XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2025

HẬU LỘC



Đất và Người
Bài của Ngo Hoai Chung

Khi bắt tay vào viết về Hậu Lộc, cảm giác ban đầu của tôi là huyện đất hẹp, người đông, kinh tế nghèo, không có gì nổi trội. Tuy nhiên, khi đi sâu tìm hiểu, Hậu Lộc lại chứa đựng những giá trị văn hóa độc đáo mà nhiều huyện lớn không có được. Là huyện đồng bằng ven biển nhưng địa hình Hậu Lộc có 3 vùng rõ rệt: vùng đồi, vùng đồng bằng và vùng ven biển. So với các huyện lân cận như Hà Trung, Hoằng Hóa, Nga Sơn thì Hậu Lộc không có núi cao, sông sâu, hang động kỳ thú, danh thắng nổi tiếng. Mặc dù có đường quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt chạy qua nhưng vẫn cho ta cảm giác Hậu Lộc là huyện trái đường, biệt lập trong giao thương. Điều này có lý do là các tuyến giao thông quốc gia chỉ chạy qua một quãng ngắn phần mũi phía tây của huyện, cách biệt với phần lớn địa bàn. Hơn nữa, phía đông giáp biển, phía tây giáp sông Mã, phía bắc giáp sông Lèn, phía nam giáp sông Bút làm ranh giới tự nhiên với các huyện láng giềng nên lại càng có cảm giác xa cách. Trước khi tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, theo kết quả điều tra dân số năm 2019, Hậu Lộc có diện tích 144km2 đứng thứ 24, dân số 176.418 người đứng thứ 8 trong các huyện, thị xã, thành phố của Thanh Hóa. Mật độ dân số của Hậu Lộc là 1.228 người/km2, cao thứ 3 của tỉnh chỉ sau TP Thanh Hóa và Sầm Sơn. Đặc biệt, xã Ngư Lộc (Diêm Phố) có số dân là 19.000 người trong khi chỉ có diện tích 0,46km2, đạt 40.000 người/km2, là địa phương có mật độ dân số cao nhất Việt Nam. So với mật độ dân số của tỉnh Thanh Hóa là 338 người/km2 thì Hậu Lộc quả là một huyện quá “chật chội”!
Theo “”Đồng Khánh địa dư chí”, thời nhà Nguyễn “Hậu Lộc là huyện thống hạt thuộc phủ Hà Trung. Huyện lỵ đóng ở xã Duy Tinh, tổng Du Trường, xung quanh rào cọc tre nhọn, cao 7 thước, chu vi 40 trượng 5 thước, mở 1 cửa tiền, cao 7 thước. Huyện hạt phía đông đến biển; phía tây giáp giới huyện Mỹ Hóa; phía nam giáp huyện Hoằng Hóa; phía bắc giáp huyện Nga Sơn. Đông tây cách nhau 26 dặm. Nam bắc cách nhau 21 dặm. Huyện có 4 tổng, gồm 72 xã, thôn, trang, sở. Đó là tổng Du Trường 15 xã, thôn, trang; tổng Đăng Trường 19 xã, thôn, sở; tổng Chi Nê 22 xã, thôn, trang, sở; tổng Liên Cừ 16 xã, thôn trang”.
Về phong tục “Trong huyện người đi học và cày ruộng nhiều, người làm thợ, đi buôn cũng có nhưng không nhiều mấy. Hai tổng Du Trường, Đăng Trường học hành có phần khá. Hai tổng Chi Nê, Liên Cừ gần được mức chất phác. Việc cưới xin, tang ma, thờ cúng không quá hà tiện nhưng cũng không xa hoa. Văn từ, văn chỉ thì các xã đều có. Hàng năm vào mùa xuân tế thần cầu phúc, mở hội ca hát, hương ấp nào cũng thế. Cũng có nơi chơi đánh cờ người hoặc đua thuyền để vui đám hội. Theo Thiên chúa giáo, toàn tòng chỉ có một thôn Đa Phạn, gián tòng cũng chỉ mấy xã như Nam Huân, Bộ Đầu, Duy Tinh, Hiển Vinh, Hà Mạt mà thôi”.
Theo “Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa” tập thượng: “Huyện Hậu Lộc ở về phía nam phủ. Đông sang tây rộng 16 dặm, nam sang bắc dài 21 dặm. Phía đông tới biển và địa phận huyện Hoằng Hóa; phía tây liền huyện Vĩnh Lộc và huyện Mỹ Hóa; phía nam giáp huyện Mỹ Hóa và phía bắc tiếp 2 huyện Tống Sơn, Nga Sơn. Đời Trần về trước gọi là huyện Thống Bình, nghĩa là theo tên đất ở đó (xét trong Nguyễn Công Tiệp – sĩ hoạn tu tri, thì tổng Chi Nê trong huyện hạt này có xã Thống Trại và xã Thống Bình). Thời Minh đổi ra là Thống Ninh, cho vào Ái Châu thuộc phủ Thanh Hóa. Quang Thuận triều Lê đổi ra Thuần Hựu cho thuộc vào phủ này. Khoảng sau đời Lê Trung hưng tránh tên húy vua Lê Chân Tông (Lê Duy Hựu) đổi ra Thuần Lộc. Sau lại đổi là Phong Lộc. Triều nhà Nguyễn vẫn để nguyên tên cũ. Năm Minh Mạng thứ 2 đổi ra tên này (Hậu Lộc), cho làm kiêm lý của phủ. Năm thứ 19, đổi làm thống hạt. Nguyên trước lãnh 5 tổng ; sau trích tổng Đại Lý cho vào Mỹ Hóa. Năm Tự Đức thứ 30 (1877) lại trích trả như cũ. Đến năm Thành Thái thứ 3 , lại trích 2 xã Phú Gia và Phong Mục của tổng Dương San thuộc huyện Mỹ Hóa cho thuộc vào đây. Hiện lãnh 5 tổng, 94 thôn xã”.
Sách “Địa chí Thanh Hóa” tập I, phần Địa lý và Lịch sử có ghi cụ thể về quá trình hình thành và tên gọi của huyện Hậu Lộc. “Thời thuộc Hán là miền đất thuộc huyện Dư Phát. Thời Tam Quốc – Lưỡng Tấn – Nam Bắc Triều là miền đất thuộc huyện Kiến Sơ. Thời Tùy là miền đất thuộc huyện Long An. Thời Đường là đất huyện Sùng Bình. Thời Đinh – Lê – Lý giống như thời Đường. Thời Trần – Hồ là huyện Thống Bình thuộc châu Ái. Thời thuộc Minh đổi tên là huyện Thống Ninh. Thời Lê đổi tên Thống Ninh thành huyện Thuần Hựu thuộc phủ Hà Trung. Lê Chân Tông (kiêng húy) đổi tên thành huyện Thuần Lộc. Thời Nguyễn đổi tên lầ huyện Phong Lộc. Minh Mệnh 2 (1821) đổi là huyện Hậu Lộc. Tên huyện Hậu Lộc có từ đây”.
Như đã nói, Hậu Lộc là huyện ít núi sông, núi không cao, sông không lớn, địa hình đơn giản và khá bằng phẳng. Ngọn núi lớn nhất nằm ngay bên Quốc lộ 1A tại xã Triệu Lộc là núi Gai (tên gọi khác là núi Bân, Tượng Lĩnh, Phú Điền) thuộc làng Phú Điền. Ngọn núi có hình dáng giống như con voi đang quỳ về hướng tây, nơi có lăng mộ Bà Triệu trên núi Tùng và xa hơn là Quan Yên, quê hương của Bà. Tương truyền đây là chiến trường ác liệt Bà Triệu kịch chiến với quân Ngô và hy sinh tại đây. Bên sườn núi phía Bắc hiện nay có đền thờ Bà Triệu đã được trùng tu, tôn tạo uy nghi và linh thiêng. Chếch về phía tây núi Gai khoảng 1km là núi Tùng, trên đỉnh núi có lăng mộ Bà Triệu, dưới chân núi có mộ 4 vị tướng họ Lý đã tuẫn tiết cùng Bà.
Hòn Nẹ, mà sách “Đại Nam nhất thống chí” gọi là Tỷ Sơn (núi Tỷ) “Ở bên ngoài cửa bể Y Bích về phía đông huyện Hậu Lộc, cùng núi Linh Trường đối ngạn với nhau. Lại có tên gọi là Hài Tỵ Phong (núi Mõm Giày) và cũng gọi là Hoàng Ngưu Mẫu Tử Phong (núi Mẹ Con Trâu Vàng). Cảnh trí tuyệt đẹp, làm một nơi then khóa cho miền cửa bể. Ngay bên ven núi có đồn đóng từ trước”.
Sông Trà (còn gọi là sông Ấu) là con sông dài 13km, chảy giữa huyện Hậu Lộc, nối giữa sông Mã và sông Lèn. Sông Bút (sông Tuần Ngu) bắt nguồn từ sông Mã tại ngã ba Tuần Ngu chảy sang Hậu Lộc đổ ra biển ở cửa lạch Trường, tạo thành ranh giới tự nhiên của hai huyện Hậu Lộc – Hoằng Hóa. Sông Lèn là phân lưu phía bắc của sông Mã, là ranh giới tự nhiên giữa hai huyện Hậu Lộc và Hà Trung, đổ ra biển tại cửa lạch Sung. Hậu Lộc còn có sông De chảy ngang huyện Hậu Lộc theo hướng bắc – nam, chia huyện thành 2 vùng, vùng đồng ruộng và vùng biển.
Hậu Lộc là vùng đất cổ với các di chỉ khảo cổ nổi tiếng như Gò Trũng, Hoa Lộc. Di chỉ KCH Gò Trũng qua các di vật tìm thấy là sự tiếp nối của Văn hóa Đa Bút (Vĩnh Lộc), thuộc hậu kỳ đá mới, đánh dấu quá trình từ vùng trung du tiến về miền duyên hải của người Việt cổ, trước khi bước vào một thời đại mới, thời đại đồng thau của nền Văn hóa Đông Sơn rực rỡ. Những phát hiện tại di chỉ Hoa Lộc đã làm nên thuật ngữ KCH “Văn hóa Hoa Lộc”, một nền văn hóa tiêu biểu cho giai đoạn đầu của thời đại kim khí đồ đồng. Tại di chỉ khảo cổ học Hoa Lộc đã tìm thấy các hiện vật đồ đá, đồ gốm, đồ đồng, với cuốc, rìu, bôn, bàn mài…được chế tác tinh xảo đã khẳng định quá trình từ rừng núi tiến về khai thác đồng bằng ven biển của người Việt cổ, với sản xuất nông nghiệp thay cho hái lượm. Như vậy, ngay trên địa bàn huyện Hậu Lộc đã có 2 di chỉ KCH rất đặc biệt trên bản đồ KCH của cổ sử nước nhà. Nếu như Văn hóa Hoa Lộc là bước tạo dựng nên Văn hóa Đông Sơn, nền văn minh rực rỡ của người Việt cổ, thì di chỉ Cồn Trũng như một “trạm dừng nghỉ” của văn minh để chuẩn bị tiền đề, động lực thúc đẩy người Việt cổ bước vững chắc vào nền Văn hóa Hoa Lộc, nền văn minh kim khí, buổi đầu của nhà nước Văn Lang, thời đại Hùng Vương của dân tộc Việt Nam.
Hậu Lộc còn là vùng đất có bề dày lịch sử văn hóa của Thanh Hóa. Về số lượng các di tích lịch sử văn hóa có thể không nhiều như một số huyện lân cận nhưng về giá tri không thua kém, thậm chí có những nét độc đáo.
Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh là di tích cổ nhất Hậu Lộc và cũng là một trong các di tích cổ nhất của Thanh Hóa còn lại. Chùa nằm trên đất Văn Lộc, xưa kia là trị sở quận Cửu Chân 400 năm. Thời Lý, Tổng trấn Thanh Hóa Lý Thường Kiệt đã trấn nhậm ở đây tới 19 năm (1082 – 1101). Trải bao chiến tranh loạn lạc, lịch sử biến thiên ngôi chùa cổ đã bị đổ nát và mới được trùng tu lại lần cuối năm 2010. Qua nội dung tấm bia cổ có tuổi đời hơn 900 năm còn lại ta thấy hiện lên quy mô đồ sộ và tuyệt mỹ của ngôi chùa thuở ban đầu: “Rường nhà cong cong như cầu vồng nhô ra sau cơn mưa; ngói uyên ương phơi dưới gió như sập sè múa lượn. Nóc nhà uốn như trĩ bay xòe cánh; đấu chạm trỗ như phượng múa lân chầu. Mái cong cong lấp lánh dưới mặt trời hiện lượn quanh co trước gió. Tường vách chung quanh, một cõi bụi trần không lẫn; hành lang bao bọc bốn mùa hiên cửa thanh hư. Bên hữu có vườn thơm, khóm lan mềm mại đẫm móc; phía tả có ao mát, mặt nước hoa sen tốt tươi…chùa chiền ngăn nắp; tượng phật trang nghiêm…” (Thanh Hóa di tích và thắng cảnh, tập I, NXB Thanh Hóa, 2000). Hiện nay ngôi chùa còn các cổ vật vô giá đã có từ hàng ngàn năm trước. Đó là tấm bia khắc năm 1118, cao 2,02m, rộng 1,22m, trang trí dây leo, rồng xoắn, ghi chép lại việc sửa sang xây dựng lại chùa. Đó là ba bệ tượng bằng đá xanh tạc hoa sen, phía chân viền sóng nước được đặt trên đầu sư tử, phía trên là tượng Tam Thế đặt trên Tam Bảo có niên đại từ thời Lý, là những tác phẩm điêu khắc đá tinh xảo. Đó là hàng rồng chạm trên đá thời Lý, dấu tích còn lại của bậc đá lớn ở chùa, hiện đang nằm ở phía trước khu điện chính. Đó là đầu rồng và đầu phượng bằng đất nung, đặc trưng của nghệ thuật gốm nung thời Trần, di vật còn lại của không gian kiến trúc và nghệ thuật xa xưa của chùa. Đó là các đồ thờ như: bàn, ngai, khám, ỷ có từ thế kỷ 17, 18 và đại hồng chung được đúc năm Gia Long thứ 11 (1812). Chùa Sùng Nghiêm Diên Thành là ngôi chùa phối thờ độc đáo “tiền Thần, hậu Phật” thờ Lý Thường Kiệt và Đức Phật tại đây. Điều này thể hiện sự khoan dung tôn giáo và triết lý sống nhân hòa của cha ông ta.
Đền Bà Triệu tại xã Triệu Lộc được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt năm 2014, là một trong những di tích có giá trị hàng đầu của Thanh Hóa. Dân gian vẫn còn mãi câu ca: “Ai qua Hậu Lộc Phú Điền/ Nhớ xưa Bà Triệu trận tiền xông pha”. Làng Phú Điền xưa tên là Kẻ Bồ, Bồ Điền, nay tại đình làng vẫn thờ Bà Triệu làm thành hoàng làng. Đền Bà Triệu tương truyền được xây dựng vào thế kỷ thứ VI, dưới thời vua Lý Nam Đế. Khi nhà vua đi đánh giặc phương Nam có nghỉ tại đây và được Bà Triệu báo mộng giúp vua thắng giặc. Khải hoàn trở về vua cho dựng đền để ghi nhớ công ơn và tôn vinh Bà. Ban đầu chỉ là ngôi đền lợp tranh, đến thời nhà Nguyễn cho xây dựng lại. Năm 2007 - 2008, bằng nguồn vốn đóng góp của phụ nữ cả nước và từ Chương trình mục tiêu quốc gia về Văn hóa, ngôi đền đã được Sở VHTTDL đầu tư tôn tạo có quy mô như ngày nay. Ngôi đền có kiến trúc nội công ngoại quốc trên diện tích 3,6ha dựa lưng vào núi Gai rợp bóng cây xanh. Các công trình chủ yếu của đền là nghi môn ngoại, bình phong, nghi môn trung, nghi môn nội, sân thiên tỉnh, tiền đường, trung đường và hậu cung. Hiện nay, tại tòa Tiền đường còn có các cổ vật gắn với kiến trúc cổ là hệ thống cột đá hình vuông có khắc các câu đối chữ Hán và bức đại Tự “Nữ Trung Anh” để tôn vinh Bà. Trong các câu đối chữ Hán khắc trên cột đá có câu: “Thiên thượng tinh anh vạn nhân thanh sơn hiển thánh/ Nữ trung hào kiệt thiên thu bạch tượng truyền thần” (Tinh anh ở trên trời bậc non xanh hiển thánh/ Hào kiệt trong nữ giới nghìn thu voi trắng truyền thần). Hậu Cung nằm ở vị trí cao nhất dọc theo trục thần đạo, có đại tự “Thượng Đẳng Đại Vương”. Tại đây còn lưu giữ 10 cuốn thần phả bằng chữ Hán và 65 đạo sắc của các triều đại phong thần cho Bà. Toàn bộ diện tích 3,8ha được trồng cây xanh và tỏa bóng râm mát tạo không gian linh thiêng và mát mẻ cho đền. Lễ hội Bà Triệu được tổ chức thường niên vào các ngày từ 21 – 23 tháng 2 âm lịch với nhiều hoạt động lễ và hội để tôn vinh Bà Triệu. Tôi vẫn nhớ, khi được giao là chủ đầu tư tôn tạo đền Bà, cuối năm 2006 chúng tôi đã ra Hà Nội gặp Chủ tịch Hội LHPN Việt Nam Hà Thị Khiết. Sau khi nghe chúng tôi trình bày chị Khiết hoàn toàn tán đồng và sau đó đã phát động phụ nữ cả nước đóng góp kinh phí tôn tạo đền Bà. Có thể nói đền Bà là công trình được tu bổ có chất lượng, bảo tồn được các giá trị gốc, kiến trúc tuân thủ thức kiến trúc cổ của người Việt. Hiện nay đền được khách thập phương đến chiêm bái, thưởng ngoạn và trở thành một điểm đến linh thiêng, cẩm tú của du lịch xứ Thanh.
Hậu Lộc xưa kia có nhiều đền, chùa, nghè và nhà cổ. Câu phương ngôn: “Đình huyện Tống, trống huyện Nga, nhà huyện Hậu” đã nói lên niềm tự hào của Hậu Lộc. Hiện nay, có chùa Vích, nghè Cách là những di tích LSVH cấp quốc gia của huyện.
Hậu Lộc là vùng đất của những lễ hội và đặc sản văn hóa hấp dẫn. Diêm Phố là ngôi làng cổ, ngôi làng “nhất xã, nhất thôn” nay là xã Ngư Lộc, xã có mật độ đông dân nhất nước, cũng là nơi có lễ hội Cầu Ngư lâu đời và độc đáo. Từ xa xưa nơi đây người dân sống bằng nghề làm muối và đánh cá. Chỉ một dải đất nhỏ hẹp, nhưng Diêm Phố có đầy đủ các loại hình thờ tự như chùa, đền, nghè, miếu, đình với đặc trưng văn hóa biển đậm đặc. Trong đó nổi trội nhất là tín ngưỡng thờ Ông Nam Hải. Ông Nam Hải (cá Voi, cá Ông) gắn liền với nghề đi biển nên được người dân nơi đây coi như linh vật, đấng cứu độ nhân thế nên được dân tôn sùng, biết ơn cúng tế với nghi thức trang trọng nhất. Tại Diêm Phố có đền thờ cá ông được xây dựng từ năm 1739, nơi có bộ xương cá ông rất lớn, có sắc phong thần của nhà Nguyễn cho ngài với mỹ tự “Trừng Kham Dực Bảo Trung Hưng Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lâm Tôn Thần”. Từ tín ngưỡng đó, dân làng Diêm Phố đã thành lệ mỗi năm một lần tổ chức lễ hội Cầu Ngư (Cầu Mát) vào các ngày 22 đến 24 tháng 2 âm lịch. Đây là lễ hội biển có phần tế lễ và các hoạt động hội lớn nhất trong vùng. Nghi thức trang trọng nhất của lễ hội là rước và hạ thủy rồi hóa thuyền Long Châu vào giờ hoàng đạo linh thiêng. Lễ hội cầu Ngư thể hiện lòng biết ơn với biển cả của ngư dân Diêm Phố, đồng thời cũng là cầu cho mưa thuận gió hòa, cho mỗi năm ra khơi vào lộng sóng yên biển lặng, có cuộc sống no đủ. Năm 2017, lễ hội Cầu Ngư Diêm Phố đã được Bộ VHTTDL công nhận là di sản VH phi vật thể cấp quốc gia.
Nói về giá trị văn hóa truyền thống của Hậu Lộc không thể không nhăc đến sản vật quý là rượu Chi Nê. Dân gian có câu: “Rượu Chi Nê, kê bản Định”. Làng Chi Nê, xã Cầu Lộc là ngôi làng có truyền thống và giữ được bí quyết nấu rượu ngon đã từ rất lâu đời. Đây là loại rượu được nấu thủ công từ nếp quê trồng trên triền núi, dùng nước từ mạc nước ngầm tinh khiết từ mạch núi đá từ 4 quả núi bao quanh làng, lên men theo phương pháp cổ truyền kết hợp với 36 vị thuốc bắc, chưng cất truyền thống. Loại rượu này có nồng độ từ 35 – 55 độ nhưng đậm đà, êm dịu, thơm ngon, cay mà ngọt, được gọi là rượu đậu. Rượu Chi Nê đã được tặng Huy chương Vàng hàng Việt Nam chất lượng cao.
Hậu Lộc còn có những đặc sản nổi tiếng: “tôm he cửa Vích, cá trích cửa Trào”, gỏi cá ngừ Ngư Lộc (Muốn ăn con cá dưa dài/ Đem con mà trả cho trai xóm Bè/Diêm Phố), phi tiến vua cầu Sài…
Không chỉ là vùng đất của những di chỉ khảo cổ, lịch sử văn hóa độc đáo, Hậu Lộc còn là vùng đất xuất hiện nhiều nhân vật lịch sử. Họ là những danh tướng, các bậc đại khoa, các anh hùng nghĩa sĩ chống ngoại xâm, các chiến sĩ cách mạng thời hiện đại.
Cao Đáp, người Phú Lộc đã về tụ nghĩa dưới cờ Lê Lợi tại cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu. Qua mười năm cùng chủ tướng vào sinh ra tử, trải nhiều hiểm nguy, ông lập được nhiều chiến công xuất sắc. Khởi nghĩa thành công được xếp đệ nhất công thần, được vua phong chức Ngân Thanh Vinh Lộc đại phu, bổng thánh vệ đại tướng quân, tước Á hầu, được ban quốc tính Lê Đáp. Ông làm quan trải 4 đời vua, trung thần hết mực, khi mất được vua Lê Thánh Tông ban tước Đoan Nghị hầu. Ông được nhân dân lập đền thờ ngay tại quê hương;

Lê Quang Bí, sinh năm Bính Dần ( 1506) Nguyên quán ở Thuận Hựu ( Hậu Lộc) xứ Thanh.
Năm Mậu Thân ( 1548) Lê Quang Bí được cử làm phó sứ, sang sứ nhà Minh. Sự cố đầu tiên, đoàn sứ thần bị ách lại ở Nam Ninh. Người nhà Minh ngờ là giả mạo bắt phải chờ để tra xét thực hư.
Đằng đẵng 15 năm trời liên tằng những tra với xét, đoàn sứ bộ của Lê Quang Bí vẫn phải kiên nhẫn chờ và chờ... Tra mãi xét mãi nhưng Lê Quang Bí cứ bình thản chịu đựng... Tuân mệnh vua, quyết không làm nhục quốc thể. Mãi đến năm Quí Mùi (1563) viên quan trị nhậm Lưỡng Quảng vừa thương tình và cảm phục mới sai người đưa 25 lạng bạc và cho đoàn sứ bộ tiếp tục về Kim Lăng (Yên Kinh- Bắc Kinh)
Gối đất nằm sương ngày đi đêm nghỉ dằng dặc qua hàng trăm dịch quán. Tưởng đến Bắc Kinh là xuôn xẻ xong việc nhưng oái oăm, đoàn sứ bộ của Lê Quang Bí lại bị ách tiếp ở quán dịch để chờ tra xét ... Những tờ sớ tâu bẩm của đoàn sứ bộ cứ lần lượt rơi vào quên lãng... Mặc dù dằng dặc thời gian đợi chờ nhưng Lê Quang Bí vẫn chịu đựng kiên nhẫn kính cẩn giữ mệnh vua không tỏ ra bực tức, thần thái lúc nào cũng ung dung tự tại. Ba năm ở Yên Kinh, có những viên quan nhà Minh luôn tới dịch quán, tiếng là thù tạc giao thiệp nhưng thực chất là coi xét thái độ cùng nắm động cơ của đoàn sứ bộ. Rồi may có một viên quan nhà Minh tên là Lý Xuân Phương chức Đại học sĩ đã tỏ ra kính phục trước tiết tháo của vị sứ thần nước Nam. Lý Xuân Phương đã tâu lên vua Minh... Sau đó đoàn sứ bộ đã được gặp vua Minh cùng nộp lễ phẩm và chuẩn cho về nước!
Vậy là kỷ lục 18 năm đi sứ của Lê Quang Bí chưa có ai và thời đại nào của Đại Việt phá nổi!
Lúc ra đi tóc mây xanh mướt khi trở về râu tuyết bạc phơ! Người nhà Minh đã ví Lê Quang Bí như Tô Vũ xưa đi sứ sang Hung Nô vậy!
Vũ Sư Thước, người Mỹ Lộc là dũng tướng thời Lê Trung hưng, tham gia nhiều trận đánh lớn, có công lớn phò Lê diệt Mạc. Khi nhà Lê Trung hưng về Thăng Long ông được phonng Thái phó Trào quận công. Cuối đời chán ghét cảnh vua Lê chúa Trịnh, nhà chúa lấn áp vua, ông cáo quan về quê giúp dân khai khẩn đất hoang, dạy nghề cho dân. Khi ông chết dân thương tiếc góp công của lập đền thờ và xây lăng mộ ông ở quê. Tại đền thờ ông có câu đối: “Hộ quốc huân danh lưu sử quốc/ Thành gia sự nghiệp trấn gia Thanh” (Giúp nước công danh ghi sử nước/ Nên nhà sự nghiệp rạng đất Thanh).
Phạm Bành quê ở Hòa Lộc, quan Án sát tỉnh Nghệ An dưới thời nhà Nguyễn. Khi vua Hàm Nghi có chiếu Cần Vương ông bỏ quan về quê cùng Hoàng Bật Đạt mộ quân hưởng ứng. Ông đã cùng Hoàng Bật Đạt, Đinh Công Tráng xây dựng căn cứ Ba Đình (Nga Sơn) vừa làm chốt chặn giặc Pháp từ Bắc Kỳ tiến vào Thanh Hóa, vừa làm bàn đạp tiến đánh các căn cứ Pháp ở đồng bằng Thanh Hóa. Ông cùng nghĩa quân Ba Đình chống cự và gây cho Pháp nhiều tổn thất khi tấn công bao vây Ba Đình. Về sau, để cứu mẹ và vợ con bị Pháp bắt ông đã giả vờ đầu thú rồi tự tử để giữ khí tiết.
Hoàng Bật Đạt là người Thuần Lộc là một trong những lãnh tụ phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa. Ông cùng Phạm Bành, Đinh Công Tráng xây dựng căn cứ Ba Đình để chống Pháp. Khi Ba Đình thất thủ ông lánh về quê và tìm đường sang Trung Quốc mua vũ khí để kháng Pháp. Do bị thuộc hạ phản bội, ông bị Pháp bắt, tra khảo dã man nhưng ông không khai báo, chúng đã giết ông, bêu đầu để uy hiếp tinh thần dân chúng.
Hậu Lộc cũng là đất có nhiều người đỗ đạt dưới thời phong kiến. Đó là La Tu người Xuân Lộc đỗ Hoàng Giáp Khoa Giáp Dần (1374); Trần Nghĩa Lộ quê Xuân Lộc đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi (1499) năm mới 22 tuổi; Lê Nại quê Tuy Lộc đỗ Trạng Nguyên khoa Ất Sửu (1505) năm 27 tuổi; Lê Thế Nghiệp quê Thuần Lộc đỗ Tiến sĩ khoa Tân Mùi (1511) năm 27 tuổi; Hoàng Khắc Thận quê Đại Lộc đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1529) năm 25 tuổi; Hoàng Đăng Xuân quê Đai Lộc đỗ Tiến sĩ khoa Ất Mùi (1715); Lê Doãn Giai quê Hải Lộc đỗ Tiến sĩ khoa Quý Hợi (1743) năm 30 tuổi; Phạm Thanh quê Hòa Lộc đỗ Bảng Nhãn khoa Tân Hợi (1851) năm 31 tuổi.
Trong cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, Hậu Lộc là mảnh đất có nhiều chiến sĩ cách mạng tiêu biểu. Đó là Đinh Chương Dương, quê làng Y Bich, Hải Lộc; Lê Hữu Lập quê làng Hữu Nghĩa, Xuân Lộc; Nguyễn Chí Hiền quê làng Trường Trung, Hòa Lộc; Mẹ Tơm (Nguyễn Thị Quyển), thôn Hanh Cát, xã Đa Lộc cơ sở cách mạng nuôi nhiều chiến sĩ cộng sản.
Ngày nay, người Hậu Lộc làm rạng danh quê hương có Thủ tướng CP Phạm Minh Chính, quê ở Hoa Lộc, Hoàng Văn Hiều, quê Thịnh Lộc nguyên UV BCH TW Đảng Bí thư Tỉnh ủy TH, Bùi Đạt quê Thịnh Lộc nguyên Bí thư Tỉnh ủy TH, Trung Tướng PGS.TS Đồng Đại Lộc quê Ngư Lộc, GS Hoàng Tiến Tựu quê Hòa Lộc, Giải thưởng NN về Văn học – Nghệ thuật, Nguyễn Xuân Trạc quê Cầu Lộc, AHLĐ ngành Giáo dục…
Thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy, bãi bỏ cấp huyện, hiện nay Hậu Lộc còn các xã: Hậu Lộc, Hoa Lộc, Triệu Lộc, Vạn Lộc và Đông Thành.
Theo văn hóa truyền thống người Việt, nghĩa của từ HẬU LỘC có chiều sâu văn hóa tín ngưỡng và triết lý nhân sinh sâu sắc. Chữ HẬU có nghĩa là bền lâu, sung túc, là sự nối dài của thời gian và giá trị bền vững. Nó gói gọn cả đạo lý, nhân sinh, tín ngưỡng và luân lý xã hội. Chữ LỘC gắn với quan niệm về tín ngưỡng và triết lý dân gian. Hiểu rộng thì chữ Lộc có nghĩa là ơn phước, sức sống, may mắn tài lộc con người nhận được trong cuộc đời. Trong chiều sâu triết lý văn hóa, người có đức, sống nhân nghĩa sẽ được trời ban lộc. Điều thú vị là các xã Hậu Lộc trước đây đều có chữ Lộc đi kèm. Bây giờ dẫu không còn huyện Hậu Lộc nhưng vẫn còn đó Hoa, Hậu, Vạn, Triệu. Như vậy là hậu vận của đất và người nơi đây vẫn còn mãi không thôi.
Ảnh Đền Bà Triệu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét