần Danh Lâm đã dùng các từ “thiêng liêng”, “anh linh”, “linh ứng thần kỳ” … để nói về thần thiêng xứ Nghệ khắp từ rừng núi đến biển khơi.
Tác giả Phan Huy Chú (1782-1840) trong sách Lịch triều hiến chương loại chí viết về thần xứ Nghệ như sau: “… Những vị thần ở núi, ở biển phần nhiều có tiếng linh thiêng. Được khí tốt của sông núi sinh ra nhiều bậc danh hiền”(9)
Phan Huy Chú nói đến “thần thiêng” xứ Nghệ thì liên tưởng đến “khí tốt của sông núi sinh ra nhiều bậc danh hiền”. Ông cũng đã đề cập đến 8 ngôi đền thiêng trong phần Dư địa chí như sau:
-Đền Càn Hải ở cửa Cần Hải (tức đền Cờn)
-Miếu An Dương Vương ở núi Mộ Dạ (tức đền Công)
-Miếu Tam Tòa ở Bạch Đường (tức đền Quả)
-Miếu Mai Hắc Đế ở Nam Đường (đền vua Mai)
-Đền Chế Thắng phu nhân ở cửa Loan Nương (thờ Nguyễn Thị Bích Châu)
-Đền Chiêu Trưng ở cửa Sót (thờ Lê Khôi)
-Đền Bùi Ngự sử ở chân núi Bạch Tỵ (thờ Bùi Cầm Hổ)
-Đền Vũ Mục ở Triều Khẩu (cũng thờ Lê Khôi) Phan Huy Chú đã dùng các từ “thiêng lắm”, “rất là linh thiêng” để chỉ các thần xứ Nghệ: “Về
cổ tích có đền Cần Hải, núi Mộ Dạ vẫn có thiêng lắm”;“Miếu Tam Tòa ở
xã Bạch Đường, huyện Nam Đường, con thứ 8 Lý Thái Tổ là Cao Minh đại
vương đem quân ra trấn thủ châu này. Sau khi chết rồi dân chiêu ấp lập
miếu thờ trên ba tòa núi Cảnh Sơn, rất là linh thiêng”.
Tóm lại, câu tục ngữ “Thanh thế, Nghệ thần” xuất hiện từ rất sớm, ít nhất là vào năm 1435 khi Nguyễn Trãi dâng sách Dư địa chí cho vua Lê. Còn câu tục ngữ “Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần”
là do các tác gia mới viết ra ngót một thế kỷ nay. Tất nhiên câu tục
ngữ trên có bối cảnh lịch sử để sản sinh ra nó nhưng cũng đã làm tổn
hao bao suy nghĩ, tốn bao nhiêu giấy mực của nhiều tác gia trong và
ngoài tỉnh, tác gia nước ngoài biện minh cho dị bản này.
Còn chúng tôi thì vẫn nghĩ như cha ông và các tác gia từ thuở trước (từ đầu thế kỷ 15 cho đến cuối thế kỷ 19) khi nói “Thanh thế, Nghệ thần” là nói đến “thần xứ Nghệ có tiếng linh thiêng” rồi liên tưởng đến cả vùng “được khí tốt của sông núi, sinh ra nhiều bậc danh hiền” như danh sĩ Phan Huy Chú đã viết trong tác phẩm Lịch triều hiến chương loại chí nổi tiếng của ông.
Chú thích:
(1) Đại Nam nhất thống chí, Tập 2, NXB KHXH, 1970, trang 128
(2) Le Breton, An Tĩnh cổ lục, NXB Nghệ An, 2005, trang 29
(3) Đặng Thai Mai, Thơ văn Phan Bội Châu, NXB Văn hóa, 1960, trang 44
(4) Nguyễn Trãi toàn tập, NXB KHXH, 1969, trang 209.
(5) Nguyễn Trãi toàn tập, Sđd, trang 210
(6) Le Breton, Sđd, trang 29
(7) Đặng Thai Mai, Sđd, trang 44
(8) Trần Danh Lâm, Hoan châu phong thổ thoại, bản dịch của Ngô Đức Thọ, dịch theo bản kí hiệu VHV.2438 của TV Khoa học Xã hội
(9) Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Tập 1, NXB KHXH, 1992, trang 62,63
(10) Phan Huy Chú, Sđd, trang 7
(11) Phan Huy Chú, Sđd, trang 72
-Hà Nội and Hà Nam Ninh province is the birthplace of the Vietnamese King.
Trả lờiXóa-Hà Nội và Hà Nam Ninh là cái nôi sản sinh Vua Chúa Việt.