XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Hai, 24 tháng 2, 2020

CHÙA BÀ NGÔ

(Viet Cuong Sarraut sưu tầm theo yêu cầu của anh Thư Dương là thành viên của nhóm BBYHN)

CHÙA BÀ NGÔ là một ngôi chùa cổ ở Hà Nội, có niên đại từ thời vua Lý Nhân Tông, có tên chữ là Ngọc Hồ tự tức Chùa Ngọc Hồ, hiện nay tọa lạc số 128 phố Nguyễn Khuyến, phường Văn Miếu, Hà Nội. Người Pháp quen gọi đây là chùa Sinh Từ, vì nó nằm trên đường Sinh Từ.( tháng 6/1964 đổi là phố Nguyễn Khuyến đến ngày nay ).
Trải qua gần 900 năm tồn tại, chùa Bà Ngô lưu giữ được nhiều văn bia, câu đối và một khối lượng di vật rất lớn ở nhiều thể loại như long ngai, bài vị, các tế khí... Chùa là một kiến trúc tôn giáo đẹp, độc đáo gắn liền với nhiều sự tích và nhân vật trong tiến trình phát triển của lịch sử Thăng Long - Hà Nội.
Theo cuốn Thăng Long cổ tích khảo thì chùa được xây dựng vào thời vua Lý Nhân Tông (khoảng năm 1127 - 1128). Còn theo sách "La thành cổ tích vịnh" thì nguyên tại đây xưa có một gò hình cái bầu đựng rượu (tửu hồ), năm Kiến Gia thứ 8 (1281), Lý Huệ Tông đã cho dựng trên gò ngôi chùa Ngọc Hồ ( bầu bằng ngọc ). Người dân địa phương lại có cách giải thích khác là chùa vốn có một giếng nước rất trong không bao giờ cạn, là một thứ lễ vật tinh khiết bậc nhất dâng lên Tam Bảo. Giếng được bảo vệ như vật báu, được xây và có nắp đậy, hiện nay ở dưới mé tam quan của chùa, coi như bầu nước tinh khiết, quý giá như ngọc nên thành tên chùa.
Cũng theo sách này, vào thời nhà Lê, có một người con gái đẹp lấy chồng là một nhà buôn người Hoa giàu có, bà đã bỏ tiền ra xây dựng lại ngôi chùa này to đẹp hơn chùa cũ, do đó mới có tên Bà Ngô (Ngày xưa dân mình thường gọi Hoa kiều là Ngô , Khách ). Chùa được sửa chữa và làm mới qua nhiều năm. Theo Ngọc Hồ tự bi ký dựng năm Tự Đức thứ 17 đã ghi: Năm Tân Dậu (1861) làm mới ngôi nhà Tổ 5 gian, các năm Nhâm Tuất (1862), Quý Hợi (1863), Giáp Tý (1864), Ất Sửu (1865) tô tượng, đúc chuông, sửa chữa nhỏ.
Vào năm Ất Hợi (đời vua Bảo Đại, tức 1935), chùa được sửa chữa lớn nên đã có câu đối (tạm dịch): "Không nhớ tháng Bà Ngô sửa chữa, Chỉ biết năm Bảo Đại khánh thành". Sau lần sửa chữa này, chùa có được diện mạo như ngày nay với đầy đủ kiến trúc của một công trình thờ Phật: tam quan, tiền đường, hậu đường, nhà Tổ, điện Mẫu và nhiều di vật, tế khí quý.
Gác chuông chùa Bà Ngô, theo truyền thuyết là nơi vua Lê Thánh Tông gặp tiên .
Chùa Bà Ngô cũng là bối cảnh cho câu chuyện Tú-Uyên gặp Giáng-Kiều trong truyện thơ Bích Câu kỳ ngộ.
Tam quan của chùa là gác chuông 2 tầng, 8 mái với 8 góc đao cong. Một quả chuông đồng đúc năm Canh Dần Thành Thái thứ 2 (1887) được treo ở giữa tam quan có dòng chữ "Ngọc Hồ tự chung". Phật điện gồm tiền đường và hậu cung làm theo kiểu "chữ đinh 丁". Hiên trong tiền đường dạng vòm cuốn mở rộng bằng một vì vỏ cua, là một kiểu kiến trúc ít có ở miền Bắc mà chỉ thấy ở Hội An, Huế với 2 đầu làm theo kiểu nhà kèn. Hậu cung 4 gian có nhiều cửa võng. Nhà Tổ, ngoài 2 ban thờ các sư tổ Bồ Đề Đạt ma, các sư tổ của chùa đã viên tịch, còn có bàn thờ đức Văn Xương.
Điện Mẫu thờ các Mẫu, Ngọc Hoàng và vua Lê Thánh Tông ngồi trên ngai rồng. Hai bên thờ Đức Thánh Trần Hưng Đạo cùng hai gia tướng Yết Kiêu và Dã Tượng. Tượng trong chùa hiện có 35 pho được sắp xếp dọc Phật điện. Ngoài những pho như Tam thế, A-di-đà tam tôn, Quan Âm thiên thủ thiên nhãn, Ngọc hoàng Thượng đế , Nam Tào, Bắc Đẩu, còn có 10 vị Diêm Vương và tượng Bà Ngô trang phục gần như tượng Mẫu. Tượng Tổ mang nhiều nét chân dung của sư nữ...
Đặc biệt, trước hai bên cổng chính của chùa là hàng câu đối chữ Nôm, một điều rất hiếm gặp tại các chùa ở Hà Nội.

Chùa Bà Ngô được công nhận là "cổ tích được liệt hạng" vào ngày 7 tháng 8 năm 1951 theo quyết định của Giám đốc Sở Quốc gia Bảo tồn Cổ tích. Chùa được chính quyền Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận là di tích lịch sử - văn hoá năm 1993 .
______________________


Ảnh Chùa Bà Ngô ở 128 phố Nguyễn Khuyến - Hà Nội .(st)
165
 — cùng với Viet Cuong Sarraut.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét