Tháng 8 năm 1989, khi vừa chân ướt chân ráo về Tỉnh đoàn Thanh Hóa, tôi được giao nhiệm vụ đi Nga Sơn dự trại hè của huyện. Đối với tôi, đây là chuyến công tác đầu tiên trên cương vị cán bộ cấp tỉnh đi cơ sở. Một mình trên chiếc xe đạp, cặm cụi đạp hơn 30 km trong nắng hè đổ lửa, mãi rồi tôi cũng đến được Huyện đoàn tại thị trấn Nga Sơn. Đây cũng là lần đầu tiên trong đời tôi “chạm ngõ” Nga Sơn, lần đầu tiên thăm động Từ Thức, lần đầu tiên thưởng thức gỏi lệch, món ăn trứ danh của vùng đất này. Cái buổi ban đầu ấy cứ “tươi rói” trong tôi, dẫu đã hơn 30 năm có lẻ. Ghi chép lại những gì đã biết về vùng đất này, đối với tôi như một chuyến trở về quá khứ, khi mà huyện Nga Sơn không còn.
1. Nga Sơn- một vùng đất lạ
Trước khi sáp nhập, trong số 27 huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Thanh Hóa, Nga Sơn là một huyện lạ. Nếu đồng bằng Thanh Hóa là sản phẩm bồi tụ của hệ thống sông Mã, sông Chu thì Nga Sơn nằm ở cực đông bắc tỉnh, lại là kết quả bồi lắng của phù sa sông Hồng, sông Đáy. Dãy núi đá vôi Tam Điệp xuất phát từ Hòa Bình chạy theo hướng tây bắc – đông nam, kéo về Ninh Bình và rìa bắc Thanh Hóa, lao ra biển và kết thúc ở Nga Sơn. Vùng đất Nga Sơn liền khoảnh với Kim Sơn – Phát Diệm của Ninh Bình có đặc điểm chung là vùng bồi đắp trẻ, địa hình bằng phẳng, bãi bồi ven biển lớn. Vì vậy, có thể nói, vùng đất Nga Sơn là đứa con xinh đẹp của cuộc hôn phối núi – sông, là sản phẩm của dãy Tam Điệp và phù sa sông Hồng. Nên Nga Sơn lắm núi, nhiều hang động, nhưng lại có bờ biển dài, bãi bồi bát ngát, đồng ruộng bằng phẳng.
Nga Sơn là huyện của một vùng đất trẻ. Với đặc điểm bồi tụ mạnh, hằng năm bờ biển Nga Sơn lấn ra biển từ 80 đến 100m. Theo truyền thuyết Mai An Tiêm, thời các vua Hùng, đất Nga Sơn chỉ mới là các hòn đảo ngoài biển, do phù sa bồi đắp mà thành đất liền. Đảo Mai An Tiêm với sự tích dưa hấu mà ai cũng biết, vốn ngày xưa ngoài biển khơi nay đã thành “bãi An Tiêm” (Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa, tập thượng), nằm trên đất xã Nga An, sâu trong đất liền, cách bờ biển hơn 10 km theo đường chim bay. Theo sách “Đồng Khánh địa dư chí”, được làm dưới thời vua Đồng Khánh trị vì (1885 – 1889), khi viết về huyện Nga Sơn có “đảo Song Ngưu”, “đảo Chích Trợ”. Sách viết: “Đảo Song Ngưu…ra khỏi biển khoảng 1 dặm thì cao vọt lên 2 ngọn giống như hai con trâu đuổi nhau trên sóng”. Còn “đảo Chích Trợ phía ngoài đảo Song Ngưu…trông xa giống như bông hoa sen nổi trên mặt nước”, vua Lê Hiến Tông còn dong thuyền ra chơi . Thế nhưng đến sách “Đại Nam nhất thống chí” hoàn thành năm thứ 3 thời vua Duy Tân (1909) thì đã gọi là núi Song Ngưu, núi Chích Trợ. Như vậy chỉ trong vòng 20 năm, các hòn đảo nằm ngoài biển Nga Sơn đã được bao bọc bởi đất liền. Vì thế, nhà văn Mạc Yên (Phạm Thành Hưng) có lý khi viết “Nga Sơn là hòn đảo.. được phù sa kết dính với đất liền”.
Có nhiều núi đá vôi, có bờ biển rộng, “hình thế cong cong như con thuyền dáng chim Lạc trên trống đồng Đông Sơn, neo đậu ngày đêm đón chờ hải lưu đưa phù sa về bồi đắp nên bãi nên cồn” (NNC Hoàng Tuấn Phổ - Tinh hoa văn hóa xứ Thanh, tr 256 NXB Thanh Hóa, 2019), Nga Sơn là vương quốc của hang động. Từ các hang động “nẩy ra linh kì” (Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa, tập thượng) là vô vàn các văn bia được khắc trên vách đá, ngoài cửa hang , trong động, trên bia tạo cho Nga Sơn có một “vườn bia” Hán - Nôm mà không nơi nào có được.
Là “nhịp cầu”, là vùng “khớp nối” giữa Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, ngôn ngữ nói của Nga Sơn gần như thuộc về phương ngữ Bắc Bộ, khác với các vùng đất trung tâm của tỉnh Thanh Hóa, thuộc phương ngữ Bắc Trung Bộ. Điều dễ nhận thấy nhất là khi đến Nga Sơn chúng ta không còn được nghe các thanh điệu lẫn lộn giữa “hỏi” và “ ngã”, một đặc trưng của thổ ngữ Thanh Hóa. Người Nga Sơn về cơ bản nói nhẹ, đầy đủ âm tiết và không khác nhiều so với giọng Hà Nội chuẩn. Phải chăng là dân Thanh Hóa nhưng sống trên mạch đất hình thành từ phù sa sông Hồng đã tạo nên phương ngữ Bắc của Nga Sơn?.
Không phải ngẫu nhiên một huyện ven biển nhưng lại có tên Nga Sơn. Nga Sơn, theo Từ điển Hán Việt của tác giả Đào Duy Anh nghĩa là: NÚI CAO. Như vậy, Nga Sơn là huyện có cảnh quan thiên nhiên khác biệt, sắc thái văn hóa đặc thù và là huyện có tính “Bắc” nhất trong các huyện của tỉnh Thanh Hóa. Việc tìm hiểu về địa lý tự nhiên, văn hóa xã hội của Nga Sơn sẽ góp phần bổ sung một mảng mầu lạ, hấp dẫn cho bức tranh toàn cảnh của tỉnh Thanh Hóa.
2. Danh xưng Nga Sơn trong lịch sử
Thời Đồng Khánh nhà Nguyễn, huyện Nga Sơn thuộc phủ Hà Trung, phủ lỵ đóng tại Nga Sơn nên huyện do phủ kiêm lý. Huyện có 6 tổng 107 xã, thôn, vạn, sở. Đó là tổng Thạch Giản: 20 xã, thôn; tổng Phi Lai: 19 xã, thôn, trang; tổng Mậu Lâm: 23 xã, thôn; tổng Đông Yên 14 xã, thôn, sở; tổng: Đô Bái 15 xã, thôn, ấp; tổng; Cao Vịnh: 16 xã, thôn.
Về phong tục: “Dân trong huyện quê mùa chất phác. Nhiều người đi học và người làm ruộng, người làm thợ và buôn bán không có mấy. Các xã gần biển phần nhiều làm nghề đánh cá. Việc cưới xin, tang ma, thờ cúng không xa hoa cũng không hà tiện, giống các huyện khác. Hàng năm vào tháng 2 làm lễ tế thần cầu phúc đều có ca hát. Nơi nào gần sông tổ chức đua thuyền, các xã đều có một trống lớn, cố làm cho mặt trống rộng được 3, 4 thước, đặt ở trong đình để trang sức cho đẹp. Theo Thiên chúa giáo toàn tòng chỉ có một xã Đông Quang; gián tòng thì có mấy xã Bạch Câu, Tam Linh, Vân Hoàn mà thôi”.
Về sản vật: “Nhiều lúa thu, ít lúa hè. Đất trồng dâu, trồng bông tương đối nhiều, dân lấy đó làm nguồn lợi. Khoai, đậu thì nơi nào cũng có. Bãi Huyền Tiêm xưa trồng dưa hấu có tiếng, nhưng nay thì không ngon bằng dưa Quảng Xương”.
Sách “Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Thanh Hóa, tập thượng” chép: “Huyện Nga Sơn ở phía đông nam phủ. Đông sang tây rộng 21 dặm, nam sang bắc dài 22 dặm. Phía đông tới biển, phía tây giáp Tống Sơn; phía nam liền huyện Hậu Lộc; phía bắc đến huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Từ đời Trần về trước gọi là Chi Nga hay là Nga Lạc. Hồi thuộc Minh cho vào Ái châu thuộc phủ Thanh Hóa. Đời Quang Thuận triều Lê gọi là Nga Giang cho thuộc sang phủ này, rồi dần dần mới đổi tên bây giờ. Triều Nguyễn vẫn để tên đó, cho thuộc vào phủ thống hạt. Trước đây lãnh 7 tổng. Năm Minh Mạng 19, trích tổng Thần Phù cho thuộc vào huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Năm Tự Đức thứ 3 (1830) đổi làm kiêm lý. Năm 18 lại lấy những đất mới mở theo dọc biển, đặt thêm 3 tổng Liên Sơn, An Sơn và Nam Sơn cho thuộc vào, tất cả là 9 tổng. Năm Thành Thái 12 (1900), lại đặt làm thống hạt và tách ra 2 tổng Phi Lai và Đông An cho thuộc vào huyện Tống Sơn. Hiện nay lãnh 7 tổng 112 xã thôn”.
Sách “Địa chí Thanh Hóa” tập 1, địa lý và lịch sử có viết về quá trình hình thành và tên gọi của huyện Nga Sơn: “Thời thuộc Hán là miền đất đông bắc của huyện Dư Phát. Thời Tam quốc – Lưỡng Tấn – Nam Bắc triều thuộc huyện Kiến Sơ. Thời Tùy là miền đất huyện Long An; thời Đường thuộc huyện Sùng Bình. Thời Đinh, Lê, Lý giữ nguyên như thời Đường. Thời Trần, Hồ bắt đầu lập huyện Chi Nga thuộc châu Ái. Thời Lê đổi tên huyện Chi Nga thành huyện Nga Giang thuộc phủ Hà Trung. Thời Nguyễn đổi tên là huyện Nga Sơn. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 vẫn giữ nguyên là huyện Nga Sơn. Năm 1977 ghép hai huyện Hà Trung và huyện Nga Sơn, lấy tên chung là huyện Trung Sơn. Năm 1982, tách hai huyện như cũ, lấy lại tên là huyện Nga Sơn”.
3. Núi sông, hang động kỳ thú của Nga Sơn
Với vị trí địa lý là nơi kết thúc của dãy núi đá vôi Tam Điệp kéo dài từ Hòa Bình ra biển, trước khi chia tay đất liền, núi rừng đã để lại “vĩ thanh” trên đất Nga Sơn với nhiều cảnh sắc núi non và hang động kỳ thú.
Núi Thần Phù (còn có tên là núi Thần Đầu, Giáp Sơn), nằm ở phía đông bắc huyện Nga Sơn. “Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa”, tập thượng có chép về núi này: “Bắt đầu từ núi Tam Điệp chạy lại, kéo dài 3, 40 dặm, giữa có một con sông nhỏ, chia ngọn núi ra làm 2 ngả: Một dẫy ở bờ bên nam là núi này, một dẫy ở về phía bắc thì từ trang Mỹ Quan liền tới xã Trị Nội. Có 2 cái động, một cái là Từ Thức động (tục gọi là hang Từ Thức) và một là Bạch Á động. Lại qua đó tới biển thì hết. Nơi đây nước đá tranh hùng, trông đầy lạ đẹp. Từ đời Trần trở lại, sĩ phu đề vịnh rất nhiều. Trong bài thơ của Hoàng Giáp Nguyễn Trung Ngạn khi về nhậm chức An phủ sứ Thanh Hóa năm 1326, có câu: “Nhất thủy bạch tùng thiên thượng lạc/ Quần san thanh đáo hải môn không (Một dòng nước trắng từ trời trút/ Mấy dẫy non xanh tới biển ngừng)”.
Nói đến Thần Phù (còn gọi là Thần Đầu) không mấy ai không nhớ đến câu ca dao nổi tiếng: “Lênh đênh qua cửa Thần Phù/ Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm” để nói lên vùng nước xoáy nguy hiểm khi thuyền bè qua đây. Sách “Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa”, tập thượng viết về “Thần Phù hải khẩu” (Cửa bể Thần Phù) như sau: “Ở vào trang Chính Đại, thuộc huyện Nga Sơn (Trước đây tên là Thần Đầu, tức là sông Thần Phù). Theo trong “Ức Trai địa dư chí” (Sách địa dư của cụ Ức Trai – Nguyễn Trãi) thì sông Thần Đầu có giống cá hình người mà có đuôi, không có vây, hoặc có người nói là những núi ở Thanh Hóa có nhiều giống ác thú, nên những tinh thiêng hóa ra cá đó. Nhưng về thời cổ thì có và hiện nay không còn thấy nữa. Dòng sông này từ cửa ải Chính Đại đổ xuống, hai bên toàn là núi non uốn lượn, chạy ra tới biển, là một nơi sơn thủy kỳ quan đệ nhất. Ngày xưa vua Hùng Vương đi đánh miền nam, tới cửa biển này, bị gió cản trở không thể đi được. Sau có một đạo sĩ tên là La Viện xin phép nhà vua cho một mình cưỡi thuyền đi trước, để tam quân đi sau, thì tự nhiên yên lặng, không có sóng gió gì nữa. Sau khi tấu khải trở về thì La Viện mất. Vua Hùng Vương bèn truy phong là Áp Lãng Chân nhân, lập đền ở bờ sông để thờ. Cụ Ức Trai có thơ vịnh như sau:
Núi xếp hai bên măng mọc tủa
Nước xuôi một giải rắn xanh rờn
Dòng sông nguyên cũ anh hùng kết
Kim cổ khôn lường sự biến luôn
Bốn biển đã im, trần đã lắng
Từ nay đâu thấy bóng kình tuôn
Khi vua Lê Thánh Tông đi qua cửa bể cũng có thơ như sau:
Len mây lách hẻm lối quanh co
Chinh chiến xa xôi lại phất cờ
Đất mở sông kia vào nước thượng
Trời đem cột đó chắn dòng to
Hồ Vương công cốc khuân bao đá
La Viện tênh tênh cưỡi chiếc đò
Cửa bể còn qua ba chín nữa
Ngày nào bấm đốt tới châu Ô?
Mãi sau tới hồi cuối triều Lê , đất sa bồi lên lấp cả cửa bể, hiện nay đã thành những đất dân cư”.
Với vị trí địa lý và sự hiểm trở của núi và cửa biển Thần Phù, trong gần 150 năm nội chiến Lê – Mạc (1533 – 1677), nơi đây đã chứng kiến nhiều cuộc giao tranh khốc liệt, khói lửa tương tàn và về sau thành ranh giới chia lãnh thổ Đại Việt làm Nam triều và Bắc triều. Ngày nay, cửa Thần Phù xưa đã bị bồi lấp thành đất liền, biển đã cách núi hàng chục cây số. Ngọn núi Chích Trợ xưa được coi là cọc tiêu giữa biển để chỉ hướng cho thuyền bè qua lại cửa Thần Phù thì nay đứng một mình giữa cánh đồng làng Văn Đức, Nga Phú (mới là Nga An). Trên vách dãy Thần Phù còn có chữ “Thần”, mỗi chiều khoảng 1,5m, khắc vào vách ngọn núi Bia Thần do “Nhật Nam Nguyên chủ đặc thư”, tức là chữ của chúa Trịnh Sâm. Ngoài ra cạnh chữ “Thần” còn mới phát hiện ra bài thơ chữ Hán “Nguyệt dạ phiếm chu quá Thần Phù” của Nhật Nam nguyên chủ Trịnh Sâm.
Núi Nga Sơn có nhiều hang động và là những hang động đẹp của Thanh Hóa. Không phải ngẫu nhiên mà sách “Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa, tập hạ, trong phần chép về “động tự” (động và chùa) đã đưa 3 động của Nga Sơn lên đầu tập hạ, mở đầu cho phần động chùa của Thanh Hóa. Nội dung có mô tả rất sinh động về Lục Vân động, Từ Thức động và Bạch Á động tại núi Thần Phù.
Động Lục Vân xưa ở làng Chính Đại, tổng Đông Bạn, xã Nga Điền (mới là Nga An) nằm dưới chân núi Thần Phù “Một vách đá sững sững giữa giời, ở trong có một ngôi động. Cửa động cao rộng mà sâu kín, có một cái nghiên đá tròn, đường kính chừng 4,5 thước, sắc trắng rất đẹp, nhưng chỉ có thể xem ngắm mà không mang về được. Cạnh động có một cái lỗ thông thiên, trong lỗ có hai miếng đá, một miếng trông tựa con rồng và một miếng trông tựa con hổ, tục gọi là Long – Hổ tranh quang (Rồng – Hổ tranh sáng).
Phía trong động có một khối đá, mặt mũi áo xiêm đúng như tượng Phật. Tương truyền có vị tiên nữ cưỡi rồng vào động rồi hóa, về sau mới nhân động đó mà làm nên chùa. Phía đông ngôi chùa có đẽo đá và khắc 4 chữ Thần Xích sơn bi (bia núi Thần Xích), cảnh trí rất nhiều thanh thú. Vua Lê Thánh Tông có thơ vịnh như sau:
Động Lục Vân sâu đá xếp tràn
Sạch không danh lợi đất trời khoan
Núi khe chiều rọi hoa màu đốm
Dương liễu xuân đưa chim hót ran
Tai rửa sông dài lòng vượn lắng
Đèn treo nhà tối mộng hưu tan
Đã không sắc tướng đời chi bận
Ngày tháng trong hồ nhàn lại nhàn
Khoảng đời Cảnh Hưng (vua Lê Hiển Tông 1740), ông Ngô Thì Sỹ cũng có bài thơ vịnh như sau:
Đá bị trời khua toan chặn biển
Gió theo đất cuốn định dâng trào
Đã ai vụt chết trong mờ mịt?
Riêng nước non xui khách bạc đầu!!!”.
Trong kháng chiến chống Pháp, Ủy ban kháng chiến xã Nga Điền (mới là Nga An) đóng trụ sở ở động nên địch bắn đại bác vào cửa động làm các bức điêu khắc, bút tích Hán Nôm ở cửa động tan nát cả. Hiện nay chỉ còn các bài thơ bằng chữ Hán trong vách động. Đó là bài: “Ngự chế Lục Vân Động” của Thiên Nam Hoàng đế Lê Thánh Tông, 3 bài thơ “Ngự chế đề Lục Vân Động thi tịnh tự” của Bảo Thiên động chủ Lê Tương Dực, bài “Ngự chế đề Lục Vân động (nhị thủ) của Thượng Dương động chủ Lê Hiến Tông, bài thơ Đường luật của Hoàng Giáp Ngô Thì Sĩ.
Động Từ Thức (động Bích Đào, hang Từ Thức), có truyền thuyết nói về Từ Thức gặp tiên. Câu chuyện Từ Thức lấy nàng Giáng Hương, làm rể cõi tiên nhưng nhớ nhà đòi về trần gian “Trách chàng Từ Thức vụng suy/ Đã lên cõi Phật về chi cõi trần”, hầu như mọi người đã biết chuyện này, một chuyện tình lãng mạn, nhuốm màu liêu trai. Sách Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa, tập thượng có chép về động:
“Ở về tay mặt núi Thần Phù, thuộc xã Trị Nội, huyện Nga Sơn. Động này rộng rãi thanh thú, có nhiều cây cối um tùm. Trong động có một cái bàn bằng đá, trên có đá vụn bày la liệt chẳng khác quân cờ. Các nhũ đá rủ xuống, có cái hình chuông, có cái hình trống, gõ vào đều có tiếng kêu. Lại có như hình bầu rượu, như hình màn trướng, như hình tàn lọng, và lổn nhổn như hình thuốc viên, biết bao cảnh trí thanh kỳ, nhìn không chán mắt. Khi vào trong tất phải thắp đuốc mới đi được, nhưng cũng chưa ai đi cho tới được tận cùng”.
Từ câu chuyện cổ tích về người trần gặp tiên, nhà thơ Lê Quý Đôn có vịnh thơ rằng:
Ngoài bể tìm tiên đã truyện hoang
Bích Đào động ấy lại mơ màng
Đất giời kiết xác anh Từ Thức
Mây nước già tom ả Giáng Hương
Trống đá sớm vang khua bóng ác
Muối sa thu nhạt loãng hơi sương
Người đời tìm mộng Thiên Thai khổ
Đâu biết Thiên Thai cũng lớp tuồng!”
Trong chuyến công tác về Nga Sơn như đã kể trên, đến thăm động Từ Thức, tôi cũng đã cảm xúc làm bài thơ: “Thăm động Từ Thức”, có mấy dòng mở đầu như sau:
Ta bước vào khát vọng của cha ông
Tay chạm đến những tầng cổ tích
Bia đá trăm năm ngủ vùi im lặng
Có phải chốn này Từ Thức tới thuở xưa?
Giáng Hương ơi! Nàng là thực hay mơ?
Chốn Bồng Lai không nguôi ngoai trần thế
Nỗi đau đời quặn thắt lời đá kể
Cửa Thần Phù chìm nổi mấy ai qua?...”
Với câu chuyện cổ tích làm say lòng người, động Từ Thức đã khiến bao danh nho, vương hầu đến đây vãn cảnh cảm hứng đề thơ . Hiện nay còn 3 bút tích khắc lên vách động là bài: “Ngự chế đề động Từ Thức” của Nhật Nam nguyên chủ Trịnh Sâm, bài: “Hữu Lê triều Bảng nhãn Lê Quế Đường tiên sinh đề Từ Thức động” của Lê Quý Đôn, bài: “Phỏng Từ Thức động” của Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm.
“Động Bạch Á (còn gọi là Bạch Ác, Bạch Nha) ở phía tả núi Thần Phù, thuộc xã Nội Trị. Phía trước tới con sông nhỏ, nổi lên một ngọn núi, trong núi có một cái động, cao rộng thanh thú khác thường. Nhân động dựng chùa, trong chùa có một pho tượng, ngoài chùa có xây cửa, trông thẳng ngay xuống Nga cảng; ngư hò tiều đáp, kinh đọc chuông kêu, thực là một cảnh đáng ưa giữa nơi sơn thủy hữu tình. Trong động sản nhiều giống dơi, nên tục thường gọi là Biên phúc cốc (hang dơi). Vua Thánh Tông nhà Lê có thơ đề như sau:
Muôn khoảnh sóng cồn vầng ác lộn
Một bầu cỏ biếc gió xuân tung
Khói mây phớt nhẹ mơ màng cách
Hoa vật um tùm thấp thoáng trông.
Khoảng năm Cảnh Hưng đời Lê, Trịnh Doanh thường chơi ở động này, nhân thấy có một tấm bia đá dài chừng một trượng 6 thước, trên khắc một chữ Phật to hàng mấy thước, chữ rất cổ kính, không biết là của triều đại nào? Sau ông Lê Quý Đôn nói là chữ của vua Thánh Tông triều Lý ngày trước, Trịnh Doanh phục cho là đúng và khen ông Lê Quý Đôn là người học biết khá rộng”.
Tại động Bạch Á hiện còn lời tựa và bài thơ của vua Lê Thánh Tông khắc trước cửa động, hai bài thơ “Ngự chế đề Bạch Á động thi” (nhị thủ) của Bảo Thiên động chủ (tức vua Lê Tương Dực), bài “Ngự chế đề Bạch Á động” của Nhật Nam nguyên chủ Trịnh Sâm, hai bài thơ Đường luật của Thượng Dương động chủ Lê Hiến Tông.
“Núi Vạn thuộc trang Chính Đại, phía đông huyện Nga Sơn. Bắt đầu từ núi Thần Phù, tới đây đột lên một ngọn, chẳng khác nào là một cây nêu: đẹp lạ, sát mây xuống lên liên tiếp, chồng chất chon von, dông ra tới biển. Ngày nay cát biển bồi dần, phía trong, phía ngoài núi mới đặt thêm 2 thôn Nội và Ngoại, dân cư đông đúc dần thành một chỗ đông vui”.
“Núi Song Ngưu ở trang Chính Đại, phía đông huyện Nga Sơn. Từ Vạn Sơn xuống phía đông chừng hơn một dặm, bỗng nổi lên hai ngọn núi giống hệt 2 con trâu đang đuổi vật nhau ở trên làn sóng. Hiện nay đã xa dần ra biển độ 4,5 dặm. Đời truyền đây là khóa đất “Song ngưu xuất hải” trong cuộc đất quý ở Gia Miêu sơn vậy”
“Núi Chích Trợ (núi chiếc đũa) ở phía ngoài đảo Song Ngưu, có ngọn núi đứng sững chon von, nhác trông như một chiếc đũa cắm thẳng ở giữa cái đỉnh hay cái nồi, vì thế mới đặt tên này. Trông xa như một bông hoa sen, nẩy trên mặt nước cho nên cũng có tên gọi là Liên sơn (núi Sen). Tương truyền vào thời Lê, có một công chúa cùng phò mã ra nơi sườn núi lập một biệt thự, mở vườn trồng đào có tới mấy mẫu, cho nên người sau thường kéo tới nơi đó là “Vườn Đào”. Vua Hiến Tông nhà Lê, dong thuyền ra chơi, có vịnh bài thơ như sau:
Vịn mây tựa đá ngắm nguồn sôi
Dựng cột ngăn sông khó mấy mươi
Đâu Suất sen tây tung mặt nước
Bồng Lai cánh tả sững bên người
Sáu ngao chẳng động thêm bền đất
Muôn nước quay chầu rộng chứa khơi
Sóng gió kình nghê nay đã lặng
Anh hùng coi nhỏ cõi trần ai”
Ngày xưa núi Chích trợ là hòn đảo giữa cửa biển Thần Phù, mênh mông nước bọc. Các vua chúa đi thuyền qua đây đã dừng lại, lên núi ngắm cảnh đề thơ. Hiện nay còn 2 bút tích chữ Hán của Thượng Dương động chủ, tức vua Lê Hiến Tông và Nhật nam nguyên chủ Trịnh Sâm. Đó là bài “Ngự chế phiếm Thần Phù hải đăng Chích Trợ sơn lưu đề nhất thủ” (Vua đi thuyền qua biển Thần Phù lên núi Chích Trợ lưu dề một bải thơ) của vua Lê Hiến Tông và bài Ngự chế đề Chích trợ sơn” (Nhà Chúa đề thơ trên núi Chích Trợ) của Chúa Trịnh Sâm.
“Núi Vân Nham ở xã Thạch Giản, phía nam huyện Nga Sơn. Cũng có tên gọi là núi Vân Hoàn, tên cũ thì gọi là Vân Lỗi. Bắt đầu từ núi Kim Âu huyện Vĩnh Lộc thẳng xuống, đột lên một ngọn, núi đất lẫn đá, đứng dựng như vách. Phía dưới núi, đồng lầy nghìn dặm, phía trước núi thì là bến sông. Trong lúc đăng lâm, những cảnh âu trắng ngoài khơi, cánh buồm bên đảo, đều bầy ra trước mắt. Bên hữu có hang đá, nguyên trước tên gọi là động Thúy Vân, cao tới 16, 17 trượng, rộng tới 10 thước hơn. Khoảng năm Thiệu Khánh triều Trần (1370), có một vị Hòa thượng, nhân cái động ấy đặt ra ngôi am, dựng tượng Phật để thờ và có ghi mấy câu như sau: “Kìa: Biếc xanh mà cao vót, như bình ngọc trướng gấm kia, không phải là núi Vân Lỗi hay sao? Ở mặt trước núi lấp lánh long lanh, quanh co lên xuống, sớm chiều đổi dạng kia, không phải là nước Vân Lỗi hay sao? Ở lưng chừng núi hương xông màu lạ, mờ mịt bao la, như mây như khói; lại như lầu gác lưng trời, ngất cao mà thấp thoáng kia, không phải là chùa Vân Lỗi hay sao?”
Hồi ấy quan Bộc Xạ là Phạm Sư Mạnh cũng có vịnh bài thơ bằng chữ Hán như sau: “Vin Sâm, trèo Tỉnh bước mây dồn/Mình ở lưng chừng Vân Hán luôn/ Cúi ngắm tăm kình nghìn vạn dặm/ Trời dài dâng nước, nước dâng non”.
Đời Cảnh Hưng triều Lê, Trịnh Sâm qua đây cũng vịnh bài thơ chữ Hán như sau:
Danh thắng nêu cao đệ nhất châu
Non như mồi điểm, nước như dầu
Động mây nửa khép chờ huyền hạc
Sông nước dềnh cao đuổi bạch âu
Len lỏi chú tiều vin mành đá
Chập chờn người khách vượt ghềnh sâu
Ngồi cao muốn thỏa tầm xem nước
Sóng biếc lan tràn một sắc thâu”
“Núi Thiết Giáp, ở xã Thiết Giáp phía đông huyện Nga Sơn. Cũng có tên gọi là Điều sơn. Bắt đầu từ các ngọn núi Tống Sơn, bò lần cho tới tận đây. Vách đá lởm chởm, giữa có một lối hơi phẳng, tức là lối giao thông của hai miền hạ du tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Ninh Bình tất phải đi qua. Từ đời Lê tới bây giờ, trong việc dụng binh phần nhiều cũng đi theo con đường ấy. Trong sách Vân Đài Loại Ngữ của ông Lê Quý Đôn cho là con đường núi này với con đường núi Tam Điệp đều do Mã Viện nhà Hán mở ra. Lời đó chưa biết là căn cứ vào đâu mà nói. Hiện nay phía bắc núi tới sông Chính Đại và phía nam núi có đền thờ Liễu Hạnh Công chúa, cũng là một nơi đại quan yếu giữa núi và biển giao hội với nhau” (Đại Nam nhất thống chí tỉnh Thanh Hóa).
Về sông ngòi, Nga Sơn có sông Hoạt chảy từ Hà Trung ven theo bắc Nga Sơn đổ ra biển; sông Báo Văn là ranh giới của Nga Sơn với Hà Trung, nằm ở phía tây huyện, nối sông Hoạt với sông Lèn. Sông Lèn (còn gọi là Nga giang) phía nam huyện Nga Sơn là ranh giới với Hậu Lộc đổ ra cửa biển Bạch Câu.
4. Di tích và nhân vật lịch sử Nga Sơn
Nga Sơn không chỉ sơn thủy hữu tình, cảnh sắc như tranh, núi non hang động nên thơ mà còn là vùng đất có nhiều di tích và nhân vật lịch sử nổi tiếng. Ở Nga Thắng có đền thờ vua Hùng thờ vua Hùng đời thứ 11 Hùng Trinh Vương. Xã Nga An có đền thờ Mai An Tiêm nằm dưới chân núi An Tiêm, nơi xưa kia vốn là hòn đảo Mai An Tiêm bị vua Hùng đày ra đây. Mai An Tiêm một nhân vật huyền sử gắn với sự tích dưa hấu, nhưng được coi là thủy tổ họ Mai Việt Nam. Hiện nay ở Nga Sơn số người có họ Mai rất nhiều, trong đó có những người thành đạt, nổi tiếng trong tỉnh, trong nước. Đền thờ Mai An Tiêm đã được tu bổ theo kiến trúc truyền thống, cổ kính và khang trang. Hằng năm, từ 12 đến 15 tháng 3 âm lịch Lễ hội Mai An Tiêm lại được tưng bừng tổ chức để tưởng nhớ, trí ân Mai An Tiêm đã có công lao chinh phục thiên nhiên, mở mang bờ cõi, tìm ra giống dưa quý cho đời sau. Xã Nga An còn có cụm di tích nổi tiếng là chùa Tiên (nơi gắn liền với truyền thuyết Từ Thức gặp Giáng Hương), hồ Động Vụa, phủ Trào, chùa Thông. Xã Nga Thiện (mới là Ba Đình)có đền thờ nữ tướng Lê Thị Hoa, nữ tướng thời Hai Bà Trưng và đền thờ Đại tướng quốc Trịnh Minh. Đền thờ bà Lê Thị Hoa có bức đại tự: “Tiết Liệt Anh Phong” và hai đôi câu đối, trong đó có câu: “Thề báo Tô cừu, thanh Bắc khấu/ Nghĩa phù Trưng chủ, phục Nam bang” (Thề báo thù Tô Định, quét sạch giặc phương Bắc/ Việc nghĩa phò Hai Bà Trưng, khôi phục nước Nam). Xã Nga Thủy (mới là Nga Sơn) có đền thờ Trần Hưng Đạo. Xã Nga Thạch (mới là Nga Thắng) có chùa Thạch Tuyền, di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Xã Nga Thanh (mới là Nga Sơn) có đền thờ Triệu Quang Phục. Xã Nga Bạch (mới là Nga Thắng) có đền thờ Nguyệt Nga Hoàng Phi thần. Xã Nga Thạch (mới là Nga Thắng) có đền thờ Mai Thị Ngọc Tiến phu nhân chi thần…
Nga Sơn còn gắn liền với danh xưng nổi tiếng Ba Đình, vốn là 3 ngôi đình của làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ Khê nơi căn cứ Ba Đình của cuộc khởi nghĩa chống Pháp trong phong trào Cần Vương, do Đinh Công Tráng và Trần Xuân Soạn lãnh đạo hưởng ứng chiếu Cần Vương. Trong năm 1945, bác sĩ Trần Văn Lai lúc ấy là Đốc lý Hà Nội của Chính phủ Trần Trọng Kim đã lấy tên Ba Đình để đặt tên cho vườn hoa ngã 6 phía sau vườn Bách Thảo, nơi cách đây 80 năm Bác Hồ đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong các nhân vật lịch sử của vùng đất Nga Sơn, chắc rằng công đầu thuộc về Mai An Tiêm, người được huyền thoại hóa, đã có công khai phá, xây dựng Nga Sơn từ buổi bình minh lịch sử của đất nước ta dưới thời Hùng Vương. Nữ tướng Lê Thị Hoa có công khuông phò Hai Bà Trưng, sau khi mất đã được an táng và lập đền thờ ngay tại trang An Nội, Nga Thiện (mới là Ba Đình) mảnh đất bà khai hoang lập ấp và trở thành quê hương. Tướng quân Trịnh Minh tham gia cuộc kháng chiến chống quân Mông – Nguyên lần thứ nhất, được vua Trần tin cậy giao quyền thủy bộ đại tướng quân án ngữ vùng núi Tam Điệp, lập được nhiều chiến công. Khi ông mất được phong Đại Vương, Thượng đẳng phúc thần. Hiện nay ở thôn Ngũ Kiên, Nga Thiện (mới là Ba Đình) còn đền thờ ông.
Nga Sơn còn là nơi có nhiều bậc đại khoa, thành danh thông qua khoa cử, được các triều đại phong kiến giao giữ các trọng trách như Nguyễn Giới, Mai Thế Chuẩn, Mai Anh Tuấn, Mai Hữu Dụng. Trong các bậc đại khoa có Mai Anh Tuấn đỗ Thám hoa năm 1849, nổi tiếng học giỏi, khảng khái. Ông được Tự Đức bổ nhiệm Thị độc học sĩ kiêm Tham biện. Ông tử trận trong tiễu phỉ xâm nhập biên giới năm mới 36 tuổi khi làm Án sát Lạng Sơn. Hiện nay ở Nga Sơn có trường THPT mang tên ông.
Nói đến Nga Sơn không thể không nhắc đến nhà thơ tài hoa và là kẻ sĩ bất đắc chí Hữu Loan, tác giả của Màu tím hoa sim,, Hoa lúa, Đèo Cả… Khi bỏ Hà Nội về quê ông đã ngày ngày lên núi Vân Lỗi đào đá để bán lấy tiền nuôi vợ con, bận “làm người” nên không “làm thơ”. Nết đất Nga Sơn tài hoa cũng đã sinh ra nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng như TrỊnh Thanh Sơn, người “rót biển vào chai”, Đỗ Xuân Thanh, Lã Hoan, Mai Ngọc Uyển, Dương Tất Từ, Mai Văn Hai, Nguyễn Ngọc Quế, Trần Cao Sơn, Lệ Bình…
5. Sản vật một vùng quê
Nga Sơn còn là vùng đất được thiên nhiên ưu ái ban cho nhiều sản vật nổi tiếng, trong đó không thể không kể đến chiếu, rượu và lệch. Vùng đất bồi, nhiễm mặn là thách thức với sản xuất nông nghiệp nhưng với cây cói Nga Sơn lại xanh tốt bời bời, để có những câu ca dao: “Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng/ Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông”. Vùng đất Tam Tổng xưa do vua Tự Đức lập ra từ đất mới cũng nổi tiếng là đất chiếu: “Chiếu Tam Tổng vừa rộng vừa bền/ Mùa hè mát lưng mùa đông ấm cật”. Rượu Nga Sơn cũng đã đi vào ca dao: “Cá mè sông Mực nhắm với rượu Nga Sơn/ Trần gian hấp dẫn còn hơn Ngọc Hoàng”. Trong các vùng rượu ngon nức tiếng xứ Thanh, Nga Sơn đóng góp những thương hiệu mà ai sành món “cuốc lủi’ này đều nhớ: Rượu Chính Đại (Nga Điền – mới là Nga An), Rượu Bạch Câu (Nga Bạch – mới là Nga Thắng). Rượu đậu Nga Sơn thơm, cay, đậm mà không xốc nhắm với lệch Nga Sơn sẽ là món ngon nhớ đời. Câu “Chim gà, cá lệch” để chỉ món ăn mang phong vị thôn quê, nhưng lệch ở bãi sông Nga Sơn thì độc nhất vô nhị. Lệch có thể làm nhiều món: nấu cháo, kho, rán, om..đều ngon, nhưng ngon nhất vẫn là gỏi lệch. Gỏi lệch phải có món chẻo để chấm, ăn kèm với các thứ lá: đinh lăng, vọng cách, lộc ổi, sung, mơ, mít, lộc vừng, lộc nhòn, cúc tần, lát chuối xanh, khế chua, sung quả, lát sả, ớt, gừng chút mắm tôm. Người sành ăn là lấy các loại lá làm thành phểu, cho lệch vào trong, đơm chẻo lên trên rồi gấp lá lại như chiếc oản để ăn. Ta sẽ cảm nhận được đầy đủ hương vị thơm ngọt của lệch, chát, chua, bùi, cay… của các loại lá và gia vị. Ngày nay tại một số thành phố lớn đã có món gỏi lệch, nhưng gỏi lệch ăn ngay tại đất Nga Sơn sẽ thành món ngon nhớ lâu, theo ta suốt cuộc đời.
6. Hy vọng ở tương lai
Thực hiện sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, xóa bỏ cấp huyện, huyện Nga Sơn đã đi vào dĩ vãng. Nga Sơn từ 23 xã, thị trấn được sắp xếp lại thành 6 xã; Xã Nga Sơn, xã Nga Thắng, xã Hồ Vương, xã Tân Tiến, xã Nga An và xã Ba Đình.
Dẫu không còn huyện nhưng danh xưng Nga Sơn vẫn được gọi cho xã trung tâm của huyện cũ. Dẫu không còn huyện nhưng vùng đất cổ tích Nga Sơn vẫn còn hấp dẫn bao bước chân lãng du của du khách về quan chiêm, khám phá vùng đất này. Dẫu không còn huyện nhưng đất Nga Sơn vẫn lặng lẽ tiến về phía biển, rộng lớn mỗi ngày. Và, dẫu huyện Nga Sơn không còn nhưng những cảm xúc và yêu mến của tôi với Nga Sơn, từ ngày đầu chạm ngõ đến bây giờ và sau này mãi mãi vẹn nguyên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét