Lời giới thiệu từ người dịch
Tề Thái Công thế gia, Sử ký quyển 32
Thái Công Vọng Lữ Thượng[1], là người từ vùng duyên hải miền đông[2]. Tổ tiên ông từng làm Tứ Nhạc, giúp Vũ bình thủy thổ rất có công. Vào dịp Hạ nối ngôi Ngu, tổ tiên ông được phong ở đất Lữ[3], còn có người được phong ở đất Thân[4], được ban Khương tính[5]. Vào đời Hạ và Thương, Thân và Lữ sinh sôi lắm con cháu chi thứ, nhiều người trở thành thường dân, Thượng là hậu duệ của họ. Dòng gốc của ông họ Khương, vì lấy đất phong làm chi họ, nên còn được gọi là Lữ Thượng[6].
Lữ Thượng từng rơi vào cảnh cùng khốn[7], tuổi cũng đã cao[8], mượn việc câu cá để diện kiến Châu Tây Bá. Tây Bá sắp đi săn, xem bói, được quẻ “Bắt được phi long, phi ly[9], phi hổ, phi bi[10], tìm được hàng phụ bật cho Bá Vương.” Thế rồi Châu Tây Bá lên đường đi săn, cuối cùng gặp Thái Công nơi bờ bắc sông Vị, chuyện trò với ông ta rồi cả mừng, nói: “Tiên quânThái Công[11] nhà ta từng nói: ‘Nếu được thánh nhân đến Châu, Châu sẽ hưng.’ Ông có phải chính là người ấy? Thái Công nhà ta mong đợi ông đã lâu lắm!” Nên gọi ông là “Thái CôngVọng”, chở theo cùng về, tôn làm thầy.
Còn có thuyết nói, Thái Công là người uyên bác, từng thờ Trụ. Trụ vô đạo, nên ông rời bỏ Trụ. Đi du thuyết khắp chư hầu, chẳng gặp vị vua nào vừa ý, cuối cùng đến tây thổ theo Châu Tây Bá. Thuyết khác lại nói: Lữ Thượng là xử sĩ, ở ẩn bên bờ biển. Khi Châu Tây Bá bị bắt giữ ở Dũ lý, Tán Nghi Sinh và Hoành Yêu vốn biết tiếng nên cho mời Lữ Thượng. Lữ Thượng cũng nói: “Ta nghe Tây Bá hiền năng, lại biết phụng dưỡng người cao tuổi, thích đáng để theo.” Để giúp Tây Bá, ba người tìm gái đẹp vật lạ hiến cho Trụ để chuộc Tây Bá về. Tây Bá nhờ đó mới được thoát về nước. Các câu chuyện kể lại căn nguyên Lữ Thượng đến với nhà Châu thế nào tuy khác nhau, nhưng cùng điểm cốt yếu: ông là bậc thầy chỉ dạy Văn Vương và Võ Vương.
Châu Tây Bá Xương thoát được khỏi Dũ lý trở về, trù mưu với Lữ Thượng, tạo tu công đức để lật đổ quyền chính nhà Thương; Lữ Thượng đa phần lo về binh cơ và hiến nhiều kế lạ, nên hậu thế khi nói đến binh cơ cũng như quyền chước ngầm của Châu đều quy cho Thái Côngđề ra. Nền chính trị của Châu Tây Bá thế rồi bình ổn. Đến khi Tây Bá xử đoán tranh tụng giữa hai nước Ngu và Nhuế, được thì nhân xưng tụng là đã được trời trao mệnh làm Văn Vương. Châu sau đó chinh phạt các nước Sùng, Mật tu[12], Khuyển di, và xây cất ấp Phong rất đồ sộ. Thiên hạ có ba phần, đến hai đã theo Châu. Những sự kiện ấy phần nhiều nhờ vào mưu kế của Thái Công.
Văn Vương mất, Võ Vương tức vị. Năm thứ 9, muốn tu bồi cơ nghiệp Văn Vương, Võ Vươngbèn đông phạt để nghiệm thử xem chư hầu đã chịu tụ họp hay chưa. Khi quân đội lên đường, Sư Thượng phụ[13] tay trái nắm hoàng việt, tay phải cầm bạch mao truyền rằng: “Thương hủy, Thương hủy[14]; tổng đốc quân binh, giao ngươi tàu thuyền, ai trễ sẽ chém!” Sau đó tiến đến bến Mạnh tân. Chư hầu lỗi hẹn có đến 800 nước, nhưng số chư hầu còn lại ai cũng nói: “Trụ đánh được.” Nhưng Võ Vương nói: “Chưa được.” Và lui quân. Tại Mạnh tân, Võ Vương cùng Thái Công lập lời Thái thệ[15].
Được hai năm, Trụ giết vương tử Tỷ Can, bỏ tù Cơ Tử. Võ Vương muốn đánh Trụ, trước hết bói rùa để hay tốt xấu, được quẻ không tốt là ‘phong vũ bạo chí’. Mọi người ai cũng sợ hãi, riêng Thái Công lại càng ráng thuyết phục Võ Vương xuất quân, Võ Vương rồi bèn lên đường. Năm thứ 11[16], tháng giêng ngày giáp tí, Võ Vương tuyên cáo lời thề ở Mục dã, rồi đánh Thương Trụ. Quân của Trụ thua vỡ. Trụ quay đầu chạy, trốn lên Lộc đài, Võ Vương đuổi theo chém Trụ. Hôm sau, Võ Vương đứng làm lễ nơi đền Xã[17], thêm có mấy người em bưng nước sạch[18], Vệ Khang Thúc Phong trải chiếu mầu, Sư Thượng phụ dắt tế sinh[19], Sử Dật ôm sách khấn, tuyên báo với quỷ thần tội ác của Trụ đã được trừng trị. Sau đó chia tiền ở Lộc đài, phát thóc ở Cự kiều để cứu dân nghèo. Võ Vương còn truy phong mộ Tỷ Can, thả Cơ Tử khỏi tù; chuyển dời 9 đỉnh, tu chỉnh triều đình nhà Châu, cùng thiên hạ chuyển sang thời đại mới. Những việc này có Sư Thượng phụ góp bàn rất nhiều.
Sau khi Võ Vương nhờ bình định nhà Thương làm vương của cả thiên hạ, phong Sư Thượng phụ tại Doanh khâu[20], đất Tề. Lữ Thượng lên đường đến phương đông nhậm quốc, thong thả vừa đi vừa nghỉ. Có người ở quán trọ nói: “Tôi nghe nói thời cơ khó được mà dễ mất. Ông khách ngủ rất yên giấc, chắc sẽ chẳng đến nước kịp.” Thái Công nghe thấy, đang đêm liền khoác áo mà đi, rạng sáng thì đến nước. Lai Hầu kéo quân đến giành, tranh Doanh khâu. Doanh khâu giáp biên với Lai. Người Lai là tộc Di, vì vừa có loạn vua Trụ mà nhà Châu lại chỉ mới lên, chưa vỗ yên nơi viễn phương, nên họ đến tranh đất với Thái Công.
Thái Công đến phong quốc, tu chỉnh chế độ, nương theo phong tục bản xứ, chiết giản lễ nghi, mở mang thông thương buôn bán, thu hoạch lợi nhuận từ nguồn cá và muối, dân chúng vùng ấy nhiều người theo Tề, Tề thế là trở thành nước lớn. Vào khi Châu Thành Vương còn bé, Quản, Thái nổi loạn, người Hoài di[21] phản Châu, Thành Vương bèn phái Thiệu Khang Công đến truyền lệnh cho Thái Công rằng: “Phía đông đến biển, phía tây đến sông Hà, phía nam đến Mục lăng, phía bắc đến Vô đệ, gồm năm Hầu chín Bá, ông được tự quyền phạt tội[22].” Tề từ đó được quyền chinh phạt, làm nước lớn. Đóng đô ở Doanh khâu.
Thái Công chết độ khi đã hơn trăm tuổi[23], con là Đinh Công Lữ Cấp lên ngôi. Đinh Côngchết, con là Ất Công Đắc lên ngôi. Ất Công chết, con là Quý Công Từ Mẫu[24] lên ngôi. Quý Công chết, con là Ai Công Bất Thần lên ngôi.
Vào đời Ai Công, bị Kỷ Hầu gièm pha với nhà Châu, vua Châu luộc Ai Công[25], và lập em Ai Công là Tĩnh lên ngôi, tức Hồ Công[26]. Hồ Công dời đô đến Bạc cô[27], nhằm vào đời Châu Di Vương.
Em cùng mẹ của Ai Công là Sơn oán Hồ Công, bèn cùng bè đảng thống lĩnh người Doanh khâu đánh úp giết chết Hồ Công[28] rồi tự lên ngôi, tức Hiến Công[29]. Hiến Công năm thứ nhất, cho trục xuất hết con cái của Hồ Công, nhân đấy dời đô khỏi Bạc cô, cai trị từ Lâm truy.
Năm thứ 9, Hiến Công chết, con là Võ Công Thọ lên ngôi. Võ Công năm thứ 9, Châu Lệ Vươngchạy khỏi kinh đô, lưu vong ở đất Trệ. Năm thứ 10, vương thất có loạn, đại thần nắm triều chính, gọi là Cộng hòa[30]. Năm thứ 24, Châu Tuyên Vương lên ngôi.
Năm thứ 26, Võ Công chết, con là Lệ Công[31] Vô Kỵ lên ngôi. Lệ Công bạo ngược, con của cố Hồ Công trở về Tề, được người Tề muốn tôn làm vua, bèn cùng nhau giết Lệ Công. Nhưng người con của Hồ Công cũng chết trận. Người Tề bèn lập con của Lệ Công là Xích lên ngôi, tức Văn Công; và Văn Công cho truy giết đám người đã giết Lệ Công gồm 70 mạng.
Văn Công ở ngôi được 20 năm thì chết, con là Thành Công[32] Thoát lên ngôi. Thành Côngđược 9 năm thì chết, con là Trang Công[33] Cấu lên ngôi.
Trang Công năm thứ 24, Khuyển Nhung giết U Vương, Châu dời đô đến đất Lạc. Tần bắt đầu được liệt vào hàng chư hầu. Năm thứ 56, Tấn giết vua là Chiêu Hầu.
Năm thứ 64, Trang Công chết, con là Hi Công[34] Lộc Phủ lên ngôi.
Hi Công năm thứ 9, Lỗ Ẩn Công lên ngôi. Năm thứ 19, Lỗ Hoàn Công giết anh là Ẩn Công và tự lập làm vua.
Năm thứ 25, Bắc Nhung đánh Tề. Trịnh phái Thái tử Hốt đến cứu Tề, Tề muốn gả con gái cho ông ta làm vợ. Hốt nói: “Trịnh nhỏ Tề lớn, chẳng cùng một hàng với ta.” Bèn từ chối.
Năm thứ 32, em cùng mẹ của Hi Công là Di Trọng Niên chết. Con người ấy là Công tôn Vô Tri được Hi Công yêu thương, truyền lệnh cho được cung dưỡng, ăn mặc vượt trật, ngang hàng với Thái tử.
Năm thứ 33, Hi Công chết, Thái tử Chư Nhi lên ngôi, tức Tương Công[35].
Tương Công năm thứ nhất, vì khi còn là Thái tử, Tương Công từng có chuyện tranh chấp với Vô Tri. Đến khi lên ngôi, bèn truất phục trật của Vô Tri, nên bị Vô Tri oán.
Năm thứ 4, Lỗ Hoàn Công cùng Phu nhân đến Tề. Tề Tương Công vốn từng tư thông với Lỗ Phu nhân. Mà Lỗ Phu nhân lại là em gái của Tương Công[36], từ thời Hi Công đã được gả cho Lỗ Hoàn Công làm vợ, nhân khi Hoàn Công đến Tề, lại cùng Tương Công tư thông. Lỗ Hoàn Công hay biết, nổi giận với Phu nhân, Phu nhân báo lại với Tề Tương Công. Tề Tương Côngthết rượu vua Lỗ, chuốc uống cho say, rồi sai lực sĩ Bành Sinh xốc nách đưa vua Lỗ lên xe quay về, nhân dịp xiết chết Lỗ Hoàn Công. Hoàn Công đến khi được dìu xuống xe thì đã qua đời, Lỗ trách tội Tề. Tề bèn giết Bành Sinh để tạ lỗi với Lỗ.
Năm thứ 8, Tề đánh Kỷ, Kỷ dời đô ấp, bỏ nơi cũ[37].
Năm thứ 12, trước đấy, Tương Công vốn phái Liên Xưng và Quản Chí Phụ đi đồn trú ở Quỳ khâu, hẹn đến mùa dưa chín[38] thì được thay thế, mùa tới nữa thì quay lại. Đến đóng ở đấy một năm, rốt cuộc đã quá mùa dưa mà Tương Công không cho người đến thay. Có người giúp họ xin Tương Công điều người khác đến thay, Tương Công không nghe. Hai người vì thế tức giận, nên nương vào Công tôn Vô Tri mưu đồ dấy loạn. Liên Xưng có người em gái họ được Tương Công cho nhập cung, nhưng không được sủng ái, Xưng bèn sai cô ta dò thám Tương Công giúp mình và hứa: “Khi nào đại sự thành công sẽ lập làm Phu nhân của Vô Tri.”Mùa đông tháng 12, Tương Công đến chơi Cô phần, rồi đi săn tại Bái khâu[39]. Gặp con heo rừng, người hầu la lên: “Bành Sinh!” Tương Công nổi giận toan bắn, con heo rừng chồm lên ré. Tương Công giật nảy mình, rơi khỏi xe, bị thương ở chân, rơi mất chiếc giầy. Đến khi quay về trị tội, đánh người trông nom giầy dép tên Phất 300 roi. Khi Tương Công vẫn còn ở trong cung, bọn Vô Tri, Liên Xưng, Quản Chí Phụ được tin Tương Công bị thương, bèn dẫn thuộc hạ sắp đánh úp cung điện. Trên đường gặp Phất, Phất nói: “Khoan hãy vào ngay. Nếu vào ngay sẽ làm cả cung điện kinh động. Cung điện mà kinh động thì sẽ chẳng dễ mà vào.” Vô Tri chưa tin, Phất bèn vạch áo cho xem vết thương, lúc ấy mới tin. Họ bèn đợi ở bên ngoài cung, sai Phất vào trước. Phất vào, liền giấu Tương Công nơi khoan cửa ngách. Lâu sau, bọn Vô Tri đợi lâu bồn chồn, bèn kéo vào cung. Phất cùng các sủng thần nội cung của Tương Công đánh bọn Vô Tri, nhưng không thắng, bị giết cả. Vô Tri vào cung, lùng tìm Tương Công mà không ra. Có người nhìn thấy dáng chân người ở khoan cửa ngách, mở ra khám xét, thì lòi ra Tương Công, bèn giết chết, và Vô Tri tự lập làm vua Tề.
Hoàn Công năm thứ nhất mùa xuân, Tề Quân Vô Tri đến chơi Ung lâm[40]. Có người ở Ung lâm từng có hiềm oán với Vô Tri, nhân dịp Vô Tri đến đấy, bèn tập kích giết Vô Tri, và thông cáo với các Đại phu nước Tề rằng: “Vô Tri giết Tương Công tự lập làm vua, thần đã cẩn mệnh giết hắn. Các Đại phu hãy chọn Công tử nào đáng lập đưa lên ngôi, thần xin tuân mệnh.”
Trước đấy, Tương Công chuốc rượu giết Lỗ Hoàn Công, tư thông với Phu nhân nước Lỗ, chém giết một số không đồng lõa với mình, gian dâm với vợ họ, nhiều lần lừa gạt đại thần, vì thế mấy người em sợ họa dấy thân. Người em kế của Tương Công là Củ trốn sang Lỗ, vì mẹ Củ người Lỗ, có Quản Trọng, Thiệu Hốt phù tá. Người em kế nữa là Tiểu Bạch chạy đến Cử, có Bảo Thúc phù tá. Mẹ của Tiểu Bạch mà con gái nước Vệ, được Hi Công sủng ái. Tiểu Bạch từ trẻ thân thiện với Đại phu Cao Hề[41]. Đến khi người Ung lâm giết Vô Tri, các Đại phu nghị bàn lập vua mới, Cao và Quốc từ trước đã ngầm cho triệu mời Tiểu Bạch ở Cử. Lỗ được tin Vô Tri đã chết, cũng cất quân đưa Công tử Củ về nước, và phái Quản Trọng dẫn riêng một cánh quân chặn đường về từ Cử, bắn Tiểu Bạch trúng vào khóa thắt lưng. Tiểu Bạch vờ chết, Quản Trọng phái người phi báo với Lỗ. Lỗ thong thả đưa Củ về nước, mất 6 ngày mới đến Tề, thì Tiểu Bạch đã về đến kinh đô, được Cao Hề tôn lên ngôi, tức Hoàn Công[42].
Hoàn Công sau khi bị tên bắn vào khóa thắt lưng, đã vờ chết để lừa Quản Trọng, ngồi trong xe kín mui[43] phóng về nước, nhờ được Cao, Quốc làm nội ứng, nên đến trước được lập lên ngôi, rồi liền điều quân chống Lỗ. Mùa thu, giao chiến với Lỗ tại Kiền thì, quân Lỗ thua chạy, quân Tề chặn đường rút của quân Lỗ. Tề gởi thư cho Lỗ lời rằng: “Tử Củ là anh em máu mủ, không nỡ tự tay giết, xin Lỗ hay tự giết đi. Còn Thiệu Hốt và Quản Trọng là kẻ thù, xin được chuyển giao để băm ra cho thỏa lòng căm. Bằng không, sẽ đánh Lỗ.” Người Lỗ lo sợ, bèn giết Tử Củ tại Sanh độc. Thiệu Hốt tự sát, còn Quản Trọng xin làm tù nhân[44]. Hoàn Công khi mới lên ngôi và rồi cất quân đánh Lỗ, trong bụng vốn muốn giết Quản Trọng. Bảo Thúc Nha nói: “Thần may mắn được theo nhà vua, nhà vua thế rồi đã lên ngôi. Sự tôn quý của nhà vua thần chẳng làm được gì để hơn. Nhà vua nếu chỉ muốn cai trị nước Tề, thì Cao Hề với Thúc Nha đã đủ. Còn nhà vua nếu muốn dựng nên nghiệp Bá, Vương, thì thiếu Quản Di Ngô e sẽ chẳng xong. Di Ngô ở nước nào nước ấy được xem trọng , chẳng thể để mất.” Hoàn Công bèn nghe lời. Thế rồi cho người đến Lỗ đòi bằng được Quản Trọng, tiếng để báo thù cho thỏa lòng, nhưng sự thật là để bổ dụng. Quản Trọng vẫn biết, nên xin được chuyển giao về Tề. Bảo Thúc Nha đi đón, nhận lấy Quản Trọng, đến Đường phụ thì tháo bỏ gông cùm. Quản Trọngtrai giới rồi ra mắt Hoàn Công. Được Hoàn Công tiếp đãi bằng hậu lễ, bổ làm Đại phu, cho nắm quyền chính.
Hoàn Công có được Quản Trọng, cho Quản Trọng cùng Bảo Thúc, Thấp Bằng, Cao Hề tu chỉnh quốc chính nước Tề, cải cách quân sự lập ra quân Ngũ gia[45], đặt phép Khinh trọng để tăng cường lợi tức từ nguồn cá và muối[46], chẩn cấp kẻ bần cùng, phân phát bổng lộc cho người hiền năng, người Tề ai cũng vui mừng.
Năm thứ 2, Tề đánh diệt nước Đàm, Đàm Tử chạy đến Cử. Nguyên lai, trước đây khi Hoàn Công bỏ nước lưu vong, có đi ngang Đàm, bị Đàm đối xử vô lễ, nên nay đến đánh.
Năm thứ 5, Tề đánh Lỗ, tướng Lỗ thua trận. Lỗ Trang Công xin hiến Toại ấp giảng hòa, Hoàn Công chấp thuận. Tề bèn họp với Lỗ ở đất Kha để ăn thề. Lỗ sắp tuyên thệ, Tào Mạt cầm chủy thủ uy hiếp Hoàn Công ngay ở trên đàn, nói: “Hãy trả lại Lỗ đất đai đã chiếm!” Hoàn Côngchấp thuận, Tào Mạt bèn vứt chủy thủ, bước về hàng ngũ bề tôi hướng mặt lên phía bắc. Hoàn Công sau đó đổi ý, muốn nuốt lời và giết Tào Mạt. Quản Trọng nói: “Nuốt lời và giết kẻ ép buộc mình phải ra lời hứa chỉ là cái sướng nhỏ, nhưng đánh mất chữ tín với chư hầu, thiệt mất sự ủng hộ của thiên hạ. Không được!” Tề thế rồi giao trả Lỗ những đất đai chiếm từ ba lần đánh bại Tào Mạt. Chư hầu nghe thấy, ai cũng đặt lòng tin vào Tề và muốn nương tựa Tề. Năm thứ 7, chư hầu hội nghị với Hoàn Công ở đất Chân. Hoàn Công từ đó bắt đầu làm Bá.
Năm thứ 14, con trai của Trần Lệ Công là Hoàn, hiệu là Kính Trọng, chạy sang Tề. Tề Hoàn Công muốn dùng làm Khanh, Hoàn nhún nhường không nhận; thế rồi bổ Hoàn làm Công chính[47]. Đấy là ông tổ của Điền Thành Tử Thường[48].
Năm thứ 23, Sơn Nhung[49] đánh Yên, Yên cấp báo với Tề. Tề Hoàn Công cứu Yên, bèn đánh Sơn Nhung, tiến quân đến Cô trúc mới quay về. Yên Trang Công bèn đưa Hoàn Công về Tề. Hoàn Công nói: “Nếu không phải là Thiên tử, chư hầu tiễn đưa không đưa khỏi biên cảnh, ta không thể vô lễ với Yên.” Sau đó đào cái hào đánh dấu nơi vua Yên đã đến, để cắt phần đất ấy tặng Yên, truyền mệnh sai vua Yên phục hồi nền chính trị của Thiệu Công, nạp cống cho nhà Châu, như vào thời Thành Vương, Khang Vương. Chư hầu nghe thấy, ai cũng theo Tề.
Năm thứ 27, Lỗ Mẫn Công có mẹ là bà Ai Khương, vốn là em gái của Hoàn Công. Ai Khương tư tình với công tử nước Lỗ là Khánh Phụ, Khánh Phụ giết Mẫn Công, Ai Khương muốn lập Khánh Phụ làm vua, người Lỗ lập người khác là Hi Công. Hoàn Công triệu Ai Khương về Tề rồi giết đi.
Năm thứ 28, Vệ Văn Công có loạn do người Địch gây ra, cấp báo với Tề. Tề dẫn chư hầu đắp thành ở Sở khâu và sắp đặt vua Vệ ở đó.
Năm thứ 29, Hoàn Công cùng Phu nhân là Thái Cơ dạo chơi trên thuyền. Thái Cơ quen sông nước, lắc thuyền trêu Hoàn Công; Hoàn Công sợ, bảo thôi mà không nghe; Hoàn Công rồi nổi giận, bèn bước khỏi thuyền, đưa trả Thái Cơ về nước, nhưng vẫn chưa tuyệt hôn. Thái cũng tức giận, đem Thái Cơ gả cho người khác. Hoàn Công hay tin nổi giận, cất quân đến đánh.
Năm thứ 30, mùa xuân, Tề Hoàn Công dẫn chư hầu đánh Thái, Thái vỡ chạy. Sau đó bèn đánh Sở. Sở Thành Vương cất quân kéo đến, hỏi rằng: “Cớ gì mà đến đất của ta?” Quản Trọngđáp: “Ngày xưa Thiệu Khang Công truyền mệnh cho Tiên quân Thái Công nhà ta rằng: ‘Ngũ Hầu Cửu Bá, ngươi được tự quyền đánh dẹp phù trợ nhà Châu.’ Còn tặng Tiên quân nhà ta đôi giầy, hàm ý được tự quyền chinh phạt: phía đông đến biển, phía tây đến sông Hà, phía nam đến Mục lăng, phía bắc đến Vô đệ. Cống phẩm nước Sở là cỏ mao lâu nay chẳng ai đưa đến, nên việc cúng tế của vương thất không được hoàn thiện, thế nên mới đến đây khiển trách. Còn thêm việc Chiêu Vương nam chinh không về, nên đến đây hỏi tội.[50]” Sở Vươngnói: “Việc cống phẩm không tiến dâng quả là có, và đấy là tội của Quả nhân, nào còn dám không cống nạp! Còn việc Chiêu Vương đi mà không về, ông hãy đến mà hỏi bến sông.” Quân Tề tiến đến đất Hình. Mùa hạ, Sở Vương phái Khuất Hoàn cầm quân ngăn quân Tề, quân Tề lui về đóng ở Thiệu lăng. Hoàn Công khoe với Khuất Hoàn quân mình đông. Khuất Hoàn nói: “Ngài nếu vận dụng đạo lý họa ra còn may; bằng không, Sở dùng Phương thành làm thành, lấy Giang, Hán làm hào, ngài còn cách nào tiến đi đâu?” Hoàn Công bèn cùng Khuất Hoàn giao thề[51] rồi rút quân. Đi ngang Trần, Viên Đào Đồ của Trần lừa Tề, khiến quân Tề đi khỏi miền đông[52], nhưng rồi bị khám phá. Mùa thu, Tề đánh Trần. Năm ấy, Tấn giết Thái tửThân Sinh.
Năm thứ 35, mùa hạ, Tề họp chư hầu ở Quỳ khâu. Châu Tương Vương sai Tể khổng đem biếu Hoàn Công thịt cúng Văn Vương và Võ Vương, cung tên bằng đồng, xe Đại lộ, truyền mệnh không phải quỳ lạy khi nhận vật thưởng. Hoàn Công muốn làm theo, Quản Trọng nói: “Không được.” Hoàn Công bèn xuống bệ bái nhận. Mùa thu, Hoàn Công lại họp chư hầu ở Quỳ khâu, mặt lộ sắc kiêu. Nhà Châu phái Tể khổng đến dự. Chư hầu có vài nước đã manh tâm trở lưng[53]. Tấn Hầu bệnh, đi trễ, trên đường gặp Tể khổng. Tể khổng nói: “Tề Hầu kiêu lắm, đừng đến.” Tấn Hầu nghe lời. Năm ấy, Tấn Hiến Công chết, Lý Khắc giết Hề Tề và Trác Tử, Tần Mục Công vì tình Phu nhân đưa Công tử Di Ngô về nước làm vua Tấn. Hoàn Công lúc ấy cũng đến Tấn trừ loạn, tiến quân đến Cao lương, sai Thấp Bằng giúp lập vua Tấn rồi rút quân về.
Lúc bấy giờ nhà Châu suy vi, chỉ có Tề, Sở, Tần, Tấn là mạnh. Tấn có tham gia minh hội từ đầu, nhưng đến khi Hiến Công chết, nước nhiều nội loạn. Tần Mục Công ở nơi xa xôi cách trở, nên không hội thề với các nước ở Trung thổ. Còn Sở Thành Vương bắt đầu thâu gồm người Man, chiếm hữu đất Kinh, tự đặt mình là nước Di, Địch. Riêng mỗi Tề lập hội nghị ăn thề với các nước ở Trung thổ, thêm Hoàn Công khéo tuyên rao đạo đức, nên được chư hầu đến tham gia. Thế rồi Hoàn Công xướng lên rằng: “Quả nhân phía nam đánh đến Thiệu lăng, làm lễ vọng ở Hùng sơn; phía bắc đánh Sơn Nhung, Linh chi, Cô trúc; phía tây đánh Đại Hạ, vượt Lưu sa, thúc ngựa gióng xe lên núi Thái hàng, tới núi Bích nhĩ mới quay về. Chư hầu chẳng ai đối cự Quả nhân. Quả nhân tập họp binh xa ba lần[54], ngồi xe dự hội nghị sáu lần[55], tổng cộng chín lần họp chư hầu, một lần khuông định thiên hạ[56]. Ngày xưa Tam đại nhận mệnh trời, có khác gì với thế? Ta muốn làm lễ phong ở Thái sơn, lễ thiện ở Lương phụ.” Quản Trọng cố can mà Hoàn Công không nghe, bèn nói với Hoàn Công rằng phải có những vật kỳ khôi và trân bảo từ phương xa đưa đến mới được làm lễ phong, Hoàn Công mới thôi.
Năm thứ 38, em của Châu Tương Vương là Đái hợp mưu với người Nhung, Địch đánh Châu, Tề phái Quản Trọng đến Châu đánh dẹp quân Nhung. Vua Châu muốn dùng lễ Thượng khanhtiếp đãi Quản Trọng, Quản Trọng khấu đầu nói: “Thần là bồi thần[57], sao dám nhận!”Nhường nhịn ba lần, mới chịu theo lễ Hạ khanh ra mắt Thiên tử. Năm thứ 39, em Châu Tương Vương là Đái chạy đến Tề. Tề phái Trọng Tôn xin Tương Vương tha tội cho Đái. Tương Vươngnổi giận, không nghe.
Năm thứ 44, Tần Mục Công bắt sống Tấn Huệ Công rồi quay về Tần. Cũng năm ấy, Quản Trọng và Thấp Bằng đều chết[58]. Khi Quản Trọng bệnh, Hoàn Công đến hỏi rằng: “Trong các quần thần, ai đáng làm Tướng quốc?” Quản Trọng nói: “Biết tôi không ai bằng chủ[59].” Hoàn Công hỏi: “Dịch Nha[60] thế nào?” Đáp rằng: “Giết cả con hòng mua lòng nhà vua, trái với nhân tình, không được.”[61] Hoàn Công hỏi: “Khai Phương thế nào?” Đáp: “Quay lưng với thân thích hòng mua lòng nhà vua, trái với nhân tình, khó gần.”[62] Hoàn Công hỏi: “Thụ Điêu thế nào?” Đáp rằng: “Tự thiến hòng mua lòng nhà vua, trái với nhân tình, khó thân.”[63] Đến sau khi Quản Trọng đã mất[64], Hoàn Công quên lời Quản Trọng; rốt cuộc thân dụng ba người ấy, cho ba người ấy nắm quyền.
Năm thứ 42, Nhung đánh Châu, Châu cấp báo với Tề, Tề truyền lệnh cho chư hầu mỗi nơi điều quân đến đồn trú chống đỡ giúp Châu. Năm ấy, Công tử nước Tấn là Trùng Nhĩ đến Tề, được Hoàn Công gả vợ cho.
Năm thứ 43, nguyên lai, Hoàn Công có ba Phu nhân là: Vương Cơ, Từ Cơ, và Thái Cơ, đều không con trai. Hoàn Công háo sắc dục[65], nhiều sủng thiếp, có 6 người được ngang phận với Phu nhân là: Trưởng Vệ Cơ sinh ra Vô Quỷ[66]; Thiếu Vệ Cơ sinh ra Huệ Công Nguyên; Trịnh Cơ sinh ra Hiếu Công Chiêu; Cát Doanh sinh ra Chiêu Công Phan; Mật Cơ sinh ra Ý CôngThương Nhân; Tống Hoa Tử[67] sinh ra Công tử Ung. Hoàn Công và Quản Trọng gửi gắm Hiếu Công với Tống Tương Công, chọn làm Thái tử. Ung Vu[68] được Vệ Cung Cơ[69] tín sủng, nhờ quan hoạn Thụ Điêu mang tặng Hoàn Công nhiều phẩm vật, nên cũng được Hoàn Côngsủng ái, Hoàn Công bèn hứa với họ sẽ lập Vô Quỷ. Quản Trọng chết, cả 5 Công tử đều mong được lập làm Thái tử. Mùa đông tháng 10 ngày ất hợi, Tề Hoàn Công chết. Dịch Nha vào cung, cùng Thụ Điêu cậy thế nội sủng giết hại các quan lại, và lập Công tử Vô Quỷ làm vua. Thái tử Chiêu trốn sang nước Tống.
Khi Hoàn Công còn đang bệnh, 5 Công tử mỗi người lo kết nạp bè đảng chuẩn bị tranh ngôi. Đến khi Hoàn Công chết, liền chia phe đánh nhau, vì thế nội cung trống không, chẳng ai dám nhập quan[70]. Thây ma Hoàn Công bị bỏ mặc trên sàng suốt 61 ngày, dòi bọ bò tràn ra khỏi phòng. Tháng 12 ngày ất hợi, khi Vô Quỷ đã lên ngôi mới vào cung chuẩn bị tang chế và cáo phó. Tối ngày tân tị, thi thể Hoàn Công mới được tẩm liệm và đặt vào hòm.
Hoàn Công có hơn 10 con trai, sau này được lên ngôi có 5 người: Vô Quỷ lên ngôi 3 tháng thì chết, không được đặt thụy; kế đến là Hiếu Công; kế nữa là Chiêu Công; kế nữa là Ý Công; rồi đến Huệ Công. Hiếu Công nguyên niên, tháng 3, Tống Tương Công thống lĩnh binh đội chư hầu đưa Thái tử Chiêu đánh Tề. Tề sợ, bèn giết vua là Vô Quỷ. Tề chuẩn bị tôn Thái tử Chiêu lên ngôi, bốn Công tử họp mưu đánh úp, Thái tử bèn trốn sang Tống. Tống rồi giao chiến với phe đảng bốn Công tử. Tháng 5, Tống đánh bại quân của bốn Công tử và lập Thái tử Chiêu lên ngôi, tức Tề Hiếu Công. Tống vì được Hoàn Công và Quản Trọng gửi gắm Thái tử, nên mới đến Tề dẹp loạn. Cũng vì loạn lạc, đến tháng 8 Tề Hoàn Công mới được chôn cất[71].
Năm thứ 6 mùa xuân, Tề đánh Tống, vì Tống không đến Tề tham gia hội thề[72]. Mùa hạ, Tống Tương Công chết. Năm thứ 7, Tấn Văn Công lên ngôi.
Năm thứ 10, Hiếu Công chết, em Hiếu Công là Phan nhờ Vệ Công tử Khai Phương giết con của Hiếu Công mà lập Phan, tức Chiêu Công. Chiêu Công là con của Hoàn Công, mẹ là bà Cát Doanh.
Chiêu Công nguyên niên, Tấn Văn Công đánh bại Sở ở Thành bộc, và họp chư hầu ở Tiễn thổ để chầu nhà Châu, Thiên tử truyền mệnh cho Tấn xưng Bá. Năm thứ 6, Địch đánh Tề. Tấn Văn Công chết. Quân Tần thất trận ở đất Hào. Năm thứ 12, Tần Mục Công chết.
Năm thứ 19 tháng 5, Chiêu Công chết, con là Xá được lập làm vua Tề. Mẹ của Xá vốn không được Chiêu Công sủng ái, nên quốc nhân chẳng ai sợ Xá. Em của Chiêu Công là Thương Nhân trước đây cậy là con Hoàn Công nên từng tranh ngôi mà không được, bèn âm thầm kết giao hiền sĩ, tỏ lòng thương xót chúng nhân, nên được bụng bách tính. Đến khi Chiêu Công chết, con là Xá lên ngôi, Xá thân cô thế yếu. Tháng 10, Thương Nhân liền cùng thuộc hạ giết Tề Quân Xá ngay trên mộ Chiêu Công. Thương Nhân tự mình lên ngôi, tức Ý Công. Ý Công là con trai của Hoàn Công, mẹ là Mật Cơ.
Ý Công năm thứ 4 mùa xuân. Trước đây, khi Ý Công còn là Công tử, có lần đi săn với cha của Bính Nhung, tranh với ông ta thú săn mà không được, đến khi tức vị, bèn cho chặt chân cha của Bính Nhung[73], và bắt Bính Nhung làm người đánh xe. Vợ của Dong Chức[74] xinh đẹp, bị Ý Công đưa vào cung, và dùng Dong Chức làm Tham thừa[75]. Tháng 5, Ý Công đi chơi đến Thân trì. Hai người ấy đi tắm, châm chọc nhau. Chức nói: “Mày con lão cụt chân!” Nhung nói: “Mày thằng bị đoạt vợ!” Cả hai đều đau vì lời nói, sinh oán, bèn hợp mưu đưa Ý Công đến chơi nơi rừng trúc. Hai người giết Ý Công trên xe, vứt thây vào rừng trúc rồi bỏ trốn.
Ý Công từ khi lên ngôi, tính khí kiêu căng, không được dân theo. Người Tề bèn phế con của Ý Công và rước Công tử Nguyên từ Vệ về tôn lên ngôi, tức Huệ Công. Huệ Công là con của Hoàn Công. Mẹ là con gái nước Vệ, tức bà Thiếu Vệ Cơ, vì tránh loạn lạc ở Tề nên lánh đến Vệ.
Huệ Công năm thứ 2, Trường Địch[76] đến Tề, bị Vương tử Thành Phụ[77] đánh chết, chôn ở cổng bắc. Triệu Xuyên nước Tấn giết vua là Linh Công.
Năm thứ 10, Huệ Công chết, con là Khoảnh Công Vô Dã lên ngôi. Trước đây, Thôi Trữ vốn được Huệ Công sủng tín, đến khi Huệ Công chết, họ Cao và Quốc sợ bị Trữ chèn ép, bèn đuổi Trữ khỏi nước Tề, Thôi Trữ chạy sang Vệ.
Khoảnh Công nguyên niên. Sở Trang Vương hùng cường, đánh Trần; năm thứ 2, Sở vây Trịnh, Trịnh Bá đầu hàng, Sở rồi trả nước cho Trịnh Bá.
Năm thứ 6 mùa xuân, Tấn phái Khích Khắc đến Tề, Phu nhân nước Tề ngồi trong màn nhìn ra. Khích Khắc bước lên thềm, bị Phu nhân cười ngạo. Khích Khắc nói: “Nếu không báo thù này, sẽ không qua lại sông Hà!” Sau khi về nước, bèn xin đánh Tề, Tấn Hầu không cho. Sứ Tề đến Tấn, Khích Khắc bắt giữ bốn viên sứ giả ở Hà nội và giết đi. Năm thứ 8, Tấn đánh Tề, Tề đưa Công tử Cường đến Tấn làm tin, quân Tấn rút về. Năm thứ 10 mùa xuân, Tề đánh Lỗ, Vệ. Đại phu Lỗ và Vệ đến Tấn xin quân, đều nhờ vào Khích Khắc. Tấn sai Khích Khắc thống lĩnh 800 cỗ chiến xa chỉ huy Trung quân, Sĩ Tiếp chỉ huy Thượng quân, Loan Thư chỉ huy Hạ quân đến cứu Lỗ, Vệ, đánh Tề. Tháng 6 ngày nhâm thân, quân Tấn gặp quân của Tề Hầu tại chân núi Mỹ kê. Ngày quý dậu, bày trận ở đất An. Bàng Sửu Phụ làm Hữu cho Tề Khoảnh Công. Khoảnh Công nói: “Xông lên! Phá quân Tấn rồi hãy dùng bữa!” Bắn Khích Khắc bị thương, máu chảy xuống giầy. Khắc muốn rút về bờ lũy, người cầm cương nói: “Tôi mới xung trận đã dính hai vết thương, nhưng không dám kêu đau vì sợ làm sĩ tốt rúng động, nguyện ông ráng nhịn.” Thế rồi tái chiến. Đôi bên đánh nhau, quân Tề nguy cấp, Sửu Phụ sợ Tề Hầubị bắt, bèn đổi chỗ với nhau, Khoảnh Công làm Hữu, chiến xa bị vướng vào bụi cây không đi được. Tiểu tướng của Tấn là Hàn Quyết quỳ trước xe của Tề Hầu, nói khoáy rằng: “Vua côi tệ quốc sai thần đến cứu Lỗ, Vệ.” Sửu Phụ sai Khoảnh Công xuống xe lấy nước uống, Khoảnh Công nhân đấy trốn thoát[78] về lại nơi đóng quân. Khích Khắc muốn giết Sửu Phụ. Sửu Phụ nói: “Người đại quân tử mà bị tru diệt, đời sau bề tôi chẳng còn ai trung với vua.” Được Khắc tha, Sửu Phụ bèn trốn về Tề. Thế rồi quân Tấn đuổi theo quân Tề đến Mã lăng. Tề Hầu xin dâng bảo khí tạ tội[79], Khích Khắc không nghe, đòi cho bằng được người đã cười mình là Tiêu Đồng Thúc Tử[80], và bắt Tề phải quy hoạch đất theo hướng đông tây[81]. Sứ giả Tề đáp: “Thúc Tử là mẹ của vua Tề. Mà mẹ vua Tề thì cũng như mẹ vua Tấn, ông sẽ ứng xử thế nào? Vả lại ông vì nghĩa chinh phạt, mà kết cục sinh bạo ngược, có thể thế mà được sao?” Khích Khắc thế rồi đành chấp thuận, bắt Tề trả lại những đất đai đã chiếm của Lỗ và Vệ [82].
Năm thứ 11, Tấn bắt đầu đặt Lục khanh, thưởng công ở trận An. Tề Khoảnh Công đến Tấn triều kiến, muốn tôn Tấn Cảnh Công làm vương, Cảnh Công không dám nhận, Khoảnh Côngbèn quay về. Sau khi về nước, Khoảnh Công lìa xa uyển hữu, chiết giảm thuế má, thăm hỏi kẻ neo đơn, thương tích, dốc hết kho tàng để cứu dân, dân Tề vì thế lại vừa lòng. Tề còn hậu lễ các nước chư hầu. Thế rồi đến cuối đời Khoảnh Công, được lòng bách tính quy về, chư hầu không dám xâm phạm[83].
Năm thứ 17, Khoảnh Công chết[84], con là Linh Công Hoàn lên ngôi.
Linh Công năm thứ 9, Loan Thư nước Tấn giết vua là Lệ Công. Năm thứ 10, Tấn Điệu Côngđánh Tề, Tề sai Công tử Quang sang Tấn làm tin. Năm thứ 19, lập Quang làm Thái tử, có Cao Hậu phù tá, truyền lệnh cho chư hầu đến ăn thề ở Chung ly. Năm thứ 27, Tấn sai Trung hàng Hiến Tử[85] đánh Tề. Quân Tề thua trận, Linh Công chạy về Lâm truy. Yến Anh ngăn Linh Công, Linh Công không nghe. Yến Anh nói: “Nhà vua chẳng có tí dũng khí nào vậy!” Quân Tấn bèn vây Lâm truy, quân Tề giữ thành chẳng dám kéo ra, quân Tấn đốt phá tường thành phía ngoài rồi rút đi.
Năm thứ 28, nguyên lai, Linh Công trước đã cưới con gái nước Lỗ, sinh ra Tử Quang, chọn làm Thái tử. Ngoài ra còn có vợ là Trọng Cơ và Nhung Cơ. Nhung Cơ được sủng ái, Trọng Cơ sinh ra con là Nha, phó thác cho Nhung Cơ. Nhung Cơ xin cho Nha làm Thái tử, được Linh Công hứa hẹn. Trọng Cơ nói: “Không được. Quang đã được lập làm Thái tử, đã đứng sánh vai với chư hầu[86]. Nay vô cớ mà phế, nhà vua hẳn sẽ hối.” Linh Công nói: “Cái gì cũng do ta tự quyết.” Bèn chuyển Quang đến miền đông, sai Cao Hậu phù tá Nha làm Thái tử. Linh Côngbệnh, Thôi Trữ đón cựu Thái tử Quang về tôn lên ngôi, tức Trang Công. Trang Công giết Nhung Cơ. Tháng 5 ngày nhâm thìn, Linh Công chết, Trang Công chính thức tức vị, bắt Thái tửNha tại gò đất ở Cú đậu, giết đi. Tháng 8, Thôi Trữ giết Cao Hậu. Tấn được tin Tề loạn, bèn đánh Tề, tiến quân đến Cao đường.
Trang Công năm thứ 3, Đại phu Loan Doanh[87] nước Tấn chạy sang Tề, được Trang Cônghậu đãi làm khách. Yến Anh và Điền Văn Tử can ngăn, Trang Công không nghe. Năm thứ 4, Tề Trang Công sai Loan Doanh ngầm đến Tấn, về Khúc ốc làm nội ứng, còn mình dẫn quân theo sau, vượt Thái hàng, kéo vào Mạnh môn. Loan Doanh thất bại, quân Tề rút về, chiếm Triều ca.
Năm thứ 6, nguyên lai, vợ của Đường Công vốn là người xinh đẹp, Đường Công chết, Thôi Trữ đoạt làm vợ. Trang Công tư thông với bà ta, nhiều lần đến nhà họ Thôi, còn lấy mão của Thôi Trữ tặng cho người khác mặc đám thị tùng can ngăn là không nên. Thôi Trữ tức giận, nhân khi Trang Công đánh Tấn, muốn mật mưu với Tấn đánh úp Tề nhưng chưa có dịp. Trang Công từng đánh đòn quan hoạn là Giả Cử, nhưng lại chọn Giả Cử hầu hạ mình, Giả Cử bèn giúp Thôi Trữ dò thám Trang Công hòng báo oán. Tháng 5, Cử Tử đến triều kiến Tề, được Tề thết đãi vào ngày giáp tuất. Thôi Trữ cáo bệnh không ra coi việc. Ngày ất hợi, Trang Công đến hỏi thăm Trữ, rồi bám theo vợ Thôi Trữ. Vợ Trữ bước vào nội phòng, cùng Trữ đóng hết cửa nẻo không chịu ra, Trang Công ôm cột hát[88]. Quan hoạn Giả Cử ngăn đám tùy tòng của Trang Công bắt đứng ở ngoài, bước vào khuông trang Thôi Trữ, đóng cổng; sau đó thuộc hạ Thôi Trữ cầm binh khí từ trong kéo ra sân. Trang Công leo lên đài xin thả, họ không cho; xin ước thề, họ không cho; xin tự sát ở Thái miếu, họ cũng không cho. Mỗi lần đều đáp: “Bề tôi Trữ của nhà vua đang bệnh, chẳng thể nhận lệnh truyền. Nơi này nằm cạnh cung điện nhà vua, bọn bồi thần chúng tôi đang truy lùng vì có kẻ gian dâm, chẳng biết đến mệnh lệnh nào khác.” Trang Công cố leo qua tường, bị bắn trúng đùi, Trang Công rơi xuống đất, thế là bị giết. Yến Anh đứng ở ngoài cổng nhà Thôi Trữ, nói: “Nhà vua nếu vì xã tắc mà chết, thì phải chết theo, nếu vì xã tắc mà trốn, thì phải trốn theo, còn nếu chỉ vì bản thân mà chết, vì bản thân mà trốn, thì ngoài những người thân mật, còn ai dám hết lòng!”[89] Cổng nhà bèn được mở ra cho Yến Anh vào; Yến Anh gối đầu Trang Công lên đùi mà khóc, nấc lên ba lần rồi bước ra. Có người nói với Thôi Trữ: “Ắt phải giết!” Thôi Trữ nói: “Người ấy được dân trông vọng, cứ tha để lấy lòng dân.”
Ngày đinh sửu, Thôi Trữ lập em khác mẹ của Trang Công là Xử Cữu[90] lên ngôi, tức Cảnh Công. Mẹ của Cảnh Công là con gái của Thúc tôn Tuyên Bá nước Lỗ. Cảnh Công lên ngôi, dùng Thôi Trữ làm Hữu Tướng quốc, Khánh Phong làm Tả Tướng quốc. Hai người sợ loạn lại nổi lên, bèn bắt quốc nhân tuyên thệ với mình rằng: “Người nào không theo Thôi, Khánh thì phải chết!” Yến Tử ngưỡng mặt lên trời nói: “Anh này quyết không chịu thế, chỉ người nào trung với vua, ích với nước thì Anh mới theo!” Và không chịu thề. Khánh Phong muốn giết Yến Tử, Thôi Trữ nói: “Đấy là trung thần, hãy tha cho hắn.” Thái sử nước Tề biên xuống rằng: “Thôi Trữ giết Trang Công”, bèn bị Thôi Trữ giết. Người em cũng viết y như thế, Thôi Trữ lại giết đi. Người em út cũng viết như thế nữa, Thôi Trữ đành tha.
Cảnh Công năm thứ nhất, từ trước, Thôi Trữ đã có con trai là Thành và Cường; mẹ của hai người ấy chết, Trữ lại cưới con gái họ Đông quách, sinh ra Minh. Bà Đông quách sai con trai của chồng trước là Vô Cữu cùng em là Yển coi việc cho họ Thôi. Thành có lỗi[91], liền bị hai người ấy trị tội, và lập Minh làm Thái tử. Thành xin được cấp ấp Thôi để dưỡng lão, Thôi Trữ nhận lời, nhưng hai người kia không chịu, nói: “Thôi là tông ấp, chẳng thể đem cho.” Thành và Cường tức giận, nói lại với Khánh Phong[92]. Khánh Phong với Trữ vốn có hiềm khích, vẫn mong Trữ bị tàn bại. Thành và Cường giết Vô Cữu và Yển ở nhà Thôi Trữ, mọi người đều chạy trốn. Thôi Trữ nổi giận, sai một viên hoạn giả đánh xe đưa mình đến gặp Khánh Phong. Khánh Phong nói: “Xin vì ngài giết chúng.” Và sai kẻ thù của Thôi Trữ là Lô Bồ Phách đánh nhà họ Thôi, giết Thành và Cường, tận diệt gia tộc họ Thôi, vợ Thôi Trữ tự sát. Thôi Trữ về đến nhà, cũng tự sát. Khánh Phong một mình làm Tướng quốc, nắm hết quyền hành.
Năm thứ 3 tháng 10, Khánh Phong rời thành đi săn. Nguyên lai, sau khi Khánh Phong giết Thôi Trữ, càng sinh kiêu, ham rượu chè mê săn bắn, không đoái đến chính lệnh. Khánh Xá[93] nắm quyền, trong nhà nảy sinh hiềm khích. Điền Văn Tử bảo Hoàn Tử rằng: “Loạn sắp nổi lên.” Bốn họ Điền, Bảo, Cao, Loan cùng nhau hợp mưu với Khánh Xá. Khánh Xá cho giáp sĩ vây cung của Khánh Phong, đồ đảng bốn nhà cũng hợp sức bao vây. Khánh Phong về, không vào được thành, bèn trốn sang Lỗ. Tề trách Lỗ, Phong chạy đến Ngô. Ngô cấp cho Khánh Phong đất Chu phương để tụ tập tông tộc mà ở, giàu có hơn lúc ở Tề. Mùa thu năm ấy, Tề cải táng Trang Công, tru lục thi thể Thôi Trữ ở chợ để thỏa lòng chúng.
Năm thứ 9, Cảnh Công sai Yến Anh đến Tấn. Anh nói riêng với Thúc Hướng rằng: “Quyền chính nước Tề rốt cuộc sẽ về tay họ Điền. Họ Điền tuy không có đạo đức gì to tát, lợi dụng quyền công vun lợi riêng, nhưng biết tạo ân đức với dân, được dân yêu mến.” Năm thứ 20, Cảnh Công đến Tấn gặp Tấn Bình Công, muốn cùng đánh Yên. Năm thứ 18, Cảnh Công lại đến Tấn, gặp Chiêu Công. Năm thứ 26, Cảnh Công đi săn ở ngoại vi nước Lỗ, nhân đấy đến đô thành, cùng Yến Anh hỏi về lễ nghi nước Lỗ. Năm thứ 31, Lỗ Chiêu Công lánh nạn họ Quý, chạy đến Tề. Tề muốn lấy 1.000 xã phong cho ông ta[94], Tử Gia ngăn Lỗ Chiêu Công đừng nhận, Chiêu Công bèn xin Tề đánh Lỗ, chiếm đất Vận, bèn thiết lập Chiêu Công ở đấy.
Năm thứ 32, sao chổi xuất hiện. Cảnh Công đang ngồi trong bách tẩm, than rằng: “Phòng sảnh sang trọng thế này, rồi ai sẽ hưởng thụ nó?” Quần thần đều khóc, riêng Yến Tử cười, Cảnh Công tức giận. Yến Tử nói: “Thần cười đám bề tôi quá xiểm nịnh.” Cảnh Công nói: “Sao chổi hiện ở hướng đông bắc, ứng vào lãnh phận của Tề, Quả nhân vì thế lo sợ.” Yến Tử nói: “Nhà vua xây đài cao đào hồ sâu, thuế má thu chẳng còn gì để lấy, hình phạt nhiều sợ không còn gì để làm, đến Bối tinh còn sắp xuất hiện, sao chổi đáng gì mà lo?” Cảnh Công hỏi: “Có thể làm lễ cầu an chăng?” Yến Tử nói: “Nếu lời khấn khiến được thần linh đến, thì lời trù có thể khiến thần linh đi. Bách tính oán khổ đến hàng vạn, mà nhà vua chỉ sai một người cầu an, thì làm sao nói hơn được miệng của bấy nhiêu người?” Lúc bấy giờ vì Cảnh Công ham thích xây cất cung thất, thu nhặt chó ngựa, thích xa hoa, thuế má cao, hình phạt nặng, nên Yến Tử mới can như thế.
Năm thứ 42, Ngô Vương Hạp Lư đánh Sở, tiến vào Dĩnh đô.
Năm thứ 47, Dương Hổ nước Lỗ đánh chủ, nhưng không thắng, chạy sang Tề, xin Tề đánh Lỗ. Bảo Tử can Cảnh Công, bèn bỏ tù Dương Hổ. Dương Hổ trốn thoát, chạy sang Tấn.
Năm thứ 48, Tề mở hội nghị giao hảo với Lỗ Định Công ở Giáp cốc. Lê Tư nói: “Khổng Khâu tuy sành lễ nhưng nhát, xin sai đám người Lai xướng nhạc, nhân đấy bắt vua Lỗ, có thể được đắc chí.” Cảnh Công ghét Khổng Khâu làm Tướng quốc nước Lỗ, sợ Lỗ làm nên bá nghiệp, nên nghe theo kế của Lê Tư. Đang khi hội họp, cho đoàn nhạc công người Lai kéo ra, Khổng Tử bước lên thềm, sai Hữu tư bắt đám người Lai đem chém, viện lễ trách lỗi Cảnh Công. Cảnh Công hỗ thẹn, bèn trả Lỗ những đất đã chiếm để tạ lỗi, và bãi hội quay về. Năm ấy, Yến Anh chết.
Năm thứ 55, họ Phạm và Trung hàng phản vua ở Tấn, bị Tấn vây đánh ngặt nghèo, bèn cho người đến Tề xin cấp thóc. Điền Khất[95] muốn làm loạn, lập bè đảng với các nghịch thần, nên thuyết phục Cảnh Công: “Phạm và Trung hàng nhiều lần có ơn với Tề, chẳng thể không cứu.” Tề bèn phái Khất đến cứu và cho chở thóc đi.
Năm thứ 58, mùa hạ, người con đích của Cảnh Công là con của Phu nhân Yên Cơ chết. Sủng thiếp của Cảnh Công là Nhuế Cơ sinh con là Đồ. Đồ còn bé, mẹ phận hèn, không phẩm hạnh, các Đại phu sợ Đồ nối tự, bèn nói với Cảnh Công xin chọn trong các con ai hiền năng nhất làm Thái tử. Cảnh Công cao tuổi, ghét nói đến việc kế vị, lại sủng ái mẹ của Đồ, vẫn muốn lập Đồ, nhưng còn ngại chưa nói ra miệng, bèn bảo các Đại phu: “Cứ vui đã, nước sợ gì không có vua?” Mùa thu, Cảnh Công bệnh, truyền lệnh cho Quốc Huệ Tử và Cao Chiêu Tử[96] lập con út là Đồ làm Thái tử, trục xuất hết các Công tử khỏi kinh thành, đưa họ đến đất Lai. Cảnh Công chết, Thái tử Đồ lên ngôi, tức Yến Nhụ Tử. Mùa đông, Cảnh Công vẫn chưa chôn, các Công tử sợ bị giết, đều trốn ra nước ngoài. Các anh khác mẹ của Đồ là Công tử Thọ, Câu, và Kiều ba người chạy đến Vệ, Công tử Tảng và Dương Sinh hai người chạy sang Lỗ. Người Lai làm lời ca rằng: “Cảnh Công chết chừ, vẫn chưa chôn. Việc ba quân chừ, chẳng dự can. Bè chừ đảng chừ, biết theo ai chừ?”
Yến Nhụ Tử năm thứ nhất, mùa xuân, Điền Khất giả vờ phụng sự hai nhà Cao và Quốc, mỗi lần có thiết triều vào chầu, xin ngồi cùng xe, nói với họ rằng: “Các ông nắm giữ nhà vua, nên các Đại phu ai nấy tự nguy, muốn mưu đồ dấy loạn.” Lại bảo các Đại phu rằng: “Cao Chiêu Tửlà người đáng sợ, nhân khi ông ta chưa xuống tay, phải ra tay trước.” Các Đại phu nghe lời. Tháng 6, Điền Khất, Bảo Mục bèn cùng các Đại phu dẫn quân tiến vào cung điện nước Tề đánh Cao Chiêu Tử. Chiêu Tử được tin, bèn cùng Quốc Huệ Tử cứu vua Tề. Quân nhà vua thua, bị đồ đảng Điền Khất truy đuổi, Quốc Huệ Tử chạy sang Cử, bọn Khất rồi quay lại giết Cao Chiêu Tử. Yến Ngữ[97] chạy sang Lỗ. Tháng 8, Bỉnh Ý Tư nước Tề chạy sang Lỗ. Điền Khất đã đánh bại hai Tướng quốc, bèn sai người đến Lỗ mời Công tử Dương Sinh. Dương Sinh đến Tề, ẩn trong nhà Điền Khất. Tháng 10 ngày mậu tí, Điền Khất ngỏ lời mời các Đại phurằng: “Mẹ Thường làm món cá với đậu để cúng, mời các ông đến họp mặt uống rượu.” Đến bữa tiệc, Điền Khất giấu Dương Sinh trong một cái đãy, đặt ở giữa phòng, sau đó nhấc đãy mời Dương Sinh bước ra, nói: “Đấy là vua Tề!” Các Đại phu đều quỳ lạy yết kiến. Đến khi Khất chuẩn bị cùng các Đại phu tuyên thệ quyết lập Dương Sinh lên ngôi, thì Bão Mục đã say, Khất bèn nói xằng với các Đại phu rằng: “Ta với Bảo Mục vốn đồng mưu lập Dương Sinh.”Bảo Mục nổi giận nói: “Ông đã quên mất di mệnh của Cảnh Công rồi chăng?” Các Đại phunhìn nhau có ý hối hận, Dương Sinh đến trước mặt họ, khấu đầu nói: “Nếu được thì lập, bằng không thì thôi vậy.” Bảo Mục sợ họa lại phát sinh, bèn đáp trả rằng: “Cùng là con của Cảnh Công cả, có gì mà không được!” Bèn cùng nhau ăn thề, rồi lập Dương Sinh lên ngôi, tức Điệu Công. Điệu Công vào cung, sai người chuyển Yến Nhụ Tử đến đất Đài, giết ở trong lều, và cho trục xuất mẹ của Nhụ Tử là Nhuế Tử. Nhuế Tử vì phận hèn và Nhụ Tử còn nhỏ tuổi, nên không có quyền hành, bị quốc nhân khinh rẻ.
Điệu Công năm thứ nhất, Tề đánh Lỗ, chiếm Hoan và Xiển. Trước đây, khi Dương Sinh lưu vong ở Lỗ, Quý Khang Tử gả em gái cho làm vợ. Đến khi về nước lên ngôi, sai người đến đón. Quý Cơ tư tình với Quý Phường Hầu[98] và sự việc đã vỡ lở, Lỗ không dám đưa Quý Cơ đến Tề, nên Tề đánh Lỗ, nhất định đón Quý Cơ. Quý Cơ được sủng ái, Tề trả lại cho Lỗ đất đai đã chiếm.
Bảo Tử với Điệu Công có hiềm, chẳng hòa hợp với nhau. Năm thứ 4, Ngô và Lỗ đánh miền nam nước Tề. Bảo Tử giết Điệu Công, cáo phó với Ngô. Ngô Vương Phù Sai khóc tang ở ngoài quân môn ba ngày, muốn từ biển đánh vào thảo phạt nước Tề. Bị quân Tề đánh bại, quân Ngô bèn rút đi. Triệu Ưởng của Tấn đánh Tề, đến đất Lại rồi rút đi. Người Tề lập con của Điệu Công là Nhâm lên ngôi, tức Giản Công.
Giản Công năm thứ 4 mùa xuân, trước đấy, khi Giản Công cùng cha là Dương Sinh đều còn ở Lỗ, sủng ái một người là Hám Chỉ. Đến khi tức vị, Hám Chỉ được nắm quyền chính. Điền Thành Tử sợ Hám Chỉ, nên ở nơi triều đường hay ngoái cổ đề phòng. Người đánh xe cho Giản Công tên Ưởng[99] nói với Giản Công rằng: “Điền với Hám chẳng thể cùng đứng, nhà vua phải chọn lấy một.” Giản Công không nghe. Tử Ngã[100] đi tuần buổi tối, bắt gặp Điền Nghịch[101] giết người, bèn truy bắt, tống giải vào triều. Họ Điền lúc ấy đang hòa thuận, bèn sai Nghịch trá bệnh và tặng rượu cho người canh tù, đến khi người ấy say thì Nghịch giết đi, và trốn thoát. Tử Ngã ăn thề với những người họ Điền tại nhà tông trưởng của họ Trần[102]. Trước đất, có Điền Báo muốn làm tôi phụng sự Tử Ngã, bèn nhờ Công Tôn giới thiệu Báo, nhưng vì Báo có tang nên việc ấy tạm thôi. Nhưng rốt cuộc cũng trở thành tôi của Tử Ngã, được Tử Ngã quý trọng. Tử Ngã bảo Báo rằng: “Ta muốn đuổi hết họ Điền mà lập ngươi, có được chăng?” Đáp rằng: “Tôi chỉ là dòng xa của họ Điền. Hơn nữa chẳng qua chỉ vài người sai trái, sao lại đuổi tất cả!” Bèn báo lại với họ Điền. Tử Hành nói: “Bọn chúng nắm được nhà vua, nếu không ra tay trước, hẳn mang họa chết cả.” Tử Hành từ đó bèn nghỉ đêm ngay trong cung vua Tề[103].
Mùa Hạ tháng 5 ngày nhâm thân, anh em Thành Tử ngồi lên bốn xe đến gặp Giản Công[104]. Tử Ngã đang ở trong trướng, bước ra đón chào, anh em họ Điền bèn bước vào cung, đóng cổng lại[105]. Những quan hoạn nào chống cự đều bị Tử Hành giết chết. Giản Công đang uống rượu với thê thiếp tại Đàn đài, bị Thành Tử dời vào khu phòng ngủ. Giản Công cầm cái qua muốn đánh Thành Tử, Thái sử Tử Dư nói: “Việc này chưa hẳn đã vô ích, hắn sẽ trừ hại giúp ta.” Thành Tử lúc ấy đã rời phòng đến kho vũ khí, nghe nói Giản Công nổi giận, nên muốn trốn khỏi nước Tề, nói: “Ở đâu mà chẳng có vua!” Tử Hành tuốt kiếm nói: “Do dự là kẻ thù của đại sự. Ở đây có ai chẳng là họ Điền? Người nào không giết ông là có tội với tông tộc họ Điền.”[106] Thành Tử mới thôi. Tử Ngã về dinh, tụ tập thuộc hạ đánh vào cổng chính lẫn cổng bên của cung điện, không thắng được nơi nào, bèn chạy trốn. Họ Điền truy đuổi. Người ấp Phong khâu trói giữ Tử Ngã báo với họ Điền, Tử Ngã rồi bị giết tại Quách quan. Thành Tửsắp giết Đại lục Tử Phương[107], được Điền Nghịch xin giúp tha chết. Theo lệnh Giản Công, Tử Phương đoạt lấy một xe đang đi trên đường, rời khỏi thành theo lối cổng Ung môn. Điền Báo tặng xe cho Tử Phương, Tử Phương không nhận, nói: “Nghịch xin giúp cho ta, Báo đưa xe cho ta, là ta thành lập quan hệ riêng với họ. Đã thờ Tử Ngã mà có quan hệ riêng với kẻ thù của ông ta, thì làm sao còn nhìn mặt kẻ sĩ Lỗ, Vệ?” [108]
Ngày canh thìn, Điền Thường bắt Giản Công tại Từ châu. Giản Công nói: “Ta nếu trước đây theo lời Ngự Ưởng, đã đã chẳng đến nỗi này.” Ngày giáp ngọ, Điền Thường giết Giản Công ở Từ châu. Điền Thường rồi lập em Giản Công là Ngao lên ngôi, tức Bình Công. Bình Công tức vị, Điền Thường làm Tướng quốc, nắm hết quyền chính nước Tề, cắt đất Tề từ An bình sang đông làm phong ấp cho họ Điền.
Bình Công năm thứ 8, Việt diệt Ngô. Năm thứ 25 Bình Công chết, con là Tuyên Công Tích lên ngôi.
Tuyên Công ở ngôi 51 năm thì chết, con là Khang Công Thải lên ngôi. Điền Hội làm phản ở Lẫm khâu.
Khang Công năm thứ 2, Hàn, Ngụy, Triệu bắt đầu được liệt vào hàng chư hầu. Năm thứ 19, tằng tôn của Điền Thường là Điền Hòa bắt đầu làm chư hầu, Khang Công bị dời đến Hải tân.
Năm thứ 26, Khang Công chết, họ Lữ thế là tuyệt tự. Họ Điền rốt cuộc chiếm hữu nước Tề, đến đời Tề Uy Vương, mạnh nhất thiên hạ.
Thái sử công nói: Ta đến Tề, từ Thái sơn trải đến Lang tà, kéo lên phía bắc đến biển, đất tốt 2000 dặm, dân chúng giàu có lại khôn ngầm, đó là thiên tính của họ vậy. Với tài thánh của Thái Công, lập nên căn bản cho nước, đến thời thịnh trị của Hoàn Công, tu chỉnh chính trị, hội họp chư hầu ăn thề, xưng bá, chẳng cũng nên sao? Rộng lớn làm sao, nhờ có phong độ của một đại quốc vậy!
[1] Theo Tiêu Châu, ông “họ Khương, tên Nha. Thuộc dòng Viêm Đế, con cháu của Bá Di, có người làm Tứ Nhạc có công, được phong ở đất Lữ, con cháu lấy đó làm họ, Thượng là con cháu của họ.” Khi Văn Vương gặp được Lữ Thượng ở bến Vị tân, nói rằng: “Tiên quân Thái Công nhà ta trông ông đã lâu lắm.” (Ngô Tiên quân Thái Công vọng tử cửu hĩ – Thái Công tức Châu Thái Công, tức Cổ Công Đản Phụ, người thành lập nước Châu tại bình nguyên Châu nguyên, Châu Bản kỷ), nên Lữ Thượng được gọi là Thái Công Vọng. Tự của ông là Nha. Sau này Võ Vương gọi ông là Sư Thượng phụ.
[2] Theo Lữ thị Xuân thu, đây là đất của người Đông Di.
[3] Theo Từ Quảng, ấp Lữ nằm tại phía tây huyện Uyển, quận Nam dương (đời Hán). Nay cũng là Nam dương.
[4] Thân cũng nằm trong địa phận huyện Uyển, quận Nam dương. Đến đầu đời Đông Châu vẫn tồn tại (là nước của Thân Bá).
[5] Nguồn gốc Lữ Thượng được thêu dệt ra sao, chẳng thể nào khảo chứng, riêng một điều gần như chắc chắn là ông họ Khương. Theo một số nghiên cứu và khám phá gần đây, họ Khương xuất nguồn từ dân tộc Khương. Người Khương từ lâu đã sinh sống ở vùng Cam túc, nhà Châu nổi lên từ vùng Cam túc. Châu Thái Công và Châu Võ Vương đều có vợ họ Khương, mối quan hệ thông gia này được nhắc đến nhiều lần trong Tả truyện. Có thể mường tượng giữa họ Cơ và họ Khương có mối quan hệ liên minh, và Khương Thượng là trợ thủ đắc lực của nhà Châu. (Tham khảo thêm phần chú thích từ Nienhauser – Grand Scribe’s records volume 5, part 1 – T’ai-kong of Ch’i, Heredirary house 2)
[6] Còn có thêm một thuyết đương đại rằng Khương Thượng đầu tiên được phong ở đất Lữ, sau đó mới chuyển đến Doanh khâu. Vì thế mang họ Lữ.
[7] Theo Tiêu Châu, Lữ Vọng từng làm nghề bán thịt ở Triều ca (kinh đô của Ân Trụ), và bán rượu ở bến Mạnh tân.
[8] Tuổi tác của Lữ Thượng được cường điệu hóa do các nhà du thuyết thời Chiến quốc. Lữ Thượng chết năm thứ 6 triều Châu Khang Vương, tính theo số tuổi các nhà du thuyết dùng, thì ông sống đến hơn 140 tuổi. (Tham khảo thêm phần chú thích từ Nienhauser).
[12] Theo Tục Hán thư, Quận quốc chí, nước Sùng nằm ở phía bắc huyện Lẫm khâu, Đông quận, nước Mật tu nằm ở phía đông huyện Mật, quận Hà nam. (Theo bản đồ đời Hán – Nam Bắc triều – nd).
[13] Danh hiệu Võ Vương gọi Lữ Thượng. Sư là thầy. Theo Lưu Hướng, Thượng là “nam tử chi mỹ hiệu”. Phụ là cha.
[14] Theo Mã Dung (đời Hán), Thương hủy là chức quan coi về thuyền bè. Nhưng theo Vương Sung (cũng đời Hán), Thưởng hủy là thủy thú 9 đầu. Gọi Thương hủy đến làm chứng lời thề để mọi người kính sợ.
[15] Lời Thái thệ được chép lại trong Thượng thư – Châu thư, gồm 3 thiên. Đại ý là diễn văn chính trị tuyên cáo với thiên hạ và trời đất, kể tội Trụ Vương cũng như xưng tụng chính nghĩa của việc Châu muốn dùng quân sự để đánh đổ nhà Thương.
[16] Theo Từ Quảng, có bản chép “Năm thứ 3” (Không hợp lý, năm thứ 9 đã khởi quân một lần, hai năm sau không thể trở lại thành năm thứ 3 – nd).
[17] Đền, hoặc đàn Xã, là nơi cúng tế thần thổ địa. Đời xưa tin đất là nguồn của vạn sự sống, nên lập đền thờ, là nơi tế tự, cầu mưa, và cũng là nơi tụ họp công chúng.
[18] Theo Sử ký, Châu Bản kỷ, người bưng nước sạch là Mao Thúc Trịnh.
[22] Theo Đỗ Dự, “Ngũ Hầu, Cửu Bá” là năm cấp chư hầu (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam), và Châu Bá của chín châu. Nhưng giải thích đó không thỏa đáng lắm. Đây là điều lệnh cho phép Tề Thái Công chinh phạt trong phạm trù đã giao, và trong phạm trù đó, có lẽ có năm chư hầu tước hầu, chín chư hầu tước bá (nd).
[23] Theo Lễ ký, từ đời Thái Công đến 5 đời sau, sau khi chết, được đưa về chôn cất ở đất nhà Châu. Nhưng theo Trịnh Huyền, Thái Công tuy được phong ở Doanh khâu, nhưng ở lại kinh đô nhà Châu giữ chức Thái sư, đến 5 đời sau mới được cải táng đưa di cốt đến Tề. Sách Hoàng lãm soạn đời Tam quốc cho rằng mồ mã của Lữ Thượng nằm ở phía nam huyện thành Lâm truy, cách 10 dặm.
[24] Đinh, Ất, Quý là 3 trong 10 Thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý), rõ ràng lúc này Tề chưa đặt tên bụt theo Thụy pháp, nhưng cũng không rõ cách đặt tên bụt theo Thiên can như thế này là dựa thứ tự nào (nd).
[25] Vào đời Châu Di Vương.
[26] Theo Thụy pháp, hưởng trọn tuổi thọ thì tên thụy là Hồ. Hồ nghĩa đen là mảng da nơi cổ, người và vật lớn tuổi có mảng da chùng nơi cổ.
[27] Theo Quát địa chí soạn vào đời Đường, Bạc cô nằm cách thành huyện Bác xương 60 dặm về phía đông bắc, thuộc Thanh Châu.
[29] Hiến nghĩa đen là dâng, đưa, đóng góp. Theo Thụy pháp ai thông minh, mẫn duệ, có thánh chất thì được đặt tên thụy là Hiến.
[30] Theo Tư mã Thiên, Châu Lệ Vương hà khắc, bị dân đánh đuổi khỏi kinh đô, triều đình do các quan hợp lại điều hành, nên gọi là Cộng hòa. Và đây cũng là lý do thể chế Republic được dịch sang tiếng Hán-Việt là Cộng hòa. Tuy nhiên, cha con Tư mã Thiên đã sai lầm ở điểm này. Theo quan điểm khác đã được chứng thực bởi khám phá khảo cổ là văn bản khắc lên các loại tế khí từ đời Châu ở giai đoạn này vừa đào được, người đứng ra cai trị khi Lệ Vương bỏ trốn là Cung Bá Hòa, tức Cung Hòa. Chữ 共có thể được phiên âm là Cung, và cũng có thể được phiên âm là Cộng.
[35] Tương nghĩa đen là giúp ích (helpful). Theo Thụy pháp, người nào nhọc sức với binh, giáp, người nào có công mở rộng đất đai thì được đặt tên thụy này.
[36] Em cùng cha khác mẹ.
[40] Có hai thuyết. Theo Tả truyện, với lời chú của Giả Quỳ và Đỗ Dự, Ung Lâm (hay Ung Lẫm) là tên của Đại phu ấp Cừ khâu. Tương Vương đến chơi Cừ khâu bị Ung Lẫm giết. Tuy nhiên, theo Sử ký như được diễn tả ở câu sau, Ung lâm là tên ấp, người giết Vô Tri không rõ tên.
[41] Theo Giả Quỳ, Cao Hề là chính là Chính khanh Cao Kính Trọng nước Tề.
[45] Quốc ngữ: Quản Tử đặt quy chế khắp trong nước: Người đăng lính mỗi năm nhà lập thành một quỹ — có một chỉ huy, mười quỹ hợp thành một lý – có một chỉ huy, bốn lý hợp thành một liên – có một chỉ huy, mười liên hợp thành một hương – có một chỉ huy. Thành lập một hệ thống quân sự địa phương có chỉ huy thống nhất.
[46] Khinh trọng gồm 7 thiên trong Quản tử, là phương pháp quản lý kinh tế do Quản Trọngđề xuất. Muốn hiểu rõ hơn người đọc nên tìm đọc Quản tử, nhưng đại khái đây là phương pháp dùng tiền tệ để quản lý kinh tế đời cổ.
[50] Theo Phục Kiền, Châu Chiêu Vương đi tuần du phương nam, qua sông Hán thuyền đắm, chết đuối. Triều đình nhà Châu kỵ không ra cáo phó, nên chư hầu không rõ nguyên do. Theo Tống Trung, Châu Chiêu Vương dẫn quân đánh Sở, có Tân Do Mỹ làm xa hữu. Khi vượt sông Hán, Chiêu Vương chết đuối, Do Mỹ ráng cứu mà không được. Theo Đỗ Dự, vì vào đời Chiêu Vương, sông Hán không thuộc địa phận nước Sở, nên Sở không nhận tội. Tuy nhiên, theo bằng chứng thu được từ chữ khắc trên đồ đồng đời Châu mới đào gần đây, Châu Chiêu Vươngthống lĩnh sáu quân Tây kinh (đồn trú ở Phong, Hạo), đánh Sở, bị thua trận. Chiêu Vươngchết, cả sáu cánh quân bị tiêu diệt. Thiệt hại này có tác động lớn, đánh dấu sự suy yếu của quyền lực nhà Châu.
[51] Giao thề giảng hòa.
[54] Tả truyện liệt kê: Lỗ Trang Công năm thứ 13, hội quân ở Bắc Hạnh để bình loạn nước Tống. Lỗ Hi Công năm thứ 4, Tề họp quân đánh Thái, rồi đánh Sở. Lỗ Hi Công năm thứ 6, Tề đánh Trịnh, vây Tân thành.
[55] Tả truyện liệt kê: Lỗ Trang Công năm thứ 14, họp ở Quyên; năm thứ 15, lại họp ở Quyên; năm thứ 16, ăn thề ở U; Lỗ Hi Công năm thứ 5, họp ở Thủ chỉ; năm thứ 8, hội thề ở Thao; năm thứ 9, họp ở Quỳ khâu.
[58] Theo Quát địa chí: Mộ của Quản Trọng nằm trên núi Ngưu sơn, phía nam huyện Lâm truy, nối liền với mộ Tề Hoàn Công.
[60] Theo Giả Quỳ, Dịch Nha còn được biết là Ung Vu.
[61] Theo Quản Tử và Hàn Phi Tử, Dịch Nha là người nấu bếp, khi nghe Hoàn Công nói chưa từng được nếm thịt người, bèn về nhà giết con nấu thịt dâng lên Hoàn Công.
[62] Theo Quản Tử, Khai Phương là Thái tử nước Vệ, không kế vị nước Vệ mà chọn làm bề tôi cho Hoàn Công.
[64] Nhan Sư Cổ chép: Quản Trọng có bệnh, Hoàn Công đến thăm hỏi, hỏi: “Tướng quốc có điều gì chỉ dạy Quả nhân?” Quản Trọng đáp: “Nguyện ngài tránh xa Dịch Nha và Thụ Điêu.”Hoàn Công hỏi: “Dịch Nha giết con để thỏa lòng Quả nhân, còn gì mà nghi?” Đáp rằng: “Tình con người chẳng ai không thương con mình, hắn đến con còn nỡ giết, thì thương xót gì nhà vua.” Hoàn Công hỏi: “Thụ Điêu tự thiến để được thân cận ta, còn gì mà nghi?” Đáp rằng: “Tình con người chẳng ai không thương bản thân, hắn đến thân còn nỡ hại, thì thương xót gì nhà vua.” Hoàn Công nói: “Vâng.” Quản Trọng bèn cho đuổi hết những người ấy, mà Hoàn Công ăn không ngon, dạ không yên 3 năm. Hoàn Công nói: “Trọng Phụ chẳng đã chết rồi ư?”Bèn liền cho triệu mời họ về. Năm sau, Hoàn Công mang bệnh, Dịch Nha và Thụ Điêu cùng nhau làm loạn, chặn cổng cung, đắp tường cao, không cho ai ra vào. Có một phụ nữ leo vườn vào gặp Hoàn Công. Hoàn Công nói: “Ta muốn ăn.” Đáp: “Chẳng tìm đâu ra.” Hoàn Công nói: “Ta muốn uống.” Đáp: “Chẳng tìm đâu ra.” Hoàn Công hỏi: “Vì sao?” Đáp: “Dịch Nha và Thụ Điêu hợp nhau làm loạn; chặn cổng cung, đắp tường cao, không ai được ra vào, nên chẳng tìm đâu ra thức ăn uống.” Hoàn Công bùi ngùi thở dài, rơi nước mắt, nói: “Than ôi, tầm nhìn thánh nhân há chẳng xa xôi lắm ư! Nếu người chết biết nhận thức, ta còn mặt mũi nào gặp lại Trọng phụ?” Rồi lấy tay áo trùm lên mặt mà chết ở cung Hồ thọ. Thế rồi dòi bọ lúc nhúc đầy phòng, tràn ra đến cánh cửa Dương môn, vì đến sau hai tháng vẫn chưa được chôn.
[67] Qua đây có thể hiểu cách gọi đàn bà thời Xuân thu. Vương Cơ là công chúa nhà Châu, họ Cơ. Từ Cơ, Thái Cơ, Vệ Cơ, Trịnh Cơ, Mật Cơ v.v… đều là công chúa của các nước ấy, họ Cơ. Cát Doanh là công chúa nước Cát, họ Doanh. Tống Hoa Tử là con gái nhà Đại phu họ Hoa nước Tống, họ Tử.
[68] Theo Giả Quỳ, Ung Vu chính là Dịch Nha, người ấp Ung, tên Vu, tự Dịch Nha. Giả thuyết này còn nhiều nghi vấn vì không ai biết Giả Quỳ căn cứ vào đâu.
[71] Theo Quát địa chí, mộ phần Hoàn Công ở núi Ngưu sơn. Vào khoảng cuối niên hiệu Vĩnh gia đời Tấn, mộ ấy bị người đào bới, lớp đầu có ván che, kế đến bọc một lớp thủy ngân, có hơi độc không vào được. Mấy hôm sau mới dắt chó thả vào, sau đó tìm được vải dệt từ vàng sợi mấy mươi tấm, áo lót làm bằng ngọc trai, cũng như tráp làm bằng ngọc, lụa màu, binh khí nhiều không kể hết. Thêm xác những người bị chôn cùng, hài cốt hỗn độn.
[72] Theo Phục Kiền, Lỗ Hi Công năm thứ 19, chư hầu ăn thề ở Tề để tưởng nhớ ân đức Hoàn Công. Tống Tương Công muốn làm Bá, nên không đến dự, vì thế nên Tề đến đánh.
[75] Đi xe đời xưa có 3 vị trí, người đánh xe, hay Ngự xa ngồi giữa, quý nhân ngồi hoặc đứng bên trái, Tham thừa, còn gọi là hữu hay xa hữu ngồi hoặc đứng bên phải. Trong chiến tranh, quý nhân cầm cung bắn, Tham thừa cầm kích làm hộ vệ.
[76] Theo Cốc Lương chú giải, đây là loại người khổng lồ. Chỉ riêng cái thủ cấp khi chở bằng xe, lông mày cao ngang cái dàm.
[77] Theo Giả Quỳ, là Vương tử nhà Châu, làm Đại phu ở Tề.
[78] Thời Xuân thu và Chiến quốc, trên chiến xa có ba người, người đánh xe (Ngự) ngồi giữa, người chỉ huy đứng bên trái, cầm cung, người hộ vệ (Hữu) đứng bên phải, cầm kích. Bàng Sửu Phụ tráo chỗ với Tề Khoảnh Công, nên quân Tấn tưởng Sửu Phụ là Khoảnh Công, nhờ đó Khoảnh Công được thoát.
[80] Theo Đỗ Dự, Đồng Thúc là tên tự của người cai trị đất Tiêu, Tử là con gái, gọi trệch như thế để kỵ húy. Theo Giả Quỳ, Tiêu là nước phụ dung, mang họ Tử (cùng họ với vua Tống). Giải thích của Giả Quỳ có lý hơn theo cách gọi các bà quý phụ đương thời.
[81] Theo lời chú thích của Nienhauser, theo truyền thống, đất đai được quy hoạch theo hướng nam-bắc. Quy hoạch theo hướng đông-tây, tức đường đi, đê ngòi chạy theo hướng đông tây, tạo điều kiện dễ dàng cho quân Tấn tiến đánh Tề.
[82] Tả truyện chép: Quân Tấn đến Tề, sai Tề trả cho Lỗ ruộng rất ở Vấn dương.
[83] Tề sau khi thua Tấn, thế yếu, nên Khoảnh Công vừa phải mua chuộc lòng dân vừa phải mua chuộc chư hầu để giữ vững ngôi vị.
[85] Tức Tuân Yển. Ông nội Tuân Yển là Tuân Lâm Phụ làm chức Trung hàng, sau đổi chi họ làm Trung hàng.
[88] Theo Phục Kiền, Trang Công cho rằng người vợ không biết mình đang đứng ngoài cửa, nên hát để đánh tiếng. Có thuyết khác nói Trang Công biết mình bị lừa, sợ không thoát được, nên hát lời ăn năn.
[89] Ý nói Trang Công chết vì ham muốn riêng tư, chẳng ai sẽ vì ông ta trả thù.
[92] Tả truyện chép lời Thành và Cường báo với Khánh Phong: “Phu tử chúng tôi thế nào ngài cũng đã biết, chỉ có Vô Cữu và Yển theo hầu một bên, anh em trong nhà chẳng ai được gặp. Sợ chúng hại Phu tử, nên mạo muội đến báo.” Khánh Phong nói: “Nếu có ích cho Phu tử, ắt phải trừ chúng đi, nếu khó thì ta sẽ giúp các ngươi.” Bèn giết Đông quách Yển và Đường Vô Cữu nơi chính đường nhà họ Thôi. Thôi Trữ và vợ đều treo cổ tự sát, Thôi Minh trốn sang Lỗ.
[93] Theo Phục Kiền, Khánh Xá là con trai của Khánh Phong, được Phong truyền giao trách nhiệm.
[94] Theo Giả Quỳ, 25 gia đình là một xã, 1.000 xã là 25.000 gia đình.
[96] Theo Đỗ Dự, Quốc Huệ Tử tên họ là Quốc Hạ, Cao Chiêu Tử tên họ là Cao Trương.
[97] Theo Giả Quỳ, Yến Ngữ là con Yến Anh.
[99] Ưởng được chọn làm đánh xe, nên còn gọi là Ngự Ưởng, là Đại phu nước Tề, cũng thuộc dòng họ Điền. Trần Hoàn Tử Vô Vũ sinh con là Vỉ, Vỉ sinh con là Hiến, Hiến sinh ra Ưởng.
[100] Hám Chỉ.
[101] Điền Nghịch là Tử Hành.
[102] Vốn họ Trần (ông tổ Trần Hoàn là con Trần Linh Công), đến Tề mới trở thành họ Điền. Theo Phục Kiền, Tử Ngã thấy Điền Nghịch sống sót thoát được, sợ bị họ Trần oán hận, nên cố đến ăn thề với họ để giảng hòa.
[104] Theo Phục Kiền, anh em Thành Tử gồm 8 người, hai người một xe. Thuyết này còn nhiều nghi vấn. Hệ bản chép Điền Hi Tử Khất sinh ra Thành Tử Thường, Giản Tử Xỉ, Tuyên Tử Kỳ Di, Mục Tử An, Lẫm khâu Tử Thượng Y, Tư Tử Mang Doanh, Huệ Tử Đắc, gồm 7 người. Đỗ Dự sung thêm Chiêu Tử Trang cho đủ 8 người. Xét theo Hệ bản, Chiêu Tử là con của Hoàn Tử, là chú của Thành Tử, lại chẳng phải tên Trang, ráng buộc cho đúng số bốn xe tám người. Điền Hoàn thế gia chép rằng anh em Điền Thường bốn người đến cung Giản Công, phù hợp với sự kiện đã kể trên. Ở đây chỉ nói bốn cỗ xe, chẳng nói số người, thì đủ biết bốn người ngồi bốn xe vào cung, chẳng phải hai người một xe.
[105] Theo Phục Kiền, Tử Ngã ra đón, anh em Thành Tử đột ngột xông vào, rồi đóng trái cửa, Tử Ngã chẳng thể vào lại.
[106] Ý nói mọi người tham gia đảo chính đều họ Điền. Nếu Điền Thành Tử bỏ trốn thì phải giết Thành Tử để gột tội cho họ Điền.
[107] Theo Phục Kiền, Tử Phương là người thuộc phe Tử Ngã, là Đại phu Đông quách Giả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét