XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Hai, 13 tháng 10, 2025

ĐỊA CHÍ HUYỆN HOẰNG HÓA


I. TÊN GỌI VÀ NGUỒN GỐC ĐỊA DANH
Trước khi tìm hiểu về huyện, cần giải nghĩa địa danh Hoằng Hóa để hiểu rõ ý nghĩa lịch sử – văn hóa của vùng đất này.
Chữ “Hoằng” (弘) – nhiều người nhầm thành “Hoàng” – theo Từ điển Hán Việt của học giả Đào Duy Anh, nghĩa là rộng lớn, mở rộng.
Chữ “Hóa” (化) có nghĩa là thay đổi một cách tự nhiên, trời đất sinh thành vạn vật, giáo hóa phong tục.
Trong Kinh Thư (thiên Chu Quan), có câu:
“Nhị công hoằng hóa, dần lượng thiên địa, bật vu nhất nhân”
(Hai bậc thánh vương Chu Vũ và Chu Công ra sức mở rộng việc giáo hóa, hòa hợp cùng trời đất, giúp ích cho con người).
Từ đó, Hoằng Hóa có thể hiểu là:
“Ra sức mở rộng việc truyền bá để giáo hóa, hướng con người tới điều thiện.”
II. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT
1. Vị trí địa lý
Hoằng Hóa là huyện đồng bằng ven biển thuộc trung tâm tỉnh Thanh Hóa:
• Phía Bắc giáp huyện Hậu Lộc
• Phía Tây giáp các huyện Thiệu Hóa, Yên Định và Hà Trung
• Phía Nam giáp TP Thanh Hóa và TP Sầm Sơn
• Phía Đông giáp Biển Đông
Đặc trưng địa hình được sách Hoằng Hóa phong vật miêu tả:
“Hà Trung chi nam thị Hoằng Hóa,
Bán hải, bán sơn, bán bình dã.”
(Phía nam Hà Trung là Hoằng Hóa – nửa biển, nửa núi, nửa đồng bằng.)
Dân gian mô tả:
“Đầu Con Nít, đít Hà Rò”
(Đầu huyện là núi Con Nít, cuối huyện là núi Hà Rò – nay là núi Kim Chuế, tức Linh Trường).
2. Địa hình
Hoằng Hóa là vùng đồng bằng ven biển, thấp dần từ tây sang đông. Địa hình đặc sắc với các ngọn núi cô lập xen kẽ đồng bằng và ven sông, tạo nên cảnh quan “nửa sơn, nửa thủy”.
Các dãy núi nổi tiếng: Con Nít (Nhi Phong), Kim Trà, Bưng (Mộc Sơn), Triêng (Trinh Sơn), Đẽn, Linh Trường (Kim Chuế)…
III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ HÀNH CHÍNH
Theo Đại Nam nhất thống chí:
• Thời Đinh – Lê, địa danh vùng này là Giáp Cổ Hoằng.
• Đời Lý, khoảng niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy (1186–1201), đổi thành Giáp Cổ Đằng.
• Đến thời Trần Anh Tông (niên hiệu Hưng Long 1293–1314), đổi làm huyện Cổ Đằng.
• Đời Hồ đổi thành huyện Cổ Linh.
Tuy nhiên, Đại Việt sử lược và Toàn Thư vẫn chép đến năm 1192 là Cổ Hoằng.
Thời thuộc Minh, theo Hoàng Minh thực lục, phủ Thanh Hóa có cả Cổ Hoằng và Cổ Đằng.
Đến đời Lê Thánh Tông, năm Quang Thuận thứ 10 (1469), chính thức đặt huyện Hoằng Hóa thuộc phủ Hà Trung.
Đời Minh Mạng năm thứ 19 (1838), cắt ba tổng Lỗ Hương, Dương Thủy Dương Sơn (thuộc Hoằng Hóa) và Đại Lý (thuộc Hậu Lộc) để lập huyện Mỹ Hóa.
Đến năm 1924, bỏ huyện Mỹ Hóa, trả lại các tổng, xã cho Hoằng Hóa như cũ.
Theo Đồng Khánh địa dư chí, huyện Hoằng Hóa có 5 tổng, 114 xã, thôn, ấp:
• Tổng Từ Minh: 14 xã, thôn
• Tổng Hàng Vi: 18 xã, thôn
• Tổng Bút Sơn: 26 xã, thôn
• Tổng Bái Trạch: 27 xã, thôn
• Tổng Ngọc Xuyết: 29 xã, thôn
IV. DÂN CƯ – PHONG TỤC – KINH TẾ
Theo Đồng Khánh địa dư chí:
“Người đi học và người cày ruộng nhiều, người làm thợ, đi buôn cũng có nhưng không nhiều mấy.
Đất có học thì các tổng Từ Minh, Hàng Vi, Bút Sơn trội nhất, rồi đến Bái Trạch, Ngọc Xuyết.”
• Vùng ven biển: dân cư vừa làm ruộng, vừa đánh cá.
• Vùng trung du: phát triển nghề mộc, đúc, đan lát, nhuộm, dệt.
• Vùng đồng bằng: trồng lúa, hoa màu, dâu tằm.
Phong tục:
Việc cưới xin, tang ma, tế lễ “không hà tiện cũng không xa hoa, vừa phải theo lễ”.
Ba tháng mùa xuân có lễ tế thần cầu phúc, hát ca, rước đình.
Tôn giáo:
Toàn tòng Thiên Chúa giáo chỉ có thôn Duy Cách, gián tòng ở Phùng Dực, Phù Lưu, Thọ Vực, Yên Vực, Thượng Thôn, Đại Tiền.
V. DANH SƠN – THẮNG CẢNH
1. Núi Con Nít (Nhi Phong – Hỏa Châu, Châu Phong, Châu Sơn)
Nằm ở bờ bắc cầu Hàm Rồng, thuộc xã Hoằng Quang.
Đại Nam nhất thống chí chép:
“Núi này bắt đầu từ Long Hạm (Đông Sơn), có một ngọn đứng sừng sững bên sông. Đỉnh tròn, chân thót, tầng tầng lớp lớp như rồng nhả ngọc.”
Trên núi có chùa Tiên Đồng, đá Thần Đồng, nên gọi là Nhi Phong – núi Trẻ Con.
Tục ngữ:
“Lạ thay cái núi Đông Sơn,
Chín mươi chín ngọn, một con chưa về.”
2. Núi Kim Trà (Nghĩa Trang, Sơn Trang)
Đại Nam nhất thống chí viết:
“Ái Châu các núi liền biển, duy có núi Kim Trà là cao, thuyền buôn trông vào đó làm tiêu chí.”
Sách Hoằng Hóa phong vật có thơ:
“Sông Mã, non Kim tổng Lỗ Hương,
Ngắm non sông ấy đất văn chương…”
(Bùi Xuân Vĩ dịch)
3. Núi Linh Trường (Kim Chuế – Trường Lệ – Lạch Trường)
Dãy núi ven biển gồm bảy ngọn chạy ra biển.
Đại Nam nhất thống chí ghi:
“Phía trước núi nổi một mỏm đá như mũi giày, tục gọi là Tỷ Sơn. Năm Hồng Đức thứ 7 (1476), vua Lê Thánh Tông đề thơ ‘Linh Sơn Hải Khẩu’.”
4. Núi Bưng (Băng Sơn – Mộc Sơn – Mã Yên)
Gồm hai ngọn nhô lên giữa đồng bằng, quê hương Lê Phụng Hiểu, gắn với tích “Thác đao điền”.
Dưới chân núi có đền Bưng, đền Đức Thánh Mẫu, chùa Bưng, đền Cao Sơn.
Thơ trong Hoằng Hóa phong vật:
“Vùng núi Băng Sơn cảnh sắc thanh,
Thế nhìn tinh túy hiện anh linh…”
(Bùi Xuân Vĩ dịch)
5. Núi Triêng (Trinh Sơn)
Thuộc xã Hoằng Giang, bên bờ sông Mã, từng là căn cứ của Dương Đình Nghệ, nghĩa quân Lam Sơn, Cần Vương.
6. Núi Đẽn (Cổ Điển – Bà Nga)
Nằm ở xã Hoằng Trinh, có tảng đá “bàn cờ tiên”, tương truyền là núi linh của dòng họ Mai – công hầu, phi tần thời Lê.
VI. SÔNG NGÒI – BIỂN CẢ
Hoằng Hóa có nhiều sông lớn: sông Mã, sông Ngu, sông Cung, sông Đằng, sông Trà.
• Sông Mã: chảy qua Ngã Ba Bông, Hợp Đồng, Hàm Rồng, đổ ra cửa Hội Triều (Lạch Trào, cửa Hới).
Câu truyền tụng:
“Hoằng Hóa diệu tham thiên chi bán,
Hội Triều lưu vạn cổ chi phương.”
• Sông Ngu (Lạch Trường): xưa là dòng chính của sông Mã, sau đổi dòng.
• Biển Hoằng Hóa: dài 12 km, có hai cửa biển lớn là Hội Triều và Lạch Trường, nay có khu du lịch biển Hải Tiến nổi tiếng.
Đặc sản sông biển: phi cầu Sài, lệch sông Cung, móng tay sông Bút, lư sông Đằng, mắm Hoằng Phụ.
VII. NGHỀ TRUYỀN THỐNG
Hoằng Hóa có hơn 30 nghề thủ công truyền thống, giúp dân sinh kế ổn định, ít phiêu tán khi mất mùa.
Các nghề nổi tiếng:
• Mộc: Đạt Tài, Hạ Vũ, Hà Thái, Đại An
• Đúc lưỡi cày: Đồng Lạc
• Nhuộm: Trinh Hà
• Đan lát: Đoan Vĩ, Thái Hòa
• Ép dầu: Đại An, Tào Xuyên
• Nề, xẻ gỗ, gạch, kéo vải, dệt vải, tằm tơ ở nhiều làng xã.
Vè cổ tổng Ngọc Chuế:
“Làng Bái thì đóng cối xay,
Làng Hón làm thầy, làng Đọ kéo cưa…
Làng Đồi thì đi bán ngao,
Làng Mạ bán hàu, Khúc Phụ bán don…”
Đặc biệt, nghề mộc Đạt Tài nổi tiếng cả nước, được Tổng đốc Vương Duy Trinh khen bằng câu đối:
“Thiên tích thông minh Hoằng Hóa dục,
Thánh phù công dụng Đạt Tài năng.”
VIII. HOẰNG HÓA – VÙNG VĂN HÓA, ĐẤT KHOA BẢNG
1. Truyền thống hiếu học và khoa bảng
Hoằng Hóa là vùng đất giàu truyền thống hiếu học, từng được mệnh danh là “đất học xứ Thanh”. Trong lịch sử, nơi đây đã sản sinh ra nhiều bậc khoa bảng, danh nhân văn võ song toàn, góp phần làm rạng danh quê hương và đất nước.
Theo sử liệu triều Lê – Nguyễn, Hoằng Hóa có nhiều người đỗ đạt cao trong các khoa thi Hương, thi Hội và thi Đình. Tiêu biểu có Đại tướng quân Lê Phụng Hiểu, người khai quốc công thần nhà Lý, quê ở làng Bưng (nay thuộc xã Hoằng Phụ); Lê Bá Ly, công thần khai quốc triều Lê; Nguyễn Trung Ngạn, Trịnh Khả, Nguyễn Mộng Tuân – đều là những danh nhân xuất thân từ vùng đất này.
Trong các triều đại sau, Hoằng Hóa vẫn luôn có người hiển đạt. Thời Nguyễn, huyện có nhiều vị đỗ cử nhân, phó bảng, tiến sĩ như Phạm Đình Toái, Đỗ Văn Tường, Phạm Huy Chương, Phạm Đình Hổ… Trong đó, Phạm Đình Toái (1815–1896), quê xã Hoằng Trạch, là tác giả của bộ sách địa chí nổi tiếng “Hoằng Hóa phong vật chí”, ghi chép tường tận về đất và người Hoằng Hóa xưa.
Về sau, thời cận đại, phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục lan tới Hoằng Hóa rất sớm, tạo nên làn sóng canh tân văn hóa – giáo dục mạnh mẽ. Nhiều nho sĩ như Bùi Xuân Vĩ, Nguyễn Trọng Bảo, Phạm Văn Nghị đã cổ súy cho việc mở trường, học chữ quốc ngữ và truyền bá tư tưởng tân học, góp phần thay đổi diện mạo văn hóa của huyện.
Đến thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hoằng Hóa tiếp tục giữ vị thế là “vùng địa linh nhân kiệt”. Nhiều học sinh, trí thức trưởng thành từ đất này đã trở thành cán bộ, tướng lĩnh, nhà khoa học, nhà giáo, văn nghệ sĩ nổi tiếng của Thanh Hóa và cả nước.
2. Di sản văn hóa vật thể và phi vật thể
Hoằng Hóa hiện còn lưu giữ được hàng trăm di tích lịch sử, văn hóa, tôn giáo và danh thắng. Trong đó có nhiều di tích cấp quốc gia và cấp tỉnh, phản ánh chiều sâu lịch sử – tâm linh của vùng đất này.
Đền thờ Lê Phụng Hiểu (Hoằng Phụ) là di tích nổi tiếng nhất, được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt. Nơi đây thờ vị tướng trung dũng của triều Lý – người có công dẹp loạn Tam Vương, bảo vệ cơ nghiệp nhà Lý. Hằng năm, vào dịp lễ hội đền Bưng, nhân dân khắp vùng đều về tế lễ long trọng, tái hiện tích “Thác đao điền” và rước kiệu linh đình.
Ngoài ra, còn có đền Linh Trường, chùa Tiên Đồng, đền Bà Tố Nương, đền thờ Nguyễn Văn Nghi, văn chỉ Đạt Tài, văn từ Hoằng Trạch, chùa Bút Sơn, chùa Hồi Long, chùa Trường Lệ… Mỗi di tích là một lớp trầm tích văn hóa, gắn với những sự kiện, nhân vật và tín ngưỡng dân gian đặc sắc.
Về văn hóa phi vật thể, Hoằng Hóa có nhiều lễ hội truyền thống phong phú:
• Lễ hội đền Bưng (Hoằng Phụ) – tưởng niệm Lê Phụng Hiểu.
• Lễ hội cầu ngư (Hoằng Trường, Hoằng Thanh) – phản ánh tín ngưỡng của cư dân ven biển.
• Hội làng Bút Sơn – tôn vinh nghề giáo, nghề học.
• Hội rước kiệu Thánh ở Hoằng Lộc, Hoằng Xuyên, Hoằng Cát – kết hợp tín ngưỡng thờ thần và Phật giáo.
Nghệ thuật dân gian ở đây cũng đa dạng, nổi bật có hát trống quân Hoằng Lộc, hò sông Mã, hát nhà trò Bút Sơn, múa lân rồng biển Hải Tiến, vè thủ công Ngọc Chuế… Những di sản này tạo nên sắc thái văn hóa riêng biệt của vùng đất “bán sơn, bán hải, bán bình dã”.
3. Đời sống tôn giáo và tín ngưỡng
Dân cư Hoằng Hóa chủ yếu theo tín ngưỡng dân gian, kết hợp với Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Tư liệu trong “Hoằng Hóa phong vật chí” ghi rõ: “Theo Thiên Chúa giáo toàn tòng chỉ có thôn Duy Cách; gián tòng có các xã Phùng Dực, Phù Lưu, Thọ Vực, Yên Vực, Thượng Thôn, Đại Tiền mà thôi”.
Hiện nay, Thiên Chúa giáo vẫn còn phát triển tại một số giáo xứ ven sông, ven biển như Duy Cách, Phù Lưu, Hoằng Trường, song phần lớn người dân vẫn giữ nếp thờ thần, thờ Phật, thờ tổ tiên – nét văn hóa tín ngưỡng bền vững qua nhiều thế kỷ.
4. Văn hóa làng xã và phong tục tập quán
Hoằng Hóa là vùng có cấu trúc làng xã cổ truyền đậm đặc. Mỗi làng đều có đình, chùa, đền, văn chỉ, là nơi hội họp và sinh hoạt tinh thần của dân làng. Nếp sống của người Hoằng Hóa được đánh giá là hiếu học, trọng lễ nghĩa, cần cù, sáng tạo và thủy chung.
Các phong tục cưới, tang, tế, lễ hội đều giữ sự giản dị, “vừa phải theo lễ”. Mùa xuân ba tháng, dân các tổng đều mở hội tế thần cầu phúc, có ca hát, đánh đu, kéo co, vật, hát đối, hát nhà trò. Nhiều trò diễn dân gian mang đậm tính triết lý nhân sinh, phản ánh tâm hồn phóng khoáng, hồn hậu của người Hoằng Hóa.
Ẩm thực Hoằng Hóa cũng đặc sắc, với các món dân dã nhưng tinh tế như: mắm tép Hoằng Trường, bánh răng bừa Hoằng Phụ, nem nướng Tào Xuyên, phi cầu Sài, móng tay sông Bút, lệch sông Cung… tạo nên bản sắc ẩm thực vùng sông – biển.
5. Văn học nghệ thuật và nhân vật tiêu biểu
Truyền thống văn học của Hoằng Hóa bắt nguồn từ thời trung đại. Các danh sĩ như Phạm Đình Toái, Bùi Xuân Vĩ, Nguyễn Văn Nghi, Phạm Huy Chương, Nguyễn Văn Dinh… để lại nhiều tác phẩm thơ văn, câu đối, địa chí, gia phả quý. Đặc biệt, bộ “Hoằng Hóa phong vật chí” và các bài thơ trong tập “Hoằng Hóa phong vật thi tập” là những tư liệu hiếm, có giá trị cả về văn học lẫn sử học.
Trong thời hiện đại, nhiều người con Hoằng Hóa đã trở thành nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà nghiên cứu văn hóa có tên tuổi, góp phần làm phong phú đời sống tinh thần của quê hương
6. Kinh tế và đời sống đương đại
Nhờ vị trí ven biển, hệ thống sông ngòi phong phú và đất đai màu mỡ, Hoằng Hóa sớm hình thành nền kinh tế đa dạng, gồm nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp và du lịch.
Từ sau đổi mới, đặc biệt là đầu thế kỷ XXI, Hoằng Hóa đã phát triển mạnh về hạ tầng giao thông, công nghiệp và du lịch biển – tiêu biểu là khu du lịch Hải Tiến. Các nghề truyền thống như mộc Đạt Tài, nề Bột Thái, dệt Nghĩa Hưng, làm nước mắm Hoằng Phụ được khôi phục và phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, góp phần tạo việc làm và nâng cao đời sống nhân dân.
KẾT LUẬN
Hoằng Hóa là vùng đất cổ kính, hội tụ đầy đủ yếu tố “địa linh nhân kiệt”. Nơi đây vừa là phên dậu phía đông của xứ Thanh, vừa là vùng đất mở ra biển lớn, giàu truyền thống văn hiến, kiên cường trong lịch sử, năng động trong thời đại mới.
Trải qua bao biến thiên của thời gian, Hoằng Hóa vẫn giữ vững bản sắc: đất học, đất nghề, đất anh hùng, đất văn hóa, xứng đáng là một trong những địa danh tiêu biểu của tỉnh Thanh Hóa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO (trích dẫn trong văn bản)
• Đại Nam nhất thống chí ;
• Đồng Khánh dư địa chí;
• Thanh Hóa tỉnh chí;
• Tập thơ, văn bia, thơ ngự chế các triều đại (trích dẫn ghi trong phần mô tả danh thắng).

* Facebook Ngo Hoai Chung “Các huyện tỉnh Thanh Hoá trước ngày giải thể huyện 01/7/2025

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét