Tiếng
nói không những là phương tiện giao tiếp mà còn là một
thứ "căn cước" cho biết mình là người miền nào. Nghe tiếng
nói người ta phân biệt được người Bình Định với người
người Phú Yên, người Gò Công cũng nói không giống người
Rạch Giá.
Tuy vậy, không cần phải là
một nhà nghiên cứu, ai cũng có thể thấy người Việt, nói
chung, có chung một đặc tính kỳ diệu: từ Bắc xuống Nam
cùng nói một thứ tiếng Việt phổ thông; sách vở cũng dùng
chung một thứ chữ Việt phổ thông. Nếu trong 9 thôn bản
của người Mông, Lô Lô, Tày, Pu Péo ở xã Lũng Cú, một xã
cực bắc Việt Nam, thuộc huyện Đồng
Văn tỉnh Hà Giang, mà có người Việt sinh sống, thì
người Việt ở đó, cho đến những
người Việt ở Xã Đất Mũi, một xã cực Nam, thuộc
Huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau, cùng đọc hiểu chung một
thứ chữ viết, nói chung một thứ tiếng Việt.
Nhưng
người ở mỗi địa phương, mỗi miền có cách nói khác nhau,
thậm chí có cả từ vựng khác nhau. Thứ tiếng khác nhau đó
được coi là phương ngữ: ngôn ngữ
"đặc sản" của một địa phương. Chính cái khác nhau của
ngữ âm và từ vựng "đặc sản" làm nên tính chất
đặc biệt của con người ở vùng miền đó.
Phương
ngữ của một địa phương được thể hiện ở hai mặt:
ngữ âm (phonectic sounds), và từ đặc trưng của địa phương
(local words/phrases).
Về mặt ngữ âm, ngoài sự
biến âm tự nhiên (natural change) mang đặc tính vùng miền
còn có sự biến âm cưỡng bức (forced change) một cách giả
tạo.
Nói một cách sơ lược, sự
biến âm tự nhiên của người miền Nam [1]
nói chung được thấy rõ trong
cách phát âm của một số phụ âm đầu, chủ yếu là hoạt
động của âm đệm (hay cũng gọi là âm phụ) /-w-/ (mà
chữ viết là o, u như trong các từ ngoan ngoãn,
quán quân...).
1. Âm đệm biến phụ âm [Kh-] thành [Ph-]Ngoài ra, người miền Nam nói chung không phân biệt được các phụ âm cuối "-n" và "-ng", "-t" và "-c"
Ví dụ: "ăn khoai" thành ra "ăn phai,"
"khoan khoái" thành "phan phái"
"khuây khỏa" thành "phây phả"
"Ông ấy phứt núi rồi" (khuất núi). 2. Âm đệm thay thế phụ âm đầu:
Ví dụ: "hoàn toàn" được phát âm "wàntàn(g)",
"Ngoan ngoãn" thành ‘wan wãn"
"Nguyễn" thành "wĩễn"
"Hoa quả" thành "wa wả,"v.v...
Mà "qua" cũng thành "wa".
("Hoa" và "qua" cùng được phát âm "wa" nhưng được hiểu theo ngữ cảnh: "Mua một ít "wa wả" (hoa quả) về cúng," và "Bậu gieo tiếng dữ cho rồi bậu ra / Bậu ra cho khỏi tay "wa")
3. Âm đệm biến đổi phụ âm xát hữu thanh G /g/ thành phụ âm tắc xát Gi- /j/
Ví dụ: "ở góa" thành ra "ở giá,"
(nhưng "guồng máy" thì vẫn là "guồng máy")
4. Âm đệm biến mất sau phụ âm [Nh-]:
Ví dụ: "Nhuyễn" được phát âm thành "nhiễn"
Ví dụ: "than lửa" và "cái thang", "mặt mũi" và "mặc kệ".
Và người ở một số địa
phương ở Nam bộ [2]
không phát âm được những từ có
phụ âm đầu là R /r/, một âm rung đầu lưỡi. Trong khi vài
địa phương ở miền Trung nói rõ âm /r/, một số địa phương
ở Nam Trung Phần [3]
phát âm âm /r/ thành âm tắc xát /j/ (Rõ ràng = jõ jàng), người
miền Bắc phát âm âm /r/ thành âm hữu thanh /z/ (Rõ ràng =
zõ zàng), thì nhiều người ở một địa
phương Nam bộ có khuynh hướng biến âm rung đầu lưỡi /r/
thành một âm xát hữu thanh G /g/.
Đó là nguyên nhân đưa đến
câu nói đùa phổ biến: "Con cá gô bỏ trong gổ
quậy gộtgột!"
Nói thì nói vậy, nhưng khi
viết thì ai cũng viết: Con cá rô bỏ trong rổ
quậy rột rột.
Người
miền Nam chỉ phát âm được 4 trong 5 dấu giọng: sắc, huyền,
nặng, và hỏi/ngã. Các từ ngả (trong ngả
nghiêng) và ngã (trong ngã lòng) được phát âm
giống nhau.
Nếu quá trình biến đổi
ngữ âm tự nhiên, rất phức tạp, trong suốt lịch sử phát
triển của ngôn ngữ mà chỉ các nhà ngôn ngữ học, tức
người có chuyên môn, mới có thể xác định
được, thì sự biến âm cưỡng bức xuất hiện một
cách đơn giản và dễ được nhận
thấy hơn. Đó là những từ kỵ húy phát sinh trong ngôn
ngữ Việt, ít nhất là từ thời người Việt tiếp thu văn
hóa Tàu và bắt chước thói "kỵ húy" của họ, tức là tránh
viết và nói những từ là tên của vua chúa.
Thời
xưa chữ Hán được viết theo hàng dọc từ trên xuống
dưới, từ phải qua trái. Khi gặp một chữ tên húy,
người viết "đài" chữ đó lên đầu dòng, tức là
một cách "xuống hàng" thình lình bất kể văn mạch, và đưa
chữ đó lên đầu hàng (dọc) mới, và cao hơn các hàng
khác một chữ, và điều quan trọng là chữ đó
phải được viết thiếu đi một nét. Quên các điều này
là phạm húy, có thể là tội chết, hoặc nhẹ nhất là bị
đánh hỏng và cấm thi, nếu là sĩ tử.
Còn trong lời nói thì để
tránh từ tên húy, người ta phát âm
trại đi một chút, hoặc thay bằng một từ khác, hay tránh
hẳn nói tiếng đó.
Có phải chính vì cái tập
quán kỵ húy tai hại của người xưa mà chúng ta đánh mất
tên một ông vua quan trọng trong lịch sử? Ngay các sử gia
cũng không biết tên thật của Tiên hoàng đế
Đinh Bộ Lĩnh là gì. Bộ Lĩnh chỉ là một chức quan
mà sứ quân Trần Minh công (Trần Lãm) phong cho ông, để ông
nắm giữ binh quyền chớ không phải tên thật [4].
Khi chúa Nguyễn Hoàng vào Nam
gầy dựng Xứ Đàng Trong, ông mang theo tập quán kỵ húy từ
miền ngoài vào. Nhưng ở Xứ Đàng Ngoài, trải qua hàng ngàn
năm lịch sử, với nhiều biến cố lên xuống của các triều
đại, lòng người tan hợp thăng trầm
theo mệnh nước, nhiều tiếng kỵ húy của triều đại trước
bị triều đại sau xóa bỏ, và chúng đã mai một đi trong
trí nhớ người dân, còn để lại rất ít dấu vết
trong ngôn ngữ những lưu dân theo chân Nguyễn Hoàng vào Nam.
Mà đã vào vùng đất mới này tức thoát khỏi vòng cương
tỏa của triều đình, họ chẳng thèm sợ húy gì của vua
chúa cũ nữa. Bản thân vị Chúa Tiên cũng chỉ áp đặt tập
quán đó cho thần dân của mình ở vùng đất
mới chớ chẳng bận tâm đến những từ húy kỵ nơi "cố
quốc". Có lẽ vì thế mà trong ngôn ngữ người dân
miền Nam chỉ có những từ húy từ tên các vua chúa nhà Nguyễn.
Trong
khi người dân Xứ Đàng Trong tha hồ gọi tên húy của
các vua Lê chúa Trịnh ở Đàng Ngoài, thì họ bị quy định
hết sức ngặt nghèo trong viết hay nói các từ trọng húy
của vua chúa nhà Nguyễn. Vì vậy trong ngôn ngữ xuất hiện
những từ rất oái oăm: Kỷ ngươn, Rằm thượng ngươn,
thay vì kỷ nguyên, rằm thượng nguyên
(để kiêng tên chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên); can đởm,
thay vì can đảm, đởm lược
thay vỉ đảm lược (kiêng tên vua Minh Mạng Nguyễn Phúc
Đảm), Thới bình, tên một huyện ở Cà Mau, thay vì
Thái bình (kiêng tên chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái); các tên
thôn (hiện nay là xã) như Thới Tam, Thới Tứ,
Tân Thới Nhứt, Tân Thới Nhì, Xuân Thới
Đông, Xuân Thới Sơn... thuộc khu vực Hóc Môn
thành phố Hồ Chí Minh, là tuân theo sự kỵ húy đó. Làng
Tân Kiểng xưa (Bây giờ còn Đình Tân Kiểng và chợ Tân Kiểng
ở Phường 2, quận 5, Sài Gòn) vốn có tên là Tân Cảnh (trùng
tên húy Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh, con cả vua Gia Long). Từ
Hoàng
được đổi thành
Huỳnh vì kỵ tên của Chúa
Tiên Nguyễn Hoàng. Gọi màu
hồng thành màu hường,
nói nhiệm chức thay vì nhậm chức để tránh tên Nguyễn
Phúc Hồng Nhậm của vua Tự Đức.
(Ngô Thời Nhiệm thay cho Ngô Thì Nhậm, Ngô Tòng Châu
thay cho Ngô Tùng Chu cũng vì vậy. (Chu là tên Chúa Quốc
Nguyễn Phúc Chu). Người miền Nam quen nói Tôn giáo, thay
vì tông giáo để kiêng
tên vua Thiệu Trị Nguyễn Phúc Miên Tông. Cũng vì tránh tên
ông vua thứ ba của nhà Nguyễn này mà tất cả các chữ Tông
trong các đế hiệu như Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê
Trung Tông, v.v... đểu được đổi thành Tôn: Lý Thánh
Tôn, Trần Nhân Tôn, Lê Trung Tôn...
Có thời người miền Nam nói
cúng kiếng thay vì cúng kính, kiếng lễ, thay vì
kính lễ, để kiêng tránh tên Nguyễn Hữu Kính, tên húy của
Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh, một danh tướng dưới thời
chúa Nguyễn Phúc Chu, có nhiều công lao hiển hách trên gần
suốt cả đất nước xứ Đàng
Trong. Tên ông là Nguyễn Hữu Kính, nhưng do kiêng húy, người
ta nói trại ra là Cảnh. Khoảng một trăm
năm sau, vì kiêng tên hoàng tử Cảnh, người ta lại
gọi trại một lần nữa từ Kính thành Kiếng. Vì vậy,
Nguyễn Hữu Cảnh chỉ là tên kỵ húy chớ không đúng tên
thật [5].
Nguyễn Hữu Kính từng thành lập Trấn Thuận Thành, hiện
nay là vùng đất từ tỉnh Bình Thuận đến Ninh Thuận và
trấn giữ Dinh Bình Khang, nay là vùng đất
từ tỉnh Ninh Thuận ra đến Khánh Hòa; vào năm
1698 ông được chúa Nguyễn Phúc Chu cử vào miền Nam
củng cố và mở rộng đất Sài Gòn Gia Định. Tuy không phải
mà một vị chúa, nhưng ông từng làm quan trấn nhậm, được
nhân dân ngưỡng mộ suốt từ miền Trung vào đến miền Nam,
nên họ tự kiêng tránh tên húy của ông.
Người miền Nam nói Sơn
là núi mà không nói San, vì đó là tên vua Duy Tân Nguyễn
Phúc Vĩnh San. Sau năm 1975, nhiều người
miền Nam bắt chước người miền Bắc nói phản ánh
thay vì trước đó họ nói phản ảnh (ảnh
dấu hỏi) để tránh tên vua Gia Long Nguyễn Phúc Ánh.
Ngay chữ Phúc trong tên các vua chúa nhà Nguyễn cũng phải
nói trại đi là Phước. Trước kia, miền Nam có các
tỉnh Phước Long, và Phước Tuy (được chánh phủ VNCH thành
lập năm 1956) mà theo sách Phương
Đình Dư Điạ Chí vốn là Phúc-Long- phủ và
Phúc-Tuy- phủ thuộc tỉnh Biên Hòa.
Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước có
một bài hát Lên Đàng. Đàng
là từ người miền Nam nói trại từ Đường
(tên vua Đồng Khánh Nguyễn Phúc Ưng
Đường). Tuy nhiên Đàng
không phải là một từ mới đặt mà người ta lấy một từ
cũ có sẵn. Từ Đàng
đã có ghi trong An Nam Dịch Ngữ,
một loại "tự điển" Tàu Việt do người Tàu soạn
từ Thế kỷ 15, với nghĩa tương đương
là Đường (đi).
Sự kỵ húy của nhà Nguyễn
không chỉ giới hạn trong tên các vua chúa mà mở rộng đến
tên hoặc thậm chí cung điện của các bà vương hậu (tức
hoàng hậu, vì các vua nhà Nguyễn không đặt hoàng hậu, trừ
ông vua cuối cùng là Bảo Đại). Người miền Nam nói nhơn
ngãi thay cho nhân nghĩa, chắc vì kiêng tên
của các bà vợ vua nào chăng? Tuy sách Phương
Đình Dư Địa Chí viết tỉnh Quảng Nghĩa (廣義)
nhưng người dân đều vì kỵ húy mà nói trại thành
Quảng Ngãi. Những người dịch sách Đại
Nam Nhất Thống Chí [6]
cũng viết Quảng Ngãi, dù chữ nho trong sách là Quảng Nghĩa.
Nhiều người miền Nam tầm
tuổi sáu, bảy mươi từng biết tên nữ tướng Phàn Lê Huê
(Fan Lihua, mà chữ Tàu viết là 樊梨花– Phàn Lê Hoa),
vợ của Tiết Đinh San (Xue Dinhshan), cũng có chỗ giữ húy
gọi là Tiết Đinh Sơn, trong tiểu thuyết dã sử Tàu
về thời nhà Đường chinh phục nước Tây Lương (Xi Liang).
Huê
là một từ nói trại để kiêng húy từ Hoa, vì đó
là tên bà Hồ Thị Hoa, chánh hậu của vua Minh Mạng [7].
Từ
Hoa không chỉ được nói
trại là Huê mà còn được thay bằng một từ
khác là
Bông. Theo cụ Vương Hồng Sển trong Sài Gòn
Năm Xưa, cái Cầu Bông trên đường
Đinh Tiên Hoàng bắc qua Kênh Nhiêu Lộc ở quận 1 Sài
Gòn vốn có tên là Cầu Hoa.
Các từ tên húy khác chỉ
cần tránh bằng cách nói trại đi, nhưng từ Hoa này
thì lôi thôi hơn. Cầu Hoa thành Cầu Bông, tỉnh Thanh
Hoa bị đổi thành tỉnh
Thanh Hóa, nhưng chợ Đông Hoa
ở đất thần kinh thì lại được đổi thành chợ Đông Ba!
Người Quảng Nam đến nay vẫn còn nhớ câu ca dao: "Thủng
thỉnh lượm bông ba rơi / Lượm cho có cách hơn người
trèo cao." (ba = hoa)
Trong bộ Bài Chòi của người
Quảng Nam có con
Bạch Huê; không biết Bạch Huê này
có phải là nói trại tên nàng công chúa Bạch Hoa, con vua Hùng
Vương thứ 18, kết hôn với chàng Sơn Tinh khiến Thủy Tinh
oán giận gây lụt lội hàng năm, hay bà Bạch Hoa, vợ của
danh tướng Đinh Lễ (cháu ngoại vua Lê Lợi), là bà tổ của
nghề đàn hát (cô đầu) mà vì kỵ húy người ta nói trại
đi, như được kể trong Từ Điển
Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam của Nguyễn Q. Thắng và
Nguyễn Bá Thế.
Cũng như từ đàng,
huê
là một từ cũ trong số 716 từ tiếng
Việt được ghi trong An Nam Dịch Ngữ
(từ thế kỷ 15), chớ không phải từ mới đặt như những
ngươn,
ngãi, kiểng, huỳnh... trên kia.
Những từ nói trại vì kỵ
húy còn nhiều nữa.
Võ thay cho Vũ, Đờm
thay cho Đàm,
Thời thay cho Thì, Tùng thay cho
Tòng, Nguyệt Quới thay cho Nguyệt Quế, Quới nhơn
thay cho quý nhân, vân vân. Chúng là một dạng từ biến âm
cưỡng bức được dùng phổ biến, chủ yếu trong Miền Nam,
tức Xứ Đàng Trong, từ Quảng Trị, nhưng rõ nhất là từ
Huế, trở vào. Sở dĩ người miền Bắc "miễn nhiễm" với
sự kỵ húy này là do hoàn cảnh lịch sử: "Nước" Đàng Ngoài
chẳng việc gì phải nghe theo luật lệ của "nước" Đàng
Trong. Sau khi vua Gia Long thống nhất đất nước, những tên
húy kiêng cử của nhà Nguyễn đem áp dụng cho dân miền Bắc
mà đa số còn hoài vọng nhà Lê thì sự tuân phục cũng chẳng
được bao nhiêu. Tiếp đó miền Bắc
được đặt dưới sự bảo hộ của người Pháp, nên
người ta chẳng thấy cần thiết phải sợ phạm húy với
vương triều nhà Nguyễn nữa.
Ferdinand von Humboldt (1767-1835),
triết gia, nhà ngôn ngữ học người Phổ (Prussa) cho rằng
ngôn ngữ là linh hồn của một dân tộc. "Linh hồn" của dân
tộc Việt chịu những ràng buộc ngôn ngữ quái đản
như thế, bảo sao đất nước chẳng lận đận mãi không ngẩng
đầu lên được.
Người dân Nam bộ là tổng
hợp của con cháu những người từng theo chân chúa Tiên (Nguyễn
Hoàng) vào Thuận Hóa từ năm 1558, và các đợt di dân về
sau, hợp cùng với hậu duệ của người dân bản địa của
các quốc gia cổ Chiêm Thành, Chân Lạp, và một số người
Cao Miên ở lại. Trong cuộc sống chung hòa bình, họ tiếp
xúc và ảnh hưởng văn hóa lẫn nhau,
trong đó có tiếng nói, từ đó, cùng với bối cảnh
sinh hoạt thực tiển và đặc thù, tiếng nói của người
dân Nam bộ có nét đặc trưng, cả về ngữ âm lẫn từ vựng,
không giống với miền nào khác trong cả nước. Mà vùng đất
Nam bộ của ba tỉnh Miền Tây trong "Nam kỳ Lục tỉnh" [8]
khá rộng lớn, cho nên không phải tất cả người dân Nam
bộ đều nói như nhau về mặt ngữ âm, nhưng người Nam bộ
có một "kho" từ vựng riêng rất phong phú phản ảnh cuộc
sống vật chất mà trong đó cái ăn
tương đối dễ tìm, và phản ảnh tinh thần phóng khoáng
của khối di dân trên vùng đất mới "làm chơi ăn thiệt".
Cái chất dân dã kiểu "Hôm qua qua nói qua qua mà qua hổng
qua; hôm nay qua hống nói qua qua mà qua qua"
cứ lừng lững đi vào văn học qua các nhà văn "đặc sản"
Nam bộ như Hồ Biểu Chánh [9],
Lê Xuyên [10],
Bình Nguyên Lộc [11],
học giả Vương Hồng Sển [12],
và hiện nay với Nguyễn Ngọc Tư [13]...
Với Hồ Biểu Chánh (1884–1958),
nhà văn tiên phong và tiêu biểu của tính chất Nam bộ từ
đầu thế kỷ 20, ngôn ngữ còn mang đậm tính mộc mạc dân
dã, hầu như nguyên chất văn nói. Với một bút lực rất
"ghê gớm," ông để lại hơn một
trăm tác phẩm gồm nhiều thể loại mà gần một nửa
là tiểu thuyết (64 cuốn).
Đây
là một đoạn văn ngắn trong tiểu thuyết Ngọn Cỏ Gió
Đùa của Hồ Biểu Chánh phóng tác tác phẩm
Les Miserables của văn hào Pháp Victor Hugo:
"Lê- văn- Ðó thấy nhà
giàu cơm ăn không hết lại mời khách mà đãi thâm tới ban
đêm, rồi nhớ tới nhà mình nghèo khổ, đèn không dầu nên
tối mò, mẹ đau không thuốc nằm chờ ngày chết, sắp cháu
đói bụng rên khóc van- vầy 7,
thì tức- tủi trong lòng, quyết bước vô mà cậy 8
chủ nhà giàu nầy một vài giạ lúa đen về
cho gia quyến ăn, đợi năm tới thuận mùa rồi làm mà
trả lại.
Nhà nầy là nhà ông Bá-
hộ Cao ở Vồng- Nâu. Bữa ấy là bữa ông nhóm họ đặng
cưới vợ cho con, nên mới dọn cỗ bàn mà đãi thân bằng
quyến thích. Lê- văn- Ðó ở ngoài xăm
xăm đi vô, đứng ngay cửa cái mà ngó. Khách trong nhà
mắc ăn thịt uống rượu, mắc nói
nói cười cười, không ai để ý tới ngoài sân, nên
không ai thấy nó. Cách một hồi lâu, ông Bá- hộ dòm ra, thấy
có người lạ mặt đứng trước cửa, bèn sai gia- dịch ra
hỏi coi đi đâu. Lê- văn- Ðó
thuở nay không từng nói chuyện với ai, mà cũng không hiểu
lễ phép chi hết, nên nghe người ta hỏi đi
đâu, không lấy lời dịu ngọt thê thảm mà động lòng
nhơn từ của người, lại nói xẳn- xớn rằng: - Nhà tôi
nghèo quá, tôi đi làm mướn mà không ai chịu mướn tôi làm.
Bây giờ nào là mẹ, nào là chị, nào là sắp cháu nhỏ của
tôi chết đói hết thảy, tôi đi đến
đây, thấy nhà nầy giàu có nên tôi ghé lại mượn
một ít giạ lúa về ăn đỡ."
Sắp gia- dịch nghe rồi
trở vô nhà nói làm sao với ông Bá- hộ không biết, mà khách
trong nhà cười rộ, rồi ông Bá- hộ
sai người ra đuổi Lê- văn- Ðó biểu phải đi ra khỏi cửa
cho mau."
Đến
các nhà văn Lê Xuyên, Bình Nguyên Lộc, ngôn ngữ Nam
bộ trong tác phẩm đã bớt phần mộc mạc, và có âm hưởng
của ngôn ngữ văn học hơn. Một đoạn
trong tiểu thuyết Chú Tư Cầu nổi tiếng của
nhà văn Lê Xuyên:
"Tư Cầu chẳng nói chẳng
rằng gì nữa hết, xốc thúng lúa lên nách bưng đi.
Anh ta ghé qua mái nước múc một gáo uống ừng ực. Rồi như
để trút nổi bực tức, anh ta hắt tẹt nước còn dư
vào đám rau om, móc gáo vào cây đinh nghe một cái cộp, lấy
tay quẹt miệng rồi bưng thúng lúa thẳng ra bờ xẻo trước
nhà.
Để thúng lúa xuống xuồng vững vàng rồi Tư Cầu vừa nhổ cây sào vừa đưa chơn tống xuồng ra và chống sào cho xuồng đi vèo vèo trên mặt nước. (...) Đôi lúc lườn xuồng, be xuồng cọ rào rào vào những đám rau muống, những đám lục bình, những nhánh điên điển. (...) Ra giữa khoảng đồng trống, gió thổi mát rượi. Tư Cầu cũng thấy thơi thới trong lòng chớ không còn bực bội như hồi nãy nữa. Và như cảm hứng, anh ta vừa chống vừa ca vài câu vọng cổ, cái bài vọng cổ "văng vẳng tiếng chuông chùa..." mà anh ta nghe ở cái máy hát của ông Xã Tám. Có mấy cái dĩa hát đi hát lại hòai anh ta nghe riết rồi cũng thuộc lòng hết. Thuộc lòng rồi anh ta sang qua bắt chước cho đúng cái giọng ngân ư.. ử... của Năm Nghĩa, cái giọng mà anh ta cho là "mùi bạt mạng". "
Để thúng lúa xuống xuồng vững vàng rồi Tư Cầu vừa nhổ cây sào vừa đưa chơn tống xuồng ra và chống sào cho xuồng đi vèo vèo trên mặt nước. (...) Đôi lúc lườn xuồng, be xuồng cọ rào rào vào những đám rau muống, những đám lục bình, những nhánh điên điển. (...) Ra giữa khoảng đồng trống, gió thổi mát rượi. Tư Cầu cũng thấy thơi thới trong lòng chớ không còn bực bội như hồi nãy nữa. Và như cảm hứng, anh ta vừa chống vừa ca vài câu vọng cổ, cái bài vọng cổ "văng vẳng tiếng chuông chùa..." mà anh ta nghe ở cái máy hát của ông Xã Tám. Có mấy cái dĩa hát đi hát lại hòai anh ta nghe riết rồi cũng thuộc lòng hết. Thuộc lòng rồi anh ta sang qua bắt chước cho đúng cái giọng ngân ư.. ử... của Năm Nghĩa, cái giọng mà anh ta cho là "mùi bạt mạng". "
Một
đoạn văn của Bình Nguyên Lộc trong tiểu thuyết Cuống
Rún Chưa Lìa:
"Chợt một bữa kia không
biết nhờ gì gợi ý bà nhà tôi đi
mua chậu, đi tìm đất, ra đặt mấy cái chậu đất ấy ở
sân trong, giữa nhà trên và nhà bếp. Bà nhà tôi trồng
rau răm, rau tần dài, hành hương, ớt, không mấy tháng mà
sân trong không còn chỗ để chơn nữa vì chậu cứ được
sắm thêm hoài, thật là bất tiện. Thuở ấy rau cỏ có bao
nhiêu tiền đâu, đi chợ mua hai xu,
cả nhà ăn cả ngày không hết mà hai
xu chỉ bằng hai đồng bạc ngày nay. Bà ấy lại không
còn thì giờ nghỉ ngơi nữa, hễ sáng, vừa bét mắt thì lo
săn sóc ba chậu rau không đáng giá
đó, trưa cũng vậy, chiều cũng vậy. Vậy, mà kể từ
ngày ấy, bà nhà tôi vui vẻ trở lại như hồi vợ chồng
tôi mới cưới nhau và không bao giờ tính chuyện đi
đâu nữa hết, mãi cho tới bây giờ mà tôi đã có cháu
ngoại rồi."
Còn đây là giọng khề khà
của cụ Vương Hồng Sển trong Sài Gòn Năm Xưa:
"Tiện
đây tôi yêu cầu các học giả nên thận trọng lời
diễn luận chẳng khá làm tàng bịa
đặt tên "nhà thương Đầm Đất"
(như trong một tờ tạp chí kia), trong lúc dưỡng đường Grall
được cât xây trên một đồn đất thật sự, ai ai cũng rõ
biết, và cũng không nên vì thấy gần Sài Gòn có những chợ:
"Ông Lãnh", "Bà Chiểu", "Bà Điểm", "Bà Hom", "Bà Rịa", "Bà
Đen" rồi đề quyết Năm Bà
vốn là thê thiếp của ông Lãnh binh nọ. Tội chết đa!
Tuy người mất rồi không nói được, chớ còn người
cố cựu nữa chi? Bạn thân tôi, ông Sơn Nam có kể cho tôi
nghe gần Cái Bè, trên con đường đi
về Hậu Giang, có một khúc quanh gọi "Khúc quanh ông
Cọp". Nhiều học giả chưa gì vội nói hớt, cắt nghĩa: "Xưa
ở vùng ấy, cọp rất nhiều, nên dân bản xứ lấy đó
đặt tên". Theo ông Sơn Nam chịu khó điều tra kỹ càng;
rõ lại mấy chục năm về trước hãng bán tủ sắt hiệu
"BAUCHE" có quảng cáo cho thứ tủ này bằng một bảng lớn
dựng tại khúc quanh đó; trên bảng vẽ hình một con hổ to
ngồi chồm hổm trên đầu tủ, một tay thò xuống cố cạy
nắm tủ "BAUCHE" (nhãn hiệu "con cọp") cạy hoài mà không sao
cạy được, đủ biết tủ sắt kiên
cố bực nào. Dân quê trong vùng qua lại thấy bảng vẽ cọp
nhan nhản tại khúc quanh, trong khi nói chuyện bèn gọi tắt
chỗ ấy là "khúc quanh ông Cọp". Chuyện chỉ có bấy nhiêu,
không nên lắm sự!"
Khoảng
gần hai mươi năm trước, khi tái bản cuốn Sài Gòn
Năm Xưa này, một nhà xuất bản trong nước đã "làm ơn
cho tác giả" bằng cách "biên tập" gọt đẽo
nhẵn nhụi văn phong trong sách – thực sự là "viết lại"
– theo một "chuẩn" ngôn ngữ văn học chung áp dụng trong
cả nước, khiến tác giả phẫn nộ và người đọc cũng
hết sức thất vọng.
Trước
năm 1975, không một nhà xuất bản nào ở Miền Nam có
biên tập viên (editor), hoặc có ghi tên biên tập viên vào
sách như cách làm của tất cả các nhà xuất bản trong nước
hiện nay. Phần lớn tác phẩm thời đó chỉ ghi tên người
sửa lỗi morasse mà từ quen dùng lúc bấy giờ là "Thầy
cò" (correcteur).
Do không phải qua tay biên tập
viên như hiện nay mà các tác phẩm văn học từ Hồ Biểu
Chánh tới Lê Xuyên, và Bình Nguyên Lộc còn giữ được nguyên
chất ngôn ngữ Nam bộ.
Biên tập là một công việc
văn học được nhiều nước thực
hiện từ lâu đời chớ không phải chỉ ở Việt Nam
mới có. Ở một số quốc gia Âu – Mỹ tên người biên tập
tác phẩm đôi khi quan trọng hơn và "bảo chứng" cho tên tác
giả và giá trị tác phẩm, nếu tác giả là người mới.
Trong nước hiện chưa có một biên tập viên nào đạt
được trình độ như thế.
Nhưng không có người biên
tập không có nghĩa là tác phẩm được in bừa bãi mà người
xuất bản chẳng cần biết nó là gì. Thật ra, bản thảo
nào cũng được nhà xuất bản đọc
kỹ trước khi đưa in; tác phẩm có thể được hiệu đính
hoặc nhuận sắc (revised) nếu cần phải thế, có sự thảo
luận với tác giả, chớ không được "biên tập" (edited)
theo cách hiểu và làm ngày nay là gọt sửa cấu trúc câu và
sửa đổi chữ dùng của tác giả theo một "chuẩn" nào đó
không rõ ràng, nếu không phải theo ý chủ quan của người
biên tập. Vì tôn trọng sự tự do tư tưởng của tác giả,
tôn trọng cách hành văn đặc trưng
phản ảnh cá tính, và ngôn ngữ mang tính vùng miền
của tác giả nên các nhà xuất bản trước kia không bao giờ
tự ý "thò tay ngọc, thọc tay vàng" vào đứa
con tinh thần của người viết để sửa chữa theo ý
mình, buộc tác phẩm khoác một "đồng phục" ngôn ngữ chung
nào đó. Người Pháp nói văn phong
thế nào phản ảnh con người thế ấy, "le style, c’est
l’homme - The style reflects the man himself"
– Đẽo gọt trơn tru cho hết những cái rề rà trong
văn
phong của Vương Hồng Sển thì còn gì cụ Vương Hồng
Sển nữa! Tục ngữ Pháp cũng nói:
Ce n’est pas ce qu’il
a dit, mais la façon il l’a dit." Vấn
đề đâu phải là điều họ nói mà là cách họ nói
thế nào kia. Điều họ nói thì ai nói ra cũng vậy thôi, chỉ
cái cách họ nói mới cho thấy họ là ai, tính cách của họ
thế nào.
Tuy
cho đến nay chưa có một chỉ thị hay qui định lấy ngôn
ngữ của một địa phương nào làm chuẩn cho ngôn ngữ
văn học, nhưng hầu như tất cả các nhà xuất bản trong nước
mặc nhiên biên tập tác phẩm theo ngôn ngữ miền Bắc, cụ
thể là ngôn ngữ Hà Nội. Trong sách vở nhan nhản những từ
miền Bắc, bất kể tác giả là người miền nào [14].
Hà Nội là thủ đô
của đất nước, lấy tiếng nói của thủ đô làm chuẩn
cho ngôn ngữ văn học cả nước cũng phải thôi. Nhưng tiếng
Hà nội có nhiều điểm không
chuẩn: không phân biệt các âm "iu" và "ưu", "iêu" và
"ươu", chẳng hạn, như trong câu nói: "Về hiu rồi tha
hồ uống ziệu." Ngôn ngữ của người Hà Nội cũng
không phân biệt các cặp phụ âm CH và TR, S và X, R và D /
Gi. Cái "bánh Trưng" từng xuất hiện trên biểu ngữ
và trên mặt báo. Các phụ âm CH và TR lẫn lộn nhau là chuyện
hà rầm. Một lần đọc thấy trong một bài báo viết "Vậy
mà Hải Phòng mưa rầm rề...," tôi ngạc nhiên, gõ thử
vào google hai chữ "rầm rề" (trong ngoặc kép). Và thật là
trên mức kinh ngạc: hàng loạt kết quả cho thấy hầu như
người ra đã "chính thức" dùng hai từ này thay cho "dầm dề"!
Thậm chí trên một tờ báo ở Hà Nội từng xuất hiện một
tiêu đề in chữ lớn : "DOANH NGHIỆP NÓNG NÒNG CHỜ HỖ
TRỢ."
Sự lẫn lộn giữa các phụ
âm L và N dĩ nhiên không phải là "đặc trưng" trong tiếng
nói người Hà Nội. Nhưng điều này cho thấy hiện tượng
"nước chảy vào chỗ trũng" trong ngôn ngữ của thủ đô.
Tiếng Hà Nội không những không "chuẩn" mà cũng không mang
đủ nội lực để "cảm hóa" và đồng
hóa những cá nhân bên ngoài thâm nhập vào thế giới
chữ nghĩa của thủ đô, để đến
nỗi tiếng nói ngọng nghịu của một địa hương choán vào
chỗ trũng đó. Lấy tiếng Hà Nội làm "chuẩn ngữ văn
học" cho cả nước liệu có an toàn không? Vậy mà trên thực
tế tiếng miền Bắc/tiếng Hà Nội giành được
ưu thế trong hầu hết tác phẩm văn học và báo chí cả nước;
ngay đến một nhà văn Nam bộ như Nguyễn Ngọc Tư, những
tưởng ngôn ngữ Nam bộ phải trở thành hơi thở, máu
thịt trong chị, nhưng không phải, Nguyễn Ngọc Tư hồn nhiên
sử dụng ngôn ngữ miền Bắc trên những trang văn tài hoa
và rất xúc động của chị về con người và cuộc sống
đất Nam Bộ nơi chị sinh ra và lớn lên. Những con người
Nam bộ nói tiếng Bắc nghe lấn cấn thế nào ấy. Ví dụ
Nguyễn Ngọc Tư dùng từ "bảo" thay cho từ "biểu"
của người miền Nam. "Rồi dì bảo, mai mốt chế Ba
về, anh Tư à. Thiệt, mai mốt này..." "Con Điềm thường bảo,
người ta lấy thơ để thay lời thề hẹn đó." "Rồi họ
và cả má tôi đều bảo
tôi khóc đi." Thật ra Nguyễn Ngọc Tư có dùng cả biểu
lẫn bảo. Có lẽ 50/50.
Tỷ lệ của chứ thay
vì chớ có lẽ cao hơn. "Má cãi: hỏng tới đâu ông
ơi, chừng nửa ký là cùng, cá lóc táp nghe hờm vậy chứ."
"Bây giờ Nhà nước cho nuôi tôm thì mừng chứ."
"Rồi mấy đứa con gái đểnh đoảng như tôi vất vả biết
chừng nào, đôi khi không lấy được chồng chứ
chẳng phải chuyện chơi."
Nhưng hạt thay hột,
và chân thay chơn/chưn thì có lẽ 100%. "Tôi
lấy dao phay băm cho đất tơi ra để
kịp lúc ba về gieo hạt cải." "Tôi học từ má
rằng gạo Một Bụ dài, óng ả, gạo Tiên Lùn hạt
ngắn, đục như nếp..." "Tôi ăn hạt gạo má tôi
làm ra mà không giúp gì cho má tôi."
"...
một đám người chen nhau đứng đàng sau cánh cửa, quà
trên tay chất vượt mặt, gõ cửa bằng chân." "Con Tư
mầy phải sống trên ghe thím vài năm
mới được, sống trên chiếc ghe dài bảy thước ngang
hai thước mới thấy buồn chân." "...mỗi lần ghé bến
tụi nó lại chạy te te lên bờ, cuống quýt rượt đuổi
nhau, những đôi chân trần
trụi thoăn thoắt nhảy trên cái bến gồ ghề đất."
Rồi còn đĩa
thay dĩa, nhặt thay vì lượm, thóc thay
lúa, hoa thay cho bông nữa: "Tôi mua cho em cái đĩa
người ta dạy chăm sóc trẻ sơ sinh."
"... rồi nó đem ra mấy cái đĩa nhạc thu âm từ hồi
năm một ngàn chín trăm mấy mươi gì đó. Gương mặt của
Thái Thanh, Hà Thanh... trên bìa đĩa
coi trẻ măng..." "Bữa qua ngồi quán chiều vắng ngắt, ông
đồ cổ lại mở cái đĩa hát cổ..."
"Đó
là lúc tôi thấy má tôi tội nghiệp như nàng Tấm bị
mẹ con mụ dì ghẻ cay nghiệt bắt nhặt thóc trong
gạo khi làng đang vào hội..." "Lượm nhớ quay quắt cái xóm
cũ, nhà cũ, lau sậy cũ, nhớ ông ngoại lúc giận quá nhặt
cây sậy gãy đánh cháu." "... tôi chưa làm được việc gì
coi được một chút, một chuyện mang
hơi hướng vĩ đại, như nhặt của rơi trên đường
trả lại người bị mất chẳng hạn."
"...
đằng trước chỉ một khoảng sân nhỏ trồng mấy chậu
hoa nhỏ." "Như có người mua hoa bằng tay này rồi
tặng tay kia." "Trên những con đường chi chít hoa dại
hiếm hoi mới thấy vài trẻ con chơi."
Chị nói đấy
thay vì đó. "... hồi nhỏ nó
vị vỏ ốc cắt đứt chân hoài mà nó vẫn chân không
ngạo nghễ đấy thôi."
"... cái rễ cây đấy mà
cũng làm chân nó đau đâu." "Dù đây
về đấy chưa tới một tiếng đi xe chợ, người muốn
về trước giao thừa thì đã bán thốc tháo để về."
Chị gọi cái mền của
người Nam bộ là chăn,
gọi cái bánh
tráng là bánh
đa. "... nhà này không thấy nhà kia, thị trấn này
sẽ trùm chăn nằm ngủ?"
"... lúc nào mới được ngã lưng trên chiếc giường
chăn
nệm ấm." "Qua một con dốc nhỏ, gặp một cụ già kèm nhèm
ngồi nướng bánh đa..."
Chị nói nhạt thay vì
lạt, và nhợt nhạt thay vì lợt lạt. "...
cùng những cánh đồng, mảnh vườn
xanh xanh đậm nhạt bọc quanh." "Bông cũng không
níu kéo bất cứ cái nhìn nào. Lơ thơ. Nhợt nhạt."
"Cái nắng kỳ lạ không nhàn nhạt như nằng chiều hè..."
Chị nói cái rốn thay
vì rún. "không còn kịp nữa như một cái rốn
nước sâu hoáy, ðiên cuồng hút tôi vào." "... có cái rốn
to nhãn rúm, như cái mặt người , cái rốn 21 ngày mới
rụng..."
Chị nói gửi thay vì
gởi. "Hạt
gửi mùa sau." "Bảy năm trước, lúc
ông Mười gom hết thảy bốn chín cái thư của Nguyễn Thọ
gửi dì Thắm đốt hết." "Người ta gửi tới
nhà Tư Lai một lá thư."
Chị nói "đảm
đang" thay vì "đảm đương"
"... má vén khéo đảm đang
chèo chống gia đình nuôi nấng mấy chị em tôi khôn lớn...".
Và khi Nguyễn Ngọc Tư nói "... lại làm con mệt mỏi đến
nhường
này," thì người đọc nếu không biết chị sẽ nghĩ chắc
mười mươi chị là người Bắc!
Đúng
là ngôn ngữ miền Bắc đã "tìm được
chỗ đứng" và rất phổ biến trong tiếng nói của người
miền Nam, không chỉ từ sau đợt di cư vĩ đại năm 1954, mà
lâu trước đó nữa, chớ không phải mới theo chân cán bộ
và bộ đội miền Bắc trong đợt "người Nam nhận họ, người
Bắc nhận hàng" bốn mươi năm trước đây. Chẳng vậy mà
từ thời thủ tướng Nguyễn Văn Thinh của Nam Kỳ Quốc người
ta đã xua đuổi những người nói "Tân Sơn Nhất"
về Bắc, chỉ những người nói "Tân Sơn Nhứt" mới
là công dân của nước Nước "Cộng hòa Nam kỳ Tự trị."
Nhưng hiện nay ngay cả người ở cạnh cái phi trường sắp
hết đát này cũng đã nói Tân Sơn Nhất chớ hầu như
không còn ai nói
Tân Sơn Nhứt nữa. Thế cho nên nếu
một anh hay chị nông dân Nam bộ mà nói mấy tiếng "Sầu
riêng hạt lép," nghe cũng không buồn cười cho lắm. Sầu
riêng là sản vật của miền Nam, hạt là một từ miền
Bắc. Và cụm từ "sầu riêng hạt
lép" Nam Bắc đề huề đã phổ biến khắp miền Nam rồi đó.
Nhưng một nhà văn Nam bộ mà cả tâm hồn và văn
nghiệp đều thấm đẫm chất Nam bộ mà lại nói, viết
về cuộc sống nơi quê hương Nam bộ của mình bằng ngôn
ngữ miền Bắc thỉ... nghe chẳng ra sao cả. Thật tiếc.
Đọc
tập thơ "Gọi Khan Giọng Tình" của thi sĩ Trần
Phù Thế, người Thạnh Lộc tỉnh Sóc Trăng
xưa, tôi cảm động khi bắt gặp đoạn thơ này trong
đó có từ "nhửng" mà gần năm
mươi năm trước tôi đã từng nghe:
Ta
ghét mười năm ở xứ này
Mười năm đủng đỉnh lục bình quay
Như con nước nhửng dòng sông Hậu
Thương cả lần đi ứa máu đầy
Mười năm đủng đỉnh lục bình quay
Như con nước nhửng dòng sông Hậu
Thương cả lần đi ứa máu đầy
Ngày trước, vào giửa những
năm 1960, trong bước "giang hồ" ở vùng sông chia chín nhánh
tôi từng nghe người địa phương nói từ "nhửng" này,
cũng trong ngữ cảnh về sông nước như trong câu thơ trên.
Tôi hiểu nước nhửng là con nước "đứng",
lờ đờ trên dòng sông không lên không xuống – nhưng
không chắc lắm. Triết gia người Anh gốc Áo Ludwig Wittgenstein
cho rằng ý nghĩa của một từ là cách dùng của từ đó.
Nói như thế cũng quá mơ hồ. Nhưng một người Nam Bộ tha
hương mang theo mình hình ảnh con nước nhửng trên dòng
sông quê nhà chắc phải làm cho những người xa quê như mình
cảm động lắm. Tôi đã cảm động
như gặp lại người quen cũ.
Tập thơ của thi sĩ Trần
Phù Thế được in ở nước ngoài. Nghĩa là nó không phải
qua tay một "biên tập viên" nào, nên những từ như thế còn
"sống sót" được, như các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh,
Lê Xuyên, Bình Nguyên Lộc, và của học giả Vương Hồng Sển
nữa, còn "truyền lại" ngôn ngữ tinh ròng Nam bộ trong đó
đến nay.
Muốn
thấy lại tiếng nói Nam bộ rặc ri chắc phải đọc lại
Lê Xuyên hay Bình Nguyên Lộc, nếu không phải là đọc
lại lối văn đậm chất văn nói dân dã mộc
mạc thủơ ban đầu phát triển văn học miền Nam của Hồ
Biểu Chánh.
Thiếu Khanh.
[1]
- Từ "Miền Nam" vừa mang khái niệm một trong ba miền trên
đất nước: Miền Bắc, Miền Trung, và Miền Nam, vừa để
chỉ miền đất nửa nước từ Vĩ tuyến 17 trở vào trong
thời kỳ đất nước bị chia cắt. Trong bài viết này,
từ "Miền Nam" được dùng uyển chuyển với nghĩa thứ nhất,
hoặc với nghĩa thứ hai, tùy theo ngữ cảnh.
[2] - Để
thay cho các tên gọi Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ thời
Pháp thuộc, chánh phủ VNCH đặt ra các từ tương ứng: Bắc
Phần, Trung Phần, Nam Phần, còn chánh phủ VNDCCH thì gọi Bắc
Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ, mà Nam Bộ này gồm Đông Nam Bộ
và Tây Nam Bộ, tương ứng với ba tỉnh miền Đông và ba tỉnh
miền Tây của Nam Kỳ Lục Tỉnh xưa. Tuy nhiên với nhiều
người Miền Nam từ "Nam Bộ" (hoặc
"Nam bộ”) được dùng chỉ khu vực "Miền Tây Nam bộ,"
tức vùng Đồng bằng Sông Cửu Long
hiện nay. Từ "Nam bộ” ở đây được dùng theo nghĩa đó.
[3]
- Vào đầu thời Đệ Nhất Cộng Hòa
của VNCH, người ta sáng tạo khái niệm "Phần", Bắc Phần,
Trung Phần, Nam Phần, thay cho các khái
niệm Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ thời Pháp thuộc, trong đó
Trung Phần từ Thanh Hóa tới Bình Thuận, Nam Phần từ
tỉnh Bình Tuy trở vào.
[4]
- Ở một chú thích trong Việt Nam Sử
Lược, sử gia Trần Trọng Kim viết: "Có sách chép rằng Đinh
Tiên-hoàng tên là Hoàn 桓, chứ không phải là Bộ Lĩnh.
Bộ Lĩnh là một tước quan của Trần Lãm phong cho Đinh Hoàn.
Nhưng xét trong " Khâm-định Việt-sử " và các sách khác thì
thấy chép Đinh bộ Lĩnh chứ không
thấy Đinh Hoàn. Vậy nay cứ theo sách Khâm-định mà
chép." (Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Tân Việt Sai Gòn,
cuối trang 88)
[5]
- Sách Đại Nam Thực Lục (tiền biên),
và Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim đều viết tên
Nguyễn Hữu Kính, với chữ Kính (鏡).
Sách Đại Nam Thực Lục cũng ghi phẩm tước của ông là
Lễ Tài hầu.
[6]
- Viện Sử học, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội 1969. Tôi không có bản dịch của cụ
Cử nhân Hán học Tu Trai Nguyễn Tạo xuất bản trong miền
Nam, nên không biết cụ có kiêng húy như thế không.
[7]
- Bà là con gái của Phước Quốc Công Hồ Văn Bôi, quê ở
Thủ Đức, tỉnh Gia Định, nay là
thành phố HCM. Bà vào cung làm vương phi của thái tử Nguyễn
Phúc Đảm năm bà mới 15 tuổi. Vua
Gia Long băng, thái tử Đảm nối ngôi tức Vua Minh Mạng. Về
sau bà là mẹ của vua Thiệu Trị.
[8] - Sau
khi khai phá xong miền Nam, năm 1698 chủa Nguyễn Phúc Chu lập
Gia Định Phủ. Vua Gia Long thống nhất xong đất nước, đổi
Gia Định Phủ thành Gia Định Trấn, rồi lại đổi thành
Gia Định Thành. Năm 1832, Vua Minh Mạng bãi bỏ Gia Định Thành,
và chia thành sáu tỉnh, gồm ba tỉnh miền Đông: Phiên An,
Biên Hòa, Định Tường, và ba tỉnh miền Tây: Vĩnh Long, An
Giang, và Hà Tiên. Năm 1834, cả sáu tỉnh này được gộp lại
thành Nam Kỳ, (người Pháp gọi là Basse-Cochinchine), từ đó
xuất hiện danh từ "Nam Kỳ Lục Tỉnh.”
Ba tỉnh miền Đông lúc đó nay trở thành các tỉnh Bình
Phước, Bình Dương, Đồng Nai, Tây Ninh, Bà Rịa-Vũng Tàu,
và Thành phố Hồ Chí Minh. Ba tỉnh miền Tây xưa nay phát triển
thành các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh,
Đồng Tháp, Hậu Giang, Sóc Trăng, An
Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cà Mau, và Thành phố Cần
Thơ.
[9]
- Hồ Biểu Chánh, (1884–1958) người làng Bình Thành, tỉnh
Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang).
[10]
- Nhà văn Lê Xuyên (1927 – 2004), tên thật là Lê Bình Tăng,
người huyện Phong Điền - Tỉnh Cần
Thơ.
[11]
- Bình Nguyên Lộc, (1914 - 1987), nhà văn, nhà nghiên cứu lịch
sử dân tộc, người làng Tân Uyên, tổng Chánh Mỹ Trung, tỉnh
Biên Hòa (tức tỉnh Biên Hòa xưa trong ba tỉnh Miền Đông
Nam Kỳ), nay thuộc thị trấn Tân Uyên, huyện Tân Uyên, tỉnh
Bình Dương. Ngoài bút hiệu Bình Nguyên Lộc ông còn ký nhiều
bút hiệu khác. Tuy quê quán của ông không nằm trong vùng Nam
bộ (theo nghĩa hẹp, tức trong ba tỉnh Miền Tây Nam kỳ), nhưng
tác phẩm của ông mang phong cách và ngôn ngữ của người
Nam bộ.
[12]
- Vương Hồng Sển (1902-1996), sinh tại Sóc
Trăng, mang ba dòng máu Việt, Hoa, Khmer.
[13]
- Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại
xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau. Là một
nhà văn Nam bộ tài hoa, đau đáu tình
người trên từng trang tác phẩm, nhưng Nguyễn Ngọc Tư không
dùng ngôn ngữ Nam bộ tinh ròng như các nhà văn
kia. Trong các tác phẩm rất cảm động về con người và
cuộc sống ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long chị dùng nhiều
từ ngữ của ngôn ngữ Bắc bộ, đọc rất lấn cấn, khó
chịu. (xem ở dưới.)
[14]
- Sau năm 1975, chánh quyền mới ở
thành phố Huế đổi ngay tên cầu Trường Tiền quen
thuộc của người miền Nam thành cầu Tràng Tiền.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét