Trong lịch sử, Hàn Tín được xem là bậc danh tướng kiệt xuất, bách chiến cách thắng của nhà Hán, giúp Lưu Bang lập nên nghiệp lớn. Tuy nhiên, ít người biết rằng thời niên thiếu ông đã phải chịu biết bao sự khinh rẻ của người đời.
Những điển tích nổi tiếng về Hàn Tín. (Ảnh minh họa)
Hàn
Tín (229 – 196 TCN) là người Hoài Âm, tỉnh Giang Tô. Ông là một danh
tướng dũng mãnh, thiên hạ vô địch, được vua Hán Cao Tổ ca ngợi là: “Nắm trong tay trăm vạn quân, đã đánh là thắng, ta thật không bằng Hoài Âm Hầu”.
Thời
Hán Sở tranh hùng, ông là 1 trong “tam kiệt nhà Hán” có công rất lớn
giúp Hán Cao Tổ Lưu Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài 400
năm. Nhưng thuở chưa thành danh, vì gia cảnh bần cùng mà ông phải chịu
biết bao sự khinh rẻ của mọi người.
Ông
sinh ra trong gia cảnh bần cùng, sa sút vì vậy trong lịch sử không có
nhiều ghi chép chi tiết về gia đình ông. Có ghi chép nói rằng, Hàn Tín
sinh sống cuộc sống thanh bần cùng người mẹ của mình. Trong nhà Hàn Tín
có cất chứa binh thư và bảo kiếm vì vậy ngay từ nhỏ ông đã được tiếp xúc
với chúng, đồng thời ông cũng nhận được sự giáo dục tốt đẹp ngay từ bé.
Cũng có ghi chép nói rằng, tổ tiên của Hàn Tín thuộc tầng lớp quý tộc trong xã hội.
Sau
khi mẹ qua đời, cuộc sống của Hàn Tín càng thêm khốn khó. Ông thường
xuyên không có cơm ăn. Bởi vì nghèo khổ nên Hàn Tín cũng phải chịu đủ
mọi ánh mắt và sự khinh bỉ, bắt nạt của người khác.
Hàn Tín. (Ảnh: Wikipedia)
Tuy
nhiên, ông cũng được một số người bố thí, giúp đỡ. Về chuyện Hàn Tín bị
người khác nhục mạ, trong lịch sử cũng có rất nhiều câu nói có liên
quan như: “Làm khách nhà Xương Đình”, “Chịu nhục chui háng”, “Bát cơm ngàn vàng”, “Co được giãn được”…
Làm khách nhà Xương Đình
Viên
quan nhỏ địa phương là Nam Xương Đình thấy Hàn Tín có tướng mạo đường
hoàng, không phải hạng phàm phu tục tử, hiện tại bị khó khăn vây khốn
nhưng tương lai nhất định sẽ làm nên việc lớn, vì vậy đã rất quan tâm
Hàn Tín, thường mời Hàn Tín về nhà mình ăn cơm.
Sau
một thời gian, vợ của Nam Xương Đình sinh lòng hiềm khích và muốn đuổi
Hàn Tín đi. Một lần Hàn Tín đến nhà Nam Xương Đình ăn cơm, vợ của Nam
Xương Đình nấu ăn sớm rồi bà để cho người nhà ăn hết tất cả đồ ăn và dọn
dẹp sạch sẽ.
Lúc Hàn
Tín đến nhà Nam Xương Đình ăn cơm, ông phát hiện ra trên bàn ăn trống
trơn, ngay cả “cơm thừa canh cặn” cũng không còn. Hàn Tín vừa nhìn thấy
vậy liền hiểu ra ngay, lập tức quay đầu bước đi. Từ đó về sau, Hàn Tín
không còn đến nhà Nam Xương Đình ăn cơm nữa. Cũng vì chuyện này mà phát
sinh ra hai câu nói: “Xương Đình chi khách” và “Xương Đình lữ thực” (Tạm dịch: Làm khách nhà Xương Đình).
Bát cơm ngàn vàng
Một
lần ông đến bên bờ sông câu cá gặp một bà lão giặt quần áo. Bà lão biết
tình cảnh khó khăn của Hàn Tín nên rất đồng cảm với Hàn Tín.
Bà
lão thường xuyên chia sẻ đồ ăn của mình cho Hàn Tín. Hán Tín cảm kích
trong lòng nên đã thề rằng sau này nhất định sẽ báo đáp ân huệ của bà
lão.
Về
sau, Hàn Tín “mặc áo gấm” trở về quê hương, đã tặng cho bà lão nhiều
vàng bạc để tỏ lòng biết ơn về sự giúp đỡ của bà lão khi xưa. Câu nói “Nhất phạn thiên kim” (Tạm dịch: Bát cơm ngàn vàng) cũng từ đây mà ra. Ý nói rằng, nhận của người một chút ân huệ dù ít ỏi giống như “dòng nước chảy nhỏ giọt”, nhưng báo đáp người lại tràn đầy giống như “dòng suối chảy tuôn trào”.
Ôm hoài bão lớn
Một
sự việc khác cũng thể hiện rõ thời niên thiếu, Hàn Tín đã ôm ấp hoài
bão, chí lớn. Đó là, năm Hàn Tín 15 tuổi, mẹ của ông qua đời.
Mặc
dù gia cảnh bần cùng là vậy, nhưng ông vẫn chọn một khu đất rộng và cao
để chôn cất mẹ. Khu vực đất xung quanh mộ mẹ ông đủ để cho vạn người
dân cư trú.
Điều
này cho thấy rằng, năm ấy, Hàn Tín tuy còn nhỏ tuổi nhưng đã tin tưởng
chính bản thân mình tương lai có thể làm được việc lớn, được phong chức
tước cao.
Chịu nhục chui háng
Thời Hàn Tín chưa thành danh còn có một việc phát sinh lưu truyền đến muôn đời sau đó là chuyện Hàn Tín “chịu nhục chui háng”.
Thời
ấy, gia cảnh bần cùng, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc nhưng chí hướng
của Hàn Tín đặt ở nơi cao xa nên ông thường đeo bên mình một thanh bảo
kiếm.
(Ảnh: Internet)
Trong
thành Hoài Âm có một kẻ vô lại là con trai của một người đồ tể, kẻ vô
lại này rất ngang ngược, thường hay bắt lạt người khác. Một lần vì muốn
hạ nhục Hàn Tín nên hắn ta đã ở nơi đông người mà chặn đường ông.
Kẻ vô lại nói: “Ngươi
khoác kiếm làm gì? Ngươi dám sát nhân không? Ngươi dám sát nhân thì
chặt đầu của ta xem. Nếu ngươi không dám sát nhân thì ngươi chui háng ta
mà đi”.
Đối
mặt với sự khiêu khích đột nhiên xảy đến này, Hàn Tín không hề sợ hãi
mà nhìn thẳng vào kẻ vô lại thật lâu. Cuối cùng, thần sắc không hề thay
đổi, ông thực sự đã chui qua háng của kẻ vô lại mà đi.
Người
thản nhiên chịu nhục có thể phân làm hai loại: Một loại là người có ý
chí tinh thần sa sút, sống tạm bợ, chỉ biết hưởng an nhàn bản
thân. Còn loại kia là người có chí hướng cao xa, co được giãn được, nhẫn
chịu được gánh nặng. Đây là những người biết nhìn xa trông rộng.
Thời
xưa người ta gọi họ là “hào kiệt chi sĩ”, hay “kẻ sĩ hào kiệt”. Những
người này tất có khí tiết hơn người thường. Người bình thường thấy nhục
liền “rút kiếm tương đấu”. Người xưa cho rằng, đây không phải là cái
“dũng” của kẻ sĩ.
Người
đại dũng trong thiên hạ, gặp nguy mà không kinh, gặp rủi ro vô cớ mà
không phẫn nộ. Người làm được việc lớn, ắt phải có tâm đại nhẫn, có tĩnh
khí, và Hàn Tín thực sự đã làm được điều này.
Cho
đến tận ngày nay, những điển tích Hàn Tín chịu nhục vẫn còn được lưu
truyền mãi, nhắc đến khả năng “nhẫn nhịn”, người ta đều nhắc đến ông để
làm tấm gương mà noi theo.
Theo Daikynguyenvn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét