Nhìn trên bản đồ, hình thể huyện Thạch Thành (cũ) gọn gàng như một đoạn tường thành chữ nhật trải dài bên sườn tây nam của dãy núi Tam Điệp, ngăn cách Thanh Hóa với tỉnh Ninh Bình. Tuy nhiên cái tên Thạch Thành, theo nghĩa Hán - Việt là “thành đá”, không phải xuất phát từ hình thể của huyện giống bức tường thành. Qua tìm hiểu sử cũ, tên Thạch Thành xuất hiện năm 1460 dưới thời vua Lê Thánh Tông và cũng không có bất cứ mối liên hệ nào giữa tên Thạch Thành với tòa thành đá Tây Đô do Hồ Quý Ly xây dựng năm 1397 ở huyện Vĩnh Lộc, chỉ cách đó hơn 10km.
Trong những năm công tác tại tỉnh nhà, tôi đã có nhiều dịp về Thạch Thành. Tôi nhớ, đâu khoảng năm 1990 trong chuyến đi công tác về Thạch Thành được anh Nguyễn Ngọc Sinh, Bí thư huyện ủy lúc ấy cho thưởng thức món “lạ”. Chả là sau khi làm việc xong, huyện bố trí cơm trưa tại nhà ăn huyện ủy. Trước khi vào mâm, anh Sinh vòng ra sau nhà cầm vào một nắm lá đu đủ non, cười tủm tỉm, ăn hay lắm đấy! Xé từ cuống lá ra một mảnh, cuộn lại cho gọn rồi chấm mắm tôm đưa lên nhai thử. Cảm nhận vị hơi nhần nhận đắng, vị đắng của lá át hẳn vị nồng của mắm tôm nhưng lại rất hợp đưa cay chai cuốc lủi huyện đãi khách. Chỉ đơn giản thế mà vị đắng ấn tượng đến bây giờ, sau 35 năm!
Trong những năm 2008-2010, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa phối hợp với Viện Khảo cổ học tiến hành thám sát, khai quật hang Con Moong và hang Lai phục cho việc lập hồ sơ trình UNESCO công nhận Di sản văn hóa thế giới hang Con Moong (con thú), tôi cũng có dịp về Thạch Thành. So với các huyện miền núi Thanh Hóa, đi Thạch Thành thuận lợi hơn vì địa hình khá bằng phẳng. Địa điểm khai quật nằm trong khu vực quản lý, bảo vệ của vườn quốc gia Cúc Phương. Rừng được giữ, cây lá xanh tươi, các làng bản hiền hòa với ruộng mía, vườn ngô mướt xanh, bình yên dưới các thung lũng núi đá, đẹp đến nao lòng.
Là vùng đất chuyển tiếp từ núi rừng Tây Bắc đất nước xuống trung du và đồng bằng Thanh Hóa, Thạch Thành có 2 loại địa hình đặc trưng. Một là dải núi đá vôi Tam Điệp như xương sống của huyện, kéo dài từ xã Thạch Quảng đầu huyện đến cuối huyện là xã Ngọc Trạo. Dải núi này chiếm tới 60,1% tổng diện tích tự nhiên của huyện. Hai là vùng ven sông Bưởi và vùng đồi thấp, chiếm 39,9% tổng diện tích của huyện.
Lần lại tài liệu cũ về Thạch Thành, sách “Đồng Khánh địa dư chí” có chép: “Huyện Thạch Thành thuộc phủ Quảng Hóa, do phủ kiêm lý. Huyện hạt phía đông giáp huyện Tống Sơn, phía tây giáp huyện Quảng Tế, phía nam giáp huyện Vĩnh Lộc, phía bắc giáp huyện Phụng Hóa phủ Nho Quan tỉnh Ninh Bình. Đông tây cách nhau 40 dặm. Năm bắc cách nhau 64 dặm. Huyện có tổng gồm 59 xã thôn”. Đó là các tổng: Văn Lung 6 xã, Tự Cường 11 xã, trại, Hòa Luật 11 xã, Trạc Nhật 16 xã, Ngọc Động 9 xã,, Bỉnh Bút 9 xã. Về phong tục: “Trong huyện, người Kinh ít, người Thổ (Mường) nhiều. Người Kinh thì tiếng nói, quần áo, đồ dùng, ăn uống đều chất phác, không học đòi thói kiêu hoa xa xỉ. Ngoài việc cày cấy, đốn củi, chỉ còn biết săn bắn mà thôi. Còn người Thổ (Mường) làm nhà thì gác gỗ làm nhà sàn mà ở, viết chữ thì liền câu mà viết ngang. Ăn mặc thì chất phác, công việc thì chỉ có cầy cấy và đốn củi. Việc cưới xin, tang ma, thờ cúng ngày nay cũng dần dần học theo người Kinh, cũng hơi biết lễ độ. Theo Thiên chúa giáo chỉ một xã Pháp Ngữ toàn tòng mà thôi. Sản vật lúa thu nhiều, lúa hè ít. Khoai đậu cũng có. Thổ sản thì có tre, vầu, nứa mà thôi”. (Đồng Khanh địa dư chí, Bản dịch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin, trang 1135, 1136)
Tại sách “Đại Nam nhất thống chí” khi chép về vị trí địa lý Thạch Thành không khác so với thời Đồng Khánh. Tuy nhiên, sách có nói cụ thể hơn về quá trình đặt tên gọi cho huyện: “Đời Quang Thuận triều Lê mới đặt tên huyện này, thuộc vào phủ Thiệu Thiên, do viên Thổ tù (khuyết họ) quản trị. Triều Nguyễn vẫn để theo cũ. Năm Minh Mạng 16, đổi sang thuộc quyền thống hạt phủ này, và bắt đầu bổ quan cai trị. Năm Tự Đức thứ 3 đổi làm kiêm lý của phủ. Năm đầu Thành Thái lại đặt ra tri huyện, kiêm nghiếp huyện Quảng Tế , thuộc vào phủ bây giờ. Hiện lãnh 6 tổng, 55 xã thôn trang trại. Nơi đây núi rừng tri trít, khe suối dọc ngang, đường lối hiểm hóc, lam chướng nặng nề. Lâm phận nhiều mà bình nguyên ít, cư dân phần nhiều lập trại dưới chân núi, bắc sàn để ở. Xã lớn 20, 30 nóc nhà, xã nhỏ chỉ độ mươi nhà”. (Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa - tập thượng, Văn hóa tùng thư, NXB NVH, Bộ QGGD XB, 1960, tr16)
Sách “Địa chí Thanh Hóa, tập I, phần Địa Lý và Lịch sử” chép về quá trình hình thành và tên gọi huyện Thạch Thành: “Thời thuộc Hán là miền đất thuộc huyện Dư Phát. Thời Tam Quốc, Lưỡng Tấn, Nam – Bắc triều là miền đất thuộc huyện Phù Lạc và huyện Kiến Sơ. Thời thuộc Tùy Đường là miền đất thuộc huyện Nhật Nam. Thời Đinh - Lê – Lý vẫn theo như thời thuộc Tùy Đường. Thời Trần – Hồ, miền đất này nằm gọn trong hai huyện Tế Giang và Yên Lạc. Huyện Thạch Thành ngày nay vốn ghép hai huyện Tế Giang và Yên Lạc thời Trần Hồ mà thành. Quá trình ghép huyện ấy diễn ra như sau:
1, Huyện Yên Lạc thời Lê Quang Thuận (1460) đặt làm huyện Thạch Thành, cho lệ vào phủ Thiệu Thiên (nay là phần đất thuộc đông nam huyện Thạch Thành bây giờ).
2, Huyện Tế Giang thuộc lưu vực sông Bưởi (còn gọi là sông Bảo, cũng tức là Tế Giang). Đời Lê Quang Thuận đổi tên huyện Tế Giang là huyện Bình Giang, đời Trung Hưng đổi là huyện Quảng Bình, Tây Sơn đổi là huyện Quảng Bằng, đầu thời Nguyễn lại đổi là huyện Quảng Bình, Minh Mệnh thứ 2 (1821) đổi tên là huyện Quảng Địa, sau lại đổi là huyện Quảng Tế.
Năm Thành Thái thứ 1 (1889) cho huyện Quảng Tế lệ vào huyện Thạch Thành, tên Quảng Tế mất và hình thành huyện Thạch Thành ngày nay.
Năm 1977, ghép hai huyện Thạch Thành và Vĩnh Lộc thành huyện Vĩnh Thạch, năm 1982 tách hai huyện như cũ và lấy lại tên cũ là huyện Thạch Thành”. (Địa chí Thanh Hóa, tập I, Lịch Sử và Địa lý, NXB VHTT, 2000, tr422, 423)
Tuy là huyện miền núi, dựa lưng vào dãy núi đá vôi Tam Điệp, lại có một phần diện tích rừng Cúc Phương nằm trên địa bàn nhưng Thạch Thành có địa hình khá bằng phẳng, ít núi cao, dù “Đại Nam nhất thống chí” nhận định: “núi rừng tri trít… lâm phận nhiều mà bình nguyên ít”. Có lẽ thời Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn bộ Đại Nam nhất thống chí ( từ năm Tự Đức thứ 18 (1865) đến năm Tự Đức thứ 35 (1882) nhận định như thế bởi thời ấy Thạch Thành đang hoang sơ, nhiều vùng đất chưa được khai phá.
Trong “Đại Nam nhất thống chí” chỉ ghi nhận Thạch Thành có hai ngọn núi cao trong phần viết về sơn xuyên tỉnh Thanh Hóa, đó là núi An Lão và núi Cốc Sơn.
“Núi An Lão ở xã phố Cát, phía đông bắc huyện Thạch Thành, tiếp liền với địa giới huyện Phụng Hóa, tỉnh Ninh Bình. Dưới núi có con đường chia 3 ngã, phía tây nam thông sang châu Lang Chánh, phía đông xuống huyện Tống Sơn, phía bắc thông ra tỉnh Ninh Bình, là một nơi hiểm yếu trên miền thượng du, trước đây vẫn có đồn đóng ở đấy”. (Đại Nam nhất thống chí, tr 64)
“Cốc Sơn (núi hang) ở xã Phú Ổ, phía bắc huyện Quảng Tế (Thạch Đồng hiện nay – NV). Thế núi bắt đầu từ huyện Yên Lạc, cao mấy trăm trượng, dưới có khe chẩy, giồn lại thành một cái hồ sen. Đỉnh núi có ngôi chùa, chùa có cửa đá, phải nghiêng mình mới có thể vào được. Trước chùa có hai viên đá thiên nhiên, một tựa hình con voi, một tựa hình con ngựa. Lên cao ngắm trông bốn mặt, thấy rõ các núi đối trĩ với nhau, cảnh trí rất là đẹp mắt” (Đại Nam nhất thống chí, tr 64).
Về hệ thống sông suối, Thạch Thành chỉ có sông Bưởi là đáng kể. Sông Bưởi, (còn gọi là Tế Giang, sông Báo, sông Bái, sông Định, sông Sỏi) là con sông lớn nhất của huyện, bắt nguồn từ Tân Lạc, Hòa Bình đổ vào Thạch Thành tại xã Thạch Quảng và chảy dọc huyện rồi nhập vào sông Mã ở xã Vĩnh Lộc. Sông Bưởi dài 130km, đoạn chảy qua Thạch Thành dài 64km, chia huyện thành 2 phía tả - hữu sông. Sông Bưởi có đặc điểm là lòng sông hẹp, cắt sâu, chảy quanh co, uốn khúc gấp, đầu nguồn nước chảy nhanh, cuối nguồn tiêu nước chậm nên thường xuyên gây nên tình trạng úng ngập, đe dọa lũ tràn vỡ đê mỗi mùa mưa lũ.
Thạch Thành là huyện cửa ngõ nối vùng Bắc Bộ và Trung bộ của tỉnh Thanh Hóa nên giao thông thuận lợi. Huyện có quốc lộ 45 và đường Hồ Chí Minh chạy qua. Mặc dù là huyện miền núi nhưng tất cả các xã đều có thể đi ô tô đến trung tâm xã.
Dân cư Thạch Thành gồm người Mường và người Kinh, trong đó người Mường chiếm khoảng 48% dân số của huyện. Theo nhiều tư liệu để lại, Thạch Thành là một trong những vùng đất gốc của người Mường trong, nơi phát tích của sử thi Đẻ đất đẻ nước, quê hương của truyền thuyết Nàng Nga – Đạo Hai Mối, Út Lót - Hồ Liêu nổi tiếng của dận tộc Mường. Thạch Thành có những Mường nổi tiếng như mường Đòn, mường Đẹ, mường Vồn. Mường Đòn có lễ hội mường Đòn được tổ chức vào ngày 18 tháng giêng âm lịch. Ngoài phần tế lễ tại lễ hội có nhiều hoạt động giao thoa văn hóa Việt – Mường như cồng chiêng, đánh mảng, thi hát Mường, ném còn, diễn tuồng, hát bội, văn hóa ẩm thực… Hiện nay ở mường Đủ (xã Thạch Bình) có đền thờ Nàng Nga và dòng họ Lưu xưng là con cháu của Cun Đủ - Già (bố nàng Nga), thờ ông làm ông tổ dòng họ.
Cũng như người Mường ở các huyện miền núi Thanh Hóa, người Mường Thạch Thành có đời sống văn hóa tinh thần phong phú. Các loại hình văn học dân gian như truyện kể, tục ngữ, ca dao, dân ca được lưu giữ là niềm tự hào của dân tộc Mường. Câu tục ngữ: “Dưới chợ Truyện Kiều, Phương Hoa/ Trên mường Nàng Nga – Hai Mối” đã chứng tỏ trong tiềm thức dân gian người Mường truyện này quan trọng nhường nào. Ngày nay, nhiều vùng mường Thanh Hóa, trong đó có Thạch Thành vẫn còn những người hát rang về Nàng Nga – Đạo Hai Mối vào những dịp đám cưới, mừng nhà mới, mừng cháu mới…
Trong văn hóa dân gian, người Mường Thạch Thành có cả một kho tàng tục ngữ, trong đó có tục ngữ về văn hóa ứng xử. Có thể kể đến các câu tục ngữ được nhiều người biết đến như: “Của mình làm ra như nước vó nguồn/ Của bố mẹ để lại mòn dần như hoa chuối rừng xanh”, “Đào giếng mà uống, vỡ ruộng mà ăn”, “Của mình làm ra ăn no, của người cho ăn nếm”, “Thấy khốn khó đừng vội núng nao/ Đời còn có lúc ngồi giường cao, chiếu rộng”, “Chín chìm, chín nổi, chín lênh đênh/ Mười hai gập ghềnh mới nên thân người”, “ Làm người thì khó, làm chó thì dễ”, “Giàu không bỏ họ, khó không bỏ bản mường”, “Nói cây lau đau cây sậy”, “Ăn khi đói, nói khi tỉnh”, “Ăn đi nên bả nên hèm/ Đem biếu láng giềng thành chỗ anh em”, “Đói không ăn lúa giống/ Rét không đun bã sàn”, “Mất bố mất trại cơm, mất mẹ mất áo thơm”, “Vợ già lắm vốn, chồng già tốn cơm”, Chúa khách ngồi bên ngoài/ Chúa nhà ngồi bên trong”, “Nợ vịt chưa qua, nợ gà đã tới”, “Cơm chồng thì ngon, cơm con chan nước mắt”, “Củi mục cháy nhà/ Người già lắm lời”…Vùng đất Thạch Thành còn có những đặc sản nổi tiếng như mía Kim Tân, vịt Trạc Nhật.
Thạch Thảnh là vùng đất không nhiều di tích lịch sử văn hóa nhưng lại có những di tích nổi tiếng, có giá trị đặc biệt. Đó là di tích tâm linh đền phố Cát, di tích khảo cổ hang Con Moong và di tích cách mạng chiến khu Ngọc Trạo.
Đền Phố Cát “thắng địa đệ nhất”, nơi hiển thánh của Thượng Thiên Thánh Mẫu Liễu Hạnh, vị thần chủ trong tín ngưỡng thờ Đạo Mẫu của người Việt Nam. Di tích Phố Cát nằm trên địa bàn xã Vân Du. Đại Nam nhất thống chí (tập II, NXB KHXH, Hà Nội – 1990) có ghi “Lũy phố Cát: ở bên núi An Lão…tương truyền nhà Lê đặt trạm ở đây, gọi là trạm Cát” như vậy tên Cát có từ thời nhà Lê, đến thời Nguyễn do đặt đồn, trạm ở đây nên gọi là phố Cát. Vì vậy, đền thờ Mẫu gọi là đền Phố Cát. Mẫu Liễu Hạnh là một trong tứ bất tử (cùng với Thánh Gióng, Chử Đồng Tử và Tản Viên Sơn Thánh) của tín ngưỡng dân gian người Việt. Câu “Tháng 8 giỗ Cha, tháng 3 giỗ Mẹ” đã đi vào tâm thức người dân, thể hiện Mẫu Liễu Hạnh được sùng tín hàng đầu, là “Mẫu nghi thiên hạ” trong đời sống tâm linh của người Việt. Tại vùng núi An Lão, nơi có phố Cát nằm trên đường thượng đạo Bắc - Nam, chính là nơi hiển thánh của Liễu Hạnh. Trong tín ngưỡng Đạo Tam Phủ của người Việt, Thánh Mẫu Liễu Hạnh là vị thần trung tâm và là linh hồn của tín ngưỡng thờ Mẫu. Trong ba di tích gốc thờ Mẫu có Phủ Dày nơi mẫu giáng sinh lần thứ nhất, Phố Cát nơi mẫu giáng sinh lần thứ hai và Sòng Sơn, nơi hiển thánh. Đền Phố Cát nằm ở lưng chừng ngọn núi Dết, hai bên tả hữu có hai gò đất tạo thế tay ngai, phía trước có 3 ngọn núi đá Tam Thai làm bình phong. Nơi đây có dòng suối nhỏ chảy quanh co, len lỏi qua các hòn đá non bộ, đến trước cửa đền tạo thành hồ nước, dưới hồ có rất nhiều “cá thần” bơi lội tung tăng. Tại đây, Tổng đốc Thanh hóa thời Bảo Đại đã cho xây dựng tháp Vọng Ngư hình lục lăng để nhà vua mỗi khi Bắc tuần qua đây chiêm bái Mẫu và ngắm cá. Tại đền Phố Cát còn tương truyền trong dân gian bài thơ ca ngợi cảnh đẹp nơi đây:
"Khách thập phương tới đền Phố Cát
Ngắm non sông bát ngát một vùng
Chín tầng thác dội lòng trong
Cây đa trước miếu, cá vùng kín khe
Nhìn non nước bốn bề như vẽ
Đều khen rằng cảnh Mẹ xinh thay”…
Đền Phố Cát có các công trình kiến trúc như cung đệ nhất, cung đệ nhị, cung đệ tam, sân rồng, nghinh môn, tháp vọng ngư, cầu bắc qua suối đến đền quan Giám sát và đền Bùi (thờ Mẫu Thoải), nhà khách, nhà tiếp lễ. Năm 1953, Pháp bỏ bom nên đã phá hủy hầu hết các công trình kiến trúc. Hiện nay, di tích đang được đầu tư xây dựng lại cung đệ nhất, tam quan, tháp vọng ngư, cầu đá bắc qua suối.
Hang Con Moong (con thú) ở bản Mọ, xã Thành Vinh, thuộc địa phận vườn quốc gia Cúc Phương. Tháng 1/1975, Viện Khảo cổ học tiến hành thăm dò xác minh di tích đã phát hiện các công cụ mài lưỡi, ghè đẽo và kết luận di tích thuộc văn hóa Hòa Bình. Tháng 4/1975 Viện khảo cổ học tiến hành khai quật di chỉ với diện tích 40m2, tầng văn hóa dày khoảng 3,50m đã cho kết quả 3 tầng văn hóa. Tầng văn hóa I nằm trên sinh thổ và dưới lớp đất đỏ nâu, ở độ sâu 2,8m trở xuống. Cấu tạo lớp văn hóa I bằng đất xen vỏ ốc, các công cụ chặt hình rìu, công cụ cuội ghè đẽo và nhiều mảnh tước công cụ. Tầng văn hóa II ở độ sâu 1,2 – 2,8m nằm dưới lớp đất nâu. Cấu tạo tầng văn hóa II chủ yếu là ốc, xen kẽ vệt than trắng, tìm thấy công cụ chặt hình hạnh nhân, rìu ngắn, công cụ kiểu ở tầng văn hóa I cùng với mảnh tước. Tầng văn hóa III gồm các lớp đất dày 0,8 – 1,2m ở độ sâu 0,25 – 1,25m. Lớp này có đất nâu lẫn ốc, vỏ nhuyễn thể, dấu vết bếp lửa, xương thú, 3 mộ táng nguyên thủy, tìm thấy rìu mài lưỡi, mảnh gốm thô sơ, và một số công cụ kiểu Hòa Bình. Như vậy, di chỉ hang con Moong có 3 tầng văn hóa, có cấu tạo và đặc điểm di vật khác nhau. Căn cứ vào địa tầng, đặc trưng kỹ thuật loại hình công cụ, các nhà khảo cổ học đã kết luận cư dân cổ định cư ở con Moong liên tục 10.000 năm, trong đó nhóm cư dân Sơn Vi tồn tại 6.500 năm (từ 17.000 - 10.5000 năm), nhóm Hòa Bình điển hình tồn tại 2.000 năm (từ 10.500 - 8.500 năm) và nhóm Hòa Bình phát triển kéo đến Bắc Sơn tồn tại 1.500 năm (từ 8.500 – 7.000 năm). Qua kết quả khai quật, niên đại của di chỉ hang con Moong kéo dài từ hậu kỳ đá cũ đến sơ kỳ đá mới. Như vậy, hiếm có di chỉ khảo cổ nào, nếu không nói là độc nhất vô nhị, thời gian cư trú của cư dân nguyên thủy kéo dài liên tục qua ba nền văn hóa: Sơn Vi, Hòa Bình và Bắc Sơn. Đây cũng là cơ sở khẳng định giá trị nổi bật mang tính toàn cầu để Việt Nam lập hồ sơ đệ trình UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới đối với hang Con Moong.
Bản Ngọc Trạo, tổng Trạc Nhật xưa (nay là xã Ngọc Trạo) là vùng đất đồi núi chuyển tiếp giữa vùng rừng núi của Thạch Thành với vùng đồng bằng thuộc huyện Hà Trung, lại thuận lợi đi sang huyện Vĩnh Lộc và theo đường tắt qua Phố Cát sang Ninh Bình. Năm 1941, Tỉnh ủy Thanh Hóa lựa chọn nơi đây để thành lập chiến khu cách mạng hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn. Ban lãnh đạo chiến khu được thành lập do ông Đặng Châu Tuệ phụ trách, xây dựng lực lượng vũ trang kết hợp với xây dựng lực lượng chính trị, vận động nhân dân che chở, cung cấp lương thực. Tháng 9/1941 tại hang Treo dội du kích Ngọc Trạo được thành lập có 24 đội viên, do ông Đặng Châu tuệ làm đội trưởng. Ngày 19/10/1941 thực dân Pháp chia làm 3 cánh quân tấn công chiến khu Ngọc Trạo, lực lượng du kích chiến khu đã giao chiến với quân Pháp. Một số đội viên du kích đã hy sinh anh dũng trong chiến đấu. Do chênh lệch lực lượng, Ban lãnh đạo chiến khu đã quyết định rút lui khỏi chiến khu, phân tán lực lượng về các vùng trong tỉnh, xây dựng lực lượng chờ thời. Ngày nay, tại Ngọc Trạo, chiến khu xưa đã được công nhận là di tích cách mạng kháng chiến cấp quốc gia. Các công trình như tượng đài du kích Ngọc Trạo, bảo tàng Ngọc Trạo, khu mộ 3 liệt sĩ, đền thờ Tống Duy Tân, hang Treo, đồi Ma Mầu.. đang là chứng tích cho sự ra đời của chiến khu và lực lượng vũ trang đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa.
Thực hiện chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy, chính quyền địa phương hai cấp, huyện Thành Thành được sắp xếp từ 24 xã, thị trấn thành 6 xã. Đó là các xã: Kim Tân, Vân Du, Ngọc Trạo, Thạch Bình, Thành Vinh, Thạch Quảng. Phương châm sắp xếp là lấy tên một xã đại diện trong các xã hợp nhất để đặt tên xã. Như vậy, các địa danh quen thuộc và nổi tiếng của Thạch Thành cũ như Kim Tân, Ngọc Trạo, Vân Du đều được chuyển tiếp trong thời kỳ mới. Chỉ tiếc một điều, cái tên Thạch Thành hay thế, đã tồn tại từ thời vua Lê Thánh Tông, cách đây gần 600 năm đã không được chọn để định danh cho xã nào.
Viết về Thạch Thành làm tôi nhớ lại, năm 2007 Sở VHTTDL Thanh Hóa được giao thực hiện đề tài khoa học cấp tỉnh “Sưu tầm, nghiên cứu đề xuất các giải pháp bảo tồn, khôi phục và phát huy văn hóa phi vật thể người Mường Thanh Hóa”. Ban chủ nhiệm đề tài đã về các làng bản Mường điền dã, khảo sát và sưu tầm văn hóa phi vật thể của người Mường, trong đó có Thạch Thành. Kết thúc đề tài, căn cứ vào kết quả sưu tầm đã xuất bản cuốn “Truyền thuyết dựng bản, lập mường Thanh Hóa” để lưu lại những viên ngọc quý của xứ Mường trong. Trong cuốn sách này, những tên làng bản, ca dao tục ngữ, dân ca, xường của người Mường Thạch Thành có vị trí quan trọng. Dẫu không còn huyện nhưng Thạch Thành cùng với các địa phương có người Mường sinh sống, những bản Mường tươi đẹp, văn học dân gian Mường phong phú, người Mường mến khách nồng hậu sẽ mãi mãi là mảng mầu tươi sáng trong bức tranh đa sắc màu của tỉnh Thanh trong kỷ nguyên mới.
Ảnh: Toàn cảnh khu vực hang Con Moong
Lòng hang Con Moong.
Bài của Ngo Hoai Chung
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét