(Viết trước ngày giải thể huyện)
I. VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
Huyện Nông Cống trước khi giải thể thuộc tỉnh Thanh Hóa, nằm ở phía đông nam tỉnh. Theo Wikipedia, huyện có diện tích tự nhiên khoảng 284,91 km², dân số năm 2022 là 210.002 người, mật độ khoảng 737 người/km².
Về vị trí địa lý:
• Phía bắc giáp huyện Triệu Sơn và thành phố Thanh Hóa
• Phía đông giáp huyện Quảng Xương
• Phía tây giáp huyện Như Thanh
• Phía nam giáp thị xã Nghi Sơn
Địa hình huyện chủ yếu là đồng bằng, xen đồi thấp. Theo Wikipedia, vùng đồi chiếm khoảng 37% diện tích của huyện.
Một điểm địa lý nổi bật là dãy núi Nưa (còn gọi là Na Sơn), là một dãy núi chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, kéo dài khoảng 20 km, thuộc ba huyện Triệu Sơn, Nông Cống, Như Thanh. Núi Nưa là điểm cao và di tích thiên nhiên – văn hóa nổi bật của huyện.
Trên núi Nưa có đỉnh cao khoảng 538 m so với mực nước biển (theo các bài viết gần đây).
Truyền thuyết cho rằng trên núi Nưa có Am Tiên – quần thể kiến trúc tâm linh, đền Nưa, động, thung lũng bao quanh.
Về thủy hệ, các sông chính chảy qua hoặc nhập trong huyện gồm: sông Yên (đoạn sông Yên chạy qua địa bàn Nông Cống); các dòng sông nhỏ như sông Lãng Giang được ghi nhận trong các bản đồ địa lý cũ. Ngoài ra, huyện có mạng lưới kênh mương phục vụ tưới tiêu nông nghiệp.
Về giao thông, quốc lộ 45 đi qua huyện Nông Cống, đường sắt Thống Nhất có tuyến chạy qua, và từ ngày 1/7/2025, huyện Nông Cống được chia lại 7 xã theo Kết luận của Bộ Chính trị.
Theo Cổng Thông tin huyện, từ 1/7/2025, huyện Nông Cống có 7 xã (Nông Cống, Trung Chính, Thắng Lợi, Thăng Bình, Công Chính, Trường Văn, Tượng Lĩnh) sau sáp nhập tinh gọn hành chính.
Xã Nông Cống mới được thành lập từ các xã (Vạn Thắng, Vạn Hòa, Minh Khôi, Minh Nghĩa, Vạn Thiện và thị trấn Nông Cống) vào ngày 1/7/2025.
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ TÊN GỌI
1. Tên gọi và nguồn gốc
Theo các sử liệu cũ, vùng đất Nông Cống từng là một phần thuộc huyện Cư Phong (thời Hán), rồi là Di Phong (thời Tam Quốc), thuộc huyện Cửu Chân (thời Tùy – Đường)
Tên Nông Cống xuất hiện từ thời nhà Trần (năm Quý Hợi 1323) khi có chép đến “xã Cổ Định, huyện Nông Cống” trong sử.
Thời Minh, huyện Nông Cống thuộc châu Cửu Chân. Thời Lê, đổi phủ Hà Trung. Dưới triều Nguyễn, huyện được duy trì tên Nông Cống.
Trong “Đại Nam nhất thống chí”, huyện Nông Cống được mô tả: phía đông giáp Ngọc Sơn, phía tây tới Lôi Dương, phía nam giáp Ngọc Sơn – Nghĩa Đàn (Nghệ An), phía bắc tới Đông Sơn. Huyện Nông Cống từng rất rộng, bao gồm Nông Cống, Triệu Sơn, Như Thanh và một phần Thường Xuân.
Năm 1837 (Minh Mạng 18), tách tổng Như Lăng khỏi Nông Cống để hợp với Thọ Xuân lập châu Thường Xuân.
Năm 1893 (Thành Thái 5), tách tổng Xuân Du và Lãng Lăng để lập châu Như Xuân.
2. Hành chính thời Nguyễn – thời cận đại – trước khi giải thể
Theo “Đồng Khánh địa dư chí” (cuối thế kỷ XIX), Nông Cống thời Đồng Khánh gồm 12 tổng, với 221 đơn vị như xã, thôn, trại. Tổng Cổ Định 25 đơn vị, Đông Xá 21, Yên Định 21, Đô Xá 11, Lai Triều 13, Lân Du 7, Lãng Lăng 5, Văn Xá 28, Cao Xá 26, Lạc Thiện 26, Vạn Thiện 23, La Miết 22. (bản gốc bạn gửi)
Theo “Đại Nam nhất thống chí”, huyện Nông Cống thuộc phủ Tĩnh Gia. Huyện rộng 64 dặm đông – tây, 78 dặm nam – bắc. Thời Nguyễn, Nông Cống có 12 tổng, sau tách thành 10 tổng, 189 xã thôn. (bản gốc)
Trong lịch sử gần đây, tháng 2/1965, 20 xã của Nông Cống và 13 xã huyện Thọ Xuân được cắt để lập huyện Triệu Sơn. Sau đó, lấy 7 xã của huyện Tĩnh Gia nhập vào Nông Cống. (bản gốc)
Wikipedia ghi: sau 1945, huyện Nông Cống có 15 xã là An Nông, Công Chính, Đồng Tiến, Hoàng Sơn, Hợp Tiến, Khuyến Nông, Minh Khôi, Minh Nông, Tân Ninh, Tân Phúc, Tế Lợi, Thăng Bình, Trung Chính, Tứ Dân và Vạn Thiện.
Cũng theo Wikipedia, năm 1987 thành lập thị trấn Nông Cống (huyện lỵ) trên cơ sở tách phần đất – dân số từ các xã Minh Thọ, Vạn Thiện, Vạn Hòa.
Cũng theo thông tin mới từ chính quyền tỉnh: từ 1/7/2025, huyện Nông Cống được tổ chức lại còn 7 xã (theo tinh gọn bộ máy).
III. DÂN CƯ, PHONG TỤC VÀ ĐỜI SỐNG
1. Dân cư
Người dân huyện Nông Cống chủ yếu là dân tộc Kinh. Theo Wikipedia, dân số năm 2022 đạt khoảng 210.002 người trên diện tích 284,91 km².
Trong bản gốc bạn trích: thời Đồng Khánh, dân có học và sản xuất chủ yếu tập trung ở các tổng Cổ Định, Đông Xá, Yên Định, Đô Xá, Văn Xá, Cao Xá. Một số nơi có người Thổ xen cư.
2. Phong tục tập quán
Theo “Đồng Khánh địa dư chí”, cư dân Nông Cống “quê mùa chất phác”, việc học hành có ở các tổng như Cổ Định, Đông Xá, Yên Định, Đô Xá, Văn Xá, Cao Xá; cưới hỏi, tang ma, thờ cúng không quá xa hoa cũng không keo kiệt; trong các hương ấp đều có đình, chùa, miếu, văn chỉ; tín ngưỡng Thiên Chúa giáo ít, chỉ một xã Côn Cương.
Văn hóa dân gian Nông Cống rất phong phú: ca dao tục ngữ, trò chơi dân gian, lễ hội địa phương.
3. Sản vật và khoáng sản
Theo bản gốc bạn cung cấp:
• Lúa thu nhiều, lúa hè ít. Các cây như khoai, đậu, bông, vải mọc rải rác.
• Vùng rừng có cây gỗ tốt, mây song ở Lai Triều, Lãng Lăng, Lân Du.
• Quặng khoáng như cromit được phát hiện, đá secspangtin để sản xuất phân lân, quặng ba dan đen, sét trắng, quặng sắt.
Cần bổ sung: Núi Nưa có thành phần địa chất là đá mắc ma biến chất (gabbro-diabaz), một phần thuộc đới ophiolit Sông Mã, có tuổi khoảng 470 triệu năm.
IV. DI TÍCH VÀ DANH THẮNG
1. Núi Nưa – Di tích thiên nhiên và tín ngưỡng
Núi Nưa (Na Sơn) là biểu tượng lớn của Nông Cống, là dãy núi chạy qua ba huyện Triệu Sơn, Nông Cống, Như Thanh.
Trên dãy núi này có Am Tiên, đền Nưa – là quần thể di tích lịch sử – tôn giáo nổi tiếng.
Đỉnh Am Tiên là đỉnh cao nhất trong vùng đồng bằng phía nam Thanh Hóa, với chiều cao khoảng 538 m.
Dãy núi Nưa được người dân xem là “bức trường thành tự nhiên” ngăn cách vùng đồng bằng ven biển và vùng nội địa.
Truyền thuyết dân gian gắn với núi Nưa như câu chuyện “Người tiều phu ở núi Na” trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Các bài viết về di tích núi Nưa – đền Nưa – Am Tiên nhấn mạnh tính linh thiêng, vượng khí của vùng đất này.
2. Di tích lịch sử, đền chùa và di vật
• Đền thờ Bà Triệu dưới chân núi Nưa – nơi người dân thờ hung thần nữ anh hùng của vùng Cửu Chân.
• Đền Võ Uy (thôn Ngọc Uyên, xã Tân Phúc) và đền Lê Hiểm – Lê Hiêu (thôn Thái Sơn) được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia.
• Đền Lân Quốc công, Thái sư Phụ chính Đinh Liệt (làng Đông Cao, xã Trung Chính)
• Di chỉ khảo cổ núi Sỏi (xã Tân Phúc) – khu cư trú thời tiền sử, diện tích lớn (~910.000 m²), phát hiện nhiều đồ đồng, công cụ lao động.
• Di tích thành Hoàng Nghiêu (nối với núi Hoàng Nghiêu) – căn cứ lịch sử chống quân Minh do Nguyễn Chích lập, dựa vào thế núi.
• Đền thờ Đỗ Bí – người Nông Cống, khai quốc công thần nhà Lê, đền thờ tại làng Cung Điền, xã Minh Nghĩa.
• Đền thờ Lê Bật Tứ (Cổ Định) – văn bia năm 1629; vị quan gốc Nông Cống hiển đạt triều Lê.
V. NHÂN VẬT TIÊU BIỂU VÀ TRUYỀN THỐNG KHOA BẢNG
1. Danh nhân lịch sử
• Bà Triệu (Triệu Thị Trinh) – anh hùng dân tộc, truyền thuyết gắn với núi Nưa.
• Đỗ Bí – người Nông Cống, tướng nhà Lê, công thần khai quốc, có đền thờ ở làng Cung Điền.
• Lê Bật Tứ – gốc Cổ Định, đỗ Hoàng Giáp (1598), chức Thượng thư, tước Diễn Gia hầu.
• Lân Quốc công, Thái sư phụ chính Đinh Liệt – được thờ tại Đông Cao, xã Trung Chính.
• Nhiều người đỗ đạt qua các khoa thi: theo bản gốc bạn trích, có 19 vị đại khoa (Tiến sĩ, Hoàng Giáp) của Nông Cống trong lịch sử.
2. Truyền thống hiếu học
Nông Cống nổi tiếng là vùng đất hiếu học lâu đời. Qua 884 năm khoa cử, tỉnh Thanh Hóa có 2.898 người đỗ đại khoa, huyện Nông Cống có 19 vị.
Cổ Đôi (làng) nổi bật trong khoa bảng: có 11 người đỗ đại khoa.
VI. KINH TẾ – ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
Nông Cống vốn là huyện nông nghiệp trọng điểm của tỉnh. Đất phù sa đồng bằng chiếm phần lớn – thuận lợi trồng lúa. Vùng phía nam núi Nưa là đất đỏ bán sơn địa thích hợp cây công nghiệp.
Sản vật: lúa, khoai, đậu, cây dừa, nghề mây song ở các tổng Lai Triều, Lãng Lăng, Lân Du; cá mè, rươi, cáy ở các con sông nhỏ; cây kè (loại cây bản địa công dụng).
Khoáng sản: huyện có cromit Cổ Định, đá secspangtin (phân lân), quặng ba dan đen, sét trắng, quặng sắt…
Về đời sống: người dân sống chủ yếu bằng nông nghiệp, xen canh ruộng + rừng + nghề thủ công. Khi huyện có đường cao tốc, quốc lộ, giao thông tốt hơn sẽ mở ra tiềm năng phát triển công nghiệp – dịch vụ.
VII. TƯƠNG LAI VÀ GIẢI THỂ HUYỆN
Theo Kết luận 157/KL-TW ngày 25/5/2025 của Bộ Chính trị và Nghị quyết địa phương, từ 1/7/2025, huyện Nông Cống được điều chỉnh tổ chức bộ máy: chỉ còn 7 xã: Nông Cống, Trung Chính, Thắng Lợi, Thăng Bình, Công Chính, Trường Văn, Tượng Lĩnh.
Xã Nông Cống mới được thành lập từ các xã Vạn Thắng, Vạn Hòa, Minh Khôi, Minh Nghĩa, Vạn Thiện và thị trấn Nông Cống.
Dù huyện sẽ không còn theo mô hình cũ, bản sắc Nông Cống – núi Nưa, đền Nưa, truyền thống hiếu học, văn hóa dân gian, danh nhân – sẽ vẫn là tài sản tinh thần lớn.
Những tiềm năng về du lịch tâm linh (núi Nưa – Am Tiên – đền Nưa), phát triển kinh tế kết hợp giữa nông nghiệp và dịch vụ, khai thác khoáng sản bền vững – là những hướng phát triển cho vùng đất này.
KẾT LUẬN
Nông Cống là miền đất hội tụ giữa đồng bằng và núi non, giữa truyền thống lâu đời và khát vọng vươn lên. Qua các thời kỳ, từ vùng đất rộng lớn đến khi điều chỉnh hành chính, Nông Cống vẫn giữ được bản sắc riêng: núi Nưa linh thiêng, truyền thống hiếu học, di tích đền chùa trang nghiêm, nhân dân cần cù.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét