Núi Nhồi
Đông Sơn không chỉ là danh xưng nhằm định vị một đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Thanh Hóa, mà còn là một thuật ngữ khảo cổ học quốc tế – để định danh một nền văn hóa lớn của nhân loại: Văn hóa Đông Sơn.
Tuy nhiên, tên huyện Đông Sơn không phải là địa danh được dùng để đặt tên cho nền văn hóa ấy, mà Đông Sơn là tên ngôi làng cổ nhỏ bên bờ sông Mã, nơi phát hiện đầu tiên các hiện vật bằng đồng năm 1924. Từ phát hiện tình cờ của một người dân trong làng, các nhà khảo cổ Pháp đã khai quật di chỉ, xác lập thuật ngữ “Văn hóa Đông Sơn” để chỉ cả một nền văn minh đồng thau rực rỡ.
Theo nghĩa Hán Việt, Đông Sơn là “núi ở phía đông”. Với đặc điểm địa hình khác thường — núi nằm phía đông huyện (trong khi phần lớn các vùng núi nước ta đều ở phía tây) — tên gọi này có lẽ được đặt từ thời nhà Trần, khi huyện Đông Sơn thuộc trấn Thanh Đô (tên xưa của Thanh Hóa).
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ BIẾN ĐỔI HÀNH CHÍNH
Huyện Đông Sơn được đặt tên từ thời Trần. Trải qua hơn 700 năm tồn tại, địa giới hành chính nhiều lần thay đổi:
• Năm 1804, vua Gia Long cắt các làng Thọ Hạc, Phủ Cốc, Mật Sơn thuộc Đông Sơn để lập trấn lỵ Thanh Hóa.
• Năm 1963, tách xã Đông Giang (làng Đông Sơn, Nam Ngạn) nhập về Thị xã Thanh Hóa.
• Năm 1971, tách các xã Đông Hải, Đông Hương, Đông Vệ nhập vào Thị xã Thanh Hóa.
• Năm 1977, tiếp tục tách một số làng thuộc Đông Vinh, Đông Tân nhập thị xã. Đồng thời, lấy 16 xã hữu ngạn sông Chu của huyện Thiệu Hóa lập huyện Đông Thiệu.
• Năm 1982, đổi lại tên cũ huyện Đông Sơn.
• Năm 1995, tách xã Đông Cương nhập Thành phố Thanh Hóa.
• Năm 2012, Nghị quyết 05/NQ-CP điều chỉnh toàn bộ các xã Đông Lĩnh, Đông Tân, Đông Hưng, Đông Vinh và Thị trấn Nhồi về Thành phố Thanh Hóa.
• Ngày 1/1/2025, theo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, huyện Đông Sơn được nhập toàn bộ vào Thành phố Thanh Hóa.
• Ngày 1/7/2025, khi cấp huyện bị giải thể, danh xưng huyện Đông Sơn chính thức chấm dứt, sau gần bảy thế kỷ tồn tại.
Do đó, việc ghi chép dưới đây lấy mốc trước năm 2000 để phản ánh diện mạo địa phương trong thời kỳ còn tồn tại độc lập.
III. GHI CHÉP TRONG CỔ TỊCH
1. Theo sách “Đồng Khánh địa dư chí”
“Đông Sơn là huyện thống hạt của phủ Thiệu Hóa, là vùng phụ quách của thành tỉnh. Huyện lỵ đóng ở xã Thọ Hạc, tổng Thọ Hạc.
Lũy đá chu vi 49 trượng 2 thước, cao 5 thước, rộng 3 thước; mở một cửa trước.
Huyện hạt phía đông giáp Hoằng Hóa, Quảng Xương; phía tây giáp Lôi Dương, Nông Cống; phía nam giáp Nông Cống, Ngọc Sơn, Quảng Xương; phía bắc giáp Mỹ Hóa, Thụy Nguyên.
Huyện có 9 tổng, 147 xã thôn, sở, phường, giáp, vạn.”
Các tổng: Thọ Hạc, Bố Đức, Đại Bối, Vận Quy, Thạch Khê, Thanh Khê, Tuân Hóa, Quang Chiếu, Quảng Chiếu.
Về phong tục:
“Người đi học và người cày ruộng nhiều. Thợ và buôn ít hơn. Đất học nổi tiếng các tổng Đại Bối, Vận Quy, Thanh Khê, Tuân Hóa, Quang Chiếu, Quảng Chiếu.
An Hoạch chuyên nghề đẽo đá, Trà Đông chuyên nghề đúc đồng.
Cưới xin, ma chay, thờ cúng giản dị, văn chỉ – văn miếu – chùa Phật nơi nào cũng có.”
Về sản vật:
“Lúa thu nhiều, lúa hè ít. Dâu tằm, khoai đậu vị ngon. Tổng An Hoạch có đá xanh, Dương Xá có cam sành.”
2. Theo “Đại Nam nhất thống chí”
“Đời Hán gọi huyện Vô Biên; thời Vương Mãng gọi Cửu Chân dinh; đời Tùy Đường là huyện Cửu Chân.
Đời Trần mới đặt tên huyện Đông Sơn.
Hồi Minh thuộc, lệ vào phủ Thanh Hóa.
Đến Quang Thuận triều Lê đổi sang phủ Thiệu Hóa.
Năm Minh Mạng 19 chia 9 tổng, Thành Thái 12 đổi còn 7 tổng, 113 xã thôn.”
3. Theo “Địa chí Thanh Hóa” (NXB KHXH)
“Thời Hán – Tấn thuộc Tư Phố và Cư Phong.
Thời Tùy – Đường thuộc huyện Cửu Chân, sau đổi là Đông Dương, tức Đông Cương – Đông Sơn.
Thời Trần đặt tên huyện Đông Sơn thuộc trấn Thanh Đô.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tên huyện vẫn giữ nguyên.”
IV. ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
Huyện Đông Sơn nằm trong vùng đồng bằng sông Mã – sông Chu, có nhiều ngọn núi đá vôi ở phía đông, tạo nên cảnh quan độc đáo.
1. Núi Nhồi (An Hoạch Sơn)
Còn gọi là Khế Sơn, Nhuệ Sơn, nổi tiếng với đá trắng mượt, “tiếng kêu mà trong”, dùng làm bia, khánh, tượng, vật liệu cung đình.
“Đời Tấn, quan Thái thú Dự Châu sai người lấy đá ở đây về làm khánh” — Quảng Dư chí.
Đá Nhồi từng dùng dựng bia Khiêm Lăng (Huế), Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Tượng đài Lê Lợi (2002).
Trong dãy có núi La Hán, động Tiên Sơn tự, núi Hinh – nơi có cột đá Vọng Phu huyền thoại, được Nguyễn Du đề thơ:
“Đá chăng? Người đó? Chi đây?
Một mình trên ngọn núi này ngàn năm…”
2. Núi Chiểu (Bạch Thạch Sơn)
Thuộc xã Đông Tiến, chất đá trắng cứng, có đền Thiều Công linh ứng, gắn với truyền thuyết Đăng Quận công bị thần núi ngăn đục đá.
V. DI TÍCH LỊCH SỬ – VĂN HÓA
Trên đất Đông Sơn có nhiều di tích gắn với tiến trình lịch sử dân tộc:
• Đông Phố (xã Đông Hòa): Trị sở quận Cửu Chân xưa, nơi phát hiện trống đồng và đồ gốm thời Hán.
• Trường Xuân (xã Đông Ninh): Nơi Lê Ngọc dựng kinh đô Trường Xuân, có bia “Đại Tùy Bảo an đạo trường chi bi văn” (năm 618).
• Thiều Thốn từ (xã Đông Tiến): Thờ danh tướng Thiều Thốn, khai quốc công thần triều Trần.
• Đền và lăng Phúc Khê tướng công Nguyễn Văn Nghi (xã Đông Thanh) – Di tích cấp Quốc gia, kiến trúc đá kỳ vĩ, phản ánh thời Lê – Trịnh.
Câu ca dân gian ghi lại công việc nặng nhọc khi xây lăng:
“Làng Vạc ăn cỗ ông nghè,
Làng Vận, làng Chè kéo đá ông Đăng…”
VI. NHÂN VẬT LỊCH SỬ – KHOA BẢNG
Đông Sơn là đất văn hiến, hiếu học, sinh ra nhiều danh nhân:
• Nguyễn Văn Nghi – Bảng nhãn, Thượng thư Bộ Lại, Thầy của hai vua Lê Anh Tông và Lê Thế Tông.
• Thiều Thốn – Thượng tướng quân, công thần triều Trần.
• Nguyễn Chích – Khai quốc công thần Lam Sơn.
• Nguyễn Mộng Tuân, Lê Hy, Lê Khả Trù, Thiều Sĩ Lâm, Lê Thế Thứ… – các danh nho, sử gia, đại khoa nổi tiếng.
Dân gian có câu:
“Thi Hoằng Hóa, khóa Đông Sơn”,
“Đông Sơn tứ Bôn, Hoằng Hóa lưỡng Bột”.
Làng khoa bảng Cổ Bôn
Cổ Bôn (Tứ xã Bôn: Phúc Triền, Kim Bôi, Ngọc Tích, Quỳnh Bôi) là vùng đất hiếu học bậc nhất xứ Thanh.
Bia Văn chỉ huyện Đông Sơn (1904) ghi 47 vị đỗ đại khoa từ Trần đến Nguyễn.
Phong tục Triều quan, Khảo học trò, lễ tôn vinh hiền tài được duy trì qua nhiều thế kỷ.
VII. ĐÔNG SƠN TRONG THỜI HIỆN ĐẠI
Đông Sơn là vùng đất cách mạng:
• Ngày 25/6/1930, tại làng Hàm Hạ, chi bộ Đảng đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa được thành lập.
• Là quê hương Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, người con ưu tú của đất nước.
VIII. KẾT LUẬN
Là một vùng đất cổ nằm trong lưu vực sông Mã – sông Chu, Đông Sơn mang trong mình dấu ấn của một nền văn minh rực rỡ, một truyền thống hiếu học bền lâu, và một tinh thần kiên cường cách mạng.
Dù tên gọi “huyện Đông Sơn” đã đi vào dĩ vãng hành chính, nhưng văn hóa Đông Sơn vẫn là di sản bất tử của dân tộc Việt Nam, góp phần làm rạng danh xứ Thanh trên bản đồ văn hóa nhân loại.
IX. TÀI LIỆU THAM KHẢO (trích dẫn trong văn bản)
• Đại Nam nhất thống chí ;
• Đồng Khánh dư địa chí;
• Thanh Hóa tỉnh chí;
• Tập thơ, văn bia, thơ ngự chế các triều đại (trích dẫn ghi trong phần mô tả danh thắng).
* Facebook Ngo Hoai Chung “Các huyện tỉnh Thanh Hoá trước ngày giải thể huyện 01/7/2025”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét