Video cho người lười đọc: https://youtu.be/5MRjevhB8r4
Tháng 3 năm 1644, Lý Tự Thành đem quân áp sát Bắc Kinh, ngày tàn của nhà Minh đã điểm. Sáng sớm ngày 19, Hoàng đế Sùng Trinh tự vẫn trên núi Thanh Sơn, nhà Minh diệt vong, Lý Tự Thành trở thành chủ nhân mới của Bắc Kinh.
Nhưng chỉ hơn một tháng sau, vào ngày 30 tháng 4, Lý Tự Thành vội vã rút khỏi Bắc Kinh, một năm sau thì hoàn toàn tan rã. Sau khi Lý Tự Thành rút lui, quân Thanh tiến vào chiếm đóng Bắc Kinh, bắt đầu thời kỳ thống trị hơn 200 năm trên vùng Trung Nguyên.
Quân Thanh nhân lúc nội loạn ở Trung Nguyên để tiến vào cửa ải, hành động này mang đậm dấu hiệu thừa nước đục thả câu. Tuy nhiên, việc quân Thanh nhập quan, trên thực tế đã ngăn chặn Trung Nguyên rơi vào tình trạng phân liệt kéo dài một lần nữa. Trong lịch sử, sau khi nhà Hán sụp đổ, tình trạng hỗn loạn kéo dài hơn 300 năm; sau khi nhà Đường diệt vong, lại hỗn loạn gần 100 năm. Nhưng nhờ sự tính toán của nhà Thanh, Trung Quốc đã có thể tiếp tục phát triển trong bối cảnh thống nhất, đây chính là nền tảng vật chất để họ có thể kế thừa lãnh thổ rộng lớn ngày nay.
Để nhanh chóng giành được thiên hạ, nhà Thanh sau khi nhập quan đã thực hiện nhiều chính sách nhằm thu phục lòng người Hán, trong đó quan trọng nhất chính là Thanh thừa Minh chế. Họ không chỉ sao chép nguyên mẫu cơ cấu tổ chức chính quyền của nhà Minh, tiếp tục sử dụng những quan lại người Hán đầu hàng, mà ngay cả cung điện cũng trực tiếp sử dụng Tử Cấm Thành của nhà Minh, có thể nói là lấy lý lẽ chính đáng để phản khách thành chủ.
Không nghi ngờ gì nữa, cách làm này đã thu hút một lượng lớn cựu thần nhà Minh, đặc biệt là những quan lại từng bị Lý Tự Thành ngược đãi. Việc sao chép nguyên xi chế độ quan chức nhà Minh khiến họ cảm thấy như được trở về nhà, dù sao thì họ vẫn có thể giữ được địa vị cao mà chẳng cần làm gì, mặc kệ ai lên ngôi hoàng đế! Xét cho cùng, họ đã sớm trở thành những xác chết biết đi, trơ trẽn và vô liêm sỉ.
Nhưng điều thú vị là, chế độ Xưởng Vệ, một đặc trưng lớn của nhà Minh, lại bị nhà Thanh bất ngờ loại bỏ. Cẩm Y Vệ cũng chỉ xuất hiện thoáng qua dưới thời Thuận Trị, dường như nhà Thanh cố ý xóa bỏ khối u độc này của tiền triều.
Nhưng chế độ Xưởng Vệ vốn là thanh kiếm sắc bén của hoàng đế, thực sự đã củng cố rất lớn quyền lực hoàng gia, lẽ nào hoàng đế nhà Thanh lại làm ngơ?
Vậy, những nguyên nhân nào khiến nhà Thanh không kế thừa chế độ Xưởng Vệ?
Chế độ Xưởng Vệ thời nhà Minh là biểu tượng của nền thống trị khủng bố bằng mật thám. Hình thức cai trị này có thể truy nguyên từ thời Chu Lệ Vương, khi người dân chỉ dám liếc mắt nhìn nhau trên đường, cuối cùng dẫn đến cuộc bạo động của quốc dân và Lệ Vương bị lưu đày. Đến thời Võ Tắc Thiên nhà Đường, bà cũng dùng chính sách mật thám để củng cố quyền lực. Chế độ mật thám bị nguyền rủa vì đắc tội với tất cả mọi người ngoài hoàng quyền, nên tất yếu vấp phải sự phản kháng.
Dù bị ngàn người chỉ trích, nó vẫn giúp kẻ thống trị giám sát hiệu quả hành vi phản loạn của quan lại và dân chúng, củng cố địa vị cai trị. Chu Nguyên Chương xuất thân nông dân nghèo, tính cách cực đoan, chưa bao giờ thực sự tin tưởng giới quan liêu. Nên ông ta cần mật thám để kiểm soát họ.
Cuộc đấu tranh quyền lực giữa vua và quan thần nhà Minh đã bắt đầu từ thời lập quốc. Chu Nguyên Chương bãi bỏ chức Thừa tướng nhằm hạn chế quyền lực của giới sĩ đại phu, nhưng ngay lập tức vấp phải sự phản kháng mãnh liệt từ họ. Năm 1449, sự kiện Thổ Mộc Bảo khiến lực lượng võ tướng tích lũy hàng chục năm của nhà Minh sụp đổ chỉ trong một đêm, thế lực văn quan nhân cơ hội trỗi dậy, uy hiếp nghiêm trọng đến hoàng quyền.
Lúc này, hoàng đế đơn độc một mình, việc đối phó với tập đoàn sĩ đại phu ngày càng lớn mạnh ngày càng trở nên khó khăn. Vì vậy, ngoài Cẩm Y Vệ, hoàng đế buộc phải tìm kiếm đồng minh đáng tin cậy hơn, và đó là lúc hoạn quan bước lên vũ đài chính trị.
Từ thời Vĩnh Lạc, Đông Xưởng được thành lập, hoạn quan dần trở thành trợ thủ đắc lực của hoàng đế. Chu Đệ cho hoạn quan học hành, nắm bắt văn hóa, từ đó những tên thái giám có học bắt đầu lộng quyền, gây rối triều chính.
Xuyên suốt triều Minh, dù hoạn quan luôn là đồng minh trung thành và nô bộc của hoàng đế, nhưng họ vẫn là nhân tố bất ổn phá hoại vương triều. Đến thời nhà Thanh, các vị vua rút kinh nghiệm từ triều trước, không còn dạy chữ cho hoạn quan. Không được mở mang kiến thức, bọn họ đương nhiên không có tham vọng hại nước hại dân. Đồng thời, nhà Thanh cấm hoạn quan giám quân, một lần nữa hạn chế quyền lực của tầng lớp này. Do sự đề phòng của hoàng đế, trên thực tế, hoạn quan không còn là đồng minh quan trọng nhất, vì vậy các cơ quan như Đông Xưởng không còn cơ hội hoành hành như trước nữa.
Ở triều Minh, cuộc đấu tranh giữa sĩ đại phu và hoàng đế diễn ra công khai và gay gắt, mọi ý kiến tranh luận đều có thể trở thành chính sách ban hành.
Giới sĩ phu nhà Minh tin rằng, dù hoàng đế nắm tính chính danh về mặt thể chế, họ lại giữ tính chính nghĩa về Nho giáo, thứ giúp họ đối trọng lại quyền lực hoàng đế. Nhờ đó, những bề tôi thẳng thắn như Hải Thụy mới dám dùng lý lẽ để phản biện.
Nhưng đến thời nhà Thanh, hoàng đế tuyên bố họ không chỉ nắm pháp thống, mà còn kiêm luôn đạo thống. Vì thế, các đại thần chỉ là nô lệ của hoàng đế. Chính sách được ban hành một cách bí mật, hoàng đế tự mình quyết định tất cả, còn đại thần chỉ việc thi hành.
Do đó, thời nhà Thanh là thời đại, muốn làm nô lệ mà cũng không xong. Trong bối cảnh này, hoàng đế đã đủ quyền lực để không cần hoạn quan giúp đối phó với sĩ phu, nên chế độ Xưởng Vệ cũng không còn lý do tồn tại.
Ngày nay, chúng ta thực hiện chế độ tự quản của thôn xã, tức là cơ quan quản lý nhà nước chỉ vươn tới cấp xã là cùng. Trong khi đó, trong một thời gian dài trước triều Minh, sự cai trị của đế chế trung ương chỉ kéo dài tới cấp huyện, tức là huyện lệnh do hoàng đế trực tiếp bổ nhiệm, đại diện cho ý chí của hoàng đế để cai trị. Dưới cấp huyện, quyền quản lý được giao lại cho các hào mục địa phương, tức là tầng lớp địa chủ.
Không thể phủ nhận, với tư cách là một hình thức cai trị đã chín muồi, mô hình này đã đảm bảo tối đa sự ổn định trong cai trị của đế chế trung ương, đồng thời phát huy được tính chủ động sáng tạo của tầng lớp địa chủ.
Nhưng sự ổn định này bắt đầu lung lay từ thời nhà Minh. Trước hết, sau khi trải qua ách thống trị của ngoại tộc, kết cấu nông thôn truyền thống bị tàn phá nghiêm trọng, giai cấp địa chủ không còn đủ khả năng gánh vác trách nhiệm bảo vệ an ninh địa phương, buộc hoàng đế phải trực tiếp ra tay. Ở vùng nông thôn rộng lớn, làm thế nào để đảm bảo nông dân không tụ tập bàn mưu tính kế phản loạn giữa đêm khuya? Do đó, hoàng đế cần người của Đông Xưởng đi thăm dò tình hình rồi báo cáo lại. Xưởng Vệ chính là thiên lý nhãn và thuận phong nhĩ của hoàng đế.
Lúc này, khoảng trống trong giai cấp địa chủ nông thôn lớn bao nhiêu, thì cần bấy nhiêu nhân lực Xưởng Vệ. Dù không vì thóc gạo dư thừa, nhưng mục đích duy trì ổn định cai trị của mọi người lại giống nhau như đúc.
Thế nhưng đến thời nhà Thanh, mọi thứ lại khác. Là người kế thừa vương triều đại nhất thống, nhà Thanh cũng đối mặt với lãnh thổ rộng lớn, không có chế độ Xưởng Vệ lẽ nào để hoàng đế thành kẻ mù lòa?
Tất nhiên là không. Nhà Thanh tuy không có chế độ Xưởng Vệ, nhưng lại sở hữu vũ khí đáng sợ hơn nhiều, đó là Bát Kỳ. Ban đầu, Bát Kỳ chỉ là hình thức tổ chức quân đội của Hậu Kim, dưới chế độ này, người Hậu Kim vừa là binh lính vừa là nông dân, đảm bảo vừa chiến đấu vừa sản xuất. Chế độ này vừa tăng cường sức chiến đấu, đồng thời cũng quản lý tất cả mọi người theo hộ khẩu. Nói cách khác, nó thiết lập sự kiểm soát nhân thân chặt chẽ với toàn bộ dân chúng.
Dưới chế độ này, tất cả mọi người đều trở thành cỗ máy chiến tranh, do đó không còn cơ hội để nổi loạn. Một công cụ hiệu quả như vậy đương nhiên phải được mở rộng. Sau khi chinh phục Mạc Nam Mông Cổ, Hậu Kim đã áp dụng chế độ Mông Cổ Bát Kỳ ở đây; sau khi nhập quan, họ lại thiết lập thêm Hán Bát Kỳ.
Bát Kỳ, vốn là một chế độ quân sự, đồng thời cũng đóng vai trò duy trì an ninh địa phương. Bằng cách nâng cao địa vị của Hán Bát Kỳ, đối xử họ ngang hàng với Mãn Bát Kỳ, để được lòng chủ nhân, những người này buộc phải chiều theo ý chủ, trở thành những tay sai ngoan ngoãn. Họ lại được phân bố khắp cả nước, nên kết quả cuối cùng là Hán Bát Kỳ và Mãn Bát Kỳ hợp thành một liên minh lợi ích khổng lồ, đứng trên đầu dân thường, đóng vai trò làm tai mắt và tay sai cho đế chế trung ương.
Rõ ràng, đây là một cơ chế tự giác. Hình thức cai trị cơ sở từng bị gián đoạn dưới thời Nguyên dường như đã được nhà Thanh khôi phục. Với sự tồn tại của tổ chức rộng khắp này, các cơ quan như Đông Xưởng, Cẩm Y Vệ trở nên không còn đất dụng võ.
Số lượng khởi nghĩa nông dân thời Thanh ít hơn hẳn so với thời Minh, một trong những nguyên nhân quan trọng là nhà Thanh đã kéo dài sự cai trị xuống tận thôn xóm, nhờ đó bóp chết mầm mống tai họa ngay từ trong trứng nước.
Trong bộ phim Đại Minh Hoàng Triều 1566, Giang Nam Chế Tạo Cục do thái giám Dương Kim Thủy phụ trách và thương nhân Thẩm Nhất Thạch giám công không phải là xưởng thủ công dân gian, cũng không phải doanh nghiệp quốc doanh, mà là tài sản tư nhân của hoàng đế Gia Tĩnh. Từ đầu triều Minh, hoàng đế đã bỏ qua hình tượng, tranh giành lợi ích với dân. Những ruộng đất màu mỡ quanh kinh thành sớm đã trở thành tài sản tư nhân của vương công quý tộc, trong đó hoàng đế là cổ đông lớn nhất.
Có ngành nghề thì có thu nhập, những ngành nghề này thuộc về hoàng đế, thu nhập đương nhiên cũng phải bỏ vào túi của hoàng đế, không liên quan gì đến quốc khố. Túi tiền của hoàng đế và quốc khố hình thành chế độ nội ngoại khố.
Thông thường, nội khố và quốc khố không can thiệp vào nhau, ngoại trừ việc quốc khố trả lương cho hoàng đế. Phần còn lại do các quan đại phu nắm giữ, nên nếu hoàng đế muốn sử dụng, phải viết giấy vay, làm tuyên bố, cuối cùng còn phải trả lại, nghĩ thôi đã thấy đau đầu. Vì vậy, những việc như mua sắm nội thất cho hậu cung, hoàng đế thà tự bỏ tiền túi ra còn hơn. Thậm chí, chi phí quân sự cho các cuộc Bắc phạt của Minh Thành Tổ Chu Đệ cũng đều lấy từ nội khố, một khoản chi khổng lồ, đủ thấy cái túi tiền này không hề nhỏ. Dĩ nhiên, tiền của Chu Đệ là do thái giám Trịnh Hòa đi Tây Dương kiếm về.
Sau thời Trịnh Hòa, việc hải thương dừng lại, vậy thì kiếm tiền từ đâu? Ngoài thu địa tô và các xưởng như Giang Nam Chế Tạo Cục, đến thời Vạn Lịch, hoàng đế cuối cùng cũng nghĩ ra một cách: thu thuế mỏ. Việc thu tiền này phải do những người thân tín như Đông Xưởng, Cẩm Y Vệ đảm nhận. Nhưng tiếc thay, một kế hoạch kiếm tiền hay như vậy lại bị các quan đại phu ngăn cản, bởi vì… mỏ là bát cơm của họ.
Nhưng nhà Thanh thì khác. Không còn phân biệt nội khố hay quốc khố, của ngươi là của ta, mà của ta vẫn là của ta. Điển hình nhất chính là câu Hòa Thân ngã xuống, Gia Khánh no bụng. Lúc này, quốc khố đã trở thành ví tiền riêng của hoàng đế, đây chính là biểu hiện điên cuồng nhất của chế độ chuyên chế tập quyền phong kiến.
Lúc này, thiên hạ đều phải cố gắng vì cái ví tiền này, hoàng đế cũng chẳng cần Đông Xưởng hay Cẩm Y Vệ đi thu thuế nữa.
Nhà Thanh tuy không đặt ra Đông Xưởng hay Cẩm Y Vệ, nhưng sự cai trị còn chặt chẽ và đáng sợ hơn; tuy không trọng dụng hoạn quan, nhưng lại thiến đi tâm hồn của mọi người. Cái ác của chuyên chế, còn ghê tởm hơn cái ác của Đông Xưởng gấp vạn lần.
Sưu Tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét