Nguyễn Kim Binh
I. KHÁI QUÁT VỀ CHỮ “NHÀN” (閒)
1. Sơ lược về khái niệm “nhàn”
Cha ông ta từng viết: “nhàn cư vi
bất thiện” có nghĩa là nếu ta ở trong trạng thái rảnh rỗi, không có việc làm sẽ
dẫn đến các hành động sai lầm, ảnh hưởng xấu đến cuộc sống xã hội. Thực ra,
nguyên văn câu này có trong sách “Đại học” do Khổng Tử san định: “小人闲居为不善” (tiểu nhân nhàn cư vi bất thiện) là ý nói
những kẻ tiểu nhân mà ở không thì sẽ gây hại, làm những điều xấu. Ở đây, “nhàn
cư” không nên hiều nhầm như là quan niệm về
cuộc sống an nhàn giống với các nho sĩ ngày xưa, vốn ngán ngẩm chốn quan trường, tìm về chốn quê, để ẩn cư, hòa mình với thiên
nhiên mà “nhàn cư” ở đây là trạng thái
không có việc làm, nói như ngôn ngữ “teen” là “rảnh rỗi sinh nông nổi”.
Trong Hán tự, có rất nhiều chữ
“nhàn”: 僩, 嫺, 嫻 , 澖
,癇, 瞷 , 繝, 間, 鷳 , 鷴, 閑, 閒...
Tuy nhiên, “nhàn” 閑
trong “nhàn cư vi bất thiện” gồm bộ thủ
(môn + mộc) khác với nhàn 閒 (月 + 門). Trong bài
này, ta chỉ quan tâm đến nội dung và tính triết lý của chữ “nhàn” 閒 này.
Việc chiết tự chữ Hán thông qua các bộ thủ cho thấy: chữ Hán tuân theo
cấu tạo của phương pháp tượng hình hoàn chỉnh bao hàm ba mặt: Kí hiệu văn tự, ý
nghĩa văn tự, âm đọc, đều nằm một chữ (từ đơn âm). Thêm nữa, việc chiết tự còn là để thỏa mãn hình thức phân tích linh hoạt
trong địa hạt văn chương, tính trí tuệ đầy thú vị mà còn liên hệ cả phương diện âm và nghĩa,
biểu ý với chữ đơn thể hay hợp thể trên các nét hợp thành.
Xưa kia, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm
dùng hình ảnh月來門下閒
“nguyệt lai môn hạ nhàn” (Khi trăng đến dưới khung cửa thì đó là “nhàn” 閒 ); “月 到 書 樓 明 正 秋) Nguyệt đáo thư
lâu minh chính thu (trăng kề cửa, lầu sách đang là thu)
Tự điển Việt Nam (Thanh Nghị) cho
biết: Nhàn là thư thả, rỗi rãi, do có ít
việc hoặc không có việc gì phải làm, phải lo nghĩ. Đó là “rảnh rang, thong
thả”.
Có hàng loại các từ ngữ
có yếu tố “nhàn” mang ngữ nghĩa đơn giản như thế. Đó là nông nhàn, nhàn nhã,
nhàn hạ, an nhàn, nhàn rỗi...
Nhưng khi “nhàn” đi vào trong thi
ca: “Thân nhàn tựa áng mây trôi, Gió trăng nửa gối việc đời nhẹ tênh / Cõi trần
xa, cõi Phật thanh / Sân hoa máu đỏ, chim oanh líu lường” (Chu Văn An); hay
“Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn” (Nguyễn Công Trứ); “Để rẻ công danh đổi lấy nhàn” (Nguyễn Bỉnh
Khiêm) hay “đại đức bất du nhàn" (Khổng tử)...thì “chữ nhàn’” đâu còn đơn
giản là “rảnh rỗi” như ý nghĩa thông thường nữa.
2. Một số cách hiểu về chữ “nhàn”
Lao nhọc vất vả trên ruộng đồng,
người nông dân Việt Nam mong ước có được những giây phút rảnh rỗi, thảnh thơi
để nghỉ ngơi, bồi bổ sức khỏe. Thời gian
quý báu ấy gọi là “nông nhàn”. Đó cũng là thời gian cần thiết phải có để tạo
nên sự cân bằng , sự thoải mái trong cuộc sống. Ý nghĩa “tích cực” ban đầu là
thế. Nhưng “thái quá bất cập”, cái gì nhiều cũng không hay. Cho nên, “nhàn cư
vi bất thiện” là có ý nói lối sống không nghề nghiệp, quá rảnh rỗi là lối sống
không hay, không tốt, là tiêu cực.
Ý nghĩa “rảnh rỗi” ban đầu là thế
nhưng khi đi vào địa hạt văn chương chữ nghĩa thì bao giờ cũng có những ngữ
nghĩa riêng, tùy vào ngữ cảnh và cá nhân sáng tác. Chẳng hạn, trong bài thơ “
đạo nhân vân thuỷ cư”(Lê Thánh Tông): 道人自有清閒趣 , 窈窕青筇石上攜 “Đạo nhân tự hữu thanh nhàn thú,
yểu điệu thanh cung thạch thượng huề” thì “thanh nhàn” ở đây được hiểu là “thú vui rong chơi
đây đó” của các bậc tao nhân mặc khách mà thôi[1]. Còn với Trạng Bùng - Phùng
Khắc Khoan: “Lự vô trần mỗi nhật thanh nhàn” thì “thanh nhàn” chính là “an
bình, thanh thoát”. Đó là thơ chữ Hán. Còn với thơ Nôm, trong “Đoạn trường tân
thanh” của cụ Nguyễn Du thì “chốn thanh nhàn” phải được hiểu là “chốn hạnh
phúc”, “là buồng tân hôn trong ngày cưới”
“Buồng riêng sửa chốn thanh nhàn
Đặt giường thất bảo, vây màn bát
tiên”.[2]
Và khi “nhàn” đi vào lĩnh vực triết lý thì ngữ nghĩa
lại có nhiều sự biến chuyển. “Nhàn” trở thành thái độ sống, phong cách sống của
các bậc hiền triết, tiên nhân của Đông phương . Trong "đại đức bất du
nhàn" (Luận ngữ) thì “nhàn” là
“phép tắc, quy củ”. Cả câu này lại có nghĩa: Người có đức lớn không vượt
khuôn phép, quy củ. Trong thành ngữ:
"nhàn vân dã hạc" lại có nghĩa là “mây trói con hạc giữa đồng” có ý
nói: Con người sống nếp sống Đạo gia
(Lão – Trang) không bị câu thúc, ràng buộc gì. Còn "nhàn tỉnh, dật
trí" lại là phong cách sống an tịnh, siêu thoát của Đạo giáo. Đến với
“thân nhàn , tâm bất nhàn” thì lại chỉ người lao động vất vả nhưng lại có tâm
hồn tự do, tiêu dao, thảnh thơi mang nhiều yếu tố tích cực. Xưa kia, chú trọng đến “tâm nhàn” để không chạy theo
danh lợi, phú quý, các nhà Nho đã nâng tầm triết lý “nhàn” lên một đỉnh cao,
trở thành một lối ứng xử trong cuộc sống. Đó là “Tri túc thân vô nhục, tri cơ
tâm tự nhàn” (Biết đủ thì thân không chịu nhục, hiểu được cơ trời, quy luật của
trời).
Trần Nhân Tông, vị vua kiêm thiền
sư đời Trần, trong bài ca "Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca" thì xem
“nhàn hạ” là “không màng đến công danh phú quý” như sau:
“Công danh chẳng trọng,
Phú quý chẳng màng;
Tần Hán xưa kia,
Xem đà nhèn hạ.”
Kết thúc bài ca trên, vị Phật tử
này viết: "Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn kim". “Vạn kim” là vạn lượng
vàng, là giàu sang phú quý.
Có thể nói, “nhàn” ban đầu chỉ với
ý nghĩa “rảnh rỗi” nhưng khi đi vào trong văn chương thì đã có sự chuyển biến
ngữ nghĩa. “Nhàn” là bình an, thong dong, không vướng bận, là đỉnh cao của hạnh
phúc. Trong triết lý của Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo, “nhàn” lại được nâng
lên “tính triết lý” cao hơn. Đó là “diệt dục”, vượt qua “tham, sân si” (Phật);
“không luỵ công danh”(Nho), “tự do, siêu thoát”(Lão).
Tiếp thu tinh hoa tư tưởng phương
Đông, ngữ nghĩa chữ “nhàn” trong Công giáo cũng có nét sâu sắc . “Nhàn” hiện
diện như một “biệt ngữ, thuật ngữ” trong sách giáo lý, lời cầu xin trong các
kinh thường đọc sáng tối và “nhàn” còn là “khát vọng lớn lao” cả trong cách nói
năng hằng ngày của người Công giáo. Chẳng hạn: “Lạy Chúa, xin cứu chữa linh hồn
này khỏi hỏa ngục, được lên chốn an nhàn vui vẻ đời đời” [3]. “Nhàn” trong Công
giáo chính là “Thiên Đàng” là “phúc đức” hệ tại chính nơi Thiên Chúa mà người
Công giáo hằng khao khát tìm kiếm.
II. TRIẾT LÝ NHÀN TRONG VĂN HÓA
ĐÔNG PHƯƠNG
1. Cơ sở hình thành tư tưởng
“nhàn”
Trong đời sống, các học thuyết tôn
giáo luôn có những tác động ảnh hưởng và chi phối tư tưởng xã hội, cũng như đời
sống cá nhân. Tư tưởng là một hệ thống các mục đích và quan niệm sống giúp điều
chỉnh mục tiêu, dự tính và hành động của con người, bao gồm những quan điểm và
ý nghĩ chung đối với hiện thực khách quan và đối với xã hội.
Ở Đông Á , ba tôn giáo lớn: Nho,
Phật và Lão – Trang chi phối mạnh mẽ hệ tư tưởng Trung Hoa cũng như các nước
lân cận, trong đó có Việt Nam.
Phật giáo vốn từ Ấn Độ, còn Lão
giáo và Nho giáo có nguồn gốc từ Trung Quốc. Du nhập vào Trung Quốc từ khoảng
thời Đông Hán đến Đông Tấn, Phật giáo lúc bấy giờ thấy cần phải vay mượn một số
thuật ngữ, khái niệm, và cả tư tưởng của Nho giáo, Lão giáo để chuyển tải giáo
lý của mình. Về phía Nho giáo và Lão giáo sau khi giao lưu, tiếp xúc với tư
tưởng Phật giáo thì các nhà Nho, Đạo sĩ đã nhìn thấy những khiếm khuyết trong
hệ tư tưởng của đạo mình và muốn hoàn thiện bằng những giáo lý từ nhà Phật. Như
thế, cả ba tôn giáo, đúng hơn là ba học thuyết đã tìm thấy sự hỗ trợ của nhau
để cùng phát triển. Từ đó, hiện tượng “tam giáo đồng nguyên” ra đời.
1.1. Khái quát Tam giáo đồng
nguyên
a. Tư tưởng Nho giáo
Trong ba học thuyết thì Nho giáo là
có tầm ảnh hưởng sâu rộng hơn và đã trở thành ý thức hệ chính thống của chế độ
quân chủ phong kiến ở các quốc gia Đông Á. Riêng tại Việt Nam, Nho giáo là hệ
tư tưởng ảnh hưởng sâu rộng và lâu dài đến xã hội nhất. Tư tưởng Nho là nền
tảng đạo đức giáo dục con người, tổ chức bộ máy nhà nước, duy trì trật tự xã
hội, phát triển kinh tế, sáng tác văn học trong các triều đại quân chủ như: Lý,
Trần, Lê và nhà Nguyễn. Suốt chiều dài lịch sử, Nho giáo dung hòa với đời sống
người Việt, tạo nên bản sắc Nho giáo Việt Nam gọi là Việt Nho.
Tư tưởng “Thân tu nhi hậu gia tề”
(Đại học) cho thấy: Nho giáo luôn lấy “tu thân” làm nền tảng, kiểm soát những
bản năng thân xác để đạt đến trạng thái: “Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất
năng di, uy vũ bất năng khuất” (Mạnh tử). (Giàu sang không thể làm điều ham
muốn bất chính, nghèo khó không thể chuyển lay, quyền uy không thể khuất phục).
Khái niệm “tu thân” được chuyển hóa thành ca dao như một lời răn:
“Tu thân rồi mới tề gia
Lòng ngay nói vạy, gian tà mặc
ai”.
“Tu thân” đã trở thành “kim chỉ
nam” hướng đến quan niệm coi thường phú quý, danh lợi và cũng là nguyên do dẫn
dắt nho sĩ tìm đến tư tưởng “nhàn”. Hơn nữa,
không chỉ “Bảo tồn thiên lý, khử dục vọng bản thân”, Nho giáo còn đặt ra
vấn đề hành xử của nho sĩ: “Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng” (Được dùng thì
ra làm việc, không được dùng thì lui về); “Cùng tắc độc thiện kỳ thân, đạt tắc
thiện thiên hạ” (Nếu đến mức bi đát nhất thì ta chỉ cần giữ cho bản thân mình
được thanh cao, nếu được tin dùng thì giúp mọi người thanh cao như ta vậy); là 天下有道則見 無道則隱 “Thiên hạ hữu đạo tắc hiện, vô đạo tắc
ẩn”(Lúc thiên hạ có đạo thì ra mặt, lúc thiên hạ vô đạo thì ẩn mình). (Luận
ngữ)
Có thể khẳng định đường lối tu thân
và vấn đề minh triết bảo thân (hiểu biết sâu rộng để có thể bảo toàn tính mạng,
danh dự), trở về, hòa mình với thiên nhiên, di dưỡng tính tình, giữ gìn tiết
tháo của nhà nho chính là nguồn gốc nảy sinh tư tưởng “nhàn” trong văn học Nho
giáo.[4]
b. Tư tưởng Lão - Trang
Nho giáo được đề cao ở vị thế tư
tưởng chính thống nhưng không phải vì thế mà các hệ tư tưởng khác không còn đất
dung thân. Trên thực tế, tư tưởng Lão – Trang (Đạo gia) vẫn ăn sâu, bám rễ, tồn
tại, phát triển trong xã hội, ảnh hưởng nhiều đến tầng lớp Việt Nho và để lại
dấu ấn trong văn học nghệ thuật.
Trên phương diện đạo đức học, Lão
Tử thấy rằng: cần xóa bỏ “hữu vi” và thực hiện cái “vô vi”, nghĩa là sống thuận
theo tự nhiên, trở về nguyên sơ của tự nhiên. Trong Nam Hoa kinh, Trang Tử quan
niệm: Cuộc đời con người như chiếc bóng, nhân sinh tựa giấc chiêm bao, sống
chết như sự chuyển dịch của bốn mùa. Do vậy, con người phải thuận theo tự
nhiên. Phương châm sống “tri túc”, “tự lạc”, gạt bỏ danh lợi, diệt trừ dục vọng
để đạt đến “hư tâm”, xem nhẹ công danh, phú quý. Quan niệm ấy của Trang tử là
nguyên do xuất hiện tầng lớp “u nhân”, “mặc sĩ” của Trung Hoa như: Bá Di, Thúc
Tề, Vương Nghệ, Mạnh Hạo Nhiên, Đào Tiềm v.v. Lối sống ẩn dật và sáng tác văn
học của các bậc tiên nhân này đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan niệm “xuất xử”
của nho sĩ Việt Nam. “Gặp thời hay, thi thố tài năng thì “xuất”; lúc bất đắc
chí , hay tuổi già, hay chán quan trường thì về với thú vui điền dã, xuất
xử”
Lối sống “tri túc”, “tự lạc” trở
thành một phương tiện để nho sĩ ẩn dật đạt đến trạng thái “nhàn” – sống hòa
mình với thiên nhiên thanh sạch, gạt bỏ lòng tư dục, ham muốn công danh. Nguyễn Công Trứ - nho sĩ Việt Nam vẫn đạt
được cái tự tại trong bài thơ “Chữ nhàn: “Tri nhàn, tiện nhàn, đãi nhàn hà thời
nhàn” (Biết đủ là đủ, đợi cho đủ thì bao giờ mới đủ. Biết nhàn là nhàn, đợi cho
nhàn thì bao giờ mới nhàn?) Đây chính là hình mẫu nho sĩ vượt khỏi vòng danh
lợi, trần tục. Quan điểm đó phần nào gắn với thái độ của lão Trang, thiên về
“vô vi, hiếu lạc”. Thái độ “cầu nhàn” này không phải để suy nghĩ về đạo lý mà
là để hưởng thụ cuộc đời lạc thú. Họ thoát tục không phải bằng tu hành, diệt
dục mà là bằng rượu, thơ, cờ, đàn, cô ả, trăng gió, sông núi. Họ có cốt cách
giang hồ, tài tử chứ không khổ hạnh. Họ nhìn ra những biến chuyển của dòng thời
gian và bày tỏ tinh thần hòa nhập, hòa giải với thế giới thiên nhiên.
Trong Đạo đức kinh, Lão tử viết: 無為而無不為 “Vô vi nhi
vô bất vi”. “Vô vi” không có nghĩa là “không làm gì” mà làm như không làm gì
nhưng để sự việc phát sinh một cách tự nhiên hòa hợp với Đạo. Với Trang tử,
hạnh phúc của bậc chân nhân có được là nhờ biết “thuận tự nhiên”, bằng lòng với
thực tại, đó là nhờ “vô vi”, là trạng thái “im lặng” bên trong, là cách sống
thanh tịnh. Trang tử còn xem “vô vi” là mẫu mực sống của các bậc thánh nhân,
rong chơi ở cõi vô cùng, tâm hồn hòa đồng cùng vạn vật thản nhiên trước sống
chết, được thỏa mãn mọi ý thích và phát triển bản tính tự nhiên vốn có của
mình. Đó là “chí nhân vô kỷ, thần nhân vô công, thánh nhân vô danh” (Nam hoa
kinh, thiên tiên dao du). Cái “vô” ở đây là hành xử phải không có tâm hữu cầu,
phải quên đi những quan niệm ràng buộc mạnh mẽ, từ đó mới có thể ung dung tự
tại, hòa hợp với đạo của tự nhiên.[5]
Nhắc đến các nho sĩ Việt Nam, mà
điển hình là Nguyễn Trãi, thì tác giả Trần Đình Sử cho rằng ông là một con
người “ao ước sống nhàn trong một thế giới vô kỷ, vô công, vô danh, “tề thị
phi”, “tề vạn vật” như Trang Tử”. Mặt khác, ông cũng nhận thấy dù Nguyễn Trãi
chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Lão – Trang nhưng thực chất: “Mâu thuẫn thường
trực của Nguyễn Trãi là mâu thuẫn giữa xuất và xử, lánh trần hay nhập thế...
Đây là vấn đề đặt ra thường xuyên cho nhà nho xưa. Nhưng với Nguyễn Trãi thì
vấn đề trở thành day dứt, đau đớn” [6]
c. Phật giáo
Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ,
sau đó, nhanh chóng trở thành một tôn giáo có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều
quốc gia ở châu Á. Ở Việt Nam, Đạo Phật được du nhập từ thời Bắc thuộc, chiếm
vị thế quan trọng trong các thế kỷ X, XI, XII, và phát triển đỉnh cao trở thành
quốc giáo dưới thời Lý – Trần. Những thế kỉ tiếp theo, dù không được xem là
quốc giáo nhưng Phật giáo vẫn tiếp tục phát triển trong lòng xã hội và ăn sâu
vào tâm thức các tầng lớp nhân dân. Quan niệm “cuộc đời là bể khổ” trầm luân;
nhân sinh, vạn vật là “vô ngã”, “vô thường”, Phật giáo hướng con người đến sự
siêu thoát khỏi vòng “luân hồi” của số kiếp để đạt đến cõi Niết Bàn – cõi “Vô
minh”. Để đến được cõi Niết Bàn, con người phải diệt được “tham”, “sân”, “si”,
giữ cho tâm hồn tĩnh tại, trong sáng, thoát khỏi những vướng bận của “hồng
trần”. Xét về bản chất, Phật giáo là một tôn giáo, học thuyết triết học quan
tâm đến thân phận và hạnh phúc của con người.
Lúc mà Nho giáo ở Trung Quốc lộ vẻ
sa sút, không còn nguồn cảm hứng chính
cho sáng tác, quá câu nệ các nghi thức và phương pháp thực hành, còn Đạo
giáo, thì đang bị vùi lấp trong một cơ cấu thế tục và mê tín, thì Phật giáo đại
thừa (thiền tông) xuất hiện mang lại một sức mạnh mới để hồi sinh và tác nhân
kích thích để sự tìm tòi về mặt tư tưởng có thể đơm hoa kết trái. Mặt khác, khi
Phật giáo vào Trung Hoa, tư tưởng giải thoát cái bản ngã của Phật đã phối kết
với lối sống “pháp tự nhiên, vô vi” của Đạo gia tạo ra Thiền, trạng thái tĩnh
lự, tập trung cao độ, lấy thanh tĩnh làm
gốc đã hướng con người đến bản chất của chữ “nhàn”.
Phật giáo vào Việt Nam bằng 2 con
đường: Ấn Độ và Trung Hoa. Lịch sử văn hóa Việt Nam cho thấy các thiền sư cũng
là chính là những nhà Nho. Trong các tác phẩm của mình, các thiền gia viết bằng
chữ Nho và thường diễn đạt tư tưởng Thiền bằng ngữ vựng của Nho giáo . Có thể
kể tên các vị chân tu: Khương Tăng Hội, Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông, Vạn
Hạnh, Ngô Chân Lưu, Mãn Giác, Khánh Hỷ, Cẩm Thành, Tuệ Trung Thượng Sĩ, Pháp
Loa, Huyền Quang, Hương Hải… đến các bậc quân vương như Lý Nhân Tông, Trần Thái
Tông, Trần Nhân Tông, Minh Tông, các nho sĩ như Nguyên Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du… Trường phái thơ Thiền cực thịnh vào thời Lý - Trần,
trầm lắng sau Trúc Lâm Tam Tổ (đầu thế kỷ XIV), phục hưng vào cuối thế kỷ
XVIII.
Thêm nữa, thiền (thiền na) chính là
trí huệ (prajna), một loại tri kiến hoàn toàn tự do, tự tại, không giới hạn,
không vướng mắc, không chủ quan, không khách quan, hướng con người vào“cảnh
giới bất tri”, vượt tầm khả năng diễn đạt của ngôn ngữ và đạt đến một chữ “ cao
siêu” trong tâm thức. Thực tế, có đôi khi chúng ta cũng rơi vào trạng thái “an
lạc, nhàn tâm” như vậy.
Nhận định về Phật giáo, Nguyễn
Đăng Thục cho rằng: “Phật giáo là một tôn giáo mở cửa độc nhất trong các tôn
giáo thế giới, không tự khẳng định mình là thật mà phủ định cả Ngã và Pháp,
siêu lên cả có lẫn không, mới có thể cống hiến cho dân tộc Việt Nam đất Giao
Chỉ cái nhựa sống thiết yếu để hợp nhất các khuynh hướng tư tưởng, tín ngưỡng
giao lưu xung khắc thành cái ý thức hệ khai phóng của địa lý đòi hỏi”.[7]
Trong cuốn “Việt Nam cổ văn học
sử”, Nguyễn Đổng Chi xếp thơ Thiền là loại “thơ cao siêu”. Còn trong đời sống
sinh hoạt hằng ngày, Thiền có mặt trong phong cách: uống trà, cắm hoa, làm
vườn… cả trong võ thuật, y học và sinh
hoạt văn nghệ. Trong phong cách của các vị chân tu Phật giáo, chữ “nhàn” bộc lộ quan niệm“ Sắc
tức thị không, không tức thị sắc. (kinh Bát Nhã) . Trong “Trung quán ngu hứng”
thì “Xuân hoa phong nguyệt không mà sắc”. Học giả Minh Chi thuộc Học viện Phật
giáo Việt Nam cũng xác định: Nhàn trong Phật giáo là không lụy công danh, không
vướng tài sắc.
Nho sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm khi về
hưu, chọn cho mình tự hiệu là Bạch Vân Cư Sĩ. “Cư sĩ” tức là giống như “bồ tát”
(Phật), với lý tưởng cứu nhân độ thế, là hy sinh lợi ích nhỏ của tự thân, phải
hoàn toàn quên mình, quán triệt lý vô ngã, không còn vấn vương danh lợi, tài
sắc thế tục, chứ không phải là bàng quan đối với thế sự, không phải là lánh
đời.
Qua bài thơ “Cảnh nhàn”, Nguyễn
Bỉnh Khiêm cũng đủ chứng minh cho hiện tượng tư tưởng của tam giáo đồng quy
trong thi ca Việt Nam như thế nào:
“Một mai, một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao
xao
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhấp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.
Đó là hình ảnh của một vị thiền sư
tay cầm cây tích trượng đang ung dung nhàn nhã trong một cảnh giới hết sức tự
nhiên vô sự: mặc cho dòng đời trôi, người đời bon chen giành giật tiền tài,
danh vọng, địa vị.... Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhận chân được tất cả những thứ đó
chỉ là “tạm bợ” như “chiêm bao” mà thôi.
1. 2. Dung hợp tư tưởng Tam giáo
ở Việt Nam
Từ thế kỷ II, tư tưởng Tam giáo
đồng nguyên đã xuất hiện ở Việt Nam. Nước ta bấy giờ là nơi giao lưu, hội tụ và
dung hòa các luồng tư tưởng Ấn-Hán (Phật, Nho, Đạo) với văn hóa Việt. Sự dung
hợp này có phần do hoàn cảnh lịch sử của dân tộc Việt. Các triều đại phong kiến
Đinh, Lê, Lý Trần đã bắt đầu đánh dấu thời kỳ độc lập, tự chủ vừa giữ nước vừa
dựng nước cho nên rất cần đến giới trí thức. Trí thức ban đầu là các nhà sư,
bởi giới Nho sĩ chưa hình thành. Các nhà sư muốn đọc được kinh Phật thì phải
học chữ Nho của Khổng. Cho nên, nhiều nhà sư trí thức vừa giỏi giáo lý của đạo
mình lại vừa uyên bác trong kinh điển của đạo khác. Chẳng hạn, Thiền sư Vạn
Hạnh vừa tinh thông “Dịch học” của Nho vừa giỏi khoa địa lý của Lão.
Bốn triều đại tiêu biểu Đinh, Lê,
Lý, Trần cho thấy: Việt Nam là mảnh đất tốt để Tam giáo lớn mạnh và phát triển
trong sự bao dung của người Việt. Các ông vua như: Đinh Tiên hoàng (968-979),
Lê Đại hành (980-1005), Lý Thái tổ (1010-1028), v.v... đều chọn các đại sư, đạo
sĩ vào triều đình làm cố vấn. Khuông Việt Đại sư Ngô Chân Lưu làm Tăng thống,
Thiền sư Đặng Huyền Quang làm Sùng chân Uy nghi, Đạo sĩ Trương Ma Ni làm Tăng
lục Đạo sĩ. Vua Lý Thái tổ dựng chùa Vạn tuế, cất cung Thái thanh ngay tại kinh
thành Thăng Long, tôn Thiền sư Vạn Hạnh lên làm Quốc sư. Vua Lý Nhân Tông làm
thơ khen Thiền sư Giác Hải và Đạo sĩ Thông Huyền như sau: “Giác hải như tâm hải
/ Thông huyền đạo hữu huyền / Thần thông kiêm biến hóa / Nhất Phật, nhất thần
tiên”. Còn vua Trần Thái Tông (1218-1277) khi viết Tựa cho Thiền tông chỉ nam
nhận định: “Bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác gì nhau”.[8]
Không những được sự ủng hộ nơi các
nhà cầm quyền, tư tưởng Tam giáo còn được sự đồng tâm của tầng lớp bình dân, ít
học, không biết chữ Hán. Trong văn học dân gian (hay văn chương truyền khẩu),
truyện cổ tích, dân ca, ca dao, tục ngữ... đã có những dấu ấn của Tam giáo.
Chẳng hạn, các phạm trù tam cương (quân thần, phụ tử, phu thê) và ngũ thường
(nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) được Việt hóa qua ca dao:
“Anh làm trai học đạo thánh hiền
Năm hằng[9] chẳng trễ, ba
giềng[10] chớ sai”.
“Làm trai giữ trọn ba giềng,
Thảo cha, ngay chúa, vợ hiền chớ
vong”.
Tăng tử viết: “Hiếu giả bách hạnh
chi tiên” (Hiếu đứng đầu trong trăm hạnh tốt) đã được ca dao Việt hóa:
“Làm con nết đủ trăm đường
Trước tiên điều hiếu đạo thường
xưa nay”.
Còn “Nhân sinh bách hạnh hiếu vi
tiên” được phổ lại thành:
“Chữ rằng mộc bổn thủy nguyên
Làm người phải biết tổ tiên ông
bà”.
Phải nói rằng, “đạo hiếu” của người
Việt được phản ánh trong văn chương bình dân Việt Nam có sự tương đồng với Nho
giáo.
Ảnh hưởng của Phật giáo vào đời
sống Việt Nam khá sâu đậm, tư tưởng Phật thấm nhuần tình cảm đạo đức của người
Việt. Triết lý chữ “nghiệp” 業 (karma) được ca
dao diễn tả: “Lênh đênh qua cửa Thần Phù / Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm”.
Trong Kinh Lăng nghiêm có câu: “Tương thử tâm thân phụng trần sát, thị tắc danh
vi báo Phật ân” ngụ ý: Ai dốc lòng phụng sự cõi thế gian (trần sát), tức là đã
đền đáp, báo ân Phật. Ca dao Việt có câu tương tự: “Dù xây chín bậc phù đồ /
Không bằng làm phúc cứu cho một người” ngụ ý rằng xây bảo tháp (phù đồ) thờ
Phật, cũng chưa bằng cứu giúp cho con người thế gian.
Lão - Trang cho rằng Đạo 道 là nguyên lý
tối sơ, là tuyệt đối thể, và Đức 徳 là sự thể hiện cái Đạo nơi con người. Không biết từ bao giờ,
hai chữ đạo đức ấy đã là dụng ngữ quen thuộc trong Việt ngữ. Đạo được hiểu là
“đạo nghĩa”, “đạo lý” là lẽ phải trong cách ứng xử. Thế nên, người ta khuyên
sống cho “phải đạo”. Đó là đạo làm người, đạo vợ chồng, đạo thầy trò, đạo làm
con. Người tốt, biết đạo thì được khen là ăn ở có đức. Ngược lại thì là “thất
đức”. Chữ “đức” còn là tiếng xưng hô cao quý nhất những cho những vị, những
đấng bậc được sùng kính: Đức Chí tôn, Đức Mẹ, Đức Chúa, Đức Thánh Trần…Còn
“đạo” của Khổng tử: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ” lại là lời giáo huấn của
bậc thánh hiền.
Dung hợp Phật – Đạo còn thể hiện
đậm nét trong nhận thức, tư duy của dân gian thời bấy giờ. Truyện Lĩnh Nam
chích quái, truyện Tản Viên, truyện Trầu cau... của dân gian Việt mang đậm sâu
sắc của Phật giáo Mật tông hoặc của Đạo giáo phù phép.
Chung quy, trong cái nhìn biện
chứng âm dương hài hòa cùng sự hòa nhập để tồn tại và phát triển, Tam giáo đã
có sự hòa nhập và hòa bình trên đất nước hình chữ S này. Hơn thế, nếu nhìn sâu
hơn vào bản chất của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo ở Việt Nam thì chúng ta sẽ
dễ dàng tìm thấy trong cốt lõi của mỗi tôn giáo ấy những nét chung cơ yếu. Đó
là khởi phát từ nhu cầu tâm linh không thể thiếu vắng của con người và cái đích
cuối cùng là mang lại an lạc , ổn định cho xã hội, hướng tới cái thiện. Chính
“mẫu số chung” ấy là chất keo gắn kết các tôn giáo này lại gần nhau và hòa
quyện thành một tinh thần thống nhất, tinh thần khoan dung trong văn hóa.
1.3. Dung hợp Tam giáo trong đời
sống xã hội và trong văn học Việt Nam
Ngay trong các tác phẩm văn học
Phật giáo Lý – Trần, chúng ta sẽ dễ nhận thấy tinh thần điều hòa, dung hợp các
tư tưởng và tôn giáo. Có khi là sự phân công hợp tác giữa Phật và Nho; có khi
đó là sự kết hợp rất uyển chuyển giữa Phật với Lão – Trang để đi đến thống
nhất: Tam giáo đồng nguyên. Tư tưởng Phật giáo không phải là hệ tư tưởng đóng
kín trong khuôn khổ, trong quy tắc giáo điều mà là tư tưởng mở, đầy khai phóng.
Người tu hành không bắt buộc phải cạo đầu xuất gia mà họ có thể tu tập, thiền định
ngay giữa cuộc đời, trong gia đình và cũng có thể chứng ngộ. Cảnh chùa không
chỉ là nơi thâm cung trầm mặc mà còn là nơi hữu tình kỳ thú. Người ta đến viếng
cảnh “già lam” (chùa) để tìm sự thư thái, sự thanh thản của tâm hồn. Hệ thống triết lý, kinh điển Phật là không
phân biệt, tất cả đều được giác ngộ. Trên bình diện tư tưởng, các Thiền sư
thường kết hợp vũ trụ quan biến động của Dịch, tư tưởng nhất quán của Khổng Tử
với tư tưởng “Nhất như” cùng chủ trương tất cả quy về tâm của Phật để phát biểu
một vấn đề hiện thực.
Bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn
(Thanh Hóa) của Pháp Bảo (Giác Tính Hải Chiếu) cho thấy: “Phù ! Thiền tổ hiển
thực nhi trực chỉ nhất tâm; thánh nhân thích thời nhi thông hồ vạn biến. Vạn
giả nhất chi tán; nhất nãi vạn chi tông. Chí ư hiền trí gián xuất; quỹ phạm
điệt hưng. Tụ kỳ tán dĩ quy tông; bão ư nhất dĩ thống vạn. Lập tượng tướng nhi
thị hữu sở thống; sùng tháp miếu nhi linh hữu sở quy…” nghĩa là Phật tổ soi tỏ
cái thực mà chỉ thẳng chữ tâm; Thánh nhân thích ứng theo thời mà thông suốt muôn
biến. “Muôn” là sự phân tán của “một”. “Một” là cội gốc của “muôn”. Đến như các
bậc hiền trí thỉnh thoảng ra đời, khuôn phép thay nhau dấy lên. Nhóm cái đã
phân tán để đưa nó về cội gốc; ôm cái “một” để thâu tóm cái “muôn”. Tạc nên
hình tượng để biểu thị sự thâu tóm; Dựng nên đền tháp để có sự hướng về.[11]
Ngay từ thời Lý, vua Lý đã mở khoa
thi Tam giáo để chọn người tài trong Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo. Sự dung hợp
Phật – Nho ấy còn tạo ra những điểm tương đồng rất lí thú trong phương pháp
thực hành. Trần Thái Tông đã từng đưa ra phương pháp sám hối của nhà Phật chẳng
khác nào phép “tự tu tự tỉnh” của Nho gia: “Nhất nhật tam tỉnh ngộ thân” (Mỗi
ngày ta phải tự xét mình ba lần) mà Khổng Tử đã dạy trong thiên Học Nhi, sách
Luận Ngữ. Ở bài Phổ khuyến phát bồ đề tâm, nhà vua cho rằng Khổng Tử, Thích Ca,
Lão Tử đều như nhau với những tư tưởng, hoạt động gần nhau, bởi đạo chỉ một mà
thôi: “Tuy ngôn thân mệnh chi chí trọng, do vị túc trọng ư chí đạo dã".
Còn Khổng Tử viết: “Triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ”. Lão Tử viết: “Ngô sở dĩ hữu
đại hoạn giả, vị ngô hữu thân. Thế Tôn cầu đạo xả thân cứu hổ. Khởi phi tam
thánh nhân khinh thân nhi trọng đạo giả tai”.[12]
Sự kết hợp vừa dung nhập vừa điều
hoà có phân biệt giữa tư tưởng Nho, Phật thời Trần đã góp phần tạo nên nếp sống
cao đẹp của dân tộc Việt Nam. Bài “Phóng cuồng ngâm” của Tuệ Trung Thượng sĩ
Trần Tung được xem là một minh chứng tiêu biểu cho sự kết hợp Nho – Phật – Lão
đương thời: “Trời đất liếc trông chừ, sao mênh mang! Chống gậy nhởn nhơ chừ,
phương ngoài phương! [...] Láng giềng cùng Quy Sơn chừ, hát khúc Thương Lương.
Thăm Tào Khê chừ, vái chào Lư thị, Viếng Thạch Đầu chừ, sánh vai Lão Bàng. Vui
cái ta vui chừ, Bố Đại vui, Cuồng cái ta cuồng chừ, Phổ Hoá cuồng”! [...][13]
Qua thơ văn của Trần Tung, chúng ta đọc được một chút ngông của nhà Nho, vừa
lại tĩnh tại, nhàn nhã, phóng khoáng, phiêu diêu thoát tục đậm chất Lão của một vị Thiền sư đang ẩn mình
giữa thiên nhiên. Có thể nói, với “Phóng cuồng ngâm”, ông đã dung hợp được đầy
đủ cái tinh thần của Nho giáo với thái độ “dụng tắc hành, xã tắc tàng”, cái yếu
chỉ giải thoát của Phật giáo “Phật tức tâm, tâm tức Phật” và cái phóng khoáng
“tiêu dao tự tại” của Lão giáo. Sự kết hợp này còn được thể hiện sinh động qua
nhiều bài thơ khác của ông như Phỏng Tăng Điền đại sư, Xuất trần, Tự tại, Giang
hồ tự thích, Phúc đường cảnh vật, Thoái cư…
Theo Nguyễn Huệ Chi thì nhóm Bích
Động có những bài thơ vừa ngợi ca cảnh đẹp thiên nhiên, ngợi ca thú vui nhàn
tản, xem thường danh lợi mang ý vị Thiền, vừa lại phiêu diêu đầy phóng khoáng
mang ý vị của Đạo giáo. Trong số đó, phải nhắc đến Trầ̀n Quang Triều với những
bài thơ “thanh thoát”, giàu tình cảm, tinh tế, phóng khoáng tài hoa”.[14] Và
rất nhiều nhà Nho nổi tiếng thời bấy giờ cũng mang đậm phong cốt của bậc Thiền
sư, Đạo sĩ. Đến như bậc “nhất thế sư biểu” Chu Văn An cũng đã làm thơ ca ngợi
vị sư đạo cao đức trọng, tán dương tư cách thanh cao của nhà sư y như tư cách
của một nhà Nho quân tử sống ẩn dật chịu ảnh hưởng Lão – Trang trong bài Đề
Dương công Thủy Hoa đình; Phạm Nhân Khanh thì ca ngợi đức độ cùng tài thơ của
Thiền sư Lãm Sơn trong bài “Tống Lãm Sơn Quốc sư hoàn sơn”. [15]
“Thân nhàn tựa áng mây trôi
Gió trăng nửa gối việc đời nhẹ
tênh
Cõi trần xa, cõi Phật thanh
Sân hoa máu đỏ, chim oanh líu
lường”.
(Chu Văn An)
Khi đề cập đến vấn đề dung hợp tư
tưởng Tam giáo Phật – Đạo – Nho, Giáo sư Nguyễn Đăng Thục đã khẳng định trong
bài viết “Khổng phu tử Việt Nam” như sau “Chính thiền tông tự thân đã là một
tổng hợp ba khuynh hướng chính của truyền thống tôn giáo và triết học Á Đông,
Phật giáo, Đạo giáo, và Nho giáo. Phật giáo như người ta đã biết, nhấn mạnh về
phương diện siêu nhiên của nhân tính. Đạo giáo nhấn mạnh vào phương diện thiên
nhiên và Nho giáo vào phương diện xã hội và ba dòng ấy bổ túc lẫn nhau để hợp
thành chủ nghĩa nhân bản Việt Nam”.
Sách Hoa Nghiêm nguyên nhân luận
cho rằng: “Khổng, Lão,Thích đều là bậc chí thánh, tùy thời đem ứng dụng vào
vật, giáo lý tuy khác đường nhưng nội ngoại đều có thể hỗ trợ cho nhau, cùng có
lợi cho quần sinh. Muôn việc cần đến đều có thể dựa vào Tam giáo”.[16] Trong Khóa hư lục, Trần Thái Tông khẳng định
rằng Khổng Tử, Thích Ca và Lão Tử đều như nhau với những tư tưởng, hoạt động
gần nhau, bởi Đạo chỉ là một mà thôi: “Tuy ngôn thân mệnh chi chí trọng, do vị
túc trọng ư chí đạo giả dã. Cố Khổng Tử viết: triêu văn đạo, tịch tử khả hỷ.
Lão Tử viết: Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngộ hữu thân. Thế Tôn cầu đạo xả
thân cứu khổ. Khởi phi tam thánh nhân khinh thân nhi trọng đạo giả tai!”. Nghĩa
là: “Tuy nhiên nói thân mệnh là đáng trọng nhưng cũng còn chưa trọng bằng cái
đạo tối cao. Cho nên, Khổng Tử nói: Sớm nghe đạo, chiều có thể chết được rồi.
Lão Tử nói: Ta sở dĩ có điều lo lớn là vì ta có cái thân. Đức Thế Tôn cầu đạo,
quên mình cứu hổ. Há chẳng phải ba bậc thánh nhân khinh thân mình mà trọng đạo
đó sao ?” [17]
Sự ưa thích cảnh sống phóng khoáng,
phiêu diêu thoát tục dường như là cái chất của trí thức thời Lý – Trần, là
những dòng thơ ca ngợi thú vui nhàn tản, ca ngợi thiên nhiên, xem thường danh
lợi, vừa mang ý vị Thiền đạo, vừa mang chất phóng nhiệm của Lão – Trang.
Nhà Nho như Chu Văn An khi lui về
quê nhà, đã ca ngợi thiên nhiên, tâm tình tiêu dao, phóng khoáng tự tại mang
cốt cách của Thiền sư, của Đạo sĩ:
“Nhàn thần nam bắc phiến vân
khinh
Bán chẩm thanh phong thế ngoại
tình
Phật giới thanh nhu trần giới
viễn
Đình tiền phú huyết nhất oanh
minh”
Nghĩa là:
Thân nhàn tựa ánh mây trôi
Gió trăng nửa gối việc đời nhẹ
tênh
Cõi trần xa, cõi Phật thanh
Sân hoa máu đỏ, chim oanh líu
lường
Còn vua nhà Lý thì ca ngợi: “Giác
Hải tâm như hải, Thông huyền đạo hựu huyền. Thần thông kiêm biến hóa, nhất Phật
nhất thần tiên” .[18]
Nói cách khác, tư tưởng “nhàn” được thành hình, nuôi dưỡng trong sự hài hòa
tam giáo trong chủ nghĩa khoan hòa của dân tộc Việt Nam. Thật khó lòng phân
biệt rạch ròi đâu là nho sĩ ẩn dật và đâu là đạo sĩ hay là thiền sư. Mặt khác,
sự kết hợp những yếu tố ứng xử linh hoạt của Nho giáo, tư tưởng tiêu dao của
Lão – Trang, tư tưởng siêu thoát của Phật chính là tiền đề văn hóa góp phần tạo
nên diện mạo của tư tưởng “nhàn” trong văn hóa Việt Nam
2. Nội dung triết lý “nhàn”
2.1. “Nhàn” là phương thức sống
nho sĩ, một bảo bối của “minh triết bảo
thân”
Tư tưởng “nhàn” có gốc rễ từ trong
bản chất của các hệ tư tưởng Nho – Đạo – Phật,
cộng với những đặc điểm xã hội, thời đại, nên mỗi cuộc đời của mỗi tác
giả có những sắc diện khác nhau. Do cùng chung một nền tảng tư tưởng, cùng nằm
trong từ trường chi phối của văn hóa Á Đông, “nhàn dật”(ẩn cư) đã trở thành một
phương diện quan trọng trong tư tưởng cũng như sáng tác của các nho sĩ. Trước
hết, sự xuất hiện của tầng lớp ẩn sĩ và thơ điền viên Trung Hoa đã ảnh hưởng
không nhỏ đến tư tưởng “nhàn” trong giới Nho sĩ Việt Nam.
Lý tưởng của Nho giáo là xây dựng
mô hình xã hội “đức trị”. Nhưng thực tế thì chưa bao giờ có được. Ước mơ, lý
tưởng của “đời vua Nghiêu, Thuấn” luôn mâu thuẫn với hiện thực cuộc sống đã gây
nên những rạn nứt, đổ vỡ trong tâm hồn nhà nho, dẫn đến tâm thế chán nản, đau
đớn giằng xé và dần dần hình thành mong ước quy ẩn, sống “nhàn” của tầng lớp
nho sĩ.
Những ẩn sĩ thời danh Trung
Hoa có điểm chung là ở ẩn, lánh đời
nhưng diện mạo của họ rất phong phú, phức tạp ...Có những ẩn sĩ bỏ vào núi sâu,
tuyệt giao với thế giới loài người như: Bá Di, Thúc Tề...; có kẻ lang bạt, ăn mày ăn xin, giả dạng người
điên; có ẩn sĩ tha hóa, cơ hội... Và cũng có ẩn sĩ do bất đắc chí với thời cuộc
nên tìm đến con đường quy ẩn, sống nhàn nhã, sáng tác thơ văn, nghiên cứu học
thuật, chọn con đường “lập ngôn”. Phần đông những ẩn sĩ này, tuy ở ẩn nhưng vẫn
mang nặng nỗi niềm ưu tư vì dân vì nước. Nhìn chung, các ẩn sĩ này đều có cùng
tâm sự bất đắc chí, sầu muộn mà không biết tỏ cùng ai nên tìm về cuộc sống
“nhàn dật”, bầu bạn với thiên nhiên, thơ, rượu.
Đào Tiềm, ông tổ của thi ca “nhàn
dật”, khi gặp sự thế trọc loạn trong “Quy khứ lai từ” đã “Kết lư tại nhân cảnh” (kết lều cỏ giữa cõi
người) để giữ gìn phẩm tiết thanh cao. Cuộc sống điền viên thanh tĩnh, tươi đẹp
luôn là chủ đề chính trong sáng tác. Đó
là Mạnh Hạo Nhiên (689 – 740) đời Đường.
Ở
Việt Nam, lớp người ẩn sĩ cũng xuất hiện và tồn tại có những nét tương
đồng nhất định với Trung Hoa nhưng có nét độc đáo riêng. Ẩn sĩ Việt Nam, phần
đông là những trí thức mang tấm lòng vì dân, vì nước. Họ thường tìm về cuộc
sống ẩn dật để lánh tục, tránh hợp tác với kẻ thống trị chuyên quyền. Đó là nho
sĩ các tên tuổi : Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Võ Trường Toản,
Nguyễn Thiếp, Nguyễn Khuyến...
Bên cạnh một số lý do liên quan đến
cá nhân, hầu hết nho sĩ Việt Nam tìm đến
“nhàn” là do xã hội loạn lạc, triều chính rối ren, quyền thần lũng đoạn, ngoại
bang cai trị. Thực tế, các triều đại phong
kiến Việt Nam, luôn có khủng hoảng ở mạt triều, rõ nét nhất là thời kỳ thế kỷ
XVI, XVII, đầu thế kỷ XVIII. Đó là nguyên nhân chính yếu thúc đẩy các nho sĩ
tìm đến con đường “độc thiện kỳ thân” và
xem “nhàn” như một phương thức sống.
Ẩn sĩ Chu Văn An (1292 - 1370) là
người đầu tiên. Song, những năm đen tối dưới ách đô hộ của nhà Minh, sự suy
thoái của Lê triều đã làm xuất hiện hàng loạt các ẩn sĩ: Lý Tử Cấu, Vũ Mộng
Nguyên, Nguyễn Húc, Nguyễn Trãi... Sang thế kỷ XVI, trước thực trạng xã hội
chiến tranh, loạn lạc, tầng lớp ẩn sĩ gia tăng mạnh mẽ: Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn
Hàng, Nguyễn Dữ...và sau là Nguyễn Khuyến.
Trong sáng tác của các nhà nho này,
không gian thiên nhiên trở thành môi trường sống lí tưởng, thanh bạch, ước vọng
của người ẩn sĩ thực hiện “độc thiện kì thân”. Có thể nói, cái nhàn của của các
nho sĩ Việt Nam là thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý hòa quyện
thiên nhiên
Chu Văn An (1292 – 1370) ca ngợi
cuộc sống ẩn dật khi cáo quan về ẩn : “Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn, Trúc
phi tà ủng hộ khinh hàn. Bích khê tảo sắc thiên như túy, Hồng thấp hoa sao lộ
vị can” (Xuân đán). Có nghĩa: “Nhà trên núi thanh vắng suốt ngày nhàn rỗi, Cửa
phên treo nghiêng che đỡ hơi lạnh. Cỏ xanh biêng biếc trời như say, Hoa đẫm màu
hồng hạt sương chưa khô”.
Trong văn chương trung đại, trở về
với thiên nhiên nơi lâm tuyền, thôn dã để di dưỡng tính tình, bảo toàn phẩm
tiết không còn là việc của cá nhân mà đã trở thành một chuẩn tắc ứng xử, một
nguyên tắc sáng tạo thơ ca của tầng lớp nho sĩ. Nguyễn Trãi đã khảng khái, từ
bỏ con đường hoạn lộ trở về tìm niềm vui
chốn “tùng lâm” thanh tĩnh. “Giũ bao nhiêu bụi bụi lầm, Giơ tay áo đến tùng
lâm”. Đó cũng là một phương cách để “cởi tục”, khẳng định cốt cách thanh cao,
hướng đến cuộc sống “nhàn dật”, cho ông trạng thái tiêu dao: “Tiêu sái tự nhiên
nhẹ hết mình” , một cuộc sống an nhàn, tự tại. “Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình,
Nài bao ngôi cả áng công danh. Vô tâm đìa có trăng bạc, Đắc thú kho đầy gió
thanh”. Với Nguyễn Trãi, “nhàn” là để lánh đời, thực hiện vấn đề “minh triết
bảo thân”, là “chờ thời” cho một cuộc “hành đạo” kế tiếp. Bởi trong cuộc đời,
Nguyễn Trãi đã bất thành trong việc “hành đạo”. Đó là mâu thuẫn giữa lý tưởng
“nhân nghĩa” mà ông muốn thực thi với triều đình mà ông đang sống. Cho nên, tìm
đến cuộc sống “nhàn” là một lựa chọn bất đắc dĩ, là giải pháp an ủi, xoa dịu
những đắng cay. Càng cay đắng, càng chán chường, ông càng khát vọng sống
“nhàn”.
Tuy vấn đề sống “nhàn” với Nguyễn
Trãi, một mặt là do nhu cầu cá nhân, một giải pháp để giải tỏa những uẩn ức, an
ủi trái tim cô đơn, tuyệt vọng, mặt khác, sống “nhàn” lại là một nỗi day dứt
giữa hai bề xuất – xử của một nhà Nho.
Trong bài thơ chữ Hán “Oan thán”,
Nguyễn Trãi đã bày tỏ tâm trạng đau đớn: “Phù tục thăng trầm ngũ thập niên / Cố
sơn tuyền thạch phụ tình duyên / Hư danh thực họa thù kham tiếu / Chúng báng cô
trung tuyệt khả liên”. (Nổi chìm trong phù tục đã năm chục năm, Đành phụ tình
duyên với khe và đá của núi cũ. Danh hư mà họa thực, rất đáng buồn cười, Lắm kẻ
ghét một mình trung, rất đáng thương hại). Đau đớn, tuyệt vọng trước trước thực
tại phũ phàng ấy, Nguyễn Trãi tìm đến cuộc sống “nhàn” là một lựa chọn duy nhất
và bất đắc dĩ. [19]
Với tâm trạng buồn tủi, Nguyễn Trãi
tự ví mình như một “khách tha hương” lạc loài, bơ vơ nơi đất khách quê người xa
xôi “ngàn dặm”, khát khao trở về “gia sơn”, “cố sơn”: “Gia sơn đường cách muôn
dặm, Ưu ái lòng phiền nửa đêm”; “Ngàn
dặm xem mây nhớ quê, Chẳng nhờ gói ấn gượng xin về”.
Với Nguyễn Trãi, “gia sơn”, “cố
sơn”, “non quê” là một điểm hẹn lý tưởng cho ước vọng trở về. Đó là một khát
vọng thường trực trong tâm hồn ông. Trong Quốc âm thi tập, có đến 30 bài thơ
thể hiện khát vọng sống “nhàn” của Nguyễn Trãi. “Miên tưởng cố viên tam kính
cúc, Mộng hồn dạ dạ thướng quy đao”, (Thu nhật ngẫu thành) nghĩa là: Nhớ nhung
vườn cũ ba dặng cúc, Hồn mộng đêm đêm lên thuyền mà về.
Trong hoài niệm tha thiết, cuộc
sống tiêu dao, tự tại nơi cảnh cũ, non quê được Nguyễn Trãi vẽ nên vô cùng tươi
đẹp, lý tưởng. Đó là một cuộc sống thanh bình giữa mây ngàn, gió nội, không có
những tranh giành, đua chen, hiềm khích.
Như vậy, khi muốn thoát khỏi cô
đơn, bế tắc trong hành đạo, Nguyễn Trãi đã mong muốn tìm đến với cuộc sống
“nhàn dật” như một giải pháp an ủi, xoa dịu những đắng cay, buồn tủi mà ông
từng trải qua. Càng cay đắng, chán chường bao nhiêu, ông càng khát vọng sống
“nhàn” bấy nhiêu, cuộc sống “nhàn dật” trở thành ước vọng tha thiết đối với
Nguyễn Trãi.
Cũng như Nguyễn Trãi và các nhà nho
ẩn dật tiền bối, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn cuộc sống ẩn dật, hòa hợp với
thiên nhiên, coi đó như là một môi trường sống lý tưởng và lấy “nhàn dật” là lẽ
sống trên con đường thực hiện lý tưởng “độc thiện kì thân”. Sau tám năm lưu lạc
chốn quan trường chật hẹp, Nguyễn Bỉnh Khiêm trở về với cuộc sống ẩn dật trong
một không gian rộng lớn, khoáng đạt, làm bạn với thiên nhiên, vui cảnh điền
viên dân dã. Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, hình tượng người ẩn sĩ với tư thế
ung dung, tự tại, một “ông nhàn” trong mối quan hệ mật thiết với môi trường thiên
nhiên thanh sạch, mĩ lệ. “Giang sơn bốn mặt là tranh vẽ, Phong cảnh tư mùa ấy
gấm thêu”.
Từ bỏ quan lộc, trở về với cuộc
sống của nền kinh tế tự cung tự cấp, dựa vào những sản vật trong thiên nhiên,
người ẩn sĩ ấy tự tách mình ra khỏi cuộc sống hưởng thụ vật chất để khẳng định
khí tiết và phẩm giá, vui sống với cảnh điền viên đạm bạc, tận hưởng của kho vô
tận từ người bạn thiên nhiên hào phóng và coi đó là sự “giàu sang” mà cuộc sống
ẩn dật mang lại: “Bốn mùa đều hưởng thiên nhiên lộc, Thong thả ngồi chơi cõi
Thuấn Nghiêu”. Với ông, “an bần lạc đạo” là chân giá trị mà nho mong đạt được.
Đó là ung dung, tự tại, hòa vào thiên nhiên, bằng lòng với điều kiện kinh tế tự
cung tự cấp, buông ngoài tai những lời khen chê của thế sự. Nói như Đỗ Lai Thúy là “ông nhàn” Nguyễn Bỉnh Khiêm gần đạt tới
cảnh giới “vô vi” của triết học Lão – Trang”.[20]
2.2. “Nhàn” là lối sống thanh
bạch khí tiết đối lập với lợi danh, phú quý
Đạo lý Nho giáo rất nhất quán về
lối sống và hành động lý tưởng của bậc thánh nhân quân tử :"Bậc quân tử ở
thuận theo lẽ trời, chẳng có lòng tư dục cho nên tâm ý, sắc diện thường an
nhiên, thư thái" (Luận ngữ). Đó là thái độ"an phận lạc thiên"
(bằng lòng với số phận là vui với đạo trời), "lạc thiên tri túc" (vui
với đạo trời là biết đủ) và "lạc thiên tri mệnh" (vui với đạo trời là
biết được số mệnh). Do vậy, khi về ở ẩn, các nho sĩ hiểu rằng nhàn tản, thanh
cao là lạc thú của những bậc cao sĩ , cao nhân.
Họ sẵn sàng chấp nhận "an bần lạc đạo" (bằng lòng với cái
nghèo để vui với đạo) ,"tri túc thiểu dục" (biết đủ và ít ham muốn).
Trong thời thế bất lợi cho việc hành đạo, họ sống theo chủ trương "cùng
tắc độc thiện kỳ thân" (khốn cùng thì lo giữ cái thiện riêng của thân
mình). Xa lánh những đua chen chốn quan trường và khi nhiệm vụ đã hoàn thành
hoặc không thể thực thi, họ tìm về cuộc sống ẩn dật, xa lánh những cám dỗ của
bả vinh hoa, phú quý để bảo toàn khí tiết.
Trong nhận thức của nhà nho, “nhàn
dật” và lợi danh, phú quý là hai phạm trù đối lập. Từ đó nảy sinh hai mô hình
thế giới hoàn toàn tách biệt: “Nhàn dật” gắn với cuộc sống chốn lâm tuyền, thôn
dã - một không gian rộng lớn, khoáng đạt, sơn thủy hữu tình. Trong thế giới “tề
thị phi” ấy, nhà nho ẩn dật “trong khi mở rộng cửa đón thiên nhiên, hoa đồng cỏ
nội, vượn hạc đến tìm thì cũng khép cửa trước đám khách tục vãng lai, cao quan
hậu lộc”.[21] Do vậy, họ tìm thấy sự thanh thản, tự do của tâm hồn.
Vua Trần Nhân Tông, trong bài “Đắc
thú lâm tuyền thành đạo ca”, cho thấy: “Cảnh tịch an cư tự tại lâm, Lương phong
xuy đệ nhập tùng lâm. Thiền sàng thọ hạ nhất kinh quyển, Lưỡng tự thanh nhàn
thắng vạn kim”. (Nghĩa là: Cảnh lặng, sống yên, lòng tự tại, Gió mát thổi đến
dưới bóng cây thông. Giường Thiền ở dưới gốc cây, kinh một quyển, Hai chữ thanh
nhàn quý hơn vạn nén vàng). Qua đó, vị Phật vương này đã khẳng định thái độ
không màng công danh, phú quý.
Xem nhẹ danh lợi, phù hoa, trân
trọng những phút giây nhàn tản vốn là một trong những nguyên tắc ứng xử có cội
nguồn sâu xa từ các hệ tư tưởng Nho - Đạo - Phật. Đào Uyên Minh thời Đông Tấn
đã từng để lại một danh ngôn: “Thà chết đói, tôi không thể khom lưng trước một
người xấu như vậy vì bổng lộc năm đấu gạo”. Khi chán nản cuộc sống trong vòng
cương tỏa của chốn quan trường hiểm hóc, ông đã cáo quan về quê ẩn dật để tỏ
thái độ xem thường phú quý danh lợi, trong bài “Quy khứ lai từ”, ông viết:
“Phú quý phi ngô nguyện
đế hương bất khả kỳ
Hoài lương thần dĩ cô vãng
hoặc trượng nhi vân tỷ”.
Nguyễn Công Trứ là một nhà nho
thành đạt, thỏa chí nam nhi, tài hoa tài tử, cuộc đời làm quan với bao nỗi
thăng trầm. Trong sáng tác của ông có nhiều bài thơ nhắc đến cảnh nhàn và hưởng
nhàn. Ông xem chữ “nhàn” hình ảnh rất đẹp là trăng đến sân: "Nguyệt lai
môn hạ nhàn", có nhiều bài thơ viết để "Vịnh nhàn", bàn về
"Nhàn nhân với Quý nhân", nói về cảnh "thoát vòng danh lợi"
ngợi ca cuộc sống ngoài vòng cương tỏa. Chất ẩn sĩ của Nguyễn Công Trứ trong
những bài thơ này thường đậm màu tài tử, bất cần đời, ngông nghênh, thỏa
chí.”[22]
Trong Quốc âm thi tập, sự đối lập
giữa lợi danh và “nhàn dật”, giữa chốn lâm tuyền và nơi triều quan được Nguyễn
Trãi thể hiện bằng cặp hình tượng đối lập: “công danh” – “nhàn tự tại”, “cửa
quyền” – “thanh nhàn”, “công danh” – “cần câu”, “trúc mai” – “ngõ mận tường
đào”, “rừng thiền” – “đường thế”, “trường đào mận” – “quê cũ”, “vườn lan cúc” –
“áng mận đào”, “non lạ nước thanh” – “đất phàm cõi tục”, “làm quan” –“thanh
nhàn”, “áng trúc thông” – “cửa quyền quý”....
Nguyễn Trãi vẽ ra hai không gian
sống đối lập: thế giới của khổ đau – thế giới của hạnh phúc để chiêm nghiệm,
nhận xét: “Dưới công danh đeo khổ nhục, Trong dại dột có phong lưu”; “Dưới công
danh nhiều thác cả, Trong ẩn dật có cơ mầu”. “Hiểm hóc của quyền chăng đụt lẩn,
Thanh nhàn án sách hãy đeo đai”
Với Nguyễn Trãi, cuộc sống “nhàn dật” được miêu tả là thế giới tươi đẹp,
đáng trân trọng. Ở đó, con người được tận hưởng cuộc sống thanh thản giữa mây
ngàn gió nội, nước biếc non xanh, xa rời những bon chen, những hiềm khích mà
lợi danh mang lại. “Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình, Nài bao ngôi cả áng công
danh. Vô tâm đìa có trăng bạc, Đắc thú kho đầy gió thanh”. Khi phải lựa chọn
công danh hay “nhàn dật”, Nguyễn Trãi sẵn sàng “Đem công danh đổi lấy cần
câu”; “Lấy biêu phú quý đổi biêu nhàn”
Cũng giống như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm đặt “nhàn dật” và công danh, phú quý trong thế đối lập nhau, đó là sự đối
lập giữa thanh cao và phàm tục. Nguyễn Bỉnh Khiêm khẳng định, việc chạy theo
công danh phú quý sẽ khiến con người trở nên phàm tục, phải “lụy”, phải “thấp
nhiều bề”... Còn trong nơi ẩn dật, con người có được “cơ mầu”, có được sự thanh
cao. “Vì danh cho phải danh làm lụy, Được đạo thì hay đạo có mùi”; “Khách ở
vườn đào cao mấy trượng, Người đeo thói tục thấp nhiều bề”. Nhận thức sâu sắc
sự đối lập công danh, phú quý và cuộc sống “nhàn dật”, học tập cách ứng xử của
các bậc tiền nhân, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn cuộc sống “nhàn” như một
phương thức, một giải pháp để thực hiện
“minh triết bảo thân”, xa lánh thói tục, đạt đến sự thanh cao của tâm
hồn. “Một am phong nguyệt, tớ vui tớ, Hai chữ công danh, ngươi mặc ngươi”.
Như vậy, sống “nhàn” chính là sự
chọn lựa lối sống thanh bạch, cao quý, hưởng thụ thiên nhiên, hòa mình với
thiên nhiên trong thế đối lập với lối sống tranh giành, bon chen, phàm tục.
2.3. “Nhàn” – một triết lý “vô
sự”, cuộc sống thần tiên ở Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nghiên cứu tư tưởng Nguyễn Trãi
trong tương quan với các hệ tư tưởng phương Đông, Trần Đình Hượu nhận xét:
Trong thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm của Nguyễn Trãi “hầu hết ca tụng cảnh nhàn, ca
tụng cảnh đẹp thiên nhiên, mối đồng tình với những con người thanh cao biết coi
thú nhàn dật là quý, ngàn vàng khó đổi được [...] Cái “nhàn” của Nguyễn Trãi
chỉ là “biểu hiện bên ngoài” còn bên trong vẫn hừng hực một “tấm lòng ưu ái””.
Ông kết luận: “Nguyễn Trãi vẫn là Nho chứ không phải Lão – Trang”.[23] Nhưng ở
Nguyễn Bỉnh Khiêm, người ta thấy xuất hiện “không phải là cái nhàn bất đắc dĩ
mà là cái nhàn làm người ta toại chí đến cực điểm, cái nhàn đã được nâng lên tầm triết lý “vô
sự”. Đó chính là sự “đắc đạo trong cái đạo nhàn”.
Triết lý “vô sự” mà Nguyễn Bỉnh
Khiêm chủ trương có nguồn gốc từ triết học Tống Nho. Tống Nho cho rằng: sự tồn
tại vạn vật trong vũ trụ đều có cái “lý”, “khí” của nó, nó sẽ vận động theo quy
luật của tự nhiên và sự chi phối của “thiên mệnh”. Đối với các nhà Nho, từ việc
lớn đến việc nhỏ, từ xã hội, đất nước đến việc của đời người đều là do “trời”
chi phối. Nguyễn Trãi từng viết: “Đời người muôn việc thảy do trời”; “mới biết
doanh hư là có số, ai mà cãi được lòng trời”. Chính vì thế, ông luôn tâm niệm:
“Sang cùng khó bởi chưng trời, lăn lóc làm chi cho nhọc hơi”; “Vắn dài, được
mất dầu thiên mệnh, Trãi quái làm chi cho nhọc nhằn”.
Cũng vậy, xuất thân “cửa Khổng sân
Trình” khi mà Nho giáo đã phát triển đến đỉnh cao ở Việt Nam, lại được đào tạo
từ môi trường giáo dục cơ bản, Nguyễn Bỉnh Khiêm quan niệm về “thiên mệnh” như sau: “Chữ rằng phú quý giai
thiên mệnh, Gặp được bao nhiêu hay bấy nhiêu”; “Trời sinh, trời ắt đã đành
phần, Tua hãy cho hiền dạ có nhân”. Ông đúc rút: dù giàu sang, phú quý, nghèo
hèn thì chung cục vẫn không ai tránh được sự “bạc đầu”. Đó là quy luật của tạo
hóa: “Mừng thay tạo hóa công bằng bấy, Giàu, khổ, sang, nhàn cùng bạc đầu”
Mặt khác, đối chiếu vào thực tế xã
hội đổ nát, tang thương đương thời, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thấy số phận con
người mong manh ảo hóa, công danh phú quý tựa giấc chiêm bao. Từ đó, ông chủ
trương lối sống “nhàn dật” với hạt nhân là triết lý “vô sự”, một triết lý “tu
tâm dưỡng tính”, hướng con người đạt đến sự trong thoáng của tâm hồn, diệt trừ
tận gốc dục vọng. Triết lý trên cũng là chuẩn tắc đạo đức mà ông muốn phổ biến
rộng rãi.
Ông khẳng định cuộc sống nhàn tản,
“vô sự” là một cuộc sống thực sự hạnh phúc, con người đạt đến cõi lòng “vô sự”
là những bậc tiên nhân đã diệt hết mọi khổ đau của cuộc đời thế tục. “Ở thế có
khôn thì có khó / Chữ rằng: vô sự tiểu thần tiên”; “Ngày ngày tiêu sái nhàn vô
sự / Tuy chửa là tiên ấy ắt tiên”.
Qua lăng kính của Nguyễn Bỉnh
Khiêm, cuộc sống “nhàn dật” hiện lên tràn ngập những “hứng ý”, “vui”, “mừng”,
“tiêu sái”, “thú”, “đắc thú thanh nhàn”, “vui thú ẩn”, “đủng đỉnh”, “thong
thả”, “cười khúc khích”, “hát nghêu ngao”, “được nhàn”, “phúc được về nhàn”...
“Làm chi nghĩ ngợi nhọc đua hơi, Đắc thú thanh nhàn ấy dưỡng thân / Đủng đỉnh
hôm mai chơi nước trí / Nghêu ngao ngày tháng dạo non nhân”. Và khi đạt đến “đắc thú thanh nhàn” mầu nhiệm ấy, con người
quên hết những sầu lo để trở thành những bậc “tiên vô sự”, “tiểu thần tiên”...
trong một phong cốt ưu du, thoát tục: “Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách / Được
thú ta đà có thú ta”.Ông ngợi ca niềm hạnh phúc ấy trong một bài thơ “Ngụ
hứng”: “Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ / An nhàn ngã thị địa trung tiên”. (Cao
khiết ai là kẻ sĩ trong thiên hạ, An nhàn ta là tiên trong cõi đời).
Tận hưởng niềm vui, sự hứng thú của
cuộc sống tự do, tự tại, Nguyễn Bỉnh Khiêm xem “nhàn dật” như một cuộc sống
hạnh phúc thực sự, một cuộc sống lý tưởng.[24] Đề ra triết lý “vô sự” với mong
muốn đem lại sự cân bằng, hài hòa, “trung dung” cho con người, ông coi đó như
một phương thuốc cứu vãn xã hội đương thời thoát khỏi những cảnh tranh giành,
xây dựng một cuộc thanh bình, ổn định.
Triết lý “vô sự” về bản chất là
chung cho cả Tam giáo, song xét về bình diện Nho giáo, đó là thái độ ứng xử
xuất thế - tàng ẩn của nhà nho. Cách ứng xử văn hóa “vô sự” của Nguyễn Bỉnh
Khiêm với mục đích không gây ra điều gì bất lợi, bất cập cho bản thân, cho
người khác khá gần gũi với tư tưởng “trung thứ” của Khổng Tử hơn là với Phật và
Lão, bởi, “Vô sự nghĩa là không để có sự
gì rắc rối” “Chữ rằng: “nhân dĩ hòa vi quý, Vô sự thì hơn kẻo phải lo”; “Mặc
chê dể mặc yêu thương, Vô sự thì hơn nữa ngọc vàng”.
Bàn về thuyết âm dương, Lão Tử cho
rằng: “Trong vạn vật, không có vật nào là không cõng âm, bồng dương”. Còn trong
Kinh Dịch: Âm dương “bao trùm mọi nguyên lí của vũ trụ, không có vật gì không
được tạo thành bởi âm dương, không có vật gì không được chuyển hóa bởi âm dương
biến đổi cho nhau”.[25]
Theo đó, Nguyễn Bỉnh Khiêm cho rằng
trong mỗi sự vật, hiện tượng đều có các mặt đối lập nhau, chúng gắn bó mật
thiết và luôn chuyển hóa cho nhau. “Âm cực sinh dương, dương cực sinh âm”, cái
này nhỏ đi thì cái kia lớn lên và ngược lại, họa – phúc, sang – hèn, thăng –
giáng... cứ thế đắp đổi mãi. Đó là luật trời.
Trời như lực lượng tự nhiên tạo ra mọi vật, chi phối các sự vật, hiện
tượng và con người, ngay cả tính con người cũng là do “trời phú”: “Trời phú
tính ở mình ta / Đạo cả cương thường năm mấy ba”.[26]
Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập thường xuất các cặp
từ đối lập trong quy luật âm dương: Giàu – khó, vinh – nhục, thua – được, suy –
thịnh, lành – dữ, khôn – dại, bĩ – thái, cạn – sâu...Đó là thế giới quan, nhân
sinh quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm:“Giàu chỉnh chện, khó lai dai / Vần chuyến lưu
thông hóa của ai / Vũng nọ ghê khi làm bãi cát / Doi kia có thủa lút hòn thai.
Khôn ngoan mới biết thăng thì giáng / Dại dột nào hay tiểu có đài / Đã khuất
bao nhiêu thì lại duỗi / Đạo trời lồng lộng chẳng hề sai”.
Từ đó ông chỉ rõ: trong phú quý,
trong “cơ doanh mãn” tiềm ẩn những mối lụy, sự nghèo hèn; trong nghèo hèn có
sang trọng; trong họa có phúc... “Chưng trong họa phúc ít người hay / Suy thịnh
hằng lề rắp đổi thay / Hàn Tín nên công thì cả phúc / Tái ông thất mã há chau
mày”.
Chủ trương lối sống “nhàn dật”
với hạt nhân là triết lý “vô sự”, tu tâm dưỡng tính, diệt trừ tận gốc dục vọng,
hướng dẫn hành vi của con người trong cuộc sống, tiến tới xây dựng một xã hội
ổn định theo mô hình Nho “Thái bình
thiên tử, thái bình dân” của Nho giáo, Nguyễn Bỉnh Khiêm coi đó như một chuẩn
tắc, bài học đạo đức để diệt lòng tư diệt dục. Ông đề cao lối sống tri túc, an
phận con người hãy sống thuận theo lẽ tự nhiên, không nên ganh đua tranh giành.
Yên phận là “vui”, là “hơn hết mọi điều”. “Giàu ba bữa, khó hai niêu / Yên phận
thì hơn hết mọi điều”; “Thảng mảng đà
qua, ngày đã rồi / Hay yên thửa phận mới nên vui” / Yên phận mà thôi chớ chớ
cầu / Gặp sao hay vậy có làm sao”
Thoáng nhìn, “tri túc, yên phận” mà
Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương, về mặt lý thuyết là hết sức tiêu cực bởi nó thủ
tiêu chí tiến thủ của con người, ảnh hưởng đến sự phát triển của cuộc sống,
cũng như toàn xã hội. Tuy nhiên, nếu đặt vào bối cảnh lịch sử loạn lạc đương
thời với đầy rẫy những sự tranh giành, chiến tranh, đói khổ... thì lối sống tri
túc sẽ hạn chế được một phần nào đó những cảnh tang thương ấy. Bởi sống tri
túc, an phận sẽ không có tranh giành, không có chiến tranh, cướp bóc, cuộc sống
sẽ trở về cái nếp thanh bình vốn có của nó. “Buồn về, biếng thấy áng đao binh /
Yên phận thì lành, ở một mình”.
Ở một khía cạnh khác, Nguyễn Bỉnh
Khiêm muốn đề cao lối sống “nhàn”, xem nhẹ công danh, phú quý bởi xuất phát bởi
những chiêm nghiệm cuộc đời: tiền bạc, danh lợi vốn là những “vòng kim cô” trói
buộc khiến đạo đức suy đồi, xã hội suy vi, cương thường đảo lộn, con người sống vô đạo. “Cơm áo bỗng xui người
hóa quý / Oản xôi dễ khiến bụt nên ma”; “Đạo nọ, nghĩa này trăm tiếng bướm /
Nghe thôi thinh thỉnh lại đồng tiền”. Từ những triết lý trong Kinh Dịch, ông
nhận thức công danh phú quý chỉ là những thứ phù du, ảo hóa như giấc chiêm bao
mà thôi: “Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”, ông cũng chỉ rõ trong phú quý có
tiềm ẩn những mối lo, mối lụy bởi theo luật “âm dương tiêu trưởng”; “Suy thịnh
hằng lề”.
Trong quan điểm “Đạo” của LãoTrang
thì vũ trụ vận động biến đổi “hóa sinh”. Con người khi nắm được cái quy luật
“hóa sinh” ấy của “Đạo” thì sẽ bình thản sống theo quy luật tự nhiên, không ham
sống lâu, không ham danh vọng tiền tài, có được phong cốt ung dung tự tại của
bậc cao nhân thấu đạt đạo trời, thủ tiêu được những ràng buộc của ngoại giới,
ly khai với mọi biến động ở đời. Thấu đạt được tinh thần ấy thì vinh nhục, lợi
danh, thanh sắc, giàu nghèo trên trần đời sẽ không còn là mối bận tâm nữa. Một
khi đã vượt qua được giới hạn quan niệm sinh tử tầm thường, con người sẽ đạt
tới sự giao hòa với vạn vật, sống chết trong đời sẽ ttrở nên lẽ tầm thường. Lẽ
Đạo ấy có thể khiến con người ta sống bình thản, an nhiên tự tại trong đời.
Sống an nhiên tự tại, thoát khỏi
cảnh đời đua chen để giữ trọn thanh gia lạc đạo vong bần. Cho nên “nhàn” trong
"Bạch Vân quốc ngữ thi" của Nguyễn Bỉnh Khiêm có một nội hàm ý nghĩa
nhân sinh sâu sắc, là một quan niệm sống, một sự lựa chọn. Đó là cái nhàn của
nội tại tâm hồn mang lại cho ông phong thái ung dung của bậc tiên phong đạo
cốt. Trong con người Nguyễn Bỉnh Khiêm, bên cạnh con người chức năng nghĩa vụ
còn có con người cá nhân muốn “hưởng lạc thú”, ít nhiều muốn tìm cách thoát
khỏi sự ràng buộc chặt chẽ của kỷ cương Nho giáo để mà tự tại an nhiên. Tuy
nhiên, trong ông cái cổ điển của Nho học luôn giữ địa vị chính thống so với cái
lãng mạn của Đạo gia: “Người xem phú quý người hằng trọng / Ta được thanh nhàn
ta sá yêu”.
Đó là “cái nhàn” của sự trải nghiệm
của kẻ sĩ đã nắm được quy luật nhân sinh, là hạnh phúc của người làm chủ, là
hưởng một điều vui thú. Sống nhàn là để chống lại thói đời cố hữu tham công
danh để hướng đến một cuộc sống như thần tiên ngay giữa cõi tục.
Nếu Nguyễn Trãi về nhàn là bất đắc
dĩ thì đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm lại là sự tự nguyện. Đó là sự lựa chọn của
Nguyễn Bỉnh Khiêm như là sự lựa chọn một lối sống, một cách ứng xử, một thú
vui, sở thích “Đắc thú thanh nhàn ấy dưỡng thân”; “Thú nhàn mừng thấy bạn ngâm
nga”.
Thanh nhàn thì tâm không thể vướng
bụi tục. Sở dĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm có được vẻ tự tại an nhiên ấy chính là nhờ
dứt khoát đánh đổi vinh quý chốn vương triều lấy cảnh lạc đạo chốn điền
viên:“Được thua thấy ắt đã nhiều phen /Để rẻ công danh đổi lấy nhàn”.
Trong tầng lớp nho sĩ Việt Nam
không có nhiều lắm các hình mẫu tiên khách thảnh thơi ngày ngày ở am phong
nguyệt, dạo chơi nước trí non nhân như vậy. Đó là tột đỉnh của cảnh nhàn: cảnh
thần tiên. Điều này cũng là khát vọng “sung sướng, hạnh phúc” của người Việt
qua các thành ngữ: người tiên, cõi tiên, tiên cảnh, :”đẹp như tiên”, “sướng như
tiên”....Đó cũng là ước mơ đẹp nhất của con người hướng về chốn cực lạc. Với
Nguyễn Bỉnh Khiêm, cảnh tiên ngay ở cõi tục, hạnh phúc thần tiên ngay ở cõi
lòng thanh tịnh của mình. Có được điều đó là nhờ người quân tử đã thấu đạt lẽ
hóa sinh ở đời, nhẹ đường công danh, xa vòng phú quý, an nhiên tự tại ngay giữa
cõi đời vốn nhiều tục lụy. “Ông nhàn” đã đạt đến trạng thái tự do tinh thần,
vượt lên trên những ràng buộc của ngoại giới để ung dung tự tại hóa thân thành
tiểu thần tiên ở đời.
Những bài học đạo đức để diệt
lòng tư dục, là nguồn gốc loạn lạc trong xã hội, đem lại một cuộc sống cân
bằng, hòa hiếu, các bài học đạo đức tri túc, an phận, xem nhẹ công danh, phú
quý, sống “trung dung”, “dĩ hòa vi quý” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương đều nằm
trong bản chất của chữ “nhàn”. Bởi, “nhàn” là vui thú với cuộc sống điền viên,
là đối lập với công danh, phú quý, với những đua chen, giành giật. Do đó, với
Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng “nhàn dật” đã được nâng lên thành một triết lý
sống, đã tác động và ảnh hưởng đến suy nghĩ và lối sống của xã hội Việt Nam.
Trong truyền thống tư tưởng văn hóa
Việt Nam, quan niệm về “nhàn” hoàn toàn không có tính chất thoát ly thực tại xã
hội. Nhàn là một lối sống, một cách ứng xử và cao hơn. Đó cũng là phẩm chất,
nét đẹp văn hóa của một dân tộc biết xem thường danh lợi nhưng trọng nhân
nghĩa.
III. Ý NGHĨA CHỮ NHÀN TRONG CÔNG
GIÁO
Lướt qua các quan niệm và khái niệm
“nhàn” trong Tam giáo cũng như trong văn hóa dân tộc Việt Nam, chúng ta nhận
thấy: “nhàn” gắn liền chủ trương“vô ngã”, “diệt dục” (Phật); với khát vọng cuộc
sống “tiêu dao” hay “trường sinh bất tử”
(Đạo giáo); Nho giáo thì gắn liền với thực hành xây dựng “xây dựng một thế giới thái bình”, hay chỉ là
những giây phút nghỉ ngơi, thảnh thơi, không vướng bận trong đời sống của một
kiếp người.
Đạo Công giáo có mặt tại Việt Nam
thế kỷ 16, đã thổi một luồng gió mới vào vùng đất đã có sẵn Tam giáo và đậm đà
bản sắc văn hóa bản địa. Để diễn đạt nội dung tư tưởng cũng như giáo lý đức
tin, các thừa sai cũng như người Công giáo đã sớm sử dụng ngôn ngữ Việt như là
một công cụ đắc lực để diễn tả đức tin của mình. Chữ “Nhàn” quá thân thuộc
trong Tam giáo và cách nói hằng ngày của dận tộc Việt như đã trình bày ở phần
trên, nay thành một chữ có nội hàm ý nghĩa sâu sắc trong Công giáo.
1. “Nhàn” là “quê nhà” hạnh phúc
vĩnh cửu trên trời
Nhà thơ Đỗ Trung Quân từng ca ngợi:
“Quê hương là chùm khế ngọt”. Đúng thế! Trong tâm thức người Việt, “quê hương”
của mỗi người gắn liền với hình ảnh thân thương, quen thuộc như: “ngôi nhà”,
‘bến nước”, “sân đình”....”Với người Việt, “ngôi nhà” đâu chỉ là nơi che nắng
che mưa, nơi gặp gỡ tình thân, nơi chia sẻ tình yêu thương mà nơi ấy còn khắc
khoải trong ta bao “nỗi nhớ”, là nơi
“trở về” sau những ngày tháng gian lao vất vả ngược xuôi trên đường đời.
“Anh đi anh nhớ quê nhà”
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm
tương...”
Và nếu Nguyễn Trãi xem mình
như “khách tha hương” lạc loài, và “gia sơn”, “cố sơn”, “non quê” là một điểm
hẹn lý tưởng cho ước vọng trở về để được sống tiêu dao, tự tại, một cuộc sống
thanh bình giữa mây ngàn, gió nội, không có những tranh giành, đua chen, hiềm
khích, thì với người Công giáo, sống trên trần gian là một cuộc lữ hành trở về
“quê nhà”. Đó là “chốn thanh nhàn”.
“Chốn thanh nhàn” chính là từ ngữ
biểu trưng “quê nhà” đích thực mà người Công giáo hướng tới. Đó là “Thiên
đàng”, “Thiên đình”, “Thiên quốc”, “Thiên gia”, v.v (có yếu tố Hán “thiên”
nghĩa là “trời”) như biểu thị không gian, một nơi chốn cụ thể; hoặc “Nước
Trời”, “Nước Chúa”, “Nhà Cha”, “Quê Trời”, v.v. Dù là Hán ngữ hay Việt ngữ thì
“quê hương” đó không phải là một địa chỉ cư trú hay một không gian vật lý cụ
thể. Tuy khác nhau về cách biểu thị nhưng các từ ngữ trên đều nhắc đến một
“thực tại siêu nhiên, thiêng liêng, siêu phàm”, đó là “nơi” Các Thánh được
hưởng hạnh phúc, là “chốn” dành riêng
cho những người được Thiên Chúa ân thưởng. “Trời là nơi Thiên Chúa ngự, là Nhà
Cha, nên là “quê hương” của ta” (x. GLHTCG, tr.2795). Cho nên, mọi sự cố gắng
tìm kiếm, chiếm hữu theo sức của con người là không thể. “Quê hương” ấy được
diễn đạt trong Kinh Cầu cho con cái Đức Mẹ bằng cụm từ “chốn thanh nhàn”: “
[...] Cho ngày sau được lên chốn thanh nhàn, hiệp làm một cùng Thiên Thần, Các
Thánh, mà ngợi khen Đức Mẹ là Nữ Vương cai trị đời đời chẳng cùng. A men”.[27]
Đó cũng là niềm tin của người Công
giáo: “Tôi tin hằng sống vậy. Amen” (Kinh tin kính). Đó chính là cuộc sống vĩnh
cửu, trường tồn, là “đời sau”. Điều này đã được xác tín rằng: loài người sau
khi chết nơi trần thế thì sẽ sống lại, linh hồn và xác, kẻ lành lên thiên đàng,
hưởng phước thanh nhàn vui vẻ vô cùng; còn linh hồn và xác kẻ dữ sa xuống hoả
ngục, chịu phạt khốn nạn đời đời kiếp kiếp. Cho nên, “phước thanh nhàn” chính
là “phước trời cao”, “phước Thiên đàng”.
Trong tiếng Do Thái, Thiên đàng -
shamyim, tiếng Hy Lạp: ouranos đều có thể có nghĩa là “trời” (tiếng Việt). Đó
là nơi Chúa ngự. Đức Giêsu chính là hiện thân của Nước Thiên Chúa. Ngài tỏ lộ
Nước ấy bằng những hình ảnh như: người tù được tha, người mù được thấy, người
què đi được,… Đó là Vương Quốc của tình yêu, Nhà Cha trên trời, là sự công
chính, bình an và niềm vui trong Thần Khí (Rm 14,17). Cho nên, trong bản kinh
còn tìm thấy: “Nguyện cho mai sau hưởng phước trời / Muôn kiếp thảy đều hoan
hỉ, Trên chốn thanh nhàn vô cùng”.[28]
Trong bài viết “Về khái niệm Niết
Bàn trong Phật giáo”, Nguyễn Thị Toan cho biết: “Niết bàn” 涅 槃 là đọc theo lối
phiên âm, trong tiếng Sanscrit là Nirvana, tiếng Pali là Nibhana. Trong đó,
Niết (nir): ra khỏi; bàn (bà na, Vana): rừng. Có nghĩa là “ra khỏi cảnh rừng mê
tối, phiền não”. Đoàn Trung Còn đã giải thích : “cảnh trí của nhà tu hành dứt
sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái”. Nhiều tài liệu
Phật giáo cho thấy đó là tình trạng: Khổ diệt, Tịch diệt , Bất sinh, Viên tịch
hay “Giải thoát”. Như vậy, Niết bàn
trong Phật giáo không phải là một cõi cực lạc có vị trí không gian nhất định mà
là một trạng thái tâm linh hoàn toàn thanh thản, yên tĩnh, sáng suốt, diệt ái
dục, xoá bỏ vô minh, chấm dứt mọi khổ đau, phiền não. Lý giải như thế để thấy,
Niết Bàn mà Phật giáo hướng đến là “một trạng thái bình an, hoan lạc” hơn là
một “nơi chốn”
Nho gia, vốn chú trọng “đời tục’,
không nói nhiều đến thế giới siêu nhiên, chỉ “Kính thần như thần tại” (Khổng
tử), cho nên, hạnh phúc của người quân tử là “vui với đạo” là “tồn tâm dưỡng
tính”, thái độ sống “nhàn”, “ẩn dật”, môi trường lý tưởng hạnh phúc của họ
chính là thế giới “thái bình thiên tử,
thái bình dân chúng”. Thái độ đó được Khổng tử bày tỏ: “Triêu văn đạo, tịch khả
tử” (Sáng được nghe Đạo, tối chết cũng cam lòng). Với Đạo giáo, thái độ sống
“vô sự”, tiêu dao, phóng khoáng của bậc tiên nhân ở chốn “bồng lai tiên cảnh”,
luôn mãi là mơ ước của người Việt qua các thành ngữ: sướng như tiên, đẹp như
tiên, nơi cực lạc...
Ngoài “chốn thanh nhàn” dùng để
diễn tả một “thế giới hạnh phúc”, các bản kinh Công giáo còn vay những hình
ảnh, từ ngữ vay mượn chỉ “nơi chốn” như: nơi cực lạc, cõi phúc, chốn tiêu dao,
nơi tiêu sái, chốn bình an... từ tam giáo như:
“Ví bằng Đức Mẹ thương xem con,
thì con sẽ nhìn lấy mình rốt hèn, đầy rẫy những tội lỗi, đã thoát khỏi trăng
cùm lòi tói được thong dong như các con Đức Chúa Trời, lại gần vào chốn an nhàn
tiêu sái chẳng cùng. Amen”[29]; hay “Xin cho cha mẹ bà con, kẻ thiết nghĩa cùng
con được lòng giữ ơn nghĩa cùng Chúa luôn, cùng xin cho các đẳng linh hồn lên
chốn an nhàn tiêu sái. Amen”.[30]
Trong Sách kinh Quy Nhơn (NXB Thuận
Hóa), chúng tôi tìm thấy những cụm từ “thanh nhàn”, “chốn thanh nhàn”, “phúc
thanh nhàn”, v.v được sử dụng 20 lần. Tất cả đều mang nội dung ngữ nghĩa là
“chốn bình an”, “hạnh phúc vĩnh viễn trường tồn, vĩnh cửu” , tồn tại song song
với những cụm từ khác, mang ý nghĩa tương tự như: nơi vinh quang, phước vui vẻ
hằng sống, nước Thiên đàng, Nước Đức Chúa Trời, chốn vui vẻ trên trời, phước
tiêu sái, chốn Thiên đình, chốn bình an, chốn nghỉ ngơi, chốn tiêu dao, thiên
đình, quê thật, thiên quốc, thiên gia, Nước Chúa, phước thong dong... Chẳng
hạn:
(1) “Xin vì công ơn Chúa chịu nạn
chịu chết trên cây thánh giá, cho chúng con ngày sau khi sống lại, được nơi vinh
hiển[31]...” (tr.4).
(2) Xin vì lòng thương xót Chúa
cho linh hồn các kẻ tin được nghỉ ngơi ở chốn bình an” (tr. 6).
(3) hầu được hưởng phước trên
nước Thiên Đàng đời đời chẳng cùng. Amen (Kinh Chúng con thân lạy Thánh giuse,
tr.113).
“Thiên Đàng” hay “thanh nhàn” mà
người Công giáo hướng đến là cuộc sống viên mãn vì được hiệp thông trong sự
sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Mẹ Maria, với các Thiên Thần và
các Thánh và những người được chúc phúc. Đó cũng là mục đích tối hậu và là sự
hiện thực hóa các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng hạnh
phúc tuyệt hảo và chung cuộc.
Ví dụ: “Chốn tiêu dao được tới /
Chầu chực Ba Ngôi / Nơi thế hằng trông / Ngửa nhờ đức cả. Amen”. (Kinh Cúi lạy
Chúa Thánh Thần, tr.302).
Như vậy, “chốn thanh nhàn” không phải là một nơi chốn, một xứ sở, nhưng
đúng hơn phải hiểu là một tình trạng được sống ở trong Thiên Chúa, vì chỉ có
Thiên Chúa mới tồn tại vĩnh viễn, còn ngoài Thiên Chúa chỉ là hư mất đời đời mà
thôi. Chính Đức Giêsu dùng những hình ảnh cụ thể trong đời sống thường ngày để
nói về thực tại vô hình ấy. Đó là hình ảnh “bữa tiệc linh đình, ăn uống no nê,
đủ mùi đủ vị, truyện trò vui vẻ thân mật, không sợ ai dòm hành đố kỵ”. Sách
Khải huyền gọi là “Giêrusalem trên trời, thành trì xây bằng đá quý, ở đó không
cần ánh sáng mặt trời, vì chính Chúa là mặt trời công bình chiếu rọi, không còn
than khóc la lối, không còn đau đớn tật nguyền, nhưng mọi người được sống đầy
đủ no nê, bình an vui vẻ”.
Sách kinh giáo phận Quy Nhơn còn
ghi:
- “Vậy chúng con hãy nhắc trí
nhắc lòng chúng con cho khỏi những sự hèn hạ thế gian mà theo chân Chúa Giê su
lên Thiên Đàng là chốn vui vẻ Chúa đã dành để cho chúng con được hưởng phước
đời đời” (tr.93)
- “Cho ngày sau được hưởng
muôn phước tiêu sái trên nước Thiên Đàng
đời đời chẳng cùng.Amen (tr.188 - Kinh
ân tứ)
- “Ngõ được ngày sau chung mạng / tới Nước
Trời chầu chực Ba Ngôi” (tr.305 - Kinh
kính lạy một chúa Ba Ngôi)
Như vậy, có thể hiểu “phúc / phước
thanh nhàn” là Thiên Đàng, là chốn tiêu dao, cõi cực lạc, cõi phúc là nơi mà
Thiên Chúa sắm sẵn để thưởng người lành. Với người Công giáo, cái chết nơi trần
thế chính là cánh cửa bước vào quê hương đời đời: Ở đó mới thật là đời sống
vĩnh cửu, là “quê nhà” mà con người luôn nhắm
là nơi “trở về” sau khi chết, là cùng đích tối hậu của cuộc đời. Ở đó,
ta được ngắm nhìn Thánh nhan của Ba Ngôi; hiểu rõ những điều đức tin đã dạy. Ta
sẽ mến yêu Thiên Chúa tận tuỵ, hưởng được chính Chúa muôn đời, lòng ta thoả mãn
không bao giờ nhàm chán. Ta sẽ gặp lại Chúa Giêsu, mà ta đã quen thuộc ở chốn
trần gian, nhờ đức tin, trong sách Phúc Âm, nơi các Bí Tích, nhất là trong phép
Thánh Thể, trong Giáo Hội, nơi anh em. Ta sẽ chung sống với Mẹ Maria, Thánh cả
Giuse, và triều thần thánh.
2. “Phước thanh nhàn” biểu thị ân
sủng của Thiên Chúa
Chữ “nhàn” thường gắn liền với chữ
“phúc” 福,
cũng có thể đọc là “phước”. Theo chiết tự Hán, chữ phúc thuộc bộ kỳ 示 (礻), có hai nét
nghĩa: thần linh và bày tỏ. Nét nghĩa “thần linh” biểu thị ơn trên ban xuống,
bởi tự con ngưởi không tạo ra phúc mà phải có sự trợ giúp của bề trên; còn “bày
tỏ”: là tự tâm; có hàm ý “con người phải có lòng mong mỏi và có cách sống thích
hợp để hưởng phúc”.
Chữ “bức”(畐, (bị)), bên phải, có dáng dấp như
‘vò rượu” cho nghĩa : “mãn” (đầy): Bình rượu đầy mang biểu tượng cho hạnh phúc.
Hình chữ (畐)
bao gồm tổ hợp chữ: chữ nhất 一 nằm trên, khẩu 口 và tất cả nằm trên chữ điền 田, có ý nói đến việc con người cầu xin là
được no đủ, đầy tràn là “phúc”.
Thông thường, con người luôn cầu
“phúc” từ thần linh và cố gắng ăn ở sao cho xứng đáng nhận cái “phúc” ấy. Cho
nên, trong cuộc sống thường ngày đã có nhiều hình tượng biểu thị chữ phúc trong
nhiều vật trang trí, trong kiến trúc, và cả trên y phục. Ban đầu “phúc” có nghĩa tương tự chữ “phú” 富 (giàu có, sung túc), dần dà mang
nghĩa “điều tốt lành“ , “sự may
mắn” trong : phúc đức, phúc hạnh, hạnh
phúc, hồng phúc, diễm phúc, hay “phúc, lộc, thọ”.
Theo triết lý Đông phương, phúc bao hàm tất cả những điều thiện hảo mà
con người có thể hình dung hay mơ tưởng. Kinh Thi[32] chia ra năm kiểu phúc
(ngũ phúc): trường thọ (sống lâu, không đoản mệnh), phú quý (giàu sang), khang
ninh (thân thể khoẻ mạnh, tâm hồn yên lành), hiếu đức (lương thiện, nhân hậu,
bình tĩnh), thiện chung (chết lành).
Với người Công giáo, nét nghĩa
“thần linh” trong chữ “phúc” có hàm ý chính là Thiên Chúa. “Phúc” là trọng tâm
lời rao giảng của Chúa Giêsu, là con đường hạnh phúc, là “Hiến chương Nước
Trời: “Ai có lòng khó khăn ấy là phước thật, vì chưng nước Đức Chúa Trời là của
mình vậy”. (Kinh Phước thật tám mối)[33]. “Phước thật”chính là ‘cùng đích”, là
“cứu cánh” là khát khao của con người. Đó là Nước Trời, là chính Thiên Chúa.
“Linh hồn con khao khát Chúa, ôi Chúa Trời hằng sống ! Biết tới ngày nào con
mới được về ngắm nhìn Nhan Chúa luôn”. (Tv 41). Đó là “sự sống đời đời”, là
“hưởng nhan Thánh Chúa” (xem thấy mặt Chúa), là nghỉ ngơi trong Chúa, là “sum
họp một nhà với Các Thánh trên trời”,...
Các bản kinh Công giáo trong Sách
kinh giáo phận Quy Nhơn (NXB Thuận Hóa) thường còn ghi lại nhiều cầu xin thể
hiện khao khát đó:
- “Xin vì lòng nhân từ Chúa cho
linh hồn...cùng các linh hồn các kẻ tin được nghỉ ngơi ở chốn bình an” (tr.526)
- “Lạy Chúa, xin cứu chữa linh
hồn này khỏi hỏa ngục, được lên chốn an nhàn vui vẻ đời đời” (tr.525)
- “Vì công nghiệp Giuse Thánh Cả,
Cho chúng con biết sống quang minh, Hầu ngày sau lên chốn thanh nhàn, Ngõ muôn
kiếp ngợi khen danh Chúa. Amen” (Kinh Các đạo binh trên trời, tr.448)
Ngay những ngày đầu truyền giáo, Cha Đắc Lộ trong Từ điển Việt –
Bồ - La cho biết: “nhàn”: có phúc = beatus (tr.548); theo Tự điển Công giáo
(2012, tr.271), “phúc” được giải thích là “điều tốt lành” dùng để diễn đạt khái
niệm Beatitudo, Beatitude, Béatitude trong tiếng Latinh, Anh và Pháp. Trong
những ngôn ngữ này, thì “phúc” dùng để dịch nghĩa từ ngữ Evangelicum, Gospel và
Evangile (phúc âm, tin mừng). Thoạt đầu, “Phúc âm” có nghĩa: “phần thưởng dành
cho người đưa tin về cuộc chiến thắng trên kẻ thù” (2 Sm 4,10; 18,20). Về sau,
trong Tân ước, “phúc âm” được dùng “loan báo Phúc cứu độ Thiên Chúa ban vào
thời cánh chung” (Is 52,7. 60,6). Nội dung chính yếu của Sứ điệp là Nước Thiên
Chúa đã đến, mọi người hãy hóan cải và đón nhận tin “tốt lành” ấy. (Mc 1,15).
Kinh đọc còn ghi nhận: “ Xin Chúa
cũng làm cho con nên thật, cùng đẹp lòng Chúa luôn, hầu ngày sau được thấy mặt
Chúa, mà hưởng phước vang hiển đời đời có dư, thanh nhàn muôn kiếp. Amen”.[34]
Như vậy, “nhàn” cũng là “phúc”, đều mang nghĩa là “điều tốt lành,”
“thánh thiện”, hệ tại nơi Thiên Chúa. Vậy nên, khi nói “hưởng phước Thanh
nhàn”, hưởng phước Thiên Đàng, hưởng
Nhan Thánh Chúa...” “nghỉ ngơi bình an trong Chúa” ... thì đó cũng chỉ là một
kiểu nói mà thôi. Đó là cuộc sống mai sau vĩnh viễn mà người Công giáo hướng
tới, là để “thông phần bản tính thần linh”, là “ơn nghĩa tử”, an nghỉ trong
Chúa (x. GLHTCG 1716, 1725, 1726).
Mặt khác, PHÚC trong “Hiến chương
Nước Trời” (Bát phúc) không đem đến cho con người “lời lãi” của cải thế gian
nhưng thanh luyện tâm hồn và dạy con người học biết yêu mến Thiên Chúa trên hết
mọi sự, dạy cho con người biết cách sử dụng của cải trần gian cho phù hợp theo
Thánh ý Chúa (x. GLHTCG 1728, 1729). “Phúc” cũng là căn tính của Kitô hữu. Bởi
lẽ, các mối phúc đã vẽ nên khuôn mặt và lối sống của Chúa Giê su. Khi Ngài nói
với các môn đệ : “Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và
vu khống đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho
anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt, 5,11).
Xem ra, “phúc” hay “nhàn” của
người Công giáo mang tính “chịu thiệt thòi”, thử thách, gian nan, đối lập vinh
quang nơi trần thế , còn “phần thưởng” thì hoàn toàn phụ thuộc vào lời hứa của
vị “chủ soái” là Đức Giê su, khi Người hứa với “kẻ trộm lành”: “Ta bảo thật
anh, hôm nay, anh sẽ được ở với ta trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Lời hứa đó là
“hưởng nhan thánh Chúa” (beatific Vision) là “hưởng kiến vinh phúc”, là “khát
vọng căn bản về hạnh phúc đời đời của con người”.[35] Bởi lẽ, người Công giáo
tin rằng những người chết trong ân sủng (ơn nghĩa) của Chúa Kitô và những người
đã được thanh tẩy sẽ được “nhìn thấy” Thiên Chúa cách trực tiếp, nhãn tiền
trong vinh quanh Nước Trời. Chính Thánh Gioan cho biết: “Người thế nào, chúng
ta sẽ thấy Người như vậy” (1 Ga 3,2). Phúc thật chính là “Nước Thiên Chúa”,
nhìn thấy Thiên Chúa, thông phần bản tính thần linh” (x.GLHTCG 1726). Đó cũng
là lời cầu xin được “chết lành”, để “xem thấy mặt Chúa”, “hưởng nhan thánh
Chúa” trong lời kinh: “Chúng con trông
Đức Mẹ cho chúng con ngày sau được vào cửa Thiên Đàng, xem thấy mặt Đức Chúa
Giê su cùng mặt Đức Mẹ, được muôn muôn sự phước gồm hết mọi sự tốt lành, chẳng
hay hết chẳng hay cùng. Amen”[36]; trong Kinh Xin ơn chết lành còn được đọc:
“Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã đổ hết máu mình ra và chết trên Thánh giá, để đền tội
chúng con và cứu chúng con khỏi sa hỏa ngục. Xin Chúa ban cho chúng con được
nhẫn nại can đảm chịu ốm đau bệnh tật, lập nhiều công phúc, xin cho chúng con
được chết đang khi có ơn nghĩa cùng Chúa và được Chúa gọi vào Nước Chúa như
người trộm lành xưa”.
“Tất cả là hồng ân”, là ân sủng
(grace), là ơn huệ của Chúa. “Ân sủng” là sự ưu ái do bề trên ban cho, là ơn mà
Thiên Chúa ban cho con người vô điều kiện, giúp con người tham dự sự sống Thiên
Chúa Ba Ngôi và có khả năng hành động hành động vì tình yêu dành cho Ngài (x.
GLHTCG 1996-1998). Đó là tình trạng của một người sống thân nghĩa, sống đẹp
lòng với Chúa, có lòng “kính mến Chúa”. Đó là điều kiện cần thiết phải có khi
chết nếu muốn lên Thiên Đàng, “hưởng phúc thanh nhàn”: “Ấy vậy chúng con hằng
phải ra sức lo lắng thể nào, mà chịu các phép trọng ấy cho nên, cùng tin thật
vững vàng mà giữ cẩn thận các điều trước này, thì mới đặng hưởng phước thanh
nhàn đời đời kiếp kiếp.Amen”.[37]
Nói theo một kiểu khác, con người
“được hưởng phước thanh nhàn”, hưởng phúc thật là “nhờ bởi ơn Chúa”. Hãy xem
Kinh Sáng soi nói gì: “Cúi xin Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải
làm, cùng khi làm xin Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự
cho đến hoàn thành, đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen”.[38]
Thậy vậy, người Công giáo tin rằng:
dù sống hay chết thì đều “ở trong tay Chúa”. Theo ngôn từ nhà Phật thì “giải
thoát” (Niết Bàn); đạt đến cảnh giới “vô
vi” (Lão) là hạnh phúc. Với người Công giáo ,“thanh nhàn” cũng chính là hạnh
phúc, là được “giải thoát” , là được cứu rỗi. Bởi lẽ, “thanh nhàn” chính là
hiện hữu của Thiên Chúa Ba Ngôi, Đấng hằng sống, vinh hiển, trường tồn, trường
thọ. Điều này được thể hiện qua câu kinh chúc tụng, ngợi khen Chúa:
“Chúng con chúc tụng khong khen Chúa, Cùng
Thánh phụ Thánh Thần nhất thể, hằng thanh nhàn muôn kiếp hiển vang. Amen”.[39]
Với người Công giáo “phúc” mà con
người có được không nằm ngoài “ân sủng của Thiên Chúa”. Đó là “ơn cứu thoát”,
“ơn cứu chuộc”, “ơn cứu rỗi”,... Trong hầu hết các bản kinh đọc sáng tối đều dễ
dàng tìm thấy những quán ngữ: “vì công nghiệp Chúa Giê su”, ”vì lòng Chúa
thương xót”, “vì Chúa”, “nhờ ơn Chúa”,...:
- “Xin vì công ơn Chúa chịu nạn
chịu chết trên cây Thánh giá, cho chúng con ngày sau khi sống lại, được đến nơi
vinh hiển. Vì công nghiệp Chúa Ki tô là Chúa chúng con”.[40]
Ngay cả trước và sau khi ăn cũng có
câu kinh “đội ơn” như thế:
- “Lạy Chúa, xin chúc lành cho
chúng con và của ăn này, do lòng rộng rãi Chúa ban cho chúng con hưởng dùng.
Nhờ Đức Ki tô Chúa chúng con.Amen”.
- “Chúng con cảm đội ơn Chúa phép
tắc vô cùng vì mọi ơn lành Chúa đã ban cho chúng con...” . Còn lời cầu cho
người quan đời thì: “Xin vì lòng thương xót Chúa cho linh hồn...cùng các linh
hồn các kẻ tin được nghỉ ngơi ở chốn bình an”.[41]
Tắt một lời, sống trong “ơn nghĩa”
để được ‘phúc”, để được “thanh nhàn” là sống trọn vẹn với ba nhân đức: tin,
cậy, mến (faith, hope, charity). Ba nhân đức này có trong 3 bản kinh: Kinh tin,
Kinh cậy và Kinh mến.[42]
Như vậy, “nhàn” mà người Công giáo
được sử dụng phải được hiểu là: sự bình an, sự cứu rỗi, sự vui vẻ,... là “ơn
phúc” của Chúa ban cho con người.
3.Thanh nhàn đối lập với trần
gian nhưng hiện hữu trong trần gian
Theo quan niệm Phật giáo, “Đời là
bể khổ, thế gian là hư ảo, giả tạm. Sở dĩ con người phải khổ là vì con người
phải chịu nhân quả luân hồi của những việc mình đã làm ra ở kiếp trước và kiếp
này. Với vận mệnh cũng như họa phúc của mình, con người không làm chủ được,
không biết trước được, bởi vì con người bị che lấp bởi "lục căn",
"lục trần". Để thoát khổ, không gì bằng trở về với "Phật
tính" trong bản thân mỗi người.
Đối với Nho sĩ thì việc tìm về lối
sống “ẩn dật”, thanh nhàn cốt là để xa lánh cám dỗ của đời sống vật chất, của
bả vinh hoa, phú quý của chốn quan trường bon chen, giành giật. Trong nhận thức
của họ, “thanh nhàn” hoàn toàn đối lập lợi danh, phú quý. Thế giới “thanh nhàn”
của họ được miêu tả là thế giới tươi đẹp, đáng trân trọng. Ở đó, con người được
tận hưởng cuộc sống thanh thản giữa mây ngàn gió nước, xa rời những bon chen,
những hiềm khích mà lợi danh mang lại:
“Tiêu sái tự nhiên nhẹ hết mình
Nài bao ngôi cả áng công danh
Vô tâm đìa có trăng bạc
Đắc thú kho đầy gió thanh”.
Chữ “thanh” trong “thanh nhàn” mang
ý nghĩa: trong sạch, thanh thản. Đó cũng là khí tiết của người quân tử, của Nho
sĩ chân chính. Đó cũng là thế giới “an nhiên, tự tại”, vô vi, tiêu sái, tiêu
dao, vui vẻ và bình an trong Đạo giáo.
Thế giới ấy là nơi “cảnh cũ, non quê” của Nguyễn Trãi, nơi đó, trái tim cô đơn
của ông được xoa dịu mà cũng nằm trong thế
đối lập giữa “thanh cao” và “phàm tục” của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Phải chăng, thế đối lập “thanh
nhàn” và “công danh, phú quý” của Nho gia đã phần nào phản ánh thế đối lập giữa
“thanh nhàn” và “Nước Chúa” với thế
gian, trần tục, trần cấu của người Công giáo.
Trong quan điểm Kitô giáo thì điều
Phúc thật không cốt tại việc sở hữu của cải trần thế. (x. Mt 19,16-22); vinh
quang nhân loại (Mt 4,8-10). “Ai có lòng khó khăn, ấy là phúc thật, vì chưng
Nước Đức Chúa Trời là của mình vậy...”[43] bởi lẽ, chỉ Thiên Chúa mới là nguồn
mạch mọi điều thiện hảo và mọi tình yêu (GLHTCG 1723). Thánh Phao lô trong thư
gửi tín hữu Rô-ma cho biết :“Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện
uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần. Ai phục vụ
Đức Kitô như thế, thì đẹp lòng Thiên Chúa và được người ta quý trọng” (Rm
14,17-18).
Hơn nữa, hành trình của con người
trong dòng lịch sử cũng là hành trình tìm kiếm công chính và bình an. Trong
hành trình ấy, con người luôn đối mặt
giữa những bất công, bất chính, bất an giữa lòng xã hội và nơi bản thân mình.
Nhưng Lời Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a cho chúng ta biết Đức Giê-su là
“Vua công chính”, là “Hoàng tử bình an” (Is 9,5-6). Người không giống bất cứ vị
vua hay vị lãnh đạo nào trong quá khứ, hiện tại cũng như mai ngày. Hành trình
trần thế của Người là hành trình kêu gọi mọi người sống công chính để được
hưởng bình an của Thiên Chúa. Sự công chính và bình an mà Đức Giê-su loan báo
giúp con người không ngừng cải thiện đời sống trong hành trình hướng về sự công
chính và bình an viên mãn. Đó là “chốn thanh nhàn” như lời kinh đọc: “Cho chúng
con biết sống quang minh / hầu ngày sau lên chốn thanh nhàn”[44]; “Và ngày sau
xin cho con được giựt lấy bia thẻ phước thanh nhàn trên nước Thiên Đàng”. [45]
Trong các bản kinh Công giáo, “trần
gian” thường được diễn tả bằng các cụm từ: “chốn khách đày” hay “lũng đầy nước
mắt” (Kinh Lạy Nữ Vương), “cõi tạm” và “kẻ đi biển cả” (Kinh Cầu Đức Bà), v.v
tất cả đều toát lên sự vất vả, gian nan, thử thách, trói buộc,... đối lập với
“chốn thanh nhàn” là chốn bình an, chốn tiêu diêu, nơi vui vẻ, v.v. Chẳng hạn:
“Lạy Chúa Con Thánh Mẫu đồng trinh / giúp con giữa thế gian sóng gió / Xin soi
sáng chỉ đường dẫn nẻo, được đến nơi vui vẻ thanh nhàn”.[46]
Thế nhưng, Nước Thiên Chúa mà Chúa
Giêsu muốn nói không phải một nơi chốn, hay một lãnh thổ, nhưng Nước Thiên Chúa
là bất cứ nơi nào Triều Đại của Thiên Chúa hiện hữu, bất cứ nơi nào con người
để cho Đức Kitô ngự trị trong trái tim họ. Thật vậy, Chúa Giêsu cho biết:
“Triều đại Thiên Chúa không đến như một điều người ta có thể quan sát được, nói
được ở đây hay ở kia, vì triều đại Thiên Chúa ở giữa các ông” (Lc 17,20-21). “Ở
giữa” tức là ở trần gian này, là cuộc sống hiện tại, ở trong tâm hồn con người.
Thánh Phaolô cũng xác định rằng, Nước Thiên Chúa không phải là thực tại vật chất
mà con người tìm kiếm tranh giành nhau (Rm 14,17). Như vậy, ở đâu có Thiên Chúa
hiện diện thì ở đó chính là Nước Thiên Chúa. Chính Đức Giêsu là hiện thân của
Nước Thiên Chúa, con người “đầu đội trời, chân đạp đất”, nghĩa là sống ở trần
gian nhưng vẫn luôn hướng về trời cao. Tức là con người luôn khao khát hướng về
mục đích tối hậu của đời người là hạnh phúc trong Nước Thiên Chúa.
IV. KẾT LUẬN
Ở phần đầu bài viết, chúng tôi đã
giới thiệu sơ lược về chữ “nhàn” trong tiếng Việt. Thông qua việc chiết tự,
chúng ta nhận thấy “nhàn” mang lại nhiều ý nghĩa khác nhau, thường được biết
đến với ý nghĩa :”rảnh rỗi” , “thong thả”. Trong địa hạt văn chương hay tôn
giáo, “nhàn” hay “thanh nhàn” lại mang nhiều ngữ nghĩa khác nhau: “hạnh phúc”,
“bình an”, “thú vui”,... đượm màu sắc
khen chê hay cảnh báo trong. Và khi đi vào lĩnh vực triết lý, thì ngữ nghĩa lại
có nhiều sự biến chuyển. “Nhàn” trở thành thái độ sống, phong cách sống của các
bậc hiền triết, nho sĩ. Trong Công giáo, “nhàn” được xác định là Thiên đàng, là
khát vọng tối hậu của con người.
Triết lý “nhàn” được xác định dựa
trên nền tảng sự hòa hợp tư tưởng Nho – Phật – Lão và có thể được tìm thấy
trong những sáng tác của các Nho sĩ. Với Nho giáo, “tu thân” đã trở thành “kim
chỉ nam” đưa đến quan niệm coi thường phú quý, danh lợi và “minh triết bảo thân” trở về, hòa mình với thiên nhiên, di dưỡng
tính tình, giữ gìn tiết tháo của nhà nho, từ đó trở thành động lực làm nảy sinh
tư tưởng “nhàn” trong văn học Nho giáo. Với Lão giáo, lối sống “tri túc”, “tự
lạc” trở thành một phương tiện để nho sĩ đạt đến trạng thái “nhàn” – sống hòa
mình với thiên nhiên thanh sạch, gạt bỏ lòng tư dục, ham muốn công danh. Về
phía Phật giáo, qua giáo lý với tư tưởng
giải thoát cái bản ngã của Phật đã phối kết với lối sống “pháp tự nhiên, vô vi”
của Đạo gia tạo ra Thiền, trạng thái tĩnh lự, tập trung cao độ, lấy thanh tĩnh
làm gốc đã hướng con người đến bản chất của chữ “nhàn”.
Có thể nói, tư tưởng Nho – Phật –
Lão hòa quyện và gắn kết với chủ nghĩa khoan dung của người Việt để hình thành
nên tư tưởng “nhàn”. Thật khó lòng phân biệt rạch ròi đâu là nho sĩ ẩn dật và
đâu là đạo sĩ hay là thiền sư. Mặt khác, sự kết hợp những yếu tố ứng xử linh
hoạt của Nho giáo, tư tưởng tiêu dao của Lão – Trang, tư tưởng siêu thoát của
Phật chính là tiền đề văn hóa góp phần tạo nên diện mạo của tư tưởng “nhàn”
trong văn hóa Việt Nam.
Trước hết, “nhàn” là phương thức
sống nho sĩ, một bảo bối của “minh triết bảo thân”. Hầu hết nho sĩ Việt Nam tìm
đến “nhàn” là do xã hội loạn lạc, triều chính rối ren, quyền thần lũng đoạn,
ngoại bang cai trị. Đó là nguyên nhân chính yếu thúc đẩy các nho sĩ tìm đến con
đường “độc thiện kỳ thân” và xem “nhàn”
như một phương thức sống. Những nho sĩ tiêu biểu có thể kể tên: Chu Văn An, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,... Trong sáng tác của họ, không gian thiên nhiên trở
thành môi trường sống lí tưởng, thanh bạch, ước vọng thực hiện “độc thiện kì
thân” cho nên, “nhàn” đối với nho sĩ ẩn dật Việt Nam là thanh tao, tiêu sái,
hồn hậu, phong nhã, hòa quyện thiên nhiên. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, “nhàn” đã gần
chạm tới cảnh giới “vô vi” của triết học Lão – Trang”.
Xem nhẹ danh lợi, phù hoa, trân
trọng những phút giây nhàn tản vốn là một trong những nguyên tắc ứng xử có cội
nguồn sâu xa từ các hệ tư tưởng Nho – Phật – Lão. Cho nên, trong nhận thức của
nhà nho, “nhàn dật” và lợi danh, phú quý là hai phạm trù đối lập. “Nhàn dật”
gắn với cuộc sống chốn lâm tuyền, thôn dã - một không gian rộng lớn, khoáng
đạt, sơn thủy hữu tình. Đó là cuộc sống thanh cao, lý tưởng, và ngược lại là
cuộc sống “phàm tục”, “bon chen”, dầy hiềm khích. Còn Nguyễn Bỉnh Khiêm thì xem
“nhàn” như một phương thức, một giải pháp để thực hiện “minh triết bảo thân”, xa lánh thói tục, đạt
đến sự thanh cao của tâm hồn. Ông khẳng định cuộc sống nhàn tản, “vô sự” là một
cuộc sống thực sự hạnh phúc, con người đạt đến cõi lòng “vô sự” là những bậc
tiên nhân đã diệt hết mọi khổ đau của cuộc đời thế tục trở thành những bậc “tiên vô sự”, “tiểu thần tiên”. Với
Nguyễn Bỉnh Khiêm, cảnh tiên ngay ở cõi tục, hạnh phúc thần tiên ngay ở cõi
lòng thanh tịnh của mình. Có được điều đó là nhờ người quân tử đã thấu đạt lẽ
hóa sinh ở đời, nhẹ đường công danh, xa vòng phú quý, an nhiên tự tại ngay giữa
cõi đời vốn nhiều tục lụy. “Ông nhàn” đã đạt đến trạng thái tự do tinh thần,
vượt lên trên những ràng buộc của ngoại giới để ung dung tự tại hóa thân thành
tiểu thần tiên ở đời.
Những bài học đạo đức để diệt lòng
tư dục, là nguồn gốc loạn lạc trong xã hội, đem lại một cuộc sống cân bằng, hòa
hiếu, các bài học đạo đức tri túc, an phận, xem nhẹ công danh, phú quý, sống
“trung dung”, “dĩ hòa vi quý” mà Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ trương đều nằm trong bản
chất của chữ “nhàn”. Bởi, “nhàn” là vui thú với cuộc sống điền viên, là đối lập
với công danh, phú quý, với những đua chen, giành giật.
Cuối cùng, thừa hưởng ý nghĩa
“nhàn” trong tam giáo và tính triết lý của nó, “nhàn” trong văn bản kinh Công
giáo lại có những nội hàm ngữ nghĩa sau:
- “Chốn thanh nhàn” chính là
Thiên đàng, là quê trời hạnh phúc, là cùng đích mà con người hướng tới
- Chữ “nhàn” gắn kết với “phúc”
đều hệ tại ở Thiên Chúa. Cho nên, nhàn chính là ơn phúc là phần thưởng mà Thiên
Chúa ban cho con người.
- “Nhàn” là Nước Chúa, là một
“thực tại siêu nhiên” tồn tại giữa thế tục nhưng không thuộc về thế tục. Bởi, ở
đâu có Thiên Chúa là có Nước Thiên Chúa, mà Đức Giêsu lại chính là Thiên Chúa
thật.
Như vậy, “nhàn” trong tiếng Việt khởi đầu bằng một khái niệm “rảnh rỗi” , “thong thả” bước vào “thánh đường” của triết lý đã chuyên chở được tư tưởng phong cách, thái độ và lối sống của nho sĩ Việt Nam. Trong các bản văn Công giáo, “nhàn” đã trở thành một biệt ngữ, thuật ngữ Công giáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tư liệu Việt Nam
Tổng tập thơ chữ Hán Lê Thánh
Tông, NXB Văn học, 2003
Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo
và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội
Nguyễn Hiến Lê (1998), Đạo đức
kinh, NXB Văn hóa
Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề
thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo dục
Nguyễn Đăng Thục (1974), Phật
giáo Việt Nam, NXB. Mặt Đất, Sài Gòn
Lê Anh Dũng (1994), Con đường Tam
giáo Việt Nam, NXB TP. Hồ Chí Minh
Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần,
tập I, NXB Khoa học xã hội, 1977
Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1988),
Thơ văn Lý – Trần, tập II, quyển Thượng, NXB Khoa học xã hội
Viện Văn học, Thơ văn Lý – Trần,
Tập III, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978
Nguyễn Tài Thư: Tam giáo đồng
nguyên – hiện tượng tư tưởng chung của các nước Đông Á, Tạp chí Hán Nôm, số 3
(40)-1999
Bùi Văn Nguyên (2003), Thơ Quốc
âm Nguyễn Trãi, NXB Giáo dục, Hà Nội
Đỗ Lai Thúy (2012), Nguyễn Bỉnh
Khiêm, lựa chọn như một lối ứng xử.
Trương Tửu: Tâm lý và tư tưởng
Nguyễn Công Trứ. NXB Hàn Thuyên, H, 1943
Trương Tửu - Tuyển tập nghiên
cứu, phê bình (Nguyễn Hữu Sơn - Trịnh Bá Đĩnh sưu tầm, biên soạn). NXB Lao
động, H, 2007
Bùi Văn Nguyên - (1992), Thơ văn
Nguyễn Bỉnh Khiêm (tập hai) , NXB Giáo dục
Lý Minh Tuấn - (2002), Trung dung
thuyết minh, NXB Văn hóa Thông tin
Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư, t.1. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998
2. Tư liệu Công giáo Việt Nam
Sách kinh Giáo phận Quy Nhơn, NXB
Thuận Hóa, 1996
Hội đồng Giám mục Việt Nam, Từ
điển Công giáo, NXB Tôn giáo
Nhóm Phiên dịch Các giờ kinh phụng vụ, Lời Chúa cho mọi người, NXB Tôn giáo
3. Tư liệu internet
http://www.vhnt.org.vn
[1] Tổng tập thơ chữ Hán Lê Thánh Tông, NXB Văn học, 2003
[2] bát tiên là tám vị tiên là Chung Ly Quyền, Lã Động Tần,
Trương Quả Lão, Lý Thiết Quái, Lam Thái Hoà, Tào Quốc Cữu, Hà Tiên Cô, Hàn
Tương Tử được vẽ trên trướng
[3] Sách kinh Giáo phận Quy Nhơn, NXB Thuận Hóa, 1996,
tr.525
[4] Xc. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam
trung cận đại, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội
[5] Xc. Nguyễn Hiến Lê (1998), Đạo đức kinh, NXB Văn hóa
[6] Trần Đình Sử, 1999, Mấy vấn đề thi pháp văn học trung
đại Việt Nam, NXB Giáo dục
[7] Xc. Nguyễn Đăng Thục, Phật giáo Việt Nam, NXB. Mặt Đất,
Sài Gòn, 1974
[8] Lê Anh Dũng (1994), Con đường Tam giáo Việt Nam, NXB TP.
Hồ Chí Minh, tr.68
[9] Ngũ thường: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín
[10] Tam cương: quân, sư, phụ
[11] Xc. Thơ văn Lý – Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội,
tr.358
[12] Xc. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1988), Thơ văn Lý –
Trần, tập II, quyển Thượng, NXB Khoa học xã hội, tr.61
[13] Ibid, tr.505 - 510
[14] Ibid, tr.608
[15] Xc. Thơ văn Lý – Trần, Tập III, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội, 1978, tr.51; 315
[16] Nguyễn Tài Thư: Tam giáo đồng nguyên – hiện tượng tư
tưởng chung của các nước Đông Á, Tạp chí Hán Nôm, số 3 (40)-1999, tr.12
[17] Xc. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1988), Thơ văn Lý –
Trần, tập II, quyển Thượng, Nxb Khoa học xã hội, tr.61
[18] Xc. Thơ văn Lý – Trần, tập I, NXB Khoa học xã hội,
tr.434
[19] Xc. Bùi Văn Nguyên (2003), Thơ Quốc âm Nguyễn Trãi, NXB
Giáo dục, Hà Nội
[20] Xc. Đỗ Lai Thúy (2012), Nguyễn Bỉnh Khiêm, lựa chọn như
một lối ứng xử. Theo http://www.vhnt.org.vn, ngày 15/4/2012
[21] Xc. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại,
NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội
[22] Xc. Trương Tửu: Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ. NXB
Hàn Thuyên, H, 1943. Tuyển in trong Trương Tửu - Tuyển tập nghiên cứu, phê bình
(Nguyễn Hữu Sơn - Trịnh Bá Đĩnh sưu tầm, biên soạn). NXB Lao động, H, 2007,
tr.676
[23] Xc. Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và Văn học Việt Nam
[24] Xc. Bùi Văn Nguyên - (1992), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm
(tập hai) , Nxb Giáo dục, tr. 46 – 50
[25] Xc. Lý Minh Tuấn - (2002), Trung dung thuyết minh, NXB
Văn hóa Thông tin
[26] Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư,
t.1. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr.132
[27] Sách kinh Giáo phận Quy Nhơn, NXB Thuận Hóa, tr.423
[28] Ibid, tr.37
[29] Ibid, tr.417
[30] Ibid, tr.383
[31] “nơi vinh hiển” chính là Thiên Đàng, chốn bình an, chốn
nghỉ ngơi
[32] một trong năm quyển kinh điển của của Nho gia Trung
Hoa, do Khổng tử san định, bao gồm: Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu
[33] Sách kinh giáo phận Quy Nhơn, NXB Thuận Hóa, tr.62
[34] Ibid, tr.183
[35] Xc. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Từ điển Công giáo, NXB
Tôn giáo, tr.180
[36] Sách kinh giáo phận Quy Nhơn, NXB Thuận Hóa, tr.44
[37] Ibid, tr.57
[38] Ibid, tr.14
[39] Ibid, tr.402
[40] Ibid, tr.4
[41] Ibid, tr.526
[42] Ibid, tr.10-11
[43] Ibid, tr.62-63
[44] Ibid, tr.448
[45] Ibid, tr.424
[46] Ibid, tr.408
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét