Vũ Ngự Chiêu
“Tát cạn nước biển Đông cũng không đủ rửa sạch vết nhơ; Chặt hết trúc núi Nam không đủ thẻ ghi tội ác.” (“Bình Ngô Đại Cáo;” NTTT, (1976), tr 78 [77-83])
Ngày 4/7/1407, tại Kim Lăng, kinh đô
đầu tiên của Đại Minh từ 1368 tới khoảng năm 1421, Chu Lệ hay Đệ [Zhou
Li] miếu hiệu Thành Tổ (Ming Zhengzu, 17/7/1402-22/8/1424) họp triều
thần, chấp thuận lời xin của “1120” kỳ lão xứ Giao Châu [An Nam] hơn hai
tháng trước là “con cháu nhà Trần đă chết hết không người thừa kế….
Giao Châu là đất cũ của Trung Hoa xin đặt quan cai trị, để sớm được
thánh giáo gột rửa thói tật man di.” (1) Hôm sau, 5/7/1407, Chu Lệ ban
chiếu thành lập “Giao Chỉ Đô Thống sứ ti” [Jiaozhi dutong tusi], một đơn
vị quân chính cấp phủ hay tỉnh [Provincial Commandery]. (2) Và, như
thế, sau gần 500 năm tái lập quốc thống dưới tên Đại Việt—hay An Nam, từ
1164/1175—nước Việt trung cổ tạm thời bị xóa tên.
Đô thống sứ ti vừa là tên cơ chế hành
chính thực dân xâm lược, được nhà Nguyên (1260-1367) sáng chế và trắc
nghiệm trong lãnh thổ dân Tam Miêu [San Miao] ở Quí Châu xuống tới vùng
Vân Nam-Tứ Xuyên, tức Nam Chiếu hay Đại Lý khoảng năm 1253-1279. Nhà
Minh (1368-1644) đã dựa trên kiểu mẫu này để tái chiếm Vân Nam năm
1380-1382, và sau đó trắc nghiệm ở Đại Việt từ 1402 tới 1437, rồi từ năm
1541 tới thế kỷ XVII (1647). Sứ ti cũng được dùng để gọi các quan tướng
Minh phục vụ tại vùng đất bị nhà Minh thống trị. Một tên ngắn khác là
“ba ti Đô, Bố, Án.” Nhưng truyền bản sử Lê và Tây Sơn dịch qua chữ Việt
mới ghi Giao Chỉ Đô Chỉ Huy sứ ti từ ngày 1/4/1407. Sử Nguyễn, bản dịch
Viện sử học, chép vào ngày 5/7/1407. giống Minh thực lục; rồi ghi An Nam
Đô thống sứ ti từ ngày 29/4/1541 [đời Mạc].(3)
Sự khai sinh tổ chức quân chính Giao Chỉ
đô thống sứ ti là hồi tạm kết của giai đoạn nhà Minh xâm lược Đại Việt
(1406-1428), và mở ra những chương máu, nước mắt nhưng hào hùng của hơn
60 cuộc chiến kháng Minh mà đại đa số người Việt—trong hơn 20 năm kế
tiếp, từ thành thị tới thôn quê, sông biển lên rừng núi—đã góp phần vào
việc phục hồi và duy trì quốc thống cho tới hiện đại. Ngay đến các tù
trưởng Lão Qua và quan tướng Việt-Chàm cũng ít nhiều tham dự, dù ở những
ngày tháng đầu của cuộc xâm lược, có một số người đã trung hiếu với nhà
Minh, hoặc với chính quyền lợi của mình và phe nhóm. (4) Chiêu bài đạo
đức giả “diệt ác, hưng Trần” cùng bạo lực quân phiệt Hán tộc—như hun
khói dân tị nạn trong các hang động (Lý Bân [Li Bin]), chặt thủ cấp phơi
treo ở chợ búa, bến sông, dọc theo đường xá—hay chất xác nạn nhân thành
đống, lùa bắt phụ nữ, thiếu nhi mang đi bán làm tôi tớ (Trương Phụ
[Zhang Fu])—khiến tình hình rối ren, không có ranh giới rõ ràng giữa
trung thần [Bùi Bá Kỳ] và phản quốc [Mạc Thúy, Nguyễn Huân, Trần Phong].
Nhưng thật hiển nhiên là người Việt đã khẳng khái bảo vệ niềm tin “đất
Việt, vua Việt ở” [Nam quốc sơn hà, nam đế cư], đã ghi trong “Sách
Trời.” Nói cách khác, chẳng bao giờ có việc dân tộc Việt cầu xin được
khai hóa, hay đặt số phận mình và gia đình vào tay những tên đồ tể tham
bạo, tội phạm chiến tranh của thế giới văn minh, thường huênh hoang tự
so sánh to lớn như Trời Đất, cai quản “muôn dân tộc trong thiên hạ” mà
cho đến khoảng năm 1424 mới chỉ biết được tổng cộng khoảng ba chục tên
nước “Tây Dương.”
Một số học giả thế giới đã giới thiệu
công trình nghiên cứu của họ về giai đoạn này, nhưng tác phẩm nghiêm túc
bằng tiếng Việt mới hay chữ Hán còn khá hiếm hoi. Một trong những lý do
là kho tài liệu chữ Hán của các triều NguyênMinh-Thanh chưa được khai
thác đầy đủ. Hiện trạng duy vật và chính sách xâm lược xã hội chủ nghĩa
của Đảng “Cộng Sản Trung Hoa” cũng khó giúp hy vọng những tài liệu khả
tín sẽ được mở ra cho giới nghiên cứu trong tương lai gần—nếu không phải
sẽ bị ngụy tạo để biện minh cho những mục đích giai đoạn. (5)
Li Dao Yuan (466 [472]-527), et al.,
Shuijingzhu [Thủy Kinh Chú, Thủy Kinh Chú sớ]. Đoàn Hy Trọng, “Sáu lời
bàn về Thủy Kinh Chú;” Thủy Kinh Chú Sớ, Nguyễn Bá Mão dịch (Hà Nội:
2004),tr 857-861.Đa tạ gia đình dịch giả Nguyễn Bá Mão đã tặng bản dịch
tiếng Việt mới Thủy Kinh Chú Sớ, gồm tám chương (33-40), dựa trên ấn bản
1999 của Bắc Kinh
Tài liệu Bắc Kinh tâm đắc là tập ký sự
Nam châu dị vật chí của Vạn Chấn, nhưng ít ai biết truyền bản cổ thư này
từng mô tả về một tộc cư trú giữa biên giới Quảng Châu và Giao Châu—tức
tộc Wuhu hay Ô Hử, Ô Man chỉ thích bắt khách bộ hành ăn thịt, có khi
chật nhỏ ra, ướp muối để dành—gây khốn đốn cho quan binh Hán ở Giao Chỉ
từ đầu thế kỷ thứ hai tây lịch, cho đến ngày dân Wuhu bị đánh đuổi về
phía nam; và một số không nhỏ tái định cư tại Lào, Thái Lan, và Miến
Điện hiện nay. Chẳng hiểu Vạn Chấn có chịu ảnh hưởng của Ban Cố [Ban Gu,
32-92], từng nằm mơ thấy thời tiền sử, trước ngày Phục Hy hay Bào Hy
xuất hiện, người ta ăn lông ở lỗ, nhai nuốt cả thịt lẫn da, uống máu
tươi, khi no bụng thì vất đồ dư thừa trên mặt đất; Phạm Việp [Fan Ye,
398-446], Hou Hanshu [HHT/HHS], dẫn trong CMTB, II:24a-25a, (Sài Gòn:
1967), 2:234-239; (Hà Nội: 1998), I:126-127; Ban Cố [Ban Gu], [Xian] Han
shu, dẫn trong The I Ching or Book of Changes; trans into English by
Cary F. Baynes, based on Richard Wilhem’s German version (Princeton, NJ:
Princeton Univ Press, 1967, 1973), p. 329; Phan Bội Châu, Chu Dịch,
trong Phan Bội Châu Toàn Tập [PBCTT], tập IX, (Huế: 2001), Cửu tứ tr.
704-5 [704-8]; Chương này đã sơ thảo từ cuối thập niên 1970, tại
Wisconsin, nên sử dụng một số thông tin từ các nghiên cứu của các học
giả, đặc biệt là các học giả Mỹ; như John King Fairbank, Wolters, John K
Whitmore, Keith W Taylor, v.. v.. tàng trữ tại Thư viện Đại học
Wisconsin-Eau Claire và Madison, cùng Đại học Cornell, Ithaca, NY, qua
hệ thống mượn sách liên thư viện [Interlibrary loan].(6)
Từ thập niên 2,000, chúng tôi mới trực
tiếp tham khảo tư liệu Ttung Hoa, như Zizhi tongjian [Tư Trị Thông
Giám], (Sima Guang & Rafe de Crespency, ANU, 1989, 2003), Songshi
[Tống sử], Yuanshi [Nguyên sử], Ming shi-lu [Minh thực lục] (Wade, NUS,
2005), v.. v..; chủ yếu là các bản dịch Anh, Pháp ngữ, so sánh với quốc
sử Lê, Tây Sơn và Nguyễn. Phần đóng góp nhỏ mọn của chúng tôi là chuyển
từ lịch ta sang Tây lịch, và vượt qua những bức tường lửa tự kiểm duyệt
của các nguồn tư liệu cũ, dựa trên các phương pháp nghiên cứu khoa học
nhân văn của thế kỷ XXI. Tưởng cần nhấn mạnh, chúng tôi chỉ hy vọng bổ
khuyết sử Việt bằng các tư liệu ngoại ngữ, không hoàn toàn bác bỏ bất cứ
thông tin nguyên bản nào theo chiều hướng nhị nguyên—đúng hay sai. Vì
cả hai nguồn tư liệu Việt và Hoa luôn luôn khác biệt và chống đối lẫn
nhau, chúng tôi chọn vị thế triết trung, trình bày các dữ kiện theo
phương pháp tỉ đối.
I. Sự Khai Sinh Của Đại Ngu (12/3/1400-17/6/1407):
Cuộc xâm lược Đại Việt năm 1406-1407
của Chu Lệ hay Đệ là việc làm quen thuộc trong chính sách đối ngoại hay
“thông hiếu ” với lân bang mà vua quan Trung Hoa rẻ rúng gọi là mọi rợ
bốn phương [tứ di]—bất kể màu da, trình độ khoa học, kỹ thuật và cách
sống của dân nước ngoài đó. Lịch sử Trung Hoa là một chuỗi những cuộc
xâm chiếm và thôn tính, rồi tái xâm chiếm lân bang, nếu bị đánh đuổi.
Năm trong hàng trăm cựu vương quốc bị đế quốc TH cướp đoạt chủ quyền,
“đặt vào bản đồ,” “mở quận huyện” còn để lại chứng từ cụ thể là Miêu
Cương (Nasu Yi Mu’egu, ca 300-1283) phía Tây Bắc Guizhou [Quí Châu] hiện
nay; Nanzhao [Nam Chiếu] và Dale [Đại Lý] ở vùng Yunnan [Vân Nam] và
nam Sichuan [Tứ Xuyên]; Đại Lịch/Đại Nam của Nùng Trí Cao; hay Đại Việt
[Da Yue]/Nam Hán [Nan Han] của họ Lưu (Quảng Nam Đông và Tây, tức
Guangdong [Quảng Đông] hiện nay), Manchuria, Mongols, Tibet, Tân Cương
[Xinjiang], Thanh Hải [Qinghai]. (7)
Nhiều người cho rằng cha con Lê Quí Ly
(23/3/1400-12/1400-1/1401, TTH, 16/6/1407) —tự Lý Nguyên [Yuan-li]— mời
gọi quân Minh xâm lăng và cưỡng chiếm Đại Việt, qua việc cướp ngôi, cùng
những hệ lụy hẳn có
A. Lê /Hồ Nhất Nguyên & Ngu Thuấn :
Theo gia phả nặng phần ngụy tạo, Lê Quí
Ly (Li Ji-li, 1336-1407?) liên hệ đến một người Việt gốc Hoa tên Hồ
Liêm, con nuôi Tuyên úy Lê Huấn ở Thanh Hóa. Sau khi cướp ngôi cháu
ngoại ngày 23/3/1400, Quí Ly hay Lê Nhất Nguyên [Li Yi Yuan] chính thức
đổi sang họ Hồ. Tôn “Hồ Hưng Dật,” thái thú Diễn Châu triều Hậu Hán
(947-950) [ ?], làm tổ. Hưng Dật, theo Quí Ly, liên hệ với Hồ Công Mãn
[Hu Gong-man], dòng giõi “Ngu Thuấn” mà Khổng giáo chọn làm một trong
hai thánh đế. Tháng 1/1401, gia phả Quí Ly còn thêm họ Phạm của mẹ và
Chu của bà nội (8)
Có lẽ khá quen thuộc với cổ thư Trung
Hoa, Quí Ly đổi tên nước thành Đại Ngu (1400-1407), để tưởng nhớ gốc tổ
chép trong Thư [Shu, Book of Document], và Xuân Thu [Yinshu, Annals of
the Spring and Autumn], rồi được sao chép trong truyền bản Sử Ký [Shiji]
của Tư Mã Thiên (145-87 TTL) (Beijing: 1972), cùng các chính sử như
Tiền Hán Thư [Xian Hanshu] của Ban Cố (32-92) (Beijing: 1975), Hậu Hán
Thư [Hou Hanshu] của Phạm Việp (398-446) (Beijing: 1973), cùng sách
khác. (9)
Tại Đại Việt, Nghiêu Thuấn cùng Tam
Hoàng [Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông], chính thức xuất hiện trong chiếu dời
đô năm 1010 của Lý Thái Tổ (22/11/1009- 3/3/1028). Tuy nhiên, phải từ
thời Hậu Lê (29/4/1428-12/7/1527), những sáo ngữ như “vô vi nhi trị”
[chẳng làm gì mà đời được trị], hay “mây [gió, mưa] Đường Nghiêu, tiếng
đàn Ngu Thuấn” mới được Nguyễn Trãi (1380?-1442) cùng nhóm tân Khổng
(neo-Confucianists) hô hào, ca tụng, qua tập Dư Địa Chí, tức An Nam Vũ
Cống, với ảo vọng biến một vua trẻ thơ mới mười một tuổi thành “Nghiêu,
Thuấn.” Nhưng bọn thái giám Lương Đăng được Lê Nguyên Long hay Lê Lân
[Li Lin] tin cậy hơn, nên sử dụng nhạc khí Minh cùng những trò đập gậy,
hô xướng “vạn tuế” mỗi khi di chuyển, bỏ quên chiếc khánh Nguyễn Trãi
chế tạo bằng đá núi Kinh Chủ, huyện Giáp Sơn, Thanh Hóa theo Chu Lễ. Bi
thảm hơn nữa là kết cuộc Trại Vải Bắc Ninh nhân chuyến tuần du Chí Linh
của ứng cử viên Nghiêu Thuấn, khiến Nguyễn Trãi và cô vợ lẽ bán chiếu
xinh đẹp, bị tàn sát ba đời ngày 19/9/1442. (10)
Dẫu vậy, cho tới thế kỷ XIX, vẫn còn
người muốn hướng dẫn Gia Long (1/6/1802- 28/6/1806, Hoàng đế-3/2/1820)
thành Nghiêu-Thuấn bằng cách tặng một ấn bản Đại Học [Great Learning]
lên ông vua bình định thiên hạ bằng chiến thuyền, đại bác,và đủ loại
lính Lê-dương. Hay, năm 1847 cung văn Thiệu Trị (11/2/1841- 4/11/1847),
như “đức cao hơn những đời chuộng văn, đạo thịnh hơn những đời chuộng
võ.” Từ khi lên ngôi, “phong hóa lan khắp, đạo trị quang minh, trong thì
trăm họ nhảy múa mừng Xuân, ngoài thì phương xa lặn lội đến cống, đùn
đùn như mây Đường Nghiêu bay, sang sảng như đàn Ngu Thuấn gẩy.” (11)
Một quân phiệt đương thời, Chu
Lệ/Đệ—cũng rất kiêu ngạo về thành tích giết cháu cướp ngôi, tru diệt anh
em để bá chủ thiêu hạ, tổ một chi mới [Thành tổ, Zhengzu] nhà Minh,
nhưng thích tự xưng chính vị thiên tử, đại diện Trời, Đất và thần linh
để thống nhất và cai trị vạn vật dưới vòm trời [thiên hạ]—phẫn nộ lên án
cha con Quí Ly đảo trời, lật đất, tự coi tài giỏi, uy đức hơn cà Tam
Hoàng, Ngũ Đế thượng cổ, đặt niên hiệu là Nguyên Thánh [Yuan Sheng] hay
Thánh Nguyên [Sheng Yuan], đi ngược lại trật tự của Trời Đất [hiểu theo
nghĩa thực dân, bành trướng Hán tộc] mà Chu Lệ có nhiệm vụ duy trì. (12)
Theo cổ tích Trung Hoa, nhờ hiếu đức với
cha, mẹ ghẻ và anh em khác mẹ, Thuấn được Đường Nghiêu (Tang Yao,
2356-2256 TTL) nhường ngôi. Năm 2220 TTL, Thuấn chinh phục Tam Miêu; tám
năm sau, 2208 TTL, chết ở Thương Ngô, khi đang “tuần du phương nam.”
Tại Hồ Động Đình, Hồ Nam, còn miếu thờ Thuấn và hai vợ vốn là con gái
Nghiêu. Vẫn theo truyền thuyết, Chu Vũ Vương [Zhou Wu-wang], người khai
nghiệp nhà Chu, lấy đất Trần phong cho con cháu Thuấn, dưới họ Hồ. (13)
Danh vọng của Quí Ly không qua đường
khoa bảng hay công lao chiến trận, mà khởi đi từ đâu đó trong hậu cung
nhà Trần. Hai quí phi của Minh Tông (Trần Vượng hay Nhật Phụ [Chen Ri
Fu], 3/4/1314 -15/3/1329, TTH 10/3/1357) mà Ly gọi bằng cô, do con gái
Nguyễn Thành Huấn lấy người họ Lê sinh ra, đều có con làm vua: Con Hiến
từ là Trần Hạo, tức Dụ Tông (2/10/1341- 29/6/1369), rất được Chu Đức Dụ
yêu quí, gọi bằng Trần Nhật Khuê [Ri-kui]. Ngày 10/5/1370, Đức Dụ mặc áo
tang đích thân tới cửa Tây hóa đón sứ đoàn Việt báo tang từ Hà Nội, và
hết lời khen ngợi lòng trung hiếu của “man di.” Minh Từ sinh ra Hiến
Tông (15/3/1329-24/7/1341); và, Trần Phủ (Nghệ Tông,
3/12/1370-4/12/1372, TTH – 6/1/1395), hay Trần Thư Minh [Shu-ming],
quyền thự quốc sự từ 1370 tới 1374 trong Minh thực lục. Cai trị được hai
năm Trần Phủ bị Đức Dụ áp lực nhường ngôi cho Trần Kính (Duệ Tông,
4/12/1372 -4/3/1377), rồi tự xưng làm Khâm Hoàng tới ngày 6/1/1395. (14)
Quí Ly còn liên hệ đến một hoàng hậu họ
Lê khác, tức Gia Từ hoàng hậu của Duệ Tông (4/12/1372 -4/3/1377), mẹ Phế
đế Trần Hiện (Chen Wei, 19/6/1377 – 3/1/1389). Khi Nghệ Tông chọn Trần
Hiện lên ngôi, Gia Từ khóc lóc phản đối, nói con mình đức bạc, không
xứng làm vua—hiểu theo nghĩa một vòng hoa vương giả của cả Nghệ Tông lẫn
Quí Ly. Hậu bỏ cung điện đi tu, rồi chết bí ẩn năm 1381, chẳng hiểu có
liên quan gì đến việc Trần Hiện “dụ giết” con trưởng Nghệ Tông là Câu
vương Húc hay chăng. (15)
Qua đường giây “họ ngoại,” Quí Ly trở
thành thân tín của Nghệ Tông, biểu trưng uy quyền họ Trần từ năm 1370,
khi Hữu tướng quốc Trần Phủ làm đảo chính Trần [Dương] Nhật Lễ
(18/7/1369 – 9/12/1370)—tức “Trần Nhật Kiến.” vua thứ tám, khác họ nhà
Trần. Mẹ cha Nhật Lễ là đào kép hát (Vương Mẫu và Dương Khương), nhưng
Lễ trở thành con thừa nhận của Trần Dục, hoàng tử lớn của Minh Tông và
Hiến Từ. Trần Dục không được chọn làm vua vì “ngông cuồng” và chết sớm.
Trong nỗi tưởng nhớ và ý định đền bù cho Dục, Hiến Từ lập Nhật Lễ lên kế
vị Dụ Tông. Bởi thế, sử Lê chép Dụ Tông lập di chiếu truyền ngôi cho
Nhật Lễ. Hữu Tướng quốc Phủ cũng gả con gái cho Nhật Lễ.
Nhưng mẹ Nhật Lễ có thể dính líu đến
tham vọng trở lại họ Dương của con. Ngày 12/1/1370, Hiến Từ Tuyên Thánh
Thái Hoàng Thái hậu bị đầu độc chết, và Lễ bị tình nghi là thủ phạm. Rồi
đến cuộc thanh trừng 18 tôn thất sau cuộc mưu sát hụt Lễ trong một đêm
Thu 1370. Bởi vậy, dù Nhật Lễ là vua duy nhất được nhà Minh phong vương
khi tại vị, Hữu thừa tướng Phủ, cùng hai em phế Lễ, rồi ngày 9/12, cho
lệnh đánh chết cả hai cha con Lễ.
Biến cố trên khiến Vương Mẫu chạy sang
Chiêm Thành xin quân đánh Thăng Long, nhưng bị bão lớn, thiệt hại nặng ở
cửa biển Đại An. Từ năm này, vua Chiêm—xuất hiện như Chế Bồng Nga
(1370-8/2/1390) trong sử Việt, A Da A Zhe trong Minh thực lục, được Chu
Đức Dụ phong vương ngày 11/1/1370—tạo ra bao ác mộng. Trong hai chục năm
kế tiếp, Chế Bồng Nga đánh phá, cướp của, lùa dân từ Hóa Châu ra tới
Nghệ An, Thanh Hóa, và bốn lần cướp Thăng Long (năm 1371, 1377, 1378,
1384). Trần Nghệ Tông, rồi Trần Hiện chỉ biết chạy giặc, chôn dấu kho
tàng tới tận Lạng Sơn. Năm 1377, Duệ Tông mang 120,000 quân vào đánh
Chiêm, nhưng bị tử trận ngày 4/3/1377 (hoặc 8/3/1377, theo tư liệu Minh)
tại chân thành Đồ Bàn (Vijaya). Con trai lớn Nghệ Tông bị bắt sống. Hầu
hết tùy tướng của Duệ Tông tử trận. Chỉ có Quí Ly, phụ trách tiếp vận,
cùng Đỗ Tử Bình, chỉ huy hậu quân, chạy thoát thân. Cuộc thảm bại này
khiến cán cân quân sự giữa hai nước thay đổi hẳn. (16)
Thái độ Chu Đức Dụ với vua Trần cũng
lạnh nhạt dần. Thoạt tiên không chịu phúng điếu Duệ Tông, vì “chết đuối”
là một trong ba trường hợp cấm kỵ. Rồi không thừa nhận Trần Hiện hay
Nghiễn, tức Phế đế (19/6/1377 -3/1/1389). Đức Dụ còn sai bộ Lễ viết thư
cho Nghệ Tông, khuyên bảo nên cùng Trần Hiện xét lại việc làm của mình,
“trở lại với Đạo Trời. Dân chúng đã phải chạy loạn.” (17)
Sử Việt đều ghi Đức Dụ sai Đỗ Tử Hiền, Ổ
[Sư] Lân, [Du] Hình Văn Bác sang Hà Nội phong vương cho Đế Hiện; nhưng
tới nơi, Đế Hiện đã chết. Tranh chấp mãi, nhà Minh mới chịu qua phúng
điếu; (18)
Minh thực lục chỉ có những thông tin
khiến khó thể nghĩ rằng Đức Dụ muốn phúng điếu hay phong vương cho Đế
Hiện. Thí dụ như lời chê trách Đế Hiện ngày 24/6/1381 là “đểu giả và ác
độc” [villainous], “phóng đãng vô luân” [dissolute] và “hỗn láo”
[insulting] trong cuộc tranh chấp đất đai với phủ Tư Minh, cùng quyết
định trả lễ cống, và cấm Quảng Tây, Quảng Đông nhận chuyển cống lễ của
nhà Trần. (19)
Quí Ly nhiều lần được trao nhiệm vụ
chống Chiêm. Năm 1387, Quí Ly lên tới chức Đồng Bình Chương sự, tức tể
tướng, cờ biển có bốn chữ “văn võ toàn tài.” Tha hồ kéo phe, kết đảng.
Uy quyền Quí Ly mạnh đến độ bất cứ âm mưu chống đối nào đều bị bẻ gãy,
kể cả vua Trần Hiện. Được Vương Nhữ Mai, con trí sĩ Vương Dữ Nhu, mật
báo âm mưu kềm chế Quí Ly của Đế Hiện cùng Thái úy Trần Nguyên Ngạc, Lê Á
Phu [và Dữ Nghị?], Quí Ly theo lời khuyên của nhóm Phạm Cự Luận, dèm
xiểm và áp lực Nghệ Tông phế vua ngày 3/1/1389, rồi thắt cổ chết. (20)
Quí Ly còn bày kế cho con Nghệ Tông là
Ngạc không nhận ngôi vua, nhường cho em út là Trần Ngung, tức Thuận Tông
(24/1/1389 -2/4/1398). Rồi tìm cách giết Ngạc. (21)
Chu Đức Dụ và triều đình Kim Lăng bắt
đầu chú ý tới “Lê Nhất Nguyên,” sau cuộc thảm sát Phế Đế ngoài thành
Thăng Long đầu năm 1389. Nghệ Tông và Quí Ly dấu kín việc này, nên gần
một năm sau, ngày 8/12/1389, sứ nhà Trần là Nguyễn Thông Thư mới tiết lộ
sự thực, sau khi nhân viên bộ Lễ khám phá ra việc giả mao tên Trần Hiện
(Chen Wei, Trần Huy hay Vi) để cống lễ.(22)
Có tác giả đã chỉ trích Nghệ Tông quá
nhu nhược, may sẵn áo tang cho chế độ. Như đầu năm 1393, Nghệ Tông khen
ngợi bản điều trần 14 thiên “minh đạo” [làm sáng đạo Trời], trong đó Quí
Ly đề nghị trở lại với việc thờ phụng Khổng Khâu trước đời Tùy, xếp Chu
Công Đán làm chính vị Tiên Thánh [Xian sheng, First Sage], Khổng Khâu
làm Tiên Sư [Xian shi, First Master], phụ tế trong văn miếu. (23)
Quí Ly chê Hàn Dũ là một thứ “đạo Nho,”
kẻ ngoài miệng nói chuyện thánh hiền, mà việc làm như kẻ cắp. Chê bọn
Tống Nho Chu Mậu Thức [Đôn Di, phái Lý học [Li], Trình Hạo (Cheng Xa,
1032-1085), anh Trình Di (Cheng Yi, 1033- 1107) [học trò Đôn Di, chống
việc thờ tượng và ảnh Khổng; chú giải lại Dịch]; Dương Qui Sơn [Thế]
(học trò Trình Di), La Trọng Tố, Lý Diên Bình và Chu Hy (Zhu Xi, Chu
Nguyên Phối, 1130-1200) [chủ trương chỉ nên tìm ra ý định [intentions]
của tiên Thánh khi đọc kinh sách; chống việc thờ tượng và ảnh]. (24)
Sử quan định hướng Khổng giáo hết lời sỉ
nhục, trách móc. Ngô Sĩ Liên viết: “Đạo của tiên thánh trước nếu không
có Khổng tử thì không rõ được; đạo của bậc thánh sau nếu không có Khổng
tử thì không thể làm khuôn phép được. Từ khi có sinh dân đến nay chưa ai
hơn Khổng tử; thế mà dám khinh xuất bàn đến, là chẳng biết lượng mình
đấy.” Vào thế kỷ XVIII, Ngô Thì Sĩ còn nặng lời hơn nữa: gọi Quí Ly là
“người mù chê mặt trăng, mặt trời không có ánh sáng,” “cái ngu của Quí
Ly thì tội không kể xiết.” (25)
Có lẽ Ngô Thì Sĩ chưa biết rằng ánh
trăng là phản chiếu của ánh mặt trời. Và, rõ ràng những người tự nhận
môn đệ Khổng chưa sẵn sàng để chấp nhận sự thực: “Tử viết” hay “Tử văn,”
“Tử vân” trong Luận Ngữ chưa hẳn là Khổng Khâu lịch sử. Chỉ có Nguyễn
Phước Hường Nhiệm, người muốn được hậu thế ca ngợi như Lưu Hằng, tức Hán
Văn Đế (179-157 TTL), cho là “chưa hẳn hoàn toàn toàn sai.” (26)
Sự thực có thể phức tạp hơn chúng ta
được thông tin. Một trong những yếu tố chưa được đề cập là giao tình
ngày một xấu đi giữa Nghệ Tông và Chu Đức Dụ.
Tất cả khởi đi từ cái chết của Trần
[Dương] Nhật Lễ ngày 9/12/1370. Đức Dụ rất giận dữ, lên án Nghệ Tông
giết vua, mưu toan làm giàu, không khai báo sự thực. Bởi vậy, năm 1374,
Nghệ Tông vẫn chưa được phong vương, phải tuyên bố từ chức tạm giữ việc
nước vì tuổi già. Em trai Nghệ Tông, Duệ Tông, được kế vị từ tháng
12/1372, cũng vậy. Khi Duệ Tông chết ở Đồ Bàn năm 1377, và Hà Nội báo
cáo Duệ Tông bị chết đuối, Đức Dụ không muốn phúng điếu. (27)
Tháng 5/1399 [4 Kỷ Mão, 6/5-4/6/1399],
sau khi Nghệ Tông đã chết, và như để chứng tỏ chẳng vui thú gì với món
quà bức tranh “tứ phụ” được trao tặng năm 1394, Quí Ly giết thêm Thuận
Tông (24/1/1389 -2/4/1398) ở quán Ngọc Thanh [thôn Đạm Thủy, huyện Đông
Triều, Hải Dương], sau khi ép con rể đi tu theo đạo giáo. Quí Ly đã sai
Nguyễn Cẩn đầu độc, nhưng vua không chết. nên phải dùng Xa kỵ vệ thượng
tướng quân Phạm Kỵ Vĩnh thắt cổ. Tháng 12/1400-1/1401 [12 Canh Thìn],
Quí Ly nhường ngôi cho con thứ là Hán Thương [xuất hiện trong Minh thực
lục như Hu Di [Hồ Đại], hay Li Cang [Lê Thương] (12/1400-1/1401-
17/6/1407). (28)
Việc bỏ trưởng, lập thứ này, theo sử
Việt, được chính Lê Nguyên Trừng [Li Sheng]chấp thuận—dù có những dấu
hiệu bất mãn từ phía Trừng khiến Quí Ly phải làm thơ khuyên bảo. Hán
Thương là con Huy Ninh công chúa—được Nghệ Tông gả cho Quí Ly khoảng nửa
năm sau ngày chồng cũ là tôn thất Nhân Vinh bị Nhật Lễ giết. Liên hệ
huyết thống này giúp Hán Thương có nhiều phần trăm được nhà Minh thừa
nhận hơn Trừng.
B. Hu Di [Hồ Đại] và Li Cang [Lê Thương] (12/1400-1/1401-17/6/1407):
Không rõ chuyện gì đã xảy ra từ năm 1400
tới ngày 17/7/1402 vì Minh thực lục khuyết giai đoạn này. Từ ngày
3/10/1402 sử Minh mới chép Chu Lệ sai sứ mang Chiếu lên ngôi tới mười
[10] nước lân cận. Ngày 21/4/1403, Hán Thương gửi sứ đến mừng, và xin
phong vương. Theo Hán Thương, Trần Nhật Khuê là chúa yi [di] đầu tiên
xin cống lễ, nhưng Khuê mất không con nối dõi. Hán Thương là con công
chúa họ Trần, nên được dân tôn lên nhiếp chính. Triều Minh đề nghị gửi
người qua điều tra vì không thể tin được những man di bạt mạng
[reckless] và bốc đồng [impetuous]. Chu Lệ đồng ý. Ngày 3/5/1403, Chu Lệ
cho Hán Thương biết Dương Bột [Yang Bo] sẽ được giao trọng trách tìm
hiểu này. Sử Tây Sơn và Nguyễn chép sứ Minh là Dương Bột, nhưng không
nói rõ ngày tháng. Sử Lê không chép, chỉ ghi Chu Lệ sai Ổ Tu sang báo
tin lên ngôi.
Theo Minh thực lục, ngày 28/12/1403,
Dương Bột trở lại Kim Lăng với một sứ đoàn của Hán Thương, và tờ biểu
cầu phong thứ hai, kèm theo tờ trình của các thế gia, kỳ lão nội dung
cũng tương tự như trước, tức vua Trần chết, không con, nên dân tôn lập
Hán Thương quyền thự quốc sự bốn năm qua, xin Chu Lệ sớm phong tước để
yên vỗ man di. Ngày 6/1/1404, Chu Lệ sai Hạ Chí Sơn [Xia Zhishan] xuống
phong Hán Thương làm An Nam Quốc Vương. (29)
Đây là một chiến thắng ngoại giao lớn
cho cha con Hán Thương. Tuy nhiên, tất cả mới chỉ khởi đầu. Những vấn đề
tồn đọng từ thời nhà Trần—ngoài lãnh thổ như Chiêm Thành, trong lãnh
thổ như vấn đề “tranh chấp đất đai,” nên hiểu theo nghĩa xâm lấn, hiếu
chiến; và nhất là các thế lực nội thù, sẽ đưa Đại Ngu tới nghĩa trang
trong hơn ba năm ngắn ngủi sắp tới. Liên hệ huyết thống với một vua
“thánh hiền” Khổng giáo không đủ cứu cha con Quí Ly khỏi họa diệt vong.
Quốc thống từ thời Trưng Vương thêm một lần bị cướp đoạt sau hơn bốn
trăm năm tự chủ từ họ Khúc, Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê
Hoàn, sáu đời vua Lý, tới mười hai đời vua Trần.
Để tránh xúc phạm đến họ Lê ở Thanh Hóa
và họ Hồ ở Diễn Châu-Nghệ An, từ đây, chúng tôi sẽ chỉ dùng tên Quí Ly
[Ji-li], Trừng [Sheng] và Hán Thương [Cang hay Hu Di], cắt bỏ họ Lê mà
Quí Ly không muốn liên hệ, cùng họ Hồ nửa người nửa thánh mà chẳng ai có
thể thiết lập liên hệ với Quí Ly, và theo chúng tôi trộm nghĩ, không hề
hiện hữu..
II. Những Vấn Đề Tồn Đọng:
A. Trụ Đồng Mã Viện:
Trong lịch sử bang giao Hoa-Việt, có rất
nhiều huyền thoại. Văn gia Hoa từng đưa bang giao giữa hai nước lên tới
năm 1110 TTL, tức triều Chu Thành Vương với Chu Công Đán phụ chính.
Truyền bản Sử Ký của Tư Mã Thiên cũng ghi lại giấc mơ Chu Công Đán ban
cho sứ Việt Thường năm [5] cỗ xe có dụng cụ xác định hướng nam, đi dài
theo duyên hải từ Thiểm Tây tới Phù Nam, Lâm Ấp, tròn năm mới về tới
Việt Thường. Vài văn gia đời Tống còn nằm mơ thấy chuyện cúng rùa ngàn
tuổi cho Nghiêu, trên lưng có chữ giáp cốt, và Nghiêu dựa theo đó làm
thành lịch rùa. Kinh hoàng hơn nữa, có người còn đưa lịch sử thông hiều
Hoa-Việt đến thời Chuyên Húc, tức một trong những sứ giả của vua cổ tích
Trung Hoa đã tới đo đạc mặt trời cùng tinh tú ở “Nam Giao,” rồi hồn
nhiên phán rằng “Nam Giao tức Giao Chỉ.” (30)
Huyền thoại nổi danh hơn nữa là việc Mã
Viện [Ma Yuan] đã đánh dẹp cuộc nổi dạy của Hai Bà Trưng (40-43) đời Lưu
Tú (5/8/25-29/3/57), rồi trồng trụ đồng hay bia đá để khoa trương võ
công. Chẳng hiểu tại sao bỗng nảy sinh thêm tin Mã Viện dùng trụ đồng
làm biên giới đế quốc Hán. Rồi đến suy luận trụ đồng là biên giới
tây-nam Hán-Việt, hay biên giới Giao Châu và Lâm Ấp [Lin-yi] tức cổ
Champa. Một tự điển khá nổi tiếng Hán ngữ là Từ Hải còn ghi trụ đồng Mã
Viện ở trên đèo Cả—tức biên giới Đại Việt đời Hậu Lê sơ, hoặc các chúa
Nguyễn vào đấu thế kỷ XVII. Chỉ có Lê Tắc, trong truyền bản An Nan
Zhi-luo [An Nam Chí Lược] xếp loại nó vào loại cổ tích từ thế kỷ
XIII-XIV, Bài thơ ca ngợi công đức hai Phục ba tướng quân họ Lộ và họ Mã
được ghi lại một chứng từ khác, “Đồng tiêu, Nhật Nam đoan.” (31)
Tuy nhiên, vì hãi sợ những sự thực Lê Tắc đã ghi lại, người ta tảng lờ những điểm chính yếu của ANCL.
Qblai Khan (Hốt Tất Liệt,
1260-18/2/1294) và nhà Nguyên thường được giới thiệu như đã biến huyền
thoại trụ đồng Mã Viện thành một dữ kiện lịch sử xâm lược—qua hai cuộc
hội khám tháng 4-5/1272 (Uriyang Qadai-Lê Kính Phu) đời Trần Thánh Tông
(30/3/1258-8/11/1278, TTH 3/7/1290), và tháng 8-9/1345 (Vương Sĩ
Hành-Phạm Sư Mạnh) đời Trần Dụ Tông [hiểu theo nghĩa TTH Minh Tông
(15/3/1329-10/3/1357). (32)
Tuy nhiên, hai thông tin trên cần được
nghiên cứu lại. Mặc dù trong thư gửi Trần Thuận Tông ngày 20/3/1397, sứ
giả của Chu Đức Dụ là Trần Thành [Chen Zheng] nhắc đến hai chi tiết này,
nhưng chúng có thể chỉ được bịa đặt ra giống như Tập Cận Bình cùng Bộ
Chính Trị Đảng CSTH của thế kỷ XXI đang ngửa mặt lên trời cả cười về hai
ồng tre “tài liệu cổ sử” chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa.
Chu Đức Dụ tức Minh Thái tổ mới có lẽ là
người hâm nóng tinh thần thực dân, xâm lược Hán tộc qua chiêu bài “kim
tiêu” biên giới, và võ công “Mã Phục Ba [Ma Fu-Bo] chế ngự man di. Ngay
sau khi đánh thắng quân Nguyên, từ góc đông nam của đế quốc Trung Hoa,
Đức Dụ đã nhắc đến trụ đồng biểu dương sự khuất phục Man Yi (còn được
biết như Nam Man và Tây Nam Man Di từ đời Hán) trong chiếu lên ngôi, hay
chiếu sắc ban phong Nhật Lễ làm An Nam Quốc Vương năm 1370. (33)
Năm 1381, vấn đề tranh chấp đất đai biên
giới lại bộc phát. Đầu mối xuất phát từ gia đình Thổ tri phủ Tư Minh
Hoàng Quảng Thành. Thổ hào Thành đã hoang tưởng ra việc Đồng Đăng là đất
Đồng trụ của Mã Viện, nên xin đòi trả lại 200 lý [ca 82 kms] phía bắc
và đông trụ đồng mà An Nam đã lấn chiếm. Trần Hiện bác khước. Điều này
khiến Đức Dụ giận dữ, không tiếc lời chỉ trích họ Trần. (34)
Năm 1396-1397, Chu Đức Dụ lại sai bọn
Trần Thành và Lữ Nhượng qua Hà Nội thảo luận, nhưng Trần Ngung tức Trần
Thuận Tông không chịu nhân nhượng. Trong kho bằng chứng lịch sử của nhà
Minh, Trần Thành nhắc đến câu tuyên bố của đại diện Việt về tục lệ tiếp
đón hay đưa tiễn sứ Trung Hoa ở Khâu Ôn [Qiu Wen], để cưỡng từ đoạt lý
rằng Khâu Ôn là ải địa đầu của Giao Chỉ, không phải trạm đổi ngựa ở Đồng
Đăng; nên đòi đất Khâu Ôn, Như Ngao [Ru Ao], Khánh Viễn [Qing-yuan],
Uyên [Yuan] và Thoát [Tuo]. Mặc dù bị Thuận Tông bẻ gãy gian ý—như đặt
câu hỏi tại sao năm 1285 hay 1288. Thoát Hoan không lui về giữ biên giới
Vĩnh Bình lại chạy tới Tư Minh—Đức Dụ đành tuyên bố “An Nam sẽ bị tai
họa,” nhưng chờ dịp thuận tiện hơn. (35)
Ngày 1/5/1404, Quảng Thành lại xin đòi
đất bị Annam “xâm lấn.” Chu Lệ đồng ý. Ngày 25/7, Chu Lệ chính thức đòi
đất đã mất. Đòi hỏi này bỗng có sức nặng của núi Thái Sơn hay Thập Vạn
Đại Sơn sau khi Bùi Bá Kỳ cùng Trần Thiên [Thiêm] Bình xuất hiện tại Kim
Lăng mùa Thu 1404, van lậy Chu Lệ dùng uy đức [moral powers] trừng trị
cha con Quí Ly tội ác giết vua, truy sát tôn thất, cướp ngôi; lại ngạo
mạn tự xưng dòng giõi Thánh đế Thuấn, đặt tên nước Đại Ngu, đặt niên
hiệu Nguyên Thánh. Bởi vậy, năm 1405, cha con Quí Ly sai “cát địa sứ”
Hoàng Hối Khanh—thái học sinh khóa 1384—cắt trả phủ Tư Minh 59 xã thôn
đất Lộc Châu hay Cổ Lâu, Lạng Sơn. Thừa thắng, Chu Lệ còn đòi bảy [7]
khu vực của châu Ninh Viễn, Vân Nam, bị Đại Ngu lấn chiếm. Trong khi đó,
sai Lý Kỳ [Li Qi] và Vương Thư [Wang Shu], cùng phó sứ Lưu Quang Dĩnh,
xuống An Tôn điều tra, với lời dọa nạt cha con Quí Ly: “Cái ác của các
tội bay gây ra cao tày trời” [The evil of your crimes reaches to
Heaven]. Sau khi cha con Quí Ly sai Nguyễn Cảnh Chân theo Lý Kỳ lên Kim
Lăng ngày 22/7/1405 đề nghị cho Thiên Bình về nước, ngày 5/8 Chu Lệ sai
Niếp Thông dẫn Cảnh Chân trở lại An Tôn, mang theo sắc dụ phong Hán
Thương làm Thượng Công, Tri phủ Thuận Hóa, hưởng thực ấp toàn phủ, cha
truyền con nối, nếu đón Thiêm Bình về làm vua. Văn thư trên vẫn có những
lời đe dọa về tội lỗi tày trời “giết vua,” “truy diệt tôn thất.” (36)
Năm 1440, Chu Kỳ Trấn (Minh Anh Tông,
1435-1449, 1457-1464) lại nêu lên vấn đề ranh giới và trụ đồng. Lần này,
nhân việc Hoàng Khoan đem 290 hộ dân và lãnh thổ ở châu Khâm [Qin],
Quảng Đông, xin qui phụ An Nam từ thời Tuyên Tông (1425-1435). thổ quan
châu Khâm tin rằng sau khi Mã Viện trừng phạt man di và vãn hồi hòa bình
đời Hán (42-44), tất cả lãnh thổ từ trụ đồng Mã Viện tới Phân Mao Lĩnh
[Fen Mao Range] là đất châu Khâm. Bản đồ và tư liệu lịch sử khẳng định
rẳng trụ đồng nằm ở động Cổ Sâm [Sum, hay Lâu], cách châu Khâm ba [3]
lý, là biên giới tây nam; và Phân Mao Lĩnh, nơi cỏ tranh chia mọc theo
hai ngả bắc nam như một biên giới trời sinh, là mốc biên giới tây bắc.
An Nam đã xâm lấn qua trụ đồng 200 lí, và chiếm vượt qua Phân Mao Lĩnh
300 lí. Ngay đến anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi cùng nho thần nhà Hậu Lê
cũng bị ám ảnh bởi cơ quan tuyên truyền khổng lồ của nhà Minh, viết vào
truyền bản Dư Địa Chí: “số 26: Vân Cừ, Kim tiêu, Phân Mao, [ở về An
Bang, sau tránh húy, đổi làm An Quảng].” (37)
Năm 1442, Lê Thái Tông (Lê Lân,
20/10/1433-7/9/1442) nhận lỗi; nhưng không rõ cắt trả lại châu Khâm bao
nhiêu đất. Đời Lê Thánh Tông (26/6/1460- 3/3/1497), năm 1471-1472, nhà
Minh lại đòi đất An Bang—để có thể nhìn ra biển Đông Nam Á, khiến Thánh
Tông phải sai cha vợ là Nguyễn Đức Trung trấn giữ An Bang, và nhiều hơn
một lần căn dặn các đại thần rằng “ai cắt một tấc đất của Thái Tổ để lại
sẽ bị tru di.” (38) Chẳng hiểu đây là lập trường của vua, hay chỉ tuyên
bố cho sử thần ghi vào “Nhật lịch.”
Cuộc cướp ngôi nhà Lê của cha con Mạc
Đăng Dung năm 1527 mở ra cho Chu Hậu Tổng (Thế Tông,
27/5/1521-23/1/1567) cơ hội lấy lại núi “Phân Mao” thuộc châu Khâm,
Quảng Đông. Chu Khứ Phi (Zhou Qufei, 1100-1178) đời Tống đã nằm mơ thấy
một hay hai trụ đồng Mã Viện, trên đó khắc hàng chữ “Đồng trụ chiết,
Giao Chỉ diệt” ở khu hang động Cổ Sâm, Khâm Châu, và kể lại trong tập
Lĩnh Ngoại Đại Đáp [Lingwai dai da; Reponses from outside the Ling
Pass]. Đại Thanh Nhất Thống Chí cũng chép “Đèo Phân Mao” ở động Cổ Sâm,
phía Tây châu Khâm khoảng 3 lí [1.5 km]. Mã Viện dựng trụ đồng ở đây.
(39)
Theo sử cũ—đã được sử quan Nguyễn hiệu
đính—Ðăng Dung cử Phạm Chánh Nghị qua Vân Nam, đút lót vàng bạc, nói con
cháu nhà Lê đã chết hết. Năm 1534, Chu Hậu Tổng sai Cừu Loan và Mao Bá
Ôn dẫn quân đến biên giới, loan tin sẽ đánh Mạc. (Thông sử, Long (1978),
tr 270-271, 277)
Minh thực lục ghi từ năm 1522 tới 1536,
liên hệ với An Nam bị cắt đứt. Mãi tới năm 1536, Chu Hậu Tổng và các sứ
quân ở Quảng Đông/Quảng Tây, Quí Châu/Vân Nam mới thắc mắc về việc An
Nam thiếu tiền cống lễ đã trên 20 năm. Vì ngân khố eo hẹp, Chu Hậu Tổng
và cận thần muốn “hỏi tội” An Nam. Ngày 7/12/1536, Bộ Binh dâng biểu xin
thành lập một Bộ tư lệnh đánh An Nam; gồm một tư lệnh, hai Phó tư lệnh,
bốn phụ tá, bốn chỉ huy trưởng kỵ mã, một quan văn phụ trách dân sự và
hành chính, cùng hai đại diện tại hai quân khu Quảng Đông/Quảng Tây và
Vân Nam. Thị lang bộ Hộ ra sức can ngăn, nhắc nhủ Hậu Tổng về những
gương sáng của triều Chu Lệ—như hao quân, tốn của, hàng trăm nghìn người
chết mà không giữ được Giao Chỉ. Ngân khố chỉ còn hơn bốn [4] triệu nén
bạc, tình trạng biên giới với “rợ Hồ” phức tạp. Hơn nữa, không thể dùng
luật lệ của một nước đội mũ, mặc áo để cai trị man di.(40)
Khoảng hai tháng sau, sứ thần của Nguyễn
Cam tự Kim—dưới danh nghĩa một con cháu nhà Lê là Lê Ninh—tới Bắc Kinh.
Trịnh Duy Liêu khai rằng đã tới Chiêm Thành hai năm trước, nay mới tới
được cửa Trời. van xin Hậu Tổng ra oai trừng trị phản nghịch Mạc Đăng
Dung [Mo Deng Yong] tội đuổi Lê Huệ [Li Hui, hay Y, tức Lê Chiêu Tông],
cháu vua Lê Tương Dực [Li Zhou], đã lên tạm coi quốc sự sau ngày Trần
Cảo nổi loạn, giết vua năm 1516. Sau đó, Dung lập Lê Khoáng [Li Kuang],
rồi giết Khoáng, chọn con mình lên thay. Sau khi Lê Huệ chết, con là Lê
Ninh dấy binh chống Dung. Nhiều lần gửi sứ qua Bắc Kinh đều bị Dung chặn
giết. Bộ Lễ tỏ ý nghi ngờ, vì Liễu đã ở trên tàu Quảng Đông hai năm tại
Chiêm Thành mà không hề tiếp xúc với sứ Minh. Hậu Tổng cho Liễu được
tạm trú tại Viện Thông Ngôn theo qui chế sứ đoàn. (41)
Một số người không muốn xuất quân. Pan
Zhen [Bàn Chân], Tả thị lang bộ Binh cho rằng cả hai phe đều có lỗi,
chẳng nên bênh phe nào. Giặc Hồ đang đe dọa ở biên giới. (juan
199:4b-5a). Pan Dan, phụ trách quân sự ở Quảng Đông/Quảng Tây cho rằng
Mạc Đăng Dung kiểm soát 80 phần tram lãnh thổ, và đã gửi người đến xin
cống lễ. (juan 199:6b-7b). Ngày 27/5/1537, bộ Binh đưa ra 11 cách giải
quyết, và đề nghị sử dụng lực lượng hỗn hợp Hán và địa phương. (juan
199:6b-7b).
Ngày 20/5/1537 ra hịch kể mười [10] tội
của Đăng Dung: (1) Đuổi Li Hui [Lê Huệ, tức Lê Y] cướp ngôi; (2) ép một
công chúa lấy Đăng Dung; (3) Giết Li Kuang [Lê Xuân hay Cung Hoàng]; lập
con làm vua; (4) Đuổi Lê Ninh chạy đi; (5) Tự xưng Thượng hoàng; (6)
Đặt niên hiệu Minh Đức, hay Đại Thánh; (7) Bố trí lính ở các đèo, cản
trở lưu thông; (8) tàn bạo và vô luân; (9) ngăn chặn đường đi cống; (10)
tự động bổ nhậm quan lại; Ai bắt được một tội nhân sẽ thưởng 22,000 nén
vàng và ban quan tước. (42)
Tuần phủ Thịnh còn gửi thư văn cho Lê
Ninh, yêu cầu trỉnh bày rõ ràng sự thực. Bởi vậy, năm 1437, Nguyễn Cam
gửi thêm sứ đoàn thứ hai do Trịnh Viên cầm đầu tới Vân Nam, mang theo tờ
biểu nói rõ việc Đăng Dung đuổi Lê Huệ và giết Lê Khoáng.. Trịnh Viên
còn được gặp đặc sứ của Chu Lệ là Đào Phương. Tờ biểu thứ hai này của Lê
Ninh khiến Chu Lệ tạm ngưng việc xuất quân. (Shizong, juan 204:1b).
Mặt khác, qua đề nghị của Án sát châu
Khâm và Đô Ngự sử, kiêm tuần phủ Vân Nam Uông Văn Thịnh [Wang Wen-Sheng]
tiếp tục điều tra tình hình, và mở đường cho cha con Đăng Dung đầu
hàng, dâng nạp sổ sách đất đai, dân đinh, sẽ được tha tội chết
Đồng thời, chiêu mộ những thổ hào chống
cha con họ Mạc, giúp họ dùng võ lực hưng Lê. Hai lá bài được Hậu Tổng và
các cận thần đồng tâm ủng hộ là Lê Ninh, tức Lê Trang Tông, do Nguyễn
Cam và đồng minh họ Trịnh chế tác, và hai anh em “chúa Bầu” Vũ Văn
Uyên-Vũ Văn Mật, thủ lĩnh xóm Khao Bầu, xã Đại Đồng, Tuyên Quang. (Đại
Nam Nhất Thống Chí , q XVII: Hải Dương và q XXIII: Tuyên Quang, ghi sự
tích phù Lê chống Mạc của hai anh em Vũ Văn Uyên và Mật; ĐNNTC, XVII:
Hải Dương (1997), 3:449 [373-466]; XXIII: Tuyên Quang, (1997), 3:360-362
[333-363];
Năm 1537, Vũ Văn Uyên tình nguyện mang
10,000 quân từ đèo Chi Long xuống đánh một vị trí của Dung. Mạc Đăng
Doanh thân chinh đi đánh anh em Vũ Văn Uyên, nhưng không thắng. Tổng
binh Mộc Chiêu Phúc và Tuần phủ Thịnh cho quân tới đóng ở ghềnh Liên
Hoa, châu Thủy Vĩ để hỗ trợ anh em Uyên.
Châu Thủy Vỹ thuộc Hưng Hóa, nằm sát
huyện Vân Sơn, Vân Nam, cách biên giới khoảng 11 dặm hay 5 cây số; đông
giáp Vị Xuyên, Tuyên Quang. Đời Chu Lệ, là cửa ngõ xâm nhập Đại Ngu của
Mộc Thạnh. Một phần lãnh thổ phía bắc, kể cả Mông Tự và ghềnh Liên Hoa
bị Trung Hoa xâm chiếm; ĐNNTC, XXIII: Tuyên Quang, (1997), 3:284-285
[333-363];
Ninh Viễn [Ning Yuan] là phủ An Tây hay
Mường Lễ; thuộc Hưng Hóa (trấn Tuyên Quang đời Trần; phủ Tuyên Hóa đời
Minh), cát cứ của Đèo [Điêu] Cát Hãn. Sau khi Quí Ly cướp ngôi, Đèo Cát
Hãn xin sát nhập vào Vân Nam. Năm 1432-1433 bị Lê Lợi đánh giết. Năm
1761, đời Lê Hiển Tông (1740- 1786) mất vào tay nhà Thanh sáu [6] trong
số mười [10] châu—Tung Lãng [nay là Quang Lãng], Hoàng Nhâm, Hợp Phì, Lê
Tuyên, Tuy Phụ và Khiêm. Ngày nay chỉ còn châu Chiêu Tấn, tức Mường Thu
hay Mường So; ĐNNTC, XXIII: Tuyên Quang, (1997), 3:285-286 [333-363];
Năm 1405, Chu Lệ buộc tội Hán Thương đánh chiếm [bảy [7] công sự phòng thủ [stockades] bằng thân cây sát mặt đất]. Tháng 1/1432, Lê Lợi sai Tư đồ Lê Sát và Tư Tề mang quân đánh Mường Lễ, vì thổ tù Đèo Cát Hãn tư thông với Phạm Văn Xảo; sau lại móc nối với vua Ai Lao đánh Mường Mỗi.
Tháng 2-3/1432, đích thân vua cũng xuất chinh. Đánh được Mường Lễ; giết Kha Lại. Đổi Mường Lễ thành Phục Lễ. (Lê Quí Đôn, Đại Việt Thông Sử, bản dịch Ngô Thế Long, trong Lê Quí Đôn Toàn Tập III (Hà Nội: KHXH, 1978), tr 92-94. [Sẽ dẫn: Thông sử, Long (1978)],; CMCB, XV:30, (Hà Nội: 1998), I:863-864; ĐVSK, BKTT, X:73b-74a..
3/4/1432 [3/3 Nhâm Tí]: Lê Lợi hồi kinh. Ban chiếu việc đánh Mường Lễ: Đèo Cát Hãn phản. Không cống lễ. Khuấy nhiễu các trấn Thái Nguyên, Tuyên Quang, Quí Hóa, Gia Hưng. Làm phản do âm mưu của thằng [Phan Văn] Xảo. Năm ngoái, Bế Khắc Thiệu mưu làm phản ở Thái Nguyên, do thằng [Trần Nguyên] Hãn xúi dục. (Thông sử, Long (1978), tr 92-4)
Lê Sát và Tư Tề thắng giặc ở Đà Lãng, truy kích tới Mường Bồ. [Con] Hoàng Hối Khanh bị bắt giết, nạp thủ cấp. Đinh Quế cùng vợ con bị bắt sống. Bắt được hơn 3 vạn thuộc hạ và vợ con Cát Hãn, cùng hơn 100 voi.
Tháng 11 Nhâm Tí [23/11-22/12/1432]: Đèo Cát Hãn về hàng. Vua phong chức Tư Mã. (Thông sử, Long (1978), tr 94) Năm sau, giết đi. (ĐVSK, BKTT, X:74a, Lâu (2009), 2:382 ghi là tháng Giêng Quí Sửu [1-2/1433]) CMCB, XV:30, (Hà Nội: 1998), 1:864)
Ngày 16/6/1537, Mao Bá Ôn tới kinh đô,
nhận trách nhiệm điều khiển kế hoạch đánh An Nam. Bá Ôn đưa ra năm [5]
đề nghị, mà chính yếu là chỉ loại bỏ Mạc Đăng Dung, nhưng giữ các thuộc
hạ; sẽ sử dụng quân Quảng Đông/ Quảng Tây và Vân Nam. (Shizong, juan
200:1b-2a). Hậu Tổng chấp thuận, và cách chức (thị lang Pan Zhen), hay
phạt lương hai tháng một đại thần từng đề nghị ngưng hành quân vì lương
thực ở Hoa Nam gần cạn. (Shizong, juan 200:8b-9a).
Cha con họ Mạc—trước mối đe dọa của một
cuộc chiến mà cơ quan tuyên truyền của Hậu Tổng thổi phồng lên tới
300,000 quân từ Quảng Đông/Quảng Tây, và Vân Nam; cùng tờ hịch nêu lên
mười [10] tội của cha con Dung sau khi sứ đoàn thứ hai do Trịnh Viên cầm
đầu của Nguyễn Cam tới Vân Nam gặp Tuần phủ Uông Văn Thịnh và đặc sứ
của Hậu Tổng, trình nộp một điều trần về tội giết vua, cướp ngôi của cha
con Dung—quyết định đi xa và nhanh hơn bất cứ đối thủ nào. Đăng Doanh
dàn xếp cho Nguyễn Văn Thái [Ruan Wen-tai] —người từng soạn chiếu nhường
ngôi của Lê Khoáng năm 1427—và Phan Chính Nghị đưa ra những đề nghị mà
Hậu Tổng và các quân phiệt địa phương khó từ chối.
Ngày 22/4/1538, Đăng Doanh sai Phan
Chính Nghị đi nộp biểu xin đầu hàng. Lời lẽ vô cùng nhã nhặn và nội dung
khiến Hậu Tổng đẹp dạ. Đưa ra những điều kiện khiến Hậu Tổng không thể
từ chối: (a) cắt trả đất bốn động cho Khâm Châu, (b) sẽ trà hết số cống
lễ còn thiếu 20 năm; (c) không dủng võ lực đánh nhau với Lê Ninh và Vũ
Văn Uyên; và (d). xin trao số mệnh vào sự phán xét của Cừu Loan cùng Mao
Bá Ôn. Nhưng Nghị cũng tố cáo Lê Ninh (tức Lê Trang Tông) vốn họ
Nguyễn. (Shizong, juan 210:4a-5a).
Hậu Tổng lập tức cho lệnh hoãn hành
quân, và bốn ngày sau, 26/4/1538, bổ nhiệm Cừu Loan [Qiu Luan] làm Chinh
Di Phó tướng quân, và Mao Bá Ôn làm quan quản trị, hay Tổng quản, với
ấn guan fang.(43)
Ngày 14/3/1539, Nguyễn Văn Thái đích
thân tới Trấn Nam Quan, dâng biểu xin hàng mới của Đăng Doanh. Đăng
Doanh cung kính tuyên bố tất cả đất đai An Nam đều thuộc về Thiên Triều,
sẽ trả lại tất cả những đất có tranh chấp. Đăng Doanh cũng nộp sổ sách,
địa đồ của 53 phủ, 176 châu, 49 huyện, 300,000 hộ với 1,750,000 đinh.
(44)
Ngày 8/9/1539, Hậu Tổng chấp thuận trên
nguyên tắc tha tội chết cho cha con Đăng Dung, nếu họ Mạc thành thực. Để
bảo đảm sẽ đạt được kết quả, Hậu Tổng cho tiến hành việc chuẩn bị, cử
Mao Bá Ôn [Mao Ba-wen] một thị lang bộ Công, trông coi việc xây
dựng,.phụ trách. Bá Ôn đưa ra một kế hoạch năm [5] điểm, nhắm vào cha
con Đăng Dung mà thôi, quan tướng các cấp sẽ được giữ nguyên chức vụ cũ,
nếu ngả theo nhà Minh. Ngoài ra, Bá Ôn chủ trương dùng hai phiên ti
Quảng Đông/Quảng Tây và Vân Nam chia nhau quản thúc các lãnh chúa Việt.
Lê Ninh, anh em Vũ Văn Uyên cùng các thổ hào biên giới Trần Thông [Chen
Cong], Hoàng Công Cang [Huang Gong Gan], tri huyện Thủy Vỹ Đào Cát Hãn
[Tao Xian] đặt dưới sự điều động của tuần phủ Thịnh và Tông binh Mộc
Chiêu Phúc.Vũ Văn Uyên còn thành lập một hành dinh ở Ghềnh Liên Hoa,
châu Thủy Vỹ, nhưng bị nhà Minh xâm chiếm. Cha con Mạc Đăng Dung dưới sự
cai quản của bọn Thái Tĩnh, quân vụ trưởng Quảng Đông/Quảng Tây. Và
Tổng binh Lưu Huân [Liu Xun]
Lực lượng xâm lược, dự trù lên tới
300,000 quân, chia làm hai cánh chính. Cánh quân Quảng Tây/ Quảng Đông,
kể cả chính binh và kỳ binh (quân lưu động), dự trù lên tới 220,000,
chia làm ba mũi xâm phạm Ðại Việt theo ngả Qui Thuận, Ô Lôi [Khâm Châu,
phủ Liêm Châu], và Bằng Tường, Long Châu, Tư Minh. Vân Nam gửi ba đội
tiễu binh, mỗi đội 21,000, từ ghềnh Liên Hoa (Mông Tự, phủ Khai Hóa nhà
Thanh [nguyên là đất của Ðại Việt]) theo ba [3] cánh tràn vào Ðại Việt.
(45)
Cái chết đột ngột của Đăng Doanh ngày 3/3/1540—vì bị sét đánh, theo một nguồn tin—khiến việc thương thuyết bỗng chậm lại.
Ngày 11/5/1540, Án sát châu Khâm là Lâm
Hy Nguyên [Lin Xi-Yuan] dâng biểu yêu cầu Đăng Doanh trả lại bốn [4]
động đã lấn chiếm sau ngày quân Minh rút chạy khỏi Đông Quan năm 1428.
Tuy nhiên, Hậu Tổng không cứu xét, chờ đợi những viên chức có trách
nhiệm. Ngày 31/7/1540, Cừu Loan và Mao Bá Ôn dâng biểu, đề cập đến nguồn
tin Đăng Doanh đã chết. Cách nào đi nữa, không ai biết Doanh đang ở
đâu. Nếu cha con Đăng Dung không gấp rút đầu hàng, có lẽ phải xuất quân.
Sẽ dùng 36,000 quân Hán và Tartar ở Quảng Đông; 75,000 thổ binh Quảng
Tây; cùng lực lượng Hồ Quảng và hải quân. Số lương thực cần cho một năm
là 380,000 thạch gạo; 800,000 lạng bạc; và hơn 800,000 ngựa. Xin được
giữ lại số tiền thuế bạc 23,200 lạng, và thuế muối, sắt khoảng 107.000
lạng chưa chuyển về kinh. Hậu Tổng chấp thuận. (48)
Ngày 20/10/1540, một biến cố bất thần
xảy ra tại Quảng Tây. Cừu Loan và Tổng binh Liu Xun [Lưu Huân] nảy sinh
hiềm khích về tướng lệnh, và Cừu Loan bắt Lưu Huân phải sửa áo giáp để
quì lạy mình. Thế Tông bèn triệu hồi Cừu Loan về kinh, (49)
Ngày 30/11/1540—bị dồn vào tình trạng mà
Mạc Đăng Dung thú nhận là “lợn trong chuồng”—Dung bàn giao chính quyền
cho con trưởng Đăng Doanh là Mạc Phúc Hải (Mo Fu-Hai,
8/3/1540-5/6/1546), rồi cùng cháu là Minh Văn và 42 thuộc hạ qua Trấn
Nam Quan làm lễ đầu hàng.
“[M]ỗi người đều cầm thước, buộc dây lụa vào cổ, đi chân không đến bò rạp ở mạc phủ nước Minh, giập đầu quì dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai quân dân quan chức trong nước để xin xử phân, nộp các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù của châu Vĩnh Yên, trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc lệ vào Khâm Châu.” (50)
Rồi sai cháu là Văn Minh, cùng 29 người,
kể cả Hứa Tam Tĩnh, Nguyễn hay Vũ Duy Quế đi Yên Kinh dâng biểu đầu
hàng lên Chu Hậu Tổng.
Điều đáng nhấn mạnh không chỉ có một
vùng lãnh thổ rộng lớn khoảng 300 lý của Am Quảng trả cho châu Khâm.
Hay, mở ra cho thổ dân một “trục lộ tơ lụa hàng hải” tới Vịnh Bắc Việt
Quan trọng hơn nữa là cha con Dung từ bỏ
vị thế một nước chư hầu [vassal state], trở lại với thể chế đô thống sứ
ti thời Minh thuộc. Tên Giao Chỉ được đổi thành An Nam, nhưng vua An
Nam năm nào trở thành chức quan tùng nhị phẩm— tùy thuộc hai phiên ti
Quảng Đông/Quảng Tây và Vân Nam. Không thể không tự hỏi việc xin bãi bỏ
vị thế một quốc gia, xuống làm một đơn vị quân chính [An Nam Đô thống sứ
ti] của Trung Hoa này có liên quan đến huyết thống cùng giấc mơ của bọn
Mạc Thúy, Mạc Địch, Mạc Viễn năm 1407—tức tờ biểu với “1120 chữ ký” của
các kỳ lão xin được sát nhập, cho đặt quận huyện như thời Bắc thuộc—hay
chăng? (46)
Từ ngày này đến năm 1647, vương quốc Đại
Việt không có vua [wang], mà chỉ còn những sứ quân [đô thống sứ ti]
thống lĩnh các lãnh thổ cát cứ của mình [commandery]; tìm cách chém giết
tàn hại lẫn nhau để có đủ cống lễ nộp cho vua Minh. Các vua Lê Trung
hưng từ Lê Duy Đàm (Thế Tông, 2/2/1573- 12/10/1599), Lê Duy Tân (Kính
Tông, 15/10/1591-23/6/1619), đến Lê Duy Kỳ (Thần Tông,
23/6/1619-1643-1648-1662) đều chấp nhận phải hành sử như những tên man
di soái bị chế ngự—giống như lời dạy bảo của Chu Hậu Tỏng với Mạc Phúc
Hải khi trao cho sứ đoàn Mạc tại Bắc Kinh năm 1543. (51) Tháng 3-4/1667,
Huyền Hoa (Khang Hy, 1661-1722) cũng phong Lê Huyền Tông
(1662-16/11/1671) làm ANQV; mở một chương thông hiếu mới trong kỷ nguyên
toàn cầu hóa. (52)
Tháng 3-4/1667, Huyền Hoa (Khang Hy,
1661-1722) cũng phong Lê Huyền Tông (1662-16/11/1671) làm ANQV; mở một
chương thông hiếu mới trong kỷ nguyên toàn cầu hóa. (52)
Chúng tôi đã chứng minh trụ đồng không
hề hiện hữu, và chỉ là một cuộc nam tiến trong sử sách quen thuộc của
các nhà cai trị Trung Hoa từ thế kỷ VIII-IX, giống như tấm bản đồ biển
Đông Nam Á tự in, tự phổ biến, của Trung Nam Hải từ năm 2009-2010; và
đang xây cất những cứ điểm quân sự tại đây, bất chấp luật biển và luật
quốc tế hiện hành. (53)
B. Chiêm Thành [Champa]:
Vấn đề nổi cộm thứ hai là Chiêm Thành ở phía nam Đại Việt.
Chiêm Thành xuất hiện vào khoảng thế kỷ
X, tại vùng lãnh thổ từng được biết như Lâm Ấp [Lin-yi] hay cổ Champa,
rồi Hoàn vương. Theo sách cổ Trung Hoa năm 100 Tây lịch, thổ dân quận
Cửu Chân, thuộc Giao Châu (tức cổ Việt) nổi loạn, bắt giết trưởng lại,
đánh phá quận ấp. Năm 137, di soái Khu Liên tự xưng vua. Cư ngụ tại vùng
duyên hải đông nam lục địa Á Châu, dân cổ Chàm và cổ Việt bị đẩy vào
những cuộc chiến lớn nhỏ bất tận để phân chia ruộng đồng, sông núi, cùng
những duyên hải theo luật kẻ mạnh
Từ giữa đời Đông Hán (25-220), Lâm Ấp và
Giao Châu mới bắt đầu có những mảnh vụn sử thành văn nhờ một sắc tộc có
nền văn hóa khá cao ở phía bắc ghi lại. Theo những tư liệu thành văn
còn sót lại, nước cổ Việt bị Trung Hoa cưỡng chiếm trong thời khoảng từ
thế kỷ thứ III TTL tới năm 112-111 TTL—hoặc có thể sớm hơn khoảng 70, 80
năm, một cách gián tiếp qua đế quốc Nan Yue [Nam Việt], chư hầu của Tây
Hán từ khoảng năm 196 TTL. Không rõ cổ Chàm bị xâm chiếm từ thời điểm
nào, nhưng năm 100 bắt đầu “làm loạn,” và trở thành nước Lâm Ấp từ
khoảng năm 137 tới 192. Dân cổ Chàm và cổ Việt cũng có ngôn ngữ, văn
hóa, và thể chất khác biệt nhau. Người Chàm da đen, tóc quăn, mắt to;
trong khi người Việt da nâu, tóc đen, mũi tẹt và mắt nhỏ; (thuộc loại
DNA M 119; khác với DNA người Hoa, loại M 117).
Tục truyền, Lâm Ấp và Giao Châu, tức cổ
Việt, tranh nhau vùng đất Nhật Nam trong vòng bốn năm thế kỷ. Từ năm 248
tới 268, Lâm Ấp chiếm Nhật Nam. Đến đời Lưu Tống bị Lâm Ấp chiếm. Nhà
Tuỳ mới lấy lại, đặt làm Đãng Châu, rồi đổi làm quận Tị Ảnh. Sau nhập
vào Chiêm Thành. [Nay là Quảng Bình-Quảng Trị. (54)
Lưu Trang, tức Hán Minh đế
(29/3/57-5/9/75) từng đưa ra câu hỏi lừng danh: “Phải chăng nhà cửa ở
Nhật Nam đều trổ cửa ở phía bắc để đón mặt trời?” [Nhật Nam quận bắc
hướng thị nhật da?] Dù khó xác định Lưu Trang có hàm ý gì, nhưng nếu đọc
kỹ chú giải của các văn gia đời sau, khó thể nghĩ rằng Lưu Trang hay
trí thức Hán không tin rằng Nhật Nam là xứ “hoang phục” nằm về phía nam
tuyến mặt trời mọc và lặn. Nhan Sư Cổ (581-645)—làm việc dưới triều Lý
Uyên (Đường Cao Tổ, 618-626) và Lý Thế Dân (Thái Tông, 627-647) thường
chú giải ngũ kinh và Hán Thư của Ban Cố—giải thích: “Nhật Nam là nói về
phía nam mặt trời; là bảo mở cửa phía bắc để hướng về mặt trời” [Nhật
Nam ngôn kỳ tại nhật chi nam, sở vị khai bắc hộ di hướng nhật da] (55)
Vua quan Hán còn thận trọng thực hiện
những công trình đo bóng mặt trời ở xứ “Tị Ảnh” hay “Tỉ Ảnh.” Kết quả
khám phá ra là tại thành Khu Túc, lị sở huyện Tượng Lâm, dựng cây nêu 8
thước bóng của nó ở phía Nam là 8 tấc; dựng nêu ngày 5/5 âm lịch [mùa
Hè] cũng thấy bóng ở phía Nam của cây nêu! (56)
Nguồn thông tin gốc của văn gia Trung
Hoa, được sao đi chép lại, đều từ những tuyển tập truyền kỳ quái lạ như
Giao Châu Ký [Jiaozhouji], Quảng Châu Ký, Lâm Ấp Ký [Linyiji], Phù Nam
Ký [Funanji], Giao Châu Ngoại vực ký [Jiao Zhou Wai Yu ji/ Memoirs on
the Outerlimit of Jiaozhou] (205-420?)], đã tuyệt bản do những tác giả
vô danh, với những chi tiết quái lạ như đá nứt ra người, vú dài ba
thước, v.. v… ghi lại trong Thủy Kinh Chú [Shuijingzhu] của Lịch (Lệ)
Đạo Nguyên.
Theo công trình đo bóng mặt trời từ cổ
thời—tức khi dân Trung Hoa còn ăn lông, ở lỗ, uống máu tươi, ăn cả thịt
lẫn da và lông, hay vẩy xương cá, chỉ biết đến mẹ chẳng hề đoái hoài ai
là cha; theo sự ghi nhận của Ban Cố (32-92), trong [Tiền] Hán Thư—dân
Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Lâm Ấp, Phù Nam, v.. v.. là loại mọi rợ,
man di xa, thật xa ngoài chin châu trung nguyên, gọi chung là “hóa
ngoại,” không thể dung phép cai trị của dân tộc đội mũ, mặc áo, ngồi
ghế, đi kiệu, v.. v…
Từ thế kỷ X, cổ Việt cũng giành được tự
chủ/độc lập dưới tên Đại Việt. Lúc này, Lâm Ấp đã đổi tên thành Hoàn
Vương, từng cống lễ Trung Hoa những châu báu đánh cướp được ở Tây Dương.
Nhưng cuộc chiến tranh sinh tồn Việt-Chàm vẫn tiếp tục. Năm 982, Lê
Hoàn đành chiếm kinh thành Hoàn Vương, gây tổn thất nặng, khiến phải dời
đô vào Vijaya hay Đồ Bàn, đổi tên làm Chiêm Thành. Triều Lý, Đại Việt
hai lần giao tranh với Chiêm Thành vào năm năm 1044 và 1069. Hạ bán thế
kỷ XV là giai đoạn xấu nhất trong liên hệ Việt-Chàm. Nhà Trần suy yếu
dần, trong khi Chiêm Thành ngày thêm hùng cường, hiếu chiến; trở thành
mối quan tâm từ Kambojia.tới Xiêm La Hộc, Ava-Mian Dian. Với Đại Việt,
vua Chiêm đánh cướp các châu, phủ duyên hải từ Thuận Hóa ra Nghệ An,
Thanh Hoa; đòi lại đất đai Chế Mân đã cắt cho Trúc Lâm Đại sư
(1299-1308), tức Trần Nhân Tông (8/11/1278-16/4/1293, TTH, 9-10/1299)
làm sính lễ cưới Huyển Trân công chúa năm 1305-1306. Từ năm 1353 tới
1390, Chiêm Thành đã đánh cướp Đại Việt hơn mười lần, kể cả bốn lần tàn
phá Thăng Long năm 1371, 1377, 1378 và 1383. (57)
Nghệ Tông cùng các vua cuối đời Trần
nhiều lần phải bỏ kinh thành chạy loạn, chôn dấu bớt kho tàng để tránh
bị khánh kiệt, nhưng có năm vẫn bị mất sạch vì đất lở, không tìm được
dấu tích chỗ chôn của (hoặc bị trộm cắp). Tướng lĩnh thì gian tham giảo
quyệt, [unscrupulous and immoral]. Đỗ Tử Bình, chẳng hạn, đã gián tiếp
gây nên cái chết của Trần Duệ Tông năm 1377 tại Đồ Bàn; Bình dấu mười
[10] mâm vàng Chế Bồng Nga cống hiến, và giá họa vua Chiêm vô lễ—khiến
“120,000” quân Trần thảm bại, Duệ Tông tử trận ngoài thành Đồ Bàn, hầu
hết tướng lĩnh bị giết, hay bị bắt, con trai Nghệ Tông là Trần Húc đầu
hàng, được Bồng Nga đưa về chiếm giữ từ Diễn Châu-Nghệ An trở vào nam,
rồi tiến ra đánh Hà Nội ngay trong năm 1377-1378.
Ngày 8/2/1390, một quan nhỏ [A Lậu Kê]
bất mãn, mật báo cho Trần Khát Chân biết chiếc thuyền sơn màu lục của
Chế Bồng Nga (A Da A Zhe, 1370- 8/2/1390); nên vua Chiêm trúng đạn thần
sang [hỏa pháo] bắn đá, chết. Trần Nguyên Diệu, em Đế Hiện, đã hàng Nga;
cắt thủ cấp lập công, nhưng bị Phạm Nhữ Lạc và Dương Ngang giết, đoạt
công. Tể tướng Chiêm là La Ngai thiêu xác Nga, rồi dẫn quân theo đường
núi về nước. Bị săn đuổi, rải vàng bạc chạy thoát thân. Khi thủ cấp Chế
Bồng Nga tới Bài Than, Nghệ Tông đang ngủ. Ví mình với Nga như Lưu Bang
và Hạng Vũ. Tội nghiệp cho Chế Bồng Nga. (58)
Từ năm 1401, nhân dịp nhà Minh bị cuốn
hút vào cuộc tranh chấp quyền lực giữa các phiên vương, cha con Quí Ly
tìm cơ hội báo thù Chiêm Thành. Tháng 5- 6/1401, Hán Thương sai Đỗ
Mẫn/Mãn, cùng Trần [Hồ] Văn, Trần Tùng, Đỗ Nguyên Thạc mang “150,000”
quân thủy bộ đánh Chiêm Thành. Không thành công. Trần Tùng đi đường bộ,
sát chân núi, cách biệt thủy quân của Đỗ Mẫn/Mãn. Thiếu lương thực, phải
rút quân về. (59)
Tháng 8/1402, Hán Thương đích thân đi
đánh Chiêm. Ba Đích Lại xin cắt Chiêm Động và Cổ Lũy. Hán Thương chia
làm bốn [4] phủ Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Cử Nguyễn Cảnh Chân, An phủ sứ lộ
Thuận Hóa, làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa. Cho Chế Ma Nô Đà Nan—con Chế
Bồng Nga, đã trốn sang Thuận Hóa, và được Quí Ly che chở—giữ châu Tư
Nghĩa. Tháng 2-3/1403, Quí Ly di dân vào Thăng Hoa. Mua trâu phát cho di
dân. Năm sau, đưa vợ con vào đoàn tụ, nhưng chết đắm nhiều.(60)
Hán Thương còn sai Phạm Nguyên Khôi
[Côi] đi đánh Chiêm. Ngày 9/8/1403, sứ Chiêm dâng sớ khắc chữ trên lá
bằng vàng; xin nhà Minh can thiệp. Ngày 25/8, Chu Lệ cho lệnh Hán Thương
ngưng xâm lấn Chàm; và sai tướng mang 9 chiến thuyền ngăn chặn Khôi
[Côi]. Ngày 25/2/1404, Chu Lệ thông báo cho Chiêm về việc Hán Thương
nhận lỗi. Nhưng tháng 9/1404, sứ Chiêm lại tới Nam Kinh. xin can thiệp.
Ngày 7/9, Chu Lệ sai viết chiếu trách Quí Ly không giữ đạo Trời, sớm
muộn sẽ gánh chịu tai ương. (61)
Những trận chiến biên giới giữa Đại Việt
và Chiêm Thành khiến các vua nhà Minh quan tâm, từng đứng ra giải quyết
các tranh chấp. Nhưng sự can thiệp của nhà Minh thực ra chỉ khiến cả
Chiêm và Đại Việt hâm nồng thù hận. Các triều đình Minh rất xảo quyệt
trong thủ thuật chia để trị, hay dĩ di trị di.
III. Những Kẻ Nội Thù:
Dù Hán Thương đã được phong vương từ đầu
năm 1404, kẻ thù của chế độ không ít. Tử huyệt của Đại Ngu là hành động
giết vua, cướp ngôi. Có người cho rằng Hán Thương rất năng động, và Quí
Ly, đã lớn tuổi, chiều theo ý con. Ngoài ra còn những tội ác man rợ với
tôn thất và trung thần nhà Trần. Trong số chống đối có những cá nhân
chẳng thiết tha gì hơn quyền lợi của cá nhân, gia đình và phe nhóm.
A. “Trần Thiên Bình”:
Ngày 2/10/1404, Trần Thiên [Thiêm] Bình
xuất hiện ở Kim Lăng như cháu nội của một vua Trần, do Dao Xian-dai, thổ
hào phụ trách bình định và khai hóa Lão Qua hay Nam Chưởng [Military
and Civilian Civilizazion of Laos], gửi đến. Mục đích nhằm tố cáo cha
con Quí Ly giết vua, không chỉ một mà ba [3] vua, truy sát tôn thất Trần
cùng các quan trung nghĩa, ngược đãi và đàn áp, bóc lột dân chúng. (53)
Thực hay giả mạo, Thiêm Bình giúp tô lên
tham vọng xâm lăng An Nam thứ chính nghĩa mà vua quan Trung Hoa tự may
cắt hia mão vàng mã, tô son trát phấn—tức thay trời hành đạo, cứu dân độ
thế. Theo Thiên Bình, Trần Nhật Khuê, vua Trần đầu tiên được Chu Đức Dụ
phong làm An Nam Quốc Vương, cai trị hai năm thì mất. (Thực ra, Dụ Tông
cai trị từ 1341 tới 1369; chết trước ngày sứ Minh qua tấn phong). Em là
Kinh [Jing] nối ngôi, cũng chỉ được hai năm. (Duệ Tông cai trị hơn bốn
[4] năm, từ 1372 tới 1377) Con là Xian [Hiện] nối ngôi. Quí Ly lộng
quyền, nên Hiện muốn kềm chế thì bị Ly sát hại. Yong [Ngung] lên ngôi.
Quyền hành vẫn nằm gọn trong tay cha con Quí Ly. Ít lâu sau, Ly giết
Ngung, đưa con là An kế vị. Rồi ngày 23/4/1400, Quí Ly cướp ngôi, đổi
sang họ Hồ, tức Hồ Nhất Nguyên. Tự nhận là dòng giõi Đế Thuấn thần
thoại. Rồi nhường ngôi cho Hồ Di, tức Hán Thương, con thứ Ly. (54)
Theo “Trần Thiên Bình,” chỉ cần vài
nghìn thiên binh, thiên tướng đã đủ trừng trị Quí Ly. Nhưng Thiên Bình,
thực ra chỉ là đồ giả. Tên thực Nguyễn Khang, hay Trần Khang, gia bộc
của Trần Nguyên Huy, đã chạy sang Chiêm Thành và rồi Lão Qua từ sau năm
1390 trong đợt thanh trừng phe tôn thất Trần liên hệ với Chiêm
Thành.(55)
Chu Lệ có vẻ muốn sử dụng Thiên Bình,
nên cho “cháu nội Trần Nhật Khôn [Thuận Tông]” vào yết kiến. Sau đó, đưa
ra một biện pháp tương đối ôn hòa: Nếu Hán Thương chấp nhận đón Thiên
Bình về nước, sẽ được phong tước Thượng Công, và hưởng thực ấp một phủ
lớn, cha truyền con nối. Hành nhân Lý Kỳ được trao trách nhiệm xuống An
Tôn thuyết phục Hán Thương.
B. Bùi Bá Kỳ [Pei Bo-qi]:
Mùa Thu 1404, tại Kim Lăng còn xuất hiện
một kẻ thù không đội trời chung khác của cha con Quí Ly. Đó là Bùi Bá
Kỳ, người Phù Nội, Thanh Miện, Hồng Châu [Hải Dương]. Bá Kỳ từng làm
quan tới ngũ phẩm. Chức vụ cuối cùng là phó tướng của Trần Khát
Chân—người đã giết được Chế Bồng Nga trong trận hải chiến mờ mịt khói
thần sang và hỏa tiễn ngày 8/2/1390, chấm dứt cơn ác mộng 20 năm của vua
quan Trần
Tháng 5/1399, sau khi đã sát hại Thuận
Tông, Quí Ly ra tay thanh trừng Thái bảo Trần Nguyên Hãng, Thượng tướng
Chân, một số tôn thất và võ quan tham dự cuộc mưu sát Quí Ly trong ngày
hội thề 9/5/1399 ở Đốn Sơn (xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá). 370
tôn thất Trần mất mạng. Phụ nữ bị bán làm nô tì, trẻ thơ bị chôn sống
hay dìm nước, không ai thoát khỏi bàn tay cuồng bạo và trái tim “ma quỉ”
[evil-hearted]. Chỉ riêng phe Bá Kỳ hơn 110 người thiệt mạng, kể cả hai
anh em Kỳ. (56)
Sau bốn năm dài trốn tránh khắp núi
rừng hoang vắng, tháng 5-6/1404, Bá Kỳ được một thương gia giúp thoát
lên phủ biên giới Tư Minh [Si Ming], Quảng Tây. Ngày 10/9/1404, Bá Kỳ
dâng biểu, tố cáo tội ác cướp ngôi của cha con Quí Ly, van xin hưng
Trần, diệt ác, theo đúng thiên mệnh “cứu dân, phạt kẻ có tội.” Quí Ly,
theo Bá Kỳ, là con Lê Quốc Kỳ, hay Lê Quốc Mậu [Mao]. Sau khi giết vua,
cướp ngôi, đổi tên làm Hồ Lý Nguyên [Hu Li-yuan]; con là Thương [Cang]
thành Hu Di, niên hiệu Khai Đại. (57)
Không thể biết chắc có bao phần trăm sự
thực, vì Tư Minh là lãnh địa của Hoàng Quảng Thành, tỉnh mơ đều thấy đất
trụ đồng Mã Viện. Giống như Tập Cận Bình [Xi Jin-ping] và tập đoàn tội
phạm chiến tranh Trung Nam Hải hiện nay cùng giấc mơ “đường tơ lụa hang
hải,” hay nói theo một tướng Mỹ, đang xây dựng một vạn lý trường thành
cát ở biển Đông Nam Á, đặt thế giới trước hiểm họa một cuộc thế chiến có
thể sẽ mang đến sự tận diệt của nhân loại. (58)
Dù rất hài lòng với lời tố cáo của Bá
Kỳ, nhưng thoạt tiên, Chu Lệ chỉ muốn dùng “cháu nội vua Trần.” Bá Kỳ
không ủng hộ Thiêm Bình, nên bị an trí khá xa Kim Lăng.
IV. Ba, Bảy Cũng Liều:
Ngày 25/1/1405, sứ của Quí Ly là Phạm
Canh tới Nam Kinh. Chu Lệ dàn xếp cho bọn Phạm Canh gặp cả Thiên Bình
lẫn Bùi Bá Kỳ. Phó sứ Lưu Quang Đĩnh có vẻ nhận biết Thiêm Bình và quì
lạy người tự nhận là cháu nội Thuận Tông. Nhân dịp này, Bùi Bá Kỳ cũng
trách móc cha con Quí Ly gian ác, tàn bạo.
Cuộc đối chất trên khiến Chu Lệ hết sức
ghét bỏ cha con Quí Ly, tuyên bố: “Từ quan tới dân đều dối trá. Đây là
xứ toàn một bọn tội phạm. Không thể tha thứ được.” [Even the Ministers
and people are deceitful. That is a country full of criminals. How can
this be tolerated!”] (59)
Sau đó, Chu Lệ sai Lý Kỳ xuống An Tôn,
để điều tra thêm về những lời tố cáo của Thiêm Bình và Bá Kỳ. Phó sứ
Đĩnh được cử dẫn Kỳ về nước, trong khi Phạm Canh bị giữ lại kinh thành
Minh.
A. Một Cuộc Đánh Lừa Ngoại Giao:
Chuyến đi của Lý Kỳ được sử Việt ghi vào
năm 1404; trong khi Minh thực lục chép Lý Kỳ qua An Nam từ 16/2/1405
tới 6/3/1405. (60)
Trong khi Lý Kỳ đang trên đường xuống An
Tôn (Tây Đô), Tổng binh Vân Nam Mộc Thạnh [Mu Sheng] chuyển lời khiếu
nại của thổ hào châu Ning Yuan [Ninh Viễn], Vân Nam, về việc quân Quí Ly
xâm lấn bảy [7] vị trí phòng thủ của Ninh Viễn. Ninh Viễn thực ra chỉ
là một phần của châu An Tây, phủ Tuyên Hóa. Sau khi nhà Trần mất, thổ tù
Đèo Cát Hãn mang sáu [6] trong mười [10] châu của An Tây xin được sát
nhập vào Vân Nam. Vì cát địa sứ Hoàng Hối Khanh đang thảo luận việc trả
đất Cổ Lũy hay Lộc Châu của Lạng Sơn cho phủ Tư Minh, ngày 6/3/1405, Chu
Lệ sai bộ Lễ viết thư cho Hán Thương, yêu cầu báo cáo về việc chiếm đất
Ninh Viễn. Đáng lưu ý là đòi hỏi này nằm trong văn thư nhắc đến chuyến
đi của Lý Kỳ vào tháng trước để tìm hiểu về những lời tố cáo cha con Quí
Ly giết vua, cướp ngôi. (61)
Cho rằng Hán Thương ngoan ngoãn, trung
hiếu với ân đức [wei de, moral powers] của mình—như đã nhận lỗi việc xâm
lấn Chiêm Thành, và trả lại phủ Tư Minh lãnh thổ đã xâm lấn, lên tới 59
xã thôn đất Lộc Bình vào tháng 3-4/1405— ngày 5/8/1405, Chu Lệ sai hành
nhân Niếp Thông đi trao cho Hán Thương tờ sắc của Chu Lệ, hứa sẽ phong
tước Thượng Công, và cắt cho một phủ lớn, cha truyền con nối, nếu nhận
đón Thiên Bình về làm vua. Chu Lệ cũng chỉ định Nguyễn Cảnh Chân, cựu An
Phủ sứ Thuận Hóa, người đã theo Lý Kỳ lên Kim Lăng ngày 22/7/1405, theo
Niếp Thông về nước. Hán Thương bèn cử Cảnh Chân theo Niếp Thông trở lại
Kim Lăng, tái xác nhận lòng thành. Niếp Thông cũng báo cáo Hán Thương
rất thành khẩn. (42) 42. Ming shi lu, Taizong, (Wade, NUS database),
juan 43:4ab [22/7/1405: Chân theo Lý Kỳ tới Kim Lăng, mời Thiêm Bình về
nước]; juan 44:3a; ĐVSK, BKTT, VIII :46b, Lâu (2009), 2:261; Giu (1967),
2:.
Nhưng từ tháng 9-10/1405, Hán Thương sai
Nguyên Trừng và Đông lộ thái thú Hoàng Hối Khanh phụ trách xây một đồn
lớn tại đèo Đa Bang, tức núi Ba Vì, khoảng 50 cây số tây Hà Nội (thuộc
địa phận Hà Tây, hiện nay). Thành đắp bằng đất, án ngữ hướng tiến quân
từ ngã ba Bạch Hạc xuống phía nam. Từ chân thành tới bờ sông là một bãi
cát được cải biến thành công sự phòng thủ, gồm các hào sâu sát chân
tường, gài chông tre. Tử bờ hào ra bờ sông có những hố sâu khiến ngựa
chiến khó xoay xở, dễ bị sa xuống, cũng trí chông gai. Trên tường thành
quân Quí Ly đông như kiến, được trang bị các loại vũ khí phòng vệ như đá
tảng, thân cây cùng giáo, nỏ và súng tay. Lực lượng chủ động còn có voi
trận. Ngoài ra, chiến thuyền tập trung khá đông đảo, cùng hệ thống cừ,
cọc đóng dọc theo bờ sông
Tả tướng quốc Nguyên Trừng cho lệnh vườn
không nhà trống ở phía bắc sông Hồng, và chỉ lập tuyến phòng thủ ở ải
Lãnh Kinh (Đáp Cầu). (62)
Phải chăng những quyết định này đều nằm
trong kế hoạch chuẩn bị đánh lừa nhà Minh? Hoàng Hối Khanh và Nguyễn
Cảnh Chân có vẻ đóng vai trò quan trọng trong màn lừa đảo ngoại giao sắp
tới.
Ngày 8/1/1406, Chu Lệ cử Hàn Quan [Han
Guan] làm Chinh Nam tướng quân [General for Subduing the South], và Đô
đốc Hoàng Trung [Huang Zhong], Chinh Nam phó tướng [Assistant General
for Subduing the South], cùng Lữ Nghị [Lu Yi] đem 5,000 quân Quảng Tây
hộ tống “Trần Thiên Bình” về làm vua. Tung tin có 100,000 quân để thanh
oai. Hàn Quan sẽ đóng ở biên giới điều động; Phó đô ti Quảng Tây Hoàng
Trung cùng Lữ Nghị đích thân hộ tống Thiên Bình tới kinh thành. (43) 43.
Ming Shi-lu, Taizong (Wade, NUS data base), juan 48:2a. 49:3a; MSL, vol
10, p 741.
Ngày 8/1 này, Chu Lệ cũng cho lệnh Thiên
Bình về nước—nhưng không rõ là Đông đô (Hà Nội) hay Tây Đô (Thanh Hóa).
Trong sắc dụ cho Thiên Bình, Chu Lệ ra sức khích lệ, và tuyên bố cho
Hán Thương làm Tri phủ Thuận Hóa, hưởng thực ấp toàn phủ, cha truyền con
nối. Tặng cho Thiên Bình bốn [4] bộ triều phục mới, và 10,000 quan tiền
giấy. Hứa sẽ cho Bố Chính Quảng Tây Vương Lâm theo Thiên Bình về nước
giúp đỡ. Ngày 26/1/1406, Thiên Bình dâng biểu tạ ơn, hứa sẽ giữ lòng
trung hiếu đời đời.
Giải pháp của Chu Lệ có lẽ là giải pháp
tốt đẹp nhất cho cha con Quí Ly. Sở dĩ Hán Thương được phong Vương vì
lời man khai của Hán Thương, cùng các thân hào, kỳ lão là dòng giõi phái
nam của họ Trần đã tuyệt; và, như một cháu ngoại, Hán Thương có quyền
kế vị vì đa số dân chúng yêu cầu. Nhưng sự xuất hiện của Bá Kỳ và Thiên
Bình làm thay đổi mọi việc, biến cha con Hán Thương thành những tội nhân
lịch sử—nghi phạm giết vua cướp ngôi, truy sát tôn thất, ngược đãi dân
lành. Chu Lệ muốn áp lực tối đa cha con Hán Thương, để đạt những mong
muốn thay vì sử dụng vũ lực.
Điều cha con Quí Ly có vẻ không nghĩ đến
là Chu Lệ từng giết cháu cướp ngôi, cần dùng chiến công đó đây để củng
cố quyền lực. Hành động phục kích, giết Thiên Bình, quá đủ cho Chu Lệ
một lý do ra tay. (44) 44. ĐVSK, BKTT, VIII:50a, Lâu (2009), 2:265-66;
Giu (1967), 3:222; ĐVSKTB, The (1997), tr 520.
B. Cuộc Phục Kích Ở Cần Trạm:
Theo sử Việt, ngày 26/4/1406, Hàn Quan
đóng ở địa đầu biên giới, Hoàng Trung và Lữ Nghị xâm phạm cửa ải Lãnh
Kinh [Linh Kênh]. Quân Quí Ly thua to. Bốn hay hai tướng, kể cả Phạm
Nguyên Khôi [Côi], Chu Bỉnh Trung, tử trận. Nguyên Trừng phải xuống
thuyền bỏ chạy. May nhờ Hồ Vấn [Văn] mang quân Thánh Dực từ Vũ Cao tới
tăng viện, đánh úp, khiến Hoàng Trung phải rút về hướng Chi Lăng (Lạng
Sơn), cách ải Pha Lũy tại biên giới khoảng ba [3] ngày đi bộ. Nhưng hai
cánh quân thánh dực của Hồ Xạ và Trần Dĩnh đã phục sẵn ở Cần Trạm [tức
Kép, Bắc Giang], giữa Lãnh Kinh và ải Chi Lăng. Bọn Hoàng Trung phải
điều đình dâng nộp Thiêm Bình để được an toàn về nước. (63)
Giữa Minh thực lục và sử Việt có khoảng
cách hơn hai mươi ngày, khi xảy ra cuộc phục kích. Sử Minh khẳng định
Thiên Bình chết ngay trong ngày 4/4, gần Chi Lăng. Nhưng sử Việt ghi sau
khi bị vây hãm, Hoàng Trung đề nghị giao nộp Thiên Bình để xin thoát
thân. Nội dung của hai thông tin trái ngược nhau như ngày và đêm này
dường chẳng có giá trị gì hơn xác nhận trận phục kích đạo quân Hoàng
Trung thực sự xảy ra
Theo Trung, ngày 4/4, Hoàng Hối Khanh
tiếp đón Trung ở Khâu Ôn, mang cả rượu thịt đãi quân Minh. Trung hỏi tại
sao Hu Di [Hán Thương] không đến, Khanh trả lời Thương bị bệnh đột
ngột, nhưng sẽ nghênh đón ở Gia Lâm. Trung bèn phái người đi dò thám
chung quanh, thấy chỉ có dân chúng tụ tập chào mừng từ Ải Lựu tới Kê
Lĩnh [Ji ling]. Tạm yên tâm, Trung cho quân tiến về hướng Phú Lương, và
yêu cầu Hối Khanh về trước để báo tin cho Hán Thương biết.
Khi quân Minh tới một đoạn dốc núi, ở
Cần Trạm [Kép] giữa Chi Lăng và Pha Lũy, “100,000 quân phục kích” đột
ngột xuất hiện. Trung muốn thúc quân tiến về phía trước, nhưng cầu bị
phá. Thiên Bình bị giết. Án sát Xue Yan nào đó mới thuyên chuyển đến
Quảng Tây, bị chết thảm. thay vì Bố chính sứ Vương Lâm như dự định. (65)
Cấp chỉ huy của Quí Ly từ xa nói vọng
lại rằng Thiêm Bình chỉ là môt dân thường giả mạo tôn thất nhà Trần, đã
chết. Sẽ sai sứ sang giải thích. Sau này Hán Thương mới điều tra biết
được Thiên Bình tên Nguyễn Khang (Trần Khang theo sử Nguyễn), gia nô của
Trần Nguyên Huy, đã trốn khỏi Đại Việt vào tháng 2- 3/1390 khi Quí Ly
thanh trừng Tư đồ Trần Nguyên Đĩnh vì tội tư thông Chiêm Thành. Khang đã
lưu lạc tới Lão Qua [Nam Chưởng], trước khi được vua Lão Qua đưa lên
Kim Lăng (Nam Ninh, Quảng Tây). Mặc dù Khang không chịu thú tội, Hán
Thương xẻo từng miếng thịt tới chết [lăng trì]. Sau đó Hán Thương gửi An
Phủ Sứ Tam Giang Trần Cung Túc, và thông phán Ái Châu là Mai Tú Phu đi
sứ Kim Lăng để giải thích. Chu Lệ giữ sứ lại, không cho về. (66)
Tin Thiên Bình bị phục kích chết ở Cần
Trạm đến với Chu Lệ thật bất ngờ. Mặc dù cha con Quí Ly đã cố tránh đụng
chạm đến quan tướng hộ tống Minh, nhưng đó chỉ là việc nhỏ. Thật rõ
ràng, cha con Quí Ly đã chống đối Chu Lệ bằng một thủ đoạn thiếu ngay
thẳng—hay lừa đảo như Chu Lệ cao giọng chỉ trích. Đây là một thách thức
trực tiếp thói ngạo mạn nước lớn của kẻ tự ví mình uy đức [wei de] to
lớn như trời đất, muốn gì được nấy. Phản ứng của Chu Lệ rất dễ hiểu là
vô cùng cứng rắn. Ngày 29/4/1406, sau khi nghiên cứu tờ trình của bọn
Hoàng Trung, Chu Lệ tuyên bố với Thành quốc công Chu Năng [Zhu Neng] là
tội ác của cha con Quí Ly tày trời; lòng khoan hồng và thành khẩn của
Chu Lệ đã bị lừa gạt. Chu Năng và các quan đồng thanh xin trừng phạt.
Chu Lệ bèn cho lệnh Chu Năng lập một đạo quân chinh phạt bọn phỉ tặc họ
Lê [“the Li bandits”] (67)
IV: Diệt Ác, Hưng Trần:
Chẳng những cho lệnh bắt giữ sứ thần do
Hán Thương gửi qua giải thích về cái chết của Trần Thiêm Bình, Chu Lệ
quyết “trừng phạt” hay xâm lăng An Nam. Cuộc xâm lăng phát động qua ba
[3] phương diện:
– Phương diện quân sự, sai Chu Năng,
Trương Phụ và Mộc Thạnh tụ họp, huấn luyện “800,000 [80 vạn]” quân—nhưng
có thể chỉ khoảng 215,000—và trên 20 tướng sang xâm lược, dưới chiêu
bài “hưng Trần, diệt ác.” tiến vào Đại Việt qua hai [2] ngả Lạng Sơn và
Tuyên Quang. (68)
– Trên phương diện chính trị: Từ mùa
Xuân 1407, bày kế cho bọn thổ quan Mạc Thúy [Mo Sui]—dòng giõi Mạc Đĩnh
Chi, [tổ 4 đời Mạc Đăng Dung]—làm tờ biểu đại diện cái gọi là “1120 kỳ
lão,” kể cả Yin Pei [?], bày tỏ sự trung thành và xin nội thuộc đế quốc
Minh như cũ vì dòng giõi họ Trần đã tuyệt, do Trương Phụ và Hoàng Phúc
vừa đạo diễn, vừa sản xuất. (55)
Trong hiệp đầu của cuộc xâm lược, quân
Minh chiến thắng quá rõ ràng. Đại Đồn chiến lược Đa Bang thất thủ sau
vỏn vẹn một đêm chống giữ. Hai ngày sau, Hà Nội bỏ ngỏ. Bốn ngày sau
nữa, khi Lý Bân và Trần Húc mang quân vào Thanh Hóa, quan lính Đại Ngu
đốt cháy kinh thành An Tôn (khoảng 12 ngày đường trạm tới Hà Nội) và kho
tàng rã ngũ, trốn chạy bằng đường sông trong khi Quí Ly và Hán Thương
mang binh thuyền ra Hoàng Giang tăng viện. Cuộc kháng chiến của Đại Ngu
chỉ còn lại ba trận đánh sông Lỗ (8-21/2/1407), Hàm Tử (4/5/1407), rồi
Muộn Hải (6/5/1407) tại đồng bằng sông Hồng. Trận thứ tư, trên sông Lỗi
Giang (1/6/1407), là một cuộc rã ngũ khác. Cha con, ông cháu Quí Ly, Hán
Thương và Nguyên Trừng bị bắt sống trong hai ngày 16 và 17/6/1407 tại
vụng biển Kỳ La (Hà Tĩnh ngày nay)—trong tay những đơn vị đánh thuê
Việt, của những người đã theo Minh từ lúc quân Trương Phụ và Mộc Thạnh
chưa vượt biên; hay khi quân Minh đang tiến mạnh như chẻ tre. Hai cá
nhân được Trương Phụ và Minh thực lục hết lời khen ngợi là Mạc Thúy cùng
nhóm thân thuộc, thủ hạ gốc Nam Sách, lên tới 10,000 người; và tiểu
đoàn trưởng Trẩn Phong, được trao trách nhiệm bình định vùng duyên hải,
hay Hải Đông. Ngoài ra, còn những cá nhân như Nguyễn Đại, Đỗ Duy Trung,
Nguyễn Huân [tức Mạc Huân], cùng thổ tù Quí Hóa, Tuyên Hóa, Thái Nguyên,
Thanh Hóa, Thuận Hóa, v.. v… Cuộc kháng chiến được chuẩn bị cả chục năm
bị tan vỡ trong vòng sáu, bảy tháng ngắn ngủi. Ngày 5/7/1708, Chu Lệ đã
cảm khái khen Trương Phụ lập được chiến công vĩ đại mà Mã Viện cũng
không hơn, rồi hứa “Trẫm sẽ ban thưởng nhiều hơn võ công bình định Vân
Nam [thời Chu Đức Dụ].” (69)
– Phương diện tâm lý chiến: truyền hịch
khắp nơi kể rõ 20 tội lỗi tày trời của cha con Quí Ly—đặc biệt là giết
ba vua Trần, tàn sát tôn thất, cướp ngôi. Và, hứa tìm con cháu nhà Trần
đặt lên làm vua. (70)
Đó là các điều :
- Hai lần giết vua và cướp đoạt vương quốc
- Giết tôn thất nhà Trần
- Không tuân theo lịch triều Minh, đổi niên hiệu
- Người chết đầy hào rãnh, người siêu tán khắp nơi.
- Lừa dối triều đình, tự nhận là con một công chúa họ Trần
- Bày mưu giết cháu nội một vua Trần
- Phục kích giết cháu nội vua Trần
- Lấn chiếm biên giới Chiếm cướp dân và lãnh thổ biên giới
- Hành hạ dân
- Chiếm đất của TH
- chiếm đất Ning Yuan [bảy [7] công sự phòng thủ [stockades] bằng thân cây sát mặt đất]
- hành hạ thổ dân 15. đánh chiếm 4 phủ của Champa, kể cả Ban Da Lang, Bai và Hei (hoặc Bai Hei) Hà hiếp vua Zhe Ba Di Lai Chiêm Thành Bắt 100 voi, cướp đất
- Mặc dù Champa là chư hầu của TH, the Li bandits bắt họ làm chư hầu. Hai lần đánh Chiêm vì dám kính hiếu nhà Minh Đánh cướp quà vua Minh tặng vua Chàm ở cửa biển Thị Nại [Shu Pinai].
- “Không chứng tỏ lòng kính trọng TH khi hiếu cống.
A. “Chinh di tướng quân” Chu Năng [Zhu Neng]
Từ 29/4 tới 11/5/1406, Chu Lệ cùng Chu
Năng nhiều lần thảo luận kế hoạch “trưng phạt An Nam.” Mộc Thạnh, Tổng
binh Vân Nam, được chọn chỉ huy cánh quân hướng tây mà nòng cốt là lực
lượng cơ hữu của Vân Nam, được tăng cường kỵ mã và bộ binh Thành Đô, Vân
Nam, Quí Châu và Tứ Xuyên.
Phó Đô ti Quảng Tây là Hàn Quan nhận
lệnh dẫn 30,000 quân tới Bằng Tường trước ngày 22/11/1406. Ngày 20/5, bộ
Lễ cho lệnh đúc ấn Chinh Di Tường Quân và Chinh Di Phó Tướng. cho Chu
Năng và Mộc Thạnh. Bọn Chu Năng, Trương Phụ và Mộc Thạnh sẽ mang
“800,000” quân Lưỡng Quảng và Vân Nam xuống An Nam“đánh kẻ có tội để tỏ
rõ oai trời.” (71)
Ngày 1/6/1406, gọi Hoàng Trung và Lữ
Nghị về kinh báo cáo tình hình, rồi ân xá cả hai, cho tham gia cánh quân
Chu Năng để lập công. Bùi Bá Kỳ được phong chức tham chính Giao Chỉ,
dưới trướng Chu Năng. (Ngày 4/6, Bùi Bá Kỳ cũng nhận được mũ và đai lưng
Tham Chính. (61) 61. Ming shi-lu, Taizong (Wade, NUS database), juan.
54:1a, 2a, 4a;
Ngày 15/7/1406, Chu Lệ làm lễ thái miếu
về việc chinh phạt bọn Lê phản loạn. Ba ngày sau, 18/7, bổ nhiệm Bộ Tư
lệnh chiến dịch: Thành quốc công Chu Năng giữ ấn Chinh Di Tướng quân,
Bình Tây hầu Mộc Thạnh, Tả phó tướng; Tân thành hầu Trương Phụ, Hữu Phó
tướng. Lưu Vân [Liu Jun], bộ Binh, làm cố vấn [Tham tán]. Ngoài ra còn
hơn hai chục tướng thuộc các đơn vị đặc biệt như hai tướng pháo binh, ba
tướng khinh binh, hai tướng thủy quân, bốn tướng kỵ binh và hai tướng
“thủy quân lục chiến.” Ngày xuất quân sơ khởi dự trù vào 30/7/1406. (72)
Chu Năng phát hịch nêu lên 20 tội của,
kẻ phản loạn Quí Ly. Tội nặng nhất của cha con Quí Ly là giết hai vua
Trần, (tội 1) tàn sát tôn thất Trần, (tội 2, 3) rồi bày mưu hãm hại và
giết “cháu nội một quốc vương Trần;” (tội 7, 8) trong khi đầy đọa, bóc
lột dân chúng như kẻ thù. (tội 4) “Bọn phỉ tặc họ Lê” còn quay lưng lại
với tổ tiên, thay tên, đổi họ, tự xưng là Thánh Nguyên hay Nguyên Thánh,
đổi tên nước là “Đại Ngu,” tự đánh bóng là dòng giõi vua thánh. (tội 3,
5) Đối với lân bang như Chiêm Thành, không ngừng xâm chiếm; chẳng thèm
đếm xỉa đến việc Chiêm Thành cũng là chư hầu của thiên tử Minh, được sắc
phong (năm 1370), chặn cướp quà của thiên tử gửi cho vua Chiêm ở cửa
Thị Nại. (tội 15, 17) Chưa hết. Bọn cướp họ Lê xâm lấn đất đai ở Tư
Minh, Vĩnh Bình. (tội 9, 10), khinh thường thiên tử, gửi những tội phạm
đi sứ, lừa gạt triều đình, muốn làm đảo lộn trật tự. (tội 20) (63) 63.
Mingshilu, Taizong, (Wade, NUS database], juan 60:1a- 4a, 6a-7a,; MSL
(Zhong Yang), vol 11, pp 866/71.
Chu Lệ cũng ra tuyên cáo sẽ lập dòng giõi họ Trần làm vua. (73)
B. Chinh Di Phó Tướng quân Mộc Thạnh & Trương Phụ:
1. Trương Phụ, 1406-1408:
Tới Long Châu, phủ Thái Bình, Quảng
Tây, nhưng quân chưa vượt biên, ngày 12/11/1406, Thái tử Thái phó Thành
quốc công Chu Năng chết.
Theo đúng kế hoạch, chiến dịch xâm lấn
“Đại Ngu” vẫn bắt đầu từ ngày 19/11/1406. Ngày 19/11 này Trương Phụ,
cùng Vĩnh Dương Bá Trần Húc [Chen Xu], tả tham tướng; theo đường từ Bằng
Tường (Quảng Tây) mang 400,000 [40 vạn] ra khỏi ải Pha Lũy [Po-lei, sau
là Trấn Nam Quan] tiến vào lãnh thổ Đại Việt. làm lễ cúng tế thần sông,
thần núi An Nam, xin phù hộ.
Ngày 20/11/1406, kị binh của Chu Vinh
[Zhou Rong] tới Kê Lăng [Jiling, Chi Lăng]. Hơn 30,000 quân Đại Ngu đóng
trên núi đối diện ải chưa đánh đã tan—dù trang bị súng [hỏa pháo], lao,
nỏ [cung tên]. Chu Vinh cắt được 60 thủ cấp, bắt sống 10 tù binh, tiến
thêm 40 lý [20 km]. Ngày 20/11, Chu Vinh tới Kê Lăng. Hôm sau, 21/11,
chiếm Chi Lăng. Hiện tượng bỏ của chạy lấy người này thường xảy ra tại Á
Châu tự cổ chí cận đại. Cuộc rã ngũ, tháo chạy hay đầu hàng tập thể của
các đơn vị quốc quân trong hai năm 1948-1949 là những thí dụ tiêu biểu.
Những ai đã trải qua hay chứng kiến Xuân 1975 buồn thảm cũng khó thể
quên. (74)
Ngày 24/11, Trương Phụ, cùng đại quân
tới Kê Lăng. Báo cáo có dấu vết công sự phòng thủ dài theo trục lộ tới
Cần Trạm. Lực lượng xung kích của Lữ Nghị vả kỵ mã của Hoàng Trung, mới
được Chu Lệ ân xá, tỏa ra truy diệt các ổ phục kích, tiến tới đầu cầu Si
trên bờ sông Thương (Bắc Giang). Phương Chính [Feng Sheng] và Vương Thư
[Wang Shu] tiến tới Gia Lâm, bờ bắc sông Phú Lương, đối diện Đông đô.
Tin tình báo từ Bắc Giang cho biết kế hoạch phòng thủ của Quí Ly tập
trung vào đại đồn Đa Bang, cùng Đông đô và Tây đô. Chiến thuyền, và voi
trận cũng tập trung ở khu vực này. (75)
Phía Tây Bắc, Mộc Thạnh với hữu tham
tướng Lý Bân, từ Mông Tự (Vân Nam) mang 40 vạn quân tấn công ải Phú Lệnh
[thượng lưu sông Lô, Tuyên Quang, gần thị xã Hà Giang], kéo xuống sông
Thao. (76)
Ngày 1/12, Trương Phụ chính thức lên
thay Chu Năng chỉ huy, dù vẫn giữ ấn Chinh Di Phó Tướng quân. Sự hiện
diện của Bùi Bá Kỳ tại hành dinh khiến chiêu bài “hưng Trần, phạt ác”
được quảng bá mạnh mẽ hơn. Phụ cho khắc thẻ gỗ đàn hịch tội của Quí Ly,
thả sông trôi xuống phía Nam. Tháng 12/1406, hai cánh quân Quảng Tây và
Vân Nam bắt tay ở gần sông Bạch Hạc. Rồi đóng dài theo bờ sông lớn tới
sông Chú.
Ngày 5/1/1407, Chu Lệ chỉ thị Trương Phụ
và Mộc Thạnh cố gắng giải quyết trước tháng 3-4/1407, vì mùa mưa sắp
tới, lam sơn, chướng khí sẽ gây nhiều trở ngại. Mặc dù không có cảnh
“ngửng mặt lên trời, thấy diều hâu đang bay, bỗng lả tả rơi xuống nước,”
lam sơn, chướng khí cùng các bệnh thổ tả, sốt rét là đồng minh của Đại
Ngu. Chu Lệ không ngừng nhắc nhở các tướng phải cho binh sĩ tự đào giếng
lấy nước uống và nấu cơm để giảm thiểu bệnh tật, hay âm mưu đầu độc của
cha con Quí Ly. (77)
Được giao trách nhiệm chỉ huy cuộc kháng
Ngô, Tả tướng quốc Nguyên Trừng lo tuyển quân, chế tạo chiến thuyền,
đúc đại bác, tăng cường việc phòng thủ Tây đô, xây chiến lũy Đa Bang ở
phía nam sông Hồng—trung tâm tuyến phòng thủ phía tây Hà Nội—đóng cọc
cửa sông Bạch Hạc, mở hội nghị quân sự với các An Phủ sứ. Nhưng Trừng
hiểu rằng chỉ “sợ lòng dân không theo.” (78)
Chiêu bài “hưng Trần diệt ác” của Chu Lệ
khiến không ít tôn thất, công chúa nhà Trần chờ cơ hội hàng Minh. Số
tôn thất nhà Trần ngả theo quân Minh không nhỏ. Mối thù cha con Quí Ly
cướp ngôi, tàn sát tôn thất Trần là một trong những lý do. Con cháu Trần
Nguyên Đán, người chủ trương “hiếu với nhà Minh” và “yêu nuôi Chiêm
Thành” đều bỏ Quí Ly, theo Minh. Một số người khác thù ghét Quí Ly hay
chỉ biết quyền lợi bản thân. Bọn cháu gọi Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi bằng
ông nội này gồm Mạc Thúy, Mạc Địch, Mạc Viễn, cùng Nguyễn Huân (người
Chí Linh, Nam Sách), và khoảng 10,000 thổ binh. Họ hăng say, kiêu hãnh
tiếp tay quân Minh. Mạc Thúy còn nhận lệnh, hoặc đề nghị với Trương Phụ
và Hoàng Phúc, soạn một tờ biểu van xin Chu Lệ ban ơn đặt Giao Châu trở
lại địa đồ Trung Hoa, chia quận huyện như hơn 500 năm trước, dể giáo hóa
khỏi phong tục man di, chóng thấm nhuần văn phong, tập tục “nội địa.”
Trương Phụ và Hoàng Phúc phong Thúy chức Tri phủ Phú Lương. Sau đó, mùa
Hè 1408, đưa qua Kim Lăng gia phong Tham chính, ban thưởng vàng bạc, tơ
lụa gấp năm [5] lần đồng sự. Mạc Địch thay Trần Đại làm thổ chưởng Đô sứ
ty; Mạc Viễn làm Diêm vận sứ.
Riêng Nguyễn Huân—dưới bí danh Mạc
Huân—sẽ lên tới chức Bố chính sau ngày Thúy bị Nông Văn Lịch giết bằng
tên độc tại Lạng Sơn đầu năm 1413. Ngoài ra, còn những nhân tài như
Lương Nhữ Hốt, tri phủ Nghệ An; Đỗ Duy Trung và anh em, thân thuộc ở phủ
Giao Châu và sông Thao. Tổng cộng hơn “9,000” nhân vật tài đức, được
giao các chức vụ tri huyện, tri châu, v.. v. phụ giúp khoảng 100 quan
tướng Minh và đạo quân viễn chinh thủy bộ.(79)
2. Đa Bang Thất Thủ:
Cuộc “kháng chiến chống Minh” thực sự
khởi đầu từ tháng 7-8/1406, sau trận phục kích Hoàng Trung ở Cần Trạm.
Hán Thương cho lệnh rào sông, đắp lũy phía nam sông Cái, từ thành Đa
Bang tới sông Lỗ Giang; và từ Châu Lạng tới sông Chú. Nếu tin được Minh
thực lục, cha con Quí Ly vận dụng đến “700,000 quân” bảo vệ hai kinh
thành Tây đô và Đông đô. Ngày 24/11/1406, quân báo Minh từ Gia Lâm đưa
tin từ nhóm Mạc Thúy ở Lạng Giang là “7 triệu người Việt có chiến
thuyền” và voi tử thủ phía nam sông Phú Lương. (79)
Ngày 10/1/1407 [2/12 Bính Tuất], quân
Minh chiếm được Việt Trì. Hồ Xạ rút quân xuống bờ nam sông Cái. Ngày
14/1Mộc Thạnh kiểm soát sông Tuyên [Xuan]. Lập đồn phía bắc sông Thao.
Bố trí lực lượng đối bờ đốn Đa Bang.
Trương Phụ cho lệnh Trần Húc bắc cầu nổi
[pontoon bridges], trong khi Chu Vinh dẫn kị binh ngày ngày dương oai,
diễu võ tại Gia Lâm, bờ bắc sông Hồng, đối diện Đông Đô, theo kế nghi
binh—từ vài người lúc đầu, tăng dần lên tới hàng trăm
Hôm sau, 15/1, Trần Đĩnh đẩy lui quân
giặc ở sông Thiên Mạc. Nhưng hai ngày sau nữa, đêm 17/1, quân Minh bất
thần chiếm được đồn Mộc Hoàn ở bờ nam sông Cái, giữa Đa Bang và Hà Nội,
không tốn một viên đạn, vì tướng thủ thành mê say tửu sắc, sao lãng việc
phòng thủ, trong khi các đơn vị bạn bình chân như vại.
Đêm 19 rạng 20/1/1407 quân Minh bắc cầu
phao qua sông Hồng, chia hai mặt tấn công Đa Bang. Theo sử Việt, Trương
Phụ, Đô đốc Hoàng Trung và Đô sứ ti Thái Phúc [Cai Fu] tấn công phía tây
bắc. Mộc Thạnh, Lý Bân tấn công phía đông nam. Quân Quí Ly hăng say
đánh trả, xác quân Minh chất cao ngang thành, nhưng giặc không lùi bước.
Tướng chỉ huy quân Thiên Trường khoét tường thành, lùa voi ra đánh.
Quân Minh dùng mặt nạ hình sư tử chụp lên đầu ngựa, và tên lửa bắn vào
nài voi hay vòi voi khiến voi bối rối, hỏang hốt chạy ngược vào thành
khiến quân Quí Ly hỗn loạn. Quân Minh thừa thế tiến theo, chiếm đồn.
(80)
Tư liệu Minh đưa ra một số chi tiết
khác. Đêm 19 rạng 20/1/1407, quân Minh bắc cầu phao qua sông. Trương Phụ
và Mộc Thạnh vượt sông Hồng bằng cầu nổi. Trương Phụ, đô đốc Hoàng
Trung, và Đô sứ ti Thái Phúc tấn công hướng tây nam Đa Bang. Mộc Thạnh
và Trần Tuấn [Lý Bân] tấn công hướng Đông Nam. Quân tướng được lệnh trú
quân cách tường thành khoảng một dặm, rồi canh tư, bắt đầu tiến về sát
chân thành. Hoàng Trung đưa được những dụng cụ như « thang mây» tới chân
thành, và Thái Phúc [Cai Fu], Trần Trung [Chen Zhong] cùng một số người
khác vượt lên được tường thành. Họ đồng loạt thắp đuốc và thổi kèn thúc
quân.
Lực lượng phòng thủ không sử dụng vũ khí
chống trả mà chỉ tìm cách chạy trốn. Các tướng của Quí Ly cố giữ đội
hình, tái tổ chức lại tuyến phòng thủ. Nguyễn Tông Đỗ, chỉ huy lực lượng
voi trận của Thiên Trường, mở cuộc phản công. Nhưng Xạ thủ súng ngắn và
hỏa tiễn của La Văn [Ôn ?] Minh nhắm vào nài voi và vòi voi. Lực lượng
kỵ mã của Chu Quảng [Zhou Guang] từ hai bên hông đánh kẹp tới. Cho ngựa
chiến đội mặt nạ sư tử khiến voi hoang mang, quay đuôi chạy ngược vào
tuyến phòng thủ, phá vỡ mặt trận. Quân Đại Ngu rút về phía nam hay những
triền núi phía tây. Hai tướng Lương Dân và Thái Bá Lạc tử trận. Số lính
Đại Ngu chết đếm không xuể. Mười hai thớt voi cùng rất nhiều khí giới
bị quân Minh tịch thu. (81)
3. Hai đô bỏ ngỏ:
Thủy quân của Quí Ly cũng bị đô đốc
thiêm sự Liễu Thăng [Liu Sheng] và Hoành hải tướng quân Lỗ Lân [Lu Lun]
đánh tan vỡ, rút về giữ Hoàng Giang. Ngày 22/1, theo sử Việt, quân Minh
tiến về Hà Nội. Hai ngày sau, 24/1, quân Quý Li đốt kho tàng, triệt
thoái về Hoàng Giang, phía nam Hà Nội. Tiền quân của Chu Vinh cũng đốt
cháy những nhà cửa ngoại thành; tranh nhau cướp đoạt của cải, phụ nữ,
thiến hoạn thiếu niên. Đại quân Trương Phụ vào đóng ở đông nam thành.
Mỗi ngày, hàng chục ngàn người tới xin hàng. (82)
Ngày 26/1/1407 Trương Phụ và Mộc Thạnh
bắt đầu kế hoạch tiến vào Tây Đô (Thanh Hóa), Hai tham tướng Lý Bân và
Trần Húc song hành đi đánh An Tôn. Ngày này, được tin Đa Bang thất thủ,
quân Quí Ly tan rã, đốt phá kho tàng, bỏ chạy. Quí Ly và Hán Thương cũng
từ An Tôn ra Hoàng Giang kháng Minh. Mười năm xây dựng một kinh đô
kháng chiến chỉ thoáng chốc tan thành tro bụi. (83)
Phần vì hải quân Minh hơi yếu kém, phần
vì thời tiết, nên cha con Quí Ly cầm cự ở Hoàng Giang và Cửa Muộn được
hơn hai tháng. Trương Phụ phải rút quân về phía bắc sông Hồng, đặt hành
dinh ở Phả Lại và Hàm Tử, giao cho Phương Chính [Feng Zheng] chỉ huy.
Ngày 8/2/1407, tức Tết Đinh Hợi, quân Minh thắng lớn trên sông Phú Lương
và Lỗ Giang. Tính đến ngày này, Trương Phụ đã giết được 37,390 binh sĩ
Việt; (84)
Số thiệt hại của quân Minh cũng rất cao,
nhưng Minh sử không đưa ra chi tiết thiệt hại của “quan quân.” Một tài
liệu xuất hiện năm 1537 ghi số thương vong lên hàng trăm ngàn, do một
đại thần đưa ra trong biểu gửi Chu Hậu Tổng, nhưng không có chi tiết
thêm để kiểm chứng. Thực tế, quân số các đơn vị chủ lực đều giảm sút,
khiến ngày 26/6/1407 Trương Phụ phải xin sử dụng địa phương quân hay thổ
binh điền vào các đơn vị Quảng Đông, Quảng Tây. Rồi từ ngày 9/4/1408
dùng thổ binh trấn giữ các quan ải chiến lược Pha Lũy, Kê Lăng và Khâu
Ôn. (85)
Thực ra, từ sau trận Đa Bang, Trương Phụ
đã bắt đầu sử dụng bọn nội thù của Đại Ngu như Trần Phong và lực lượng
đánh thuê giúp bọn Vương Hữu và Liu Cong [Lưu Thông] phá tan thủy quân
Hồ Đỗ ở Vạn Kiếp, Phả Lại, dồn chạy xuống Muộn Hải]. tịch thu hầu hết
chiến thuyền. Tiếp đó, được giao ổn định vùng duyên hải—đặc biệt là Đông
Triều và Thái Bình—nơi một số tôn thất Trần bắt đầu tỏ ý nghi ngờ chính
sách “hưng Trần.” Anh em Mạc Thúy tuyển mộ được hơn 10.000 thổ binh gốc
Nam Sách để bình định vùng châu thổ sông Hồng, Ngày 21/2/1407, Trương
Phụ và Mộc Thạnh thắng trận sông Muộn hải, phá 500 thuyền của Quí Ly
trên sông Lỗ, gây thêm tổn thất trên 10,000 binh sĩ Đại Ngu. (86)
Ngày 20/4/1407, Nguyên Trừng cùng Hồ Đỗ,
Đỗ Mãn đưa quân lên đánh Hàm Tử. Quân thủy bộ gom lại được 7 vạn
(70,000), nhưng phao lên là 210,000. Quân Minh chia hai đạo thủy bộ đánh
ra. Ngày 4/5/1407 Bộ binh Đại Ngu bị thảm bại. Chỉ có thủy quân chạy
thoát. Thuyền chiến và thuyền lương bị mất gần hết.(87)
Ngày 30/5/1407, Hán Thương chạy vào
Thanh Hoa. Trương Phụ, Lý Bân đưa kị binh tiến gấp vào Thanh Hoa. Liễu
Thăng cùng bọn thổ quan Mạc Thúy cưỡi chiến thuyền đuổi theo. Ngày 1/6
[25/4 Đinh Hợi], thủy quân Minh truy kích tới Lỗi Giang [dòng chính sông
Mã, huyện Cẩm Thủy, Thanh Hoa], quân Đại Ngu tan vỡ
Ngày 5/6, quân Minh tấn công cửa Điển
Canh Quân Quí Ly bỏ thuyền lên bờ. Quí Ly định chạy vào Thâm Giang, tức
Ngàn Sâu, phía tây nam Nghệ An, nhưng lại thôi. (88)
4. Ngày Tàn Của Cha Con Quí Ly:
Ngày 9/6/1407 [3/5 Đinh Hợi], Trương
Phụ tới Trà Long, phủ Diễn Châu. Nghe tin cha con Quí Ly trốn ở Thâm
Giang (Ngàn Sâu). Ngày 11/6/1407, quân Minh đánh chiếm cửa biển Kỳ La,
châu Nhật Nam (tức cửa Lân, huyện Kỳ Anh, Thanh Hoa [Hà Tĩnh đời
Nguyễn]). Quân Hồ đại bại. Nguyễn Đại, mới hàng Minh, bắt được Hữu tướng
quốc Quí Tì và con là Phán trung đô Nguyễn [Võ] Cửu.
Ngày 14/6/1407 Trương Phụ, Mộc Thạnh và
Liễu Thăng chia ba [3] mũi tấn công Kỳ La [Qiluo Sea]. Ngày 16/6, quân
Minh tấn công Vĩnh Ninh. Liễu Thăng bắt được 300 chiến thuyền. Quí Ly bị
bọn Vương Sài Hồ [Nguyễn Đại] bắt ở ghềnh Chẩy Chẩy [bãi Chỉ Chỉ], gần
Kỳ La (tức cửa Lân, huyện Kỳ Anh, Thanh Hóa [đạo Hà Tĩnh đời Nguyễn, gần
biên giới Bình Chính (Quảng Bình)]). Lê Nguyên Trừng và các con cũng
đều sa lưới. Hôm sau, 17/6. bọn Nguyễn Như Khanh và Mạc Toại bắt được
Hán Thương cùng con là Lê Nhuế.tại núi Cao Vọng. Đại tướng Hồ Đỗ và
nhiều người khác cũng bị bắt. (89)
5. Mặt Trận Phía Nam:
Hoàng Hối Khanh cùng Đặng Tất, Nguyễn
Cảnh Chân, được Quí Ly và Hán Thương giao chỉ huy phía nam—tức hai châu
Thuận và Hóa, cùng lãnh thổ mới chiếm được của Chiêm năm 1402 (tức châu
Thăng Hoa).
Hiển nhiên, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Hoàng
Phúc cùng Lý Bân đã không quên xúi dục vua Chiêm đòi lại các đất Chiêm
Động, khiến cha con Quí Ly đôi bề thụ địch. Năm 1406, Chu Lệ còn điều
600 tinh binh của Quảng Đông xuống Chiêm Thành, đề phòng Quí Ly vượt
biên, uy hiếp bang phía nam này. Năm 1415, Chu Lệ còn tuyên bố với vua
Chiêm đã đánh An Nam để bênh vực Chiêm. Nhưng Phụ cũng có dã tâm
riêng—tức nhân cơ hội diệt Quí Ly, sẽ đặt các châu biên giới bắc của
Chiêm Thành vào bản đồ Minh. (90)
Ngày 24/6/1407, Trương Phụ rời Kỳ La đi
giải quyết Hóa Châu. Thổ hào Phạm Thế Căng đón hàng ở Nghệ An, được
phong Tri Phủ Tân Bình.
Trước đây, Quí Ly phong Chế Ma Nô Dã Nam
[con Chế Bồng Nga] làm Thăng Hoa quận vương để phủ dụ người Chiêm. Lại
sai Tuyên úy sứ lộ Thăng Hoa là Hoàng Hối Khanh chia một phần ba [1/3]
di dân Việt giao cho Nguyễn Lỗ [Rỗ] để cần vương. Hối Khanh dấu việc này
đi.
Sau khi quân Minh xâm lược Đại Ngu, quân
Chiêm Thành tiến đánh Thăng Hoa mà không chỉ tăng cường phòng thủ biên
giới như Chu Lệ mong muốn. Hối Khanh bèn rút về giữ Hóa Châu.
Đại quân Trương Phụ tới Bàn Thạch, Nghệ
An, được tin Đặng Tất và Hoàng Hối Khanh mang thủy binh từ Thăng Hoa
[Quảng Nam sau này] về Hóa châu. Nguyễn Lỗ [Rỗ] dẫn dân đi đường bộ, đến
chậm. Trấn thủ Nguyễn Phong không cho vào thành, bị Đặng Tất đánh giết.
Sau đó Tất lại đánh nhau với Lỗ.
Ngày 3/7/1407 [27/5 Đinh Hợi], đại quân Trương Phụ tới cửa biển Minh Linh, huyện Đơn Duệ, châu Minh Linh, phủ Tân Bình.
Đô đốc Hoàng Trung sai thiên hộ Lý Duy
Thân báo cáo rằng bọn Nguyễn Rỗ và Hoàng Hối Khanh đánh giết lẫn nhau [ở
Thuận Hóa]. Nguyễn Rỗ mang voi về hàng Chiêm Thành. Vua Chiêm nghe tin
quân Minh tới sợ hãi rút về nước, mang theo Nguyễn Rỗ cùng voi, lính.
[Sau nhà Minh đòi đưa Lỗ tới Kim Lăng, giết đi]. Bọn Diệu Cẩm và Nhạc
Thăng viết thư báo đã tới Hóa Châu, vỗ về Đặng Tất và cho giữ Hóa Châu.
(91)
Hoàng Hối Khanh có vẻ không được Trương
Phụ khoan thứ vì từng tham dư màn kịch “mừng đón Trần Thiêm Bình về làm
vua.” Ngày 6/7/1407 [2/6 Đinh Hợi] khi đang lẩn trốn, Hối Khanh bị đắm
tàu, lọt vào tay thổ binh. Đặng Tất bắt giải Hối Khanh cho Trương Phụ.
Hôm sau, tới cửa biển Đan Thai, tức cửa Hội, của sông Lam ở Nghệ An, Hối
Khanh tự tử. Hai ngày sau nữa, 8/7, Trương Phụ về tới cửa biển Đơn Hay
[cửa Hội] Nhật Nam. Ngày 10/7 được tin Khanh bị thổ binh bắt, Phụ chém
đầu xác Hối Khanh, bêu ở chợ Đông Đô. Tháng 8/1407, Trương Phụ phong
Nguyễn Đại—đã giúp bắt cha con Quí Ly—làm Giao Chỉ thổ Đô thống sứ
[tusi]. Rồi giết đi vì kiêu ngạo. (92)
Trương Phụ cũng sai bọn đô đốc thiêm sự
Liễu Thăng [Liu Sheng], Hoành Hải tướng quân Lỗ Lân [Lu Lin], Thần Cơ
tướng quân Trương Thắng [Zhang Sheng] và ba người khác giải Hán Thương
về Kim Lăng cùng với cha, anh, hai em và nhiều triều thần khác. Ngày
5/10/1407, Chu Lệ ra cửa Phụng Thiên [Feng-tian] làm lễ đón nhận tù
nhân. Thị lang bộ Binh Fang Bin [Phương Bân] đọc một cáo trạng dài, kể
lể các tội lỗi của cha con Quí Ly. Mỉa mai “Hồ Nhất Nguyên tự cho mình
khôn ngoan hơn Ngũ Đế, trung thành với lời dạy của Văn và Vũ, kiến thức
cao sâu hơn Chu, Khổng.” Cao giọng buộc tội “Hắn phạm pháp khi tự đặt
quốc hiệu Đại Ngu, niên hiệu Nguyên Thánh.” Khi Bân đọc đến câu “bọn
cướp họ Lê giết vua, cướp ngôi,” [they killed their ruler and usurped
rule of the country;] và “chúng đổi quốc hiệu và đặt niên hiệu” [They
changed their dynastic and adopted a reign title] Chu Lệ hỏi Quí Ly và
con trai: “Một đại diện Hoàng Đế có thể làm vậy không” [Is this a way of
a minister]. Cả Quí Ly và Hán Thương đều không trả lời được. Chu Lệ cho
lệnh nhốt Quí Ly, Hán Thương và Hồ [Trần] Đỗ vào ngục. Lê Nguyên Trừng
[Li Sheng] được ân xá, làm việc tại bộ Công. Lúc đầu nghèo khổ. Sau được
trả lương hoàn toàn bằng gạo. (93)
Cho rằng công lao Trương Phụ chẳng thua
gì Mã Phục Ba [Ma Fu-po], tức Mã Viện, Chu Lệ đưa Phụ lên chức chỉ huy
tối cao đạo quân xâm lược, và chấp nhận mọi đề nghị của Phụ, kể cả việc
bỏ con cháu nhà Trần, sát nhập Giao Chỉ vào đế quốc Minh ngày 17/4/1407.
Ngày 31/1/1408, Chu Lệ cho lệnh Trương Phụ và Mộc Thạnh chuẩn bị rút
quân khải hoàn. (94)
Phải sáu tháng sau, ngày 3/7/1408,
Trương Phụ và Mộc Thạnh mới dẫn đạo quân xâm lược về tới Kim Lăng. Phụ
nộp lên Chu Lệ một bản đồ Giao Chỉ, lãnh thổ trải dài 1760 dặm từ Đông
sang Tây, 2800 dặm, Bắc xuống Nam. Hai ngày sau, 5/7, bộ Lại báo cáo
Giao Chỉ sẽ tổ chức thành mười lăm [15] phủ, 41 huyện, 208 châu, xây
dựng, tu bổ 12 thành trì. Tổng số dân hơn 3,120,000 người, và 2,087,500
man [barbarians]. (95)
Trong không khí lễ hội, ngày 29/7/1408,
Chu Lệ phong Trương Phụ lên chức Anh quốc công,. Mộc Thạnh chức Kiềm
quốc công, cả hai đều hưởng lương 3,000 thạch [shi] gạo hang năm. Phụ
được thưởng bạc và tiền nhiều hơn Thạnh một chút. Li Bin [Lý Bân] và
Chen Xu [Trần Húc] cũng được thăng tước, trọng thưởng. (96)
Nhưng niềm vui của Chu Lệ không kéo dài
được lâu. Tin buồn từ Giao Chỉ bay về. Quyền Chưởng Đô thống sứ ti Lã/Lữ
Nghị [Lu Yi] xin cấp tốc gửi viện binh vì loạn lạc khắp nơi. Khởi đầu
là tàn dư Quí Ly ở Thái Nguyên khiến một chỉ huy trưởng đội sung ngắn
chết.
Sau đó là các chi nhánh họ Trần, như
Trần Quí Ngỗi (1/11/1407-16/12/1409), con thứ Trần Nghệ Tông. Trốn thoát
khỏi một trại tập trung [cùng Nguyễn Súy, Trần Triệu Cơ [Chen Xi-Ge],
Trần Ngỗi dầy binh ở Mộ Độ, phủ Trường Yên (tức Thiên Quan) ngày
1/11/1407. (Taizong, juan 82:5ab; MSL, vol 11, pp 1101/02) Bị Trương Phụ
và thổ binh truy đuổi vào Thuận Hóa, Trần Ngỗi liên kết với các lãnh
chúa—như Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Súy—giết quan lại Minh, cùng
thổ tù Phạm Thế Căng (tháng 6-7/1408), đã hàng Minh, được chức tri phủ.
Trong khi đó, sau hai mùa Hè ở Giao Chỉ khiến khoảng 22,700 chủ lực
Minh mất đi khí thế ban đầu.
Các thổ tù địa phương, đặc biệt là phong
trào “Giặc Cờ Đỏ”—từng giết chết thượng tướng Phạm Cự Luận của Quí
Ly—hoạt động mạnh trong lãnh thổ Thái Nguyên, rồi chuyển dần vào Nghệ
An, Thuận Hóa.
Ngày 31/8/1408, Chu Lệ cử Mộc Thạnh đưa
40,000 quân Vân Nam qua tăng viện. Giao Chỉ được lệnh đặt 20,000 hải
quân dưới sự điều động của Mộc Thạnh. (Taizong, juan 82:5ab; MSL, vol
11, pp 1101/02) Đồng thời bí mật gửi thư cho Trần Ngỗi nên thuận theo ý
trời; hứa sẽ ân xá, bồi hoàn tài sản cho những người “làm loạn.
(8/9/1408, juan 82:6a-7a; MSL, vol 11, pp 1104/05). Mãi tới ngày
18/12/1408, Mộc Thạnh mới xuất quân.
Và chỉ hai chục [20] ngày sau, 9/1/1409,
đạo quân tăng viện của Mộc Thạnh bị thảm bại trên sông Thanh Quyết—tức
Bô Cô hãn, thuộc huyện Gia Viễn, phía nam Hà Nội không xa. Nghĩa quân
trên đường tiến ra đánh Đông đô, và kiếm lương thực— vì quân Minh cấm
nông dân ở phía nam Thanh Hóa trồng trọt, trong khi ra sức bảo vệ hơn 13
triệu thạch gạo mà Trương Phụ cướp đoạt được của cha con Quí Ly năm
1407—tiêu diệt gần trọn bộ chỉ huy của Giao Chỉ đô thống sứ ti. Quyền
chưởng Đô thống sứ ti Lữ Nghị; tham tán Trần Vân [Liu Juan (?)] của bộ
Binh, Phó đô ti Lưu Dục [Liu Yu] tử trận cùng khoảng 10,000 thủ hạ. (97)
Ngày 12/2/1409: Chu Lệ phải cử Trương
Phụ mang 40,000 quân và 7,000 hộ tống sang Giao Chỉ, với chức Chinh Di
Phó tướng; có Vương Hữu [Wang You] phụ tá. Nhưng Trương Phụ và Mộc
Thạnh, cùng những tướng tài ba nhất rồi cũng bó tay.Đánh tan cuộc khởi
nghĩa này, có đám khác nổi lên.
Taizong, juan 88:5b; MSL, vol , pp; 5/3/1409:
Có tin Đặng Tuất chết. Taizong, juan 88:7b;
2/4/1409: Trần Quí Khoáng lên ngôi ở Chi
La, Nghệ An [Hà Tĩnh ngày nay]. 4/5/1409: Trần Ngỗi gặp Trần Quí Khoáng
ở sông Tam Chế, Nghệ An. ĐVSK, BKTT, IX:13b, Lâu (2009), 2:284;
Tháng 8-9/1409, Mộc Thạnh sai Hoàng La
tới Nỗ Giang gặp đại diện của Trần Quí Khoáng, tức Trùng Quang Đế tại Nỗ
Giang, Thanh Hóa khi Trùng Quang và Giản Định kéo quân ra Bắc; Giản
Định ở Hạ Hồng, Quí Khoáng ở Bình Than; Hào kiệt theo rất đông; ngoại
trừ Tri phủ Tam Giang [Đái] Đỗ Duy Trung; ĐVSK, BKTT, IX:13b-14a, Lâu
(2009), 2:281, 284-285; Giu (1997), 2:285. Tam Giang: Vĩnh Phúc hiện
nay.
16/12/1409: Trương Phụ bắt được Đế Ngỗi ở Mỹ Lương, trên đường tới Thiên Quan. (Taizong, juan 98:11b-12a)
Tháng 6-7/1410: Hào kiệt theo Quí Khoáng
rất đông: Đồng Mặc (Thanh Hóa), Nguyễn Ngân Hà, Lê Nhị (Thanh Oai), Lê
Khang (Thanh Đàm), Đỗ Cối, Nguyễn Hiệu (Trường Yên) 20/1/1411: Chu Lệ
phong Quí Khoáng làm Bố Chính sứ. (Taizong, juan 111:6a; MSL, vol 13, p
4a; Lạng Sơn: 24.
Nông Văn Lịch nổi dạy. Đến năm Vĩnh Lạc
thứ 18 [1420], “mối loạn vẫn chưa bình định.” (ĐVSK, BKTT, IX:21a , Giu
(1967), 2:244- 245, Lâu (2009), 2:292; CMCB, XII:36-37; (Hà Nội: 1998),
I: 749-50. Thực Lục q 218, tr 2165; q 225, tr 2211. Sau bị dân giết vì
thông dâm với vợ thuộc cấp. Lạng Sơn 25.
Huyện Lục Na, Nguyễn Liễu, người Lị
Nhân, khởi nghĩa, hô hào dân các huyện Lục Na, Vũ Lễ đánh phá quân Minh
hơn 4 năm. Sau nghe lời chiêu dụ của Thổ-quan Mạc Công Trai xin hàng.
(Hoàng Văn Tập, q 4, tr. 9). Nguyễn Huân vờ kết thông gia rồi giết đi.
(ĐVSK, BKTT, IX :21ab, Lâu (2009), 2 :292; Giu (1967), 2:244-45; CMCB,
XII:36-37; (Hà Nội: 1998), I: 749-50.
Cha con Phan Quí Hựu [Fan Gui-you],
Thiếu bảo của Trần Quí Khoáng, và con là Phan Liêu [Fan Liao] đầu hàng,
chỉ điểm. Trương Phụ trọng dụng. Cho Quí Hựu làm Phó thổ Án sát, tiếp
tục giữ Nghệ An; Liêu làm quan, coi thổ binh. Ít hôm sau, Quí Hựu chết,
Liêu lên thay cha. (ĐVSK, BKTT, IX:23b- 24a, Lâu (2009), 2 :295;
Ngày 31/8/1419, Phan Liêu nổi loạn vì bị
Mã Kỳ ngược đãi, hạch sách vàng bạc, cùng các hương liệu. (juan 215:1b)
Ngày 23/11/1419, Phan Liêu chạy qua Lào cùng Trần Đài [hay Thái].
Sau này, Lô Văn Luật ngả theo Phan Liêu, lưu lạc sang Lào. (juan 215:1b)
VI. “Giao Chỉ Đô Thống Sứ Ti”:
Địa danh Giao Chỉ—chữ Giao [Jiao] bộ
Ðầu nghĩa là gặp nhau [ThC, 12]; và Chỉ [zhi] bộ Phụ, cùng nghĩa với chữ
chỉ bộ Thổ, có nghĩa cái nền. [ThC 12, 107, 743]. Theo cổ thư Trung
Hoa, tên Giao Chỉ xuất hiện đời Lưu Triệt (Hán Vũ Ðế, 140-87 TTL) sau
khi Lộ Bác Ðức (Lu Bo-de) xâm chiếm Nan Yue [Nam Việt], “giết [tru] Lữ
Gia, mở chín quận” năm 112-110 TTL. Tuy nhiên, chẳng có bằng chứng khả
tín nào về việc này. Rất có thể Giao Chỉ hàm ý một vùng đất đầy cá sấu,
hay “giao long.” Tên Bến Nghé của Sài Gòn xuất xứ từ tiếng rống của cá
sấu.
Sử cũ Việt thường thích nhắc đến huyền
thoại “Việt Thường,” như Thanh Nhân Tông (Gia Khánh) đã nhắc đến năm
1804 khi đổi tên nước “Nam Việt” do Gia Long đề nghị thành “Việt Nam.”
Có thông tin huyền thoại trên ghi trong truyền bản Hàn Thi ngoại truyện:
sứ Việt Thường trải qua chín lớp thông ngôn mới tới cống hiến. Chu Cơ
Ðán, phụ chính của Cơ Tụng đến năm 1104 TTL, hỏi vì duyên cớ gì mà đến,
thì qua thông dịch, sứ đáp: Trời không có gió bão, không có mưa dầm,
biển không có sóng dữ, đã ba năm, chắc là ở Trung Hoa có thánh nhân, nên
tới chầu. Ðán cho rằng nước nào chính lệnh chưa đến thì quân tử không
bắt họ phải thần phục; cấp cho sứ Việt Thường năm [5] cỗ xe có vải che,
làm theo lối chỉ nam, để hồi hương. Ðoàn xe theo con đường tưởng tượng,
không hề hiện hữu dài theo bờ biển tới Funan [Phù Nam, Kok Thlok], Linyi
[Lâm Ấp], đi trọn một năm về đến nước. (98)
Trong khối văn sử cổ điển Tây phương,
năm 100, một nhân vật Bà La Môn Kaundinya [Hỗn Điền] nào đó đến Funan
[Kok Thlok], được nhận làm con rể, rồi xây dựng nên vương quốc thương
mại này trong thế kỷ II-VI. Thịnh vượng về buôn bán, hải tặc với India
và TH. Ranh giới mở rộng tới Malaysia. Năm 226, Thứ sử Giao Châu gửi một
sứ đoàn tới Phù Nam. Trong thập niên 270, Phù Nam từng liên kết với
Champa [Chàm] cướp phá Giao Châu. Khoảng năm 540 bị Bhava Varman của Kha
Miệt [Khmer] chiếm; (99)
Khi những đoàn thám hiểm và truyền giáo
Âu Châu khởi đầu toàn cầu hóa, thoạt tiên, nhà Minh vẫn cao ngạo xếp
hạng thương mại như hiếu cống của tứ di “mũi lõ, mắt xanh,” mang lại lợi
tức cho triều đình cũng như các quan lại. Càng ngày, thương gia Tây
phương càng chứng tỏ không đến hiếu cống, và liên lũy tạo áp lực. Nhưng
cả triều đình và quan lại đều quay mặt làm ngơ vì lợi nhuận.(100)
Theo Minh thực lục, 15 phủ gồm Giao Châu
[Jiaozhou], Bắc Giang [Beijiang], Lạng Giang [Liang-jiang], Tam Giang
[Đái] [San-jiang], Kiến Bình [Jianping, tên cũ Janxing], Tân An [Xin-an,
cũ: Tân Hưng], Kiến Xương [Jianchang], Phụng Hóa [Feng-hua, cũ,
Tianchang], Thanh Hóa [Qing-hua], Trấn Man [Zhen Man, tên cũ Long Hưng],
Lạng Sơn [Liang-shan], Tân Bình [Xin-ping], Nghệ An [Yi-an], Thuận Hóa
[Shun-hua], Diễn Châu [Yan-zhou] (không có trong bảng liệt kê các phủ
của sử Nguyễn).
Hệ thống chính quyền phức tạp này—tiến
hóa từ kiểu mẫu tusi nhà Nguyên (1260-1367) đã trắc nghiệm ở Quí Châu,
và nhà Minh tiếp tục ở Đại Lý (Vân Nam-Tứ Xuyên) từ năm 1381-1382—nhằm
mục đích khiến man, di quên dần vị thế một nước [guo hay vassal state]
từng hiện hữu từ thế kỷ XII tới ngày 5/7/1407. (101)
Năm 1407, Giao Chỉ Đô Thống Sứ Ti mới
chỉ có 14 phủ, và bốn phủ mới được đổi tên. Thái Nguyên và Tuyên Hóa lên
hàng phủ năm 1408; và Thăng Hoa, do Chiêm Thành cai trị, chỉ vào bản đồ
trên giấy tờ năm 1415. (102)
Hai huyện Thái Nguyên [Tai-yuan,] và
[Tuyên Hóa [Xuan-hua, tức trán Tuyên Quang đời Trần] được nâng lên phủ
năm 1408. Riêng Thăng Hoa bị Chiêm Thành chiếm năm 1407, nhưng năm 1414,
Trương Phụ tái lập trên giấy tờ, đặt vào bản đồ Giao Chỉ.
Ngắn và gọn, quốc thống tưởng chừng đã
tuyệt. May mắn, sau đợt khủng hoảng, thất thần đầu tiên, quốc thống được
phục hồi. Từ 1407 tới cuối năm 1427, hơn 60 cuộc nổi dạy kháng Minh
liên tục diễn ra, bác bỏ thứ ngụy biện chinh [punishment, teaching a
lesson] mà không chiến [no war]. Đáng kể nhất có hai vua “hậu Trần,” con
cháu Nghệ Tông, tức Đế Ngỗi hay Giản Định (1/11/1407- 16/12/1409) và Dế
Khoáng, tức Trùng Quang (2/4/1409-31/3/1414); hay Trần Nguyệt Hồ ở Hạ
Hồng, rồi sông Lỗi, Thanh Hóa. (1407, 1415)
Hai tướng cướp với tước quí phái “ hầu,”
rồi “quốc công” Trương Phụ và Mộc Thạnh phải thêm ba, bốn lần mang chủ
lực sang đàn áp. Những thủ đoạn như chất xác người thành gò đống, chặt
đầu treo thủ cấp ở phố chợ, bến sông, bắt phụ nữ, thiếu nhi bán sang
Trung Hoa làm nô lệ (kể cả con gái 9 tuổi của Lê Lợi), chỉ tạm ổn định
tình hình vài năm để “thánh hóa” “hơn 3,120,000 di và 2,087,500 mán,”
13,600,000 shi [thạch] gạo, 235,900 voi, ngựa, trâu bò,” cùng một lãnh
thổ trải dài “2800 dặm” từ bắc xuống nam, “1760 dặm” từ đông sang tây.
Sử Minh ghi nhận là sau khi cha con Quí Ly bị đóng cũi gửi về Kim Lăng,
phong trào kháng Minh khởi phát dữ dội từ bắc chí nam. Đây chẳng phải vì
lòng thương tiếc cha con Quí Ly, mà vì quyết định sai lầm chiến lược
của Chu Lệ, Trương Phụ, có sự tiếp tay của những kẻ nội thù tiềm ẩn ở
Đại Việt, tiêu biểu là Mạc Thúy [Mo Sui], cháu nội Mạc Đĩnh Chi, và tổ
bốn đời Mạc Đăng Dung—tức kế hoạch sát nhập Đại Việt vào đế quốc Minh,
chia đặt quận huyện để tẩy rửa phong tục man di bằng “thánh giáo.” Trận
đánh gây tiếng vang nhất là trận bến Bô Cô trên sông Thanh Nguyệt của
Quốc công Đặng Tất [Deng Xi] và Giản Định [Jian Ding] vương— trong
khoảng từ 30/12/1408 tới 9/1/1409—khiến bộ chỉ huy của Giao Chỉ đô sứ ti
bị thiệt hại nặng. Tân Chinh Di tướng quân Mộc Thạnh phải một người một
ngựa thoát về thành Cách (Ninh Bình), khẩn cấp xin cứu viện. Trương
Phụ, rồi Mộc Thạch, thêm ba lần dẫn quân Quảng Tây và Vân Nam vào các
năm 1409, 1411, 1414 cũng chỉ đủ khả năng diệt phe đảng họ Trần bằng thủ
đoạn giảo quyệt—nhất là chiêu bài giả ngụy “hưng Trần.” Khi những lãnh
tụ khác trong đám đông xuất hiện—kể cả cựu thổ quan, thổ binh từ năm
1416—quân xâm lược Minh đi vào nửa đường xuống dốc, khiến cả “uy” [wei]
lẫn “đức” [de] đều khánh kiệt. Hoặc nói theo cha con, ông cháu Chu Lệ,
Cao Xí và Chiêm Cơ, các tướng chỉ biết đến bản thân, coi thường quốc
thể. “trở thành trò cưới cho man di.” [“How can we not the laughing
stock of the man and yi?”] (103)
Thoạt tiên, Tham tướng Lý Bân [Li Bin
hay Ben], của Mộc Thạnh làm Chưởng Đô Ti; Lữ Nghị [Lu Yi] Phó Đô Ti (năm
1406 từng theo Hoàng Trung đưa Trần Thiên [Thiêm] Bình, hay Nguyễn
Khang) về nước. nhưng thất bại). Sau đó, Lữ Nghị được cử làm quyền
chưởng Đô thống sứ ty [tusi], và Hoàng Trung làm phó. Trương Phụ chịu
trách nhiệm chọn thêm hai người phụ tá (104)
Án sát Hoàng Phúc—nguyên phụ trách việc
tiếp vận từ Quảng Đông qua, được cử làm Bố chính sứ ty kiêm Án sát sứ ti
Tại Bố chính ti, Hoàng Phúc có sáu [6] phụ tá, kể cả Bùi Bá Kỳ, với
chức Hữu Tham nghị. Hai người Hoa—Zhang Xian-zong, và Wang Ping [Vương
Bình] Hữu Tham chính, chết trận ngày 26/12/1413 khi cùng Hoàng Trung càn
quét Thanh Hóa]. Án sát ti có hai phó Án sát và một tham nghị. Bộ Lại
chịu trách nhiệm cử người khác cho đủ cấp số. (105)
472 nha sở thu dùng hàng ngàn quan lại
Hoa, cùng trên 9,000 thổ quan, chia nhau các chức vụ thổ Tri phủ (dự trù
lên tới 15 người), thổ tri châu, tri huyện, v.. v…
Ngày 24/1/1418, Giao Chỉ Đô sứ ti có tới
100 quan chức và lại viên: Đô sứ ti có 30 người, Bố chính ti, 50 người,
và Án sát ti, 20. (106) Mười hai năm sau ngày “diệt trừ quỉ dữ, mang
ánh sáng thánh giáo cứu giúp man di,” Chu Lệ và thuộc hạ—không ít những
tội phạm được lấy ra khỏi nhà tù, gửi sang cho lập công chuộc tội—đưa
Giao Chỉ xuống tận cùng đáy thẳm của địa ngục có thực. Dân chúng hàng
năm chết đói đầy đường. Khói lửa loạn ly lan tràn từ thành thị tới nông
thôn, rừng núi. Những tên cướp nước luôn miệng khoe khoang về văn trị,
thánh đức không từ một cơ hội nào để chém giết, cướp bóc, mổ bụng đàn bà
có thai, để khủng bố long người. Tổng Binh ăn gan, uống máu nghĩa quân
kháng Minh. Sĩ quan thuộc cấp không thiếu kẻ bị đóng gông giải về kinh
đô, nhưng chỉ ít lâu sau lại được ân xá gửi đến những chiến trường khác,
và không ít kẻ trở lại Giao Chỉ để tiếp diễn những tội diệt chủng, hiếp
dâm. Từ năm 1417, lại thêm một loạt những cuộc nổi dạy của thổ quan,
thổ binh từ nam chí bắc, từ góc rừng, triền núi tới những thanh thị, phố
xá
Những thành phần hợp tác
[Collaborators]: Các bộ quốc sử Việt đã nói nhiều, dù không hẳn đầy đủ
về thành phần hợp tác. 1. Thổ quan: Tháng 8/1407, Chu Lệ ra chiếu tuyển
mộ nhân tài. “Những người hơi có tiếng tăm đều hưởng ứng, riêng có Bùi
Ứng Đẩu bị tật ở mắt, và hạ trại học sinh là bọn Lí Tử Cấu vài người ẩn
náu không ra mà thôi.” Lúc bấy giờ cũng có câu: Muốn sống vào ẩn trốn
trong rừng. Muốn chết thì đi làm quan bên Tàu. [“Dục hoạt ẩn lâm san.
Dục tử tố Bắc quan.”] (107)
Ý chính tờ sắc dụ gửi thổ quan và bô lão
Việt tháng 1/1413 được lập lại vào tháng 1-2/1416, khi Chu Lệ thay bằng
sắc hơn 9,000 quan lại tụ hợp ở Kim Lăng, do Tổng binh ký bằng bằng sắc
thiếp vàng của Bộ, [như Tả Bố chính sứ Nguyễn Huân,Tham nghị Lương Nhữ
Hốt, Đỗ Duy Trung] cũng có câu này; “trời cũng giúp cho, lại hưởng nhiều
phúc lộc, mãi đến đời con cháu, mà tiếng thơm của các người cũng mãi
mãi còn trong sử sách” [của TH].(109)
Tháng 11/1415, Trương Phụ lại qua Giao
Chỉ vì tình trạng ngày càng xấu đi. Tháng 1-2/1416, Phụ sử dụng, nói
theo giáo mục Ki-tô Paul Puginier, những “chiếc càng cua” bản xứ như
Nguyễn Huân làm Bố chính sứ, Lương Nhữ Hốt và Đỗ Duy Trung làm tham
chính. (ĐVSK, BKTT, IX :26b, Lâu (2009), 2 :298 ; CMCB, XII:44- 45 ; (Hà
Nội : 1998), I:757).
Tháng 1-2/1416, Chu Lệ triệu tập quan
lại, bô lão về Kim Lăng, ban cho bằng sắc do chính triều đình Minh ấn
ký. Trên 9,000 người, theo Minh thực lục. Sử dụng bọn trung gian bản xứ
Nguyễn Huân [Ruan [Mo] Xun], người Chí Linh, Nam Sách [Hải Dương], làm
Tả Bố chính sứ, Lương Nhữ Hốt [Liang Ru-hu], người Hoằng Hoá, Thanh Hóa]
và Đỗ Duy Trung [Du Wei Zhong] người phủ Tam Đái (sông Thao, Cấm Khê,
Sơn Tây), làm tham [nghị] chính. (ĐVSK, BKTT, IX:26b-27a, Lâu (2009),
2:298; Giu (1967), 2:251-52; CMCB, XII:44- 45; (Hà Nội: 1998), I:757)
Chu Lệ hạ chiếu huấn dụ quan lại, thuộc
ti Bố Chính, có câu “trời cũng giúp cho, lại hưởng nhiều phúc lộc, mãi
đến đời con cháu, mà tiếng thơm của các người cũng mãi mãi còn trong sử
sách;” (ĐVSK, BKTT, IX:27ab, Lâu (2009), 2:298; ĐVSKTB, BK X:32ab, The
(1997), tr. 548; CMCB, XII:44-45; (Hà Nội: 1998), I: 757-58
Một số không nhỏ đã bị cuốn hút và khích
động về chiêu bài diệt ác, hưng Trần. Nếu tin được Minh thực lục, Trần
Ngỗi có mặt trong h2ng ngũ này. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi dẫn về Kim
Lăng, Trần Ngỗi đã cùng một số người trốn về Mộ Độ, phủ Thiên Trường,
phất cờ “kháng Ngô.” Trần Quí Khoáng hay Quí Khách, vua hậu Trần thứ
hai, cũng hơn một lần tìm cách hợp tác với quân Minh. Đế Ngỗi và tùy
tùng hai lần gửi sứ và tuế cống [gồm hai tượng người bằng vàng bạc] đến
Kim Lăng. Năm 1411, Chu Lệ giả vờ đồng ý, phong Quí Khoáng làm Bố Chính
sứ, và đề cử những cận thần của Đế Ngỗi vào ba ti. Nhưng những quan
tướng ngoài mặt trận được quay mặt làm ngơ để ra tay tiêu diệt. Cơ quan
mật vụ Đông Sở của các thái giám đả sử dụng cả con trưởng Quí Ly để dò
xét tin tức từ các sứ thần của Trùng Quang tại Kim Lăng, khiến vua giết
Hành khiển Hồ Ngạn Thần sau khi phó sứ Bùi Nột Ngôn tố cáo sự việc.
(110)
Đại đa số những người hợp tác chủ trương
bá đạo, tư lợi. Chính nghĩa, đạo đức, và ngay cả hạnh phúc thu gọn
trong vòng quyền lợi cá nhân và phe đảng.
Đáng ngạc nhiên là trong số này có ba
cháu nội của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi—chẳng những thông minh, văn hay
chữ tốt, giỏi ứng biến [nhưng cũng có nghĩa chậm tiến, tưởng lầm chim sẻ
thêu thành chim thực], hai lần đi sứ Nguyên, mà còn là một đại quan
thanh liêm, tiết tháo, được liệt vào hạng danh nhân của Hải Dương trong
Đại Nam Nhất Thống Chí. Phải chăng vì sự cảm phục Mạc Đĩnh Chi, [hay đã
bị nịnh thần nhà Mạc sửa chữa, cắt bỏ] sử quan đời sau chỉ nhắc rất sơ
lược về hành động phản quốc của anh em Mạc Thúy, Mạc Địch, Mạc Viễn—đã
tự nguyện đầu hàng, tuyển mộ 10,000 thổ binh dẫn đường quân xâm lược
đánh phá thành trì, lùng bắt nghĩa quân, và nhất là lưu lại hậu thế
chứng từ thành văn tội phản nghịch, xin Chu Lệ ban ơn đặt Giao Chỉ vào
nội địa, như hơn 400 năm trước; và góp công vào việc tung tin con cháu
nhà Trần đã tuyệt, khiến năm 1409 Trương Phụ ngạo nghễ tuyên bố với sứ
giả của Trần Quí Khoáng—tức Trùng Quang Đế— là “không thể còn sót một
cháu nội cua Nghệ Tông,”
Bảng nhãn Lê Quí Đôn có lẽ đã sai lầm
khi chỉ liệt kê những Trần Phong, Lương Nhữ Hốt, hay Đỗ Duy Trung vào
hàng ngũ “nghịch thần.” Mạc Thúy còn đứng đầu sổ công thần của xâm lược
Minh. Mạc Thúy cũng góp phần không nhỏ trong việc tuyển chọn “hơn 9,000”
nhân tài bản xứ ra làm quan theo triết lý “dĩ di trị di” của Hán tộc.
Từ năm 1436, An Nam được khôi phục quốc thống [guo], nhưng chỉ một thế
kỷ sau, cháu chắt Mạc Thúy và Mạc Tung—người năm 1418 được thừa kế chức
tước và lương bổng của cha—sẽ tạo nên một tiền lệ khác, tức “An Nam đô
thống sứ ti;” và, chưởng đô thống sứ ti với hạng tùng nhị phẩm, cha
truyền con nối
Chẳng hiểu anh em Mạc Thúy và Nguyễn
Huân đã chọn quan điểm trên vì nguồn gốc Hoa—nên mơ ước “châu hoàn Hợp
Phố,” hay thù ghét gì nhà Trần. Cũng có thể vì thấm nhuần sách vở Trung
Hoa—bị đầu độc bằng luật kẻ mạnh, và những chi tiết lịch sử ngụy tạo như
“từ thời Chuyên Húc, Đường, Nghiêu ánh sáng thánh giáo Trung Hoa đã
chiếu rọi mọi hang động “Giao Chỉ,” “Giao Châu” hay “An Nam.” Thực tế,
cho tới năm 1414-1415, Hoàng Phúc còn muốn dạy bảo thêm “man di” cách
thờ phụng thần gió, thần mây,” “thần mưa,” “thần sấm sét,” cùng cả một
hệ thống bái vật của Hán tộc.
Hay truyện cổ tích “Phục Ba tướng quân
Mã Viện” từng dựng trụ đồng khoa trương công lao tái xâm lăng, khuất
phục man di,” và phân định biên giới” chỉ có trong những giấc mơ hay tại
các trung tâm hành quân, vắt óc, mài trán tìm cho được cơ hội xâm lăng
lân bang. Vì, trên thực tế, 20 tội của cha con Quí Ly chưa hề bén gót
tội lỗi vượt thời gian và không gian của Chu Lệ cùng những Trương Phụ,
Hoàng Phúc, hay Chu Vinh. Vì chiếc ngai vàng nhà Minh, chẳng hạn, Chu Lệ
đã giết cháu đích tôn của cha, ám hai anh em, họ hàng.
2. Thổ quân:
Thổ quan và thổ binh là một trong những
giai tầng thống trị xã hội Giao Chỉ đô thống sứ ti. Thổ quân chỉ chính
thức thành lập từ tháng 2-3/1416, khi Trương Phụ cho lệnh mỗi hộ phải
cung cấp ba [3] hay hai [2] đinh. (111)
Trước đó, mới chỉ có lính đánh thuê bảo
vệ ba ải Pha Lũy, Chi Lăng và Lưu, cùng hệ thống trục lộ tiếp vận thủy
bộ (bảy [7] trạm ngựa, tám [8] trạm thuyền). Từ năm 1406-1407, khoảng
hơn 10,000 thổ binh tình nguyện chỉ đường, dẫn lối cho quân Minh đánh
chiếm các đồn trại, công sự, và truy đuổi cha con Quí Ly. Thành lập 10
đơn vị bảo vệ [guards], 1 sở kiểm soát hải thương, 100 trạm tuần kiểm,
92 sở thuế buôn bán; xây tường [walls], đào hào [moats] 12 thành (112)
Tháng 2-3/1410, Trương Phụ cũng đặt đồn
điền, và các kho mua thóc ở Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Tam Giang [châu
Phong và châu Chân Đăng cũ; tức Lâm Thao, Đoan Hùng và Quảng Oai tỉnh
Phú Thọ hiện nay] làm lương. Hơn 8,000 thổ binh ở các đồn điền, và các
kho trên. (113)
Cuộc tấn công Mông Cổ do đích thân Chu
Lệ chỉ huy ở miền bắc khiến quân số Hán, Tartar hay thổ dân Vân-Quí và
Lưỡng Quảng bị thiếu hụt. Lý Bân và Trần Trí ngày càng phải trông cậy ở
lực lượng thổ quân Giao Chỉ.
Năm 1426, Kim Lăng cho lệnh tam ti Giao
Chỉ đặt 30,000 thổ binh dưới quyền Vương Thông; cho phép Mộc Thạnh đóng
cửa các mỏ để có đủ thổ binh tăng viện Giao Chỉ. Ngày 29/6/1426: Trần
Trí xin bỏ đồn điền, rút 5,000 thổ binh đánh giặc. (114)
Đáng ghi nhận là không thiếu các quan
lại của Quí Ly, vì lý do này hay lý do khác, đã can đảm từ bỏ chức vụ,
chống lại quân Minh. Những nhân vật lừng lẫy nhất có Đặng Tất, Nguyễn
Cảnh Chân, Nguyễn Súy, v.. v..Họ đã giết quan tướng Minh, phò Giản Định
vương, đập tan lòng tự cao, tự đại của Chu Lệ qua những chiến thắng Bô
Cô từ 30/12/1408 tới 9/1/1409. Lê Lợi—người anh hùng áo vải Lam Sơn, có
thể xuất thân từ hàng ngũ tuần kiểm—nhưng từ năm 1416 đã thu đón nhân
tài, hào kiệt ; trong vòng 12 năm nằm đất, gối sương. It khi có một bữa
no, nhưng cuối cùng phục hồi được quốc thống. Nhiều nữa, những anh hùng
vô danh. Không ai còn ghi nhớ tên tuổi họ. Những cái chết âm thầm, vô
danh của họ—của hàng triệu người, ngày này qua tháng khác—biểu trưng cho
niềm kiêu hãnh và quốc thống Việt Nam.
3. Chính sách bóc lột kinh tế :
Mục tiêu tối hậu của việc thánh hóa
Giao Chỉ là vơ vét thật nhiều, càng nhiều càng tốt, những sản phẩm địa
phương. Ngay trong ba [3] năm miễn thuế đầu tiên, Trương Phụ cùng Hoàng
Phúc đã thực hiện nhiều cuộc vơ vét, cướp đoạt tài nguyên.
Thứ nhất là kho tàng quí kim và châu
ngọc của Đại Ngu mà cha con Quí Ly cướp được của họ Trần. Theo báo cáo
của bộ Lại nhà Minh mùa Hè 1408, Trương Phụ và Mộc Thạnh cướp được
1,360,000 shi [thạch] gạo; 235900 voi, ngựa, trâu bò; 8,677 thuyền;
2,539,852 khí giới. Đó là chưa kể số quí kim, cùng các mỏ vàng, bạc,
ngọc trai, gỗ quí, lâm sản, hồ tiêu, v.. v.. Từ đầu năm 1407, Chu Lệ cho
lệnh Trương Phụ và Mộc Thạnh sử dụng chiến lợi phẩm này một cách tằn
tiện, và sẽ ngưng đưa gạo từ Quảng Đông sang. Nhưng cũng đã có dấu hiệu
khan hiếm gạo, rồi đến nạn đói trầm trọng vào cuối năm. Qua năm 1408, Bố
chính sứ ty đưa ra biện pháp cần kiệm, giảm thiểu số lương thực mọi
cấp. Từ nhất tới tam phẩm, lương tháng là một thạch gạo. Tứ phẩm tới ngũ
phẩm, lương tháng 8 đấu. Lục phẩm-thất phẩm, mỗi tháng 7 đấu. Bát phẩm
trở xuống, 6 đấu. Trung đội trưởng, 5 đấu. (114)
Đáng chú ý là do tình trạng động loạn
khắp nơi, cùng những biện pháp chiến tranh kinh tế—hạn chế và cắt đứt
lương thực cho các phong trào kháng Minh—đời sống đắt đỏ, vật giá leo
thang. Một lạng vàng chỉ mua được 30 yến muối, trong khi 1 lạng bạc mua
được 3 yến. (116)
Thứ hai, mở trường thu vàng bạc. Tháng
9-10/1415, bắt dân lên rừng bắt tê. voi, kiếm hương liệu, săn bắn chồn
trắng, hươu trắng, rùa chin đuôi, chim đậu ngược, vượn bạc má; xuống
biển mò ngọc trai, hay sống lay lất, bệnh tật trong các mỏ quí kim ở bảy
quân Thái Nguyên, Gia Hưng, Quảng Oai, Thiên Quan, Hoàng Giang, Lâm An,
Tân Ninh. (118)
4. Về thương mại,
Giao Chỉ sản xuất được một số sản phẩm
tiểu công nghệ như tơ mỏng (1668 tấm năm 1417, 1668 tấm năm 1418); sơn
mài [lacquer] (2,000 jin năm 1417, 2400 jin năm 1418); Sapan-wood (1500
jin năm 1417, 5,000 jin năm 1418); lông chim bột cá [King-fisher
feathers] (2000 bộ một năm 1417, và 1418); và quạt giấy (10,000 cái mỗi
năm).
Trong nhiệm kỷ cuối ở Giao Chỉ từ ngày
9/5/1415 tới 26/2/1417, Trương Phụ thực hiện được một số việc công ích.
Phụ mở đường bộ tới Hoành Châu [Nam Ninh, Quảng Tây]; đường thủy tới
Khâm Châu—đặt các trạm chuyển vận [relay stations] bằng ngựa trên đường
bộ, trạm bến thuyền trên đường thủy. (119)
5. Văn hóa:
Để đồng hóa dân bản xứ, Chu Lệ ban hành hai [2] chỉ dụ.
a. Thu hết “sách vở” man di mang về Yên
Kinh; Tháng 8/1418, bắt đầu sai người sang thu sách vở của Đại Việt.
(ĐVSK, BKTT, X:3ab, Lâu (2009), 2:302 ; Giu (1967), 2:252;
b. Một chỉ dụ khác, cho lệnh bọn Trương
Phụ: thăm dò rộng rãi khắp nước, để tìm người tài đức, hoặc có một điều
hay, một nghề giỏi. Dùng lễ để sai khiến, tìm cách đưa về kinh đô.” Ít
nhất ba quan chức gốc Giao Chỉ được bổ nhiệm phục vụ ở Bắc Kinh, rồi di
chuyển lên Sơn Đông. Chu Lệ cũng phong chức tước cho bảy [7] con cháu họ
Trần. (120)
6. Tháng 8-9/1414,
Hoàng Phúc xin lập văn miếu và đền thờ bách thần. (121) ĐVSK, BKTT,
IX:25b, Lâu (2009), 2:296; Giu (1967), 2:249; ĐVSKTB, BK X:31a, The
(1997), tr 547; CMCB, XII:41; (Hà Nội: 1998), I:754
Nên ghi nhớ văn miếu thời Minh có hai
đặc điểm : chỉ thờ Khổng Khâu và các đệ tử, hay thánh hiền; và, không
thờ tượng g ỗ, hay tượng đất. Để chứng tỏ lòng tôn kính bậc Chí Thánh,
người ta mang chôn các tượng. [Xem Phụ Bản II]
Trong vòm cung thần thánh, ngoài Ngọc
Hoàng thượng đế, Phật tổ, được thêm vào các thần sông, núi, hồ, ao, sấm,
chớp, mây, mưa, gió, v.. v..
7. Giáo dục:
Tháng 11-/12/1414, Bành Đạo Tường xin mở
trường học.Tại Giao Chỉ có năm [5] loại trường chính: trường thuốc,
trường âm dương, trường Phật học, trường đạo Lão và trường Nho giáo.
Nho sinh tại 12 trường cấp phủ, 19
trường cấp huyện, nhưng phải dùng thày giáo bản xứ. Các trường đạo Lão,
đạo Phật, đạo quan, thiền viện, trường thuốc còn để lại rất ít thông
tin. (122)
Tháng 2 Kỷ Hợi [1419]: Phát tứ thư ngũ kinh, truyền kinh Phật, v.. v .. (123)
Theo sự đánh giá của phái đoàn kiểm soát
năm 1419, trình độ các học sinh rất kém. Một trong những lý do là vẫn
phải sử dụng các thày người bản xứ. (124)
Từ tháng 7 Đinh Hợi [1407], kén chọn
những người tài giỏi, học thức, đưa về Kim Lăng huấn luyện. Mỗi châu,
phủ phải lựa những học sinh xuất sắc để gửi vào đại học Kim Lăng, hay
Bắc Kinh [do nhà Nguyên thành lập].
Tháng 10-11/1415 [9 Ất Mùi, 3/10-1/11/1415], Hoàng Phúc còn đưa các tăng đạo, nhà nho, thày thuốc qua Kim Lăng. (125)
Năm 1418, có 30 du học sinh Việt tại Kim
Lăng. (200:3b) Mười năm sau, ít nhất 160 du học sinh Việt ở Bắc Kinh
phải về nước. (126)
8. Năm 1419 [Kỷ Hợi], lập chế độ “hộ
thiếp” để kiểm soát dân chúng về thuế má và sưu dịch. Mỗi 110 hộ lập ra 1
lý trưởng, có 10 giáp trưởng giúp việc. (127)
9. Cho lệnh dân không được cắt tóc. Phụ nữ phải mặc áo ngắn, quần dài như người phương Bắc. (128)
Ngày 26/7/1419, bắt man di để tang cha mẹ ba năm; (theo yêu cầu của Lu Wen-zheng]; (129)
Kết Từ:
Năm 1428, sau mười hai năm hưng binh
đuổi giặc ngoại xâm—một loại giặc cướp nước tàn nhẫn nhất, đứng đầu bảng
tội phạm diệt chủng trong lịch sử thành văn của nhân loại—Bình Định
vương Lê Lợi (10/9/1385-5/10/1433) khôi phục được giang sơn, giành lại
tự chủ, lập nên nhà Hậu Lê (29/4/1428-12/7/1527). Mặc dù cá nhân Lê Thái
tổ không được Chu Chiêm Cơ (Tuyên Tông, 1425-1435) phong vương, mà chỉ
được tạm quyền việc nước, và phải cống lễ hang năm rất cao, kể cả hai
tượng người bằng vàng, bạc, cúi đấu, khoanh tay—nhưng Đại Việt được thực
sự tự trị. Rồi năm 1436, Chu Kỳ Trấn (Minh Anh Tông, 7/12/1435-1449,
11/2/1457-23/2/1464) gia phong cho Lê Thái Tông chức An Nam Quốc Vương—
tức trả lại vị thế nước chư hầu như cũ.
Thật khó ngờ, chỉ một thế kỷ sau, tới
lượt tội phạm lịch sử Mạc Đăng Dung (12/7/1527-1530-TTH, 11/9/1541) và
con cháu, viết thêm những trang sử ô nhục hơn nữa của “An Nam đô thống
sứ ti”—tức một đơn vị quân chính cấp phủ, gồm 13 lộ, do một man soái
được ban chức quan tùng nhị phẩm, trông coi. Đơn vị quân chính này liên
hệ với hai quân khu đông bắc và tây bắc (bao gồm lãnh thổ Quảng Tây,
Quảng Đông, Phúc Kiến, và Vân Nam, Quế Châu, Tứ Xuyên). Tình trạng “mất
nước” này kéo dài tới tháng 3-4/1647, gần ba năm sau ngày Mãn Thanh xóa
bỏ Đại Minh trên bàn cờ chính trị Á Châu ngày 6/6/1644. Rất ít người
biết rằng đích thân Thanh Đô vương Trịnh Tráng đã gửi biểu xin phong
vương cho Lê Thần Tông, nhưng bị Chu Do Kiếm (Si-zong,
2/10/1627-24/4/1644) chối từ, lần cuối vào ngày 18/11/1640. (127)
Đọc kỹ những trang Minh thực lục, điều
đáng chú ý nhất là vai trò chủ động của Chu Lệ trong cuộc xâm lăng An
Nam, nhưng được tô hồng chuốt lục là trừng phạt bọn tội phạm cha con Quí
Ly, và cứu khổ cho “man di” Giao bị hành hạ. Man di là thuật ngữ được
hầu hết viên chức Minh, từ Chu Đức Dụ, Chu Lệ trở xuống sử dụng. Lời so
sánh võ công của Trương Phụ với Mã Viện gần 1400 năm trước nói lên ít
nhất hai điều. Thứ nhất là sự thiếu hiểu biết lịch sử và/hay thói quen
xuyên tạc lịch sử của Chu Lệ nói riêng, và vua quan Trung Hoa nói chung
(kể cả Chu Đức Dụ). Nếu võ công Mả Viện quả thực to lớn, những người như
Tiết Tông, Sĩ Tiếp hay danh nhân tị nạn ở Giao Chỉ cuối thời Đông Hán
đã ít nhiều nhắc đến. Mã Viện thực ra được thần thoại hóa để biện minh
[justify] cho hành động xâm lăng cổ Việt và Lâm Ấp [Lin-yi] từ đời
Tùy-Đường [hoặc trước 446, khi Phạm Việp, soạn giả nguyên bản Hậu Hán
Thư [Hou Hanshu] mất]. Năm 1950, khi tiếp đón những cố vấn quân sự Trung
Cộng sắp sang Việt bắc, giúp sáu [6] đại đoàn Việt Minh lớn mạnh lên
trong thời gian đánh Pháp, Mao Nhuận Chi (Trạch Đông, 1949-1976) cũng
nhắc đến Mã Viện, nhưng thêm rằng họ đã được Linov Nguyễn Sinh Côn
(1892-1969) và Đảng Cộng Sản Việt Nam mời sang; cửa Mục Nam quan (tức
Trấn Nam Quan trước 1885-1897) sẽ mở rộng đời đời, không giống Mã Viện,
bị lên án là xâm lược, và dính líu vào việc trộm cắp châu ngọc, sừng tê
giác, v.. v… (128)
Điểm nổi bật thứ hai là Chu Lệ đã tích
cực theo dõi và điều khiển cuộc chiến từ xa. Với những lão tướng như Mộc
Thạnh hay Trương Phụ, Chu Lệ chỉ chú trọng đến khía cạnh chính trị—như
cách sử dụng thổ binh, thổ quan, hay ra những lệnh ân xá nhằm phục vụ
những mục tiêu quân sự nhất thời. Một mặt, Chu Lệ trang trọng đại xá, và
cho những thái giám thuộc Đông Sở như Mã Ký [Ma Qi], Sơn Thọ [Shan
Shou] đích thân tiếp xúc các lãnh tụ kháng chiến đang lên. Ngay đến Trần
Quí Khoáng, hay Trùng Quang Đế, đã bí mật xin hàng Mộc Thạnh từ năm
1408, và nhận chức Bố Chính sứ vào tháng 1/1411. Khi thông báo cho
Trương Phụ việc này, Chu Lệ vẫn mở đường cho Phụ khi qua Giao Chỉ lần
thứ ba là có thể tùy nghi hành động. Bởi vậy, sau khi dâng biểu nói
Trùng Quang Đế là kẻ hai mặt, Phụ thẳng tay tàn sát thuộc hạ của vương.
Các sử quan Việt đã qui mọi tội ác dã man cho cá nhân Trương Phụ, Sư
Hữu, Trần Trí hay Phương Chính, nhưng thực tế họ chỉ ở mức thừa hành, kẻ
gây tội ác lớn nhất là chính Chu Lệ, một sát nhân gian xảo, dùng bất cứ
phương tiện nào để đạt mục tiêu xâm chiếm, và đồng hóa “man di.” Hình
như Chu Lệ không chút ưu tư về cảm nghĩ và ước muốn của hàng triệu người
không muốn bị đồng hóa, và tôn quí sự tự chủ của đất nước, dân tộc. Che
dấu tội ác diệt chủng của mình bằng những khẩu hiệu rỗng tuếch kiểu
hoằng dương thánh giáo, và luật pháp của xã hội đội mũ, mắc áo, đi giày,
ngồi ghế, di chuyển bằng kiệu võng, chiến xa. Tất cả 20 tội ác của cha
con Quí Ly đều hiển lộ qua cuộc xâm lược thất bại Đại Việt năm 1406-1428
của Chu Lệ.
Đáng ghi nhớ là từ năm thứ 17 của cuộc
xâm chiếm Đại Việt, cuộc chiến kháng Minh ngày một mãnh liệt, trong khi
tinh thần phản chiến lan tràn trong xã hội Minh. Nhiều quan tướng Minh
đào ngũ, hay tìm cách trì hoãn ngày vào Giao Chỉ. Quan tướng chỉ huy
nhiều người bị trừng phạt vì quá tàn bạo, hay thất trận. Một số tướng
từng được trọng thưởng từ 1407 tới 1415, như Phương Chính, Trần Trí, đã
bị Cẩm y vệ và hành nhân xích giải về Bắc Kinh; rồi gửi trả lại Giao Chỉ
để lập công chuộc tội. Có người, như Sư Hữu, trên đường giải giao về
kinh đã tự tử vì quá lo sợ hay phẫn nộ. Nhiều tướng dày dạn kinh nghiệm
chiến trường theo nhau tử trận (như Trần Húc, Trần Trung, Hoàng Trung,
Trần Hiệp) hay bị thời tiết đốn hạ (trường hợp Hàn Quan năm 1414, Lý Bân
năm 1422). Những người mới tới đều chỉ lo tự bảo toàn. Ngay đến Kiềm
Quốc Công Mộc Thạnh—Tổng binh quân khu Vân Nam, ba lần mang ấn Chinh Di
tướng quân tại Giao Chỉ—cũng mất dần tự tin, lo tự bảo vệ hơn tích cực
“dẹp giặc.” Vương Thông, Tổng Binh thứ sáu, theo nhận xét của sử thần
Minh, cũng thay đổi hẳn mắt nhìn về cuộc chiến, không thể “hoàn hồn” từ
sau các trận Ninh Kiều, Tốt Động vào cuối năm 1426, hai lần tự ý xin
giảng hòa với Bình Định vương Lê Lợi—và cuối cùng, vì thấy không thể có
viện binh, đã làm lễ hội thề ngày 10/12/1427 (theo tài liệu Việt), hoặc
12/11/1427 (theo Minh thực lục), để an toàn rút lui. Mặc dù Chu Chiêm Cơ
[Xuanzong, Tuyên Tông, 16/6/1425-31/1/1435] sau này trừng phạt Vương
Thông và năm thuộc hạ, tịch thu tài sản, tống giam, cách làm thường
dân—hay ngày 12/7/1428 xử tử, tịch thu tài sản của chưởng Giao Chỉ Đô
thống sứ ti Thái Phúc[Cai Fu], chỉ huy trưởng kỵ mã Chu Quảng và bốn [4]
người khác về tội đầu hàng và khuyến khích đồng đội đầu hang địch
quân—nhưng họ mới chính là ân nhân cứu mạng của gần 90,000 binh sĩ và
quan lại Minh được về nước. Thất bại nào cũng cần những vật tế thần như
Vương Thông, Mã Anh, Phương Chính; hay những loại ruồi nhặng chiến tranh
vo ve chính nghĩa bảo vệ thuộc địa, như những đại thần Minh ký vào tờ
biểu xin Chiêm Cơ xuất quân đánh Lê Lợi, và trừng trị Vương Thông cùng
thuộc hạ, sau cuộc thảm bại 1428.(129)
Dù, đã hẳn, như Vương Thông viết trong
tờ biểu ngày 22/2/1428, Lê Lợi đã “thành khẩn xin hàng, xin tiếp tục
cống lễ, theo điều kiện đời Đức Dụ.” (130)
Bài toán “Đại Ngu” cho thấy Kim Lăng
đang có cơ hội bằng vàng đánh chiếm “đất cũ,” hay “lấy lại đất,” nếu
muốn. Các vua cuối nhà Trần hèn kém đến độ thua trận cả Chiêm Thành—một
xứ có nghề chuyên nghiệp là cướp biển. Cha con Quí Ly thì có lẽ mắc
chứng tâm thần, tự xưng là dòng giõi Ngu Thuấn mà ngay một nho sinh mời
nhập môn cũng hiểu chỉ là thần thoại. Chẳng phải do vô tình mà Chu Lệ
nhắc đến tội bất kính với tổ tiên, thay tên đổi họ, tự vinh danh mình
bắng liên hệ huyết thống với vua thánh—và cá nhân Quí Ly cùng Hán Thương
cho rằng mình còn tài giỏi hơn Tam hoàng, Ngũ đế. Ngắn và gọn, Chu Lệ
muốn nhân cơ hội động binh, đặt Giao Chỉ hay Giao Châu trở lại bản đồ.
Mở mang bờ cõi và uy thế là một thứ thuốc phiện tinh thần, rồi sẽ khiến
Chu Lệ chết ở một hoang vực đất bắc, âm thầm đưa về Bắc Kinh mới phát
tang năm 1424. Lối lý luận rằng cướp đất, cướp dân, trộm cắp tài nguyên
thiên nhiên của Đại Việt chỉ vì không muốn thấy kẻ phạm tội không bị
trừng trị, hay đám dân chúng khổ sở không được cứu giúp chỉ là ngụy
biện. Trương Phụ có thể giết được Nguyễn Biểu, hay bắt Bùi Bá Kỳ về Kim
Lăng, nhưng sự thật chỉ là sự thật. Những tên bạo chúa, thực dân, tội
phạm chiến tranh như Lưu Triệt, Chu Lệ, Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình,
Tập Cận Bình v. v.. sẽ chịu tiếng nhơ muôn đời trong lịch sử nhân loại.
Chỉ trong ba năm 1407-1409, nỗi khổ sở, tang thương của người dân Việt
chất chồng thêm nhiều lớp. Gạo không có mà ăn vì hơn 13 triệu thạch gạo
đã bị trộm cướp để nuôi dưỡng đạo quân viễn chinh, cùng đám thổ quan,
thổ binh lên tới khoảng 30,000 người. Và giao bán cho những Hoa thương.
Sở kiểm soát ngoại thương ở Vân Đồn cho thấy thị trường phục vụ chiến
tranh của Giao Chỉ phát triển khá mạnh trong những năm đầu. Trong khi
đó, từ Thanh Hóa vào nam, cấm dân trồng lúa, khiến nghĩa quân phải làm
những chuyến phiêu lưu ra bắc tìm thực phẩm. Từ đầu năm 1408, Hoàng Phúc
còn cho lệnh khai thác mỏ vàng, mỏ bạc ở bảy tiểu khu. Giao cho hai đô
ty và bốn phó đô ty, cùng 21 án sát huyện và hai tri phủ điều khiển.
(131)
Dân chúng bị cưỡng ép đi mò ngọc trai,
trồng hồ tiêu, cùng sưu cao, thuế nặng—thuế ruộng, chẳng hạn, tăng 300%
bằng cách tự động nhân gấp ba số ruộng mà mỗi hộ làm chủ, khiến số người
lang thang, vất vưởng, vô gia cư, vô nghề nghiệp ngày một tăng. Đó là
chưa kể bản tính độc ác, khát máu của Trương Phụ cùng tùy tướng. Chỉ
nguyên một trận Đa Bang đêm 19 rạng 20/11/1406, và trận thủy chiến trên
sông Lỗ ngày 8/2/1407 Trương Phụ cùng đồng đảng đã giết gần 40,000
người..Tiếp đến các trận Hoàng Long, Muộn Hải hay Hàm Tử, trận nào số
lính Việt chết trận cũng tính gọn 5,000 hay 10,000 thủ cấp. Số người
chết đuối thì luôn luôn không thể kiểm kê. Trương Phụ và tùy tướng còn
rất thích bêu đầu người chết, hay chất xác thành đống để dọa nạt dân
Việt về “sức mạnh và quyết tâm của quan quân”— nhưng thực tế chỉ là
những tên cướp nước, ỷ thế mạnh, người đông, sống ngoài vòng luật pháp
quốc tế, tự tô son trát phấn những nhân, nghĩa, mệnh trời, mệnh đất cai
trị “thiên hạ,” giáo hóa di mọi bốn phương. Sau này, năm 1428, Nguyễn
Trãi đã cảm khài viết lên những lời đại cáo ngắn gọn, xúc tích như “Tát
cạn nước biển Đông cũng không đủ rửa sạch vết nhơ; Chặt hết trúc núi Nam
không đủ thẻ ghi tội ác.” (132)
Người chép sử Việt sau này hẳn sẽ còn
nhiều cơ hội ghi thêm những tội ác diệt chủng [genocide], tội ác chống
nhân loại [crimes against Humanity], tội ác chống nhân quyền [crimes
againsr Human Rights], xâm lược [aggression], sát nhân [murder], tra tấn
[torture], hãm hiếp [rape], trộm cướp [theft], trấn lột [roberry] của
những kẻ chỉ biết dùng gươm đao, thương, giáo, cung tiễn, rồi đại bác,
bom chùm, bom nổ cao, hay bom nổ chậm; ở các vùng biên giới, những tiểu
quốc mà Hán tộc tự nhận là “đất cũ” để có cớ khởi binh, cướp bóc. Trong
suốt hơn 1,000 năm qua, lịch sử thành văn của Đại Việt và thế giới đã
liệt kê khá đầy đủ tội ác của bầy tội phạm quốc tế ở Bắc Kinh. (133)
Madison, Wisconsin, 4/1979- Houston, Texas 7/2015.
Vũ Ngự Chiêu
Chú thích:
1. Geoffrey Wade, Southeast Asia in Ming
shi-lu [Minh thực lục], An Open Access Resource, trans into English
(National University of Singapore database: 2005), Taizong [Thái Tông],
juan [quyển] 65:1b-2a, 65:5ab, 67:4b, MSL (bản Zhongyang), vol 11, pp
0916/17, 0923/24. 942. [Sẽ dẫn Ming shi-lu, [reign title] (Wade, NUS
database)]. Một kho tài liệu quí báu, nhưng cần thận trọng, vì những sai
lầm sơ đẳng như kỷ “Taizong,” tức Chu Lệ, thay vì Zhengzu; Hongwu [Hồng
Vũ] 35 tương đương 1402; Đặng Cảnh Chân, Đặng Cảnh Dị thay vì Nguyễn
Cảnh Chân, Nguyễn Cảnh Dị.
2. Ming shi-lu, Taizong (Wade, NUS database), juan 68:1a-3b, 3b-7a; MSL, vol 11, pp 0943/48, 0948/55; [q. 68, tr 943];
3. Quốc sử quán nhà Nguyễn, Khâm Định
Việt Sử Thông Giám Cương Mục [CM], Chính Biên [CB], XII:20-21,
XXVII:32-34; bản dịch Hoa Bằng, Trần Văn Giáp, Phạm Trọng Điềm, et al., 2
tập, (Hà Nội: Giáo Dục, 1998), I:733-737, II:118-120; Ming shi-lu,
Shizong (Wade, NUS database), juan 221:6a-7a [14/3/1539], 248:1b-5a
[29/4/1541], MSL, vol 82, pp 4966/73], 268:3ab [16/12/1542], &
Shenzong, 315: 4ab [25/11/1597]; Quốc sử quán nhà Lê, Đại Việt Sử Ký
Toàn Thư [ĐVSK, BKTT], Nội các quan bản, IX:2b, XVI:6a, bản dịch Ngô Đức
Thọ, Hoàng Văn Lâu, Ngô Thế Long, et al (2009), 2:273, 3:152; &
Quốc tử Giám tàng bản, Cao Huy Giu, et al (Hà Nội: 1967), 2:286-287n10
[không đúng ngày]; Quốc sử quán nhà Nguyễn [Tây Sơn], Đại Việt Sử Ký
Tiền Biên [ĐVSKTB], BK X:2ab, bản dịch Dương Thị The, et al (Hà Nội:
1997), tr 525 [không đúng ngày]; Lê Quí Đôn, Đại Việt thông sử, bản dịch
Ngô Thế Long (Hà Nội: 1978), tr 272, 280 [bị khuyết, không rõ ai kiểm
duyệt . Nhắc đến việc môi giới đầu hàng, nhưng không nêu rõ Mạc [Nguyễn]
Như Quế v.. v.. đứng tên trong tời biểu cầu phong]. Phan Huy Chú, trong
Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí [LTHCLC] ghi đầy đủ chi tiết; q 46:
Bang giao chí (Hà Nội: 1992), 3:203-204 [biểu ngày 30/11/1540 của Mạc
Đăng Dung (12/7/1527-28/1/1530, TTH 11/9/1541)], 204-206 [biểu của
Nguyễn Như Quế], 206 [chiếu của Chu Hậu Tổng, ANĐTST], 207 [biểu tạ ơn
của Mạc Phúc Hải], 207-209 [25/11/1597, chiếu phong Lê Thế Tông
(2/2/1573-12/10/1599) làm Đô thống sứ ti, Shizong, juan 315:4ab; 1647,
Lê Thần Tông (1619-1643, 1649-1662) làm ANQV; 3-4/1667, Lê Huyền Tông
(1662-16/11/1671) làm ANQV; 1788, Lê Duy Kỳ (1786-1789), ANQV]. [Sẽ dẫn
Thông sử, Long (1978)]; LTHCLC (1992)]; Lý Văn Phượng [Li Wenfeng], Việt
kiệu thư [Yue qiao shu] (1540), reprint, 2 vols, via ĐVSK, BKTT, Giu
(1967), phần cước chú;
4. Ming shi-lu, Taizong (Wade, NUS
database), juan 56:4b [25/7/1406, Lão Qua gửi 4000 lính theo Mộc Thạnh];
84:1a; MSL, vol 11, p 1117 [19/10/1408: trọng đãi cháu nội vua Chiêm];
5. Về giá trị đích thực các rác phẩm cổ
thời Trung Hoa, xem Richard E. Strassberg, A Chinese Bestiary: Strange
Creatures from the Guideways through Mountains and Seas (Berkeley, CA:
Univ of California Press, 2002) [xxii, 314 pp.]. [Shanhaijing [SHJ, Sơn
Hải Kinh] [Bestiary: A collection of stories providing descriptions of
real and imaginary animals with moral interpretations of their
behavior]. 1597 reprint of the Wang Chongqing edition [Vương Trùng
Khánh?]. From the Song onward, was variously classified as a work of
geography, travel account, religious than topographic [SHJ, p. 36].
[detailed precise description of a place or region]
6. Xem, chẳng hạn, John K Whitmore,
Vietnam, Ho Qui Ly and the Ming (1371-1421), New Haven: Yale Univ
Southeast Asia Studies, 1987); & “Chiao Chih and Neo-Confucianism:
The Ming Attempt to Transform Vietnam;” Ming Studies, No 14 (1977), p
52; Keith W Taylor, The Birth of Vietnam (Berkeley, CA: Univ of
California Press, 1983); Wei Yuan (Ngụy Nguyên, 1794-1854), Sheng Wuji
[Thành Vũ Ký] (1842), [“Càn Long Chinh vũ An Nam ký;” pp 187-88];
7. Xem thêm John E. Herman, Amid the
Clouds and Mist: China’s Colonization of Guizhou, 1200-1700 (Cambridge,
Mass: Harvard Univ. Press, 2007); C Paterson Giersch, Asian
Border-lands: The Transformation of Qing China’s Yunnan Frontier
(Cambridge, Mass: Harvard Univ. Press, 2006). Nasu Yi Mu’egu là vùng
trái độn giữa Bắc Kinh và Yunnan. Xem thêm Ngũ Đại sử, Nam Hán thế gia;
được trích dẫn trong Tư Trị Thông Giám của Tư Mã Quang [Sima Guang], và
Cương Mục thông giám của Chu Hy [Zhou Xi].
8. ĐVSK, BKTT, VIII:38ab, 40a, Lâu
(2009), 2: 251, 253; Giu (1967), 2:211; Đại Nam Nhất Thống Chí [ĐNNTC],
VI: Thanh Hóa, bản dịch Đào Duy Anh, et al. (1997), 2:224, 269-70 [thành
nhà Hồ]. Không rõ còn chăng hậu duệ Hồ Hưng Dật, và gia phả cùng tư
liệu có khả năng thuyết phục.
9. Ngu : Thiều Chửu, 583, bộ Hổ ; Sima
Qian, Shiji [Records of the Grand Historian of China], Benji [Annals] 1:
Năm đế; 65-67; Biao [Tables], 13, 3-4, Liezhuan [Biographies], 61
[Shun], (Sima-Burton Watson, 1958), pp 183 [the virtue of the Five
Emperors” and “the successions of the Five States” are genuine], 184,
187-188; ĐVSK, BKTT, VIII:33ab, Lâu (2009), 3:244-245.
10. ĐVSK, BKTT, II:2ab, Thọ (2009),
1:396; BKTL, XI:35b-36a, 47b-49a, 52a-56a, Lâu (2009), 2:422, 434-436,
439-443. Năm 1371, Chế Bồng Nga đã xin Chu Đức Dụ ban khí giới và nhạc
cụ để chứng tỏ với An Nam rằng Chiêm Thành cũng là một chư hầu của Đại
Minh. Đức Dụ chỉ chấp thuận cho Chiêm Thành gửi nhạc công đến Kim Lăng
học âm nhạc; Ming Shilu, Taizong, (Wade, NUS data base], juan 67:4b-5a;
MSL (Zhongyang), vol 3, pp 1260/61.
11. Quốc sử quán nhà Nguyễn, Đại Nam
Thực Lục Chính Biên [ĐNTLCB], Đệ Nhất Kỷ [I], bản dịch Viện Sử học (Hà
Nội: 1963-1978), tập 4:1809-1820, 1963:398; Đệ Tam Kỷ [III], tập 26:
1846-1847, 1972:368-374 [Ca ngợi công lao gìn giữ Cao Miên. Vua phê:
Được [Khả].
12. Tội thứ ba [3], năm [5] và 20 trong
hịch chinh phạt ngày 19/11/1406, chiếu ngày 5/7/1407 về lý do lập Giao
Chỉ đô thống sứ ti [tusi], chia quận huyện và đặt quan lại để giáo hóa
mọi rợ [yi] theo văn hóa và pháp luật nội địa; Ming Shilu, Taizong,
(Wade, NUS data base], juan 60:1a-4a; MSL (Zhongyang), vol 11, pp
866/71; [19/11/1406, 20 tội ác của cha con “the Li bandits,” Li Ji-li
and his son]
13. ĐVSK, NKTT, IV:3a, Thọ (2009),
1:198; Giu (1967), 1:104-5; Nhượng Tống (1944), tr. 167-68,170-72;
ĐVSKTB, NK IV:5-6a, The (1997), tr 86-7; CMTB, III:5b-8a; (Sài Gòn:
1970), 3:22-5 [20-35]; (Hà Nội: 1998), I:139-42; Lê Tắc, Annan zhi-luo
[An Nam Chí Lược, ANCL], q. V, VII, bản dịch Trần Kính Hòa, (Đại học
Huế: 1961), tr 112-13, 147-48 [Lã Đại],148 [Tiết Tông]:
14. Ming Shi-lu, Taizu, (Wade, NUS data
base), juan 51:8b-9a, 88:5b; MSL (Zhong Yang) vol 3, pp 1006/07, vol 4, p
1566.. Sử Việt đánh giá thấp ông “vua chơi bời” này. Tên Trần Hạo hay
Dụ Tông gắn liền với thuật châm cứu của thày thuốc gốc Mông Cổ Trâu
Canh, cùng cách chữa bệnh liệt dương bằng mật người và “loạn luân”
[incest]; ĐVSK, BKTT, VII: 1a-10b, 15ab, 20ab, Lâu (2009), 2: 147-159,
165-166, 171-172, 244-245;; ĐVSKTB, BK VII:16b- 17b, 25a, 32a, The
(1997), tr 443, 449-450, 455; CMCB, X:1-2, 18 (Hà Nội: 1998), I:624,
639;
15. ĐVSK, BKTT, VIII: 13ab, Lâu (2009,
2:219-220; ĐVSKTB, BK VIII:29b-31b, The (1997), tr 484-485; CMCB,
X:39-40, (Hà Nội: 1998), I:666-667. Sử Nguyễn đặt nghi vấn về cái chết
của ni sư họ Lê (Gia Từ) năm 1381, và việc Quí Ly giết Đại vương Ngạc,
con Nghệ Tông, người mưu cùng Trần Hiện kềm chế Quí Ly. Ming shi-lu hàm ý
cả Nghệ Tông lẫn Quí Ly đều có tội giết hai vua Dương Nhật Lễ, được Đức
Dụ phong vương, ban ấn năm 1370; rồi Trần Hiện, hay Phế Đế. Thực ra,
cha con Quí Ly còn giết thêm Trần Thuận Tông, con út Nghệ Tông, năm
1399. Năm 1406, cơ quan tuyên truyền của Chu Lệ đưa ra “hai chục [20]
tội tày trời” của cha con tặc phỉ Lê; Ming shi-lu, Taizong (Wade, NUS
data base), juan 60:1a-4a; MSL (Zhong Yang) vol 11, pp 866/71.
16. ĐVSK, BKTT, VII:43b-44b, Lâu (2009),
2:201-202; Ming Shi-lu, Taizu (Wade, NUS database), juan 47:4b-5a. Đỗ
Tử Bình là người đưa ra cách thu thuế mới để vơ vét của dân.
17. Ming Shi-lu, Taizu (Wade, NUS database), juan 128:5ab [tháng 12 Canh Thân, 1-2/1380]; MSL, vol 15, pp 2039/40.
18. ĐVSK, BKTT, VIII:13b-14a, Lâu
(2009), 2:220; Giu (1967), 2:185; ĐVSKTB, BK VIII:32b, The (1997), tr
486; CMCB, X:41- 42; (Hà Nội: 1998), 1:660; LTHCLC, q XLVI: Bang Giao
Chí (1992), 3:191)
19. Ming Shi-lu, Taizu (Wade, NUS
database), juan 194:6b-7a; 196:3a; MSL, vol 7, p 2791. [Xem Phụ Bản I:
Các Vua Trần, 10[20]/1/1226- 23/3/1400].
20. ĐVSK, BKTT, VIII:10b-11b, Lâu (2009), 2:216-18; CMCB, XI:4-7 (Hà Nội: 1998), I:674-677;
21. ĐVSK, BKTT, VIII:12b-14a, 20b, Lâu (2009), 2:219-20, 228.
22. Ming shi-lu, Taizu (Wade, NUS database), juan 194:6b-7a , 198:3a; MSL, vol 7, pp 2930/31, 2971
23. ĐVSK, BKTT, VIII:22ab, Lâu (2009),
2:230; Giu (1967), 2:194. ĐVSKTB, BK VIII:12b-13a, The (1997), tr
496-497; CMCB, XI:18; (Hà Nội: 1998), 1:688-689; Xem Phụ Bản II: Lược sử
tế lễ Khổng Khâu
24. ĐVSK, BKTT, VIII:22ab, Lâu (2009),
2:230-31; Giu (1967), 2:194. Lý học Tống Nho: của Chu Đôn Di chia làm
hai [2] phe: Chu Hy cầm đầu phái tả; Lục Cửu Uyên cầm đầu phái hữu.
Trong khi đó, Trương Lượng chống lại cả hai, chủ trương bá đạo, công
lợi.
25. ĐVSK, BKTT, VIII:22b-23a, Lâu (2009), 2:231; Giu (1967), 2:194; ĐVSKTB, BK IX:13a, The (1997), tr 496-97.
26. CMCB, XI :18; (Hà Nội: 1998),
I:688-89. Về Hán Văn đế, xem Shiji [Sử Ký], banji [bản kỷ], 3. Điều tâm
đắc của Hường Nhiệm là thư Lưu Hằng gửi Triệu Đà.
27. Ming shi-lu, Taizu (Wade, NUS data
base), juan 72:2a [Ngày 13/2/1372: Nguyễn Nhữ Lâm [Ruan Ru-lin] nhìn
nhận Trần Phủ đã giết cha con Nhật Lễ], 78:7ab [Tháng 1-2 1373: sứ mang
biểu nhận lỗi của Nghệ Tông; Đức Dụ trả lại cống lễ]; juan 88:5b [Tháng
4-5/1374: Nghệ Tông xin từ chức vì tuổi già; nhường ngôi cho em là Trần
Kính, tức Duệ Tông. Thực ra Trần Kính đã lên ngôi từ ngày 4/12/1372].
28. ĐVSK,BKTT, VIII:33b [14a-34a], 38b,
Lâu (2009), 2:245 [220-245], 251;.Giu (1967), 2:205; ĐVSKTB, The (1997),
tr 506; CMCB, XI:33-34, (Hà Nội: 1998), I:704-5.
29. Ming shi-lu, Taizong (Wade, NUS
database), juan 12A:7b; 19:1a, 3a-b; 25:1b, 8b, hay, MSL (Zhong Yang)
vol 11, pp 866/71; ĐVSKTB, BK IX:36a, The (1997), tr 515; CMCB, XII:2,
(Hà Nội: 1998), I:716-717. ĐVSK, BKTT, VIII:43b, Lâu (2009), 2:257.
Truyền bản LTHCLC không chép.
30. ĐVSK, NKTT, I:1a, Thọ (2009), 1:150;
ĐVSKTB, NK I:1a, 7ab, The (1997), tr 39, 43; CMTB, I :5b-7a (Sài Gòn:
1967), 2: ; (Hà Nội : 1998), I :76- 78. [Xem Phụ Bản III]
31. Tắc, ANCL, I: Cổ tích, 1961:39-41;
ĐVSK, BKTT, V:33b, VIII:13b, Lâu (2009), 2:47, 162; ĐVSKTB, BK V:46b,
VII:14b-15a, The (1997), tr 353, 441; CMCB, VII:14, IX:46, (Hà Nội:
1998), I:501-502, 618-619. Đa tạ ông bà Triệu Vũ mua tặng một ấn bản
ANCL do Đại học Huế ấn hành năm 1961.
(15/3/1329-10/3/1357). (32) .32. ĐVSK,
BKTT, V:33b, VII: 10b,13a; Lâu (2009), 2:47 [tháng 4-5/1272, 4 Nhâm
Thân],, 159, 162 [tháng 8-9/1345, 8 Ất Dậu]; Giu (1967), 2:38 2:136;
ĐVSKTB, BK , V:46b. The 1997), tr 353; LTHCLC, q. 49: Việc biên cương,
(1992), 3:280; CMCB, VII:14; (Hà Nội: 1998), I:500-1 [Lâu (2009), 2:
ĐVSKTB, BK VII:14b-15a, The (1997), tr 440-441; CMCB, IX:46 (Hà Nội:
1998), I: 618-619.
Sử Lê tỏ ý hoài nghi việc này; vì tháng 9
năm Bính Tuất [16/9- 14/10/1346], Mạnh được thăng chức Chưởng bạ thư,
kiêm Khu Mật Tham chính; nhà Nguyên sắp loạn to]; Sư Mạnh được thăng
chức, tại sao có thể đi về nhanh như vậy; (ĐVSK, BKTT, VII:13a, Lâu
(2009), 2:162; Giu (1967), 2:136) Ngô Thì Sĩ giải thích rằng có thể Phạm
Sư Mạnh chỉ tới Quảng Đông rồi trở về, và thăng chức; ĐVSKTB, The
(1997), tr. 442 LTHCLC, (1992), 3:261; CMCB, IX:46; (Hà Nội: 1998),
I:619).
33. Fan Ye, Hou Han Shu [HHS/HHT], zhuan
86/76; Ming Shi-lu, Taizu (Wade, NUS data base), juan 43:3ab, 51:8b-9a;
MSL, vol 3, pp 1006/07 [10/5/1370, nhắc đến Mã Viện].
34. Mingshi-lu , Taizu (Wade, NUS
database), juan 250:3b-7a ; MSL (Zhongyang), vol 8, pp 3620/27; ĐVSK,
BKTT, VIII :47b-48a, Lâu (2009), 2:262 [Lộc Châu, Lạng Sơn]; Giu (1967),
2:219 ; CMCB, XI:13, (Hà Nội: 1998), I:720-21 [I:683-84]); ĐNNTC, q
XXIV: Lạng Sơn (1997), pp 366-367
35. Ming Shi-lu, Taizu, (Wade, NUS data
base), juan 250:3b-7a; MSL, vol 8, pp 3620/27; .ĐNNTC, XXIV: Lạng Sơn,
(1997), 4:366-367.
36. Ming Shi-lu, Taizong, (Wade, NUS data base), juan 38:3b-4a. 43:4ab, 44:3a.
Sử Việt: Tháng 9-10/1405 [Tháng 9 Ất
Dậu, 29/9-10/1405], Hán Thương sai Phạm Canh và Lưu Quang Đĩnh theo Niếp
Thông lên Kim Lăng; ĐVSK, BKTT, VIII:48b-49a, Lâu (2009), 2:263; Tháng
8-9/1405 [Tháng 8 Ất Dậu, 25/8-28/9/1405], Chu Lệ sai Nguyễn Tông Đạo đi
An Tôn; Tháng 9-10/1405, Hán Thương biếm Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ
lộ Thăng Hoa. Cử Nguyễn Ngạn Quang làm Tuyên phủ sứ kiêm tri sự Tân
Ninh. (ĐVSKTB, BK IX:41a, The (1997), tr 519; CMCB, XII:8-9, (Hà Nội:
1998), I:722). Đông lộ thái thú Hoàng Hối Khanh đắp thành Đa Bang
[khoảng núi Ba Vì, tây Hà Nội 50 cây số]; ĐVSK, BKTT, VIII:49ab, Lâu
(2009), 2:264-265, 264chú1; ĐVSKTB, BK IX:41b, The (1997), tr 519; CMCB,
XII:9, (Hà Nội: 1998), I:723;
37. Ming shi-lu, Yingzong (Wade, NUS
database), juan 72:5ab ; MSL,vol 25, pp 1397/98 [300 lý bắc Phân Mao,
200 lý đông trụ đồng; Fenmao Range in Qin prefecture has marked the
north-west border. An Nam occupied 300 ly this side of the Fen-mao
Range, and over 200 ly this side of the bronze pillar]. Nguyễn Trãi, et
al, Dư Địa Chí (1434), Nguyễn Trãi Toàn Tập [NTTT], 1976, tr 225-226.
38. ĐVSK, BKTT, XII:1b, Lâu (2009), 2:575.
39. Ming Shi-lu, Taizu (Wade, NUS data
base), juan 250:3b-7a; Shizong, juan 248:1b-5a, MSL, vol 82, pp 4966/73
[trả lại hai đô Như Tích [Ru Xi] và Chiêm Lăng [Tie Lang], cùng bốn động
Tê Phù [To Fu/Si-lim], Kim Lặc [Jinle], Cổ Sâm [Gu-sen], Liễu Cát
[Liao-ge]; LTHCLC, q 49: Việc biên cương, 3:291; ĐNNTC, XVIII: Quảng Yên
(1997), 4:7-9; XXIV: Lạng Sơn, 4:366- 367. ANCL:.q. IV, 1961:92.
40. Ming shi-lu, Shizong (Wade, NUS database], juan 193:8ab, 195:1a-2a; MSL, vol 80, pp 4115/17;
41. Ming shi-lu, Shizong (Wade, NUS database], juan 197:2b-3a; MSL, vol 80, pp 4156/57;
42. Ming shi-lu, Yingzong, (Wade, NUS
database), juan 199:2a-3a; ĐVSK. BKTB, XVI:3ab, 4a-5b, 6a, Lâu et Long
(2009), 3:149, 150-51, 152; CMCB, XXVII:31-33; (Hà Nội: 1998),
II:113-115; LTHCLC, 46: Bang Giao Chí, (1997), 3:203;
44. Ming Shi-lu, Shizong (Wade, NUS data
base), juan 210:5b; 221:16a- 17a [14/3/1539]; 227:8a-9a [8/9/1359],
MSL, vol 80, p 4344, vol 81, pp 4593/95, 4719/21 (Tên Trấn Nam Quan xuất
hiện lần đầu trong chỉ thị của Mao Bá Ôn gửi Nguyễn Văn Thái [Ruan
Wen-tai] ngày 26/4/1538; Jiajing 221:1b-7a; nhưng chỉ ghi trong sử Việt
từ 1540; ĐVSK, BKTT, XVI:3ab (Lâu et Long (2009), 3:149).
45. ĐVSK. BKTB, XVI:3ab, 4a-5b, 6a, Lâu et Long (2009), 3:149, 150- 51, 152; CMCB, XXVII:31-33; (Hà Nội: 1998), II:113-15)
46. Mingshi-lu, Taizong, (Wade, NUS,
database) juan 63 (2ab), 64 (1a, 2a), 65 (1b-2a, 3ab), 66 (4ab), 79
(2a), 82 (6b-7a) .; MSL, vol 11, pp 0916/17; entry 17/4/1407]. Học giả
thế giới đã sử dụng các tài liệu này từ thập niên 1970 và 1980, như chi
tiết “hơn 1100 kỳ lão” hay “hơn 9,000 hiền tài” làm quan cho xâm lược
Minh]; [Mac Thuy and 1100 gentry came to Zhang Fu’s camp and told him
that the Tran family have all killed by “the Le thief.” There was no
heir left to inherit the throne. Please revert Annam as a prefecture
like before so that we can gradually eradicate barbarian culture and
forever immerse in Saintly culture”]; John K Whitmore, “Chiao Chih and
Neo-Confucianism: The Ming Attempt to Transform Vietnam;” Ming Studies,
No 14 (1977), p 52 Ming shi-lu, Taizong, vol 66, p 0917]; & Idem.,
Vietnam, Ho Qui Ly and the Ming (1371-1421), New Haven: Yale Univ
Southeast Asia Studies, 1987); Keith W Taylor, The Birth of Viet Nam
(Berkeley, CA: Univ of California Press, 1983), Xem thêm, Truong Buu
Lam, “Intervention versus Tribute in Sino-Vietnam Relations, 1788-1790;”
in John King Fairbank, (ed) The Chinese World Order: Traditional
Chinese Foreign Relations (Cambridge, Mass: Harvard Univ Press, 1968),
pp 165-179, 321-26 [notes] [sử dụng Đại Thanh Lịch Triều Thực Lục
(Tokyo: 1937-1938), 1315:7ab [có lẽ là ngày lịch ta, 21/10 Mậu Thân, tức
16/11/1788].
48. Ming Shi-lu, Shizong (Wade, NUS data
base), juan 36:2a-3a [11/5/1540], 238:9a-b [31/7/1540]; MSL, vol 81, pp
4815/17, 4849/50.
49. Ming Shi-lu, Shizong (Wade, NUS data base), juan 241:4b [20/10/1540]; MSL, vol 81, p 4880.
50. Ming shi-lu , Shizong (Wade, NUS
database), q 248:1b-5a; 249:2b- 3a ; MSL,vol 82, pp 4966/73 [trả lại hai
đô Như Tích [Ru Xi] và Chiêm Lăng [Tie Lang], cùng bốn động Tê Phù [To
Fu], Kim Lặc, Cổ Sâm [Sum], Liễu Cát]; ĐNNTC, q. XVIII: Quảng Yên,
(1997), 4:8-9. LTHCLC, 46: Bang Giao Chí, 3:203; ÐVSK, BKTB, XVI:2b, 3b,
Lâu et Long (2009), 3:148-149, Giu (1967), 3:132-33; CMCB, XXVII:32-33;
(Hà Nội: 1998), II:115-16). Minh sử (q.32) [Thông sử của Lê Quí Ðôn
thiếu đoạn này;
Thông sử, Long (1978), tr 272 [truyện
Mạc Ðăng Dung không dịch hay tự kiểm duyệt] (Hậu Lê sử chép là 1 châu, 6
động (thêm hai động Yên Lãng và La Phù; nhưng. Khâm Châu Chí ghi một
[1] châu, bốn [4] động. Vương Tương nhà Minh lấy sông Đàm Lân làm ranh
giới Kim Lặc; sông Mang Khê làm ranh giới Liễu Cát; ngã ba sông làm ranh
giới Tư Lẫm [Tư Phù]; sông Cổ Sâm làm ranh giới Cổ Sâm]). 42. Ming
shi-lu, Shizong (Wade, NUS database],juan ;
51. ĐVSK, BKTB, XVIII :40b, Long & Lâu (2009), 3 :292 [291-292] ; CMCB, XXXII :3-4 (Hà Nội : 1998), II :257-258.
[Tháng 5 Đinh Hợi [3/6- 1/7/1647], Quế
vương phong Lê Thần Tông (1619-1643, TTH 1643-1648, 1648-1662) làm ANQV.
Chấm dứt tình trạng An Nam Đô sứ ti. “Trẫm nghĩ cột đồng nhà Hán dựng
lên, cõi nam yên vui.”]
Tháng 10 Tân Mão [13/11-12/12/1651]: Quế
vương phong Trịnh Thanh Vương làm An Nam Phó Quốc Vương ; ĐVSK, BKTT,
Lâu & Long (2009), 3:294; CMCB, XXXII :18 (Hà Nội : 1998), II
:261-262;
5/2/1647: Đinh Hợi, Quế vương bỏ chạy ra
Quế Lâm; đổi niên hiệu Vĩnh Lịch. ĐVSK, BKTT, Lâu & Long (2009),
3:291; 1651 : Quế vương ở Nam Ninh. Xin nhà Lê tiếp viện
52. ĐVSK, BKTB, XIX:16ab, Lâu & Long
(2009), 3:332; CMCB, XXXIII:21 (Hà Nội : 1998), II :317. Năm Vĩnh Trị
10 [tháng 10 Kỷ Tị, 1689], Khang Hy trả lại châu Lộc Bình Na Oa. Năm
1723, hay Ung Chính 1, [đời Ải Tân Giác La Dẫn Chân (Thanh Thế Tông,
1723-1735), Tổng đốc Quảng Tây chỉ thị cho thổ quan châu Tư Lăng Vi Thế
Hoa trả cho Vi Phúc Kiêm, thổ quan châu Lộc Bình, 400 lạng bạc. (ĐNNTC,
(1997), 4:366-367. Sử Nguyễn ghi là 4,000 lạng bạc; CMCB, XXXIV:23-24;
(Hà Nội: 1998), II:360-362)
53. Xem, chẳng hạn, Chính Đạo, “Trụ Đồng
Mã Viện: Sự Đàn Hồi Của Biên Giới Đế Quốc Trung Hoa;” Hợp Lưu Magazine
(Fountain Valley, CA), số 110 (Tháng 6-7/2010), tr 5-36; tu chỉnh năm
2014]; Vũ Ngự Chiêu & Hoàng Đỗ Vũ, “Hai Bà Trưng: Một Gương Sáng
Ngàn Đời;” hopluu.net; minhtrietviet.net; & vietnamvanhien.net.
54. Như Thuần: Nhật trung ư đầu, ảnh tại
kỳ hạ, cố hựu danh tỉ ảnh; CMTB, II:5b, 6a; (Sài Gòn: 1967), 2:160-63;
(Hà Nội: 1998), I:110. Cũng có tin huyện Tượng Lâm, Nhật Nam, được Ma
Yuan [Mã Viện] lập ra sau khi đả bại cuộc nổi dạy của hai bà Trưng
(40-43). ĐVSKTB, The (1997), tr78.
55. TKCS, ch 36, Mão, (2004), tr.
364-65; ĐVSK, NKTT, III, Giu (1967), 1:99-100, 320n22; CMTB, II:6a; (Sài
Gòn 1967), 2:162-63; 246-49; (Hà Nội: 1998), I:110. [Theo Trương Bửu
Lâm, Từ Hải chép rằng tác giả Ngũ Sùng Diệu, không phải Âu Đại Nhâm.
(Ibid., II:47,chú 1)]. [ĐVSKTB ghi vào đời Tấn Minh Đế] Đến đời nhà Minh
(1368-1644), Ngũ Sùng Diệu [Âu Đại Nhâm?] tác giả Lĩnh Nam di thư còn
nhắc lại sự cố trên.
56. TKCS, ch 36, Mão (2004) tr 364, 373.
Xem thêm lời chú của Ngô Sĩ Liên trong Dư Địa Chí, số 54: bóng thước đo
ngày 5/5 âm lịch tại Giao Châu là 3 tấc, 3 phân về phía nam; vì đường
thẳng từ Đại La tới Kim Lăng chỉ có 60 lí [sic]; NTTT, 1976:246
57. ĐVSK, BKTT, VI:20a, 22ab, VII:17a, Lâu (2009), 2:111, 113, 157, Giu (1967), 2:162, 168-170, 178.
58. ĐVSK, BKTT, VIII:17ab, 18ab, Lâu (2009), 2:224-225; Giu (1967), 2:175 ; CMCB, XI:11-13 (Hà Nội: 1998), I:681-683;.
59. ĐVSK, BKTT, VIII:39b-40a, Lâu
(2009), 2: 252; Giu (1967), 2:211 [ghi là Hồ Tùng]; ĐVSKTB, The (1997),
tr 509-510 ghi là tháng 12 năm Canh Thìn [16/12/1400-14/1/1401]; CMCB,
XI:37-38; (Hà Nội: 1998), I:708- 9.
60. ĐVSK, BKTT, VIII: 40b-42b, Lâu (2009), 2: 253-256; Giu (1967), 2:212-213; CMCB, XII:1 (Hà Nội: 1998), I: 711-715.
61. ĐVSK, BKTT, VIII :44ab, 47b-48a, Lâu
(2009), 2:258, 262; Giu (1967), 2:219 ; CMCB, XI:42, 43, XII:1, 3-4 (Hà
Nội: 1998), I:712-13, 715, 717-18 [9 thuyền nhà Minh can thiệp năm
1403, sứ đoàn dâng voi năm 1404] ; ĐVSKTB, BK IX:36ab, The (1997), tr
518;: Ming shi-lu, Taizong, (Wade, NUS database), juan [68]:1a-3b;
53. Ming Shi-lu, Taizong, (Wade, NUS data base), juan 33:10b-11b; MSL, vol 10, pp 594/96.
(Phần sau do tác giả đánh số thứ tự nhầm lẫn, ai muốn tra cứu xin xem tại link gốc )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét