ĐẬP BÁI THƯỢNG VÀ CỬA ĐẠT QUA BÀI VIẾT-SÔNG CHU NGÀY ẤY BÂY GIỜ
Sông Chu- đoạn qua núi Mục
SÔNG CHU NGÀY ẤY... BÂY GIỜ
Bút ký của Lê Xuân
Thế là đã tròn 10 năm tôi lại mới có dịp về thăm quê, về với dòng
sông Chu, nơi đã tắm mát tuổi thơ tôi với bao vui buồn. Từ trung tâm
thành phố Thanh Hóa, tôi và nhà thơ Phạm Đình Ân rong ruổi trên xe
hon-da theo đường đê sông Chu về làng Hón, Thọ Hải, Thọ Xuân, nơi tôi đã
cất tiếng khóc chào đời.
Gặp lại sông Chu giữa những ngày tháng bảy mưa ngâu sùi sụt, một cảm
giác lâng lâng xâm chiếm tâm hồn tôi. Mọi năm vào thời điểm này dòng
sông đã ngập nước trắng xóa nhưng năm nay có lẽ do ảnh hưởng khí hậu
toàn cầu đang nóng dần nên ít mưa, Thanh Hóa vừa trải qua một đợt nắng
hạn, khủng khiếp, sông Chu có chỗ cạn trơ đáy, lội từ bên này sang bên
kia nước ngập chưa quá đầu gối. Có chỗ lục bình lấp 1/3 dòng chảy. Trâu
bò nhởn nhơ gặm cỏ trên triền đê. Tôi bồi hồi nhớ lại những ngày xa.
1- Sông Chu ngày ấy:
Theo ông Lê Xuân Kỳ- Phó chủ tịch Hội khoa học Lịch sử Thanh Hóa,
cho biết: “Sông Chu hay còn gọi là sông Lường (ngôn ngữ Tày, Thái gọi là
Nậm Sam, nguyên gốc gọi là sông Sủ, người Pháp viết thành Chu, là phụ
lưu lớn nhất của sông Mã. Bắt nguồn từ vùng núi Houa cao 2.062m phía tây bắc Sầm Nưa(Lào),
chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, rồi đổ vào bờ hữu sông Mã ở Ngã Ba
Giàng (Ngã Ba Đầu, Ngã Ba Bông), cách cửa sông 25,5km. Có người suy từ
sông Mã là “ngựa” rồi cho rằng “Chu” là do tiếng Mường phát âm chệch
là “Trâu” (con trâu) nên gọi là sông Chu thì chưa đủ căn cứ thuyết
phục”.
Sông Chu dài 325km, phần chảy vào Việt Nam 160km, qua các huyện Quế Phong (Nghệ An), Thường Xuân, Thọ Xuân (Thanh Hóa). Diện tích lưu vực 7.580km², phần ở Việt Nam 3.010km2,
lưu lượng trung bình 148m³/s/năm.Phía trên đập Bái Thượng, lòng sông
hẹp và nhiều thác ghềnh, đá ngầm, đá nổi, vận chuyển trên sông chủ yếu
bằng bè, mảng, chỉ thuyền độc mộc mới qua lại được nhưng cũng rất khó
khăn. Tàu thuyền chỉ đi lại được ở hạ lưu khoảng 96 km (đoạn Ngã Ba Đầu
đến Bản Don).
Từ năm 1921 đến năm 1929,người Pháp đã xây dựng đập dâng nước Bái
Thượng dài 160 m, cao 23,5m, lấy nước tưới cho hơn 50 nghìn ha đất ruộng
hai vụ của Thanh Hoá. Trong kháng chiến chín năm, máy bay Pháp đã dội
bom phá đập Bái Thượng, làm hàng ngàn ha đất thiếu nước chỉ trồng cấy
được một vụ. Các huyện như Thường Xuân, Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định…
đồng đất trắng phớ, nứt nẻ, cỏ không mọc nổi. Người dân lâm vào cảnh đói
ăn triền miên.
Những ngày lên chín lên mười, chiều chiều tôi thường cùng lũ trẻ
trong xóm thả bò trên bãi Tự Nhiên ven sông đoạn từ làng Hón tới làng
Hương. Bên kia là bến đò Lược, bờ sông lở thẳng đứng, trơ đất đỏ. Còn
bên này là bên bồi, bãi cát chạy dài cỏ mọc chi chít, nhiều nhất là cỏ
gà và cỏ gấu, trâu bò tha hồ ăn. Khoảng 5 giờ chiều đuổi bò về chuồng,
con nào con nấy bụng căng đầy. Khi trâu bò tự do gặm cỏ, lũ chúng tôi
thường chơi nhiều trò như: tập đánh trận giả, có chia làm hai phe bên Ta
và bên Tây, hoặc chơi trò bịt mắt bắt dê, cướp cờ, rồi kéo co, vật
nhau. Hôm thì đánh khăng, đánh đáo, hôm thì thi chạy, thi bơi… Chơi thỏa
thê, khi mặt trời sắp lặn thì cùng nhau ào xuống tắm. Lại bơi sải, bơi
ếch, bơi ngửa, rồi thi lặn xem đứa nào lâu nhất. Trong tất cả các cuộc
thi bên nào thắng thì bên kia phải “làm trâu”, “làm bò” cõng đi khoảng
100m. Người cưỡi có quyền ra lệnh bằng tay, vỗ mạnh vào đầu, vào lưng
đối phương bắt đi nhanh hay chậm. Xong rồi thì tìm những cây “cỏ gà” có
“đầu” để “đá”. Hôm nào đói quá thì bên thua phải mò vào bãi ngô, bãi
lạc của hợp tác xã lấy trộm luộc cho cả bọn cùng ăn. Vô phúc nếu không
cảnh giới tốt mà bị bảo vệ hợp tác xã bắt được thì hôm đó bị cha mẹ cho
ăn no đòn.
Cứ thế tuổi thơ chúng tôi lớn lên cùng sông Chu với biết bao kỷ niệm
vui buồn. Có đứa đi bộ đội rồi nằm lại chiến trường, có đứa vớt củi lụt
trên sông vào mùa nước lũ bị cuốn trôi, có đứa đi lấy vợ lấy chồng xa
xứ… Nhiều đứa đi làm ăn thành đạt, thành ông nọ bà kia. Còn tôi chỉ là
làm anh giáo quèn dạy văn, mê thơ phú và báo chí. Nhớ lại những ngày còn
bé được theo mẹ, theo chị đi chợ thì sướng lắm, nhất là những phiên
chợ Tết. Trước ngõ nhà tôi có hai cây bồng bồng to phải hai người ôm
mới xuể (có nơi gọi là cây Roi, trong Nam gọi là cây Mận) và phía vườn
giáp đường có chín cây dừa đã lão cao đến mời lăm hai mươi mét, nên đến
mùa quả là mẹ lại cho tôi theo đi chợ Đường (còn gọi chợ Tứ Trụ) bên
này sông, hay chợ Đầm (Xuân Thiên), hoặc chợ Lược bên kia sông.
Chợ thường họp gần ven sông nên cứ để mẹ ngồi bán hoa quả, tôi chạy
ra bến đò xem người lên xuống đi chợ hay đứng ngắm dân vạn chài tung
lưới bắt cá, nhìn những bè mảng chở gỗ, tre, luồng lững lờ xuôi dòng
sông Chu. Hơn một tiếng sau mới quay lại chỗ mẹ. Mẹ đã mua sẵn mấy khúc
mía tím rất mềm và ngọt, và cái bánh đa. Tôi chỉ được chia một khúc và
một phần ba cái bánh đa để ăn trước, còn lại phải mang về cho anh chị
và các em.
Đẹp nhất vẫn là những đêm trăng sáng tôi cùng bạn bè ngồi tán đủ
chuyện trên trời dưới đất bên bờ sông Chu. Dòng sông êm trôi lấp lánh
dưới trăng như dát vàng dát bạc, gió thổi mát rượi. Có đứa đã có bạn gái
nhưng không bao giờ dám hẹn ngồi tâm sự trong đêm. Lỡ bị dân quân tự
vệ đi tuần bắt được thì ngày mai cả làng đều biết. Có khi bị cha mẹ
đánh chửi. Xấu hổ lắm, tuy họ chưa hề hôn nhau hay thổ lộ yêu đương gì.
Ngày ấy mà phạm vào “tội” yêu đương tự do lãng mạn là khó được kết nạp
vào đoàn Thanh niên lao động lắm. Ít nhất cũng phải “cải tạo” lao động
gánh phân, làm cỏ cho hợp tác xã cả tuần không được ghi công điểm.
Những ngày áp Tết, dòng sông vui nhộn hẳn lên. Bến Thồn, bến Rạch,
bến Lược, các mẹ các chị ngồi rửa lá dong chuẩn bị gói bánh, người đãi
gạo, đãi đậu. Trẻ con cởi truồng tắm, chạy, nô đùa thỏa thích. Mỗi năm
cứ sau Trung thu, nước sông trong vắt, tới dịp Tết thì sông cạn, nhiều
chỗ có thể lội từ bên này sang bên kia được. Còn vào những ngày lũ lụt
tháng bảy, tháng tám thì dòng sông như một con trâu điên lồng lộn, cuốn
phăng tất cả những gì mà nó đi qua. Có những năm nước sông Chu dâng cao
tràn khắp mấy xã ven sông. Nhà tôi có lần nước lụt ngập gần hai mét.
Cả những cây cổ thụ trên rừng cũng trôi về dạt vào vườn, nhiều nhà phải
trổ mái ngồi lên nóc chờ người tới cứu đưa lên đê…
Sông Chu cứ thế là nhân chứng với bao ái, ố, hỉ, nộ cho lớp trẻ lớn lên từ bấy đến nay.
2- … Và bây giờ:
Trên
đê sông Chu từ Thiệu Hóa về Thọ Xuân chúng tôi dừng lại khá lâu ngắm
đoạn qua làng Xuân Phả, Xuân Trường, nơi chúng tôi đã từng trọ học hồi
cấp 2, cấp 3. Những bãi mía, bãi ngô, nương dâu chạy sát bờ sông xanh
mướt. Thỉnh thoảng mới thấy một vài cây xoan, cây trẩu khẳng khiu mọc
gần triền đê. Nhiều đoạn đê đã được xi măng hóa. Vài điếm canh ngày xưa
vẫn còn đó, mốc meo, hoang lạnh. Làng Hương, làng Rạch sau vài chục
năm, bờ sông bị lở lấn vào hàng trăm thước. Có tới một phần ba số hộ đã
phải dời nhà ở đi nơi khác. Tôi đứng ngắm bến sông mà không hề thấy
một bóng người ra tắm hay gánh nước như trước đây. Ở làng Rạch, làng
Hón, làng Hương, làng Bún… bây giờ nhà nào cũng có giếng khoan, nhà cầu
tự tiêu, nhà tắm lát gạch men chẳng kém gì thành phố. Hôm sau, trên
đường đi Thường Xuân qua cầu Sông Chu tôi dừng lại ngắm đập Bái Thượng,
nước tràn trắng xóa. Vẫn là cái đập ngày xưa ấy nay đã được sửa chữa,
gia công lại khá vững chắc. Từ đập tràn, nước được điều tiết cho sông
Đào tưới mát hàng vạn héc ta lúa hai vụ và hoa màu của huyện Thọ Xuân,
Thiệu Hóa…
Ngược sông Chu, cách rừng Lim chừng mươi cây số, rẽ phải vài cây nữa
là tới Cửa Đạt- một công trình thủy lợi thật hoành tráng, đang thi
công. Đập Cửa Đạt là một đập lớn nhất ở Việt Nam, được Chính phủ phê
duyệt, xây dựng từ tháng 2- 2004, với tổng số vốn hơn 10 nghìn tỉ đồng,
dự kiến sẽ hoàn thành vào tháng 11- 2009. Sau hơn hai năm thi công,
ngày 2- 12- 2006, dòng sông Chu đã được chặn lại, dẫn nước tới hồ chứa
hơn 1,45 tỉ m³,có thể tưới tiêu cho 9 vạn ha đất nông nghiệp của tỉnh,
phục vụ nước sinh hoạt cho cư dân các huyện miền xuôi và thành phố
Thanh Hoá, cấp nước cho sông Mã vào mùa cạn, đồng thời cung cấp nước
cho nhà máy thủy điện Cửa Đạt với công suất trên 100 MW (tương đương
nhà máy nhiệt điện Ninh Bình). Ngày 31- 5- 2010 nhà máy thủy điện Cửa
Đạt đã hoàn thành, hòa vào mạng lưới điện quốc gia với 2 tổ máy phát
hết công suất là 400 triệu KWh/năm.
Ảnh năm 2008
Ảnh năm 2010
Một số hạng mục quan trọng của công trình cấp quốc gia này đã thi
công hoàn tất thì đùng một cái, cơn bão số 5 năm 2007 với mưa lũ lớn đã
xoáy bể đập ngăn nước ngày 10- 5- 2007, làm thiệt hại hơn 50 tỉ đồng.
Tới nay sự cố đã được khắc phục, các hạng mục cơ bản đã thi công xong.
Rồi đây khi đập Cửa Đạt hoàn thành, cùng với các di tích lịch sử, danh
lam thắng cảnh của huyện Thường Xuân, thì đây sẽ là một điểm du lịch
sinh thái lý tưởng, có non xanh nước biếc hữu tình, có rừng nguyên sinh
với nhiều loại gỗ quý như: lim, sến, táu, lát hoa, chò, dỗi… cùng nhiều
động vật quý hiếm như vượn, khỉ, voọc xám, chim trĩ, chim công, hổ,
báo, hươu , nai...
Cả một vùng rộng lớn của tả ngạn sông Chu gồm một phần của huyện
Thường Xuân, Ngọc Lạc, Thọ Xuân… giờ đã là vùng nguyên liệu mía cho nhà
máy đường Lam Sơn tọa lạc tại thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hóa với
hơn 3000 ha. Trước đây, dân vùng này khổ lắm. Ruỗng rẫy chỉ trồng sắn
và dứa, người dân sống dựa vào rừng là chủ yếu. Những năm đói kém chỉ
ăn cháo sắn “gạc nai” (sắn để cả củ, phơi khô gác lên gác bếp, bồ hóng
bám đen sì, cứng như gạc con nai). Từ ngày có nhà máy đường Lam Sơn,
vùng đất rộng lớn này chuyên canh cây mía theo hợp đồng ký kết thỏa
thuận giữa người dân và nhà máy. Cán bộ kỹ thuật hướng dẫn cách chọn
giống, cách trồng, chăm sóc, tưới tiêu cho cây mía. Vì thế đời sống bà
con nơi đây đã được nâng lên rõ rệt. Suốt cả đoạn đường dài hàng chục
cây số không thấy một bóng nhà tranh tre vách nứa như trước đây. Thay
vào đó là những nhà ngói khang trang và nhiều nhà cao tầng mọc lên. Ông
Lung, một lão nông ở thị trấn Lam Sơn cho biết: “Trước đây làm nương
rẫy, trồng đủ loại cây mà vẫn không đủ ăn, một năm thiếu ăn hơn 3
tháng. Từ ngày tôi vào làm “công nhân nông nghiệp” cho nhà máy, qua mấy
vụ mía trúng, tôi đã xây được nhà, sắm được ti vi, tủ lạnh, xe máy…
Các cháu đều được học hành đến nơi đến chốn, không còn phải ăn cơm độn
khoai sắn như trước đây nữa. Tôi cảm ơn ban lãnh đạo nhà máy nhiều
lắm”.
Một điều đáng ghi nhận nữa là phần lớn bà con nông dân ven bờ sông Chu
đã chuyển đổi vật nuôi cây trồng. Từ việc nuôi lợn trước đây chuyển
sang nuôi bò hôm nay, rất ít nhà nuôi lợn. Nhà nuôi ít nhất một con bò,
nhà nhiều năm, bảy con. Bò để kéo cày, kéo xe, bò để cung cấp thịt.
Con nào con nấy béo nung núc. Người ta không thả rông bò trên bãi Tự
nhiên hay ở triền đê như trước đây nữa, mà nhốt trong chuồng, hoặc buộc
ngoài vườn cho ăn “cỏ voi”, “cỏ mật”, ngọn mía do mỗi gia đình tự
trồng trên phần đất của mình. Ngoài cỏ, bò còn được ăn thêm cám, khoai,
ngô để tăng trọng… Một con bê 3 tháng tuổi có thể bán được 5- 6 triệu.
Nuôi một năm có thể bán được trên dưới 15 triệu. So với nuôi lợn thì
nhàn nhã nhiều mà lại ít bị bệnh, lời lãi cao hơn. Về cây trồng thì
phần lớn các hộ bây giờ trồng ngô lai và mía theo những hợp đồng ký kết
với các nhà máy, doanh nghiệp. Tôi có dịp tới các xã Thọ Diên, Xuân
Hưng, Xuân Hòa, Xuân Trường, Thọ Nguyên, Thọ Thanh, phố Châu, phố Cống,
Thường Xuân tới đâu đường làng ngõ xóm cũng đều xi măng hóa. Điện,
đường, trường, trạm đầy đủ, sạch, đẹp.
Tôi bồi hồi tới mảnh đất xưa, nơi tôi học khóa 1961- 1964, trường cấp 2
& 3 Thọ Xuân còn học chung thì nay trường không còn ở đó nữa mà đã
chuyển tới một địa điểm khác rộng rãi hơn, đẹp đẽ hơn cách trường cũ
khoảng 300m, và mang tên trường THPT Lê Lợi với những dãy nhà cao tầng,
rợp bóng cây xanh. Đây là ngôi trường được tách ra từ trường cấp 3 Lam
Sơn Thanh Hóa, cùng với việc thành lập trường cấp 3 Hà Trung. Lúc đó là
hai trường tuyến huyện lớn nhất được thành lập từ năm 1959 của tỉnh
Thanh Hóa.
Từ 6 lớp năm học đầu tiên 1959- 1960 với 257 học sinh và 12 thầy cô
giáo, đến năm học 2009- 2010 trường THPT Lê Lợi đã có 36 lớp với 1.660
học sinh và 81 thầy cô giáo, cán bộ nhân viên. Trường tổ chức kỷ niệm 50
năm thành lập (1959- 2009) thật lớn, nhưng rất tiếc chúng tôi không về
được. Nhiều giáo viên, học sinh các thế hệ đã về dự, lưu niệm lại
nhiều kỷ vật quý góp phần làm phong phú thêm phòng truyền thống của
trường. Tiếp tôi và nhà thơ Phạm Đình Ân có cô Lê Thị Huyền- hiệu
trưởng, thầy Đặng Mạnh Hồng- hiệu phó, thầy Lê Sĩ Hải- hiệu phó. Thầy
Hồng cho biết: “Thế hệ các thầy và các anh những năm đó giờ không còn
ai ở lại trường, hầu hết đã nghỉ hưu, có người đã mất. Chúng em là học
sinh các lớp sau của trường cũng sắp hưu rồi. Điều đáng tự hào là trong
50 năm qua nhà trường đã có nhiều anh hùng, chiến sĩ, nhiều nhà giáo
nhân dân, nhà giáo ưu tú, người là tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ, người là nhà
khoa học, nhà văn, nhà báo… lớn lên từ mái trường này, làm rạng danh
cho ngôi trường mang tên vị Thái tổ cao hoàng đế Lê Lợi…”.
Và còn biết bao kỷ niệm với con người và mảnh đất bên đôi bờ sông
Chu. Mươi ngày nghỉ phép mà tôi đã thăm lại được nhiều di tích lịch sử
và danh lam thắng cảnh ở Thọ Xuân, Bái Thượng, Cửa Đạt, Thường Xuân,
Ngọc Lạc, Lam kinh, đền thờ Lê Lai, Lê Hoàn, thành nhà Hồ, bãi biển Sầm
Sơn… Tới đâu tôi cũng xúc động trước cảnh trước người, và đặc biệt
giọng nói lơ lớ, thân thương của “quê choa” không lẫn với bất cứ vùng
miền nào. Còn dòng sông Chu mãi mãi là máu thịt của đời tôi:
Sông Chu ngày ấy… bây giờ
Bâng khuâng nỗi nhớ, ngẩn ngơ, bồi hồi
Dòng sông bên lở bên bồi
Lòng tôi đầy mãi những lời sông Chu…
Thọ Hải 13 - 23/8/2010
LÊ XUÂN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét