XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Sáu, 24 tháng 10, 2025

NỘI CHIẾN HOA KỲ 1861-1865

MỘT SỰ KIỆN ĐÃ THAY ĐỔI LỊCH SỬ HOA KỲ, CUỘC NỘI CHIẾN TRẢ GIÁ 600.000 SINH MẠNG VÀ BIẾN ĐẤT NƯỚC TỪ MỘT TẬP HỢP CÁC TIỂU BANG THÀNH MỘT QUỐC GIA, NHƯNG VẪN ĐỂ LẠI NHỮNG VẾT SẸO LÂU DÀI
Sự kiện kích động Nội chiến Hoa Kỳ là cuộc bầu cử, vào tháng 11 năm 1860, bầu Abraham Lincoln làm tổng thống. Lincoln là một đảng viên Cộng hòa chống chế độ nô lệ, điều này báo trước những rắc rối cho các tiểu bang miền Nam của Hoa Kỳ. Trong nhiều năm, các tiểu bang miền Nam đã bị mắc kẹt trong cuộc đấu tranh mà họ coi là sống còn với các đối tác của họ ở miền Bắc về đạo đức và tính hợp pháp của chế độ nô lệ. Có khoảng 4.000.000 nô lệ da màu ở miền Nam vào đầu Nội chiến, và họ cần sử dụng nô lệ để canh tác các loại cây bông vải và thuốc lá, là động lực thúc đẩy nền kinh tế miền Nam.
Mỗi khi một tiểu bang miền Tây mới được gia nhập vào Liên bang, miền Nam muốn đó là một tiểu bang theo chế độ nô lệ, trong khi miền Bắc muốn nó được tự do. Các tiểu bang miền Bắc đông dân hơn, công nghiệp hóa hơn được đại diện tốt hơn tại Hạ viện, nơi đại diện phụ thuộc vào dân số. Miền Nam, lo sợ rằng miền Bắc sẽ giành được đủ quyền lực để xóa bỏ chế độ nô lệ, đã tìm cách để các tiểu bang mới trở thành tiểu bang theo chế độ nô lệ để ít nhất là duy trì sự cân bằng quyền lực tại Thượng viện Hoa Kỳ.
Nhưng cuộc bầu cử của Lincoln đã biến điều này thành vô vọng, vì ông đã tuyên bố trong chiến dịch tranh cử của mình rằng ông sẽ phản đối mạnh mẽ bất kỳ tiểu bang nô lệ nào khác. Trong vòng vài tháng, 11 tiểu bang, bắt đầu từ Nam Carolina, đã ly khai và thành lập Liên minh miền Nam Hoa Kỳ, với tổng thống là Jefferson Davis và vị tướng lãnh đạo sẽ là Robert E. Lee.
Phát súng đầu tiên của Nội chiến nổ ra vào ngày 12 tháng 4 năm 1861, khi một khẩu súng cối của Liên minh miền Nam bắn một quả đạn pháo vào Đồn Sumter, pháo đài của Liên bang miền Bắc tại cảng Charleston, Nam Carolina. Trong vòng vài ngày, Sumter buộc phải đầu hàng, và miền Bắc và miền Nam đã có chiến tranh.
Ngay từ đầu, có vẻ như miền Bắc nắm giữ lợi thế. Có 22 tiểu bang thuộc Liên bang so với 11 tiểu bang thuộc Liên minh miền Nam. Miền Bắc đông dân hơn nhiều, có 22 triệu người so với 9 triệu người miền Nam (trong đó có 4 triệu là nô lệ). Ngoài ra, miền Bắc sở hữu nhiều ngành công nghiệp nặng hơn miền Nam.
Tuy nhiên, lợi thế không hoàn toàn thuộc về phía Liên bang. Hầu hết các sĩ quan quân đội chính quy của Hoa Kỳ, những người tốt nghiệp West Point đã tham gia trong Chiến tranh Mexico, đã chọn phe miền Nam. Các tướng lĩnh miền Bắc là những người được bổ nhiệm theo xu hướng chính trị. Miền Nam ban đầu đã áp dụng hệ thống nghĩa vụ quân sự, trong khi miền Bắc, trong hai năm đầu của cuộc chiến, phụ thuộc vào một đội quân tình nguyện. Quan trọng hơn, miền Nam không cần phải xâm lược và chinh phục lãnh thổ miền Bắc để giành chiến thắng trong cuộc chiến. Họ chỉ cần giữ vững lập trường và giành đủ thắng lợi lớn để thuyết phục miền Bắc xin hòa giải và cho phép Liên minh miền Nam ly khai và trở thành một quốc gia riêng biệt.
Vào đầu cuộc chiến, Lincoln ngay lập tức phong tỏa các cảng miền Nam, bước đầu tiên trong “Kế hoạch Anaconda” nhằm ép Liên minh miền Nam phải khuất phục, bao gồm việc mở cửa Sông Mississippi cho lực lượng Liên bang và chiếm thủ phủ Richmond, Virginia của miền Nam. Lúc đầu, quân đội Liên minh miền Nam dưới quyền Robert E. Lee đã thành công ở chiến trường phía đông, đánh bại Liên minh miền Bắc tại Trận Bull Run (còn được gọi là Trận Manassas lần thứ nhất theo tên thị trấn gần nơi diễn ra trận đánh) ở Virginia vào tháng 7 năm 1861.
Tuy nhiên, vào đầu năm 1862, một thiếu tướng Liên bang tương đối vô danh tên là Ulysses S. Grant đã chiếm được Pháo đài Henry và Pháo đài Donelson trên Sông Tennessee, làm tê liệt nghiêm trọng quân Liên minh miền Nam tại chiến trường phía tây. Vào mùa xuân năm đó, chỉ huy mới Quân đoàn Potomac của Lincoln, Tướng George McClellan, đã phát động chiến dịch trên bán đảo Virginia mong chiếm Richmond, nhưng, di chuyển quá chậm và bị cản trở bởi chiến dịch của Stonewall Jackson tại Thung lũng Shenandoah, ông đã bị lực lượng Liên minh miền Nam đánh bại nặng nề trong Trận chiến Bảy Ngày và buộc phải quay trở lại Washington.
Trong khi đó, Grant đã chiến đấu với Liên minh miền Nam và hòa trong Trận Shiloh đẫm máu, ở Tennessee. Trận chiến đó đã thuyết phục cả hai bên rằng cuộc chiến này sẽ không giống bất kỳ cuộc chiến nào khác cho đến nay. Điểm sáng duy nhất của Liên minh là việc Đô đốc David Farragut chiếm được New Orleans vào mùa xuân và thực tế là George McClellan đã có thể ngăn chặn được cuộc tiến công về phía bắc của Lee trong trận chiến được Bắc quân gọi là Antietam (vì có một dòng suối ở giữa chiến trường) và được Nam quân gọi là Sharpsburg (lmột ngôi làng gần đó) vào tháng 9 năm 1862.
Tuy nhiên, McClellan đã không tiến lên để giành chiến thắng, và Lincoln đã cách chức ông ta. Trong 12 tháng tiếp theo, Lincoln sẽ bổ nhiệm 5 vị tướng khác nhau làm người đứng đầu Quân đoàn Potomac, tìm kiếm một người đủ mạnh mẽ để đánh bại Lee. Vào cuối tháng 12 năm 1862, Quân đội Liên bang dưới quyền Tướng Ambrose Burnside đã phải chịu một thất bại thảm hại tại Fredericksburg, Virginia. Người kế nhiệm ông, Tướng Joseph Hooker, đã bị Lee đánh bại một cách quyết định tại Chancellorsville, Virginia, vào tháng 5 năm 1863, mặc dù Stonewall Jackson đã tử trận, đây là một đòn giáng mạnh vào miền Nam.
Lincoln bổ nhiệm Tướng George Gordon Meade làm tổng tư lệnh mới của mình. Cuối cùng, Meade đã có thể đánh bại Lee một cách quyết định trong Trận Gettysburg, Pennsylvania, vào tháng 7. Cùng lúc đó, Tướng Ulysses S. Grant, lúc này là chỉ huy của lực lượng Liên bang ở phía tây đã chiếm được pháo đài quan trọng của Liên minh miền Nam là Vicksburg, trên sông Mississippi. Việc Grant tiếp tục tiêu diệt lực lượng Liên minh miền Nam tại Chattanooga, Tennessee, có nghĩa là Liên minh miền Nam hiện đang bị dồn vào chân tường.
Năm 1864, Lincoln bổ nhiệm Grant làm chỉ huy của toàn bộ lực lượng Liên bang. Lực lượng Liên bang tăng lên do chế độ nghĩa vụ quân sự, và sức mạnh công nghiệp khổng lồ của họ cung cấp đạn dược và vật tư vô tận. Grant lúc này đã tiến hành một cuộc chiến tranh tiêu hao tàn khốc chống lại miền Nam bị suy yếu do tình trạng thiếu hụt nhân lực không thể thay thế và sự phong tỏa hiệu quả của Liên bang. Khi Grant tiến về Virginia, các trận chiến lớn đã diễn ra vào tháng 5 và tháng 6 tại Wilderness, Spotsylvania Courthouse và Cold Harbor, và đến tháng 6 năm 1864, quân Liên bang đã bao vây Petersburg, gần Richmond.
Trong khi đó, Tướng William Tecumseh Sherman, lúc này là chỉ huy của lực lượng Liên bang ở phía tây, đã được cử đi tấn công nhà ga đường sắt chính và thành phố tiếp tế Atlanta, Georgia. Ông đã đạt được mục tiêu này vào tháng 9, và sau đó ông đã mở một chiến dịch hành quân nổi tiếng qua miền Nam đến bờ biển Savannah, Georgia, để lại phía sau một con đường chết chóc và tàn phá dài 300 dặm (485 km) và rộng 60 dặm (95 km).
Vào tháng 3 năm 1865, quân đội của Lee bị đánh bại tại Petersburg, và Richmond thất thủ ngay sau đó. Lee đầu hàng quân đội của mình trước Grant tại Tòa án Appomattox ở Virginia vào ngày 9 tháng 4. Lực lượng lớn cuối cùng của Liên minh miền Nam, lực lượng Tướng Joseph E. Johnston, đầu hàng Sherman gần Durham, Bắc Carolina, vào ngày 18 tháng 4.
Nhưng Lincoln đã bị ám sát bởi một người miền Nam quá khích John Wilkes Booth tại Washington, D.C., vào ngày 14 tháng 4, khiến đất nước bị chiến tranh tàn phá này có một tương lai bất định. Sau một thời kỳ Tái thiết đầy tham nhũng và có tính trả thù nhiều hơn là chữa lành, miền Nam sẽ mất ít nhất một thế kỷ mới có thể hoàn toàn tái gia nhập Liên bang. Những vết sẹo của chiến tranh, đặc biệt là về mặt phân biệt chủng tộc và tâm thức “xa cách” của miền Nam, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
TRONG BA NGÀY THÁNG 7, MIỀN NAM BỊ CHẶN ĐỨNG – VÀ MỘT NGÔI LÀNG PENSYLVANIA ĐÃ TRỞ THÀNH BẤT TỬ
Trận chiến Gettysburg: Tháng 7 năm 1863
Vào tháng 6 năm 1863, những người lính tinh nhuệ nhất trên lục địa Bắc Mỹ – hoặc họ tự nhận mình như vậy – bắt đầu đổ về những cánh đồng xanh tươi và yên bình ở miền nam-trung Pennsylvania. Họ thuộc Quân đoàn Bắc Virginia, gồm 75.000 quân Liên minh miền Nam, và họ đã hành quân về phía tây và phía bắc từ Virginia, qua Maryland, và thấy chính mình đang ở trong vùng đất giàu có của kẻ thù.
Tướng của họ, Robert E. Lee, đã cấm cướp bóc, nhưng những người lính này đói và họ cần đồ tiếp tế. Vì vậy, họ lấy những gì họ có thể – thức ăn, quần áo, ngựa và thậm chí cả tiền mà họ “trưng dụng” từ các ngân hàng và cửa hàng – để lại các giấy nợ của Liên minh miền Nam. Khi một phụ nữ nông dân phàn nàn sau khi gia súc bị đánh cắp, Tướng James Longstreet lịch sự nói với bà: “Vâng, thưa bà, thật đáng buồn, rất đáng buồn, và những chuyện như thế này đã xảy ra ở Virginia hơn hai năm nay, rất đáng buồn.”
Nhìn lại, nhiều binh lính Liên minh miền Nam đã coi tháng 6 dễ chịu này – những ngày dường như vô tận có thời tiết đẹp, ấm áp và sữa bơ Yankee (người Bắc) béo ngậy – như một giấc mơ bình dị. Trên thực tế, những binh lính nổi loạn dưới quyền một chỉ huy sư đoàn của Lee, A.P. Hill, cảm thấy vô cùng tự tin khi họ tiến đến một thị trấn ngã tư nhỏ có tên là Gettysburg. Họ đã tiêu diệt quân Liên bang tại Fredericksburg, Virginia, vào tháng 12 trước đó và đánh bại họ tại Chancellorsville, Virginia, chỉ một tháng trước đó. Bây giờ họ đang tiến về phía bắc để mang cuộc chiến đến với kẻ thù đáng ghét và giành độc lập cho các tiểu bang miền Nam.
Nhưng trước tiên họ sẽ dừng lại ở Gettysburg. Có một nhà máy sản xuất giày ở đó, và một thứ mà người của A.P. Hill cần là da giày tốt.
“Bọn Người Đó”
Chiến tranh không thể tách rời khỏi chính trị, và khi Lee cùng quân lính của mình tiến về phía bắc vào cuối mùa xuân năm đó, ông đã có những mục tiêu chính trị to lớn trong đầu. Lee rất muốn gây ấn tượng với đảng hòa bình miền Bắc, Copperheads, bằng thiện chí của mình đến nỗi ông đã ra lệnh cho binh lính không được làm hại dân thường hoặc cướp bóc tài sản của họ.
Quan trọng hơn, Lee muốn tiêu diệt Quân đoàn Potomac dưới quyền Joseph Hooker, người mà ông đã đánh bại dễ dàng tại Chancellorsville. Hooker giờ đây đang chậm trễ theo sau Quân đội Bắc Virginia khi nó tiến vào lãnh thổ Liên bang. Một khi Lee đánh bại Quân đoàn Potomac, ông chắc chắn rằng các nước ngoài như Anh và Pháp sẽ công nhận Liên minh miền Nam và Washington sẽ xin cầu hòa.
Đây là những mục tiêu chính trị tốt đẹp, nhưng một vị tướng vĩ đại như Lee lại cho phép mình quên rằng việc đổ máu để đạt được mục đích chính trị là một vấn đề không thể đoán trước. Lee có thể đã tin vào sự bất khả chiến bại của quân đội mình và rằng “bọn người đó”, như Lee gọi binh lính Yankee miền Bắc, sẽ quay đầu bỏ chạy, như họ đã từng làm trước đây. Nhưng lực lượng của Lee không phải là không có điểm yếu. Tướng chỉ huy táo bạo và hung hăng nhất của ông, Stonewall Jackson, đã bị giết chết bởi hỏa lực của phe mình vào tháng 5 tại Chancellorsville sau khi về cơ bản đã giành chiến thắng trong trận chiến đó cho Lee. Và mắt và tai của Lee, kỵ binh của Jeb Stuart, giờ không ở bên ông. Stuart đã lợi dụng lệnh của Lee để thực hiện một cuộc tránh né điên cuồng xung quanh toàn bộ Quân đoàn Liên bang của Hooker.
Vì vậy, khi Lee hành quân về phía bắc, ông không biết Quân đoàn Potomac đang ở đâu, cũng không biết rằng, vào ngày 28 tháng 6, Lincoln đã thay thế Hooker bằng Tướng George Gordon Meade, một sĩ quan Liên bang đã từng bước thăng tiến trong hàng ngũ bằng các chiến tích xuất sắc. Meade quyết tâm ngăn chặn Lee và – với lực lượng kỵ binh của mình – nhanh chóng phát hiện ra rằng Liên minh miền Nam đã tiến vào Pennsylvania.
Meade đã khẩn trương di chuyển quân đoàn 90.000 người của mình về phía bắc từ Maryland, tại đó họ đóng quân, để đối đầu với Liên minh miền Nam.
Lee đã chia nhỏ lực lượng của mình để đạt được mục tiêu ở Pennsylvania, bao gồm chiếm thủ phủ Harrisburg của tiểu bang và phá hủy các cây cầu đường sắt quan trọng. Nhưng khi Lee cuối cùng nhận được tin về quân của Meade đang tiến đến, ông đã ra lệnh cho tất cả các chỉ huy của mình đưa lực lượng của họ đến Gettysburg. Điều này không phải vì Lee muốn chiến đấu ở đó, mà đơn giản là vì thị trấn này là trung tâm của nhiều xa lộ.
Trận chiến bắt đầu
Nhưng khi quân của A.P Hill đến Gettysburg vào sáng ngày 1 tháng 7, họ không quan tâm đến chiến lược lớn hơn này. Họ muốn giày, và họ nghĩ rằng họ sẽ có được giày mới trước khi phần còn lại của quân đội Liên minh miền Nam xuất hiện. Nhưng thay vì một vài dân quân Liên bang mà họ mong đợi, họ thấy hai lữ đoàn kỵ binh Liên bang dưới quyền John Buford, người đã cưỡi ngựa vào thị trấn vào ngày hôm trước đi trước lực lượng Liên bang. Buford được công nhận là một trong những anh hùng Liên bang của trận chiến, những người hành động độc lập, nhìn thấy cơ hội và nắm bắt chúng. Ông nhận ra rằng những ngọn đồi và dãy núi gần Gettysburg là những điểm phòng thủ quan trọng và ông quyết tâm giữ chúng.
Và thế là Buford xuống ngựa và bố trí quân lính của mình trên vùng đất cao phía tây bắc Gettysburg. Khi binh lính của A.P. Hill xuất hiện, quân Buford đã chiến đấu, giữ chân họ trong hai giờ cho đến khi một lữ đoàn bộ binh Liên bang xuất hiện để tăng viện cho họ. Cuộc giao tranh dữ dội đã bắt đầu trở thành một trận chiến thực sự, khi cả hai bên đều cử người đưa tin để tung thêm quân.
Đến chiều ngày 1 tháng 7, 24.000 quân Liên minh miền Nam đã chiến đấu với 19.000 quân Yankee dọc theo các dãy núi phía tây bắc thị trấn. Lee nhận ra rằng ông đã áp đảo được quân địch và có thể phá vỡ được phòng tuyến của chúng. Ông đã phát động một cuộc tấn công của Liên minh miền Nam khiến sườn phải của quân Yankee bị vỡ và cuối cùng buộc phòng tuyến của chúng phải sụp đổ. Lực lượng Liên bang rút lui qua thị trấn Gettysburg đến Đồi Nghĩa trang, ở phía nam.
Tuy nhiên, trận chiến vẫn chưa kết thúc. Lee biết rằng Quân đoàn Potomac gần như chắc chắn sẽ di chuyển nhanh đến Gettysburg. Ông cần chiếm được vùng đất cao trên Gò Nghĩa trang trước khi kẻ thù có thể đào hầm ở đó với lực lượng mạnh. Vào chiều ngày 1 tháng 7, Lee ra lệnh cho Tướng Richard Ewell, chỉ huy của Lữ đoàn Quân 2 và người thay thế Stonewall Jackson, tấn công Đồi Nghĩa trang “nếu có thể.” Do đó, đây là một lệnh tùy ý, và Ewell cho rằng kẻ thù đã củng cố quá vững chắc và do đó đã từ chối. Mặc dù Ewell là một chỉ huy có năng lực, nhưng ông ta thiếu sự nhạy bén và tính hung hăng của Jackson. Nhưng nếu Ewell tấn công vào buổi chiều hôm đó, ông ta gần như chắc chắn sẽ phá vỡ được phòng tuyến của Liên bang.
“Kẻ thù đang ở đó”
Đêm đó, Meade và phần còn lại của lực lượng Liên bang đã xuất hiện và xây dựng một tuyến công sự phòng thủ dài vài dặm. Phòng tuyến Liên bang kéo dài qua Đồi Nghĩa trang và Gò Nghĩa trang, cho đến tận một ngọn đồi có tên là Chóp Tròn Nhỏ
Vào sáng ngày 2 tháng 7, Longstreet và Lee đã khảo sát các tuyến phòng thủ này và sau đó hai người có các ý kiến tranh chấp đầu tiên, nhưng không phải là cuối cùng, vềh trận chiến. Longstreet cảm thấy rằng phòng tuyến của Liên bang hiện đã quá mạnh để tấn công. Ông muốn Lee đánh vào sườn quân Yankee ở phía nam và chiếm giữ các vị trí phòng thủ. Điều này sẽ đặt toàn bộ Quân đoàn Bắc Virginia giữa Washington, D.C. và Gettysburg, điều này chắc chắn sẽ khiến quân Yankee phải rời khỏi các vị trí phòng thủ của họ và tấn công. Một khi họ làm vậy, quân Liên minh miền Nam sẽ cắt họ thành từng mảnh.
Lee không muốn điều này. Ông nghĩ rằng việc phòng thủ sẽ khiến quân lính của mình, rõ ràng đang muốn tấn công kẻ thù, sẽ mất đi khí thế. Lee chỉ vào Gò Nghĩa trang và nói với Longstreet, “Kẻ thù ở đó, và tôi sẽ tấn công hắn ở đó.”
Longstreet trả lời, “Nếu anh ta ở đó, thì đó là vì anh ta nóng lòng muốn chúng ta tấn công anh ta; theo tôi, đó là lý do chính đáng để không làm như vậy.”
Nhưng Lee đã bác bỏ điều này và ra lệnh cho Longstreet tấn công. Bực bội vì bị phản kháng, Longstreet mất gần cả ngày để chuẩn bị lực lượng, vì vậy cuộc tấn công không thể bắt đầu cho đến 4 giờ chiều. Longstreet đã cử 15.000 binh lính dày dạn kinh nghiệm của mình hét lên tiếng hô xung phong xông thẳng về phía phòng tuyến của Liên bang. Cuộc chiến diễn ra ác liệt, tại những cứ điểm đã trở nên nổi tiếng trong lịch sử Hoa Kỳ như Vườn đào, Cánh đồng lúa mì và một đống đá lớn được người dân thị trấn địa phương gọi là Hang ổ của Quỷ.
Mặc dù cuộc tấn công diễn ra muộn, Liên minh miền Nam vẫn tìm thấy cơ hội phi thường. Không thể giải thích được, Liên minh đã bỏ qua việc chiếm Chóp Tròn Nhỏ, ngọn đồi neo giữ sườn phía nam của tuyến phòng thủ của họ. Nếu quân của Longstreet có thể đến được đó, họ sẽ có thể bắn xuống quân Yankee và gửi một lực lượng đánh vào phía sau Liên minh miền Bắc.
Quân miền Nam nhận ra điều này và chạy đua đến ngọn đồi. Cùng lúc đó, một sĩ quan công binh Liên bang là Tướng Gouverneur K. Warren cũng nhìn thấy vấn đề. Phi nước đại đến lữ đoàn Liên bang gần nhất, ông thuyết phục các sĩ quan của lữ đoàn này cử người xông lên phía bên kia của Chóp Tròn Nhỏ. Họ lên đến đỉnh ngay trước khi quân Liên minh miền Nam kịp đến, và một trận chiến ác liệt đã xảy ra. Trong hơn hai giờ, trên sườn đồi phủ đầy đá và cây cối và bị cắt bởi các khe núi, một trung đoàn Alabama và một trung đoàn Maine đã giao chiến dữ dội.
Chỉ huy trung đoàn Maine là một anh hùng Liên bang khác của trận Gettysburg, Đại tá Joshua L. Chamberlain, cựu giáo sư khoa tu từ học tại Cao đẳng Bowdoin. Khi hoàng hôn buông xuống, Chamberlain phát hiện ra một phần ba quân lính của mình đã bị thương vong và số còn lại đang nhanh chóng hết đạn. Xuống đồi, qua làn khói súng bay lơ lửng và tiếng rên rỉ của những thương binh nằm rải rác trên sườn dốc, Chamberlain có thể thấy quân Alabama đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công khác.
Và thế là Chamberlain đã đưa ra một trong những quyết định quan trọng nhất của cuộc chiến: Ông ra lệnh cho quân lính của mình lắp lưỡi lê và xung phong. Khi chạy xuống đồi trong cơn điên cuồng, quân Maine đã bất ngờ tấn công quân Liên minh miền Nam, phá tan đợt xung phong của họ và buộc hầu hết quân Liên minh phải đầu hàng. Chóp Tròn Nhỏ đã được cứu vì quân Liên bang lần này đã hành động không giống như quân Liên bằng mà quân miền Nam từng biết: Họ đã từ chối đầu hàng.
“Cuộc thảm sát vô vọng”
Các cuộc tấn công của Liên minh miền Nam vào tuyến Liên bang vào ngày 2 tháng 7 đã được phối hợp kém, và chúng đã không thọc sâu được vào phòng tuyến kẻ thù. Vào cuối buổi tối hôm đó, khi cả hai bên đều đang liếm láp vết thương (18.000 quân miền Nam và miền Bắc đã chết hoặc bị thương vào ngày hôm đó), Lee đã triệu tập một cuộc họp với các sĩ quan của mình. Họ rất ngạc nhiên, khi Lee nói với họ rằng ý định của ông là tấn công vào trung tâm phòng tuyến của Meade vào ngày hôm sau. Lee tin rằng chỉ huy Liên bang miền Bắc đã làm suy yếu trung tâm của mình khiến hai bên sườn của ông ta còn đủ mạnh để đương đầu với các cuộc tấn công của Liên minh miền Nam.
Các sĩ quan miền Nam khác, đặc biệt là Longstreet, không thấy logic trong việc này, và họ đã phản đối, nhưng vô ích. Có lẽ đã suy yếu vì một cơn tiêu chảy mà ông đang mắc phải hoặc thiếu thông tin tình báo mà Jeb Stuart (lính của ông ta chỉ vừa mới về doanh trại, vô cùng mệt mỏi sau chuyến đi ngựa đường dài) có thể đã cung cấp, Lee vẫn quyết tâm thúc đẩy trận chiến này để đạt được mục tiêu của mình.
Một lần nữa, Longstreet phải chuẩn bị cho cuộc tấn công này, và một lần nữa, ông lại chần chừ. “Trái tim tôi nặng trĩu,” sau này ông viết, “Tôi có thể thấy bản chất tuyệt vọng và vô ích của cuộc xung phong và cuộc tàn sát vô vọng mà nó sẽ gây ra.” Nhưng vào lúc 1 giờ chiều, Longstreet ra lệnh cho các khẩu pháo của Liên minh miền Nam khai hỏa dữ dội vào các phòng tuyến của Liên bang, đây là cuộc pháo kích lớn nhất của quân miền Nam trong cuộc chiến.
Sau hai giờ, cuộc tấn công được gọi là Trận Xung kích của Pickett, theo tên của Tướng George Pickett, người chỉ huy một sư đoàn Virginia trong cuộc tấn công, bắt đầu. Chín lữ đoàn Liên minh miền Nam tham gia – với các tướng Pickett, Isaac Trimble và James Johnston Pettigrew. Các lữ đoàn xếp hàng, cờ tung bay, trên một mặt trận dài 1 dặm (1,5 km) với ba phần tư dặm (1 km) cánh đồng thoai thoải trước mặt. Ở đằng xa, quân Yankee chờ đợi sau hàng rào đá và chướng ngại vật.
Theo lệnh của Pickett, quân miền Nam tiến lên. Những người có mặt ở cả hai bên đều kinh ngạc trước vẻ đẹp của cuộc xung phong, mà theo như nhà sử học James M. McPherson đã nói, có vẻ như “một bức tranh về chiến tranh”. Nhưng bức tranh đó không kéo dài được lâu. Đạn pháo của Liên minh miền Nam không gây hại đáng kể cho pháo binh Yankee. Và khi pháo binh Yankee có được tầm bắn, nó liền bùng nổ đáp trả, phá tan hàng ngũ hoàn hảo của quân xám. Rồi, khi quân miền Nam vừa xông tới vừa la hét về phía phòng tuyến của Yankee, quân Liên bang nổ súng từ khoảng cách 200 yard (185 m). Như Longstreet đã dự đoán, đó là một trận thảm sát, với binh lính bị thổi bay khỏi chỗ họ đang đứng. Các trung đoàn Liên bang lao ra khỏi vị trí của họ ở hai bên chiến trường để tấn công vào sườn quân Liên minh miền Nam bằng hỏa lực. Quân Liên minh bị mắc kẹt trong một vùng chết chóc, thậm chí khó có thể di chuyển mà không bị trúng đạn.
VÒNG HÀO QUANG BẤT KHẢ CHIẾN BẠI CỦA QUÂN ĐOÀN BẮC VIRGINIA ĐÃ TAN TÁC. LIÊN BANG ĐƯỢC TRAO NIỀM HY VỌNG MỚI.
Nửa giờ sau kể từ khi cuộc tấn công bắt đầu, 200 quân miền Nam, do Tướng Lewis Armistead chỉ huy, đã tiến qua phòng tuyến của Liên bang miền Bắc. Tất cả đều bị giết sạch trong vòng vài phút. Armistead chết khi tay đang đặt trên một khẩu pháo của Yankee – được cho là “mức nước cao nhất” trong nỗ lực của Liên minh miền Nam trong Nội chiến. Những binh lính miền Nam sống sót sau cuộc tấn công đã đổ về phòng tuyến của Liên minh. Trong số 14.000 quân miền Nam tấn công, chỉ có 7.000 người quay trở lại. Bản thân Lee đã gặp những người lính sống sót và nói với họ: “Tất cả là lỗi của tôi. Chính tôi là người đã để thua cuộc chiến này.”
Lee dự kiến ​​Meade sẽ tấn công vào ngày hôm sau, ngày 4 tháng 7, nhưng vị tướng mới và lực lượng Liên bang của ông đã kiệt sức và chỉ đuổi theo binh lính của Lee đang rút lui một cách chiếu lệ. Trời mưa như trút nước khi quân miền Nam rút lui, mang theo những người bị thương. Binh lính Nội chiến lưu ý trời thường mưa sau một trận chiến lớn, và họ đưa ra giả thuyết rằng có thể là do những đám mây bị nhiễu loạn bởi hỏa lực pháo binh.
Liên minh tổn thất 28.000 người tử trận, mất tích hoặc bị thương (tổn thất của Liên bang là 23.000 người), nhưng thực tế, họ đã mất nhiều hơn thế. Vầng hào quang bất khả chiến bại của Quân đoàn Bắc Virginia đã bị phá vỡ. Liên bang (cũng được khích lệ bởi chiến thắng lớn của Grant tại Vicksburg vào ngày 4 tháng 7) đã được tiếp thêm hy vọng.
Lee trở về Richmond, tại đó ông nộp đơn từ chức cho tổng thống miền Nam Jefferson Davis. “Không ai,” ông viết, “biết rõ hơn tôi về sự bất lực của tôi đối với nhiệm vụ của mình.” Davis từ chối chấp nhận điều này, và Lee tiếp tục chiến đấu. Lee đã thể hiện xuất sắc trong hai năm cuối của cuộc chiến, nhưng ông sẽ không bao giờ thấy mình một lần nữa có một đội quân bất bại sau lưng, tiến vào lãnh thổ của kẻ thù với chiến thắng trong tầm tay.
TƯỚNG ULYSSES S. GRANT: NGƯỜI ANH HÙNG DO THỜI THẾ TẠO RA ĐÃ LÀM THAY ĐỔI VẬN MẠNG CỦA LIÊN BANG
Ulysses S. Grant đã trải qua những chuyến đi tuyệt vọng trong cuộc đời mình, điều này có thể khiến nhân vật cùng tên với ông – chàng Ulysses anh hùng trong Odyssey – hẳn phải nản lòng. Cyclops (bọn khổng lồ một mắt, đối thủ của Ulysses) của Grant là toàn bộ quân đội Liên minh miền Nam, và Siren (Mỹ nhân cư với tiếng hát lung lạc Ulysses) của ông là tiếng gọi quyến rũ của rượu.
Grant sinh năm 1822 trong một cabin hai phòng ở Point Pleasant, Ohio, nơi cha ông điều hành một xưởng thuộc da. Tuổi thơ của Grant chủ yếu không có gì nổi bật ngoại trừ tình yêu dành cho ngựa, và ông là một kỵ sĩ tuyệt vời trong suốt cuộc đời mình. Tuy nhiên, ông đã xoay xở để đảm bảo được một chỗ ngồi tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point, nơi ông tốt nghiệp, ở hạng giữa lớp, vào năm 1843. Ông tiếp tục phục vụ một cách dũng cảm trong Chiến tranh Mexico-Mỹ năm 1846-1848, đây là nơi thử thách cho nhiều sĩ quan Liên bang và Liên minh tương lai. Trong cuộc chiến đó, Grant được thăng hàm đại úy.
Nhưng sau chiến tranh, Grant trở thành một sĩ quan hợp đồng, phục vụ tại các tiền đồn miền Tây hoang vắng và buồn tẻ, tại thời điểm đó, ông bắt đầu uống rượu rất nhiều. Grant rời quân đội vào năm 1854 và sau khi làm nông và người thu tiền, ông đã đưa vợ mình, Julia, và gia đình đang lớn dần của mình đến Galena, Illinois, nơi ông đến làm việc tại cửa hàng đồ da của gia đình với tư cách là trợ lý cho em trai mình.
Grant là một người thấp bé, thô lỗ và khá ít nói, đã phải chịu đựng cuộc sống như chốn lưu đày ở Galena.
Ông vẫn tiếp tục uống rượu (mặc dù bao nhiêu thì vẫn còn tranh cãi) và có lẽ đã mắc phải một dạng trầm cảm lâm sàng nào đó, khi thấy mình, ở tuổi 38 tuổi vào năm 1860, vẫn còn lủi thủi làm việc trong cửa hàng gia đình. Nhưng khi Nội chiến nổ ra, vào thời điểm cần đến các sĩ quan Liên bang giàu kinh nghiệm, Grant đã sử dụng mối quan hệ mà ông đã tạo dựng được với Nghị sĩ Elihu Washburne của Illinois để trở thành một chuẩn tướng của Trung đoàn Illinois 21.
Vào tháng 2 năm 1862, được hỗ trợ bởi tàu chiến, Grant đã bắt đầu một chiến dịch đánh chiếm các pháo đài quan trọng của Liên minh miền Nam là Henry và Donelson, án ngữ sông Tennessee và Cumberland, các tuyến đường thủy chính của Liên minh. Vào thời điểm Liên bang không nhận được nhiều tin tốt lành nho nhỏ, Grant đã chiếm được các pháo đài, và ông trở nên nổi tiếng khi nói với chỉ huy Liên minh miền Nam của Pháo đài Donelson rằng: “Không có điều khoản nào ngoại trừ đầu hàng vô điều kiện và ngay lập tức là có thể được chấp nhận.”
Bất ngờ, chữ U.S. trong tên viết tắt của Grant có nghĩa là “Unconditional Surrender, Đầu hàng vô điều kiện”. Granı, sau khi bao vây và chiếm Vicksburg, đang trên đường trở thành vị tướng Liên bang hàng đầu của cuộc chiến. Ông là một chiến binh vào thời điểm Liên bang vô cùng cần đến những con người này. Ông không kết bạn được nhiều với tính cách thô lỗ của mình, và những câu chuyện về việc ông uống rượu rất nhiều, phần lớn trong số đó là bịa đặt. Có vẻ như Grant có thể không uống rượu trong thời gian dài, nhưng khi ông chạm vào rượu, ông lại say xỉn. May mắn thay, vợ ông, Julia, và Tham mưu trưởng John A. Rawlins đã có thể giữ ông tránh xa rượu hầu hết thời gian.
Người ủng hộ nhiệt thành khác của Grant là Tổng thống Abraham Lincoln. Lincoln có thể đã không nói (với những người phàn nàn về việc Grant uống rượu): “Hãy tìm hiểu xem ông ấy uống loại rượu whisky nào; Tôi muốn gửi một ít cho tất cả các vị tướng của tôi!” nhưng chắc chắn ông đã tuyên bố: “Những gì tôi muốn là những vị tướng sẽ chiến đấu và giành chiến thắng… Grant đã làm được điều này, và tôi đề xuất sẽ ủng hộ ông ấy.”
Đây là một động thái khôn ngoan của Lincoln. Sau khi Grant được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh của tất cả các đội quân Liên bang vào đầu năm 1864, ông đã tấn công mạnh mẽ vào đội quân đang suy yếu của Robert E. Lee, cử William Tecumseh Sherman chiếm Atlanta trong khi tấn công bằng Quân đoàn Potomac vào Virginia, dồn Lee vào chân tường và buộc ông phải đầu hàng vào năm 1865. Một quốc gia biết ơn đã biến Grant thành một anh hùng trường tồn và hai lần bầu ông làm tổng thống, vào năm 1868 và 1872. Chính quyền của ông không thành công lắm. Mặc dù bản thân Grant là một người đàn ông trung thực, nhưng ông đã bị bao quanh bởi những vụ bê bối. Nhưng không phải nói quá khi cho rằng Grant là một trong những chỉ huy quân sự quan trọng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Mặc dù Robert E. Lee là vị tướng thua cuộc trong nỗ lực chiến tranh lớn và mang tính hủy diệt, ít nhất một phần nhằm bảo vệ chế độ nô lệ, Lee vẫn được tôn kính như một thiên tài quân sự và anh hùng.
Không giống như Grant, cuộc sống của Lee trước chiến tranh là một cuộc sống thuận buồm xuôi gió. Sinh ra tại Virginia vào năm 1807, là con trai của người anh hùng Chiến tranh Cách mạng “Light-Horse Harry” Lee, Robert E. Lee tốt nghiệp West Point với vị trí thứ hai trong khóa, được giao nhiệm vụ vào Quân đoàn Công binh Lục quân và chiến đấu anh dũng trong Chiến tranh Mexico-Mỹ, nổi lên với cấp bậc đại tá và sự ngưỡng mộ của cấp chỉ huy , Tướng Winfield Scott, người gọi ông là “quân nhân giỏi nhất mà tôi từng thấy trên chiến trường”.
Sau cuộc chiến đó, Lee được bổ nhiệm làm Giám đốc West Point, và sau đó ông phục vụ với tư cách là một đại tá kỵ binh ở Tây Texas. Lee ở lại quân đội chính quy cho đến khi Virginia ly khai khỏi Liên bang. (Chính trong cương vị này, Lee và trung úy của ông, Jeb Stuart, đã bắt giữ người theo chủ nghĩa bãi nô John Brown tại Harpers Ferry). Khi Virginia ly khai, Lee đã từ chức, nói rằng ông không thể chiến đấu chống lại vùng đất nơi ông sinh ra.
Lee sớm được phong làm tướng chính thức của quân đội Liên minh miền Nam, và ông phục vụ với tư cách là cố vấn quân sự cho Tổng thống Liên minh miền Nam Jefferson Davis. Lee đã lập kế hoạch cho chiến dịch Thung lũng Shenandoah của Stonewall Jackson. Lee nắm quyền chỉ huy Quân đoàn Bắc Virginia vào mùa xuân năm 1862 và nhiều lần đẩy lùi những nỗ lực của Tướng George McClellan nhằm đánh chiếm Richmond vào mùa hè năm đó.
Vào mùa thu, cuộc xâm lược Maryland của Lee đã bị chặn lại tại trận chiến khốc liệt ở Antietam – ngày đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, nơi ông phải chịu 10.000 thương vong so với 12.000 thương vong của McClellan. Nhưng với một đội quân chỉ có 38.000 người, Lee đã có thể đe dọa lực lượng Liên bang của McClellan gồm khoảng 75.000 người. Năm sau, Lee giành chiến thắng vang dội tại Chancellorsville, nơi ông chia quân trước quân đoàn Liên bang lớn hơn của Joseph Hooker và gửi Jackson đột phá vào sườn phải phía bắc.
Một số nhà sử học tin rằng chuỗi chiến thắng quan trọng của Lee vào năm 1862 và đầu năm 1863 không liên quan nhiều đến sự nhạy bén về chiến thuật của ông mà liên quan đến sự nhút nhát của các chỉ huy Liên bang mà ông đối đầu. Nhưng Lee chắc chắn biết cách khai thác điểm yếu của đối thủ một cách tích cực. Mặc dù Lee có phong thái của một quý ông miền Nam, ông là một chỉ huy cứng rắn và tiến hành chiến tranh một cách quyết liệt.
Sau khi đẩy lui Ambrose Burnside tại Fredericksburg, Virginia, Lee đã chứng kiến ​​cảnh những binh lính Liên bang bị tàn sát khi xông vào các chiến hào cố thủ của Liên minh miền Nam và nói với Tướng James Longstreet: “Chiến tranh rõ thật là khủng khiếp. Rồi chúng ta sẽ trở nên thích thú với nó.” Nhưng bản thân Lee cũng đã phạm phải sai lầm tương tự khi tấn công một kẻ thù cố thủ được trang bị súng trường hiện đại vào tháng 7 năm 1863 tại Gettysburg, Pennsylvania, nơi ông đã phái một cuộc tấn công bộ binh lớn vào phòng tuyến Liên bang trong cái gọi là Trận Xung kích của Pickett. Kết quả là ông đã thất bại và mở đầu cho sự kết thúc của Liên minh miền Nam.
Ngày càng bị Grant dồn vào chân tường, Lee đã chiến đấu trong một loạt các hoạt động phòng thủ hậu phương xuất sắc nhưng tốn kém vào năm 1864, trước khi cuối cùng đầu hàng Grant tại Tòa án Appomattox vào tháng 4 năm 1865. Lee trở thành hiệu trưởng của Cao đẳng Washington (nay là Đại học Washington and Lee) ở Virginia, một tiểu bang nơi ông được tôn kính. Bằng thái độ và thành tích quân sự của mình, ông đã khiến cho sự nghiệp của Liên minh miền Nam có vẻ như là một sự nghiệp thiêng liêng, mặc dù cuối cùng, ông đã không giành được chiến thắng duy nhất cần thiết để khuất phục miền Bắc. Lee qua đời vào năm 1870 vì suy tim. Trên thực tế, ông đã nộp đơn xin Chính phủ Liên bang khôi phục quyền công dân của mình, nhưng đơn đã bị mất. Đơn đã được tìm thấy lại vào năm 1970 và được cấp sau khi ông qua đời.
ABRAHAM LINCOLN VÀ BÀI DIỄN VĂN NỔI TIẾNG NHẤT TRONG LỊCH SỬ MỸ
Một trong những bài diễn văn vĩ đại nhất từng được phát biểu trong lịch sử Hoa Kỳ cũng là một trong những bài diễn văn ít được chú ý nhất vào thời điểm nó được phát biểu.
Ngày đó là ngày 19 tháng 11 năm 1863. Địa điểm là Nghĩa trang Quốc gia Chiến sĩ đang được khánh thành bên ngoài thị trấn Gettysburg, Pennsylvania, nơi mà bốn tháng trước đó, hàng ngàn chiến sĩ ở cả miền Bắc và miền Nam đã hy sinh trong một trận chiến cuối cùng đã ngăn chặn được cuộc tiến quân về phía bắc của Quân đoàn Virginia của Robert E. Lee. Xác các binh lính miền Nam đã bị ném thô bạo vào các ngôi mộ tập thể. Xác các bình sĩ miền Bắc được đào lên từ những ngôi mộ chôn cất vội vã cho họ vào mùa hè năm đó, được xác định một cách khó khăn bằng cách tìm ra đơn vị của họ đến từ tiểu bang nào (nếu có thể), và sau đó được cải táng trong những ngôi mộ sắp xếp theo những vòng cung bán nguyệt rộng xung quanh một tượng đài tưởng niệm lòng quả cảm của họ.
:Abraham Lincoln đã đến vào đêm trước để phát biểu trước đám đông tại buổi lễ, nhưng ông không phải là diễn giả chính. Vinh dự đó thuộc về Edward Everett nổi tiếng, người đã phát biểu trong hơn hai giờ. Đây không phải là sự khinh thường đối với Lincoln, như truyền thuyết kể lại, mà chỉ đơn thuần là sự phản ánh thực tế rằng, vào thời điểm đó, các tổng thống Hoa Kỳ ít tham gia vào các vấn đề nhà nước. Tuy nhiên, Lincoln đã đứng lên phát biểu sau khi Everett phát biểu xong, và chỉ trong ba phút với 272 từ đã tập trung cử tọa vào mục đích đằng sau những thương vong khủng khiếp minh chứng là những nấm mồ của những liệt sĩ đang nằm xung quanh họ, đó là tạo ra một quốc gia “của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân”.
Mặc dù hầu hết sự chú ý vào thời điểm đó đều tập trung vào Everett, nhưng Lincoln mới là người tóm tắt ý nghĩa của ngày trọng đại này bằng những từ ngữ đã đi vào lịch sử. Trên thực tế, Everett đã viết thư cho tổng thống vào ngày hôm sau, nói rằng: “Tôi sẽ rất vui, nếu tôi có thể tự tâng bốc mình, rằng tôi đã đạt đến gần ý tưởng chính của sự kiện trong hai giờ, trong khi ngài chỉ làm trong hai phút.
LÍNH DA ĐEN: CHIẾN ĐẤU VÌ LIÊN BANG CÓ NGHĨA LÀ PHẢI MẠO HIỂM MỌI THỨ VÌ TỰ DO
Abraham Lincoln đã ban hành Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ vào ngày đầu năm mới năm 1863, giải phóng tất cả nô lệ và kêu gọi họ gia nhập Quân đội và Hải quân Liên bang.
Điều này nói thì dễ hơn làm vì có rất nhiều định kiến ​​tồn tại ở phía Liên bang đối với người da đen. Trớ trêu thay, Bộ Chiến tranh miền Bắc gọi cuộc xung đột này là “cuộc chiến của người da trắng” và ban đầu từ chối chấp nhận người da đen vào lực lượng vũ trang với tư cách là lính. Điều này không chỉ đơn thuần là do phân biệt chủng tộc. Người ta thừa nhận rằng những người da đen có vũ trang là cơn ác mộng tồi tệ nhất của Liên minh miền Nam và rằng họ sẽ chiến đấu hết mình chống lại Liên bang nếu những người lính da đen được gửi đến chống lại họ. Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa bãi nô và những người Cộng hòa cấp tiến hơn đã sớm gây đủ áp lực lên Bộ Chiến tranh và việc tuyển dụng những người lính da đen bắt đầu.
Trung đoàn da đen nổi tiếng nhất là trung đoàn 54 Massachusetts, do một người da trắng, con trai của một gia đình bãi nô nổi tiếng, Đại tá Robert Gould Shaw chỉ huy. Vào tháng 7 năm 1864, trung đoàn 54 đã tấn công Fort Wagner, một pháo đài của Liên minh miền Nam bảo vệ lối vào Cảng Charleston. Trong cuộc tấn công trực diện này, Shaw đã tử thương, và trung đoàn 54 mất gần một nửa quân số. Nhưng đơn vị đã cố gắng giữ pháo đài trong một giờ trước khi rút lui trước một cuộc phản công.
Các tờ báo miền Bắc so sánh trận chiến này với Bunker Hill về tầm quan trọng của nó đối với phong trào bãi nô, nhưng phe Liên minh miền Nam không hề lay chuyển. Họ từ chối trả lại thi thể của Shaw cho gia đình ông, nói rằng “chúng tôi đã chôn ông ấy cùng với những tên da đen của ông ta”. Trong chiến tranh binh lính Liên minh miền Nam nhiều lần dùng lưỡi lê đâm những lính da đen của Liên bang khi họ đã ra đầu hàng. Nhưng đến cuối chiến tranh, 130.000 bộ binh và thủy thủ da đen đã chiến đấu cho Liên bang, những người mà theo như Lincoln nói, đã “đặt cược mạng sống” của mình cho đất nước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét