XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2025

NHÌN LẠI BỐ CỤC BÀI VIẾT KHI ĐỌC ĐỊA CHÍ HUYỆN XƯA VÀ LỊCH SỬ ĐẢNG BỘ HUYỆN NAY.


1. Bố cục địa chí huyện xưa (theo truyền thống và hiện đại)
Mục đích: Ghi chép tổng hợp về điều kiện tự nhiên, dân cư, lịch sử, văn hóa, kinh tế… của một đơn vị hành chính (huyện), thường mang tính toàn diện, mô tả.
Bố cục tổng quát của một cuốn địa chí huyện:
1. Lời nói đầu / Dẫn nhập
• Trình bày lý do biên soạn
• Phạm vi, phương pháp, nguồn tư liệu
2. Phần thứ nhất: Tự nhiên
• Vị trí địa lý, địa hình
• Khí hậu, thuỷ văn
• Đất đai, tài nguyên thiên nhiên
3. Phần thứ hai: Lịch sử
• Lịch sử hình thành và phát triển của huyện qua các thời kỳ
• Các di tích lịch sử
• Những sự kiện tiêu biểu
4. Phần thứ ba: Dân cư – Dân tộc – Hành chính
• Các dân tộc cư trú
• Sự thay đổi đơn vị hành chính qua các thời kỳ
• Các dòng họ lớn, dân số, phong tục
5. Phần thứ tư: Văn hóa – Xã hội
• Phong tục tập quán
• Văn học dân gian, lễ hội, tín ngưỡng
• Giáo dục, y tế, thể thao
6. Phần thứ năm: Kinh tế
• Nông nghiệp, công nghiệp, thương mại
• Hợp tác xã, doanh nghiệp
• Cơ sở hạ tầng kinh tế
7. Phần thứ sáu: Quốc phòng – An ninh
• Truyền thống yêu nước, kháng chiến
• Các lực lượng vũ trang
8. Phần thứ bảy: Nhân vật lịch sử – Danh nhân – Người có công
• Những người con tiêu biểu của huyện
9. Phụ lục
• Bản đồ, ảnh minh hoạ, số liệu thống kê
2. Bố cục lịch sử Đảng bộ huyện (thường do Ban Tuyên giáo hoặc BCH Đảng bộ huyện tổ chức biên soạn)
Mục đích: Ghi lại quá trình hình thành, phát triển và vai trò lãnh đạo của Đảng bộ địa phương trong từng giai đoạn lịch sử. Có tính chất chính trị, tư liệu, giáo dục truyền thống.
Bố cục tiêu biểu của một cuốn lịch sử Đảng bộ huyện:
1. Lời giới thiệu / Tựa / Mở đầu
• Nêu lý do biên soạn
• Vai trò của Đảng bộ trong lịch sử huyện
2. Chương I: Quá trình hình thành phong trào cách mạng và tổ chức Đảng (trước 1945)
• Tình hình kinh tế, xã hội huyện thời Pháp thuộc
• Các phong trào yêu nước
• Thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên
3. Chương II: Đảng bộ lãnh đạo kháng chiến chống Pháp (1945–1954)
• Tổng khởi nghĩa và giành chính quyền
• Củng cố chính quyền cách mạng
• Tham gia kháng chiến chống Pháp
4. Chương III: Xây dựng CNXH và kháng chiến chống Mỹ (1954–1975)
• Cải cách ruộng đất, hợp tác hóa
• Phát triển kinh tế – xã hội
• Chi viện cho miền Nam
5. Chương IV: Thời kỳ thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc (1975–1986)
• Hàn gắn hậu quả chiến tranh
• Khôi phục và phát triển kinh tế
• Tăng cường quốc phòng – an ninh
6. Chương V: Đảng bộ huyện trong thời kỳ đổi mới (1986 đến nay)
• Đổi mới tư duy lãnh đạo
• Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
• Thành tựu trên các lĩnh vực
7. Chương VI: Xây dựng hệ thống chính trị và công tác xây dựng Đảng
• Củng cố tổ chức cơ sở Đảng
• Công tác cán bộ, tư tưởng, kiểm tra, dân vận
• Vai trò Mặt trận và các đoàn thể
8. Phần phụ lục
• Danh sách Ban Chấp hành các nhiệm kỳ
• Hình ảnh tư liệu, bản đồ
• Danh hiệu khen thưởng
• Các bài học kinh nghiệm
So sánh điểm khác biệt chính
Tiêu chí: Địa chí huyện (Lịch sử Đảng bộ huyện)
Tính chất: Toàn diện, (tổng hợp Chính trị, lịch sử cách mạng)
Đối tượng: Toàn dân – mọi lĩnh vực (Riêng tổ chức Đảng và phong trào cách mạng)
Thời gian: Bao quát cả quá khứ đến hiện tại (Tập trung vào thời hiện đại (từ đầu thế kỷ 20))
Cách viết: Khách quan, mô tả (Chính luận, tư liệu)
Tác giả: Hội đồng khoa học, nhà sử học (Ban Tuyên giáo, các đảng viên lão thành)

KIẾP TRĂM NĂM

 

KIẾP TRĂM NĂM

(phiên bản lục bát)
Trên mười người chẳng là bao,
Dưới ta một kẻ lao xao phận người.
Ngang vai gặp gỡ khắp nơi,
Hơn thua chi để phí đời trăm năm.
Vượt nhau tổn thọ hao tằm,
Danh vang một thuở cũng nằm tro than.
Người bình giữ phận bình an,
Người nổi đã sẵn muôn vàn kiếp duyên.
Cứ tùy thuận, cứ bình yên,
Đừng tham nổi bật chốn miền bụi bay.
Tích nhặt giữ lại cho tay,
Đủ dùng là quý, đừng đầy đừng vơi.
Kiếp nào nổi, ắt khắc thôi,
Kiếp nào bình lặng, cứ ngồi bình yên.
Tự ta vốn định nhân duyên,
Chính ta giữ trọn tâm hiền mà đi.

KIẾP TRĂM NĂM
(phiên bản song thất lục bát)
Thiên hạ rộng, người hơn ta mấy,
Mười người trên chẳng lấy chi xa.
Một người dưới thấp quanh ta,
Ngang vai gặp gỡ cũng là thường thôi.
Vượt một bước hao mòn thọ số,
Được danh vang tổn rỗ máu xương.
Nổi chìm kiếp trước kiếp đương,
Khác nhau tài sản tàng thường mang theo.
Người lưu dấu một chiều lịch sử,
Phải bỏ ra ngàn chữ tâm can.
Người bình giữ phận an nhàn,
Thong dong tuỳ thuận, chẳng tàn phí duyên.
Có cố muốn cũng liền đạt được,
Hữu chí thành – ai ngược lời xưa.
Song rồi tro bụi phai thừa,
Thiên hạ quên lãng gió mưa phận người.
Điều thắng lợi là nơi tích nhặt,
Giữ cho mình, tiết phát vừa thôi.
Một phần thành quả đem phơi,
Đầu tư tiếp tục sinh lời thâm sâu.
Đủ dùng đã, chớ đâu thừa phí,
Thiếu thì hư, cũng lụy tâm can.
Điều hòa một nhịp bình an,
Sống trăm năm cũng chứa chan nghĩa tình.
Kiếp nào nổi, thời mình khắc nổi,
Kiếp nào bình, thì phải bình yên.
Tự ta đã định nhân duyên,
Chính ta gánh vác nợ phiền kiếp sau.

KIẾP TRĂM NĂM
Thiên hạ trên mười chẳng quá cao,
Dưới ta một kẻ vẫn nao nao.
Người ngang ta gặp trên muôn nẻo,
Hơn thua chi để phí kiếp nào.
Muốn vượt một người hao thọ kiếp,
Danh vang một thuở tổn nguyên căn.
Kẻ nổi, dẫu rằng trời đã định,
Người bình, an phận cũng an thân.
Lưu danh mấy bận do gieo nợ,
Khác biệt trăm phần bởi rút kho.
Hào kiệt mang theo ngàn trí tuệ,
Phàm nhân cũng đủ để thong dong.
Cứ mặc tuỳ duyên mà tiết kiệm,
Đừng tham nổi bật chốn hồng trần.
Có chí thì nên, người từng nói,
Song rồi cũng lãng với tro tàn.
Khôn ngoan giữ lại cho mình trước,
Thành tựu bày ra một ít thôi.
Tích nhặt âm thầm nuôi bản ngã,
Đủ dùng là quý, chớ vung vời.
Thừa thì vãi phí, mà khi thiếu,
Hư việc hao tâm lại hận đời.
Điều tiết an hòa như nhịp thở,
Khó gì giữ được tấm lòng thơi.
Kiếp nào đã nổi thì khắc nổi,
Kiếp nào bình lặng cứ cho bình.
Tự ta vốn vậy, trời trao vậy,
Sống trọn trăm năm cũng nghĩa tình.
30/8/25

HUYỆN TRIỆU SƠN - ĐỊA CHÍ

Ngàn Nưa

Bia Lê Thì Hải

Tam quan đền Nưa
Lăng mộ Lê Thì Hiến


Trống đồng Thiết Cương

Hoa giáp trên vùng đất cổ
Triệu Sơn là huyện có tuổi đời trẻ và ngắn trong các huyện của tỉnh Thanh Hóa. Được thành lập vào ngày 25 tháng 2 năm 1965, theo Quyết định 177-CP của Chính phủ, Triệu Sơn là “quê mới” của 13 xã nam Thọ Xuân và 20 xã bắc Nông Cống khi về chung một nhà. Năm 1987 thành lập thêm xã Triệu Thành. Năm 1988 thành lập thị trấn Triệu Sơn (Quán Giắt). Năm 1994 thành lập xã Bình Sơn để từ đó huyện Triệu Sơn có 36 xã, thị trấn. Năm 2019, thành lập thị trấn Nưa trên cơ sở xã Tân Ninh và sáp nhập các xã Minh Dân và Minh Châu vào thị trấn Triệu Sơn. Đến năm 2024 sáp nhập xã Xuân Thịnh vào xã Xuân Lộc, xã Thọ Vực vào xã Thọ Phú để Triệu Sơn có 32 xã, thị trấn. Từ ngày thành lập huyện (1965) đến khi xóa bỏ cấp huyện (2025), huyện Triệu Sơn có đúng 60 năm tồn tại. Như vậy, huyện Triệu Sơn vừa đủ lục thập hoa giáp, một vòng đời trọn vẹn theo lịch pháp của văn hóa phương Đông.
1. Quá trình hình thành danh xưng Triệu Sơn
Là huyện mới thành lập nên trong sử cũ không ghi chép về quá trình hình thành và tên gọi như các huyện khác. Tuy nhiên, là huyện được thành lập trên cơ sở tách một số xã của huyện Thọ Xuân và Nông Cống, nên lịch sử của Triệu Sơn chính là lịch sử của phần đất mà các huyện này cắt ra để lập huyện.
Theo sách “Đồng Khánh địa dư chí”, và “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, phần đất của Triệu Sơn thời nhà Nguyễn thuộc huyện Nông Cống, phủ Tĩnh Gia và huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân. Phần đất của huyện Lôi Dương được cắt cho Triệu Sơn thuộc đất của 3 tổng: Thượng Cốc với 25 xã, thôn, Bất Náo với 14 xã, thôn và Tam Lộng với 30 xã, thôn. Phần đất của huyện Nông Cống được cắt cho huyện Triệu Sơn gồm 4 tổng: Cổ Định với 25 xã, thôn, tộc, sở, Đồng Xá với 21 xã, thôn, trang, Đô Xá với 11 xã, thôn và Lai Triều với 13 xã, thôn. Như vậy, năm 1965 đất của huyện Triệu Sơn bao gồm đất của 7 tổng, 139 xã, thôn, trang, sở của huyện Nông Cống và Lôi Dương dưới thời nhà Nguyễn.
Triệu Sơn có nghĩa là NÚI BÀ TRIỆU. Việc chọn đặt tên cho huyện gắn với tên nhân vật lịch sử Bà Triệu vì tại đây có căn cứ đóng quân luyện binh của Bà Triệu chống lại nhà Đông Ngô vào năm 248. Đặt tên huyện mới thành lập là Triệu Sơn, hẳn những người có thẩm quyền quyết định gửi gắm mong muốn khẳng định truyền thống lịch sử của vùng đất này trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta, cũng như khơi dây lòng tự hào của nhân dân trong huyện trong công cuộc xây dựng huyện nhà.
2. Điều kiện tự nhiên của Triệu Sơn
Là huyện đồng bằng bán sơn địa, phía tây tiếp nối với các huyện miền núi Như Xuân, Như Thanh, 3 phía còn lại giáp với các huyện miền xuôi, có các các tuyến đường quốc lộ và tỉnh lộ chạy qua, Triệu Sơn là cửa ngõ nối liền giữa đồng bằng với trung du và miền núi Thanh Hóa, thuận lợi trong giao lưu, giao thương và giao thông với các địa bàn trong tỉnh, trong nước. Ngay các địa danh cổ của vùng đất này như Quán Giắt, Quán Chua, Quán Trỗ đã nói lên Triệu Sơn xưa đã là đầu mối giao thương sầm uất. Địa hình của Triệu Sơn chia huyện thành 2 vùng rõ rệt: vùng bán sơn địa, miền núi và vùng đồng bằng. Với điều kiện địa hình thuận lợi, đất đai trù phú, cảnh quan tươi đẹp, Triệu Sơn đã thu hút con người sớm đến đây khai phá, sinh cơ lập nghiệp.
Ngọn núi lớn và nổi tiếng nhất của Triệu Sơn là núi Nưa (ngàn Nưa, núi Na, Na Sơn), một ngọn núi nằm trên địa bàn của huyện Triệu Sơn, Nông Cống và Như Thanh. Núi Nưa có chiều dài hơn 20km như bức tường thành tự nhiên sừng sững phía tây nam đồng bằng Thanh Hóa. Phần phía Triệu Sơn của núi Nưa thuộc vùng Cổ Định với các xã Tân Ninh, Thái Hòa và Vân Sơn. Đỉnh cao nhất của núi Nưa là 538m nằm ở địa phận xã Tân Ninh. Với dáng bề thế sừng sững, đột khởi trên nền trời phía tây nam Thanh Hóa, núi Nưa được xem là ngọn chủ sơn nối giữa đồng bằng và trung du xứ Thanh. Núi Nưa là ngọn núi đã được nhiều kẻ sĩ, tao nhân, mặc khách đến thăm và ghi lại trong nhiều sử sách, như Nguyễn Trãi trong “Dư địa chí”, Phan Huy Chú trong “Lịch triều hiến chương loại chí”, Nguyễn Dữ trong “Truyền kỳ mạn lục”; các nhà viết sử triều Nguyễn trong “Đại Nam nhất thống chí”, Nhữ Bá Sĩ trong “Thanh Hóa tỉnh chí”, Phan Huy Ôn với văn bia ở vách đá Am Tiên; Nguyễn Thượng Hiền trong “Nam chi tập”… Núi Nưa gắn liền với nhiều truyền thuyết, huyền thoại ly kì và hấp dẫn được kể đến như căn cứ khởi nghĩa của Bà Triệu chống lại nhà Đông Ngô; là nơi ông Tu Nưa tu tiên với các dấu vết Am Tiên, nơi có giếng Tiên, bàn cờ Tiên, chùa Tiên, vườn thuốc Tiên; nơi đạo Lão, đạo Phật, đạo Mẫu có sự hỗn dung, hiện diện qua các di tích trên đỉnh núi Nưa như am, chùa, phủ, đền, huyệt đạo…
Trong “Dư địa chí”, từ thế kỷ XV, mặc dù Thanh Hóa là vùng đất lắm núi, nhiều sông nhưng Nguyễn Trãi chỉ chép ngắn gọn: “Na, Tùng, Lương ở về Thanh Hoa. Na, Tùng là tên hai núi, Lương là tên sông” (Nguyễn Trãi. Dư địa chí. NXB Sử học, Hà Nội, 1960, tr 39). Na là Na Sơn, tức núi Nưa, Tùng là Tùng Sơn, tức núi Tùng (Triệu Lộc), Lương là Lương Giang, tức sông Chu.
Trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của học giả Phan Huy Chú có bài thơ ca ngợi núi Nưa như sau:
Nông Cống chi tây vạn lĩnh hoàn
Sa nga Na Lĩnh bức vân gian
Thiên lưu dật thú nham khẽ cố
Địa quýnh tri trần thảo thu nhàn
Đông kinh dĩ tùy tiền tẩu diếu
Sơn duy bất vị Hán Thương hàn”
Tạm dịch thơ
Nông Cống bao quanh núi phía tây
Núi Nưa chót vót sát tầng mây
Hang đá trời dành người ẩn dật
Bụi trần nhàn nhã với cỏ cây
Dốc núi tiều phu nay mờ lối
Chẳng sợ Hán Thương đã đến đây
NHC dịch
(Phan Huy Chú. Lịch triều hiến chương loại chí. Tập I. NXB GD, HN, 2008, tr. 63).
Trong sách “Thanh Hóa tỉnh chí”, tác giả Nhữ Bá Sĩ đã chép về núi Nưa: “Mạch núi từ huyện Thọ Xuân thời cổ mà đến. Sườn núi quanh co suốt mấy chục dặm, đến đây mọc lên ngọn núi đá, chỗ um tùm và cao nhất tức là chỗ núi ấy. Phía ngoài có sông nhánh hợp lưu, giữa có động, thế núi trắc trở và sâu thẳm… Vì núi ấy là chi bên hữu của đất trong tỉnh hạt, dáng tốt đẹp thì không bằng núi Thần Phù nhưng mà có động cây xanh, có sông biếc bao quanh, thế núi có từ xa, khí núi thì hùng nên núi tự nổi tiếng ở vùng giao giới của hai đất Hoan Ái” ( Thanh Hóa Tỉnh chí – Bản dịch của Nguyễn Mạnh Duân, tài liệu lưu trữ của Thư viện tỉnh Thanh Hóa, tr 3,4).
Tại xã Hợp Thắng, vùng bán sơn địa của Triệu Sơn có dãy đồi đất đỏ liên chi hình bát úp, từ xưa đã gọi là Cửu Noãn Sơn. Đây là khu vực gắn với thần thoại ông Nưa gánh đất, dọn đồng để đất lọt sọt mà thành 9 quả đồi này. 9 quả đồi đất đỏ đứng liên tiếp nhau tạo thành dãy như 9 mâm xôi có tên như đồi Đông Cao, đồi Bứa, đồi Sau Chùa…Trong Cửu Noãn Sơn, ở đồi thứ 9 có giếng nước ở chân đồi mà người dân nơi đây gọi là giếng Thần (giếng Tiên) tục truyền là rất thiêng, vốn là mó nước thiên tạo rất trong và không bao giờ cạn.
Tại xã Đồng Lợi có núi Trặc, xã Đồng Thắng có núi Vàng, đây là những ngọn núi nằm trong hệ thống núi đá vôi của dãy Hoàng Nghiêu thuộc 3 huyện Đông Sơn, Triệu Sơn và Nông Cống. Núi Trặc, núi Vàng gắn liền với căn cứ Hoàng Nghiêu chống giặc Minh của tướng quân Nguyễn Chích ở thế kỷ XV. Núi Trặc có truyền thuyết ông Tu Nưa gánh núi về cho Hoàng Nghiêu đủ 100 ngọn nhưng vì uống rượu say nên không hoàn thành. Núi Vàng có hang đá, trong hang có cống ngầm là Cống Hang Trâu và Cống Hang Trời. Núi Vàng cũng gắn với truyền thuyết ông Tu Nưa gánh núi ở đây.
Triệu Sơn không có nhiều sông và sông lớn như các huyện khác. Chỉ có hai nhánh của sông Yên chảy qua huyện là sông Nhơm và sông Hoàng. Sông Nhơm, còn có tên cổ là Lãng Giang, bắt nguồn từ Như Xuân chảy về núi Nưa và xuôi về Nông Cống để nhập với sông Hoàng tại điểm Vua Bà để chảy vào sông Yên tại ngã ba Yên Sở. Sông Nhơm có chiều dài 66,9km, trong đó đoạn chảy qua Triệu Sơn là 31,6km. Sông Hoàng, tên chữ là Hoàng Giang, Vị Giang, bắt nguồn từ huyện Thọ Xuân chảy về Triệu Sơn, Nông Cống, Đông Sơn và nhập vào sông Yên ở ngã ba Yên Sở (Quảng Xương). Sông Hoàng chảy qua Triệu Sơn có chiều dài 40km trên tổng số 81 km.
3. Vài nét về lịch sử và văn hóa
Triệu Sơn là vùng đất lâu đời, nơi con người khai sơn phá thạch, dựng làng lập bản để khai thác thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm. Thung lũng núi Nưa đã nổi tiếng với Văn hóa Đông Sơn qua hiện vật đoản kiếm mà chuôi kiếm là tượng phụ nữ với vẻ đẹp độc đáo hiện là bảo vật Quốc gia, hiện được lưu giữ tại Bảo tàng Thanh Hóa. Quanh khu vực núi Nưa với những địa danh cư trú cổ Kẻ Nưa (Tân Ninh), Kẻ Đà (Thọ Dân), Kẻ Si (Thọ Thế), Kẻ Mộc (Minh Sơn), Kẻ Mơ (An Nông), Kẻ Đom (Xuân Thọ), Kẻ Tú (Xuân Lộc) … đã chứng tỏ trong giai đoạn văn hóa Đông Sơn vùng đất này đã có một cộng đồng cư dân đông đảo, cư trú trong một không gian rộng lớn. Tại Thiết Cương (Dân Quyền) cũng đã tìm thấy trống đồng, một hiện vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn.
Thời kỳ Bắc thuộc, để chống lại ách đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, trên địa bàn Triệu Sơn đã xuất hiện những cuộc khởi nghĩa nổi tiếng trong lịch sử nước nhà. Đó là cuộc khởi nghĩa Chu Đạt ở huyện Cư Phong (Thọ Phú, Triệu Sơn) vào năm 156; khởi nghĩa Bà Triệu đã chọn Ngàn Nưa làm căn cứ để chống nhà Đông Ngô vào năm 248.
Thời Ngô – Đinh – Tiền Lê, Triệu Sơn là nơi đóng quân của sứ quân Ngô Xương Xí tại Bình Kiều là khu vực Cửu Noãn Sơn(Hợp Thắng) gắn với sự nghiệp dẹp loạn sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh. Tại đây vẫn còn dấu tích 3 ngôi đền thờ vua Đinh. Trong dân gian vẫn còn nhớ câu đối: “Thập nhị sứ tảo bình, đáo để anh hùng sự nghiệp/ Vạn Thắng Vương kỷ hiệu, lẫm nhiên hào kiệt huân danh” (Dẹp loạn 12 sứ quân, sự nghiệp anh hùng tột đỉnh/ Niên hiệu Vạn Thắng Vương, hào kiệt công danh lẫm liệt).
Thời Lý – Trần – Hồ vùng đất Kẻ Nưa đã xuất hiện những cá nhân xuất sắc, trở thành những trụ cột trong triều của nhà Lý, nhà Trần. Trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đất Triệu Sơn cũng có nhân vật lịch sử có công với dân với nước. Trong thời kỳ Lê sơ và Lê Trung hưng, đất Triệu Sơn xuất hiện nhiều nhân tài khoa cử, nhiều danh tướng lương thần nổi tiếng, họ là những bậc lương đống của triều đình mà ngày nay còn lưu danh, đền thờ, lăng mộ trên đất này.
Là vùng đất cổ từ thời kỳ Văn hóa Đông Sơn, lại có các dân tộc Kinh, Mường, Thái cùng chung sống, Triệu Sơn có đời sống văn hóa tinh thần với nhiều sắc thái hấp dẫn. Nếu địa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu dọc theo sông Nhơm, sông Hoàng và các vùng đồi, thì người Mường, người Thái lại ở 6 xã miền núi của huyện là Thọ Sơn, Thọ Bình, Thọ Tiến, Hợp Lý, Hợp Tiến và Hợp Thành. Do không gian cư trú và phong tục tập quán khác nhau nên sắc thái văn hóa cũng khác biệt. Ở Triệu Sơn, các loại hình văn hóa dân gian khá phong phú, phổ biến có truyện ông Nưa và ông Vồm, ông Tu Nưa, ông Tiên Nhót; truyền thuyết có sự tích Am Tiên, sự tích bà chúa Bìm, Vạ Voi, vua Ba Vành, ông nghè Đào Xuân Lan…
Triệu Sơn cũng là vùng đất có những tục ngữ, phương ngôn, ca dao hò vè, đồng dao khá độc đáo như: “Sấm làng Nưa vác bừa đi chác/ Sấm làng Các vác chạc đi đơm”, “Ngon chè Lược/ Được chè Đà”, “Văn chương Cổ Định, Cổ Đôi/ Lắm thịt nhiều xôi Đống Cao, Đống Cái”, “Ông nghè ông cống/ Cổ Định Cổ Đôi/ Học hành lôi thôi/ Làng Mưng, làng Cáo”, “Chém cha cái mỏ Crôm/ Bay về Cổ Định om xòm mần chi/ Đuổi bay thì bay không đi/ Phận dân mất nước khổ thì ra răng”, “Em là con gái Kẻ Mơ/ Em đi bán rượu tình cờ gặp anh/ Rượu ngon chẳng lọ be sành/ Áo rách khéo vá hơn lành vụng may”, “Thuyền thúng mà úp núi Nưa/ Mẹ con sắm sửa cày bừa làm ăn”, “Cơn mưa núi Nưa vác bừa mà chạy/ Cơn mưa núi Vạy đừng chạy mất công/ Cơn mưa đằng đông đừng trông mỏi cổ”, “ Ruộng Kẻ Đà/ Xôi Kẻ Cáo/ Pháo Kẻ Ngò/ Trò Kẻ Bôn”, “Làng Hồng Đô Vân Cổn đã từng/ Còn làng Kẻ Giắt thì đừng có vô”, “Làm quan Cổ Định, Cổ Đôi/ Đánh trống ba hồi làng Sen Trạm Độ”, “Mõ làng Đồng/ Cồng Phượng Khê/ Dê làng Ó”, “Sớm chợ Nưa/ Trưa chợ Ngẳn”, “Kẻ Nưa thật đến lắm quan/ Quan văn, quan võ xênh xang áo triều/ Giang sơn xã tắc còn nghèo/ Cả làng tán lộng thì tiêu bằng gì”, “Làng Vặng chết trôi/ làng Cầu đi vớt/ Làng Trát mần ma/ làng Choa ăn cỗ/ làng Mổ cất phần/ làng Văn rửa bát”…
Là vùng đất thuộc huyện Nông Cống - phủ Tĩnh Gia và Lôi Dương – phủ Thọ Xuân xưa, Triệu Sơn có nhiều người đỗ đạt, nhiều danh nho võ tướng, nhiều dòng họ vinh hiển làm rạng danh quê hương, đất nước. Nhiều người có công được triều đình phong thần, nhân dân nhớ ơn lập đền miếu thờ phụng. Do đó, Triệu Sơn cũng là miền quê có nhiều di tích lịch sử văn hóa, văn bia, gia phả, câu đối đại tự, thần phả, sắc phong. Theo số liệu kiểm kê di tích năm 2010, huyện Triệu Sơn có 231 di tích, trong đó có 4 di tích cấp quốc gia, 12 cấp tỉnh. Số lượng lớn như vậy nhưng rất tiếc nhiều di tích chỉ còn là phế tích do thời gian và những biến cải tang thương của lịch sử mà nhân họa gây nên.
Thắng cảnh Ngàn Nưa, nơi núi non hùng vĩ và linh thiêng, chốn bồng lai tiên cảnh. Ngàn Nưa là non thiêng có huyệt đạo Am Tiên, tương truyền là nơi long huyệt tụ khí, đất trời giao cảm, mở cửa thiên mệnh; là căn cứ của cuộc khởi nghĩa Bà Triệu, là am tu tiên của ấn sĩ Tu Nưa. Dân gian vùng này có câu: “Vua Bà đêm đêm hiển thánh, Am Tiên ngày ngày hiển linh” để nói lên tâm thức dân gian ngưỡng vọng đối với núi thiêng và Bà Triệu đã có hàng ngàn năm nay.
Đền thờ, lăng mộ Thái tể Lê Thì Hiến, Thạc Quận công, Thái phó Lê Thì Hải ở xã Phú Hào, tổng Bất Náo, huyện Lôi Dương (Thọ Phú) là di tích có nhiều hiện vật có giá trị cao như bia đá “Lê Lệnh công bi kí”, đồ thờ, hương án, sập đá, các con giống, tượng quan hầu bằng đá. Đặc biệt có hai tấm bia đá lớn rất quý giá có giá trị đặc biệt về điêu khắc đá và lịch sử của nước ta trong thế kỷ XVII là bia Lê Thì Hải và bia các viên tướng họ Lê.
Là vùng đất xuất hiện nhiều danh nho, tướng công lừng lẫy, Triệu Sơn hiện có kho tàng Hán Nôm phong phú. Về văn bia, có nhiều văn bia kích thước lớn, điêu khắc công phu và đẹp, có giá trị về nhiều mặt. Đó là bia “Lê Tướng công từ bi” nói về Đặc tiến Kim tử Vinh Lộc đại phu, thượng thư Bộ Binh kiêm Huy Văn điện, Thiêm sự viện Thiêm sự, Thiếu phó tước Diễn Gia hầu, truy tặng tước Gia Quận công Lê Bật Tứ. Tại đền thờ Gia Quận công Lê Bật Tứ còn có bức đại tự : “Vạn Cổ anh linh” (Muôn thuở linh thiêng) và 2 câu đối: “Công đức thiên thu Na lĩnh hậu/ Bản chi bách thế Lãng giang trường” (Công đức ngàn thu sánh cùng đỉnh Na sơn phía sau/ Chi tộc trăm đời, kế tục mãi như sông Lãnh Giang) và câu “Hiển tại triều vi danh tiến sĩ/ Đăng ư xã vị hương tiên” (Hiển hách trong triều vinh danh là tiến sĩ/ Đứng cao trong xã đứng đầu ở trong làng). Đó là bia “Lê Lệnh công sự nghiệp bi” nói về Thái tể Lê Thì Hiến. Đó là văn bia “Vạn thế phụng sự bi ký” là bia nói về Phụ quốc Thượng tướng quân, Nam đô đốc phủ, Tả đô đốc, Thiếu bảo, tước Thạc Quận công Lê Thì Hải. Đây là tấm bia làm bằng các phiến đá ghép lại tạo nên tấm bia vừa lớn, vừa dài. Bia dài tới 5m, rộng 2,9m, dày 0,20m, dựng trên một tấm đá nguyên khối cao 0,50m, dày 0,50, dài 5,10m. Bệ đá được xếp tam cấp, khắc hoa văn cánh sen. Phía trên có mái đá được thiết kế theo kiểu 4 mái cong nhô ra che cho phần thân bia, bờ mái có chạm khắc hoa văn. Riềm bia chạm khắc hình hoa cúc leo cách điệu xen với hình rồng, phượng, mây. Thạc Quận công Lê Thì Hải còn có bia “Lê Tướng công sự nghiệp huân danh bi ký” nói về danh thơm trong công huân sự nghiệp. Đó là bia “Trùng tu cung miếu bi” tại làng Sơn Hà, xã Dân Quyền cao 1,70m, rộng 1,07m, dày 0,25m dựng trên bệ hình chữ nhật, được dựng để phụng thờ các thượng đẳng thần được ban trật tại đây.
4. Những danh nhân đất Triệu Sơn
Triệu Sơn cũng là vùng đất có nhiều dòng họ, nhân vật lịch sử nổi tiếng, có nhiều công lao trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Những dòng họ học hành khoa cử kế thế đăng khoa, làm quan vinh hiển nhiều đời như họ Doãn, họ Lê Thì, Lê Trạc, Lê Bật...
Dòng họ Doãn là dòng họ trong “Thập vị tiên công” có công khai cơ lập ấp ở Chạ Kẻ Nưa, sau là giáp Cá Na, hương Cổ Na, đất Cổ Định ngày nay, đã được ghi trong bài văn tế Thánh ở nghè Giáp. Dòng họ Doãn nổi tiếng trong lịch sử có tài ngoại giao biện thuyết, nhiều người đã hoàn thành xuất sắc trọng trách vua giao khi đi sứ phương Bắc. Thượng thư Bộ Công triều Lý Thái Tông là Doãn Tử Tư đi sứ sang Tống suốt 3 năm, đã giúp cho việc hai bên lập bản đồ biên giới, ghi vào thư tịch và đặt cột mốc Đại Việt và nhà Tống. Do có công lao ông được vua Lý Thái Tông ban tước Quận công. Cháu của Doãn Tử Tư là Doãn Anh Khải được vua Lý Nhân Tông cử làm Chánh sứ sang nhà Tống sau khi nhà Tống bị Lý Thường Kiệt đánh bại nhưng vẫn có âm mưu xâm lược nước ta. Do tài biện thuyết của Doãn Anh Khải vua Tống chấp nhận hai bên hòa hiếu đi lại, giao hảo hòa bình suốt 200 năm sau. Do có công lao nên ông được vua phong tước Quận công. Doãn Bằng Hài là cháu 7 đời của Doãn Tử Tư, làm Thượng thư Bộ Hình dưới triều Trần Minh Tông. Ông đi sứ sang nhà Nguyên năm 1322 đã đề cao quốc thể, không nhục mệnh vua, khiến nhà Nguyên phải chấp nhận ký kết hòa bình giữa hai quốc gia. Do có công lao ông được vua Trần Minh Tông phong chức Thiếu phó, tước Hương Đình hầu. Họ Doãn còn có các vị Doãn Ân Phủ đi sứ Trung Quốc dưới thời nhà Trần; Thượng thư Bộ Lễ Doãn Hoàng Tuấn đi sứ nhà Minh năm 1480 dưới thời vua Lê Thánh Tông; Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Doãn Mậu Khôi đi sứ Trung Quốc năm 1567 thời vua Lê Anh Tông thành công, khi về nước được ban tặng chức Thái Bảo tước Hương Giang công. Trong họ Doãn còn có Doãn Nổ. Ông trước theo Nguyễn Chích chống Minh ở căn cứ Hoàng Nghiêu. Về sau ông theo về Khả Lam dưới trướng Lê Lợi. Do có nhiều công lao trong 10 năm chống Minh, khi đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, khôi phục độc lập, Doãn Nổ được phong Trụ quốc Thượng tướng quân, tước Quan Phụ hầu và được vua ban quốc tính Lê Nổ. Khi ông mất nhân dân lập đền thờ và ca tụng: “Âm hận tầm phương chí khí cao/ Cá Na cổ giáp hữu anh hào/ Thập niên phù chúa gian nguy thậm/ Lê Nổ gia thần đạt công lao” (Nuốt hận tìm phương chí khí cao/ Cá Na cổ Giáp có anh hào/ Mười năm phò Chúa gian nguy lắm/ Lê Nổ gia thần đạt công cao). Họ Doãn còn có Giám sát ngự sử Doãn Định làm quan dưới thời vua Trần Dụ Tông đã dám can ngăn vua, nêu ra những lỗi lầm của Thái Thượng hoàng.
Dòng họ Lê Thì ở xã Phú Hào, tổng Bất Náo, huyện Lôi Dương (Thọ Phú) là dòng họ danh gia vọng tộc uy quyền thế phiệt nhiều đời. Lê Thì Hiến có bố đẻ giữ chức Đô Đốc trong triều, là cháu ngoại của Thái bảo Nguyễn Quận công, anh trai là Đô đốc Đồng tri Định Quận công. Trong sự nghiệp quan trường ông có nhiều công lao ông được ban tặng nhiều huân danh cao quý, được vua ban tước Hào Quận công. Khi ông mất được vua gia ân ban tặng Thái tể, cho tên thụy là Nghiêm Trí và phong phúc thần. Các con cháu ông đều có tài, được vua chúa trọng dụng, nối nghiệp nhà làm quan đại thần trong triều. Con trai trưởng Lê Thì Kinh được phong Tham Đốc tước Trịnh Tước hầu. Con thứ hai Lê Thì Hải được phong tước Thạc Quận công, khi mất được truy tặng Thái phó. Con thứ ba là Lê Thì Liêu được thăng Đô đốc, được phong chức Trung Quận công, khi mất được phong Thái tể và ban phúc thần. Lê Thì Hải có 4 người con trai là Tham đốc, tước Tinh Đường hầu Lê Thì Hạo, Hữu hiện điểm, tước Hằng Vũ hầu Lê Thì Duệ, Đô kiểm, tước Vệ Huân hầu Lê Thì Thuần, Hoằng tín Đại phu Lê Thì Hàn. Cả 4 người con đều nối chí cha hiển đạt là “tước lộc đỉnh cao bao trùm thiên hạ”.
Dòng họ Lê Trạc ở làng Phú Thịnh có 3 anh em, ông cháu đều có tên trên bảng vàng đại khoa và đều giữ chức Thượng thư. Lê Trạc Tú sinh năm 1533 trong gia đình có truyền thống khoa bảng quê ở tổng Thượng Cốc, huyện Lôi Dương ( Xuân Lộc). Ông nội Lê Trạc Tú là Lê Tán Tương đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân năm 1499, từng giữ chức Thượng thư bộ Công, tước Văn phú hầu. Ông bác Lê Trạc Tú là Lê Tán Thiệu đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm 1499, giữ chức Thượng thư bộ Hình, tước Văn trung hầu. Năm 1577 Lê Trạc Tú đỗ Đệ nhất giáp chế khoa xuất thân. Làm quan ông nổi tiếng khảng khái, liêm khiết, góp nhiều mưu kế giúp vua và chúa Trịnh Tùng vừa chống Mạc vừa dẹp nội loạn trong triều. Ông được giao giữ chức Thượng thư bộ Lại, tước Văn dương hầu, Hiệp mưu tán lý công thần. Ông về trí sĩ được sách sử ghi “Trong nhà không có của dư, được người đời ca ngợi thanh liêm, đĩnh đạc”. Ông mất năm 83 tuổi được gia phong Thiếu bảo, tước Liêm Quận công, gia phong Phúc thần.
Lê Bật Tứ quê ở Cổ Định, có cha là Hữu Thị lang tước Duyên hựu bá Lê Duy Tốn. Ông sinh ra trong gia đình có truyền thống khoa bảng. Từ cụ tổ đến Lê Bật Tứ trải qua 312 năm với 11 thế hệ đã có tới 8 người đỗ Tiến sĩ. Khoa Mậu Tuất 1598 đời vua Lê Thế Tông, ông đỗ Tiến sĩ và đứng đầu trong kỳ thi đình khi lấy 3 người đệ nhị giáp tiến sĩ (Hoàng Giáp). Ông là vị quan có tài đức, sống cương trực, thanh liêm, luôn có lòng thương dân, hết lòng phụng sự đất nước. Ông đã trải qua nhiều chức vụ, vị trí trong triều và ở đâu cũng hoàn thành trọng trách. Năm 1606 được cử làm Chánh sứ sang giao hảo với nhà Minh, ông đã thể hiện tài năng xuất chúng, hoàn thành sứ mệnh đi sứ. Năm 1619 ông được giao chức Thượng thư bộ Binh kiêm Huy Văn điện Thiêm sự, giảng văn cho các sĩ tử. Năm 1620 ông được thăng Tham tụng phủ Chúa (Tể tướng). Ông mất năm 1627 thọ 65 tuổi, được vua sai thủy quân hộ tống linh cữu về quê, miễn triều 3 ngày, các quan phải đến điếu tế. Ông được truy phong Thái bảo, tước Diễn Quận công, được đặt tên thụy là Hòa Nghĩa.
Triệu Sơn còn là quê hương của những nhân vật xuất chúng như Chu Đạt, người huyện Cư Phong (Mỹ Hòa, Thọ Phú) khởi nghĩa chống nhà Đông Hán năm 156. Lê Lôi, người xã Cổ Định là bậc khai quốc công thần triều Lê, được phong Ngân thanh Quang Lộc đại phu Tả Xa kỵ Đại tướng quân, Quan nội hầu. Khi ông mất được phong tước An Chân bá. Cháu nội ông là Lê Hiến làm quan đến chức Đại Đô đốc, thượng trụ quốc, thượng tướng quân. Nguyễn Hiệu quê ở làng Phương Khê, xã Nông Trường là người có tư chất thông minh, đỗ hội nguyện, đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa thi năm Canh Thìn (1700) khi mới 26 tuổi. Ông đã trải qua nhiều vị trí trong thời Lê Trung hưng. Năm 1732 ông được thăng Thiếu phó, vào phủ Chúa giữ chức Tham tụng. Khi ông mất được ban tước hiệu Thái Bảo, Đại Tư đồ và ban phúc thần. Ông có con trai là Nguyễn Hoàn thi đỗ Hội nguyên, Đệ tam giáp đồng Tiễn sĩ xuất thân, khoa Quý Hợi (1743) làm quan đến Thượng thư Bộ Lại, Tham tụng, được phong Quận công, là bậc Quốc lão trong triều. Cháu của Nguyễn Hoàn là Nguyễn Thu làm quan dưới triều Nguyễn với chức Thị giảng học sĩ, Hồng lô tự khanh.
Triệu Sơn còn là vùng đất học, nhiều người đỗ đạt làm quan bằng con đường khoa cử. Từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn, Triệu Sơn có 16 vị đỗ Đại khoa, trên 60 vị đỗ Hương cống, cử nhân. Các ông nghè Triệu Sơn có Lê Tán Tương, quê Xuân Lộc đỗ Hoàng Giáp năm 1499, năm 18 tuổi, làm quan tới Thượng thư bộ Công, tước Văn Phú hầu. Lê Tán Thiệu anh ruột Lê Tán Tương, đỗ Tiến sĩ năm 1499 năm 23 tuổi, giữ chức Hình Bộ Thượng thư (là hai anh em cùng đỗ một khoa và cùng giữ chức Thượng thư triều Lê Hiến Tông). Doãn Đình Tá quê Cổ Định đỗ Tiến sĩ năm 1499 lúc 22 tuổi từng giữ chức Hiến Sát sứ. Tống Sư Lộ quê Dân Lực đỗ Tiến sĩ năm 1505 lúc 33 tuổi, giữ chức Tham chính. Lê Khiêm quê Thọ Dân đỗ Đệ nhất giáp chế khoa (Tiến sĩ) năm 1565 lúc 25 tuổi, giữ chức Tham chính tước hầu. Lê Trạc Tú (cháu nội Lê Tán Tương) quê Xuân Lộc đỗ Đệ nhất giáp chế khoa (Tiến sĩ) năm 1577 lúc 44 tuổi. Lê Bật Tứ quê Tân Ninh đỗ Hoàng Giáp năm 1598, lúc 36 tuổi làm đến Thượng thư bộ Binh, tước Diễn gia hầu, khi mất được gia tặng Diễn Quận công. Trịnh Thế Tế quê Thọ Dân đỗ Tiến sĩ năm 1650 lúc 30 tuổi, khi mất được gia tăng Tả thị lang bộ Công tước Tử. Lê Thức quê Thọ Cường đỗ Tiến sĩ năm 1659 lúc 32 tuổi, giữ chức Hiến sát sứ. Lê Nhân Kiệt quê xã Tân Ninh, đỗ Tiến sĩ năm 1651 lúc 27 tuổi, giữ chức Hình khoa đô cấp sự trung, tước Nam. Tống Nho quê Dân Lực, cháu nội Tống Sư Lộ, đỗ tiến sĩ năm 1670 lúc 33 tuổi giữ chức Tham Chính. Hiện nay tại làng Tiên Mộc (Dân Lực) ở dòng họ vẫn còn gia phả và câu đối: “Nhi tổ, nhi phụ, nhi tử, nhi tôn, Tống thị đăng khoa hãy thế/ Vi công, vi khanh, vi sư, vi tướng, Nam triều hiển hiện toàn gia” (Này ông, này cha, này con, này cháu, họ Tống đăng khoa nhiều thế hệ/ làm công, làm khanh, làm thầy, làm tướng, triều Nam rực rỡ cả nhà). Nguyễn Hiệu quê Nông Trường đỗ Tiến sĩ năm 1700 lúc 27 tuổi giữ chức Thượng thư bộ Lại, Thái phó tước Quận công, khi mất được truy phong Đại vương. Trần Lê Lân quê Thọ Cường đỗ Tiến sĩ năm 1731 lúc 38 tuổi, giữ chức Hàn lâm đãi chế. Đào Xuân Lan quê xã Nông trường đỗ Tiến sĩ năm 1736 lúc 26 tuổi, giữ chức Tả thị lang bộ Công. Nguyễn Hoàn, quê xã Nông Trường, con của Nguyễn Hiệu đỗ Tiến sĩ năm 1743, khi về hưu được phong Thái phó, tước Quận công, tôn làm Quốc lão. Nguyễn Tài quê xã Nông Trường đỗ Tiến Sĩ năm 1868 lúc 38 tuổi, làm Án sát Nam Định.
Nếu như trong quá khứ Triệu Sơn phát về văn chương khoa cử, xuất hiện nhiều bậc đại khoa, nhiều nhà ngoại giao xuất sắc, thì trong thời hiện đại lại thịnh về võ nghiệp. Triệu Sơn là quê hương của nhiều anh hùng LLVT trong chống Pháp, chống Mỹ. Anh hùng LLVT Tô Vĩnh Diện quê xã Nông Trường, anh hùng LLVT Lê Xuân Sinh quê xã Nông Trường, anh hùng LLVT Đoàn Khắc Luận quê Thọ Tiến, anh hùng LLVT Thiếu tướng Trần Thanh Hải quê Thọ Dân, anh hùng LLVT Bùi Văn Bịn quê Thọ Sơn, anh hùng LLVT Hà Công Đinh quê Thọ Bình.
Triệu sơn là quê hương của nhà khoa học Nguyễn Trinh Tiếp, quê xã Nông Trường. Ông là kỹ sư công chính đầu tiên của chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cha đẻ của súng không giật SKZ góp phần làm nên chiến thắng của kháng chiến chống Pháp. Năm 26 tuổi ông được GS Trần Đại Nghĩa giao cho làm Viện Trưởng Viện nghiên cứu quân giới. Năm 1967, khi đang giữ cương vị Cục phó Cục đường bộ, Phó Ban Giao thông vận tải Trung ương ông đã hy sinh trong chuyến công tác tại khu 4 khi mới 43 tuổi. Liệt sĩ Nguyễn Trinh Tiếp đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. GS Bác sĩ Nguyễn Trinh Cơ, anh trai liệt sĩ Nguyễn Trinh Tiếp, là Viện trưởng Viện phẫu thuật Trung ương, Hiệu trưởng trường ĐH Y Hà Nội, Chủ tịch Hội ngoại khoa Việt Nam. PGS Nguyễn Trác người xã Nông Trường, chủ nhiệm môn Văn học Việt nam ĐHSP Hà Nội, dịch giả nổi tiếng
5. Vĩ thanh
Thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy, Triệu Sơn tái sinh từ 32 xã, thị trấn thành 8 xã: Triệu Sơn, Thọ Bình, Thọ Ngọc, Thọ Phú, Hợp Tiến, An Nông, Tân Ninh và Đồng Tiến. Danh xưng của các xã được đặt theo phương châm là lấy tên của một xã đại diện trong nhóm xã để định danh xã mới.
Dẫu là huyện có vòng đời ngắn nhưng Triệu Sơn lại đứng chân vững chãi trên vùng đất cổ linh thiêng, vùng đất KẺ NƯA với niềm tự hào tên huyện NÚI BÀ TRIỆU. Phải chăng từ linh khí thiêng liêng của huyệt đạo Am Tiên, được vua Bà khai đạo hưng long, giữ mạch phong thủy mà đất này xuất hiện nhiều danh thần, đại khoa là trụ cột của nước nhà trong các triều đại. Trong kháng chiến chống Pháp, Triệu Sơn lại trở thành An toàn khu, địa bàn đứng chân của Ủy ban Hành chính khu 4, Bộ Chỉ huy quân sự khu 4, Tỉnh ủy, UBHCKC của Thanh Hóa, trường dự bị đại học, trường Đại học sư phạm Trung ương, trường trung học Đào Duy Từ… Thực hiện cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy, chính quyền địa phương 2 cấp, dẫu huyện Triệu Sơn không còn, nhưng vẫn có đó Ngàn Nưa linh thiêng, còn đó hào khí Bà Triệu, nơi xuất hiện nhiều anh tài nổi tiếng. Đó là cơ sở để chúng ta tin rằng vùng đất này sẽ vượng khí hưng thịnh, phát triển phồn vinh.
Ngo Hoai Chung

Thứ Sáu, 29 tháng 8, 2025

Phân tích bài thơ “Bánh trôi nước” – của Tác giả Hồ Xuân Hương



Hồ Xuân Hương – “Bà chúa thơ Nôm” – là một hiện tượng độc đáo trong văn học trung đại Việt Nam. Thơ bà vừa trào phúng, vừa trữ tình, vừa chứa đựng sự đồng cảm sâu sắc với thân phận người phụ nữ. Bài thơ “Bánh trôi nước” là một trong những tác phẩm tiêu biểu, mượn hình ảnh chiếc bánh dân gian để khắc họa vẻ đẹp và số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Trước hết, hai câu thơ mở đầu:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn / Bảy nổi ba chìm với nước non”
đã gợi ra hình ảnh chiếc bánh trôi nước với đặc điểm “trắng” và “tròn”. Từ sự miêu tả giản dị ấy, Hồ Xuân Hương đã ẩn dụ về vẻ đẹp hình thể, sự duyên dáng, mộc mạc nhưng cũng đầy sức sống của người phụ nữ Việt Nam. Đồng thời, cụm từ “bảy nổi ba chìm” gợi liên tưởng đến số phận long đong, bấp bênh, phải chịu nhiều thử thách của họ. Đây không chỉ là sự miêu tả về món bánh dân gian, mà còn là tiếng thở dài xót xa cho kiếp đời phụ nữ trong xã hội bất công xưa.
Tiếp đến, hai câu thơ sau:
“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn / Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
đã khắc họa rõ hơn thân phận bị lệ thuộc. Người phụ nữ không có quyền định đoạt cuộc đời mình, phải chịu sự chi phối của “tay kẻ nặn” – tượng trưng cho những thế lực xã hội và chế độ nam quyền. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh éo le ấy, phẩm chất cao quý của họ vẫn tỏa sáng: sự thủy chung, son sắt, trong trắng về tâm hồn. Câu thơ cuối vừa là lời khẳng định, vừa là tiếng nói phản kháng, khẳng định giá trị đạo đức và nhân phẩm bền vững của người phụ nữ.
Như vậy, qua hình tượng “bánh trôi nước”, Hồ Xuân Hương không chỉ miêu tả số phận nổi trôi của phụ nữ trong xã hội phong kiến, mà còn tôn vinh vẻ đẹp hình thể và phẩm chất tâm hồn của họ. Bài thơ vừa thể hiện tiếng nói cảm thương, vừa hàm chứa tinh thần đấu tranh cho quyền sống, quyền bình đẳng của người phụ nữ.
Kết lại, “Bánh trôi nước” là một bài thơ ngắn gọn, giàu hình tượng và giá trị nhân văn. Nó cho thấy tài năng nghệ thuật của Hồ Xuân Hương trong việc mượn hình ảnh dân gian để nói lên khát vọng, nỗi đau và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Đến nay, bài thơ vẫn còn nguyên giá trị, vừa là tiếng nói đồng cảm vừa là lời nhắn nhủ về sự trân trọng, nâng niu những phẩm chất cao quý của người phụ nữ.
29/8/2025

ĐÔI MẮT - Bùi Minh Quốc

Chúng tôi khiêng anh về qua sông Đăk BLa
Mưa tầm tã trên thân anh đẫm máu
Trận đánh chưa xong, mắt anh nhìn đau đáu
Lần cuối cùng bầu trời Kon Tum.
Không có gì có thể thiết tha hơn
Những khao khát từ mắt anh trao lại
Đôi mắt ấy theo tôi hành quân mãi
Tới Sài Gòn, tới tận chót Cà Mau.
Tôi trở lại Kon Tum vừa kịp vụ đầu
Với chiếc rựa khai hoang vào trận mới
Với tất cả những gì của lòng mình gom góp lại
Sau những năm lăn lộn chiến trường.
Đất nước còn nghèo, đời tiếp tục khẩn trương
Đồng đội cũ về đây gần đủ mặt
Không tránh khỏi có những người rẽ ngoặt
Lòng đang phai màu máu đỏ chiến hào.
Phải sống thế nào đây? Nên sống thế nào?
Câu hỏi ngỡ nhàm rồi vẫn luôn luôn nóng bỏng
Dựng lòng người như sóng
Cứ mỗi ngày một khẩn thiết khắt khe hơn.
Những tính toán ranh ma, những dục vọng chập chờn
Cái tặc lưỡi: sự đời thường vẫn vậy.
Nhưng kìa đôi mắt anh
Đôi mắt anh dưới bầu trời Kon Tum buổi ấy
Nhìn tôi.
Mắt kẻ hy sinh rọi ánh sáng cho đời
Cho những ai thực lòng mong mỏi
Hãy sống sao để lương tâm không phút nào phản bội
Bao nhiêu máu kia đã tưới đẫm đất này?

XÓM BỜ AO – CÓ AI VỀ MIỀN KÝ ỨC NGÀY XƯA



Có ai về… miền ký ức ngày xưa,
Chắc sẽ gặp tuổi thơ mình nơi đó.
Những kỷ niệm một thời bao gian khó,
Chợt nhận ra – ngày ấy đã xa rồi.
Để bây giờ… thương nhớ mãi khôn nguôi,
Lòng khắc khoải mong một lần trở lại.
Tìm con diều trên đồng chùa mê mải,
Ngắm hoàng hôn, cánh cò trắng chao nghiêng.
Có ai về… trận giả giữa đồng Vàng,
Chơi trốn bắt bên hàng rào bụi duối.
Chia bè ra, cây súng chuối làm vũ khí,
“Bùm bùm vang” – địch ngã, bạn cười vang.
Có ai về… buổi trưa nắng chang chang,
Mo cau quạt ru giấc nồng thiu ngủ.
Có ai về… đồng không, con cua nhỏ,
Rẽ lúa ngoi, cá cờ lách bờ xanh.
Có ai về… triền đê Quảng Sâm quen,
Mùa nước nổi dậm cua như tập trận.
Bì bõm lội trên đồng xa bát ngát,
Chiến lợi phần nặng gánh lúc nửa đêm.
Có ai về…hồ nước 13ha - Mau rẹ,
Vai gầy mẹ gánh ốc về xóm nhỏ.
Chiều lao xao, bếp hồng reo lửa đỏ,
Nồi ốc lá bưởi thơm – ấm mùa đông.
Có ai về… chợ Tây phiên lao xao,
Dáng mẹ tảo tần nuôi con khôn lớn.
Từng đồng lẻ, mồ hôi chan vất vưởng,
Hóa thành dòng sữa ngọt nuôi đời.
Có ai về… xóm Bờ Ao tuổi thơ ơi,
Bao kỷ niệm vẫn đầy vơi thương nhớ.
Ngắm diều bay trên cánh đồng lộng gió,
Nhặt nhạnh về… ký ức của ngày xưa.