Thời thuộc Pháp thì Bắc kỳ (Tonkin) và Trung kỳ (Annam) nhiều ảnh đẹp hơn Nam kỳ (Cochinchine), do mình người Miền Nam nên ưu tiên post ảnh Miền Nam nhiều hơn (và cũng do Miền Trung, Miền Bắc chưa biết nhiều), hậu sinh không lạm bàn chính trị, chỉ muốn chia sẻ để biết một thời tiền nhân chúng ta sống ra sao. Máy chụp ảnh đã có từ 1826 tại Pháp, vì vậy các thuộc địa ở Đông Dương có ảnh từ rất sớm và có mặt trong những thước phim đầu tiên nữa. Ảnh trong album trải dài khắp cả nước, được mình tổng hợp từ nhiều nguồn trong thời gian từ 2005 đến nay, đa số từ các kho lưu trữ của Pháp - tài liệu xưa và các bác lớn tuổi có chất lượng còn khá tốt, số lượng lớn tới vài ngàn tấm, sẽ chọn lọc post từ từ
- Xem ảnh, suy gẫm, giảm bớt cái tôi và cực đoan, chúng ta sẽ nắm bắt được rất nhiều điều vĩ mô, ở mức độ tổng quát cao và sự khách quan lớn
* Nguồn: Flickr, Corbis, Pinterest, belleindochine, alamy, akpool ...
Bàn chân Giao Chỉ - đặc điểm người Việt bản địa
(Số lượng người mang đặc điểm bàn chân này ngay từ xưa chỉ là số ít, không phải người An Nam nào cũng có bàn chân Giao Chỉ, cho đến nay thì còn rất hiếm)
...."Giao Chỉ là người Nam di, ngón chân cái toạc ra, đứng thẳng hai bàn chân thì ngón chân cái giao vào nhau, cho nên gọi là Giao Chỉ (chỉ là ngón chân cái)"....
Chú thích ảnh : Một tài liệu cổ thời Pháp nghiên cứu vấn đề Giao Chỉ, hình vẽ xương bàn chân của một bé trai 12 tuổi
Đôi vợ chồng người Bắc kỳ (Tonkin) khoảng năm 1890. Áo tơi bằng lá mà cô gái mặc cho đến giờ vẫn còn sử dụng và có 1 làng chuyên sản xuất ở Hà Tĩnh
Vua Thành Thái năm 1900, 21 tuổi - vua thứ 10 của triều Nguyễn — cùng với VUA THÀNH THÁI.
Ghe thuyền trên một nhánh sông Mekong - nhiều dừa giống Bến Tre quá, khoảng 1890
Cụ Đề Thám và các con khoảng năm 1903
Bắc kỳ, một thầy đồ đang dạy học - cuối TK 19
Châu Đốc, một bến ghe năm 1950 (ảnh của Urbain Calestroupat)
Một khúc sông Bến Tre năm 1950 (ảnh của Urbain Calestroupat)
Tòa nhà Wang Tai (Vương Thái) đang xây năm 1867 - Nay là Trụ sở Hải quan TpHCM. Ảnh gốc chất lượng cao ngang ngửa 1 tấm panorama 4k hiện nay
Saigon 1875 - ảnh xưa nhất của dinh Norodom (dinh Thống đốc Nam kỳ) - Khởi công ngày Chủ nhật 23 tháng 2 năm 1868 - do chiến tranh Pháp - Phổ nên mãi tận 1875 mới xong, đến 1955 đổi tên là dinh Độc Lập, đến 1962 bị ném bom hư hỏng nặng phải đập bỏ để xây dinh Độc Lập mới, rồi 1975 bị ném bom nữa mới thành Hội trường Thống Nhất cho đến nay
(Photo by Emile Gsell)
Nhà thờ Đức Bà Saigon năm 1879 - lúc này chưa có 2 đỉnh nhọn phía trên (theo motif của nhà thờ Đức Bà ở Paris) sau đó mới xây thêm 2 gác chuông nhọn lên trên
Nhà thờ Đức Bà Saigon năm 1900
Chợ Lớn Saigon năm 1866 - lúc này còn hoang sơ như một vùng quê, hình được chụp tốc độ chậm, không biết do máy thời ấy hay do tác giả cố ý để lấy đủ sáng
Saigon, Chợ Lớn năm 1888 - lúc này thuyền buôn của người Hoa đã tấp nập
Saigon, Tháp Nước năm 1901 - Vị trí này hiện nay là Hồ Con Rùa, Quận 3, Tp. HCM
Một cụ ông người Bắc kỳ (Tonkin) làm nghề thợ săn - năm 1890
Các quan lạy mừng vua Hàm Nghi
Bắc kỳ, các quan tân khoa kỳ thi Văn được ban mũ áo để vinh quy bái tổ ở trường thi Nam Định khoảng 1900
Bắc kỳ, tội ăn cắp bị xử đánh đòn, ảnh chụp khoảng đầu TK 20. Nhìn hình tự nhiên nhớ vở Ngao Sò Ốc Hến
Rước vua Duy Tân trong lễ đăng quang năm 1907 (vua mới 7 tuổi)
Một trong những tấm không ảnh đầu tiên của Hà Nội khoảng 1910 và có lẽ là đầu tiên của Việt Nam luôn, chụp từ máy bay loại 2 tầng cánh "đời đầu", thấy rõ Hồ Gươm, cầu Long Biên (lúc đó cầu tên là Doumer theo tên của toàn quyền Đông Dương) và nội ô Hà Nội bên dưới
Các sĩ tử đi vào trường thi Nam Ðịnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu - 1897
Dưới triều Nguyễn, cứ 3 năm triều đình lại mở khóa thi Hương ở các tỉnh lớn dành cho mọi đối tượng, người thi đỗ được gọi là Cử nhân, năm sau sẽ lên kinh đô để thi Hội và thi Ðình. Người đậu khóa thi Hội được gọi là Thám hoa, đậu khóa thi Ðình được gọi là Tiến sĩ.
Bản thảo viết tay cuốn Dictionnaire Annamite - Latin (từ điển An Nam- La tinh) của ông Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine - Cha Cả) năm 1775, ảnh này chụp lại từ tủ trưng bày trong Bảo tàng
Cholon, les quais 1900
Phố cặp bờ sông ở Chợ Lớn năm 1900 - kênh Tàu Hủ bên phải, nhìn thấy cầu Malabars (tiền thân của cầu Chà Và nhưng khác vị trí 1 chút), khu vực này người Ấn và người Chà Và (Indo, Malay) sinh sống nhiều
PS: Chà Và là người Việt mình đọc trại ra từ chữ Java - chỉ những người buôn bán đến từ Indo và Malay, và sau đó các thương nhân người Ấn cũng được gọi là chung là Chà Và luôn vì họ khá giống nhau (bự con, đen, râu tóc rậm)
Nói thêm 1 chút, chôm chôm Sa hoa ở Chợ Lách cũng chính là đọc trại ra từ chữ Java, vì giống chôm chôm này nguồn gốc từ Indo
Quang cảnh các quan coi thi ở Huế năm 1900
Sĩ tử thi đỗ ra mắt quan lớn - Khoa thi ở Nam Định năm 1897
Xướng danh ở Khoa thi Nam Định những năm 1900
Cờ xí rợp trời quan sứ đến - Khoa thi ở Nam Định năm 1900
Xem tên trên bảng vàng, tên anh mà không có thì chưa ... động phòng nhe chưa Khoa thi Hương ở Nam Định, năm Đinh Dậu - 1897
Dưới triều Nguyễn, cứ 3 năm triều đình lại mở khóa thi Hương ở các tỉnh lớn dành cho mọi đối tượng nam, người thi đỗ được gọi là Cử nhân, năm sau sẽ lên kinh đô để thi Hội và thi Ðình. Người đậu khóa thi Hội được gọi là Thám hoa, đậu khóa thi Ðình được gọi là Tiến sĩ.
Những nhạc công ở Saigon năm 1866 — cùng vớ Darren Murphy.
Nghệ sĩ hát bộ ở Saigon năm 1866
Công trường xây dựng phố Charner (1870), bây giờ là đường Nguyễn Huệ
Chợ Đồng Xuân Tết 1896 (Bính Thân)
Quang cảnh Hồ Gươm - Hà Nội năm 1896 - ảnh gốc rất đẹp và có chất lượng tốt đến ngạc nhiên
Quang cảnh Hồ Gươm + cầu Thê Húc - Hà Nội năm 1896 - ảnh đẹp và có chất lượng tốt đến ngạc nhiên
Khai trương chạy thử tuyến tàu Hỏa đầu tiên ở Đông Dương, tuyến Sài Gòn- Mỹ Tho năm 1881
Làm thùng gánh nước, rổ rá bằng tre năm 1890
Lợn ỉn - lợn Móng Cái, ảnh chụp năm 1860
Một đám cưới ở Saigon năm 1866. Ảnh gốc chất lượng rất cao, nước ảnh tuyệt hảo tuy có một vài người di chuyển nên hơi nhòe chút.
Một góc Đà Nẵng lúc quân Pháp mới đến, năm 1859
Một khẩu đại pháo của Pháp đang được vận chuyển bên cạnh Bạch Dinh ở Vũng Tàu năm 1890, vẫn còn tới nay
Một ngôi làng ở ngoại ô Hà Nội 1890, có thông tin ghi đây chính là làng cổ Đường Lâm
Một ngôi nhà đặc trưng của vùng Sài gòn - Nam bộ thời xưa khoảng 1860
Trung kỳ, Huế, lính võng quan đi công chuyện năm 1890
Một xưởng mộc, thợ đang xẻ những cây gỗ lớn ở Hà Nội năm 1890
Nam kỳ, Mỹ Tho, đường Galliéni cặp bờ sông năm 1900, hiện nay là đường Trưng Trắc, khúc gần ngã 3 sông Bảo Định và sông Tiền (bến phà Tân Long), thành phố Mỹ Tho
Nam kỳ, Mỹ Tho, đại lộ Bourdais năm 1950, hiện nay là đường Hùng Vương
Nấu nước chè xanh đem bán ở Hà Nội 1890
Bắc kỳ, các bà các cô làm nghề hàng xáo (mua thóc về xay giã thành gạo, cám bán kiếm lời) những năm 1890
Nghề khảm trai mỹ nghệ (khảm xà cừ) ở Hà Nội cuối TK 19
Người cửu vạn đẩy xe cút kít chở gạo ở Hà Nội cuối TK 19
Người lái đò sông Đà của cụ Nguyễn Tuân đây quý vị, năm 1925
Hà Nội - Những người ăn mày mặc áo tơi đứng bên một hàng phở, ảnh chụp cuối TK 19.
Những người cửu vạn (khuân vác, chở thuê) lúc rỗi việc ở trên phố Hà Nội cuối TK 19
Những người dân Thái đưa đoàn thám hiểm Pháp dọc sông Đà ......... hình ảnh được tả trong tùy bút Người lái đò sông Đà của cụ Nguyễn Tuân
Những người tham gia vụ Hà Thành đầu độc lính Pháp do cụ Đề Thám và 1 số cai đội + đầu bếp trong lực lượng Pháp cầm đầu bị bắt giam trong ngục Hỏa Lò. Người ngồi thứ 6 từ phải qua là nữ - Bà Nguyễn Thị Ba (thường gọi là Chiêu Sáu theo tên chồng) chủ quán cơm nơi nghĩa quân họp bí mật, trong số này có 19 người bị án tử hình và 13 người bị bêu đầu vào năm 1908
Gánh phở rong trên phố Hà Nội năm 1890
Quan Giám khảo Trần Sĩ Trác tại trường thi Nam Định (1897) — cùng với TRẦN SĨ TRÁC.
Những tấm ảnh màu đầu tiên ở Hà Nội năm 1913
Quan huyện và các nha lại đang tập trung trước phủ đường để nhận chiếu chỉ - Trương Long, Triệu Hổ VN xài gươm cán dài quá
Những tấm ảnh màu đầu tiên năm 1913
Quan Tổng đốc Hà Đông - Hoàng Trọng Phu và gia đình
Những tấm ảnh màu đầu tiên năm 1913
Tổng đốc Hà Đông - Hoàng Trọng Phu
Thêm ảnh về vua Duy Tân đăng quang lúc 7 tuổi năm 1907
Bắc kỳ, phạm nhân bị xử đánh đòn bằng roi năm 1890
1 hèo nè, 2 hèo nè .....
Sông Sài gòn khoảng 1850 - Còn quá hoang vu.
Lạ 1 điều là chữ Rivier trong ảnh không phải tiếng Anh hay Pháp mà là tiếng Hà Lan (cũng nghĩa là sông). Có thể tấm này do các nhà thám hiểm hoặc truyền giáo Hà Lan chụp và ghi chú
Sông SG và rạch Bến Nghé khi vùng Khánh Hội còn hoang sơ, khoảng 1860, lúc này chưa có Trụ sở công ty tàu biển Messageries Maritimes - mà sau này là Bến Nhà Rồng
Tàu đi Lạng Sơn, toa dành cho người Việt, năm 1901
Thảo Cầm Viên SG năm 1895, mấy cây sọ khỉ cổ thụ khổng lồ hiện nay lúc này chắc mới trồng
Những cô bé gánh lục bình (bèo Nhật Bản) đi bán cuối TK 19 ở Hà Nội. Chắc cho các quan trồng trong chậu làm cảnh vì hoa đẹp (cụm nào cũng có hoa) - lúc đó nó còn hiếm quý không tràn lan bình dân như bây giờ
Vận chuyển gỗ bởi những người "Cu li" năm 1905 ở Hà Nội
Nghệ sĩ hát bộ ở Nam kỳ năm 1890
Vận chuyển cho bưu điện thời 1890
Vua ban yến cho các sĩ tử thi đậu năm 1900
Vũng Tàu, đầu TK 20. Xa xa trên sườn Núi Lớn là Bạch Dinh
Xem xử chém phạm nhân bằng máy chém ở Hải Phòng , 1890
Đấu vật trong lễ hội làng, Hà Nội 1890
Hà Nội 1890. Những người chống Pháp bị đem ra xử, không biết thuộc khởi nghĩa nào.
Tấm ảnh đầu tiên của Việt Nam - Đồn Hai Ở Đà Nẵng
Ảnh do ông Jules Itier chụp ngày 31-05-1845 bằng máy Daguerreréotype, phát minh năm 1839. Phim là một tấm kim loại bằng đồng có tráng bạc.
Một số ảnh cung đình Huế ghi là chụp năm 1835 - tức sớm hơn ảnh này 10 năm - có nghi ngờ nhưng không biết như thế nào vì chưa tra cứu và xác thực được...
Đám liên quân Pháp - Tây Ban Nha trên tàu chiến tấn công Đà Nẵng năm 1859-1860
Saigon những năm 1859 đến 1868, trước khi Pháp bắt đầu quy hoạch và xây dựng thành phố
PS: Cái cầu tàu làm thủ công mà thẳng thớm đẹp ghê
Hoàng tử Vĩnh Thụy (vua Bảo Đại sau này) khoảng 13 tuổi, đứng sau là em họ Nguyễn Phúc Vĩnh Cẩn đang chuẩn bị sang Pháp học, khoảng năm 1926 — cùng với NGUYỄN PHÚC VĨNH CẨN và VUA BẢO ĐẠI.
Từ trái sang phải là 3 hoàng tử em của Vua Thành Thái: Bửu Lũy, Bửu Trang và Bửu Liêm vào năm 1891 — cùng với BỬU LŨY, BỬU TRANG và BỬU LIÊM.
Tàu vào bến cảng Sài gòn năm 1868, vị trí chụp gần với ngã ba Hàm Nghi - Tôn Đức Thắng hiện nay
Bưu điện Saigon năm 1895
Người dân bản xứ Đà Nẵng năm 1859
Một con rạch ở Rạch Giá cuối TK 19
Chiến thuyền Pháp và Tây Ban Nha cập cảng Sài gòn năm 1868
Ông Cao Xuân Dục, Tổng đốc Nam Định trong buổi lễ xướng danh kỳ thi Hương ở Nam Định năm 1897
Ngự lâm quân triều Nguyễn cưỡi voi - khoảng thời vua Khải Định
Notables Un Village Annamite, Saigon, Cochinchine, Vietnam, 1900
Các vị chức sắc trong làng ở Saigon, Nam kỳ, Việt Nam năm 1900
Saigon 1880. Thêm 1 góc chụp Kinh Lớn (kênh Charner - đường Nguyễn Huệ hiện nay), xa xa là nhà thờ Đức Bà lúc chưa có 2 đỉnh nhọn
Ảnh của Emile Gsell
Cửu vị thần công của thời Gia Long đặt trước kinh thành Huế, khoảng năm 1880 - mang tính tượng trưng không dùng để chiến đấu. Tất cả chín khẩu đều được phong "Thần Oai vô địch thượng tướng quân", sang đầu TK 20 thì được đem vào bên trong thành.
Về sau, khi lâm cảnh "nước mất, nhà tan", có một nhà thơ đến viếng Cửu vị thần công và ngẫu tác bốn câu thơ rằng:
"Cũng thì gan sắt, cũng da đồng,
Nằm giữ chi đây hỡi chín ông?
Nước lở, thành long khôn chống đỡ,
Mang danh "Thượng tướng" thẹn thùng không"
Cửa Đông thành Hà Nội 1873 bị quân Pháp của F.Garnier chiếm, lấy súng thần công của cụ Nguyễn Tri Phương cắm xuống đất
Nữ nghệ sĩ đàn tranh Saigon sang Pháp biểu diễn ở Hội chợ thuộc địa Marseille năm 1906
Phà Thủ Thiêm đầu TK 20
Nam kỳ, một lá đơn kiện năm 1897 (Đinh Dậu, cách đây 120 năm), thời đó chắc có người viết đơn mướn vì chữ Quốc ngữ còn ít người được học - chữ đẹp ghê . Viết lại nội dung tờ đơn cho mọi người dễ xem như sau:
................
Thạnh An tổng, Xa man thôn (Sóc Trăng hiện nay)
Dân ban Triều Châu (người Hoa)
Quách Ấu
Bẩm quan lớn đặng (được) hiểu là hồi ngày mồng 2 tháng 2 năm Bính Thân có tên Hỉa Ý (chắc Hải Ý) tên Thiên Bửu tên Phụng Tống ở ngụ làng Xa man có vay của tôi 120 đồng giao mãng (mãn) năm thì trả cho tôi 460 giạ lúa thì trừ hết số bạc ấy có tên Kiêm Đại làm giấy cho tôi mà nay ở bên ấy không chịu trả lúa đó cho fải (phải) nên tôi đến xin quan lớn đòi 3 tên đó tới Tòa dạy nó trả 460 giạ lúa cho hiểu, bằng nó không có trả thì biên mãi gia sãng (sản) nó. Nếu nó không có gia sãng (sản) thì xin quan lớn bỏ tù nó
Nay bẩm,
Ngày 13 tháng 2 năm 1897
Quách Ấu
Cầu Bình Lợi năm 1910 (anh em sinh đôi với cầu Ghềnh - Biên Hòa)
Chợ Bạc Liêu năm 1900
Một góc Nam kỳ năm 1898-1905 - nhà có mái và vách lợp bằng lá dừa nước chằm và .... chiếc xe hơi không biết tỉnh nào
Sân bay Bạch Mai - Hà Nội năm 1924
Những đoạn phim quay đầu tiên tại Việt Nam:
- Ngay sau khi hai anh em người Pháp Lumière sáng chế ra máy quay phim vào năm 1895, thì ngay năm 1896, họ đã sang VN quay 2 đoạn phim ngắn thời lượng chưa đến 1 phút là "Le Village de Namo" (ngôi làng Nam Ô gần Đà Nẵng), chiếu ở Pháp năm 1900
- Đoạn phim thứ 2 là “Indochine: Enfants annamites ramassant des sépèques devant la Pagode des dames" (Đông Dương: Trẻ em An Nam nhặt tiền xu do quý bà ném trước chùa), được quay cùng năm, chiếu năm 1903.
Cảm thương tiền nhân bị xứ văn minh hơn ức hiếp và coi rẻ, nhưng hãy gạt tự ái qua 1 bên vì nó lâu òi, quan trọng là bây giờ ta có làm cho họ khinh nữa hay không mà thô
Một gia đình bá hộ giàu có trong làng ở Bắc kỳ, đầu TK 20, ông ấy gầy gò do hút thuốc phiện
Chở lợn ra chợ bán ở Hà Nội cuối TK 19
Chị em ta cùng nhau đãi gạo thổi cơm, Bắc bộ cuối TK 19
Cấy lúa ở Bắc kỳ cũng y chang như ở Nam kỳ , đầu TK 20, khác ở chỗ hình như có căng dây để cấy cho thẳng
Một lính kỵ binh phụ trách thông tin liên lạc - khoảng thời vua Khải Định
Bắc kỳ, Sở Địa chính Đông Dương, các nhân viên người Việt Nam đang vẽ bản đồ, đầu TK 20
Hai bà cháu hàng quà vặt ở Hà Nội, khoảng năm 1910. Đặc biệt bên dưới có ghi chú bằng chữ Quốc ngữ
Thêm một lá đơn kiện năm 1896 với kiểu chữ quốc ngữ khác
Hội thi chim, đầu TK 20
Hà Nội, những người gánh tre đi bán, đầu TK 20. Trong bộ sưu tập, hình ảnh này và chiếc xe cút kít 1 bánh gỗ rất phổ biến, gần như là hình ảnh đặc trưng của Hà Nội thời đó.
Thẻ công nhân của nhà máy dệt Nam Định, trong khoảng từ 1900 đến 1920
Một gia đình người Hà Nội tiêu biểu với trang phục truyền thống - đầu TK 20
Tây Nam bộ đầu TK 20
Ghi chú bên góc phải: Sampan à 2 rames (Xuồng ba lá 2 chèo)
Sampan là tiếng Pháp phiên âm từ tiếng Hán: Tam bản - 3 miếng - 3 lá
Đường Paul Bert ở Hà Nội đầu TK 20 - phố Tràng Tiền hiện nay
Tòa Thị chính (Hôtel de Ville) thời Pháp khi mới xây xong (1898-1909). Lúc đó tầng hai ngắn không chạy dài theo suốt chiều dài của tòa nhà. Thường gọi dân dã là Dinh Xã Tây, đến thời Mỹ là Tòa Đô Chánh Sài Gòn - xây thêm tầng 2 chạy dài hết chiều dài tòa nhà nhìn bề thế hơn, sau 75 là Trụ sở UBND Thành phố Hồ Chí Minh đến nay.
Hớt tóc và lấy ráy tai dạo ở Hà Nội cuối TK 19, bên phải là 1 cụ lính khố xanh vừa ăn phở xong vừa đi vừa xỉa răng
Nam kỳ - Vĩnh Long năm 1905 - Những người bán trái cây đang chờ ghe tới. Cô bác anh chị em ai ở Vĩnh Long xin xác nhận giùm đây là bến chợ nào, hiện nay còn không, xin cảm ơn ạ
Nam kỳ - một khúc sông khoảng từ 1898 đến 1905 không biết chỗ nào, đang xác thực, hy vọng nó chính là 1 khúc sông Bến Tre
Nghệ sĩ Năm Phỉ hồi thơ ấu (1916) và thời hoàng kim (1936)
Sài Gòn xưa - Chợ Tân Định năm 1940 (xây năm 1926) và hiện nay
Chợ Gò Công khoảng 1910 (xây năm 1898) - Sao có cụ nào mặc áo thun body trắng "mô đen" thế nhỉ ? Chiếc xe đạp đòn dông nhôm Follis trong ảnh giờ còn giữ nguyên bản giá trị chắc cũng 50 triệu hơn
Minh tinh Thẩm Thúy Hằng thời mới vào nghề năm 1957 - 17 tuổi (cô tên thật là Nguyễn Kim Phụng, sinh năm 1940 tại Hải Phòng, biệt danh "Người đẹp Bình Dương" do cô đóng phim đó chứ cô không phải người Bình Dương) - Ảnh chưa cổ nhưng thôi tạm xếp vào album này luôn
Phụ nữ kéo ru lô cán đường ở Hải Phòng 1903.
Tội nghiệp các bà các cô, tại sao nữ lại phải làm công việc nặng nhọc này, có rất nhiều ý kiến đưa ra, có người bảo do nam giới đã bị bắt đi lính hết, do nam giới làm chuyện khác....thực ra là do sự tính toán của những tay cai thầu làm đường người Pháp mà thôi, lương trả cho phụ nữ bao giờ cũng thấp hơn nam giới, nam giới tiền công cao hơn mà lại cứng đầu khó sai bảo hơn - mà sự dẻo dai chịu cực chưa chắc đã hơn - công việc này không cần tốc độ mà chỉ cần bền bỉ
Đường cái quan nối Sài Gòn và Chợ Lớn năm 1900, là đường Nguyễn Trãi hiện nay.
Những thông tin này do người đi trước tìm hiểu theo sử liệu và người đi sau tra cứu theo các bản đồ cổ + thông tin từ nhiều nguồn Việt Nam lẫn nước ngoài một cách nghiêm túc (tham khảo tài liệu của ông Trương Vĩnh Ký). Xin đừng hỏi là "Sao bạn biết?", "Bạn dám chắc không?" "Nếu tôi nói không phải đường Nguyễn Trãi thì sao?" ...... Nếu ai có cứ liệu của tấm ảnh này đáng tin cậy hơn của người đăng thì xin góp ý và bổ sung, người đăng sẽ lĩnh hội và cảm ơn.
1. Chợ Vải (chợ Bến Thành cũ) nằm bên bờ trái Kinh Chợ Vải hay Kinh Lớn (kinh Charner) ảnh chụp năm 1866 (xây năm 1860) - đường trước chợ là đường Rigault de Genouilly, vị trí này nay là kho bạc Nhà nước TpHCM
2. Bờ phải - năm 1870, con đường bên bờ phải là đường Charner, đang thi công phố Charner
3. Lấp kinh - nhập 2 đường 2 bên kinh để làm đại lộ Charner năm 1887 - hướng nhìn ra sông SG, có thểthấy cột buồm và ống khói tàu thủy ngoài sông SG
4. Đại lộ Charner đã xong khoảng 1890, có đường tàu điện - nay là đại lộ Nguyễn Huệ - sau đó đập bỏ Chợ Vải (chợ cũ) để xây Chợ Mới ở vị trí khác (Chợ Bến Thành năm 1912), ảnh chụp hướng nhìn về tòa Thị Chính (UBND TP HCM hiện nay)
Ảnh: Émile Gsell
Tra cứu, diễn giải: Huynh Seldom
Lịch sử Lăng Cha Cả
1. Ông Pigneau de Behaine còn gọi là ông Bá Đa Lộc (phiên âm Hán ngữ từ tên thánh Pedro (Bê đơ lô) hoặc ông Bi Nhu (phiên âm từ Pigneau), một giám mục người Pháp thân tín và được vua Gia Long trọng dụng, khi ông mất ở cửa Thị Nại - Quy Nhơn năm 1799, vua Gia Long tiếc thương đã cho đem thi hài về táng ở khu Vườn Xoài - Tân Sơn Nhứt (dân gọi là Lăng Cha Cả - có nghĩa là Mộ củaông cha (linh mục) lớn nhất) - là giao lộ Hoàng Văn Thụ - Cộng Hòa - Lê Văn Sỹ sau này). Nói thêm rằng tuy quý trọng ông Bá Đa Lộc nhưng vua Gia Long không theo Công giáo.
2. Lăng Cha Cả năm 1866
3. Lăng Cha Cả năm 1867 - có xây thêm nhà nguyện nhỏ phía sau
4. Lăng Cha Cả năm 1890
5. Lăng Cha Cả năm 1960 - có mở rộng ra phía sau là một nghĩa trang Công giáo của quan chức hoặc người có công
6. Lăng Cha Cả năm 1966
7. Lăng Cha Cả hiện nay
Xin xem và cảm nhận lịch sử một cách khách quan - chân thành, đừng comment cực đoan, cảm ơn quý vị . Nhiều ảnh gộp lại nên kích thước bị thu nhỏ, xin xem ảnh chất lượng cao hơn bên dưới ở phần comment.
Bắc kỳ, những người đàn ông đánh bắt cá ngoài sông, năm 1909 (ảnh ghi chú Nam kỳ - Cochinchine là không đúng vì nón thúng và công cụ bắt cá của miền Bắc)
Hà Nội - Bến xe kéo tay (pousse pousse) đầu TK 20
Hiệp biện đại học sĩ - Quan Khâm sai - Chánh sứ Phan Thanh Giản 1863. Hình chụp tại Paris nhân dịp ông dẫn đầu sứ bộ sang Pháp để xin chuộc đất.
Quê ông làng Bảo Thạnh, huyện Bảo An, tỉnh Vĩnh Long, nay là xã Bảo Thạnh, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Đậu cử nhân năm 1825, năm sau đậu tiến sĩ, ông là người đạt học vị cao nhất đầu tiên ở Nam Kỳ. Tính tình cương trực và thanh liêm, Phan Thanh Giản làm quan nhà Nguyễn qua ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức và cũng từng bị giáng chức rồi lên chức nhiều phen....
"....Cho tới những ngày đầu năm 2008, Viện Sử học Việt Nam mới thống nhất kết luận rằng "Phan Thanh Giản là người nổi tiếng về đạo đức, có nhiều đóng góp trong lịch sử dân tộc; nên đề nghị tôn vinh ông, cho khôi phục, tôn tạo những di tích và những gì gắn liền với ông"; và đã được giới có thẩm quyền chấp thuận..."
Bác học Jean-Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký và một lớp học của ông khoảng 1865 (ảnh hiếm)
Ông sinh ngày 6 tháng 12 năm 1837 (tức năm Đinh Dậu, Minh Mạng thứ 17) tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh Thành, tổng Minh Lý, huyện Tân Minh, phủ Hoàng An, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre).
Học vị cao nhất: Giáo sư, Chánh đốc học đường tham biện Hậu bổ
Tài năng về ngôn ngữ xuất chúng, làm việc cho Pháp, từng bị ghép tội bồi bút cho Pháp, nhưng suốt đời ông chỉ mặc áo dài khăn đóng, và để lại cho đời - cho chính người dân An Nam nhiều tác phẩm khảo cứu giá trị, và hiện nay chính quyền cũng đã suy xét trả lại giá trị thực cho con người ông.
Năm nay là tròn 180 năm ngày sinh ông (Đinh Dậu 1837 - Đinh Dậu 2017)
Chợ quê bán rau quả ở miền Bắc và miền Nam đầu TK 20
Saigon - Tòa nhà Palais de Justice (Pháp Đình, tòa Thượng thẩm Saigon) năm 1895 trên đường Charles de Gaulle. Hiện nay là Tòa án nhân dân Tp.HCM nằm trên đường Nam Kỳ khởi nghĩa.
Tôi nhớ hồi 2004, bên Pháp có gửi công văn thông báo về việc quá hạn sử dụng của tòa nhà (quá 100 năm), họ trả toàn bộ hồ sơ thi công + bản vẽ cho VN và tuyên bố nếu tiếp tục sử dụng họ sẽ không chịu trách nhiệm.
Hình vẽ kiểu aerial view 3D của Sài gòn do đại úy hải quân Pháp Favre vẽ năm 1881, chi tiết đến kinh ngạc, ảnh gốc (scan lại từ hình vẽ) có kích thước 10.600 x 7.500 pixels, 300dpi (bằng 1 bức tường 4m x 3m) - dung lượng 35MB, tôi đã phóng to 4 vị trí chính lên cho dễ xem:
1. Bến Nhà Rồng đầu rạch Bến Nghé (lúc đó là Trụ sở công ty Tàu biển của Pháp)
2. Kinh Charner và 3 gian nhà của chợ Vải, lúc này chưa có tòa Thị chính (dinh Xã Tây - UBND TpHCM hiện nay) - kinh này sau bị lấp thành đại lộ Charner - đường Nguyễn Huệ hiện nay
3. Nhà thờ Đức Bà
4. Ụ nổi khổng lồ của Thủy xưởng Arsenal (xưởng Ba Son sau này)
Hình vuông góc phải xa xa chính là thành Gia Định - ngay phía trước của Thảo Cầm Viên hiện nay.
Đoàn sứ bộ An Nam sang Pháp xin chuộc đất (3 tỉnh miền Đông bị Pháp chiếm) năm 1863, Chánh sứ Phan Thanh Giản ngồi giữa, ảnh này bị thiếu một người quan trọng: Thông ngôn Trương Vĩnh Ký. Ảnh: Emile Gsell — cùng với Án sát sứ tỉnh Quảng Nam Ngụy Khắc Đản, Chánh sứ Phan Thanh Giảnvà Tả Thị lang Bộ lễ Phạm Phú Thứ.
Bến nhà rồng 1882 (Công ty vận tải đường biển của Pháp là Messageries Maritimes xây dựng vào năm 1863 dùng làm nơi bán vé tàu và nơi ở cho các quản lý)
Những người đàn ông cu-li kéo ru-lô cán đường (xe lu chạy bằng cơm) ở Sài gòn năm 1896, ở Hải Phòng thì toàn nữ kéo, ảnh snap từ đoạn phim nên hơi mờ
- Tòa nhà của thương gia Wang Tai (王太 - Vương Thái) đang xây năm 1867
- Tòa nhà Wang Tai những năm 1900
- Trụ sở Cục Hải quan Tp. HCM hiện nay
Vũng Tàu, Bạch Dinh năm 1910. Lúc này một phần Vũng Tàu có tên là Cap Saint Jacques (gồm 3 xã Thắng Nhất, Thắng Nhì và Thắng Tam), nghe ông bà xưa kể chuyện thường có nhắc tới "đi Cap", chính là đi Vũng Tàu chơi thời ấy.
Chợ cũ Vũng Tàu (tức Chợ Cap), năm 1909
Bên dưới cái đồng hồ có ghi rõ Marché de Cap
Vũng Tàu (Cap Saint Jacques) - ảnh chụp 1 con đường đầu TK 20. Có một sự thú vị nhỏ: Trong ảnh ghi chú bằng tiếng Pháp: Route de Tivann, chính là đường Thùy Vân ("Tivann" do Pháp phiên âm từ tiếng Việt: Thùy Vân mà tiếng Pháp chữ H bị câm nên chỉ còn lại Tivann ... . Trong một số ảnh khác thì Thùy Vân lại được phiên thành Ti-Ouan
Route du Pont de Binh Loi - Đường qua cầu Bình Lợi (cầu cũ) đầu TK 20, chỉ có thể là Kha Vạn Cân (hiện nay) chứ Nơ Trang Long (hiện nay) khúc qua khỏi cầu nó ngoằn nghoèo lắm không thẳng thớm như vậy - La Jumantarie (hoặc Jumenterie) là chuồng nuôi ngựa giống (bên trái)
Saigon, người dân vui chơi Tết Nguyên đán (Canh Tý) - năm 1900, trên đại lộ Charner (Nguyễn Huệ)
Săn cọp ở Nam kỳ đầu TK 20
Citroen là hãng xe Pháp đầu tiên mở đại lý bán xe ở Saigon, năm 1901. Vị trí này sau đó là Khách sạn REX (xây dựng năm 1927), còn đại lý hãng Citroen dời về khu vực gần Diamond Plaza hiện nay, đổi tên là Saigon xe hơi công ty - bắt đầu cùng với người Việt liên doanh tạo ra loại xe hơi La Dalat - Made in Vietnam, sau đó nữa thì dời về số 37 Lê Thánh Tôn, Q1
Saigon, Chợ Hóc Môn, khoảng 1890 đến 1910
Saigon, Chợ Bến Thành năm 1938, một góc chụp ít thấy
Hà Nội, khách sạn Metropole (là khách sạn 5 sao đầu tiên ở Hà Nội) lúc mới xây xong, năm 1901
Bắc Ninh, các nhà sư của chùa Quang Minh, năm 1897. Ảnh đẹp và rõ như mới chụp hôm qua trong khi đã được chụp cách đây 120 năm.
(Nguyên ngữ caption: Bac Ninh 1897 - Bonzes de la pagode de Quang Minh)
Bờ xe nước ở sông Trà Khúc - Quảng Ngãi, năm 1926 - Hệ thống guồng quay dẫn nước sông vào ruộng làm toàn bằng tre . Người Pháp đã rất ngạc nhiên về công trình này và họ gọi là một nền công nghiệp - đăng trên báo Pháp luôn
Nha Trang - Khánh Hòa năm 1926, những người phụ nữ đang phụ đúc bê tông
Tonkin khoảng năm 1930, Bến tàu Việt Trì - có chiếc tàu chạy bằng hơi nước đẩy bằng guồng
Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ và Vua Gia Long - Nguyễn Ánh, 2 đối thủ không đội trời chung nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam cuối TK 18. Đây là 2 chân dung đã được đánh giá là chân thực nhất về hai ông (được tái hiện từ những tranh vẽ xưa, tiền xưa, do Pháp vẽ, nhà Thanh vẽ)
Vũ khí của quân Xiêm bỏ lại lúc tháo chạy trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút (trên sông Tiền, TP. Mỹ Tho hiện nay), khi bị Nguyễn Huệ đánh cho tan tác vào đêm 19 rạng 20 tháng 1 năm 1785. Cây Kris (dao lưỡi lượn) ở giữa nhìn nổi da gà
Đường từ Vũng Tàu đi Bà Rịa, đầu TK 20 (khoảng 1910)
Cây cổ thụ ở Biên Hòa, khoảng 1900, không biết ở khu vực nào (ảnh tô màu)
Một góc phong cảnh Lái Thiêu, đầu TK 20
Saigon, những người gánh nước thuê, năm 1920
Saigon, gánh bán chè (hoặc cháo, bánh canh) của một gia đình, năm 1920, chắc không phải là phở hoặc hủ tiếu vì không có ống đũa và nồi nước lèo
"Bắt giò" kho lưu trữ postcard của Pháp ghi chú nhầm, cùng ảnh "Người bản địa đánh trống" - khoảng 1920, mà 1 tấm ghi ở Tonkin Bắc kỳ, 1 tấm ghi ở Cochinchine Nam kỳ, theo mọi người thì ảnh này ở miền nào ạ ?
...............
PS: Hai ảnh chụp cùng địa điểm, cách nhau chừng 30' đến 1h, 2 người đánh trống khác nhau (Tuấn Hưng và Ưng Hoàng Phúc )
Nam kỳ, những thợ săn trở về sau chuyến săn cọp, năm 1904
Nam kỳ, những người bán da thú dạo trên đường phố Sài gòn, năm 1928 (số 1952 bên góc dưới trái là số thứ tự của bưu ảnh). Phía xa là nhà thuốc tây đầu tiên của SG, nhà thuốc Solirène, góc Bonard - Catinat (Lê Lợi - Đồng Khởi hiện nay), những người bán da thú đang đi trước mặt Nhà hát lớn SG.
Một cụ bà 82 tuổi, mặc trang phục có thể ở Trung kỳ, ảnh chụp đầu TK 20, cụ có bàn chân Giao Chỉ
Bắc kỳ, một cô gái đi bắt cua, đầu TK 20
Thời này khu vực Tonkin đã khá hơn thời cuối TK19, một số ảnh các cô ở Đồ Sơn cũng vậy, nhìn phốp pháp tròn trịa và khỏe mạnh, dù vẫn còn nghèo nhưng không đói
Nam kỳ, chân dung một nam thiếu niên 15 tuổi điển hình, đầu TK 20
PS: Ngày xưa đen đúa và khắc khổ do lao động nặng không như bây giờ, ảnh các sĩ tử đi thi cũng vậy, khoảng 30 mà nhìn như 50
Saigon 1910, cầu Mống, Pháp ghi chú là "cầu Kha-Nhoi" chắc có nhầm lẫn với "Khánh Hội" chăng ?
Thảo cầm viên Saigon năm 1911, khu vực gần cổng vào
Saigon, cha con người bán cỏ khô (cho bò, ngựa ăn), năm 1904
- Có ai nhìn ra cây cầu trong ảnh là cầu nào không, sao mình có trực giác chính là cầu Bình Lợi, do cấu tạo cầu bằng sắt bắt bu lông và nhìn khung cảnh ngoại ô ..... (các cầu sắt khác đa số là nội đô)
Sông Tam Bạc (Hải Phòng) nhộn nhịp, khoảng 1910
Không ảnh cảng Hải Phòng 1931
Người thiểu số ở làng Bobla, gần thác Bobla - Liên Đầm, Di Linh, Lâm Đồng, năm 1927
Saigon, lính thủy quân Pháp chạy xe gắn máy trên đường Catinat (Đồng Khởi hiện nay) năm 1946, chiếc xe là Harley Davidson 42WLA không yên sau (solo) xuất xưởng năm 1944 (đặc chủng dành cho quân đội, đặc biệt hộp sên nằm bên phải xe). Không biết ngã tư trong ảnh có phải là Catinat - Gia Long (Đồng Khởi - Lý Tự Trọng hiện nay) không
Saigon, một người đánh xe ngựa mặc áo tơi, năm 1930
Bộ ảnh "Việt Nam 1850-1950" còn khoảng 5.500 ảnh nữa (đã post khoảng 150 ảnh)
Bản đồ địa giới kiêm poster giới thiệu bản sắc 3 miền Việt Nam thời Pháp
Tonkin - Bắc kỳ, Annam - Trung kỳ, Cochinchine - Nam kỳ
Được vẽ bằng màu nước, đầu TK 20
VnExpress và một số trang khác đã nhầm lẫn tai hại, ảnh xưa ở trên của Wilbur E. Garrett chụp là ngã tư Thủ Đức, không phải ngã tư Hàng Sanh (Xanh)
PS: Cũng do lúc trước chưa xuất hiện nhiều thông tin đa chiều như hiện nay) và các cụ trên trang Bến Hàm Luông còn nhầm một số ảnh Bến Tre xưa huống chi lớp "copy & paste" sau này.
Saigon, đường Rousseau năm 1911, hiện nay là đường Hùng Vương, khúc này chắc gần ngã 6 hiện nay, vì phía ngoài còn hoang sơ hơn nữa.
Đây là một trong những ảnh cực hiếm không có tại các trang ảnh ở Việt Nam
Nam kỳ, người Việt bản địa chăm sóc cá sấu (trong vườn thú công viên) ở Mỹ Tho, năm 1912
Saigon, đường La Grandière năm 1910 và năm 1922, thời Mỹ là đường Gia Long, sau 1975 là đường Lý Tự Trọng đến nay, hình trên có thể thấy bv Grall tức bv Nhi đồng 2 hiện nay, còn đường chạy ngang ở hình dưới là đường Catinat, thời Mỹ là đường Tự Do, sau 1975 là đường Đồng Khởi đến nay.
Nha Trang, người chèo thuyền trên hồ, đầu TK 20 (không rõ là hồ nào, nhờ ai ở NT góp ý giúp, thank you
Phan Thiết, ngư dân kiểm tra và sửa chữa lưới cá trên bãi biển, đầu TK 20
Phan Thiết, thuyền đánh cá về neo đậu ở cảng, đầu TK 20
Nha Trang, một em bé vui mừng khi bắt được cá nhái lớn (cá xương xanh), đầu TK 20
Nam kỳ, Chợ Lớn - người Hoa đang nhổ lông vịt, khoảng 1920.
Có nơi lại ghi chú là ở Bắc kỳ Tonkin, cũng chưa xác thực được... hic
Bắc kỳ, một chợ bán lợn đầu TK 20, kho lưu trữ Pháp ghi chú ở Nam kỳ Cochinchine là không đúng vì nhìn trang phục và cách trói lợn rõ ràng là ở miền Bắc (miền Nam không trói lợn mà là cột he
Rảnh ghi chú lại 1 cái đơn kiện năm 1897 hôm trước đã post
Tổng Thạnh An (mình gõ nhầm thành "bổng" ) thuộc quận Thạnh Trị, Sóc Trăng hiện nay. Năm Bính Thân trong đơn là năm 1896, chủ nợ viết đơn kiện năm 1897 - lá đơn kiện này cách đây ngót nghét 120 năm !!! giữ nguyên cách hành văn không chấm phẩy chỉ sửa vài chỗ sai chính tả nên đọc hơi mệt tý
Đầu TK 20 đã có câu đố ảo giác (postcard này in khoảng 1920) bạn thấy có bao nhiêu khối lập phương trong ảnh, 6 hay 7 ?
Những em bé Saigon đầu TK 20. Cô bé ẵm em là mẫu nhí, cô còn xuất hiện trong nhiều ảnh khác nữa
(Nguyên ngữ caption: Saigon - Enfants indigènes)
Nam kỳ, đầu TK 20, cụ bà bán bánh đúc, bánh mặn hay bánh hỏi ? (gâteaux de riz: bánh làm từ gạo)
Saigon, đường Nationale cuối TK 19, khoảng 1890, qua TK 20 (năm 1902) đổi tên là đường Paul Blanchy (tên thị trưởng người Pháp đầu tiên của SG), thời Mỹ đến nay là đường Hai Bà Trưng
Saigon, tuyến xe lửa Saigon - Gò Vấp năm 1920 đang chạy dọc theo đường l'Église (đường Nhà thờ) - nay là đường Bùi Hữu Nghĩa bên hông chợ Bà Chiểu. Góc trên trái ra Đất Hộ (Dakao) góc dưới phải ra Lê Quang Định (hiện nay), ảnh chụp từ tháp chuông nhà thờ Gia Định ngay cua quẹo, số 280 Bùi Hữu Nghĩa hiện nay
Tứ đại mỹ nhân Hà thành năm 1930, từ trái qua, trên xuống: cô Phượng Hàng Ngang, cô Síu Cột Cờ, cô Nga Hàng Gai và cô Bính Hàng Đẫy
PS: Thời đó mấy cô như vậy là đẹp lắm rồi, đừng so với bây giờ nhen
Đồ Sơn, những em bé đang bắt cá ở bãi đá, đầu TK 20
Nam kỳ, một con kênh ở ĐB Sông Cửu Long năm 1929, tiếc là chưa xác định được ở tỉnh nào, cô chú, anh chị em ai biết về tấm ảnh xin chú thích thêm giúp ạ, xin cảm ơn
Saigon, những người phụ nữ đang đánh bài, đầu TK 20
Saigon, chuồng voi ở Thảo Cầm Viên, đầu TK 20, hiện nay chuồng voi vẫn nguyên vị trí cũ
Saigon, đường Chasseloup Laubat, đầu TK 20, thời Mỹ là đường Hồng Thập Tự, hiện nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai
Saigon, cầu Sở Thú song song cầu Thị Nghè, đầu TK 20, cảm ơn một số anh em đã bổ sung chỉnh sửa thông tin bên dưới.
Saigon, một góc Sở Thú nhìn ra rạch Thị Nghè, đầu TK 20
Saigon, đường Garcerie thời Pháp đầu TK 20, đến thời Mỹ là đường Duy Tân, sau 75 là đường Phạm Ngọc Thạch (khúc từ Hồ Con Rùa tới Võ Thị Sáu hiện nay, khúc từ nhà thờ Đức Bà tới HCR lại có tên là Blancsubé)
- Đường Duy Tân trong ca từ của nhạc sĩ Phạm Duy :
.....Trả lại em yêu, khung trời Đại Học
Con đường Duy Tân cây dài bóng mát
Buổi chiều khuôn viên mây trời xanh ngát
Vết chân trên đường vẫn chưa phai nhạt .......
Saigon, Đường Blancsubé đầu TK 20, là đường Duy Tân thời Mỹ và đường Phạm Ngọc Thạch hiện nay - khúc từ Hồ Con Rùa tới Nhà thờ Đức Bà (tháp nước xa xa là HCR sau này)
Saigon, tháp nước thời Pháp đầu TK 20, đến thời Mỹ là Hồ Con Rùa - chụp từ tháp chuông nhà thờ Đức Bà
Nam kỳ, những người nông dân ở Tây Ninh, đầu TK 20
Nam kỳ, đầu kéo chạy hơi nước vận chuyển mía ở Tây Ninh, năm 1915, thuộc đồn điền Cam Tiêm của Pháp (vị trí nhà máy này hiện nay ở xã Thanh Điền, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh)
- Saigon, nhà máy điện đầu tiên năm 1896 - ở sau lưng Nhà hát. Sau đó Nhà máy điện Chợ Quán (nhà đèn Chợ Quán) được xây dựng năm 1922, máy phát điện chạy bằng hơi nước với 5 lò hơi. Vị trí nhà máy toạ lạc tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5 hiện nay.
- Trạm điện dọc đường của CEE (Compagnie des Eaux et d’Électricité de Saigon - Công ty Điện nước Sài Gòn, thành lập năm 1900) đến nay vẫn còn thấy trên đường
Hôm trước đã post ảnh sau lưng của một cô gái đi bắt cua ở Miền Bắc đầu TK 20, nay post luôn ảnh trước mặt cho đủ bộ
Nam kỳ, chợ Ô Môn (Cần Thơ) năm 1900 và hiện nay (góc chụp ngược nhau)
Nam kỳ, một con đường làng ở Thủ Đức, năm 1909
Bắc kỳ, 2 cậu bé được giao nhiệm vụ đạp guồng bơm nước vào ruộng (chú thích tiếng Pháp ghi là "tưới lúa"), đầu TK 20
Một trong số rất ít ảnh quý hiếm về tỉnh Bến Tre thời Pháp
Trẻ em hái lá dâu tằm ở Ba Tri, khoảng 1900-1920
Nam kỳ, Bến Tre. Những phụ nữ đang quay tơ dệt vải ở Ba Tri, khoảng 1900-1920
Nam kỳ, một tiệm giặt khô ở Lái Thiêu, đầu TK 20
Nam kỳ, Saigon
Một trong những bệnh viện lâu đời nhất Châu Á - Bệnh viện Quân đội (Hôpital Militaire) thời Pháp năm 1867, tại đây, nhà bác học Albert Calmette cho thành lập Viện Pasteur đầu tiên ở ngoài nước Pháp năm 1891, đến năm 1925 đổi tên thành Bệnh viện Grall, trên đường La Grandière. Từ năm 1978 đến nay là Bệnh viện Nhi đồng 2, số 14 đường Lý Tự Trọng.
Saigon, một cô bé đang giặt đồ, khoảng 1920, cục xà bông vuông trên bàn giặt là xà bông Marseille, lúc này chưa có xà bông cô Ba của ông Trương Văn Bền
Người Sài gòn đang chia tay Thương xá TAX sau 136 năm hiện hữu
Ảnh Thương xá TAX năm 1925 (xây năm 1880, lúc đầu tên là Les Grands Magasins Charner (GMC), qua rất nhiều đời chủ và thay đổi hình dạng.
Hạ thủy tàu Albert Sarraut năm 1921 ở Thủy quân công xưởng Saigon (L’Arsenal de Saigon), sau 75 là Xí nghiệp Liên hợp Ba Son, từ 2014 đến nay là Tổng Công ty Ba Son
Một số cảng ở Đông Nam Á đầu TK 20
Vietnam - Thailand - Singapore - Philippines - Indonesia
Xây dựng đường cống thoát nước ở Sài gòn đầu TK 20
Nam kỳ, Biên Hòa, bà cùng con gái và cháu ngoại đi chợ, 1910
Bắc kỳ, Hải Phòng, những em nhỏ đi bắt cá ở Đồ Sơn, năm 1915
Nam kỳ, Vĩnh Long, chợ An Hữu cặp bờ sông, đầu TK 20 (Vị trí này xưa thuộc Vĩnh Long, hiện nay gần ngã ba An Hữu (An Thái Trung) thuộc huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang)
Nam kỳ, những người đánh xe bò ở miền Đông - có lẽ là Tây Ninh, đầu TK 20
Nam kỳ, đào kinh ở Đồng Tháp Mười bằng xáng múc cơ giới Gr. Picanon, khoảng 1919-1926
Tặng các bạn đồng môn - Bien Hoa École d'Art - Cao đẳng MTTT Đồng Nai - Trường mỹ nghệ tuổi đời hơn thế kỷ
Một số hình ảnh trường lúc ban đầu thành lập - 1903, bồn nước và đài kỷ niệm trước khuôn viên trường — cùng với Hoàng Anh Vũ, Già Làng và Hoa Phuong.
Nam kỳ, 'tỉnh' Biên Hòa đầu TK 20. Viên chức Pháp và vài khách người An nam qua sông Đồng Nai bằng đò năm 1902. Lúc này cầu Ghềnh xây chưa xong (1903 mới xong, 1904 khánh thành). Ngọn núi xa xa là núi Châu Thới, như vậy tấm ảnh này chụp trong khoảng giữa cầu Ghềnh và cầu Bửu Hòa hiện nay. Chiếc đò mũi bằng trong ảnh là tiền thân của phà sau này, những người đội nón lá là phu đò
(Tra cứu và chú thích: HMT)
Ga Đà Lạt năm 1938, năm 1970 và 2015
- Dự án xây dựng tuyến đường sắt từ Tháp Chàm đi Đà Lạt được toàn quyền Paul Doumer phê duyệt từ 1898 và khởi công xây dựng từ năm 1908 đến năm 1922, còn nhà ga được xây dựng từ năm 1932 đến 1938 thì hoàn thành. Công trình do hai kiến trúc sư người Pháp là Moncet và Reveron thiết kế. Người thi công công trình là thầu khoán Võ Đình Dung, với kinh phí xây dựng là 200.000 francs thời ấy.
Nam kỳ, Bạc Liêu đầu TK 20, cầu quay thời Pháp (Pont Tournant) là cầu Kim Sơn hiện nay
Nam kỳ, khu vực bán trái cây ở chợ Trà Ôn, Vĩnh Long, đầu TK 20. Chợ này có kiến trúc cùng motif với các gian chợ Vải trên bờ kinh Charner, Saigon.
Bắc kỳ, một số nghĩa quân Yên Thế bị bắt và xử chém ở Quảng Yên, năm 1905, sau đó 3 năm lại đến vụ Hà thành đầu độc, một số công ty thông tấn của Pháp thời ấy đã cố ý lấy loạt ảnh này sửa ghi chú lại là cảnh xử tử các tử tội trong vụ Hà thành đầu độc 1908 (để bán được 1 lần nữa), một số trang mạng VN mình không tìm hiểu hoặc cẩu thả nên đã lấy nhầm ảnh này để minh họa cho vụ Hà thành đầu độc (loạt ảnh này có 5 tấm chụp ở các góc độ và thời điểm khác nhau tý)
Trung kỳ, thu hoạch muối ở Phan Thiết, đầu thế kỷ 20
Nam kỳ, chợ Tân Phú Đông (chợ Trung tâm Sa Đéc) đầu TK 20, là chợ Thực phẩm thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp hiện nay (được phục dựng lại theo kiến trúc chợ xưa chứ không phải giữ nguyên trạng)
Nam kỳ, Mỹ Tho, đường Galliéni năm 1900 và hiện nay là đường Trưng Trắc, khúc bến phà Tân Long.
Ảnh này đã post hôm trước, tại hôm nay mình đi ngang khu này nên sẵn dịp chụp 1 tấm hiện nay luôn , hai ảnh cùng vị trí cách nhau 117 năm
- Cảnh quan thay đổi đôi chút, dòng sông vẫn vậy, những "cô cậu bé" chơi đùa ngày ấy, giờ nơi đâu, một chút lắng đọng để nghĩ về nhân thế ........ haiiiiiiiiiaaaa
Hà Nội, một cơn bão làm đổ ngã hàng loạt cây xanh quanh Hồ Gươm, ngày 9 tháng 6 năm 1903
Bắc kỳ (Tonkin), xay gạo làm bánh - hình ảnh cuộc sống đời thường điển hình, ảnh chụp khoảng 1920
Trung kỳ, khu vực bán gà thịt ở chợ Đông Ba - Huế, đầu TK 20. Hai chữ Hán góc dưới phải: An Nam
Người Pháp đã lưu giữ và chú thích rõ ràng, vậy mà đăng lại chú thích bậy bạ , không thèm coi sơ qua coi caption gốc người ta viết gì, bảo sao ....
Công trường xây dựng Le Théâtre Municipal de Saigon năm 1896 (Nhà hát thành phố Sài gòn), khánh thành năm 1900
Ảnh chụp cách đây 120 năm mà cứ ngỡ như hôm qua.... chất lượng ảnh và bảo quản tốt đến ngạc nhiên, file ảnh gốc kích thước 4000 x 3000 pixels, 150dpi.
Bắc Ninh, người thợ chạm khắc đồng và ông chủ của anh ta, năm 1897 (Đinh Dậu) - Làng nghề Đại Bái hiện nay. Ảnh: Firmin-André Salles
Một góc sông Hương - Huế năm 1934
Người dân xem đám tang vua Khải Định trên sông Hương - 1925
Tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho là tuyến đường sắt đầu tiên của Việt Nam cũng là tuyến đường sắt đầu tiên của Đông Dương, được xây dựng vào năm 1881, đến 1885 thì xong.
Ảnh: Công nhân xây dựng đường sắt đoạn Tân An đang nghỉ giải lao, khoảng năm 1883
Vua Thành Thái và Toàn quyền Paul Doumer trong một sự kiện ở Hà Nội vào tháng 2 năm 1902
- Trong cuốn hồi ký về Đông Dương, Paul Doumer đã viết về người An Nam : "Điều không thể chối cãi được là những người này hơn hẳn tất cả các dân tộc xung quanh. Người Miên, Lào, Xiêm không chống được họ. Không một dân tộc nào ở đế quốc Ấn Độ có những đức tính của họ, phải tới Nhật mới thấy có một giống người tương đương. Người Việt và người Nhật chắc chắn thủa xưa có bà con với nhau. Cả hai đều thông minh, cần mẫn và can đảm". !!!!!?????
PS: Paul Doumer sau khi "hết nhiệm kỳ" rời Đông Dương về Pháp sau đó thành tổng thống thứ 14 (1931-1932) của Pháp.
Một phố chợ ở Hải Dương năm 1900, sạch sẽ và ngăn nắp ghê .Có thể nhận ra là phố nào hiện nay không các bác, ghi chú tiếng Pháp chỉ ghi ngắn gọn: Tonkin - Hai Duong. Rue Indigène (Đường của người bản địa)...hic
Các quan chức An nam chờ đón vua Khải Định tại cầu tàu cảng Marseille ngày 20-5-1922, để dự hội chợ thuộc địa Marseille (tổ chức ngày 21-6-1922)
PS: Lúc này có bàn ủi con gà rồi mà ta
(Loạt ảnh này tổng cộng khoảng 30 tấm chất lượng cực tốt nhưng các trang thông tấn Pháp chỉ mới công bố vài năm gần đây)
Annam, Huế, một cô gái bán thuốc lá ngay lối vào khu Nhượng địa (khu phố Tây Huế), năm 1910s. Có bán chuối ngự nữa nhen bà con
Nam kỳ, Bạc Liêu, trẻ em thi nhảy bao bố trong dịp Tết Đinh Mùi - 1907
(Cochinchine, Baclieu 1907 - Fêtes du Têt - Concours aux sacs)
(Cochinchina, Baclieu 1907 - Tet Celebrations - Bag jumping Contest)
Nam kỳ, bắc Cần Thơ 1910s
(Cochinchine, Can Tho, Bac et Passerelle du Bac)
Annam, Huế. Thui một con bê để làm tiệc mừng trong lễ hội làng , năm 1910
Thêm ảnh hiếm hoi về Bến Tre thời thuộc Pháp
- La maison commune d'An-Hôi - Nhà Hội đồng xã An Hội năm 1920 (chức năng hành chính tương tự như UBND xã, phường hiện nay, lúc này Thành phố Bến Tre hiện nay còn là xã An Hội của quận Châu Thành - đến thời Mỹ đổi tên thành quận Trúc Giang (tỉnh lị) của tỉnh Kiến Hòa).
Vị trí Nhà Hội đồng này quay lưng về phía đình An Hội, đâu mặt vào chợ Bến Tre tức nằm ngay trên bồn phun nước trong công viên nhỏ trước chợ Phường 2 hiện nay
Mấy hôm nay vòng quanh thế giới, nay mình trở về nhà một chút
VIỆT NAM. Sĩ tử đi vào trường thi Nam Định (có nơi ghi Hà Nam), khoa thi Nhâm Tý - 1912.
- Ảnh dưới là quang cảnh trường thi Nam Định với các lều chõng ngăn nắp trật tự, giữa có chòi canh. Khoa thi này có bão lụt lớn giá lạnh - có sĩ tử chết cóng trong khi thi, tay còn nắm chặt quản bút, thật thương tâm
Nam kỳ, chợ Cần Thơ năm 1925
PS: Sau lưng có Nhà Hội đồng đâu mặt vào y chang như chợ Bến Tre xưa Quy hoạch và kiến trúc Cochinchine thời đó hình như chung 1 motif
Nhân vật đặc biệt nhưng ít thông tin nói về bà
Con gái út của Hoàng Hoa Thám - bà Hoàng Thị Thế (1901-1988) sau này đã trở thành một nữ diễn viên điện ảnh nổi tiếng tại Pháp
1. Cụ Đề Thám chụp ảnh cùng con gái út khoảng năm 1903
2. Bà Hoàng Thị Thế cùng mẹ (bà Đặng Thị Nhu) khi bị Pháp bắt ở đồn Chợ Gồ năm 1909
3. Ảnh chụp lúc bà 13 tuổi, được nhà tư sản Nguyễn Hữu Thu ở Hải Phòng nhận chăm sóc, năm 1914
4. Bà Hoàng Thị Thế lúc trên đỉnh cao sự nghiệp, năm 1938, bà cũng là diễn viên điện ảnh người Việt Nam đầu tiên.
Nam kỳ. Những người nông dân nghỉ xả hơi sau khi đập lúa, ảnh chụp trong khoảng 1900s. Hình ảnh này đến những năm 1980s vẫn còn nhưng cái bồ lúa đã cải tiến đóng bằng gỗ, bên trên dừng bằng phên tre hoặc lá xé (hồi nhỏ chơi năm mười thường trốn vào đây)
Nguồn: Facebook
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét