Cửa Hà Sông Mã
Nếu dùng một từ để khái quát đặc trưng nổi bật của huyện Cẩm Thủy, có lẽ không từ nào đắt hơn “giao thoa” – hay “kết nối”.
Cẩm Thủy là vùng đất tiêu biểu cho sự chuyển tiếp về địa hình, kết nối về giao thông, cửa ngõ về lãnh thổ, chuyển dòng của sông Mã, “hợp chủng” về cư dân và giao thoa về văn hóa. Chính đặc trưng ấy đã chi phối sâu sắc đến lịch sử, phong tục, tập quán và đời sống văn hóa của người Cẩm Thủy.
1. Địa hình
Cẩm Thủy là huyện miền núi bán sơn địa, nằm ở vùng chuyển tiếp giữa miền núi cao và đồng bằng Thanh Hóa.
Từ xuôi ngược lên phía tây, ta dễ nhận thấy sự chuyển dần từ các bình địa bằng phẳng, làng mạc trù phú đến những dãy núi đá vôi nối tiếp nhau, cao dần và bề thế.
2. Thủy văn
Sông Mã – con sông lớn nhất của Thanh Hóa – chảy qua địa phận Cẩm Thủy theo hướng tây bắc – đông nam với chiều dài khoảng 40 km.
Khi vào đất Cẩm Thủy, sông Mã đã qua khỏi vùng thác ghềnh hung dữ từ Bá Thước – Quan Hóa, trở nên hiền hòa và uốn lượn quanh co.
Trong 31 thác lớn nhỏ từ Hồi Xuân (Quan Hóa) xuống, chỉ còn thác Ngốc trên đất Cẩm Thủy là thác hiểm trở cuối cùng. Dân đi bè từng truyền câu ca dao:
“Nhất Suội, nhì Cả, ba Long,
Lòng còn ái ngại Ngốc cùng mà thôi.”
Từ đây, sông Mã lặng lẽ chảy qua Cửa Hà, bồi đắp phù sa cho đồng bằng Thanh Hóa.
3. Giao thông
Hai tuyến giao thông huyết mạch của quốc gia đường Hồ Chí Minh (17 km, theo hướng Bắc – Nam) và quốc lộ 217 (38 km, hướng Đông – Tây) giao nhau vuông góc tại thị trấn Cẩm Thủy, trung tâm huyện.
Nhờ đó, Cẩm Thủy trở thành đầu mối giao thông chiến lược nối miền Tây Thanh Hóa với đồng bằng và Bắc – Nam.
4. Vị thế lãnh thổ
Cẩm Thủy là vùng cửa ngõ kết nối giữa miền Tây Bắc với miền Trung qua tuyến đường Hồ Chí Minh.
Nếu coi Thanh Hóa là “cửa ngõ Bắc Bộ”, thì Cẩm Thủy chính là đầu cầu phía tây của cánh cửa ấy.
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH – HÀNH CHÍNH
1. Thời cổ đại và trung đại
Theo khảo cổ học, vùng đất Cẩm Thủy có cư dân sinh sống từ rất sớm, thể hiện qua các di chỉ Núi Một (Cẩm Giang), hang Trống (Cẩm Tú), mái đá Chòm Đồng Đông, Đồng Tây (Cẩm Thạch) cùng dấu tích văn hóa Sơn Vi, Bắc Sơn và trống đồng loại I phát hiện tại Cẩm Giang, Cẩm Tú, Cẩm Bình…
Đây là cư dân bản địa người Việt cổ, nền tảng hình thành tộc người ở khu vực miền Tây Thanh Hóa.
Theo “Đại Nam nhất thống chí” và “Đồng Khánh địa dư chí”, qua các triều đại, vùng đất này có nhiều tên gọi khác nhau:
• Thời Đinh – Lê – Lý gọi là Cử Long Man;
• Thời Trần – Hồ: thuộc huyện Lỗi Giang;
• Thời Minh: thuộc Lạc Thủy;
• Thời Lê sơ (1434–1454): đổi thành Ba Long, sau là Đa Cẩm;
• Thời Quang Thuận (1460–1469): đổi tên thành Cẩm Thủy.
Thời Nguyễn Minh Mạng, Cẩm Thủy bao gồm cả Bá Thước ngày nay. Đến năm 1904 (Thành Thái 16), các tổng Sa Lung, Điền Lư được tách sang châu Quan Hóa; năm 1925, các tổng Cổ Lũng, Thiết Ống, Sa Lung, Điền Lư được lập thành châu Tân Hóa (Bá Thước).
2. Dưới triều Nguyễn
Theo “Đồng Khánh địa dư chí”, Cẩm Thủy thời Đồng Khánh có 9 tổng, 78 xã thôn.
Phong tục thời ấy được mô tả:
“Người Kinh và người Mường xấp xỉ bằng nhau. Người Mường ở nhà sàn, nuôi gia súc, đàn ông cày ruộng đốn củi, đàn bà dệt vải thô. Gỗ lim, tre, nứa rất nhiều; có loại tre đồi mồi có đốm hoa văn dùng làm võng cáng.”
III. CƯ DÂN – VĂN HÓA
1. Dân cư và nguồn gốc
Cẩm Thủy là “huyện hợp chủng” tiêu biểu của Thanh Hóa.
Người Mường từ Hòa Bình (Thạch Bi, Lạc Thổ – Lạc Sơn) di cư vào, cùng người Kinh, người Dao (từ Tuyên Quang, Hòa Bình, Phú Thọ…) cộng cư qua nhiều thời kỳ.
Những năm 1960, nhiều gia đình từ miền xuôi (Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Thiệu Hóa, Yên Định…) lên lập nghiệp.
Đặc biệt, gia đình Thủ tướng Phạm Minh Chính từ Hậu Lộc lên định cư tại Cẩm Phong năm 1963.
2. Văn hóa vật chất
Ẩm thực đặc trưng: cơm lam, canh đắng, cá đồ lá đu đủ, ốc đá, thịt trâu gác bếp, canh phắc, canh loóng…
Nhà ở truyền thống là nhà sàn Mường, song từ sau 1945 dần chuyển sang nhà đất kiểu Kinh.
Âm nhạc dân gian phong phú, đặc biệt là cồng chiêng Mường, trống đồng, khánh, sáo ôi, kèn tàu…
3. Phong tục – tín ngưỡng
Nhiều tập tục xưa đã mai một, song các nghi lễ cưới xin, tang ma, làm vía, kéo xi, trò Ma, Poồn Poông, lễ cấp sắc của người Dao vẫn được gìn giữ.
Các dòng họ có những kiêng kỵ riêng:
• Họ Trương (Cẩm Liên) kiêng thịt khỉ;
• Họ Phạm kiêng thịt chó, kỳ đà;
• Họ Hà kiêng ăn chim cuốc, không nằm chiếu ngang…
Phương ngôn – tục ngữ Cẩm Thủy đậm tính giao thoa văn hóa:
“Trống Vân Lộng, Cồng Vân Trai,
Gái Đồng Trình, Đình Quan Phác.”
“Đi hết mường Phấm còn lành,
Đi đến mường Danh thì rụng hết váy.”
IV. DI SẢN – DANH THẮNG
1. Danh sơn – thắng cảnh
Ba ngọn núi nổi tiếng ghi trong “Đại Nam nhất thống chí”:
• Diệu Sơn (núi Màu) – xã Cẩm Vân, có chùa Diệu San, nơi chúa Trịnh Sâm đề bút “Cẩm Vân Diệu Trí”.
• Tặng Sơn (núi Chặng) – xã Cẩm Sơn, có động đá vang tiếng như chuông, từng được cử nhân Lê Hữu Quang vịnh bài thơ thuận nghịch độc.
• Lê Sơn – xã Vân Trai, có miếu thờ thần Độc Cước.
Danh thắng Cửa Hà – nơi sông Mã lượn quanh chân núi, là biểu tượng tự nhiên của Cẩm Thủy.
2. Suối cá thần Cẩm Lương
Một kỳ quan thiên nhiên độc nhất, nơi cá thần tụ trong suối Ngọc dưới chân núi Trường Sinh, gắn với tín ngưỡng dân gian thờ thần cá và đền Ngọc.
3. Di tích – khảo cổ
Trên đất Cẩm Thủy phát hiện 5 trống đồng Đông Sơn loại I (được công nhận Bảo vật Quốc gia năm 2013), cùng 26 trống loại II.
Các di tích tiêu biểu: đình Tường Yên, chùa Diệu Sơn, động chùa Mổng, đền Cùng, đình Én, chùa Chặng, đình Muốt, chùa Vọng, chùa Rồng…
V. NHÂN VẬT – TRUYỀN THỐNG
1. Thời phong kiến
• Phạm Ngưu Tất, tướng thời Trần;
• Phạm Phúc Lộc, Thái bảo triều Lê;
• Cao Đình Độ, Lãnh binh thời Tây Sơn;
• Hà Công Luận, Quận công triều Nguyễn.
2. Thời hiện đại
Cẩm Thủy có nhiều người thành danh:
• Thủ tướng Phạm Minh Chính, quê gốc Cẩm Phong;
• Quách Lê Thanh, Cố Tổng Thanh tra Chính phủ;
• Hà Thị Liên, nguyên Phó Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam;
• Trịnh Thị Thủy, Thứ trưởng Bộ VH-TT&DL;
• Phạm Trí Thức, nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Quốc hội;
• Hoàng Bằng, Trung tướng – Chính ủy Viện KHQS;
• Đinh Tiên Phong, Phó Bí thư Tỉnh ủy Thanh Hóa.
3. Văn hóa – khoa học – nghệ thuật
Cẩm Thủy có 11 giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, cùng nhiều nhà giáo ưu tú: NGND Phạm Ngọc Quang, Phạm Văn Công, v.v.
Lĩnh vực văn học – nghệ thuật có các tác giả: Cao Sơn Hải (Giải thưởng Nhà nước), Mai Thanh, Hà Cẩm Anh, Phạm Thị Kim Khánh, nhạc sĩ Đồng Tâm – tác giả ca khúc “Về làm dâu sông Mã”.
VI. HIỆN TRẠNG HÀNH CHÍNH (TRƯỚC NGÀY GIẢI THỂ)
Trước khi sáp nhập, huyện Cẩm Thủy gồm 17 xã, thị trấn; sau sắp xếp còn 5 xã:
Cẩm Thủy, Cẩm Thạch, Cẩm Tú, Cẩm Vân, Cẩm Tân.
Tên xã mới được chọn theo nguyên tắc đại diện vùng, thể hiện nét đẹp văn hóa và truyền thống địa danh.
VII. TÀI LIỆU THAM KHẢO (trích dẫn trong văn bản)
• Đại Nam nhất thống chí ;
• Đồng Khánh dư địa chí;
• Thanh Hóa tỉnh chí;
• Tập thơ, văn bia, thơ ngự chế các triều đại (trích dẫn ghi trong phần mô tả danh thắng).
* Facebook Ngo Hoai Chung “Các huyện tỉnh Thanh Hoá trước ngày giải thể huyện 01/7/2025”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét