XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Hai, 7 tháng 1, 2019

Sử ký, Quyển 35 — Quản, Thái, Tào thế gia

Giới thiệu

Quản, Thái, Tào thế gia, Sử ký 35


Quản Thúc Tiên và Thái Thúc Độ, là con của Châu Văn Vương và em của Châu Võ Vương. Anh em một mẹ với Võ Vương gồm mười người. Mẹ là bà Thái Tự, chính phi của Văn Vương. Con trưởng là Bá Ấp Khảo, kế là Võ Vương Phát, kế đến là Quản Thúc Tiên, kế đến là Châu Công Đán, kế đến là Thái Thúc Độ, kế đến là Tào Thúc Chấn Đạc, kế đến là Thành Thúc Võ, kế đến là Hoắc Thúc Xử, kế đến là Khang Thúc Phong, rồi đến Nhiễm Quý Tái. Nhiễm Quý Tái là con út. Trong số mười người anh em cùng mẹ, chỉ có Phát và Đán hiền tài, trợ giúp bên Văn Vương. Nên Văn Vương phế Bá Ấp Khảo mà chọn Phát làm Thái tử. Đến khi Văn Vương mất, Phát lên ngôi, tức Võ Vương. Bá Ấp Khảo đã chết từ trước đấy.
Võ Vương diệt Ân Trụ, bình thiên hạ, tấn phong công thần, anh em làm chư hầu. Thế rồi phong Thúc Tiên ở đất Quản, phong Thúc Độ ở đất Thái, để hai người giúp đỡ con vua Trụ là Võ Canh Lộc Phụ cai trị tàn dân nhà Ân; phong Thúc Đán ở Lỗ nhưng giữ ở triều đình phụ giúp nhà Châu, làm Châu Công; phong Thúc Chấn Đạc ở Tào; phong Thúc Võ ở Thành; phong Thúc Xử ở Hoắc. Khang Thúc Phong và Nhiễm Quý Tái đều còn quá bé, nên chưa được phong.
Võ Vương mất, Thành Vương còn bé, Châu Công Đán chuyên quyền vương thất. Quản Thúc và Thái Thúc nghi Châu Công toan hại cho Thành Vương, bèn ép Võ Canh gây loạn. Châu CôngĐán theo lệnh Thành Vương chinh phạt, chém Võ Canh, giết Quản Thúc, và tha chết cho Thái Thúc, nhưng đuổi đi xa, chỉ cho 10 cỗ xe cùng 70 người đi theo. Và chia tàn dân nhà Ân làm hai: một phần cắt phong cho Vi Tử Khải trở thành nước Tống, kế tục việc tế tự nhà Ân; một phần phong cho Khang Thúc lập làm vua Vệ, tức Vệ Khang Thúc. Phong cho Quý Tái ở đất Nhiễm. Nhiễm Quý và Khang Thúc đều có đức tốt, thế là Châu Công đề cử Khang Thúc làm Tư khấu, Nhiễm Quý làm Tư không cho nhà Châu giúp Thành Vương cai trị, hai người đều có tiếng tăm trong thiên hạ.

Thái Thúc Độ bị đày đi xa, rồi chết. Thúc Độ có con trai là Hồ. Hồ thế rồi tu sửa tính nết, học lẽ hay, làm điều tốt. Châu Công nghe thấy, bèn cử Hồ làm Khanh sĩ ở Lỗ, nước Lỗ ai trị. Thế rồi Châu Công nói lại với Thành Vương, phục phong cho Hồ ở đất Thái, lo việc cúng tế cho Thái Thúc, tức Thái Trọng. Năm vị Thúc đều phải đến nước phong, không ai ở lại làm quan cho Thiên tử.
Thái Trọng chết, con là Thái  Hoang lên ngôi. Thái  Hoang chết, con là Cung Hầu lên ngôi. Cung Hầu chết, con là Lệ Hầu lên ngôi. Lệ Hầu chết, con là Võ Hầu lên ngôi. Vào đời Võ Hầu, Châu Lệ Vương mất nước, chạy đến đất Trệ, Cung Hòa nắm chính sự, chư hầu nhiều nước phản Châu.
Võ Hầu chết, con là Di Hầu lên ngôi. Di Hầu năm thứ 11, Châu Tuyên Vương lên ngôi. Năm thứ 28, Di Hầu chết, con là Hi Hầu Sở Sự lên ngôi.
Hi Hầu năm thứ 39, Châu U Vương bị Khuyển nhung sát hại, nhà Châu suy yếu và dời về phương đông. Tần bắt đầu được phong làm chư hầu.
Năm thứ 48, Hi Hầu chết, con là Cung Hầu Hưng lên ngôi. Cung Hầu năm thứ 2, chết, con là Đái Hầu lên ngôi. Đái Hầu năm thứ 10 chết, con là Tuyên Hầu Thố Phụ lên ngôi.
Tuyên Hầu năm thứ 28, Lỗ Ẩn Công bắt đầu lên ngôi. Năm thứ 35, Tuyên Hầu chết, con là Hoàn Hầu Phong Nhân lên ngôi. Hoàn Hầu năm thứ 3, Lỗ giết vua là Ẩn Công. Năm thứ 20, Hoàn Hầu chết, em là Ai Hầu Hiến Vũ lên ngôi.
Ai Hầu năm thứ 11. Trước đấy, Ai Hầu cưới con gái nước Trần, Tức Hầu cũng cưới con gái nước Trần. Tức Phu nhân cùng em từ Tức quay về, đi ngang Thái, bị Thái Hầu giở trò bất kính. Tức Hầu tức giận, xin với Sở Văn Vương rằng: “Hãy đến đánh nước tôi, tôi sẽ cầu cứu với Thái, Thái nhất định sẽ đến; Sở nếu nhân đấy mà đánh có thể nên công tích.” Sở Văn Vương nghe lời, bắt sống Ai Hầu đem về Sở. Ai Hầu ở Sở 9 năm chết tại Sở. Ai Hầu ở ngôi gồm 20 năm thì chết, Thái lập người con của Ai Hầu là Hật, tức Mục Hầu.
Mục Hầu gả em gái cho Tề Hoàn Công làm Phu nhân. Năm thứ 18, Tề Hoàn Công cùng Thái Phu nhân đùa giỡn trên thuyền, Phu nhân lắc thuyền, Hoàn Công bảo thôi mà không nghe; Hoàn Công nổi giận, trả Phu nhân về Thái nhưng chưa tuyệt hôn. Thái Hầu tức giận, đem em gái gả cho người khác. Tề Hoàn Công nổi giận, đánh Thái; Thái tan vỡ, Tề bèn giam giữ Mục Hầu, tiến quân xuống phía nam đến Thiệu lăng của Sở. Sau đó chư hầu vì Thái tạ lỗi với Tề, Tề Hầu trả Thái Hầu về nước. Năm thứ 29, Mục Hầu chết, con là Trang Hầu Giáp Ngọ lên ngôi.
Trang Hầu năm thứ 3, Tề Hoàn Công chết. Năm thứ 14, Tấn Văn Công đánh bại Sở ở Thành bộc. Năm thứ 20, Thái tử nước Sở là Thương Thần giết cha là Thành Vương tự lên thay. Năm thứ 26, Tần Mục Công chết. Năm thứ 33, Sở Trang Vương lên ngôi. Năm thứ 34, Trang Hầuchết, con là Văn Hầu lên ngôi.
Văn Hầu năm thứ 14, Sở Trang Vương đánh Trần, giết Hạ Trưng Thư. Năm thứ 15, Sở đánh Trịnh, Trịnh đầu hàng, rồi được Sở trả lại nước. Năm thứ 20, Văn Hầu chết, con là Cảnh HầuĐồng lên ngôi.
Cảnh Hầu năm thứ nhất, Sở Trang Vương chết. Năm thứ 29, Cảnh Hầu cưới vợ cho Thái tửBàn là con gái nước Sở, rồi tư thông với người ấy. Thái tử Bàn giết Cảnh Hầu rồi tự lên thay, tức Linh Hầu.
Linh Hầu năm thứ 2, Công tử Vi nước Sở giết vua Sở là Giáp Ngao tự lên thay, tức Linh Vương. Năm thứ 9, Tư đồ nước Trần là Chiêu giết vua Trần là Ai Công. Sở phái Công tử Khí Tật diệt Trần chiếm lấy đất. Năm thứ 12, Sở Linh Vương vì Linh Hầu giết cha, dụ Thái Linh Hầu đến đất Thân, phục kích giáp sĩ mời Thái Hầu đến yến ẩm, chuốc rượu cho say rồi giết chết, còn hành hình sĩ tốt của Thái Hầu 70 người. Sở Linh Vương sai Công tử Khí Tật vây kinh đô nước Thái. Tháng 11, Thái bị diệt, Sở Linh Vương sai Khí Tật làm Thái Công[1].
Sở diệt Thái được 3 năm, Công tử Khí Tật giết Sở Linh Vương tự lên thay, tức Bình Vương. Bình Vương bèn tìm người con út của Thái Cảnh Hầu là , lập làm vua Thái, tức Bình Hầu. Cũng năm ấy, Sở tái lập nước Trần. Sở Bình Vương khi mới lên ngôi, muốn hòa thân với chư hầu, nên tái lập con cháu hai nước Trần, Thái.
Bình Hầu năm thứ 9, chết, cháu nội của Linh Hầu Bàn là Đông Quốc đánh con trai của Bình Hầu rồi tự lên ngôi, tức Điệu Hầu. Cha của Điệu Hầu là Ẩn Thái tử Hữu. Ẩn Thái tử Hữu, là Thái tử của Linh Hầu, Bình Hầu lên ngôi bèn giết Ẩn Thái tử, nên khi Bình Hầu chết, con trai của Ẩn Thái tử là Đông Quốc đánh bại con trai của Bình Hầu rồi lên thay, tức Điệu Hầu. Điệu Hầu năm thứ 3, chết, em là Chiêu Hầu Thân lên ngôi.
Chiêu Hầu năm thứ 10, Thái Hầu đến chầu Sở Chiêu Vương, mang theo 2 áo lông rất đẹp, dâng một cái cho Chiêu Vương còn tự mình mặc một cái. Tướng quốc Sở là Tử Thường thèm muốn, Thái Hầu không cho. Tử Thường gièm Thái Hầu với Sở Vương, giữ Thái Hầu tại Sở 3 năm. Thái Hầu rồi hiểu ra nguyên cớ, bèn dâng áo lông cho Tử Thường; Tử Thường nhận được áo, mới nói với Sở Vương cho phép Thái Hầu về nước. Thái Hầu về đến nước bèn sang Tấn, xin cùng Tấn đánh Sở.
Năm thứ 13, mùa xuân, Chiêu Hầu cùng Vệ Linh Công hội nghị ở Thiệu lăng. Thái Hầu gặp riêng Trành Hoằng của nhà Châu xin cho mình đứng trên Vệ trong nghi lễ; Vệ sai Sử Thu đến kể lại công đức của Khang Thúc, Trành Hoằng bèn đặt Vệ ở trên. Mùa hạ, Thái vì Tấn diệt nước Trầm. Sở nổi giận, đánh Thái. Thái Chiêu Hầu cho con mình đến làm tin ở Ngô, hòng cùng nhau đánh Sở. Mùa đông, Thái cùng Ngô Vương Hạp Lư thế rồi đánh bại Sở, chiếm Dĩnh. Thái oán Tử Thường, Tử Thường sợ, trốn sang Trịnh. Năm thứ 14, Ngô rút quân và Sở Chiêu Vương phục quốc. Năm thứ 16, Lệnh doãn của Sở khóc với dân Sở quyết mưu đồ diệt Thái, Thái Chiêu Hầu lo sợ. Năm thứ 26, Khổng Tử đến Thái. Sở Chiêu Vương đánh Thái, Thái sợ, cấp báo với Ngô. Ngô vì Thái xa xôi, ước thúc đòi Thái dời kinh đến gần Ngô cho dễ cứu nhau; Chiêu Hầu tự mình chấp thuận, không bàn lại với các Đại phu. Ngô đến cứu Thái, nhân đấy chuyển Thái đến Châu lai. Năm thứ 28, Chiêu Hầu muốn đi chầu Ngô, các Đại phu sợ lại bị Ngô bắt chuyển dời, bèn sai tên giặc là Lợi giết Chiêu Hầu; rồi giết Lợi xóa tội, và lập con Chiêu Hầu là Sóc lên ngôi, tức Thành Hầu.
Thành Hầu năm thứ 4, Tống diệt Tào. Năm thứ 10, Điền Thường giết vua là Tề Giản Công. Năm thứ 13, Sở diệt Trần. Năm thứ 19, Thành Hầu chết, con là Thanh Hầu Sản lên ngôi. Thanh Hầu năm thứ 15, chết, con là Nguyên Hầu lên ngôi. Nguyên Hầu năm thứ 6, chết, con là Tề  lên ngôi.
Thái Hầu Tề năm thứ 4, Sở Huệ Vương diệt Thái, Thái Hầu Tề mất tích, Thái thế là tuyệt tự. Thái bị diệt sau Trần 33 năm.
 Ấp Khảo, con cháu không rõ được phong ở đâu. Võ Vương Phát, con cháu làm vua nhà Châu, đã có Bản kỷ kể. Quản Thúc Tiên gây loạn bị chém chết, không con cháu. Châu CôngĐán, con cháu cai trị nước Lỗ, đã có thiên Thế gia riêng. Thái Thúc Độ, con cháu cai trị nước Thái, đã có Thế gia kể trên. Tào Thúc Chấn Đạc, con cháu cai trị nước Tào, cũng có Thế gia kể. Thành Thúc Võ, con cháu không thấy ở đâu nhắc đến. Hoắc Thúc Xử, con cháu vào đời Tấn Hiến Công bị Tấn diệt. Khang Thúc Phong, con cháu cai trị nước Vệ, đã có Thế gia riêng. Nhiễm Quý Tái, con cháu không thấy ở đâu nhắc đến.
Thái sử công nói: Quản Thái gây loạn, chẳng có gì đáng nhắc. Nhưng Châu Võ Vương mất, Thành Vương còn bé, thiên hạ vẫn còn nghi ngại nhà Châu, phải nhờ những người em cùng mẹ như Thành Thúc, Nhiễm Quý mười người trợ giúp, thế rồi chư hầu cuối cùng đề tôn nhà Châu, thế nên phải kèm họ vào phần Thế gia để thuật lại.

Tào Thúc Chấn Đạc, là em của Châu Võ Vương. Võ Vương sau khi diệt Ân Trụ, phong Chấn Đạc đất Tào.
Thúc Chấn Đạc chết, con là Thái  Tì lên ngôi. Thái Bá Tì chết, con là Trọng Quân Bình lên ngôi. Trọng Quân Bình chết, con là Cung  Hầu lên ngôi. Cung  Hầu chết, con là Hiếu Vân lên ngôi. Hiếu  Vân chết, con là Di  Hỉ lên ngôi.
Di  Hỉ năm thứ 13, Châu Lệ Vương chạy đến đất Trệ.
Năm thứ 30, Di  chết, em là  Cường lên ngôi. U  năm thứ 9, em là  giết U  tự lên thay, tức Đái . Đái  năm thứ nhất, lúc ấy Châu Tuyên Vương lên ngôi đã 3 năm. Năm thứ 30, Đái  chết, con là Huệ  Hủy lên ngôi.
Huệ  năm thứ 25, Châu U Vương bị Khuyển nhung giết chết, nhà Châu dời đô sang đông, ngày càng trở nên yếu kém, bị chư hầu làm phản. Tần bắt đầu được liệt vào hàng chư hầu.
Năm thứ 36, Huệ  chết, con là Thạch Phủ lên ngôi, bị người em là  giết chết rồi tự lên thay, tức Mục Công. Mục Công năm thứ 3, chết, con là Hoàn Công Chung Sinh lên ngôi.
Hoàn Công năm thứ 35, Lỗ Ẩn Công lên ngôi. Năm thứ 45, Lỗ giết vua là Ẩn Công. Năm thứ 46, Hoa Phụ Đốc nước Tống giết vua là Tống Thương Công cùng Khổng Phụ. Năm thứ 55, Hoàn Công chết, Trang Công Tịch Cô lên ngôi.
Trang Công năm thứ 23, Tề Hoàn Công bắt đầu làm .
Năm thứ 31, Trang Công chết, con là Hi Công Di lên ngôi. Hi Công năm thứ 9, chết, con là Chiêu Công Ban lên ngôi. Chiêu Công năm thứ 6, Tề Hoàn Công đánh bại Thái, rồi đến đất Thiệu lăng nước Sở. Năm thứ 9, Chiêu Công chết, con là Cung Công Tương lên ngôi.
Cung Công năm thứ 16. Trước đấy, Công tử Trùng Nhĩ nước Tấn lưu vong có đi ngang Tào, bị vua Tào đối đãi vô lễ, muốn xem xương sườn của Trùng Nhĩ. Hi Phụ Ky can mà vua Tào không nghe, ngầm trọng đãi Trùng Nhĩ. Năm thứ 21, Tấn Văn Công Trùng Nhĩ đánh Tào, bắt tù Tào Cung Công rồi rút về, truyền lệnh cấm binh chúng không được xâm phạm nhà cửa tông tộc Hi Phụ Ky. Có người thuyết phục Văn Công rằng: “Ngày xưa khi Tề Hoàn Công họp chư hầu, còn phục quốc cho cả người khác họ; nay nhà vua lại bỏ tù vua Tào, diệt cả nước của người cùng họ thì còn lấy gì hiệu lệnh chư hầu?” Tấn bèn hoàn phục nước Tào và trả Cung Công về nước.
Năm thứ 25, Tấn Văn Công chết. Năm thứ 35, Cung Công chết, con là Văn Công Thọ lên ngôi. Văn Công năm thứ 23, chết, con là Tuyên Công Cường lên ngôi. Tuyên Công năm thứ 17, chết, em là Thành Công Phụ Sô lên ngôi.
Thành Công năm thứ 3, Tấn Lệ Công đánh Tào, bắt tù Thành Công đem về, nhưng rồi lại thả ra. Năm thứ 5, Loan Thư và Trung hàng Yển nước Tấn phái Trình Hoạt giết vua là Tấn Lệ Công. Năm thứ 23, Thành Công chết, con là Võ Công Thắng lên ngôi. Võ Công năm thứ 26, Công tử Khí Tật nước Sở giết vua là Linh Vương tự lên thay. Năm thứ 27, Võ Công chết, con là Bình Công Khoảnh lên ngôi. Bình Công năm thứ 4, chết, con là Điệu Công Ngọ lên ngôi. Năm ấy, Tống, Vệ, Trần, Trịnh đều bị hỏa tai.
Điệu Công năm thứ 8, Tống Cảnh Công lên ngôi. Năm thứ 9, Điệu Công đi chầu Tống, bị Tống bỏ tù. Tào tôn em của Điệu Công lên ngôi, tức Thanh Công. Điệu Công chết ở Tống, được đưa thây về Tào chôn cất.
Thanh Công năm thứ 5, em của Bình Công là Thông giết Thanh Công tự lên thay, tức Ẩn Công. Ẩn Công năm thứ 4, em của Thanh Công là Lộ giết Ẩn Công tự lên thay, tức Tĩnh Công. Tĩnh Công năm thứ 4, chết, con là Dương lên ngôi.
Tào  Dương năm thứ 3, quốc nhân có người nằm mộng thấy một nhóm quân tử đứng nơi đền , bàn tính việc diệt nước Tào; Tào Thúc Chấn Đạc ngăn cản họ, xin đợi đến đời Công tôn Cường, và được chấp thuận. Đến sáng, người nằm mộng cho tìm kiếm, nhưng không ra người ấy. Người nằm mộng dặn dò đám con rằng: “Sau khi ta chết, chúng mày nếu nghe có Công tôn Cường lên nắm chính sự thì phải rời khỏi Tào để khỏi lụy vào họa nước.” Đến khi Tào  Dương lên ngôi, đam mê việc bắn chim đồng. Năm thứ 6, có người ở vùng thảo dã thuộc nước Tào là Công tôn Cường cũng mê săn chim đồng, bắt được con nhạn trắng đem đến hiến; Tào  trò chuyện với người ấy về săn bắn, nhân đấy hỏi han về chính sự. Tào rất vừa ý, thân sủng Công tôn Cường, sai ông ta giữ chức Tư thành hòng dự chính sự. Đám con của người nằm mộng thế là rời khỏi nước Tào.
Công tôn Cường đem Bá nghiệp thuyết phục Tào . Năm thứ 14, Tào  nghe lời, bèn trở lưng với Tấn, còn xúc phạm cả Tống. Tống Cảnh Công đến đánh, Tấn không cứu. Năm thứ 15, Tống diệt Tào, trói dẫn Tào  Dương và Công tôn Cường về nước rồi sát hại. Tào thế là tuyệt tự.
Thái sử công nói: ta khi tìm được sự Tào Cung Công không nghe lời Hi Phụ Ky, còn cho ba trăm người ngồi hiên xa, đã biết đó là vì ông ta không biết tạo đức. Đến giấc mơ có Chấn Đạc, ông ta há chẳng muốn duy trì việc tế tự nhà Tào ư? Nếu như Công tôn Cường đã chẳng đua đòi Bá đạo, việc tế tự Chấn Đạc có khi đã chẳng chợt dứt?
[1] Công ở đây không phải là tước, mà là chức quan cai trị tương đương Huyện lệnh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét