Viết trước ngày giải thể cấp huyện 01/7/2025
ĐẤT QUẾ CHÂU THƯỜNG
Ngo Hoai Chung
Hôm nay là ngày 13 tháng 10 năm 2025, tức là ngày 22 tháng 8 Ất Tỵ, ngày mất của Đức Thái Tổ Cao Hoàng Đế, Anh hùng giải phóng dân tộc Lê Lợi, bắt tay viết những dòng đầu tiên về Thường Xuân, vùng đất gắn liền với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn cách đây hơn 600 năm.
Cùng với đất phát tích Lam Sơn, miền tây Thanh Hóa đậm đặc dấu tích, truyền thuyết gắn liền với cuộc khởi nghĩa. Thường Xuân là địa bàn hoạt động chính trong buổi đầu “nằm gai nếm mật”, xây dựng lực lượng của Lê Lợi và nghĩa quân. Đó là những địa danh: Pù Rinh (núi Chí Linh), Lũng Nhai, nơi tổ chức hội thề; hòn đá ngồi ở Cửa Đặt, có dấu lõm xuống, được cho là dấu tích Lê Lợi ngồi bàn kế sách đánh giặc Minh; hòn đá mài mực ở giữa dòng sông Chu được cho là Lê Lợi, Nguyễn Trãi ngồi ở đây viết thư thảo hịch; hòn đá khao ở xã Xuân Khao (giải thể năm 2008 để xây dựng hồ chứa nước cửa Đạt) gắn với truyền thuyết Lê Lợi đổ rượu để “hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” khao quân sĩ; đồng Chó, làng Mạ nơi Lê Lợi chạy qua đây trốn giặc nên được đặt tên. Tại Thường Xuân còn có đền thờ Lê Lợi ở xã Vạn Xuân, đền thờ Dung Thụ Đại Vương thờ cây đa ở xã Thường Xuân, tương truyền là nơi Lê Lợi ẩn náu khi bị giặc Minh truy đuổi…. Những tên người như Phạm Yến, Phạm Thái, Lê Cố, Quế Nga, Phạm Nột được ghi vào trang sử cuộc khởi nghĩa xuất phát từ Thường Xuân.
Thường Xuân nằm về phía tây nam tỉnh Thanh Hóa, có quốc giới với Lào, tỉnh giới với Nghệ An, huyện giới với Ngọc Lặc, Lang Chánh, Thọ Xuân, Như Xuân, Như Thanh và Triệu Sơn (các huyện cũ), có quốc lộ 47 chạy qua xuyên sốt theo chiều đông tây, kết nối với nước bạn Lào qua cửa khẩu Bát Mọt.
Từ xa xưa, Thường Xuân đã là vùng đất cư trú của dân tộc Thái, Mường và Kinh, trong đó dân tộc Thái chiếm khoảng trên 50%, dân tộc Mường 5%, còn là người Kinh. Núi đồi chiếm tới 90% diện tích đất đai của huyện, chung ngọn Pù Rinh (Chí Linh) với Lang Chánh, có ngọn núi cao như Pù Gió, Pù Ta Leo… Năm 1924, nhà khảo cổ học người Pháp M. Colani đã tìm thấy tại Bát Mọt địa điểm cư trú và dấu vết của người nguyên thủy.
Vào đầu thời Nguyễn, Thường Xuân là đất mường Chiềng Ván (mường Trịnh Vạn), đơn vị hành chính gọi là động, thuộc huyện Thọ Xuân miền núi (khác với huyện Thọ Xuân hiện nay). Năm Minh Mạng thứ 18 (1837) Kinh lược sứ Thanh Hoá Trương Đăng Quế trong lời tấu vua đã nêu: “Trong châu Lang Chánh, các xứ Trịnh Vạn, Mậu Lộc, Quân Thiên, Lâm Lư (ở phía tả sông Lương) dân cư giữa núi, mỗi đám một hai nhà, chẳng thành làng xóm, mà rừng rú núi khe đi lại là gian hiểm và xa cách châu lỵ, thiệt khó xem xét”.(Trích lời tâu của Trương Đăng Quế trong Quốc triều chính biên toát yếu – bản kỷ quyển III. Bản sách điện tử PDF. Viện Hán Nôm, tr11).
Sách “Đồng Khánh dư địa chí” chép về Thường Xuân: “Châu Thường Xuân thuộc phủ Thọ Xuân, do phủ kiêm nhiếp. Châu hạt phía đông giáp huyện Lôi Dương, phía tây giáp huyện Quế Phong tỉnh Nghệ An, phía nam giáp huyện Nông Cống, phía bắc giáp châu Lang Chánh. Đông tây cách nhau 74 dặm. Nam bắc cách nhau 63 dặm. Châu có 4 tổng, gồm 26 xã”. Đó là các tổng: Quân Nhân 7 xã, Trịnh Vạn 4 xã, Luận Khê 7 xã và Như Lăng 8 xã.
Về phong tục châu Thường Xuân “Đồng Khánh địa dư chí” ghi: “Trong hạt đều là dân Thổ (người Thái - NV). Xưa gọi ái lạo là thổ ty, thổ mục, lang đạo, đời đời được cha truyền con nối làm chức đó. Tiếng Thổ gọi cha là bố, gọi mẹ là mạ, gọi anh là ái, gọi em là nùng, đàn ông là chi, đàn bà là hạo. Con trai là lục chi, con gái là lục hạo. Chữ Thổ viết thằng hàng mà nét ngang, ngoằn ngoèo như sâu bò, chữ nào cũng na ná giống nhau, chỉ thêm một hai nét chấm cho hơi khác để phân biệt. Họ không có sách vở, học được chữ chỉ đủ để đáp ứng công việc mà thôi. Nay nhà Lang đạo cũng mời người Kinh đến dạy cho con em học chữ Hán, còn dân thường thì cấm không cho học. Nhà ở thì năm ba nhà tụ lại với nhau rải rác trong các lũng núi, nhân theo núi bắc giá, chôn cột gác ván ngang làm nhà sàn mà ở, lên xuống thì trèo cầu thang. Bò, dê, lợn, gà thì quây chuồng nuôi dưới sàn. Cơm ăn hàng ngày thì ăn cơm nếp, gạo tẻ rất ít. Nấu cơm thì dùng nồi đồng, nồi đất, cũng có khi dùng ống tre cho gạo và nước vào rồi đem đốt, đốt chín thì bổ ống tre lấy cơm ra ăn. Thức ăn thì có thịt gà rừng, vịt nhà luộc chín chấm muối mà ăn, không biết cách điều hòa nấu nướng. Nhu dụng hàng ngày thì vào rừng săn bắn, xuống suối bắt cá đem về nhà tự nuôi sống mình, không có chợ búa trao đổi. Thuốc chữa bệnh thì truyền bảo cho nhau, lấy lá cây rễ cỏ vài chục thứ tùy theo bệnh mà chữa, thứ thì bôi, thứ thì uống, cũng phần nhiều khỏi bệnh. Làm ruộng thì cuốc núi làm ruộng, lấy dao làm cày, lấy lửa làm bừa (dĩ đao vi canh, dĩ hỏa vi nậu), đào đất trỉa hạt giống chứ không gieo mạ. Chỗ ruộng có nước thì lùa trâu bò vào dẫm đạp cho nát đất rồi gieo thẳng thóc giống xuống ruộng. Gặp năm đói nhà nào cất trữ được thóc gạo, khoai sắn thì các nhà khác cùng ăn chung, đói thì cùng đói, no thì cùng no, dù là nhà lang đạo cũng không dám giữ riêng cho mình. Quần áo đàn ông dùng vải thô màu xanh, đàn bà dùng lụa có vân (tục gọi là phá quất). Nhà lang đạo thỉnh thoảng mới mua được lụa quyến của các nhà buôn người Kinh để mặc. Cưới vợ gả chồng thì ngày ăn hỏi, nhà gái cho năm sáu người cầm roi đứng đợi dưới cầu thang, khi họ hàng nhà trai đến thì những người kia cầm roi quất tới tấp, bên nhà trai phải nhanh chân chạy vọt lên cầu thang thì mới khỏi, nếu chậm chân có khi bị đánh đau. Hai nhà coi đó là cuộc vui cười lớn. Việc tang ma thì đặt quan tài ở góc nhà mời thầy mo đến khấn khứa đọc chú đến 3 tháng, gọi là luyện thần. Quan tài để trong nhà như vậy 3 năm mới đem chôn. Chôn cất xong thì niệm chú nửa ngày để cho thần được yên. Phàm có gia sản gì thì chia một nửa bày ra ngoài mộ , gọi là lễ vật để tặng cho người chết. Thờ cúng thì mọi người trong nhà đều phải gác một cái sàn nhỏ ở góc nhà để thờ, gọi là thờ ma xó. Đồ thờ không có ghế, chiếu, mâm, chén gì cả, chỉ bày rượu và thức ăn ra sàn nhà để cho ma xó hưởng mà thôi. Mỗi năm chỉ ngày mùng một tết Nguyên đán làm lễ một lần rồi thôi, các lễ tiết như giỗ chạp, thanh minh, trung thu, trùng ngũ, trùng cửu … đều không cả. Tế thần bên ngoài thì chỉ làm 2 lễ là lễ thượng điền và lễ thường tân quét đất cúng thổ thần, mà không có đàn miếu như người Kinh. Dân không theo đạo mà cũng không theo Thiên chúa giáo”.
Sản vật “Lúa thu lúa hè không có mấy. Chỉ có ngô, lúa dẻo, khoai, đậu mà thôi. Sản vật khác thì có sa nhân, cánh kiến, sáp ong, củ nâu, vải thô, gỗ lim, gỗ màu, tre. Nứa và nhục quế cũng có rải rác ở một số nơi”.
Khí hậu “Trong châu hạt khí hậu miền núi lam chướng nặng nề, các nơi ven chân núi thì ẩm thấp, buổi sáng đến cuối giờ mão mới thấy ánh mặt trời, buổi chiều thì mới đầu giờ dậu đã âm u bóng tối. Tháng giêng, tháng hai còn lạnh. Tháng 3, 4 bắt đầu ấm áp. Tháng 5, 6 gió nam thổi mạnh, nắng nóng. Các tháng 7, 8, 9 gió thu, mưa lụt, bão lớn, bắt đầu có khí lạnh. Ba tháng mùa đông gió bấc, lạnh rét. Không có thủy triều. Suối rừng quanh năm khí độc mà tháng 3 và tháng 9 là nặng nhất. Có lẽ vì tháng 3 sau khi có mưa rào, cỏ cây thối nát, chim thú chết rữa lâu ngày theo dòng nước trôi xuống. Tháng 9 là lúc lá cây rụng nhiều, lắm thứ lá độc cũng trôi xuống khe suối làm cho nước khe rất độc. Ngạn ngữ có câu: Tháng chín quả quít đỏ trôn/ Tháng ba ngải mọc ấy con tìm về. Ấy là nói hai tháng ấy chướng khí đáng sợ để cảnh báo cho người có việc lên miền ngược biết”.
Tại sách “Đại Nam nhất thống chí” chép: “ Châu Thường Xuân ở phía tây nam tỉnh, cách 93 dặm. Suối khe tri trít, rừng suối gập ghềnh, 4 mặt cách nhau chưa rõ là bao nhiêu dặm. Phía đông tới huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân; phía tây giáp phủ Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An; phía nam tiếp châu Như Xuân và phía bắc liền châu Lang Chánh. Năm Minh Mạng 18, tách phần đất huyện Thọ Xuân cùng 3 tổng Luận Khê, Nông Cống, Như Lăng trong huyện Lôi Dương đặt ra châu này. Năm Tự Đức thứ 3 bớt tri châu cho vào phủ Thọ Xuân kiêm lý. Nguyên trước lãnh 4 tổng. Năm Thảnh Thái thứ 6 trích tổng Như Lăng cho thuộc về châu Như Xuân. Năm thứ 12 lại trích tổng Nhân San trong châu Lang Chánh cho thuộc vào đây, đổi đặt châu úy, cho viên thổ tù sung chức. Các việc công đều thuộc tòa đại lý của người Pháp. Hiện nay lãnh 4 tổng, 23 xã thôn”.
Tại “Địa chí Thanh Hóa, tập I, Địa lý và Lịch sử” có ghi chi tiết hơn về quá trình hình thành và tên gọi của Thường Xuân. “Thời thuộc Hán là phần đất của huyện Vô Biên, một phần ít thuộc huyện Cư Phong. Thời Tam Quốc đến Tùy: là phần đất thuộc huyện Di Phong. Thời thuộc Đường là phần đất thuộc huyện Trường Lâm. Thời Đinh, Lê, Lý vẫn giữ như thời Đường. Thời Trần, Hồ và thuộc Minh: gồm 2 phần. Một phần lớn thuộc vào huyện Nga Lạc (châu Thanh Hóa). Một phần ít thuộc huyện Nông Cống (châu Cửu Chân). Thời Lê vẫn là miền đất thuộc huyện Nga Lạc và huyện Nông Cống (chưa có châu Thường Xuân). Thời Nguyễn: Minh Mệnh thứ 18 (1837) mới đặt ra châu Thường Xuân. Quá trình lập ra châu Thường Xuân diễn ra như sau: Minh Mệnh thứ 16 (1835) nhập huyện Thọ Xuân cũ (gồm 2 tổng Mậu Lộc và Quân Nhân) lệ vào châu lang Chánh. Huyện Thọ Xuân cũ (miền núi) mất tên, xóa đơn vị hành chính (cần phân biệt huyện Thọ Xuân cũ không phải là huyện Thọ Xuân bây giờ. Huyện Thọ Xuân bây giờ lúc đó là huyện Lôi Dương). Minh Mệnh thứ 18 (1837): trích lại 2 tổng Mậu Lộc vả Quân Nhân (của huyện Thọ Xuân cũ) cộng với tổng Luận Đạm (tức Luận Khê thuộc huyện Lôi Dương) cộng với tổng Như Lăng (huyện Nông Cống) để lập ra châu Thường Xuân. Năm Tự Đức thứ 3, bỏ tri châu, cho phủ Thọ Xuân kiêm lý. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, đổi châu Thường Xuân thành huyện Thường Xuân”.
Là huyện miền núi, trong Địa chí Thanh Hóa ghi “Thường Xuân có các ngọn núi lớn như Bù Dôn (Xuân Liên); Bù Cho, Bù Ta Leo (Xuân Mỹ); Bù Cát Xa (Xuân Chinh); Bù Me (Ngọc Phụng); Bù Xèo (Xuân Khao)”. Sách “Đại Nam nhất thống chí” của nhà Nguyễn, trong phần sơn xuyên ghi nhận núi Phong Biểu Sơn (núi Bầu Gió) và các ngọn núi trên như sau: “Núi này thuộc châu Thường Xuân, tục gọi là núi Bầu Gió. Phía nam có núi Bầu Lộc, phía tây có núi Phường, tiếp với huyện Quế Phong, phủ Quỳ Châu, đều là tên riêng của núi này chia ra mỗi nơi mỗi khác, cũng là một ngọn trấn sơn của cả một châu. Các núi Tây Liêu, Bầu Tốn, Bầu Dọc và Bầu Môn cũng là thuộc châu này cả”. Theo tiếng Thái, Pù (phiên âm là Bù, Bầu) là đỉnh núi, do đó cách phiên âm sách Địa chí Thanh Hóa là “Bù”, Đại Nam nhất thống chí là “Bầu” cũng để chỉ cùng các ngọn núi mà thôi. Trong Địa chí Thanh Hóa ghi nhận “Núi Chí Linh, tức Bù Rinh, chung với huyện Lang Chánh, thuộc địa phận các xã Giao An (Lang Chánh), Xuân Khao và Yên Nhân (Thường Xuân) là căn cứ địa những ngày đầu gian khổ chống giặc Minh của nghĩa quân Lê Lợi”. Núi rừng Thường Xuân có hang Lãm ở xã Tân Thành. “Hang rộng có đường đi hai phía, giữa có hố chui xuống để ra sườn núi về làng. Xưa trai gái có tục chơi hang Lãm mùa xuân theo nghi lễ phồn thực cổ để cầu may mắn, thịnh đạt cho làng”.
Lương Giang là con sông lớn nhất chảy qua Thường Xuân “đoạn sông Lường (sông Chu) chảy qua cửa Đặt xuống đập Bái Thượng. Có nhánh sông Âm từ Quan Hóa chảy xuống và nhánh sông Cao từ Lang Chánh chảy sang cùng hòa nước vào sông Chu trên địa phận huyện Thường Xuân” (Địa chí Thanh Hóa).
Nói đến Thường Xuân không thể không nhắc đến quần thể di tích danh thắng đền, đập, hồ Cửa Đạt và Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, những “đặc sản” hàng đầu của vùng đất này. Hồ Cửa Đạt gắn liền với quần thể di tích đền thờ danh nhân Cầm Bá Thước, đền Mẫu Thượng Ngàn và công chúa Liễu Hạnh, được gọi chung là đền Cửa Đạt. Đây là di tích thiêng trong tâm thức của du khách thập phương, đặc biệt là người Thanh Hóa, trở thành điểm đến không thể bỏ qua trong chuyến hành hương cầu may “lên rừng – xuống biển” đầu năm. Đền Cửa Đạt là điểm “lên rừng” đầu tiên trong hành trình, sau đó quay về Phủ Na (Như Thanh) hoặc Am Tiên (Triệu Sơn) và kết thúc “xuống biển” tại Sầm Sơn ở đền Độc Cước và đền Cô Tiên. Hành trình “lên rừng - xuống biển” này tập nập, đông đúc như trẩy hội, trở thành “con đường hành hương tâm linh” của người dân Thanh Hóa khởi đầu cho một năm mới.
Đền Cầm Bá Thước tọa lạc trên đỉnh ngọn đồi ở ngã ba sông Chu và sông Đặt thuộc làng Cửa Đặt, xã Vạn Xuân. Đền thờ danh nhân Cầm Bá Thước, thủ lĩnh phong trào Cần Vương chống Pháp ở miền núi Thanh Hóa. Đền được dựng vào cuối thế kỷ XIX, sau khi Cầm Bá Thước bị thực dân Pháp hành hình vào năm 1895. Sang đầu thế kỷ XX đền thờ Mẫu được dựng trong không gian đền thờ Cầm Bá Thước. Hiện nay di tích đã được đầu tư, tôn tạo bề thế theo thức kiến trúc truyền thống, nét cổ kính nằm giữa vùng hồ đập và núi rừng Thường Xuân đã tạo cho di tích sự hấp dẫn và linh thiêng.
Gắn liền với quần thể di tích đền thờ nơi đây là hồ và đập Cửa Đạt, một công trình thủy lợi thủy điện lớn của Thanh Hóa và Việt Nam, khởi công năm 2004 và hoàn thành vào năm 2010. Đập Cửa Đạt là con đập chặn dòng sông Chu có chiều cao 118,75m, dài 987,13m, mặt đập rộng 10m, có công năng là trị thủy và phát điện. Hồ Cửa Đạt tích nước đã tạo ra nguồn nước tưới ổn định cho 86.862ha đất canh tác, bổ sung nước cho mùa kiệt ở hạ du, ngăn chặn xâm nhập mặn và cải tạo môi trường sinh thái. Ngày 19/5/2010, nhà máy thuỷ điện Của Đạt chính thức hoạt động, với quy mô 2 tổ máy, công suất 97MW và 46km đường dây 110KV. Sau khi hoàn thành đắp đập, tòan bộ vùng thượng lưu sông Chu, sông Khao và sông Đặt tích nước và trở thành hồ lớn, được đặt tên chung là hồ Cửa Đạt với diện tích mặt hồ là 103,17km2.
Cùng với hồ Của Đạt, bao quanh toàn bộ lòng hồ là trùng điệp núi rừng của khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên với diện tích là 21.000 ha, vùng đệm là 40.260ha, trong đó có 4.986,3ha rừng nguyên sinh nằm trên địa bàn 7 xã (cũ) của Thường Xuân. Đây là khu bảo tồn thiên nhiên rất đa dạng về sinh học với 1.142 loài thực vật, trong đó có 35 loài được ghi trong sách Đỏ Việt Nam, 12 loài được ghi trong sách Đỏ Thế giới. Về động vật có 80 loài thú, 192 loài chim, 41 loài bò sát, 36 loài ếch nhái và 1.282 loài côn trùng, trong đó có 64 loài có tên trong sách Đỏ Việt Nam và Thế giới. Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên là khu rừng đặc dụng có trữ lượng rừng giàu, tính nguyên sinh cao, phân bố tập trung trên địa hình cao 800m – 1.600m, rất đặc trưng cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ và Tây Bắc. Trong không gian của Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên có nhiều cảnh quan đặc sắc như hang động, thác nước, cây cổ thụ, cấu tạo địa chất.. rất kỳ thú, độc đáo, là tài nguyên có giá trị lớn về du lịch sinh thái, khám phá và mạo hiểm. Đó là các thác nước như thác Mù, thác Tiên, thác Hón Yên, thác Hón Ý…; hang Dơi, hang Tình, hang Quan, hang Cáu, hang Vua… Tại rừng có quần thể cây di sản pơ mu, sa mu hàng trăm năm tuổi, có đường kính 2,7m, cao 35m được công nhận là cây Di sản Việt Nam. Trong không gian của lòng hồ Cửa Đạt còn có các ngọn núi cao ngất, sừng sững in bóng xuống lòng hồ như Bù Ta Leo cao 1.400m, Pù Gió cao 1.563m, Pù Hòn Hàn 1.208m…
Về sản vật, cây quế của Thường Xuân nổi tiếng từ xa xưa, được dân gian gắn liền với địa danh “quế Ngọc châu Thường”. Nhà bác học Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương lọai chí” có ghi: “Quế nước ta chỉ quế Thanh Hóa là tốt nhất”. Sách “Đại Nam nhất thống chí” chép: “Quế sản ở ba Châu, Thường Xuân, Lang Chánh, Quan Hóa, nhưng quế ở xã Trịnh Vạn, Châu Thường tốt hơn…Tuy đều sản xuất ở phương Nam nhưng quế Thanh tốt nhất, thứ đến quế Nghệ An, còn quế Quảng Nam thì kém. Năm Minh Mạng thứ 17 khắc hình tượng vào Nghị Đỉnh”. Còn học giả người Pháp B. Le Breton trong cuốn La Province de Thanh Hoa (Tỉnh Thanh Hóa) ấn hành năm 1918 đã ca ngợi quế Thanh: “Ngày xưa nhà nước An Nam phải đưa quế sang cống nước Tàu, bởi vậy cho nên hễ dân tìm được quế thì phải nộp một ít cho nhà Vua. Bây giờ tuy rằng lệ cống đã bỏ đi rồi, nhưng nhà nước An Nam vẫn lấy một ít quế Thanh. Hễ ai tìm được một cây quế thì phải đi trình ngay với quan Châu sở tại. Quan Châu trình với quan đại lý Bái Thượng và quan tỉnh. Quan trên đặt một hội đồng có người đại diện quan Công sứ, quan Tổng đốc và quan Châu đến xét chỗ cây quế tìm được và để bóc. Bóc xong thì người ta ủ vào thúng rồi đem ra cân và đóng dấu vào các thanh quế. Dấu ấy ở tại tòa đại lý Bái Thượng… Tiền bán được thì theo lệ Mường, phải chia cho người tìm được cây quế, người bóc quế, người giữ cây, quan Châu và dân sự”.
Theo sử nhà Nguyễn ghi chép, tỉnh Thanh Hóa thời Nguyễn dân phải đóng 4 loại thuế biệt nạp, đó là thuế quế, thuế chiếu, thuế dầu đồng và đá. Đây là 4 sản vật nổi tiếng của xứ Thanh, trong đó có quế ở Thường Xuân. Theo đánh giá của triều đình, “quế Thanh” được coi là loại quế có phẩm chất thượng hạng hơn hẳn quế ở vùng khác. Thời Gia Long các hộ bóc quế ở Thanh Hóa 1 năm nộp 70 cân quế các loại. Sau đó quy định chia 2, một nửa nhà nước một nửa cho người làm. Đến năm 1831, có quy định với loại quế thượng hạng, quế hộ bóc được bao nhiêu phải nộp hết cho nhà nước, với loại quế hạng vừa và hạng trung mới tính một nửa nộp cho nhà nước một nửa thuộc về quế hộ. Người dân Thường Xuân còn kể lại câu chuyện, năm 1923 hạ cây quế bạch có đường kính 30cm, chính quyền đem bán đấu giá thu lại số tiền 9.000 đồng Đông Dương (quy đổi khoảng 200 cây vàng, nếu mua gạo được 300 tấn).
Trên đất Thường Xuân người Thái chiếm tỷ lệ đa số và văn hóa Thường Xuân chủ đạo là văn hóa dân tộc Thái. Các dòng họ người Thái có ảnh hưởng lớn, nhiều đời lang đạo như họ Cầm Bá, họ Lang. Người Thái Thường Xuân có truyền thống canh tác lúa nước từ lâu đời. Ngoài hình thức làm ruộng bằng công cụ cày bừa, một số nơi vẫn còn phong tục dùng trâu quần đất, giẫm ruộng để cấy lúa. Làm nương rẫy với người Thái là để bổ sung thêm lương thực và có vai trò như làm vườn trồng cây. Địa bàn cư trú của người Thái Thường Xuân cũng theo truyền thống như người Thái ở các huyện miền núi Thanh Hóa là ven các thung lũng và thành làng bản định cư lâu dài. Người Thái Thường Xuân có đời sống tinh thần vô cùng phong phú. Các chuyện thơ Khăm Panh, Xi Thuần, Tạo Chu Sang và các chuyện cười, cổ tích, nhất là Sử thi: Toi ặm oóc nặm đín là những di sản văn hóa phi vật thể có giá trị. Các sinh hoạt văn hóa như lễ tục Kin Chiêng bọoc mạy, khặp, cồng chiêng, kèn bè, khua luống..ở Thường Xuân đều rất phong phú. Đặc biệt, người Thái còn có chữ Thái, chữ viết riêng để lưu lại lịch sử, văn học nghệ thuật và nâng cao dân trí cho con em mình.
Người Thái rất khéo tay và có thị hiếu thẩm mỹ tinh tế. Trên các trang phục của người Thái, nhất là khăn đội đầu và váy của phụ nữ Thái được dệt với những mảng hoa văn đặc sắc, vửa theo mô típ cổ xưa vừa mang dáng dấp hiện đại. “Người phụ nữ Thái Thường Xuân cũng đưa vào đồ án hoa văn của mình những hình ảnh hết sức thân thuộc trong cuộc sống thiên nhiên như các dãy núi trùng điệp, những con sông suối lượn sóng, cỏ cây bạt ngàn của núi rừng. Rồi những hình ảnh rất sinh động của muông thú như voi, hổ, hưu, nai, … Đặc biệt cành hoa sam nở cánh hoa vàng li ti mọc hoang trước sân nhà hay len lỏi ở các lối mòn được người phụ nữ Thái Thường Xuân, Thái Đen cũng như Thái Trắng, đưa vào đồ án hoa văn và trở nên đẹp kỳ lạ với những chấm vàng giản dị gây nên cảm giác rất ấm áp, gần gũi, thân thiết” (Vương Anh – Tiếp cận văn hóa bản Thái xứ Thanh, Sở VHTT Thanh Hóa xuất bản năm 2001, tr 217).
Kho tàng tục ngữ, ca dao, dân ca của người Thái rất phong phú: “Ruộng nhiều mương thì tốt/ Mường nhiều đạo không tốt”, “Anh rể nể bằng trời/ Chị dâu nể bằng thiên thần”, “Có nước mới có cá/ Có ruộng mới có gạo”, “Được ăn đừng quên đũa/ Được ở đừng quên công”, “Công cha như núi trước mặt/ Công mẹ như trời che đất”, “Của chị dâu, đừng dựa/ Của anh vợ, đừng tựa”, “Dao không mài không sắc/ Người không dạy, không hiểu gì”. “Muốn ăn ngọt trồng mía/ Muốn ở tù thì trộm trâu/ Muốn chết, chơi vợ người”, “Làm nhà lo tranh/ Làm ruộng lo mạ”, “Muốn ăn chớ ngồi/ Muốn giàu chớ ngủ”, “Người lười được vợ làng xa/ Người siêng được vợ cùng bản”, “Nhổ nước bọt phải nhìn lỗ sàn/ Ngồi xuống phải sửa váy”, “Tìm vợ thì nhìn mẹ mộng/ Mua trâu nhìn trâu mẹ đầu đàn”, “Được nên chồng nên vợ/ Mất nên anh nên em”, “Gái đẹp qua mắt quan/ Gái chửa hoang qua mắt đạo”, “Muốn xẹo ghẹo gấu/ Muốn béo ghẹo ong/ Muốn nghèo trêu phìa, tạo”…
Thường Xuân là quê hương của danh nhân Cầm Bá Thước, một thủ lĩnh người Thái tiêu biểu trong phong trào Cần Vương chống Pháp của miền núi Thanh Hóa cuối thế kỷ XIX. Ông sinh năm 1858 tại làng Lùm Nưa, mường Chiềng Bán, tổng Trịnh Vạn (xã Vạn Xuân) trong một gia đình thế tộc, đời đời làm lang đạo. Bố ông là Cầm Bá Tiêu được triều đình phong chức Quản cơ, cai quản miền tây Thanh Hóa. Năm 24 tuổi ông đã được phong Bang biện quản lý châu Thường Xuân và châu Lang Chánh. Hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi năm 1885, cùng với các thủ lĩnh chống Pháp của Thanh Hóa như Trần Xuân Soạn, Đinh Công Tráng, Tống Duy Tân, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước đã đứng lên chiêu tập quân sĩ chống Pháp. Ông đã được Trần Xuân Soạn thay mặt vua Hàm Nghi trao chức Tán tương quân vụ, sau đó là chức Tán lý để huy động lực lượng chống Pháp. Trong 10 năm 1985 – 1995, ông đã chỉ huy đánh nhiều trận, tiêu biểu là trận đánh đồn Thổ Sơn, Hón Đòn, Trịnh Vạn… Do chênh lệch lực lượng, Cầm Bá Thước cùng một số người thân trong gia đình và nghĩa quân rơi vào tay giặc. Ông khước từ mọi dụ dỗ, mua chuộc của địch nên bị Pháp hành hình ngày 13/5/1895 khi mới 36 tuổi. Ngày nay tại đền Cửa Đặt, nơi thờ ông có câu đối: “Bất tử đại danh thùy vũ trụ/ Như sinh chính khí tác sơn hà” (Danh thơm muôn thuở trong trời đất/ Nghĩa khí mãi còn với núi sông).
Ngày nay, theo quốc lộ 47 qua sân bay Thọ Xuân, ghé thăm Lam Kinh chiêm bái lăng tẩm điện miếu uy linh rồi tiếp tục đi tới Bái Thượng trên cầu bắc qua sông Chu là về với đất Thường Xuân. Sau sắp xếp lại hệ thống chính quyền địa phương 2 cấp, Thường Xuân từ 16 xã, thị trấn còn 9 xã. Đó là các xã: Thường Xuân, Luận Thành, Tân Thành, Thắng Lộc, Xuân Chinh, Bát Mọt, Lương Sơn, Yên Nhân, Vạn Xuân. Trong đó 4 xã Bát Mọt, Lương Sơn, Yên Nhân và Vạn Xuân không thực hiện sáp nhập.
Về Thường Xuân hôm nay không chỉ có cảnh đẹp hoang sơ và núi non hùng vĩ, du khách còn được trải nghiệm những điểm đến, những sản phẩm du lịch được đầu tư vừa thơ mộng vừa hấp dẫn. Đó là đền thờ danh nhân Cầm Bá Thước và bà chúa Thượng Ngàn, thăm công trình Hồ Cửa Đạt, khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên, các điểm du lịch cộng đồng, khu du lịch Bản Mạ… Về đây du khách sẽ được đắm mình trong không gian văn hóa độc đáo của dân tộc Thái, thưởng thức đặc sản ẩm thực của đất Thường Xuân như canh uôi, canh đắng, măng rừng, thịt trâu gác bếp, cá nướng, lợn cỏ, gà đồi.., được mời tham gia khua luống, thưởng thức rượu cần, trải nghiệm văn hóa , lòng mến khách của người Thường Xuân.
Là vùng đất thiên nhiên hùng vĩ, văn hóa độc đáo, con người thân thiện, Thường Xuân đang vẫy gọi những ai yêu thích khám phá và tìm hiểu cuộc sống, văn hóa của miền tây Thanh Hóa đại ngàn.
Ảnh: Hồ Cửa Đạt
Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Liên
Du lịch bản Mạ



Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét