Đền thờ Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật
Tĩnh Gia quê tôi và huyện Quảng Xương có nhiều điểm tương đồng. Hai huyện là láng giềng, cùng chung dòng sông Yên và nối nhau bằng chiếc cầu Ghép. Thời phong kiến, cả hai cùng thuộc Phủ Tĩnh Gia, chỉ tách riêng sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Dân gian vẫn còn truyền câu:
“Nhất Xương, nhì Gia”
– một câu phương ngôn cổ, hàm ý nói về tính cách con người hai vùng.
Năm 1982, tốt nghiệp đại học rồi về dạy ở Sầm Sơn, đến nay đã hơn bốn mươi năm, mỗi lần về quê tôi đều phải đi qua Quảng Xương. Ban đầu chỉ là những chuyến qua đường, sau này làm việc trong ngành Văn hóa, tôi có dịp hiểu sâu hơn về vùng đất này – vùng đất giàu truyền thống văn hóa và lịch sử.
II. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ – DIỆN TÍCH – DÂN SỐ
Huyện Quảng Xương thuộc vùng đồng bằng ven biển tỉnh Thanh Hóa. Quốc lộ 1A chạy xuyên suốt từ bắc đến nam, chia huyện thành hai vùng rõ rệt:
• Phía tây: vùng đồng bằng trù phú;
• Phía đông: vùng ven biển với nghề cá truyền thống.
Theo số liệu thống kê năm 2024, Quảng Xương đứng thứ 5 về dân số và thứ 19 về diện tích trong tổng số 27 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Thanh Hóa.
III. ĐỊA DANH LỊCH SỬ
1. Theo “Đồng Khánh dư địa chí”
Huyện Quảng Xương xưa gồm 4 tổng, 133 xã thôn sở:
• Tổng Cung Thượng: 27 xã, thôn, sở.
• Tổng Thủ Hộ: 28 xã, thôn, sở.
• Tổng Lưu Vệ: 44 xã, thôn.
• Tổng Thái Lai: 34 xã, thôn.
Về phong tục:
“Người đi học và người cày ruộng nhiều, người làm thợ, đi buôn cũng có nhưng không nhiều. Dân phần nhiều làm nghề đánh cá, lại có nghề giật lưới bắt chim đem bán kiếm tiền. Việc cưới xin, tang ma, thờ cúng giản dị, tiết kiệm.”
Dân gian có câu:
“Nhất Xương, nhì Gia”
– ý nói dân Quảng Xương nghèo nhưng từng nổi tiếng hay kiện tụng. Đến cuối thế kỷ XIX, phong tục nơi đây đã thuần hậu, nhã nhặn.
2. Theo “Đại Nam nhất thống chí”
Sách chép:
“Huyện Quảng Xương ở phía đông bắc Phủ, đông sang tây dài 60 dặm, nam sang bắc rộng 31 dặm. Phía đông giáp biển, phía tây gần huyện Đông Sơn, phía nam tới huyện Ngọc Sơn, phía bắc liền huyện Hoằng Hóa.”
Tên gọi Quảng Xương xuất hiện từ thời Lê Quang Thuận (1459). Đến năm Thành Thái 13 (1905), huyện lãnh 7 tổng, gồm:
Cung Thượng, Thủ Hộ, Lưu Thanh, Thái Lai, Văn Trinh, Ngọc Đới, và Vệ An.
IV. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Theo Địa chí Thanh Hóa, vùng đất Quảng Xương:
• Thời Hán thuộc huyện Cư Phong.
• Thời Tam Quốc thuộc huyện Trạm Ngô.
• Thời Tùy thuộc huyện Long An.
• Thời Đường thuộc huyện Sùng Bình.
• Thời Lê sơ (1459) đổi thành huyện Quảng Xương, thuộc Phủ Tĩnh Gia.
• Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, bỏ cấp Phủ, huyện Quảng Xương vẫn giữ nguyên danh xưng cho đến nay.
Sau ngày 1/7/2025, theo quy hoạch hành chính tinh gọn, tên huyện Quảng Xương sẽ không còn tồn tại trong hệ thống đơn vị hành chính.
V. ĐỊA HÌNH – SÔNG NÚI
1. Núi non
Là huyện đồng bằng ven biển, Quảng Xương không có nhiều núi, chủ yếu là những gò đồi thấp. Theo Đại Nam nhất thống chí, huyện có bốn ngọn núi: Ngọc Sơn, Voi, Sầm Sơn, Thạch Giáp.
• Núi Văn Trinh (Ngọc Sơn) – xã Quảng Hợp: cao nhất vùng, là nơi thờ Chiêu Văn Đại vương Trần Nhật Duật.
• Núi Thạch Giáp (núi Chẹt) – xã Quảng Chính, Quảng Khê: hai ngọn đối nhau, giữa có đường thiên lý cổ, dân gian gọi là “đường đá Chẹt”.
2. Sông ngòi
Hai con sông lớn bao bọc huyện là sông Mã (phía bắc) và sông Yên (phía nam).
Sông Yên còn gọi là sông Ngọc Giáp hay sông Ghép, là ranh giới tự nhiên giữa Quảng Xương và Tĩnh Gia. Vua Thiệu Trị từng đề thơ ca ngợi cảnh sắc dòng sông này.
VI. DI TÍCH – DANH THẮNG
Huyện Quảng Xương có hệ thống di tích phong phú, gồm:
• Đền thờ Chiêu Văn Đại vương Trần Nhật Duật (Quảng Hợp);
• Chùa Hưng Phúc (Quảng Hùng – Sầm Sơn) với bia “Hưng Phúc tự bi minh”;
• Đền thờ An Dương Vương (Quảng Châu – Sầm Sơn);
• Danh thắng núi Voi (nay thuộc TP Thanh Hóa) với chùa Voi – Phúc Lâm tự;
• Làng Đồn Điền (Quảng Thái – Sầm Sơn) – dấu tích đồn điền thời Lê Thánh Tông.
Đặc biệt, đền Văn Trinh là di tích tiêu biểu, gắn với Trần Nhật Duật, người từng trấn giữ Thanh Hóa, khai sinh truyền thống hát nhà trò Văn Trinh, được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2024.
VII. ĐỜI SỐNG TÍN NGƯỠNG
Một hiện tượng đặc sắc của tín ngưỡng Quảng Xương là Đạo Đông (Nội Đạo An Đông), ra đời tại chùa Yên Đông (Quảng Hải), phát triển mạnh ở vùng biển.
Đạo này pha trộn yếu tố Phật – Đạo – dân gian, có cơ cấu giáo lý, tổ chức “tĩnh”, “pháp sư” riêng biệt. Dù nay suy tàn, nhưng vẫn để lại dấu ấn văn hóa sâu sắc.
VIII. KINH TẾ – NGHỀ TRUYỀN THỐNG
Quảng Xương là đất lúa – đất cá – đất khoai, nổi tiếng với nhiều nghề thủ công:
• Thuốc lào Thượng Đình (Quảng Định);
• Chiếu cói trắng Văn Phương, Dụ Côn, Phạm Lĩnh (chiếu cống triều đình);
• Đan thúng mủng (Quảng Đức, Quảng Phong);
• Làm quạt giấy (Lưu Vệ);
• Dệt võng lác làng Sòng (Quảng Long);
• Đánh chim, đánh cá, làm muối Ngọc Giáp.
Câu ca dao lưu truyền:
“Cơm Nông Cống, cá Quảng Xương, văn chương Hoằng Hóa.”
IX. VĂN HÓA – NGÔN NGỮ – PHONG TỤC
Tiếng Quảng Xương bảo lưu nhiều thổ ngữ Việt cổ, như:
“nón mẩu” (nón mũ), “trốc” (đầu), “bọng thểnh” (dạ dày), “trấy cẳng” (bắp chân)…
Kho tàng ca dao, tục ngữ, vè phong phú phản ánh đời sống lao động:
“Mời anh xơi điếu thuốc lào,
Thượng Đình thuốc ấy hút vào là say.”
“Rằng đây có xã tam thôn,
Có đất làm chiếu tiếng đồn đã xa.”
X. DANH NHÂN – NHÂN VẬT TIÊU BIỂU
1. Chiêu Văn Đại vương Trần Nhật Duật
Con thứ sáu của vua Trần Thái Tông, từng trấn thủ Thanh Hóa, lập nhiều chiến công, phong đất tại Quảng Xương, được thờ ở đền Văn Trinh.
2. Nhạc Quận công Bùi Sĩ Lâm
Người xã Lưu Vệ, tướng tài triều Lê – Trịnh, có công lớn trong khôi phục Trung hưng, được phong Phụ quốc công thần, Nhạc Quận công.
3. Vệ Quận công Hoàng Bùi Hoàn
Người làng Câu Đồng (Quảng Trạch), làm quan qua ba triều, từng trấn thủ Thanh Hóa, nổi tiếng liêm chính, được phong Thái phó, Vệ Quốc công.
4. Các danh nhân khác
• Trạng nguyên Trịnh Huệ (Bất Quần – Quảng Thịnh)
• Ngự y Nguyễn Hoành (Văn Trinh)
• Tán tương Đỗ Đức Mậu (Quảng Phong)
• Lãnh binh Vũ Đình Phiên (Quảng Châu)
5. Văn nghệ sĩ, trí thức hiện đại
Nhà thơ Hồ Zếnh, Mai Ngọc Thanh, nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Phổ, Hoàng Tuấn Công, nhà văn Kiều Vượng, họa sĩ Lê Mai, nhà thơ Tô Nhuần, Nguyễn Anh Nông, Viên Lan Anh, Đào Phụng, Hữu Kim…
XI. BIẾN ĐỘNG HÀNH CHÍNH SAU 2025
Theo chủ trương tinh gọn bộ máy, huyện Quảng Xương sẽ sáp nhập còn 07 xã:
Lưu Vệ, Quảng Yên, Quảng Ngọc, Quảng Ninh, Quảng Bình, Tiên Trang và Quảng Chính.
Tên “Quảng Xương” không còn hiện diện hành chính, song tên gọi và ký ức về vùng đất “một bên biển, một bên lúa” vẫn sống mãi trong tâm thức người dân.
XII. KẾT LUẬN
“Quảng Xương – một bên biển, một bên lúa,
Hai vế đối của màu xanh rất tuyệt.”
(Hữu Thỉnh)
Dù qua bao lần chia tách, hợp nhất, cái hồn đất và người Quảng Xương – cần cù, nhân hậu, thông tuệ – vẫn không hề thay đổi.
Ảnh minh họa: Bản đồ huyện Quảng Xương; Đền thờ Chiêu Văn Đại vương Trần Nhật Duật tại núi Văn Trinh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO (trích dẫn trong văn bản)
• Đại Nam nhất thống chí ;
• Đồng Khánh dư địa chí;
• Thanh Hóa tỉnh chí;
• Tập thơ, văn bia, thơ ngự chế các triều đại (trích dẫn ghi trong phần mô tả danh thắng).
* Facebook Ngo Hoai Chung “Các huyện tỉnh Thanh Hoá trước ngày giải thể huyện 01/7/2025”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét