Cristophoro Borri
Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị dịch, chú thích
LỜI GIỚI THIỆU
Vào đầu thế kỷ 17, nghĩa là trước đây
gần 400 năm, đã có một người Ý tới Đàng Trong. Trong gần năm năm trời,
ông đã xem xét và nhận định về đất nước và con người Việt Nam. Rồi vào
năm 1621-1622 ông đã viết một bản tường trình rất lạc quan, rất trìu
mến.
Không phải chỉ mới trong mấy chục năm nay,
người ta mới biết nước Việt Nam là một rừng vàng biển bạc. Trong bản
tường trình, tác giả đã nói tới đất đai phì nhiêu, tới rừng vàng có
nhiều cây quý như lim, như trầm hương, kì nam, hai thứ sau này được bán
ra nước ngoài. Người Nhật mua về làm gối, người Malaixia buôn về làm củi
hỏa thiêu theo tôn giáo của họ. Còn về biển thì biết bao thứ cá đủ
loại, nhất là ở một miền ven biển, có rất nhiều thứ chim người ta lấy tổ
làm thức ăn rất quý, và đó cũng là một món xuất khẩu rất được trọng,
một món ăn của bậc đế vương. Tác giả đã đề cập tới món ăn quốc hồn quốc
tuý là nước mắm. Ông so sánh: người Việt Nam dự trữ nước mắm trong nhà
như thể người châu Au dự trữ rượu trong hầm lạnh để dùng cho cả năm.
Đất đai Việt Nam sinh sản ra thứ lúa mỗi
năm ba mùa, đủ và dư cho người dân dùng. Người ta còn trồng dâu chăn
tằm và tơ lụa thì vô cùng dồi dào đến nỗi những người lao động khuân đất
làm đồng cũng mặc toàn đồ tơ lụa. Thứ này còn bán qua các nước lân cận,
sang cho tới Tây Tạng. Ông cũng không quên những cách sinh sống riêng
của chúng ta như tục uống trà, tục ăn trầu. Ông nói: người có một vườn
cau thì không khác ở Châu Au, người ta có được vài ba nương cây ô liu.
Về các gia súc và dã thú ông kể khá
nhiều, nhưng đặc biệt ông tả con tê giác và cách đi săn tê giác. Ông rất
có cảm tình với voi: chính ông đã tiếp xúc với quản tượng, chính ông đã
nhiều lần được cưỡi voi trong những quãng đường rừng, đường mé biển.
Ông cũng biết một con voi người ta gọi tên nó là Nhơn.
Về các cây ăn trái, ông cũng khá tinh
tường, đặc biệt ông thích thú được dùng trái sầu riêng mà ông coi như
một món ăn tráng miệng vào bậc sang nhất Châu Au. Ông nói tới với một
xác tín và yêu mến. Ông còn biết mấy món ăn khá đặc biệt, thí dụ ngoài
món ăn yến đế vương, còn có món tim gan tê giác, món tắc kỳ nướng trên
than hồng, những món mà ông chỉ nhìn chứ không dám động tới.
Về văn hóa phong tục, tuy không đồng ý
về nhiều điểm, ông nhận thấy có rất nhiều điều tích cực có thể làm cho
người Việt Nam dễ dàng tin theo Kitô giáo. Ông coi Khổng Tử như một nhà
hiền triết trứ danh Hy Lạp, Aristote. Cũng vậy, ông đề cập tới nhiều
giáo lý uyên thâm của Phật tổ và cũng coi Đức Phật như một Aristote bên
phương Đông. Tựu trung ông cho rằng người Việt Nam có hai tin tưởng căn
bản này: tin có một thượng đế thưởng phạt và tin linh hồn bất tử.
Về con người Việt Nam, ông nhận thấy họ
hiền lành, hiếu khách. Họ còn có lòng quảng đại: không bao giờ họ từ
chối người đã cất lời xin họ. Bao giờ họ cũng lịch thiệp và hòa nhã.
Về học thuật, người Việt Nam cũng có
nhiều trường dạy học. Họ chuyên chú học sách thánh hiền. Tuy họ không có
trường đào luyện y khoa và dược khoa, nhưng họ có những lương y rất
thời danh, có những lá thuốc rất hiệu nghiệm. Chính ông đã có cơ hội nhờ
tay khéo léo các thầy thuốc Đông y chữa cho lành mạnh.
Về chính thể và võ bị thì tác giả nói là
người Việt Nam không như người Trung Hoa quá chuyên chú về ngành văn,
cũng không giống người Nhật hiếu võ: tuỳ trường hợp, tuỳ hoàn cảnh mà
chúng ta trọng lúc thì võ khi thì văn. Ông cũng nói về lực lượng của
chúa Đàng Trong lúc đó, sự việc một công chúa Việt Nam kết hôn cùng vua
Campuchia, và dĩ nhiên sự bang giao thân thiện giữa hai nước làng giềng,
việc gửi phái đoàn ngoại giao tới nước bạn.
Chúng tôi không nói hết những thích thú
khi đọc bản tường trình này, những thích thú mà từ gần bốn thế kỷ nay,
các độc giả đều cảm nhận, nhận thấy. Nhưng có vài ba nét đặc biệt nơi
tác giả làm cho chúng tôi rất yêu mến con người đó. Thứ nhất, ông nói về
tục đi chân không của người Việt Nam, và nếu có đi giày thì cũng chỉ là
một thứ dép có quai rất thô sơ. Vì không ai biết đóng giày như ở Châu
Au nên ông đành phải đi chân không trên đường cát sỏi cũng như bùn lầy.
Thế rồi cũng quen đi đến nỗi khi trở về Macao hay Châu Au ông thấy khó
chịu phải đút chân vào ống giày. Không còn là một thích thú, trái lại
còn là một cái gì lòng thòng vướng víu. Thứ hai, có nhiều người ngoại
quốc tới Việt Nam và rất khổ sở vì thiếu bánh mì. Đàng này ông cũng làm
quen với cơm, cho tới khi trở về Châu Au, ông thấy thiếu thốn và khổ sở
vì thiếu cơm. Thứ ba, khi trở về Châu Au ông đã đem theo một cây gọi là
cây đại hoàng để làm giống, nhưng vì thay đổi khí hậu, nên lúc về tới
nơi thì nó đã biến chất và không thể cho ông thí nghiệm như lòng ông
mong mỏi.
Mấy điều trên đây tỏ ra tính tình ông rất
dễ thương và ông rất dễ chinh phục được lòng người. Cũng phải nói là vì
có chút vốn liếng khoa học, nhất là về thiên văn học, nên ông đã nổi
tiếng từ nơi nhà chúa Đàng Trong lúc đó cho tới các bậc cận thần, từ
chúa Sãi cho tới hoàng tử Kỳ, từ các nho gia cho tới các vị sãi.
Một việc nữa phải nhắc qua ở đây là ông
đã cố gắng học tiếng Việt, tuy không thạo lắm, nhưng ông cũng hiểu biết
đủ để giảng giáo lý Kitô. Có một vài câu chữ quốc ngữ trong bản tường
thuật của ông cho chúng ta biết: ngay từ những năm 1618-1620 đã có một
khởi đầu hình thành thứ chữ này. Cái đặc biệt ở nơi ông, cái làm cho
khác với De Rhodes sau này, đó là ông đã phiên âm tiếng Việt theo chữ
viết của người Ý, chứ không phải người Bồ. Rõ ràng ông phiên âm và viết
gn chứ không nh như nho (trái nho) ông viết là gnoo, nhỏ (trẻ nhỏ) ông
viết là gno. Cũng vậy xin ông viết scin, bởi vì theo tiếng ý nếu viết
cin thì đọc uốn lưỡi còn nếu viết sc thì đọc cũng như x.
Về bản thân ông, người ta được biết, ông
sinh tại Milan (Ý) năm 1583, nhưng không rõ vào tháng nào ngày nào.
Trong cuốn tường trình, ông viết: Tôi tới xứ Đàng Trong vào chính ngày
tôi sinh ra ở trần gian này và suýt nữa là ngày tôi bỏ về trời. Nhưng là
ngày nào tháng nào thì ông không nói.
Vào Dòng Tên năm 1601, Ông qua An năm
1615 và tới Đàng Trong, cải trang làm bồi tàu năm 1618. Ông ở đó cho tới
năm 1622 thì về Macao.
Ở Bồ, ông giảng dạy tại Đại học Coimbra
về môn thiên văn và toán học. Ông lại sành về ngành hàng hải và viết một
cuốn sách về nghệ thuật đi biển bằng tiếng Bồ. Ông cũng viết chưa xong
cuốn “Chỉ dẫn hành trình đi An”. Nhưng cuốn sách làm sôi nổi dư luận là
cuốn: Luận về ba tầng trời: khí, hành tinh, thiên khung. Thế là ông bị
gọi về Roma. Ông bất mãn với Dòng Tên và xin ra khỏi Dòng năm 1632 để
vào Dòng Bernadins de Sainte Croix. Nhưng sau ba tháng, ông lại xin bỏ
Dòng này để vào Dòng Citeaux. Nhưng sau mấy tuần ông bị Dòng này trục
xuất. Vì thế ông làm đơn kiện. Kết quả là ông được kiện, nhưng khi ông
đi đưa tin cho một giáo chủ bạn thân của ông, thì ông bị nạn. Người ta
đem ông về nhà và ông đã tắt thở khi được đem lên giường ngày hôm sau.
Đó là ngày 24 tháng 5 năm 1632 lúc ông không thuộc Dòng Tên, cũng không
thuộc Dòng nào, cũng không ở tu viện nào, mà lại ở nhà một người thân.
Ông mất đi, nhưng tác phẩm về Xứ Đàng
Trong còn truyền tụng cho tới ngày nay và được độc giả nhiệt liệt hoan
nghênh. Viết bằng tiếng Ý và ấn hành năm 1631, cuốn này đã được dịch
sang tiếng Pháp, tiếng Latinh, tiếng Hà Lan, tiếng Đức, tiếng Anh vào
những năm 1631-1633. Sau ba thế kỷ, ông Bonifacy năm 1931 dịch lại sang
tiếng Pháp và cho in ở tạp chí Đô thành Hiếu cổ Huế tháng 7-12 năm 1931.
Hồng Nhuệ – Nguyễn Khắc Xuyên và Nguyễn Nghị
Chương 1: VỀ QUỐC HIỆU, VỊ TRÍ VÀ DIỆN TÍCH CỦA XỨ NÀY
Xứ Đàng Trong 1 được người Bồ gọi như
vậy nhưng trong tiếng bản xứ là Annam 2 có nghĩa là miền Tây. Đối với
nước Tàu, xứ này thực sự nằm ở phía Tây. Nhưng người Nhật gọi xứ này là
Cochi 3, trong tiếng bản xứ của họ, cũng có nghĩa là Annam trong tiếng
Đàng Trong. Nhưng người Bồ đã vào nước Annam để buôn bán, họ dùng tiếng
Nhật Coci và tiếng Tàu Cina mà làm thành tiếng thứ ba là Cocincina để
chỉ xứ này, chủ ý phân biệt Cocin cạnh Cina với tỉnh Cocin thuộc An Độ,
do người Bồ chiếm đóng. Còn trong các bản đồ thế giới thì xứ Đàng Trong
thường được ghi là Cauchinchine hay Cauchine hay tương tự, ấy chỉ là vì
do ghi sai hoặc vì tác giả làm bản đồ muốn cho người ta biết xứ này như
là cửa vào và là khởi đầu của Trung Quốc.
Xứ này, về hướng Nam, giáp vĩ tuyến 11
4, về hướng Bắc, xế về Đông Bắc, giáp xứ Đàng Ngoài, về hướng Đông, có
biển Đông và về hướng Tây, xế về Tây Bắc, giáp nước Lào.
Còn về diện tích thì tôi chỉ nói về Đàng
Trong vốn là một phần của đại vương quốc Đàng Ngoài, trước kia thuộc về
ông cố của chúa đương thời 5 cai trị Đàng Trong, người đã chống lại
chính vua nước Đàng Ngoài. Cho tới nay người Bồ chỉ buôn bán với xứ này
và các cha Dòng chúng tôi cũng chỉ hoạt động ở xứ này để thiết lập đạo
Kitô.
Xứ Đàng Trong trải dài hơn một trăm dặm
theo bờ biển, ở vĩ tuyến 11, cho tới khoảng vĩ tuyến 17 6, chỗ bắt đầu
quốc gia của chúa Đàng Ngoài. Bề rộng không lớn lắm, chỉ chừng hai mươi
dặm Ý, đất bằng, một bên là biển và một bên là dãy núi chạy dài có Kẻ
Mọi ở 7, tên gọi này có nghĩa là man di. Mặc dầu họ là người Đàng Trong,
nhưng họ không nhìn nhận chúa cũng không thần phục ngài. Họ đóng đô và
chiếm giữ miền núi rất hiểm trở.
Xứ Đàng Trong chia thành năm tỉnh. Tỉnh thứ
nhất là nơi chúa ở ngay sát xứ Đàng Ngoài gọi là Thuận Hóa. Tỉnh thứ
hai là Cacciam 8, nơi hoàng tử làm trấn thủ. Tỉnh thứ ba là Quamguia 9.
Thứ tư là Quingnim 10, người Bồ đặt tên là Pulucambis và tỉnh thứ năm là
Renran 11.
Chú thích (1) Chúng ta đang ở thời kỳ Nam Bắc phân tranh, chúa Trịnh ở Bắc và chúa Nguyễn ở Nam. (2) An Nam, miền Nam được bình định, chứ không phải miền Tây như Borri nói. Lý Anh Tôn được nhà Tống tôn làm An Nam quốc vương. Đó là năm Giáp Thân 1164. (3) Có thể gốc là Giao Chỉ. Thực ra chữ Cocincina được nhận để phân biệt với tỉnh Cochin ở An Độ. (4) Về ngành hàng hải, người Bồ và người Tây rất thành thạo. Người Hà Lan cũng đã giỏi về thuật đi biển và người ta đã bắt đầu vẽ bản đồ thế giới với những vĩ tuyến, đường xích đạo. Vào thế kỷ 15, 16 trung tâm địa dư là ở Roma. (5) Lúc ngày Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) làm chúa ở Đàng Trong tục gọi là chúa Sãi. Như vậy ông cố tức là Nguyễn Kim thân sinh của Nguyễn Hoàng. Nguyễn Hoàng (1600-1613), tục gọi là chúa Tiên. (6) Kỳ lạ thay, Hiệp định Genève đã coi vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời giữa hai miền Nam-Bắc (1954). (7) Dãy núi Trường Sơn. Chữ “Mọi” đối với ta vẫn còn nghĩa hèn kém (ở đây chỉ dân tộc ít người) (8) Quảng Nam (9) Quảng Ngãi (10) Quy Nhơn (11) Theo bản đồ 1651: 1. Quảng Bình (Dinh Công); 2. Thuận Hóa (Dinh Cả); 3. Quảng Nam (Dinh Chiêm); 4. Quảng Ngãi; 5. Quy Nhơn (Nước Mặn, Nước Ngọt); 6. Phú Yên (Ranran, Dinh Phó An)
Chương 2: VỀ KHÍ HẬU VÀ ĐẶC TÍNH LÃNH THỔ ĐÀNG TRONG
Như đã nói ở trên, xứ này ở vào giữa vĩ
tuyến 11 và 17, do đó, nóng chứ không lạnh. Tuy vậy xứ này lại không
nóng như An Độ, mặc dầu cũng vĩ tuyến như nhau và thuộc về miền nhiệt
đới như nhau. Lý do sự khác biệt này là ở An Độ không phân rõ bốn mùa.
Mùa hạ kéo dài tới chín tháng liên tục. Trong thời gian đó, không thấy
có một chút mây trên trời, ngày cũng như đêm, thành thử không khí luôn
luôn bị thiêu đốt bởi ánh nắng mặt trời. Ba tháng còn lại được kể là mùa
đông, không phải vì thiếu nóng, mà là vì mưa liên tục, thường là cả
ngày lẫn đêm trong mùa này. Nói theo kiểu bình thường thì mưa liên tục
như thế hẳn phải làm không khí mát dịu. Tuy nhiên, vì mưa vào tháng năm,
tháng sáu, tháng bảy, lúc mặt trời ở điểm cao nhất, ở tột đỉnh của An
Độ và lại không hề có ngọn gió nào khác ngoài những ngọn gió thật nóng,
nên không khí rất ngột ngạt, làm cho nhiệt độ khó chịu hơn là vào chính
giữa mùa hạ vì lúc này thường có gió nhẹ thổi từ biển vào đem khí mát
cho nội địa. Nếu không có sự an bài đặc biệt, thì không sao ở được trong
những xứ sở này.
Ở Đàng Trong thì không thế bởi vì có đủ
bốn mùa trong năm, tuy không rõ ràng như ở Châu Au vốn có khí hậu ôn hòa
hơn. Mùa hạ gồm ba tháng sáu, bảy, và tám, cũng rất nóng vì ở vào miền
nhiệt đới và mặt trời trong những tháng đó cũng ở điểm cao nhất trên đầu
chúng ta. Nhưng vào tháng chín, mười và mười một thuộc mùa thu thì hết
nóng và khí hậu dịu bởi có mưa liên tục, nhất là ở miền núi Kẻ Mọi. Do
đó nước lũ làm ngập khắp xứ, đổ ra biển, như thể đất liền và biển chỉ
còn là một. Cứ mười lăm hôm lại xảy ra một trận lụt và mỗi lần kéo dài
ba ngày. Ích lợi của nước lũ là không những nó làm cho không khí mát mẻ,
mà còn đem phù sa làm cho đất phì nhiêu và dồi dào về mọi sự, nhất là
về lúa là thức ăn tốt nhất trời ban và là lương thực chung cho khắp xứ.
Còn vào ba tháng mùa đông – tháng chạp, tháng giêng và tháng hai thì có
gió bắc thổi, đem mưa đủ lạnh để phân biệt mùa đông với các mùa khác
trong năm. Sau cùng vào các tháng ba, tư và năm, hiện rõ các hiệu quả
của một mùa xuân thú vị, tất cả đều xanh tươi và nở hoa.
Nhân tiện nói về lụt, tôi xin kể thêm ở chương này một vài sự kỳ lạ người ta gặp thấy trong dịp này.
Trước hết mọi người ở đây đều mong nước
lũ, không những để được mát mẻ và dễ chịu, mà còn để cho đồng ruộng được
mầu mỡ. Thế nên khi thấy mùa nước tới, họ để lộ hẳn sự vui mừng và
thích thú: họ thăm hỏi nhau, chúc mừng nhau, ôm nhau hò hét vui vẻ và
nhắc đi nhắc lại “đã đến lụt, đã đến lụt” 1 có nghĩa là nước đã tới,
nước đã tới rồi. Nói tóm lại là không ai là không bày tỏ niềm vui, từ kẻ
thế gia đến chúa cũng vậy.
Nhưng thường thì nước lũ tới bất thần,
không ai ngờ, ban chiều chưa ai nghĩ tới, nhưng sáng ra nước đã kéo vào
tư bề, và người ta bị nhốt trong nhà, tình trạng này diễn ra khắp xứ. Do
đọ họ thường mất hết gia súc vì không kịp đưa chúng chạy lên núi hay
những nơi cao hơn.
Vào trường hợp này, có một luật kì lạ ở
xứ này là bò, dê, lợn và các vật khác bị chết đuối thì không còn thuộc
về chủ, nhưng đương nhiên thuộc về người thứ nhất vớt được. Đây cũng là
một điều làm cho người ta vui thích một cách lạ lùng: vừa có lụt, mọi
người đều nhảy xuống thuyền bơi đi tìm vớt gia súc chết đuối, để rồi làm
thịt và dọn cỗ linh đình.
Còn trẻ con thì tuỳ theo tuổi, chúng để mắt
và vui thú rình trên cánh đồng lúa mênh mông đầy rẫy chuột lớn, chuột
bé, vì hang ngập nước nên chúng phải ngoi ra, bò lên cây để thoát, thành
thử thật là rất vui mắt khi được nhìn thấy những cảnh cây nặng trĩu
những chuột thay vì lá hay quả. Từng đám trẻ con trên các chiếc thuyền
nhỏ của chúng tới rung cây làm các con vật này rớt xuống nước và chết
đuối. Trò đùa nghịch và giải trí của trẻ con, nhưng thực ra có ích lợi
lớn cho đồng ruộng vì thoát được những con vật gây thiệt hại nặng cho
những cánh đồng rộng lớn.
Cái lợi cuối cùng, không phải là nhỏ, đó
là người ta đều có thể sắm sửa cho đủ mọi thứ cần dùng. Vì trong ba
ngày này, nước lụt làm cho người ta có thể đi lại khắp nơi bằng thuyền
một cách rất dễ dàng đến độ không có gì mà không chuyển được từ nơi này
qua nơi khác. Do đó, người ta dành thời gian này để họp chợ, những phiên
chợ có tiếng nhất trong xứ, số người đến họp chợ trong dịp này đông hơn
bất kỳ buổi họp chợ nào khác trong năm. Cũng trong ba ngày này, người
ta đi lấy cây để thổi nấu và dựng nhà. Họ chất cây từ trên núi vào
thuyền và dễ dàng bơi qua các nẻo, các ngõ và tới tận nhà vốn được cất
trên các hàng cột khá cao để cho nước ra vào tự do. Ai cũng leo lên sàn
cao nhất và phải khen họ vì không bao giờ lụt bén tới bởi họ đã lấy kích
thước chính xác, do kinh nghiệm lâu năm, của mực nước cao thấp, do đó
họ không sợ vì họ biết chắc là nước luôn ở phía dưới nhà họ.
Chú thích(1) Buzomi tới Đàng Trong năm 1615, de Pina tới năm 1617 và Borri với Marquez tới năm 1618. Cha De Pina rất thông thạo tiếng Việt và là thầy dạy De Rhodes sau này.
Chương 3: ĐẤT ĐAI PHÌ NHIÊU
Người ta dễ dàng nhận thấy là nước lụt
đã làm cho đất đai ở xứ Đàng Trong phì nhiêu, như chúng tôi vừa nói. Tuy
nhiên, tôi thấy còn phải kể nhiều sự đặc biệt khác nữa.
Nước lụt làm cho đất mầu mỡ và phì nhiêu
nên mỗi năm có ba vụ lúa 1, đầy đủ và dồi dào đến nỗi không ai phải lam
lũ vất vả để sinh sống, ai cũng sung túc.
Quanh năm có rất nhiều và có đủ thứ trái
cây như ở An Độ, vì xứ Đàng Trong có cùng khí hậu như ở An. Nhưng đặc
biệt là cam ở Đàng Trong trái lớn hơn ở Châu Au to và rất ngọt. Vỏ rất
dể bóc, mềm và ngon, cam có thể ăn được cả vỏ lẫn ruột và có mùi vị thơm
như trái chanh 2 ở Ý. Ở đây người ta cũng thấy một số trái khác người
Bồ gọi là chuối, người khác gọi là vả An Độ. Theo ý tôi thì không xác
đáng vì ở An không có cây nào được gọi là vả, và cây ở Đàng Trong không
có gì giống cây vả của chúng ta, về thân cây cũng như về trái. Về thân
cây thì nó giống như cây chúng ta gọi là “lúa mì Thổ Nhĩ Kỳ” tuy cao lớn
hơn, là rất dài và rất to bản, đến độ chỉ cần hai lá cũng đủ để có thể
che một người từ chân đến đỉnh đầu và bao quanh cả người. Do đó mà có
người muốn gọi cây này là “cây vườn địa đàng” và Ađam đã lấy lá của nó
để che giấu sự trần truồng của mình 3. Cây này trổ ngay trên ngọn một
buồng gồm hai mươi, ba mươi hay bốn mươi trái cột chặt với nhau, mỗi
trái về hình thù, bề dài và độ lớn, đều giống trái chanh thông thường ở
Ý. Khi trái chưa hoàn toàn chín thì vỏ xanh và sau đó trở nên vàng giống
hệt như chanh. Không cần dùng dao để bổ hay gọt vỏ, người ta lột vỏ rất
dễ dàng như bóc đâu mới hái. Mùi thì rất thơm, ruột vàng và khá cứng
chắc như một trái lê bergam chín muồi của ta, dễ tan trong miệng. Do đó
không thể nói là nó giống cây vả của chúng ta được, trừ vị thơm ngon và
dịu ngọt. Cũng còn một thứ trái khác thuộc loại này, người ta sấy và
ngâm rượu 4.
Hàng năm, sau khi cây có trái, sẽ héo đi
và một nhánh con trổ ở gốc để cho năm sau. Ở Ý chúng ta gọi là cây vả
An Độ, nhưng thực ra không có gì giống về cây cũng như về trái chuối
này. Bây giờ chúng tôi nói tới cây (chúng ta gọi là cây vả An Độ, nhưng
không phải là cây người ta thấy ở những miền này).
Trái này có rất nhiều ở hầu hết các tỉnh
An Độ, nhưng ở Đàng Trong còn một thứ không thấy ở Trung Quốc cũng như ở
khắp An Độ. Trái nó to, như trái chanh lớn nhất ở Ý và to đến nỗi chỉ
căn một trái cũng đủ no. Ruột thì trắng và có rất nhiều hạt nhỏ đen và
tròn, người ta nhai lẫn với ruột. Các hạt này có vị thơm ngon và rất tốt
cho dạ dày.
Ở Đàng Trong cũng còn một loại trái cây
nữa, tôi không thấy có ở An Độ, người ta gọi là cam 5. Về hình thù và
chất vỏ, nó giống như lựu của ta, nhưng ruột bên trong hơi lỏng phải
dùng thìa để múc và có vị thơm và có màu gần giống trái sơn trà chín.
Họ cũng có thứ giống như trái anh đào của ta, nhưng mùi vị thì lại như trái nho theo tiếng họ gọi là gnoo.
Họ không thiếu dưa, nhưng không ngon
bằng dưa của ta, nên phải ăn với đường hay mật. Dưa gang hay dưa nước,
như nhiều người gọi, rất to và rất tuyệt.
Có một trái gọi là mít. Trái này cũng có
ở An Độ, nhưng không ngon bằng trái ở Đàng Trong. Trái mọc ở trên một
cây cao như cây hồ đào và cây dẻ của ta, nhưng gai thì dài hơn nhiều.
Trái to như trái bí ngô lớn ở Ý và chỉ cần một trái cũng đủ cho một
người vác. Bề ngoài nó có hình thù của một nón thông, nhưng ruột thì dịu
và mềm. Bên trong thì đầy những múi vàng có hột dẹp và tròn như đồng
tiền ở Ý hay đồng “teston” (ở Pháp). Ở giữa mỗi múi có hạt 6 người ta bỏ
đi không ăn. Có hai loại7, một loại người Bồ gọi là “giaca barca”, dóc
hột, ruột cứng. Loại thứ hai không dóc hột và ruột không cứng bằng, rất
mềm và nát như keo. Mùi vị của cả hai loại này rất ngon gọi là sầu riêng
chúng tôi sẽ nói sau đây.
Trái “durion” (sầu riêng) là một trong
những trái ngon nhất hoàn cầu, không thấy có ở đâu trừ ở Malacca, Bornéô
và mấy đảo xung quanh. Không có gì để nói giữa cây này và cây mít. Bên
ngoài, trái này cũng giống trái mít và trái thông của ta, cả về kích
thước cũng như độ cứng của vỏ. Còn thịt thì bám vào hột như keo, rất
trắng, còn mùi vị thì giống như món đông hạnh nhân của người Ý 8. Thịt
và nước ngọt của nó được chứa trong mười hay mười hai ngăn nhỏ, mỗi ngăn
có nhiều múi thịt trắng bọc quanh hột, to bằng hạt dẻ lớn nhất của ta.
Khi mở ra thì xông mùi khó chịu như mùi hành thối, nhưng ở trong thì
không có mùi và lại rất thơm ngon. Tôi kể ở đây một câu chuyện xảy ra
trước mắt tôi. Số là có một người muốn cho một giáo sĩ cao cấp mới tới
Malacca thưởng thức trái này và không báo trước. Ông mở một trái ngay
trước mặt vị giáo chủ. Mùi khá nặng và khó chịu xông ra làm cho giáo chủ
ghê sợ và nản không dùng được. Nhưng lúc ngồi vào bàn tiệc, trong các
món ăn có một món chỉ toàn là trái cây có mùi vị thơm giống món đông
hạnh nhân làm cho giáo chủ dễ lầm cũng như bất cứ ai chưa được biết
trước. Ông vừa đưa tay lấy một miếng thứ nhất và nếm thì thấy rất ngon
làm ông bỡ ngỡ và hỏi xem người đầu bếp nào khéo dọn món đông hạnh nhân
ngon đến thế. Chủ nhà mỉm cười trả lời là chẳng có hỏa đầu quân nào
ngoài Thiên Chúa cao cả đã cho xứ này một trái hiếm gọi là sầu riêng mà
lúc đầu ông đã ghê sợ. Nghe tới đây vị giáo chủ sửng sốt và hết lời ca
ngợi, ông dùng rất ngon miệng. Thế nhưng trái này ngon đến độ ngay ở
Malacca là nơi sản sinh, nhiều khi giá lên tới một đồng “êcu” một trái.
Xứ Đàng Trong còn có một loại trái khác
người Bồ gọi là dứa. Và tôi biết trái này cũng rất thông thường ở khắp
An Độ và ở Brésil. Tuy nhiên, vì tôi thấy người ta tả không đúng theo ý
tôi lắm, nên tôi nghĩ là phải nói một chút. Trái này không trổ trên cây,
cũng không do hạt giống, nhưng do rễ như thể cây atisô của ta. Thân và
lá hoàn toàn giống như cây các đông và atisô của ta. Trái hình tròn dài
bằng chín ngón tay 9 và to như thể lấy hai vốc tay ôm vừa. Ruột ở trong
thì dày như ruột cải củ, nhưng vỏ thì cứng hơn và sờm như vây cá. Khi
chín bên trong vàng và sau khi lấy dao gọt vỏ thì ăn sống. Trái có vị
chua dịu và khi chín thì thơm ngon như trái lê “bergam”.
Ở xứ Đàng Trong còn một trái khác đặc
biệt của xứ này người Bồ gọi là “aerca” (cau). Cây nó mọc thẳng như cây
dừa, rỗng ở trong và chỉ đâm lá ở chóp đỉnh, lá tựa như lá dừa: ở giữa
các tàu lá, nảy các ngành nhỏ có trái. Trái có hình thù và kích thước
của trái hồ đào 10, sắc xanh cũng như vỏ hồ đào, còn ruột thì trắng và
cứng như trái dẻ 11 chẳng có mùi vị gì hết. Trái này không ăn một mình,
nhưng ăn với lá trầu không, thứ cây rất thông dụng ở khắp An Độ, lá như
lá thường xuân 12 ở Châu Au và thân bám vào cây chống như giống cây
thường xuân. Người ta hái lá cắt thành từng miếng nhỏ và trong mỗi miếng
để một miếng cau, như vậy mỗi trái có thể làm thành bốn hay năm miếng.
Người ta còn thêm vôi với cau. Vôi ở xứ này không làm bằng đá như ở Châu
Au, nhưng bằng vỏ sò hến 13. Vì trong nhà thường có những người chuyên
lo việc bếp núc, chợ búa và các việc khác, nên ở Đàng Trong mỗi nhà đều
có một người không có việc gì khác hơn là việc têm trầu, những người
dùng vào việc này thường là đàn bà, nên gọi là các bà têm trầu. Những
miếng trầu đã têm sẵn thì để vào trong hộp và suốt ngày người ta nhai
trầu, không những khi ở trong nhà mà cả khi đi lại trong phố chợ, cả lúc
nói, ở mọi nơi, mọi lúc. Và sau khi đã nhai trầu lâu và nghiền trong
miệng người ta không nuốt mà nhả ra, chỉ giữ hương vị và phẩm chất tăng
thêm sức mạnh cho dạ dày một cách kỳ lạ. Trái này được têm thành miếng
rất thông dụng đến nỗi khi tới thăm ai, người ta đem theo một túi đầy
trầu và mời người mình tới thăm, người chủ nhà lấy một miếng cho ngay
vào miệng. Trước khi người khách từ biệt ra về, chủ nhà sai người têm
trầu của nhà mình đem ra một túi để mời người khách đến thăm mình, như
để đáp lại sự lịch thiệp mình đã nhận được. Do đó vì cần phải có sẵn coi
trầu cau và có liên tục, nên cau cũng là một nguồn lợi lớn ở xứ này, có
vườn cau thì cũng như ở xứ chúng ta có ruộng nho và ruộng ôliu. Họ cũng
hút thuốc lá, nhưng thuốc lá không thông dụng bằng trầu cau. Cũng có
đầy đủ các loại mướp và có cả mía nữa. Các trái cây ở Châu Au thì cho
tới nay chưa được đưa tới xứ Đàng Trong. Tôi tin rằng nho và vả sẽ mọc
được ở đây, những thứ rau như rau diếp, rau diếp xoắn, sú và những thứ
rau tương tự hiện có ở Đàng Trong như ở khắp An Độ, nhưng chúng chỉ ra
lá mà không có hạt và nếu muốn gieo thì phải đem hạt từ Châu Au qua.
Thịt thà thì rất nhiều ở đây vì có vô số
súc vật bốn chân nuôi trong nhà như bò, dê, lợn, trâu và các giống
tương tự, và thú rừng như hươu nai to lớn hơn ở Châu Au, lợn rừng và mấy
loại khác. Gia cầm như gà nhà và gà rừng rất nhiều ở thôn quê, chim
gáy, chim bồ câu, vịt, ngỗng, sếu, thịt thơm ngon và sau cùng là mấy thứ
khác ở Châu Au không có.
Ngành ngư nghiệp cũng rất thịnh vượng và cá
ở đây có hương vị tuyệt diệu và rất đặc biệt, tôi đã qua nhiều đại
dương, đã đi nhiều nước, nhưng tôi cho rằng không nơi nào có thể so sánh
được với xứ Đàng Trong. Và như tôi đã viết, xứ này chạy dọc bờ biển,
nên có rất nhiều thuyền đánh cá và rất nhiều thuyền tải cá đi khắp xứ,
từng đoàn người chuyển cá từ biển tới tận miền núi, có thể nói trong một
ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ thì ít ra họ dùng tới hai mươi tiếng để
làm việc này. Thực ra người Đàng Trong ăn cá nhiều hơn ăn thịt. Họ
chuyên chú đánh cá chủ yếu là vì họ rất ham thứ nước “sốt” 14 gọi là
balaciam 15 làm bằng cá ướp muối cho mềm và làm nhão ra trong nước. Đây
là một thứ nước cốt cay cay tựa như mù tạt (moutarde) của ta, nhà nào
cũng dự trữ một lượng lớn đựng đầy trong chum, vại như tại nhiều nơi ở
Châu Au, người ta dự trữ rượu. Thứ nước cá này dùng một mình thì không
nuốt được nhưng được dùng để gợi nên hương vị và kích thích tì vị để ăn
cơm vốn nhạt nhẽo và không có mùi vị nếu không có thứ nước đó. Vì cơm là
thức ăn chung và thông thường của xứ Đàng Trong, nên cần phải có rất
nhiều balaciam (nếu không thì không có mùi vị) và do đó phải có một
lượng lớn nước mắm và cũng do đó phải liên tục đánh cá. Cũng không ít
sò, hến và các hải sản khác, nhất là một thứ họ gọi là cameron 16.
Nhưng ngoài tất cả những gì đã nói,
Thiên Chúa quan phòng còn dành cho họ một thức ăn hiếm và ngon, theo
thiển ý tôi, chỉ có thể so sánh được với manna 17 Thiên Chúa dùng để
nuôi dân riêng của Người trong sa mạc và thức ăn này rất đặc biệt chỉ có
ở xứ Đàng Trong chứ không đâu có. Những điều tôi sẽ nói thì không phải
bởi tôi đã nghe hay theo người khác kể lại, nhưng chính tôi có kinh
nghiệm, tôi đã thấy và thường được ăn. Ở xứ này có một thứ chim be bé
giống như chim én, nó làm tổ 18 ở các cồn đá và hốc đá sóng biển vỗ vào.
Con vật nhỏ này dùng mỏ lấy bọt biển và với chất toát ra từ dạ dày,
trộn cả hai thứ lại làm thành một thứ tôi không biết là bùn hay nhựa để
làm tổ. Tổ này khi đã khô cứng thì trong suốt và có sắc vừa vàng vừa
xanh. Dân xứ này nhặt những tổ đó về ngâm trong nước cho mềm và tan rã,
rồi dùng làm đồ gia vị trộn với thịt, các thứ thịt, cá, rau, hoặc thứ
nào khác làm cho các món ăn có một hương vị khác nhau tuỳ món như thể đã
sẵn cho hồ tiêu, quế, đinh hương hay các thứ gia vị khác, như vậy chỉ
một tổ yến mà có thể làm gia vị cho hết các thứ thịt, không cần thêm
muối, dầu, mỡ hay thứ gì tương tự. Vì thế tôi nói, nó giống như manna,
có hương vị của hầu hết các món thơm ngon nhất, chỉ khác, một đàng là do
công trình của một con chim bé nhỏ và một đàng là do tay các thiên thần
của Thượng Đế nhào nặn. Thứ này nhiều đến nỗi chính tôi đã thấy người
ta chất đầy mười chiếc thuyền nhỏ những tổ yến nhặc ở dọc các hốc núi
đá, trong khoảng chưa đầy nửa dặm. Và đây là món rất ngon, nên chỉ có
chúa độc quyền sử dụng, người ta dành tất cả cho ngài và ngài đem một số
lớn cống vua Tàu là người rất chuộng.
Dân ở đây không dùng sữa, họ cho là
trọng tội nếu vắt sữa bò, họ sợ nếu làm việc đó là mang tội, vì theo
thiên nhiên thì sữa dành để nó nuôi con. Như thể bò nuôi con mà không
được sử dụng thứ lương thực dành riêng cho con.
Họ còn ăn mấy thứ chúng ta rất sợ và
chúng ta coi như độc, thí dụ con tắc kè, con vật này nhỉnh hơn những con
đã phơi khô nhập cảng từ ngoại quốc và thường đem về Ý. Tôi đã thấy
người bạn tôi mua mấy con, buộc lại thành bó và đem nướng trên than
hồng. Giây buộc đứt và chúng bò lê thê theo kiểu của chúng trên than
hồng cho tới lúc thấy sức nóng thì chúng chống đỡ một chút vì lúc này
rất lạnh, nhưng cuối cùng chúng bị thiêu và nướng chín. Thế là ông bạn
tôi lôi ra, lấy dao lóc lớp da đã cháy, thịt nó rất trắng, ông bạn tôi
nghiền thịt ra và trộn với một thứ “nước sốt” đem đun chín rồi bỏ bơ vào
ăn như một thứ thịt rất thơm ngon. Ông mời tôi, nhưng tôi không dùng,
chỉ nhìn theo mà thôi.
Còn về tất cả những gì thuộc đời sống
hằng ngày, xứ Đàng Trong cũng rất đầy đủ. Thứ nhất là áo mặc, họ có rất
nhiều tơ lụa đến nỗi dân lao động và người nghèo cũng dùng hàng ngày. Vì
thế đã hơn một lần tôi rất thích thú khi thấy đàn ông, đàn bà khuân vác
đá, đất, vôi và những vật liệu tương tự mà không hề cẩn thận giữ cho áo
đạp và quý họ mặc khỏi rách hay bẩn. Điều này không có gì lạ, nếu biết
rằng có những cây dâu cao lớn người ta hái lá để nuôi tằm được trồng
trong những thửa ruộng rộng lớn như cây gai ở bên ta, và mọc lên rất
chóng. Thế nên chỉ trong một ít tháng là tằm được đưa ra nuôi ngoài khí
trời và đồng thời nhả tơ, làm thành những cái kén nhỏ với số lượng rất
nhiều và dư thừa đến nỗi người Đàng Trong đủ dùng riêng cho mình mà còn
bán cho Nhật Bản và gửi sang nước Lào để rồi đưa sang Tây Tạng 19. Thứ
lụa này tuy không thanh và mịn nhưng bền và chắc hơn lụa Tàu.
Nhà cửa và đền đài, mặc dầu chỉ bằng gỗ,
nhưng không thua kém bất cứ nước nào, bởi vì không nói quá chút nào, gỗ
ở xứ này là gỗ quý nhất hoàn cầu, theo nhận xét của những người ở các
nơi đó. Trong vô số cây và vô số loại cây ở đây, có hai thứ thường được
dùng để làm nhà cửa và là thứ không bao giờ hư mặc dầu bị ngâm trong
nước hay vùi trong bùn, và rất chắc, rất nặng đến nỗi không bao giờ nổi
trên mặt nước và dùng làm neo tàu. Một thứ là gỗ đen, nhưng không phải
đen như mun, loại thứ hai có mầu đỏ hung. Cả hai sau khi được lóc vỏ thì
nhẵn và trơn không cần phải bào. Các cây đó gọi là Tin 20 và rất có thể
người đó không lầm khi nói rằng thứ gỗ không bao giờ hư đó là gỗ chính
vua Salomon đã dùng để dựng Đền thánh và chúng ta được biết qua Kinh
Thánh rằng thứ cây này được gọi bằng một cái tên rất gần với tên này,
ligna thying 21. Núi xứ Đàng Trong mọc đầy loại cây này, thẳng tắp và
cao ngất nghểu, như thể ngọn chạm tới mây và lớn bằng hai người ôm.
Người Đàng Trong dùng gỗ này để dựng nhà và ai nấy đều có thể lên núi
chặt tuỳ thích. Tất cả kiến trúc nhà đều dựa vào hàng cột cao, chắc và
đóng rất sâu, rồi lắp ván, nhưng người ta có thể tháo gỡ ra và thay thế
bằng phên liếp, bằng tre, sậy đan rất tài tình để thông khí trong mùa
nóng bức và một phần nào cho nước và thuyền qua lại tự do vào mùa lụt
lội như chúng tôi đã nói ở trên. Họ cũng làm rất nhiều hoa lá nhỏ xinh
và nhiều hình hài khéo léo để tô điểm trang trí nhà của họ, họ chạm trổ
và đẽo gọt gỗ ván rất công phu.
Vì chúng tôi đang nói về cây cối và
trước khi qua đề tài khác, tôi xin thêm ít điều về một loại gỗ vốn là
món hàng quý nhất có thể xuất từ xứ Đàng Trong ra các nước ngoài. Đó là
thứ gỗ nổi tiếng gọi là aquila và calamba 22; cùng loại gỗ nhưng khác về
tác dụng và sự quý chuộng người ta dành cho chúng.
Loại cây này có rất nhiều, nhất là trên
núi Kẻ Mọi, cây rất to và rất cao. Nếu gỗ cắt ở thân cây non thì là trầm
hương, có rất nhiều và ai muốn lấy bao nhiêu tuỳ thích. Nhưng khi lấy ở
gốc già thì đó là kỳ nam rất khó hiếm, vì hình như thiên nhiên cho
những cây đó mọc lên ở những ngọn núi cao nhất và hiểm trở nhất để được
thảnh thơi già cỗi đi, không ai làm hại được mình. Thỉnh thoảng có ít
cành gẫy và rời khỏi thân rơi xuống, hoặc vì khô quá hoặc vì già cỗi quá
khi người ta nhặt được thì đã mục nát và mốc thếch. Nhưng đó lại là thứ
có giá nhất và lừng danh nhất gọi là kỳ nam vượt hẳn thứ trầm hương
thông thường rất nhiều về tác dụng và về hương thơm. Trầm hương thì ai
cũng có thể bán tuỳ thích nhưng chúa giữ độc quyền mua bán kỳ nam vì
hương thơm và tác dụng đặc biệt của nó. Thực ra ở chính nơi nhặt được,
nó rất thơm, rất dịu, tôi đã muốn thử mấy miếng người ta cho tôi, tôiđem
chôn dưới đất sâu chừng hơn năm chân 23 thế mà vẫn ngửi thấy hương
thơm. Kỳ nam nhặt tại chỗ thì giá năm đồng đuca 24 một líu, nhưng ở hải
cảng xứ Đàng Trong, nơi buôn bán thì đắt hơn, nghĩa là hai trăm đuca một
líu. Nếu tìm được một tấm lớn có thể làm gối để gối đầu, còn hay làm
gối dài 25 thì người Nhật mua tới ba trăm hay bốn trăm đuca một líu. Là
vì người ta nghiệm thấy, vì sức khỏe thì nên dùng làm gối một thứ gì
cứng hơn là thứ gối làm bằng lông vừa không lành vừa hay sinh bệnh.
Thường thì họ dùng một phiến gỗ, và tuỳ theo khả năng, người ta mong có
được thứ gỗ quý nhất có thể sắm được 26. Trầm hương thì ít được trọng
hơn và giá cũng rẻ hơn kỳ nam, nhưng chỉ một tàu chở đầy trầm hương cũng
đủ cho thương gia trở nên giàu có và sung túc suốt đời. Thế nên phần
thưởng lớn nhất chúa ban cho thuyền trưởng Malacca, đó là cho phép ông
buôn trầm hương. Bởi vì người Bàlamôn và người Banian 27 ở An Độ có tục
hỏa thiêu xác người chết bằng gỗ rất thơm, nên họ cần có ngay một số
lượng lớn.
Sau cùng, xứ Đàng Trong có rất nhiều mỏ
kim khí quý và nhất là vàng. Và để hiểu biết thêm bằng vài lời những gì
đáng được kể dài dòng hơn nữa về sự giàu có của xứ này thì tôi kết thúc
chương này bằng lời của các thương gia Châu Au đã có dịp tới đây. Họ
quyết rằng xứ Đàng Trong có nhiều của cải hơn Trung Quốc mà chúng tôi
biết là rất dồi dào về mọi thứ.
Phải nói thêm ở đây chút ít về các thú
vật chúng tôi đã nói là có rất nhiều ở Đàng Trong, nhưng để khỏi nói
nhiều, tôi chỉ xin nói về voi và tê giác, nhất là ở xứ này và nhiều
chuyện kỳ lạ chưa bao giờ nghe thấy.
Chú thích (1) Ba vụ lúa: chúng tôi chưa biết rõ việc này. (2) Chanh ở Ý lớn hơn chanh của ta, màu vàng chứ không xanh như ta. (3) Theo Kinh Thánh, sau khi phạm tội ăn trái cấm, tổ tiên thấy mình trần truồng và phải lấy lá che thân. (4) Có thể là một thứ chuối “ngự” thơm và nhỏ, hay một thứ trái cây nào khác. (5) Trái nói ở trên có thể là trái ổi còn trái “cam” này có thể là trái thanh long. (6) Có thể cho trái mít cũng thuộc về loại “sầu riêng” (7) Mít mật và mít dai (8) Món hạnh nhân tán nhỏ hòa với đường, rồi để vào tủ lạnh, món ăn rất sang của người Châu Au vào thời này. (9) “Pouce” cách đo thời xưa cũng như kiểu đo gang tay hay sải. (10) Tiếng Pháp: noix (11) Tiếng Pháp: châtaignes (12) Tiếng Pháp: lierre, thứ như nho dại, lá xanh và leo trên tường (13) Thứ vôi này có màu hồng (14) Nước sốt (sauce), một thứ nước dùng riêng đằng đặc gồm nước thịt và mỡ béo để tưới vào các thức ăn khô và nhạt. (15) Nước mắm rất danh tiếng của ta (16) Chúng tôi chưa rõ đây là thứ gì (17) Thức ăn từ trời rơi xuống, có mùi vị theo sở thích người dùng. (18) Chim yến, tổ yến. “Người ta cho rằng, ban ngày chim yến đi kiếm ăn, nuốt cả con trong biển, rồi đêm đến nhả nước dãi thành những vành tròn hình xoáy ốc để xây tổ (Đỗ Tất Lợi: Những cây thuốc và vị thuốc ở Việt Nam, Hà Nội 1981, tr.945) (19) Vào thế kỷ 15, 16, 17 người Châu Au qua phương Đông nhất là Trung Quốc để buôn hồ tiêu và tơ lụa, vì thế có con đường gọi là con đường tơ lụa (route de la soie) (20) Gỗ lim (21) Chúng tôi chưa nghiên cứu xem danh từ này có nghĩa thế nào. Nếu là lim thì theo Đỗ Tất Lợi, sách dẫn, là những thứ cây mọc phổ biến của nước ta, nhất là tại những khu rừng miền Bắc và miền Trung. Còn thấy ở Lào, miền Nam Trung Quốc. Thường người ta khai thác gỗ làm nhà, làm đồ dùng. Có thể cao hơn mười thước hoặc hơn nữa (tr.361) (22) Trầm hương: kỳ nam là loại trầm hương quý nhất, xem: Đỗ Tất Lợi, sd tr.449-450. (23) Pied: chân, cách đo thời xưa, chừng 0.3407m (24) Đồng tiền này thường đúc bằng vàng vào thế kỷ 13 tại Venise (Ý) lúc đó là một cộng hòa độc lập và rất thịnh vượng. Líu: livre, tức nửa cân. (25) Gối dài là thứ gối theo suốt bề ngang của chiếc giường lớn. (26) Ở xứ nóng thường dùng gối mây hoặc gỗ, khác hẳn các xứ lạnh. (2) (27) Không rõ thuộc tôn giáo nào, còn đạo Bàlamôn là đạo chính yếu của An Độ.
Chương 4: VOI VÀ TÊ GIÁC
Rừng xứ Đàng Trong có rất nhiều voi,
nhưng người ta không sử dụng được vì chưa biết cách bắt và luyện chúng.
Vì thế phải đưa những con voi đã thuần phục và dạy dỗ từ nước láng giềng
Campuchia. Voi ở đây lớn gấp hai voi ở An Độ. Chân và vết chân nó để
lại đường kính đo được chừng nửa mét. Răng thò ra từ miệng gọi là ngà
voi thì dài tới 4.7m, đó là voi đực. Ngà của voi cái thì ngắn hơn nhiều.
Vì thế người ta dễ nhận thấy voi ở xứ Đàng Trong to lớn hơn voi người
ta vẫn dẫn đi diễu ở Châu Au tới mức nào: ngà của các con voi này chưa
được 8 tấc.
Voi sống lâu năm. Một lần tôi hỏi tuổi
một con voi tôi gặp thì người quản tượng đạp là đã sáu mươi tuổi ở
Campuchia và bốn mươi ở Đàng Trong. Vì tôi đã di chuyển nhiều lần trên
lưng voi ở xứ Đàng Trong nên tôi có thể kể lại mấy câu chuyện kỳ lạ,
nhưng có thật. Voi thường chở tới mười ba hay mười bốn người, theo cách
thức sau đây. Cũng như chúng ta thắng yên trên lưng ngựa, người ta cũng
đặt trên lưng voi một bành lớn như cỗ kiệu trong đó có bốn chỗ ngồi và
người ta buộc bằng chão sắt luồn dưới bụng voi như yên và đai ngựa. Bành
có cửa mở hai bên và có thể chứa được sáu người, ngồi làm hai hàng, mỗi
hàng ba người, một người ngồi ở đằng sau với hai người nữa, và cuối
cùng là người ngồi trên đầu voi để điều khiển và chỉ huy gọi là quản
tượng. Không phải tôi chỉ đi đường bộ theo kiểu trên đây, nhưng đã có
mấy lần tôi theo đường thuỷ, qua một nhánh biển xa đất liền chừng hơn
nửa dặm. Thật là kỳ diệu đối với người chưa bao giờ thấy, đó là chứng
kiến một khối thịt rất lớn, rất to, chở một trọng lượng lớn như thế, lội
trong nước như một chiếc thuyền có chèo đun đẩy. Thực ra nó cũng cực
lắm, phần vì phải mang một khối lớn, phần vì khó thở đến nỗi để cho bớt
nhọc và được mát mẻ, nó dùng vòi lấy nước và tung lên rất cao làm cho
người ta có cảm tưởng là một con cá voi trong lòng biển cả.
Cũng vì nó to lớn như vậy nên rất khó
cúi mình. Thế nhưng nó cần phải khom xuống để cho hành khách tiện lên
xuống. Nó không bao giờ khom nếu không có lệnh của quản tượng, và nếu
trong khi nó khom xuống mà có ai còn quá nhởn nhơ mất thời giờ, hoặc còn
chuyện vãn chào hỏi bè bạn hay làm việc nào khác, tức thì nó chồm chân
đứng lên vì không thể đợi được. Như thế mới biết nó rất khó chịu khi
phải giữ tư thế đó lâu.
Không có gì phải bỡ ngỡ khi thấy quản tượng
ra lệnh và nó thu xếp làm cho mình nó thành một thứ thang, có thể nói
được như vậy, rất tiện cho người ta leo lên bành. Để làm bậc thứ nhất,
nó đưa chân khá cao đối với đất. Nó giơ cổ chân cũng khá xa để làm bậc
thứ hai, và để làm bậc thứ ba, nó gấp đầu gối lại. Bậc thứ bốn là cái
xương ở bên hông hơi dô ra một chút, rồi nó lấy vòi đỡ bạn và đưa bạn
tới chiếc xích buộc ở bành.
Ở đây mới thấy rõ sự lầm lẫn của những
người đã nói và còn để lại bút tích rằng voi không cúi mình được, cũng
không nằm được, thế nên muốn bắt nó chỉ có cách độc nhất là cưa thân cây
nó dùng để dựa mà ngủ, bởi vì khi thân cây đổ thì nó cũng ngã theo và
cứ năm như thế không sao trỗi dậy được, nên làm mồi ngon cho người săn.
Tất cả chỉ là chuyện huyền hoặc vì thực ra khi nó ngủ, nó không bao giờ
nằm, tư thế đó không tiện cho nó và gây khó nhọc như chúng tôi đã nói.
Thế nên, nó luôn ngủ đứng, đầu luôn luôn ngoe nguẩy.
Khi có chiến tranh và trận mạc thì người
ta nhấc mui bành đi để làm thành một thứ chòi chở lính giao chiến với
nỏ, với súng và có khi với khẩu đại bác: voi không thiếu sức để chở vì
là con vật rất khoẻ, nếu không có gì khác. Chính tôi đã thấy một con
dùng vòi chuyên chở những vật rất nặng, một con khác chuyển một khẩu
súng lớn và một con nữa một mình kéo tới mười chiếc thuyền, chiếc nọ
theo sau chiếc kia, giữa đôi ngà một cách rất khéo và đưa xuống biển.
Tôi cũng thấy những con khác nhổ những cây to lớn mà không mấy vất vả
như thể chúng ta nhổ su hào hay rau diếp. Chúng cũng dễ dàng ném xuống
đất và lật đổ nhà cửa, triệt hạ từng dãy phố khi được lệnh trong trận
chiến để phá hoại quân địch và trong thời bình để không cho ngọn lửa bén
khi có hoả hoạn.
Vòi nó dài so với bề cao của thân mình,
nên không cần nghiêng hay cúi, nó dễ dàng lượm đồ vật dưới đất tuỳ ý.
Vòi này gồm nhiều bó gân kết lại và xoắn với nhau, một đàng làm cho nó
rất mềm dẻo và dễ xoay trở đưa ra khi cần để cầm những món đồ rất nhỏ,
và đàng khác làm cho nó cứng và khoẻ như chúng tôi đã nói. Toàn thân
mình nó bọc lớp da cứng và ráp, màu tro. Mỗi ngày nó thường đi được
chừng mười hai dặm. Đối với những người không quen thì sự vận chuyển của
nó gây khó chịu cũng như người chưa quen đi biển bị say sóng vì thuyền
chòng chành.
Về sự dễ bảo của voi thì tôi sẽ kể những
việc kỳ diệu hơn những chuyện người ta thường kể, để cho biết là người
nói câu này rất có lý: Elephanto belluarum nulla prudentior: trong các
con vật khổng lồ, không con nào khôn bằng voi 1 vì thấy nó thực hiện
được những việc làm cho người ta tưởng nó có trí thông minh và khôn
ngoan. Trước hết, mặc dầu quản tượng dùng một dụng cụ bằng sắt dài chừng
bốn gang tay ở đầu có móc để đánh và đâm cho voi tỉnh và chú ý tới lệnh
truyền, thế nhưng thường thường họ điều khiển và chỉ huy bằng lời nói,
đến nỗi tưởng như nó hiểu biết ngôn ngữ và có mấy con biết tới ba hay
bốn thứ tiếng rất khó tuỳ theo lãnh thổ và quốc gia trong đó nó đã sống.
Thí dụ con voi đã đưa tôi đi thì hiểu tiếng Campuchia vì gốc nó ở đó,
rồi tinh thông tiếng Đàng Trong là nơi nó tới. Ai cũng lấy làm lạ khi
thấy quản tượng trò chuyện với voi, dặn dò về hành trình và đường đi lối
bước, qua nơi nào, dừng lại và nghỉ ở đâu, và sau cùng kể chi tiết tất
cả các việc nó phải làm trong ngày.
Và voi làm phận sự mình một cách chính
xác như một người có lương tri và phán đoán có thể làm được. Đến nỗi sau
khi voi coi như đã biết nơi phải đi thì nó cứ thẳng tắp thi hành bằng
con đường ngắn nhất, không lần chần do sự tìm lối quá quen hay không bỡ
ngỡ vì gặp sông lớn, rừng già hay núi cao. Nó cho rằng nó dễ dàng vượt
qua hết, nó cứ lên đường và theo lộ trình, vượt hết mọi thứ khó khăn.
Nếu gặp sông phải qua thì nó hoặc bước sang chỗ cạn hoặc ngoi lội chỗ
nước lớn. Nếu phải qua rừng thì nó đè bẹp cành cây ngáng trở, dùng vòi
nhổ cây dọn thành con đường rộng và dễ đi, rừng rậm rạp đến đâu đi nữa
cũng có lối đi nếu thấy voi đã qua và đã mở đường. Tất cả những việc này
voi làm theo lệnh của quản tượng, một cách dễ dàng, nhanh chóng và mẫn
cán. Chỉ có một bất tiện cho con vật này và làm cho nó khổ sở, đó là khi
có gai hay vật gì tương tự đâm vào bàn chân nó vốn mềm và nhạy cảm một
cách lạ lùng, mặc dầu nó rất cẩn thận bước từng bước, khi qua nơi hiểm
trở. Có lần trong cuộc hành trình có bảy hay tám con voi đi tiếp theo
nhau, tôi nghe thấy các quản tượng mỗi người đều dặn dò voi của mình
phải thận trọng khi đặt chân vì trong một quãng đường chừng nửa dặm
chúng phải qua một bãi cát trong đó thường có gai.
Nghe thế, các con voi đều cúi đầu, mở to
mắt như khi người ta vất vả tìm một vật gì nhỏ rơi mất. Chúng bước từng
bước, rất chăm chú, trong suốt quãng đường nguy hiểm, cho tới khi nghe
báo là không còn phải sợ nữa, lúc đó chúng mới ngẩng đầu và tiếp tục
hành trình như trước. Ngày hôm sau phải đỗ lại ở một nơi không có rừng
cây nên mỗi quản tượng đều đem một bó cây tươi và khá lớn cho voi. Tôi
rất thích thú nhìn xem một con dùng vòi với lấy cây một cách khéo hơn
các con khác, rồi dùng răng bóc vỏ và ăn rất nhanh, rất ngon như chúng
ta ăn trái vả hay một trái nào khác vậy. Ngày hôm sau, tôi ngồi trò
chuyện với những hành khách khác, chừng hai mươi người. Tôi cho họ hay
về sự thích thú đặc biệt của tôi khi thấy con voi ăn cành cây một cách
ngon lành. Lúc ấy, quản tượng theo lệnh của người chủ voi lớn tiếng gọi
con voi với cái tên của nó là gnin và vì nó ở hơi xa nên nó ngẩng đầu
vểnh tai lắng nghe xem người ta muốn nói gì với nó.
Quản tượng bảo nó rằng: mi làm vui lòng
ông cha đi đường này đi, hôm qua ông đã thích thú nhìn mi ăn, bây giờ mi
cầm lấy một cây như cây hôm qua và tới trước mặt ông ta và làm như mi
đã làm. Quản tượng vừa nói dứt lời thì voi đã đến trước mặt tôi, vòi
quấn một thân cây, rồi nhìn tôi trong đám người khác, giơ cho tôi coi
rồi bóc vỏ và ăn, sau đó cúi đầu chào tôi và rút lui như thể mỉm cười,
với những dấu hiệu thích thú và mừng rỡ. Còn tôi, tôi rất ngạc nhiên
thấy ở nơi một con thú có nhiều khả năng hiểu biết và thi hành điều
người ta truyền cho nó như vậy. Thực ra nó chỉ vâng theo quản tượng hay
chủ nó mà thôi. Nó cũng không để cho người nào lạ leo lên cưỡi: nó mà
thấy thì nó sẽ quăng bành xuống đất và dùng vòi mà sát hại người ấy. Vì
thế, khi có người phải leo lên thì quản tượng lấy tai nó che mắt nó, tai
nó to và xấu xí. Khi nó không chịu nghe lệnh truyền và không nhanh nhảu
làm theo thì quản tưởng đứng hai chân trên đầu nó, đánh và trị nó rất
nặng, rất cương quyết, lấy roi quất mạnh trên trán nó. Có lần mấy người
chúng tôi cùng đi chung một voi chở chúng tôi, người quản tượng đánh nó
như chúng tôi vừa nói, mỗi lần roi quất trên nó, chúng tôi tưởng như nó
sẽ ném chúng tôi xuống đất. Thường thường người ta quất sáu bảy cái vào
giữa trán nó, và mạnh đến nỗi làm voi rùng cả mình: phải nhận là nó rất
kiên nhẫn chịu đựng.
Chỉ có một trường hợp nó không vâng theo
quản tượng và bất cứ ai, đó là khi nó bất thần động đực, vì lúc đó hình
như nó không tự kiềm chế nổi, nó không chịu ai, nó lấy vòi ném bành và
mọi người trong đó, nó giết, nó huỷ và phá vỡ tan tành. Thường thì quản
tượng biết trước qua một vài dấu hiệu. Lập tức, mọi người xuống đất,
tháo gỡ bành và để nó một mình ở một chỗ xa cho tới khi nó hết cơn. Sau
đó, như thấy mình đã gây nên xáo trộn và như tự lấy làm hổ thẹn, nó cúi
đầu chịu đánh đập như một kẻ phạm tội.
Thời xưa người ta dùng voi rất có ích
trong chinh chiến và đạo binh nào ra trận với những con vật như vậy thì
thật là đáng sợ. Nhưng từ khi người Bồ tìm được cách ném tàn lửa và đuốc
vào mũi chúng thì càng làm cho chúng gây hại hơn trước. Bởi vì chúng
không thể chịu được lửa đốt làm cay mắt nên chúng đùng đùng chạy trốn và
làm tan tác đạo binh, giết hại và phá phách tất cả những gì cản đường
chúng. Voi nhà chỉ sợ hai con thú khác là voi rừng và tê giác, nó có thể
thắng được tê giác, nhưng đối với voi rừng thì thường nó chịu thua.
Tê giác là một thú vật có một cái gì
giống bò và ngựa, nhưng lại to lớn như một con voi con. Mình nó đầy vẩy 2
như những yếm để tự che thân. Nó chỉ có một sừng ở ngay giữa trán,
thẳng tắp và có hình kim tự tháp, còn chân và móng thì như bò. Khi tôi ở
Nước Mặn một xã thuộc tỉnh Quy Nhơn, có biết một viên quan lần nọ đi
săn tê giác ở trong khu rừng gần nhà chúng tôi. Ông đem theo hơn một
trăm người, một phần đi bộ, một phần đi ngựa cùng với tám hay mười con
voi. Con tê giác ra khỏi khu rừng và một số đông địch thù, nó không
những không tỏ vẻ sợ hãi mà còn thu hết sức lực giận dữ xông tới, thế là
đạo binh phân tán làm hai cánh để cho con tê giác lọt vào giữa và chạy
tới hậu quân có viên quan đứng chờ để giết nó. Viên quan ngồi trên lưng
voi, voi cố lấy vòi chộp lấy tê giác, nhưng không sao làm nổi vì tê giác
nhảy tứ tung, cố dùng sứng để đâm voi. Viên quan biết rõ tê giác vì có
vẩy nên không dễ gì bị thương nếu chỉ đánh vào bên cạnh. Ông chờ đến lúc
nó nhảy lên và phơi bụng ra, lúc đó ông nhắm, và rất thiện nghệ, ông
ném ngọn đao đâm suốt từ bụng tới lưng, giữa tiếng hò hét vui mừng của
cả đạo quân. Không chờ đợi gì nữa họ lập tức quơ một đống củi lớn, châm
lửa đốt, trong khi vẩy con thú bị thiêu và thịt nướng chín thì họ nhảy
múa chung quanh, mỗi người tiếp theo nhau xẻo thịt đang chín dần dần và
ăn vui vẻ. Sau đó họ mổ lấy tim, gan và óc để dọn món mĩ vị đem hầu viên
quan lúc này đã lui ra xa một chút, ở một nơi khá cao, vui mừng và
thích thú nhìn xem cuộc vui. Còn tôi, tôi có mặt trong cuộc, tôi cũng có
phần và phần của tôi là móng con vật viên quan cho tôi, móng đó cũng có
những tác dụng và tính chất như móng voi, dùng làm thuốc chống ngộ độc
một cách tuyệt diệu không hơn không kém sừng kỳ lân 3
Chú thích
(1) Tiếng Latinh trong văn bản: “Elephanto belluarum nulla prudentior”
(2) Theo Đỗ Tất Lợi, sách đã dẫn: “da nhẵn
không sùi màu, biểu bì có rãnh nhỏ chia làm nhiều đĩa nhỏ nhiều cạnh. Bề
mặt thân chia làm nhiều mảnh giáp với nhau bởi nhiều nếp, nếp trước và
sau vai cũng như nếp trước đùi kéo dài qua lưng. Nếp gáy tương đối kém
phát triển. Màu da xám thẫm toàn thân” (Sd, tr.984) Thường có một sừng,
nhưng cũng có tê giác hai sừng, Sd tr.985
(3) Tiếng Pháp “La licorne”. Nhưng kỳ lân phải chăng là thú hoang đường?
Chương 5: VỀ TÍNH TÌNH, PHONG HÓA, TỤC LỆ NGƯỜI ĐÀNG TRONG, CÁCH SỐNG, CÁCH ĂN MẶC VÀ THUỐC MEN CỦA HỌ
Về màu da thì người Đàng Trong không
khác người Tàu, tất cả đều có sắc xám xanh 1, nếu là người ở ven biển,
còn những người khác từ nội địa cho tới biên giới Đàng Ngoài thì cũng
trắng như người Châu Au. Về nét mặt thì cũng giống, như người Tàu, cũng
có mũi tẹt, mắt bé. Còn về kích thước thì trung bình, tôi có ý nói, họ
không quá lùn như người Nhật, không quá cao như người Tàu. Nhưng về thân
hình vạm vỡ thì họ vượt cả hai, về can đảm thì hơn người Tàu, chỉ có
người Nhật là hơn họ về một điểm độc nhất là coi thường mạng sống trong
gian nguy và chiến trận. Người Nhật không kể chi, không sợ chết bằng bất
cứ giá nào. Người Đàng Trong dịu dàng hơn và lịch thiệp hơn khi đàm
đạo, hơn tất cả các dân phương Đông nào khác, tuy một đàng dũng cảm,
nhưng đàng khác họ lại rất dễ nổi giận. Tất cả các nước phương Đông đều
cho người Châu Au là những kẻ xa lạ và dĩ nhiên họ ghét mặt đến nỗi khi
chúng ta vào lãnh thổ họ thì tất cả đều bỏ trốn. Thế nhưng trái lại ở xứ
Đàng Trong, họ đua nhau đến gần chúng ta, trao đổi với chúng ta trăm
nghìn thứ, họ mời chúng ta dùng cơm với họ. Tóm lại họ rất xã giao, lịch
sự và thân mật đối với chúng ta. Điều này đã xảy ra với tôi và các đồng
sự của tôi, khi lần đầu tiên chúng tôi vào xứ này, người đã coi chúng
tôi như những người bạn rất thân và như thể người ta đã quen biết chúng
tôi từ lâu. Đó là một cánh cửa rất tốt đẹp mở ra cho các nhà truyền giáo
của Chúa Kitô đến rao giảng Phúc âm.
Từ tính tình rất trọng khách và cách ăn ở
giản dị đó mà họ rất đoàn kết với nhau, rất hiểu biết nhau, đối xử với
nhau rất thành thật, rất trong sáng, như thể tất cả đều là anh em với
nhau, cùng ăn uống và cùng sống chung trong một nhà, mặc dầu trước đó
chưa bao giờ họ thấy nhau, biết nhau. Họ coi là một nết rất xấu, nếu ai
ăn món gì dù rất nhỏ mịn mà không chia sẻ cho bạn, bẻ cho mỗi người một
miếng. Họ có tính quảng đại, hay bố thí cho người nghèo, họ có thói quen
không bao giờ từ chối, không cho kẻ xin bố thí. Họ nghĩ là sẽ không làm
đủ bổn phận nếu từ chối, họ coi như bị ràng buộc bởi phép công bằng. Do
đó có lần có mấy người ngoại quốc bị đắm tàu và được cứu tại một cảng
Đàng Trong. Họ không biết tiếng để xin người ta cho thức ăn để sống, họ
chỉ cần học một chữ thôi cũng đủ, đó là chữ đói, có nghĩa là tôi đói.
Bởi vì vừa nghe thấy người ngoại quốc than thở như vậy và đi qua các cửa
nhà người dân mà kêu đói, thì tất cả đều động lòng thương và cho họ ăn,
đến nỗi chỉ trong một thời gian rất ngắn, họ thu được rất nhiều thức ăn
dự trữ, đến khi chúa cấp cho họ một chiếc tàu để trở về quê quán thì
chẳng ai muốn đi vì họ quyến luyến một lãnh thổ ở đó họ gặp được những
người rộng rãi cho họ các thứ để sống mà không phải làm việc. Cuối cùng
người thuyền trưởng buộc phải vác gậy đánh đập họ, thì họ mới chịu sửa
soạn xuống tàu, đem chất trong tàu thóc gạo họ đã xin được, khi họ đi gõ
cửa các nhà và kêu đói.
Nếu người Đàng Trong nhanh nhảu và rộng
rãi hay cho, thì mặt khác họ lai hay xin những gì họ thấy. Thế nên khi
họ vừa đưa mắt nhìn thấy những vật họ cho là hiếm và lạ là họ đem lòng
thèm muốn và nói ngay xin một cái, có nghĩa là cho tôi xin cái đó. Họ
coi là rất bất lịch sự nếu người ta từ chối dù đó là vật quý và hiếm, và
chỉ có một cái mà thôi. Ai từ chối họ thì liền bị coi là người xấu. Do
đó một là nên giấu đi, hai là sẵn sàng cho người nào xin.
Một thương gia người Bồ không ưa cách cư
xử lạ lùng đó, bởi vì hễ họ trông thấy ông cầm đồ vật gì đẹp trong tay
là họ xin liền. Một hôm ông nhất quyết cũng làm thử như họ. Ông tới gần
thuyền của một người đánh cá nghèo và để tay trên một cái rổ lớn đầy cá,
ông nói bằng tiếng bản xứ xin một cái, nghĩa là cho tôi xin cái này.
Chẳng nói chẳng rằng, người thuyền chài đưa ngay cho ông rổ cá để ông
đem về. Người Bồ đem về nhà, rất sửng sốt và khen ngợi lòng quảng đại
của người Đàng Trong. Thực ra vì thương người thuyền chài nghèo khổ, nên
sau đó ông trả tiền rổ cá theo giá của nó.
Những từ ngữ về đối thoại, giao tiếp và
lịch sự thì cũng giống như từ ngữ Trung Hoa. Người dưới rất kính trọng
người trên, cũng như kẻ bằng vai đối xử với nhau, họ dùng tất cả cách
thức tỉ mỉ và những lời khen tế nhị mà chúng ta biết rõ rất riêng biệt
nơi người Trung Hoa, nhất là họ đặc biệt kính trọng người già nua tuổi
tác, bao giờ họ cũng nể người có tuổi hơn. Trong mọi việc, ở vào bất cứ
cấp bậc nào, gia thế nào, bao giờ họ cũng nhường ưu tiên cho người già
hơn. Vì thế có một lần mấy viên quan lớn tới thăm nhà chúng tôi, mặc dầu
đã được người thông dịch cho họ biết là có một cha có tuổi hơn cả,
nhưng không phải là Bề trên, thế nhưng không tài nào ngăn cản họ chào
người có tuổi đó trước hết, sau mới chào Bề trên, là người trẻ tuổi hơn.
Trong tất cả các nhà cửa người Đàng Trong, dầu nghèo nàn đến đâu đi
nữa, người ta cũng giữ ba cách ngồi. Cách thứ nhất kém hơn cả là ngồi
trên chiếu trải trên đất bằng và đó là cách ngồi của những kẻ cùng cấp
bậc. Cách thứ hai là ngồi trên những thứ giây bố hay giây da căng thẳng
có trải chiếu nhỏ và mịn hơn, dành cho người đáng kính hơn. Cách thứ ba
là trên một thứ bục 2 cao hơn đất chừng tám tấc làm thành như cái giường
và chỉ dành cho các quan và bậc chức vị bản địa hay những người lo việc
thiêng liêng, như các cha dòng chúng tôi thường được ngồi.
Vì người Đàng Trong tử tế và có tính
tình hòa nhã, nên họ rất trọng người ngoại quốc, họ để cho mỗi người tự
do sống theo đạo của mình và ăn mặc tuỳ sở thích của mình. Do đó họ khen
cách làm của người nước ngoài, phục giáo thuyết của người nước ngoài và
dễ dàng chuộng đạo giáo của người nước ngoài hơn đạo giáo của mình:
trái hẳn với người Tàu, họ chỉ khen ngợi xứ sở họ cùng cách làm và đạo
giáo của họ mà thôi.
Còn về y phục thì như chúng tôi đã nói,
tơ lụa rất thông dụng ở xứ Đàng Trong đến nỗi ai cũng mặc hàng tơ lụa.
Bây giờ chỉ nói về cách họ mặc mà thôi. Bắt đầu từ phái nữ 3, phải nhận
rằng cách mặc của họ tôi vẫn coi là giản dị hơn khắp cõi An Độ, vì họ
không để lộ một phần nào trong thân thể, ngay cả trong những mùa nóng
bức nhất. Họ mặc tới năm hay sáu váy lụa trơn, cái nọ chồng lên cái kia
và tất cả có màu sắc khác nhau. Cái thứ nhất phủ dài xuống chấm đất, họ
kéo lê rất trịnh trọng, khéo léo và uy nghiêm đến nỗi không trông thấy
đầu ngón chân. Sau đó là cái thứ hai ngắn hơn cái thứ nhất chừng bốn hay
năm đốt ngón tay, rồi tới cái thứ ba ngắn hơn cái thứ hai và cứ thế
trong số còn lại theo tỉ lệ cái nọ ngắn hơn cái kia, để cho các màu sắc
đều được phô bày trong sự khác biệt của mỗi tấm. Đó là thứ phái nữ mặc
từ thắt lưng xuống bên dưới. Còn trên thân mình thì họ khoác vắt chéo
như bàn cờ với nhiều màu sắc khác nhau, phủ lên trên tất cả một tấm voan
rất mịn và rất mỏng cho người ta nhìn qua thấy tất cả màu sặc sỡ chẳng
khác mùa xuân vui tươi và duyên dáng, nhưng cũng không kém trịnh trọng
và giản dị.
Họ để tóc xõa và rủ xuống vai, có người
để tóc dài chấm đất, càng dài càng được coi là càng đẹp. Họ đội trên đầu
một thứ mũ lớn riềm rộng che hết mặt khiến họ chỉ có thể trông xa hơn
ba hay bốn bước trước mắt họ. Thứ mũ đó cũng đan bằng lụa và kim tuyến
tuỳ theo gia thế của từng người. Phép xã giao không buộc người phụ nữ
làm gì khác khi phải chào hỏi những người mình gặp, ngoài việc cất nón
đủ để trông thấy mặt.
Đàn ông 4 thì không nai nịt, nhưng quàng
cả một tấm, rồi cũng thêm năm hay sáu áo dài và rộng. Tất cả đều bằng
lụa màu sắc khác nhau với ông tay rộng và dài như ống tay các tu sĩ Biển
Đức. Còn từ thắt lưng trở xuống thì tất cả đều sắp đặt các màu rất khéo
và rất đẹp. Thế nên khi ra phố thì họ phô trương màu sắc hài hòa, nếu
có gió nhẹ thổi từ bên trong làm tung bay thì thực ra có thể nói là
những con công xoay tròn khoe màu sắc đẹp của mình.
Họ cũng để tóc dài như đàn bà, cho xõa
tóc tới gót chân và cũng đội nón. Người có râu thì hiếm, họ không bao
giờ cắt. Về điểm này, họ làm theo người Tàu. Họ còn để móng tay dài:
người quý phái không bao giờ cắt, nhưng cứ để dài, coi đó như dấu hiệu
của sự quý phái, và để mình khác biệt với thường dân và thợ thuyền,
những người này không để dài được vì vướng tay trong khi hành nghề, tỉ
như kị mã để móng tay dài thì không sao nắm chặt dây cương trong lòng
bàn tay. Họ không thể thưởng thức cách cắt tóc ngắn và cắt móng tay của
chúng ta, họ nại lý do là thiên nhiên ban cho các thứ đó để trang trí
bản thân con người. Có lần nói chuyện về tóc, họ bác bẻ chúng ta và
không dễ gì đáp lại được lúc đầu. Họ nói, nếu Đức Chúa Cứu Thế mà các
ông khoe là các ông bắt chước hết mọi việc Người làm, nhưng chính Người
để tóc dài theo kiểu người Nagiarét, như chính các ông quả quyết và cho
chúng tôi coi hình ảnh, thì tại sao các ông không làm theo như Người. Họ
nói thêm để cho có thế lực hơn nữa là Đấng Cứu Thế còn để tóc dài, như
vậy là Người muốn cho chúng ta biết đó là cách tốt nhất. Nhưng họ cũng
hài lòng khi chúng tôi trả lời là bắt chước không phải là làm theo một
cách lố lăng.
Các văn nhân và tiến sĩ thì ăn mặc trịnh
trọng hơn, không màu mè loè loẹt. Họ choàng lên trên tất cả một áo dài
đen. Họ còn khoác một thứ khăn quấn cổ và ở cổ tay một khăn bằng lụa màu
da trời, còn đầu thì thường đội một thứ mũ kiểu như mũ giám mục. Cả đàn
ông đàn bà đều ưa cầm quạt rất giống như ở Châu Au. Họ cầm là cầm lấy
lệ thôi. Người Châu Au chúng ta khi để tang thì mặc đồ đen, còn họ dùng
màu trắng. Khi họ chào nhau, không bao giờ họ cất nón cất mũ, cho đó là
không lịch sự, cũng giống như người Tàu, họ cho đó là không phải phép
đối với người thế gia và rất vô lễ. Vì thế, để cho hợp với họ các cha
dòng chúng tôi đã thấy cần phải được đức giáo hoàng Phaolô V cho phép
dâng thánh lễ đầu đội mũ trong những miền đất này.5
Sau cùng người Đàng Trong không đi dép
cũng không đi giầy, cùng lắm thì họ chỉ mang một miếng da buộc mấy giây
lụa và khuy trên mu bàn chân như kiểu săn đan của ta để cho bàn chân
không bị đâm: Họ cho rằng đi chân không không phải là không biết cách ăn
ở, họ đi dép hay đi chân không thì chân họ vẫn lấm bẩn, họ biết lắm,
nhưng họ không ngại vì trước nhà họ bao giờ cũng có một chậu đầy nước để
rửa chân. Còn kẻ đi dép thì phải để dép ở ngoài lúc ra mới xỏ vào, vì
trong nhà không cần, họ đã trải chiếu nên họ không sợ bẩn. 6
Dân Đàng Trong rất trọng những tục lệ
của họ. Họ khinh những tục lệ của người ngoại quốc như người Tàu. Các
cha không cần thay đổi y phục, thực ra không khác cách ăn vận chung ở
khắp An Độ. Các ngài mặc áo chùng bằng sợi bông rộng gọilà elingon
thường làm màu thanh thiên và ra nơi công chúng như thế không thêm áo
dái hay áo choàng 7. Cũng không đi giầy như tục người Châu Au hay người
bản xứ: vì giầy Châu Au thì làm gì có mà đi và cũng không ai biết làm 8,
còn dép bản xứ thì không sao đi được vì rất bất tiện cho người chưa
quen, nên đau chân, bởi vì các khuy làm cho ngón chân dãn ra, ngón nọ
cách xa ngón kia, do đó, các ngài ưa đi chân không và bị đau chân hoài
nhất là trong lúc đầu, vì đất ẩm ướt, và vì chưa quen. Vẫn biết là sau
một thời gian thì theo tính tự nhiên cũng quen dần, da cứng lại đến nỗi
không có thấy khó chịu, mặc dầu phải đi trên đường có nhiều đá sỏi và
gai. Riêng tôi, tôi đã quen lắm đến nỗi khi trở về Macao, tôi không chịu
được giầy, cảm thấy chúng thật nặng nề và làm chân tôi vướng víu làm
sao. 9
Thức ăn thông thường nhất của người Đàng
Trong là cơm và thật là điều kỳ lạ: toàn lãnh thổ có rất nhiều thứ
thịt, gà, vịt, cá và trái cây đủ loại, thế mà bữa ăn ngon nhất lại là
cơm, họ xới thật nhiều cơm, ngay khi ngồi vào mâm, rồi chỉ gắp sơ sơ và
nếm náp các món thịt như để theo nghi lễ. Lương thực chính yếu của họ là
cơm như bánh mì là lương thực chính của chúng ta; họ ăn không, nghĩa là
chỉ có cơm, không cần nước sốt hay món gì khác vì sợ dần dần đâm chán.
Họ không bỏ thêm bơ hay muối hay dầu mỡ hay đường. Họ thổi cơm bằng nước
lã. Họ đổ vừa vừa nước thôi để cho cơm không dính vào nồi hay bị cháy.
Vì thế hạt cơm còn nguyên vẹn, chỉ mềm một chút và dẻo. Họ còn kinh
nghiệm thấy rằng không thêm mắm muối vào cơm, nên cơm dễ tiêu hơn. Vì
thế hầu hết các người sống ở phương Đông thường ăn mỗi ngày bốn lần và
ăn rất nhiều để cung cấp cho đủ sự cần dùng thiên nhiên đòi hỏi.
Người Đàng Trong ngồi trên đất để ăn,
chân xếp lại, trước một bàn tròn (mâm) cao ngang bụng, mâm được khắc vẽ
chạm trổ tỉ mỉ, riềm bịt bạc hay vàng tuỳ gia thế và khả năng của người
dùng. Mâm này không lớn vì theo tục lệ mỗi người một mâm riêng 10, cho
nên trong bữa tiệc có bao nhiêu khách mời thì là bấy nhiêu mâm. Khi ăn
riêng ở nhà họ cũng giữ như vậy trừ khi thỉnh thoảng vợ chồng, cha con
dùng chung một mâm. Họ không dùng dao hay xiên trong mâm, thực ra họ
không cần dao, xiên. Họ không cần dao vì họ đã thái thịt thành từng
miếng nhỏ ở trong bếp và thay vì xiên thì họ dùng những đũa nhỏ rất nhẵn
nhụi họ cầm giữa các ngón tay để gắp một cách rất khéo léo, rất sành
sỏi, nên không cần gì khác. Họ cũng không cần khăn ăn vì không hề dùng
tay, không bao giờ lấy thịt mà không dùng đũa.
Tiệc tùng cũng khá thông thường giữa lân
bang với nhau, trong đó họ dùng nhiều thứ thịt khác nhau, những thứ tôi
đã nói trước đây. Họ không cần cơm vì cho là ai cũng sẵn ở nhà mình. Và
mặc dầu người mời là người nghèo, người ta không tin ông thành thực,
nếu mỗi khách mời không có trong mâm ít nhất là một số các món ăn. Bởi
vì họ có thói quen mời tiệc tất cả bạn bè, họ hàng lân bang, nên bao giờ
bữa tiệc cũng có chừng ba mươi, bốn mươi, năm mươi người, có khi một
trăm và tới hai trăm. Có lần tôi được mời dự một đám tiệc rất linh đình
có tới gần hai, ba nghìn người. Cho nên tiệc này phải làm ở thôn quê là
nơi có chỗ rộng để bày mâm. Không ai cho là kỳ lạ khi thấy những mâm nhỏ
như chúng tôi đã nói. Trên đó bày tới cả trăm món, vả trong những dịp
này, họ có một kế hoạch rất khéo, họ đặt mâm trên một cái gác với những
thanh nứa nhiều tầng. Trên đó họ bày và chồng chất rất ngoạn mục hết các
món, gồm tất cả những thổ sản trong xứ như thịt, cá, gà vịt, thú vật
bốn cẳng, gia súc hay dã thú, với hết các thứ trái cây có thể có trong
mùa. Nếu chẳng may thiếu một thứ gì thì gia chủ bị quở trách nặng, và
người ta không coi bữa ăn đó là bữa tiệc. Chủ nhà ăn trước còn gia nhân
bậc trên thì đứng hầu, khi chủ ăn xong thì tới phiên toán gia nhân bậc
trên có đầy tớ bậc kém hơn phục dịch. Sau cùng mới đến lượt những người
đầy tớ bậc thấp này. Và để không làm phí phạm tất cả những món đầy rẫy
đó và theo tục lệ thì tất cả các món phải dùng cho hết và phải dùng cho
thoả thuê. Một mâm khác dành cho đầy tớ cấp thấp nhất: chúng ăn thuê
thỏa, còn thừa thì cho vào những túi dành riêng cho việc này và đem về
nhà cho vợ con được no nê 11. Thế là chấm dứt hết các nghi lễ ở đây.
Đàng Trong không có nho, do đó cũng
không có rượu nho, họ dùng làm rượu một thứ gạo cất có mùi vị như rượu
của ta, giống cả về màu sắc, về vị cay gắt, tinh tế và độ mạnh. Có rất
nhiều rượu đến nỗi mọi người đều uống rất thông thường tuỳ sở thích và
không hề buồn vì không có rượu nho ở những miền này. Thế nhưng, những
người khá giả thường có thói quen pha thêm một thứ rượu cất ở cây trầm
hương làm cho mùi vị có một hương thơm đặc biệt, sự pha trộn này rất
thành công.
Trong ngày họ có tục dùng một thứ nước
rất nóng, trong đó nấu một thứ rễ cỏ 12 gọi là trà, cũng là tên thứ nước
uống đó, thứ nước này rất bổ và giúp cho tan các chất xấu trong dạ dày
và làm cho dễ tiêu. Ngừơi Nhật và người Tàu cũng dùng, trừ ở Tàu, người
ta không dùng rễ mà dùng lá và ở Nhật người ta tán nhỏ, nhưng hiệu lực
thì cũng giống nhau và tất cả đều gọi là trà.
Thật là một sự không thể tin được là
người Châu Au chúng ta ở đây có rất nhiều thịt thà và dồi dào về đủ mọi
thứ, thế mà chúng ta vẫn còn đói, còn khát, không phải vì thiếu thịt mà
vì không quen với các thứ đó, bản tính không chịu nổi sự thiếu bánh mì
và rượu nho một cách đột ngột. Và tôi tin rằng người Đàng Trong cũng sẽ
cảm thấy như thế, nếu họ tới Châu Au ở đó không có cơm, mặc dầu có nhiều
thứ thịt ngon và rất dồi dào. Tôi kể ở đây một việc đã xảy đến với một
quan cai trị xứ Đàng Trong. Ông này là bạn thân của chúng tôi, chúng tôi
mời ông đến nhà chúng tôi dùng cơm và để tỏ mối thịnh tình khăng khít
của tôi đối với ông thì chúng tôi dọn nhiều món theo lối Châu Au của
chúng tôi. Ông ngồi vào bàn và thay vì như chúng tôi tưởng ông sẽ chiều ý
chúng tôi mà khen ý tốt lành của chúng tôi và cảm ơn về sự mới lạ này,
bởi vì chúng tôi đã không tiếc công, nên thử dọn cho ông hết các món
liên tiếp. Thế nhưng không có món nào ông có thể dùng được, mặc dầu ông
cố gắng tỏ ra hết sức lịch thiệp và thành tâm 13. Đến nỗi chúng tôi đành
phải đem lên những món thịt làm theo lối bản xứ. Dĩ nhiên, chúng tôi
cũng cố gắng hết sức. Lúc ấy ông mới ăn ngon lành và hài lòng, còn chúng
tôi mới thỏa dạ. Thế nên, về việc ăn uống cũng như về những gì chúng
tôi đã nói như về việc đi chân không, bản tính tự nhiên cũng cho quen
dần với nếp sống bản xứ, tập cho thành thục và làm rất đúng đến nỗi thức
ăn ban đầu trở nên kỳ dị khi dùng trở lại. Điều này chúng tôi đã nghiệm
thấy, khi tôi về từ những nước đó: bởi vì tôi không ao ước gì bằng được
ăn cơm xứ Đàng Trong mà tôi thấy dễ chịu hơn tất cả những gì ở đây
người ta đem cho tôi.
Còn về thầy thuốc và cách chữa các bệnh
nhân, tôi phải nói là có rất nhiều, người Bồ cũng như người bản xứ, và
người ta thường thấy nhiều bệnh vô danh và các thầy thuốc Châu Au không
chữa được thì đã được khám phá và được các lương y bản xứ chữa khỏi một
cách dễ dàng. Không ít lần các thầy thuốc người Bồ đã chê một bệnh nhân,
coi như xong rồi, thế nhưng bệnh nhân này sẽ được chữa lành một cách dễ
dàng nếu gọi được một lương y bản xứ.
Phương pháp của họ là thoạt vào phòng
người bệnh, họ ngồi nghỉ một lát gần giường bệnh, để cho dịu cảm xúc khi
tới đây. Rồi họ bắt mạch, rất chuyên chú và cẩn thận. Sau đó họ nói ông
hay bà mắc chứng gì và nếu là chứng nan y thì họ cũng thành thật cho
biết, tôi không có thuốc chữa bệnh này. Nếu họ đoán là bệnh nào và có
thể chữa được bằng thứ thuốc nào của họ thì họ cũn cho biết, tôi có cách
chữa ông, bà và trong bao lâu, tôi sẽ chữa ông bà khỏi bệnh. Sau đó họ
bàn về tiền thù lao cho lương y trong trường hợp khỏi bệnh. Tiền nhiều
ít tuỳ theo tính chất và sự nặng nhẹ của bệnh và có lần hai bên có hợp
đồng với nhau. Rồi chính lương y bốc thuốc, không cần tới dược sĩ, vì
thế họ không có dược sĩ, họ làm lấy và sợ lộ bí mật của các liều thuốc
họ cho, vì thê họ hết sức giấu, một phần cũng vì họ không dám tin tưởng
vào một người nào khác bốc thuốc theo đơn họ đưa ra. Nếu bệnh nhân phục
hồi sức khoẻ trong thời gian đã ấn định khi bàn về giá cả, thường diễn
ra như vậy, thì buộc phải trả tiền như hai bên đã thỏa thuận với nhau,
nhưng nếu không khỏi thì lương y mất cả công, mất cả thuốc.
Thuốc họ cho bệnh nhân uống thì không
như thuốc chúng ta, vừa khó uống lại làm yếu và làm cho bụng ươn lười,
nhưng dễ uống như canh 14 và cũng rất bổ, không cần ăn thêm món nào
khác. Vì thế họ cho bệnh nhân uống mỗi ngày mấy lần như chúng ta thỉnh
thoảng cho uống nước thịt. Các vị thuốc đó không biến đổi cơ thể, nhưng
giúp các chức năng hoạt động thông thường, làm khô kiệt những chất hư mà
không động tới người bệnh. Có một điều phải tường thuật lại ở đây vào
chương này. Số là có một người Bồ ngã bệnh cho mời lương y Châu Au tới
và lương y này sau khi đã chữa chạy ít lâu thì bỏ bệnh nhân coi như chết
không trở lại thăm nữa. Người ta liền mời thầy thuốc bản xứ, ông này
hứa chữa trong một thời gian, và căn dặn rất nghiêm khắc là trong thời
gian ông chữa bệnh, người bệnh phải kiêng đàn bà, nếu không thì cực kỳ
nguy hiểm và ông không thấy có thuốc nào trong y khoa có thể cứu thoát
cơn nguy hiểm bệnh nhân đang chịu và chỉ cần điều kiện đó thôi. Hai bên
thỏa thuận là lương y sẽ chữa khỏi trong vòng ba mươi ngày. Người bệnh
uống thuốc theo đơn lương y cho và trong một ít ngày, bệnh nhân đã khỏi,
nhưng không chịu nghe theo điều thầy thuốc đã cấm đoán rõ ràng. Thế là
lương y đến thăm và bắt mạch thì thấy có sự thay đổi. Ông biết chắc là
người bệnh đã không chịu kiêng. Lương y liền cho biết là bệnh nhân phải
chuẩn bị chết vì không còn hy vọng gì và không còn thuốc nào cứu chữa
được nữa. Nhưng bệnh nhân vẫn phải trả tiền thù lao như đã thỏa thuận
bởi vì người bệnh chết nhưng lỗi không phải tại thầy thuốc. Người ta xử
việc này và tòa ra lệnh cho bệnh nhân phải trả tiền cho lương y, sau đó
người bệnh nhắm mắt lìa đời.
Họ cũng dùng cách chích máu, nhưng họ
tiết kiệm máu hơn cách người ta làm ở Châu Au và họ không dùng kim chích
thông thường: họ có nhiều lông ngỗng, trong đó có ghép những mảnh sứ
nhỏ rất sắc và được dùng như những lưỡi cưa, có cái lớn có cái nhỏ. Và
khi phải đâm vào mạch máu thì họ lấy một trong số các lông ngỗng này,
lớn nhỏ tuỳ theo nhu cầu và lấy ngón tay ấn nhẹ lên trên, để mở mạch
máu, mũi mảnh sứ chỉ đâm đủ theo nhu cầu mà thôi. Nhưng điều kỳ diệu hơn
hết là khi đã lấy đủ máu thì họ không cần băng bó, không cần miếng gạc,
không cần buộc cột gì cả: họ liếm ngón tay cái cho có nước bọt và ấn
trên vết thương, làm cho da khép lại, máu ngừng tức thì và vết thương
lành ngay. Được vậy tôi cho là do cách thức họ mở mạch máu với mũi sứ
nhọn làm cho sạch máu bít lại và lưu thông dễ dàng.
Không nhiều nhà giải phẫu có nhiều bí
quyết kỳ diệu. Tôi không muốn đưa ra chứng cớ nào khác bằng việc họ đã
làm cho chính bản thân tôi và một bạn đồng sự của tôi. Tôi ngã từ một
nơi cao xuống và bên chỗ có dạ dày va phải một tảng đá, tức thì tôi bắt
đầu thổ ra máu và ngực tôi cũng bị đau. Thế rồi người ta cho tôi mấy
liều thuốc theo cách bên Châu Au của chúng ta, nhưng tôi chẳng thấy bớt
chút nào. Trong khi đó may có một thầy giải phẫu bản xứ tới, thầy lấy
một thứ cỏ nào đó giống như cỏ xổ 15 làm thành một thứ cao và đắp trên
dạ dày, rồi cũng sắc những thứ cỏ đó cho tôi uống, lại cho ăn sống nữa
và trong mấy ngày tôi hoàn toàn hồi phục. Để thí nghiệm lại, chính tôi
đập gãy chân một con gà mái ở nhiều chỗ, sau đó lấy cỏ xổ làm thành cao
và đắp trên những vết chân gãy, thế là sau ít ngày nó khỏi hẳn.
Một con bọ cạp đã cắn vào cổ một bạn
đồng sự của tôi và ở xứ này đây sẽ là vết tử thương. Tức thì cổ sưng vù
và khi chúng tôi chuẩn bị làm phép sức dầu thì người ta mời một thầy
giải phẫu tới. Thầy cho nấu tức khắc một thứ bột gạo, rồi đắp vào chân
người bệnh, lấy vải quấn chung quanh cho hơi và khói nóng không bay đi.
Thế là hơi bốc lên tận vết thương và người đồng sự của tôi cảm thấy bớt
đau nhức, cổ bớt sưng vù và được khỏe mạnh như thể chưa bao giờ bị đau.
Người ta còn có thể thêm nhiều thí dụ
tương tự, nhưng tôi chỉ nói rằng thuốc ở những miền này có hiệu lực hơn
thuốc ở đây (Châu Au). Và riêng tôi, tôi có thể thêm rằng tôi đã đem
theo tôi cây đại hoàng16 trong một hũ nhỏ, vốn là một thứ thuốc rất tốt.
Khi tôi về tới Châu Au sau hai năm hành trình, tôi thấy cây đại hoàng
của tôi đã biến chất khiến tôi không nhận ra nữa, nguyên chất mất hết
công dụng khi chuyển từ những xứ đó về xứ chúng ta.
Chú thích (1) Bản Pháp văn “olivâtres” xám xanh như trái ô liu. (2) Cách thứ hai: một thứ võng? Cách thứ ba: khó tưởng tượng ra được, một thứ bục. Phải tìm hiểu cách xếp đặt trong nhà vào thế kỷ 17, nhất là miền Nam lúc đó. (3) Về y phục phụ nữ, cũng khó nhận cho rõ. Trong câu ngạn ngữ thường thấy “Mớ bảy mớ ba”, có thể nghĩ như vậy. (4) Cũng thế, y phục phái nam thời đó trong địa phương đó, như đã nói, có thể có ảnh hưởng người Chàm. (5) Một trong những điều xin Tòa thánh chuẩn là dâng Thánh lễ đội mũ như cách thức người Trung Hoa, khi tế tự bao giờ cũng đội mũ. Đức Piô V (1504-1572) làm giáo hoàng 1566-1572. Là tu sĩ dòng Đaminh và làm quan toà Inquisition trước khi ngôi toà thánh Phêrô. Ngài thực thi công đồng Trente, ban hành sách Giáo lý công đồng Trente, sửa lại sách Kinh nguyện (1568) và sách Lễ (1570). Được phong hiển thánh năm 1712. (6) Theo tục người Châu Au, đi chân không là vô lễ. (7) Thời đó, bên Châu Au, linh mục ra ngoài đường phố thì khoác thêm một áo choàng. Philipphê Bỉnh có nói tới tục này trong sách “Sổ Sang chép các việc”. (8) Nhận xét rất đúng, người Việt Nam chưa biết đóng giầy như ở Châu Au. (9) Giáo sĩ quen nếp sống bản xứ: xem thêm việc ăn cơm. (10) Theo Borri thì trong khi hội họp đình đám vẫn mỗi người một mâm (11) Tục lấy phần về (12) Thường thì lá cây chứ không phải rễ. (13) Theo lịch sự, thì cho dù mình không thích nhưng cố gắng dùng và khen cái mối thịnh tình của người ta. (14) Không phải là canh, cũng không hẳn là cháo, nhưng là thứ “potage” bằng nước thịt hay nước các thứ rau nấu chín. (15) Mercurialle, theo Đỗ Tất Lợi thì có Mercurialis indica Lour (lộc mai) thuộc loại thầu dầu, không biết có phải vậy không? (16) La rhubarbe. Đỗ Tất Lợi, sd, về cây đại hoàng, tr.468. Ở Pháp người ta làm mút với thân cây này.
Chương 6: VỀ HÀNH CHÍNH VÀ DÂN CHÍNH NƠI NGƯỜI ĐÀNG TRONG
Tôi sẽ nói vắn tắt đủ để hiểu biết một
cách ngắn gọn. Bởi vì nếu tôi trình bày dài dòng quá thì tôi sẽ đi xa ý
tôi đã định cho tôi trong bản tường trình này. Nói chung thì việc hành
chính có cái gì giống như ở Nhật và ở Tàu. Thế nhưng, người Nhật trọng
nhiều về võ thuật hơn về học thuật. Trái lại người Tàu trọng nhiều về
học thuật và coi thường võ thuật. Người Đàng Trong không hoàn toàn xa
người Nhật và lại cũng gần người Tàu, nghĩa là ở giữa và cũng theo tinh
thần của dân tộc mình, vừa trọng võ vừa chuộng văn tuỳ theo cơ hội. Do
đó họ thưởng và đặt lên các chức vụ và cấp bậc trong nước, khi thì là
các tiến sĩ, lúc thì là các tướng sĩ, họ chỉ định và cắt đặt lúc thì
người này khi thì người kia tuỳ theo nhu cầu.
Xứ Đàng Trong có nhiều trường đại học1
trong đó các giảng viên và các cấp bậc được cất nhắc lên theo lối khoa
cử, cũng như ở Tàu. Họ cũng dạy các khoa, dùng những sách và tác giả như
nhau, như Khổng Tử theo kiểu nói của người Bồ. Ông là một tác giả uyên
thâm, với giáo thuyết sâu sắc và có uy tín nơi họ, cũng như nơi chúng
ta, chúng ta có Aristote2. Và thực ra ông kỳ cựu hơn. Sách của ông chứa
đầy lý lẽ bác học, nhiều chuyện lạ, nhiều châm ngôn sâu sắc, nhiều tục
ngữ và nhiều sự tương tự, tất cả đều bàn về thuần phong mỹ tục, như
chúng ta có Seneca, Caton, và Ciceron 3. Phải mất nhiều năm học mới có
thể đọc được các câu, các chữ, và các hình để viết. Cuốn sách họ chuộng
hơn cả và họ quý trọng hơn cả là cuốn bàn về triết học luân lý gồm có
đạo đức học, kinh tế học và chính trị học. Thật là thích thú khi thấy và
nghe họ học trong lớp, họ đọc và lớn tiếng xướng bài như thể ca hát. Họ
phải làm như thế để cho quen và tập cho mỗi lời một cung giọng riêng
của nó, vì có rất nhiều, mỗi lời chỉ nhiều việc, tất cả đều khác nhau.
Vì thế, để đàm thoại với họ thì cần phải biết những lý thuyết về âm nhạc
và phép đối âm.
Tiếng nói thông thường thì khác với chữ
viết họ dạy và họ đọc khi học và viết. Cũng như ở nơi chúng ta tiếng
bình dân chung cho tất cả thì khác, còn tiếng Latinh chỉ dạy trong
trường thì khác 4. Đây là điểm khác với Trung Hoa, văn nhân hay quý phái
cũng chỉ có một thứ tiếng nói gọi là quan thoại, nghĩa là tiếng các
tiến sĩ, quan tòa và quan cai trị.
Còn chữ viết như chữ in trong sách thì
có tới tám mươi ngàn chữ tất cả đều khác nhau. Vì thế các cha dòng Tên
phải mất tám và có khi mười năm để học những sách ấy trước khi trở nên
tinh thông và có thể đối đáp giao thiệp với họ. Nhưng người Đàng Trong
đã rút bớt rất nhiều, chỉ còn giữ lại chừng ba ngàn chữ họ thường dùng
để viết văn bài, thư tín, đơn từ, ký sự và những sự khác không liên quan
tới sách in, thiết yếu phải soạn bằng chữ Hán. Người Nhật còn tài giỏi
hơn, mặc dầu về sách viết và sách in, họ gắng theo người Tàu, nhưng về
các việc thường thức họ đã sáng chế ra bốn mươi tám chữ phối hợp với
nhau để diễn đạt và trình bày tất cả những gì họ muốn, không hơn không
kém gì những vần a, b, c của chúng ta.
Nhưng mặc dầu có thứ chữ này, chữ Hán
vẫn rất thông dụng ở Nhật. Bốn mươi tám chữ này tuy tiện lợn hơn để diễn
đạt tư tưởng, nhưng không được trọng bằng, đến nỗi người ta khinh chê
coi như chữ của đàn bà.
Việc phát minh tốt đẹp và tài tình về
ngành in đã được thực hiện ở Trung Hoa và Đàng Trong trước khi được biết
đến ở Châu Au, mặc dầu chưa được hoàn bị. Họ không xếp chữ nhưng dùng
cái đục hay dao mà khắc hay đục trên một tấm gỗ những hình thái chữ mà
họ muốn in trên sách. Rồi họ trải giấy trên bàn gỗ đã khắc đã gọt và cho
vào ép cũng như cách chúng ta làm ở Châu Au khi người ta in trên phiến
đồng hay vật gì tương tự.
Ngoài những sách chúng tôi đã nói là những
luận thuyết về luân lý, họ còn có những sách khác, như họ nói, giảng về
những sự thần linh như về việc sáng tạo và khởi thuỷ vũ trụ, về linh
hồn, về ma quỷ thần thánh và nhiều giáo phái khác, những sách này gọi là
sách kinh khác với những sách đời gọi là sách chữ 5. Chúng tôi sẽ nói
về lý thuyết các đạo chúa đựng trong những sách đó ở phần thứ hai bản
tường trình này, như vậy đúng chỗ của nó hơn.
Mặc dầu ngôn ngữ của người Đàng Trong
cũng giống ngôn ngữ người Trung Hoa, vì cũng như người Trung Hoa, họ chỉ
dùng những từ có một vần nhưng đọc và xướng lên với nhiều cung và giọng
khác nhau, nhưng có sự khác biệt vì tiếng Đàng Trong phong phú hơn và
dồi dào hơn về nguyên âm, vì thế dịu dàng và êm ái hơn. Họ có tài sành
âm nhạc và có khả năng phân biệt các cung giọng và các dấu khác nhau 6.
Tiếng Đàng Trong, theo tôi, là một tiếng
dễ hơn các tiếng bởi vì không có chia động từ, không có biến cách các
danh từ 7 nhưng chỉ có một tiếng hay lời nói rồi thêm vào một phó từ hay
đại từ để biết về thời quá khứ, hiện tại hay tương lai, về số ít hay số
nhiều. Tóm lại là thay thế cho tất cả những biến cách và tất cả những
thì, tất cả những ngôi cũng như những sự khác liên quan tới số và biến
cách. Thí dụ động từ avoir trong ngôn ngữ Đàng Trong có nghĩa là có, từ
này không thay đổi gì. Người ta thêm một đại từ vào là người ta có thể
thay đổi cách sử dụng và như thế chúng tôi chia động từ này như sau: tôi
có, anh có, nó có 8. Họ chỉ cần một đại từ mà không trực tiếp thay đổi
động từ. Cũng vậy, để chỉ các thì khác nhau thì họ nói, về thì hiện tại:
tôi bây giờ có, về thì quá khứ: tôi đã có; về thì vị lai: tôi hoặc sau
hoặc sẽ có. Ở cả hai thí dụ trên, từ có không bao giờ thay đổi 9.
Do đó người ta dễ thấy là ngôn ngữ này
rất dễ học, và thực ra trong sáu tháng chuyên cần, tôi đã học được đủ để
có thể nói chuyện với họ và giải tội được nữa, tuy chưa được tinh thông
lắm, vì thực ra muốn cho thật thành thạo thì phải học bốn năm trọn 10.
Nhưng để bắt đầu lại câu chuyện chính của
tôi, tôi đã nói rằng người Đàng Trong không những chỉ trọng các văn
nhân, tán thưởng trình độ học vấn uyên thâm của họ, nâng họ lên những
chức vụ cao và có thế giá, phát cho họ lương bổng hậu hĩ, mà còn rất quý
trọng những người can tràng, có giá trị và giỏi giang về võ bị. Nhưng
họ cai trị và khác chúng ta, họ không có tục lệ làm như ở Châu Au chúng
ta. Bởi vì đáng lý ra họ ban phát cho các tướng lãnh có tài có công, như
người ta thường làm nơi chúng ta, một lãnh thổ, một bá tước địa, một
thái ấp hầu tước để thưởng công họ, thì họ lại thưởng bằng cách đặt dưới
quyền người họ thưởng một số nhân đinh và một số nhân khẩu và lính hầu
nhất định của chính nhà vua 11. Những người này ở bất cứ nơi nào trong
nước đều phải nhận người được thưởng là chủ, phải phục dịch bằng binh
khí, trong tất cả mọi trường hợp người này cần tới, nộp tất cả các khoản
thuế mà cho người này như trước đó họ nộp cho chính nhà vua vậy.
Vì thế, thay vì chúng ta nói người này
là chúa cai quản một địa điểm nào, là bá tước hay vương hầu cai trị một
lãnh thổ nào thì họ lại nói người này là một nhân vật có năm trăm đinh,
người kia có một ngàn đinh, chúa cứ tăng số đinh cho người này, người
khác một ngàn, hai ngàn là tăng thêm quyền, thêm thế giá, thêm nguồn lợi
và tăng thêm của cải cho họ khi cho họ thêm lính hầu mới. Về các cuộc
chiến tranh của họ, tôi sẽ nói ở chương sau. Còn ở đây, tôi phải nói về
một việc đáng được biết, có liên quan tới dân chính. Thứ nhất họ xét xử
các sự việc rất nhanh chóng, như người ta thường làm trong quân đội và
như người ta thường nói “trong thời chiến” (more belli), chứ không kéo
dài nơi tòa án qua đường lối các quan tòa, các công chứng viên, các biện
lý với tất cả tờ bồi, thủ tục. Các vị khâm sai và các quan trấn thủ các
tỉnh làm hết các chức vụ đó. Các ông ngồi tòa mỗi ngày bốn giờ liền,
trong một cái sân đẹp và rộng, ngay giữa tư dinh của mình, hai giờ buổi
sáng và hai giờ buổi chiều.
Những ai tranh tụng thì tới đó, trình
bày khiếu nại và tố tụng. Vị khâm sai hay quan trấn thủ tự vào cửa sổ mà
nghe người này người kia lần lượt trình bày, kêu cả. Thường thì các
quan này là những người có óc phán đoán ngay thẳng, biết nghe và có kinh
nghiệm trong các vụ tố tụng. Các ngài tra hỏi hai bên một cách xác
đáng, nhất là để ý tới ý kiến của người phụ tá. Rồi hội ý với nhau, chấp
nhận cho bên nguyên hay bên bị, nên họ dễ dàng nhận ra sự thực của vụ
việc và tức thì không trì hoãn, họ lên tiếng công bố án xử và người ta
tức khắc cho thi hành không khiếu nại hay hình thức tố tụng nào khác
nữa, hoặc là án tử hình hoặc là án phát vãng hay phạt trượng, phạt tiền:
các ngài lên án phạt tội mỗi người theo hình phạt luật định.
Các trọng tội thông thường phải thú nhận
và bị phạt nặng thì rất nhiều. Nhưng người ta trừng phạt nghiêm khắc
nhất những kẻ gian dối, trộm cướp và ngoại tình. Khi hạng thứ nhất thú
nhận là đã vu cáo một người về một trọng tội mà người đó không phạm thì
sẽ bị phát rất ngặt, nghĩa là chịu hình phạt đáng lý ra người kia phải
chịu nếu thực sự đã phạm cái tội người ta tố cáo. Nếu trọng tội người ta
cáo gian đáng phải tử hình thì người cáo gian này sẽ phải xử tử. Và
thực tế cho thấy cách xử này là cách tốt nhất để biết đích xác sự thực.
Còn kẻ trộm cướp thì bị phạt chiếu theo của ăn trộm, ăn cướp, nếu chúng
lấy một của gì quan trọng thì phải chém đầu, nếu là của không đáng giá
bao nhiêu, thí dụ một con gà, thì bị chặt ngón tay nếu là lần thứ nhất,
nếu còn tái phạm thì bị chặt ngón khác, nếu bị bắt lần thứ ba thì bị cắt
tai, lần thứ tư thì bị cắt cổ.
Kẻ ngoại tình, phái nam cũng như phái nữ
bất kể, sẽ bị trừng phạt về trọng tội của họ bằng cách để cho voi giày
theo cách thức như sau. Người ta dẫn phạm nhân ra khỏi thành tới một
thửa ruộng và trước mặt rất đông người đến coi, người ta đặt thủ phạm ở
giữa, tay chân bị trói, ở ngay cạnh con voi. Rồi người ta tuyên án phạt
kẻ sắp bị xử và thi hành án xử theo từng điểm một. Trước hết voi dùng
vòi quấn, rồi nắm và ép chặt tội nhân và nâng tội nhân lên cao, đưa ra
cho mọi người trông thấy, rồi tung lên cao và đón tội nhân rớt xuống
trúng ngà. Tội nhân từ cao rớt xuống và vì nặng nên cắm sâu vào ngà, tức
thì voi hất người đó xuống đất rồi dẫm chân lên và đạp cho tan nát. Voi
làm việc này mà không bỏ sót một điểm nào làm cho mọi người có mặt sửng
sốt và sợ hãi. Vì chứng kiến hình phạt kẻ khác chịu mà mọi người phải
giữ trung thành trong đạo vợ chồng.
Không phải ngoài đề vì chúng tôi vừa
nhắc tới hôn nhân, nếu chúng tôi kể qua ở đây mấy đặc điểm riêng biệt để
kết thúc chương này. Không bao giờ thấy người Đàng Trong, tuy còn là
lương dân, lại kết hôn trong những bậc bị luật Thiên Chúa và luật tự
nhiên cấm đoán, rất ít trong bậc thứ nhất thuộc hàng ngang giữa anh chị
em họ 12. Những cấp bậc khác được phép thì ai cũng được, miễn là chỉ có
một vợ. Thực ra, những người giàu có, càng có thế giá và có của thì họ
có tục lấy nhiều vợ mọn. Họ còn cho là biển lận và keo kiệt nhựng ai
không cưới nhiều vợ khi mình có đủ tiền của để dễ dàng làm việc này.
Những vợ mọn được gọi bà hai, bà ba, bà
tư tuỳ theo thứ tự mỗi người. Tất cả đều là nàng hầu của bà vợ cả. Bà
này được trọng nể là vợ đích thực, vợ chính thức. Chính bà vợ này chọn
các nàng hầu tuỳ theo ý mình và cưới về cho chồng. Hôn nhân của họ không
bền chặt vì luật xứ Đàng Trong cho phép li dị, tuy không phải chỉ để
tuỳ ý và tuỳ thích của bên này hay bên kia. Để ly dị, điều cần thiết
phải làm trước tiên là chứng tỏ được tại sao mình xin ly dị, vì có nhiều
tội nặng tỏ tường, nếu có tội thật thì được xin ly dị và lấy người
khác. Vì chồng quản lý tài sản của vợ nên họ cũng bỏ nhà mình đến ở nhà
vợ mới. Họ được vợ nuôi, vợ lo cho hết các việc trong nhà, còn chồng ở
trong gia đình chẳng làm gì, không vất vả gì và nếu chỉ có một vài đồng
thi họ cũng bằng lòng vì được mọi sự cần dùng về ăn uống và ăn mặc.
Chú thích (1) Nhưng thực ra có hoàn toàn như Borri nói không? Ở Đàng Trong, nhà Nguyễn cũng bắt chước Đàng Ngoài mở các khoa thi. (2) Aristote nhà triết học thời danh Hy Lạp thế kỷ 4 tr.c.n. (3) Các văn sĩ Latinh, Roma; Seneca thế kỷ 1 s.c.n, Caton thế kỷ 3-2 tr.c.n, Ciceron nhà hùng biện đại tài thế kỷ 1 tr.c.n. (4) Thời đó người ta còn dùng Latinh để giảng dạy ở các trường đại học, còn tiếng mẹ đẻ thì mới manh nha. (5) Kinh là kinh điển như Tứ thư, Ngũ kinh, còn sách là sách viết thông dụng không thuộc kinh điển. (6) Hoa ngữ có năm thanh, còn Việt ngữ có sáu thanh. (7) Chia động từ: conjugaison, biến cách: déclinaison, trong La ngữ. (8) Động từ tiếng Pháp avoir (có) j’ai (tôi có), tu as (anh có), il a (nó có), nous avons (chúng tôi có), vous avez (các anh có), ils ont (chúng nó có). (9) Một động từ avoir có thể thay đổi hình dạng rất nhiều tuỳ theo khi nói về hiện tại, quá khứ, tương lai, nghi vấn, truyền khiến v.v… (10) Borri thú nhận, tuy biết tiếng Việt, nhưng chưa đủ để giảng dạy giáo lý cho chu đáo. (11) Ở Châu Au nhà vua ban bổng lộc cho công hầu bá tước bằng đất đai thuộc quyền sở hữu của họ và họ có thể truyền lại cho con cháu. Ở Việt Nam, họ chỉ được lợi tức, nghĩa là thay mặt vua thu thuế các hộ, hoặc một trăm hoặc một nghìn hay hơn nữa. Họ không có quyền để lại cho con cháu, nhà vua vẫn giữ quyền sở hữu. (12) Thường gọi là anh em thúc bá.
Chương 7: LỰC LƯỢNG CỦA CHÚA ĐÀNG TRONG
Như đã nói ở đầu bản ký sự này là Đàng
Trong trước kia là một tỉnh tách rời khỏi xứ Đàng Ngoài. Cụ cố 1 của
chúa đương thời đã vô cớ chiếm đoạt, lập nhà nước và phản nghịch cùng
chúa Đàng Ngoài. Rồi họ trở nên mạnh dạn hơn khi được cung cấp trong một
thời gian rất ngắn, nhiều thứ súng lớn tịch thu và lượm nhặt được do
tàu và thuyền chiến bị đắm trôi dạt vào bờ biển: thực ra tàu người Bồ
cũng như người Hòa Lan 2 thường đâm vào cồn đá và người bản xứ vớt được
như ngày nay có thấy.
Nguyên trong phủ chúa cũng có tới sáu
mươi cỗ và có những cỗ rất lớn. Ngừơi Đàng Trong tinh xảo và có kinh
nghiệm sử dụng, họ vượt cả người Châu Au đến nỗi họ chẳng làm gì khác mà
chỉ ngày ngày bắn đạn giả và rất lấy làm hãnh diện. Vì thế họ tự cho là
có thế lực đến nỗi vừa thấy những chiếc tàu của Châu Au chúng ta cập
bến của họ thì liền bắn súng để thách thức, nhưng người của chúng ta
biết rằng súng của họ chẳng địch lại được súng của chúng ta, nên người
của chúng ta hết sức tránh né tầm bắn. Người của chúng ta biết rằng theo
kinh nghiệm, ta có thể chắc chắn bắn vào chỗ nào ta muốn với súng của
mình, còn họ với súng hỏa mai là một thứ gậy thì không nhằm bắn trúng
được.
Điều giúp chúa rất đắc lực trong cuộc
dấy binh chống chúa Đàng Ngoài, đó là ngài có một trăm thuyền chiến và
hơn nữa, chúa rất mạnh về đường biển, như đã mạnh về đường bộ vì có súng
ống. Thế là chúa dễ dàng thi hành ý đồ và âm mưu chống chúa Đàng Ngoài
là chủ mình. Việc họ buôn bán thường xuyên với người Nhật đã đem lại cho
chúa rất nhiều đao hay gươm đao theo kiểu Nhật Bản, với nước thép rất
tốt. Trong nước còn có rất nhiều ngựa, tuy thấp bé hơn, nhưng rất tốt và
rất can đảm, dùng để cưỡi và bắn nỏ, hằng ngày không ngớt thao luyện.
Thế lực của chúa rất mạnh đến nỗi khi ngài muốn, ngài có thể cho tuyển
ngay được tám mươi ngàn quân binh chiến đấu. Với tất cả lực lượng này
ngài vẫn còn sợ chúa Đàng Ngoài vốn có lực lượng lớn hơn gấp bốn lần. Vì
thế, để có sự thỏa hiệp và giao hảo tột thì chúa nhận triều cống về
những gì vương quốc của ngài có thể có cho xứ Đàng Ngoài, nhất là vàng,
bạc, lúa gạo, cung cấp ván và gỗ để đóng thuyền chiến.
Về binh pháp và cách cai trị trong chinh
chiến thì cũng gần như ở Châu Au. Họ cũng giữ các luật lệ để huấn luyện
binh lực, đánh du kích, tấn công và rút quân.
Ngoài ra chúa còn chuẩn bị vũ khí liên
tục và mộ binh giúp vua Campuchia, cung cấp cho vua này thuyền chiến và
quân binh để cầm cự với vua Xiêm. Vì thế mà vũ khí của Đàng Trong đã
lừng danh và nổi tiếng khắp các nơi qua đường biển cũng như đường bộ.
Ngoài biển họ chiến đấu trên thuyền như đã
nói, mỗi thuyền có súng đại bác và nhiều súng musqueton. Và người ta sẽ
không lấy làm lạ khi biết chúa Đàng Trong luôn luôn có tới một trăm
thuyền chiến có đủ súng ống và nghiêm chỉnh nghênh chiến khi người ta
biết những thứ này đuợc thành lập như thế nào.
Cần phải biết rằng người Đàng Trong
không có lệ dùng những phạm nhân hay người bị án khổ sai để chèo thuyền
3. Khi họ cần người để chiến đấu trên biển hay để làm một việc gì đó thì
tức khắc họ có thể tuyển mộ ngay được đủ số theo cách thứ sau đây: Họ
ngấm ngầm phái đội trưởng và uỷ viên lúc không ai ngờ rảo khắp xứ đem
lệnh chúa bắt ngay lập tức tất cả những trai tráng có sức cầm tay chèo
và dẫn cả tới thuyền, không đếm xỉa tới con nhà sang hay người có thế
giá, bởi vì không ai được miễn. Việc này thực ra không khó khăn gì như
lúc đầu người ta tưởng, vì thứ nhất họ được đối xử tốt trong thuyền cũng
như bất cứ nơi nào khác và được trả lương cao. Hơn nữa, vợ con họ và cả
gia quyến họ đều được chúa cung cấp hết tất cả những gì họ cần, tuỳ
theo cấp bậc, thanh thế, trong suốt thời gian chồng họ vắng nhà. Và
những người này không phải chỉ được dùng để chèo mà còn chiến đấu khi
cần và họ chiến đấu rất anh dũng. Để làm việc này, người ta trao cho mỗi
người một súng hỏa mai hay musqueton với đạn, dao hay mã tấu. Người
Đàng Trong không giả đò, họ rất hăng hái và dũng cảm, với mái chèo, súng
và dao, họ can đảm tấn công và trong hỗn chiến, họ tỏ rõ lòng dũng cảm
hiếm có của họ. Thuyền chiến của họ không lớn cũng không đặc biệt rộng
như của ta, nhưng rất lẹ và được trang trí vàng bạc trông rất ngoạn mục.
Đặc biệt mũi thuyền vốn được coi là chỗ trọng vọng nhất thì toàn bằng
vàng. Đó là chỗ của thuyền trưởng và của những người có chức vị cao, và
lý do là vì người thuyền trưởng luôn luôn phải là người đầu tiên xuất
trận, thế cho nên rất hợp lý, vì mục đích đó mà ông đứng ở đằng đầu và ở
chỗ nguy hiểm nhất trong chiếc thuyền.
Trong số những vũ khí tự vệ dùng trong
trận chiến thì có những chiếc khiên nhỏ hình bầu dục, hoàn toàn rỗng,
cao, có thể dễ dàng chắn cả thân người và rất nhẹ, dễ cầm và không hề
vướng víu bận bịu chút nào. Cũng rất có ích cho việc bảo vệ thành trì ở
xứ này, đó là cách thức họ dựng nhà chỉ toàn bằng ván và trên cột gỗ như
chúng tôi đã nói. Nếu quân địch hùng mạnh kéo tới và họ không muốn
chống cự, lúc đó mỗi người đem theo nồi niêu bát đũa và trốn lên núi,
sau khi châm lửa đốt nhà và chỉ để lại không gì khác ngoài đống tro tàn.
Quân địch không thể tìm ra được thứ gì để ăn và sinh sống nên họ phải
rút quân về, và họ trở về dựng lại những căn nhà khác trong một thời
gian rất ngắn và khôi phục lại thành phố như trước.
Chú thích (1) Ông cố, chỉ Nguyễn Kim. (2) Coi Pierre Yves Manguin, Les Portugais sur les côtes du Viet Nam de du Campa EFEO, 1972. Tác giả chứng minh cụ thể là vào thế kỷ 16-17 thương gia người Bồ, Hà Lan thường đi dọc bờ biển Đàng Trong, rồi chiếu thẳng đi Macao hay Nhật Bản, ít khi lên tới Đàng Ngoài. Vì thế trong một thời gian, chưa ai để ý tới xứ Bắc. (3) Bên Châu Au người ta dùng tù binh khổ sai để chèo thuyền, vì thế nói đến galères là nói hình khổ nhục nhã, trái với Việt Nam, chèo thuyền chiến là việc của quân binh thiện nghệ.
Chương 8: VỀ THƯƠNG MẠI VÀ CÁC HẢI CẢNG Ở XỨ ĐÀNG TRONG
Xứ Đàng Trong có rất nhiều thứ thuận lợi
cho sinh hoạt con người như chúng tôi đã nói trước đây. Vì thế mà dân
xứ này không ưa và không có khuynh hướng đi đến các nơi khác để buôn
bán, cũng như không bao giờ ra khơi quá xa đến độ không còn trông thấy
bờ biển và lãnh thổ của tổ quốc yêu quý của họ 1, mặc dầu họ dễ dàng cho
người ngoại quốc vào hải cảng của họ và họ thích thú thấy người ta tới
buôn bán trong lãnh thổ của họ, không những từ những nước và tỉnh lân
cận mà từ cả những xứ rất xa. Về vấn đề này, họ không cần phải dùng
những mánh lới gì lớn, người ngoại quốc đủ bị quyến rũ bởi đất đai phì
nhiêu và thèm muốn những của cải tràn đầy trong xứ họ. Không những người
xứ Đàng Ngoài, xứ Campuchia và Phúc Kiến và mấy xứ lân cận đến buôn
bán, mà mỗi ngày người ta còn thấy các thương gia đến từ những miền đất
xa xôi như Trung Quốc, Macao, Nhật Bản, Manila và Malacca. Tất cả đều
đem bạc tới xứ Đàng Trong để đem hàng hóa xứ này về. Thực ra không phải
là mua hàng hóa mà là trao đổi với cùng một thứ bạc kể như hàng hóa, lúc
cao lúc hạ tuỳ theo có nhiều hay có ít bạc, tuỳ theo có nhiều hay ít tơ
lụa và những mặt hàng khác.
Tiền dùng để mua mọi thứ là thứ tiền
bằng đồng và tất cả đều có giá trị bằng gần một đồng “double” và năm xu
của đồng này thì bằng một “êcu”. Đồng tiền này rất tròn, có khắc con dấu
và biểu hiệu nhà vua. Mỗi đồng đều có lỗ ở giữa để xâu thành từng nghìn
đồng, mỗi chuỗi hay mỗi dây giá bằng hai “êcu”.
Người Tàu và người Nhật là những người
làm thương mại chính yếu ở xứ Đàng Trong tại một chợ phiên họp hàng năm ở
một hải cảng và kéo dài tới chừng bốn tháng. Người Nhật chở trên thuyền
của họ giá trị bằng bốn hay năm triệu bạc, còn người Tàu chở trong tàu
họ gọi là “somes” 2, rất nhiều thứ lụa mịn và nhiều hàng hóa khác của xứ
họ. Chúa thu được lợi nhuận lớn trong việc buôn bán này bằng thuế hàng
hóa và thuế hải khẩu ngài đặt ra và cả nước đều kiểm tra được rất nhiều
mối lợi không thể tả hết. Vì người Đàng Trong không có đồ kỹ nghệ và thủ
công nào, không biết kỹ thuật cơ giới, vì đất đai phì nhiêu và thổ sản
dồi dào nên họ ăn không ngồi rồi, và mặt khác họ dễ dàng chuộc những của
lạ từ các nơi khác đưa tới, nên họ rất hám và chạy theo mua cho bằng
được với bất cứ giá nào. Họ không biết tiết kiệm tiền khi sắm những thứ
thực ra chẳng đáng giá bao nhiêu, tỉ như bàn chải, kim khâu, vòng tay,
hoa tai bằng thuỷ tinh và những hàng lặt vặt. Tôi nhớ có một người Bồ
đem từ Macao tới Đàng Trong một lọ đầy kim khâu, tất cả chỉ giá hơn ba
mươi “ducat”, nhưng đã được lời tới hơn một ngàn, vì ông ta bán mỗi
chiếc một đồng “rêal” ở xứ Đàng Trong, trong khi ở Macao ông ta mua
không tới một “double”. Sau cùng họ tranh nhau mua tất cả những gì họ
thấy miễn đó là đồ mới lạ và từ xa tới, họ tiêu tiền một cách dễ dàng.
Họ ham chuộng tất cả các mặt hàng mũ nón, mũ bonnet, thắt lưng, áo sơ mi
và tất cả các loại áo của chúng ta vì rất khác các đồ vật của họ. Nhưng
họ thích san hô nhất.
Còn về hải cảng thì thật là lạ lùng, chỉ
trong khoảng hơn một trăm dặm một chút mà người ta đếm được hơn sáu
mươi cảng, tất cả đều rất thuận tiện để cập bến và lên đất liền. Là vì ở
ven bờ có rất nhiều nhánh biển lớn. Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người
ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải
cảng thuộc tỉnh Quảng Nam 3. Người ta cập bến bằng hai cửa biển: một gọi
là Turon (Đà Nẵng) và một gọi là Pulluciambello (Hội An). Các cửa biển
cách nhau chừng ba hay bốn dặm, kế đó biển chia thành hai nhánh đi sâu
vào đất liền chừng bảy hay tám dặm, làm thành như hai co sông luôn tách
rời nhau để rồi cuối cùng gặp nhau và đổ vào một con sông lớn. Tàu bè từ
hai phía tới cũng đi vào con sông này4.
Chúa Đàng Trong xưa kia cho người Nhật,
người Tàu chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một thành phố cho
tiện việc buôn bán như chúng tôi đã nói. Thành phố này gọi là Faifo (Hội
An), một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành
phố, một phố người Tàu và một phố người Nhật. Mỗi phố có khu vực riêng,
có quan cai trị riêng, và sống theo tập tục riêng. Người Tàu có luật lệ
và phong tục của người Tàu và người Nhật cũng vậy.
Hơn nữa, chúa Đàng Trong không đóng cửa
trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người
ngoại quốc, người Hà Lan cũng tới như những người khác, cùng với tàu chở
rất nhiều hàng hóa của họ. Vì thế người Bồ ở Macao mới có ý định sai
một sứ giả tới chúa để nhân danh mọi người khẩn khoản chúa trục xuất
người Hà Lan là địch thù của họ. Để làm việc này, họ dùng một thuyền
trưởng tên là Ferdinand de Costa. Ông này đã thành công, dĩ nhiên với
nhiều khó khăn. Ông đã làm cho chúa ra sắc lệnh cấm người Hà Lan tới gần
lãnh thổ ngài, nếu không nghe thì nguy tới tính mạng. Nhưng vì người Bồ
ở Macao sợ sắc lệnh đó không được tuân thủ nghiêm chỉnh, nên họ lại sai
một phái đoàn mới tới Đàng Trong, để nắm chắc lệnh cấm đó. Họ cũng căn
dặn đoàn đại biểu phải làm cho chúa hiểu là, vì ích lợi của ngài và nếu
ngài không cẩn thận thì e rằng, với thời gian người Hà Lan vốn rất khéo
léo và rất quỷ quyệt, sẽ dám xâm chiếm một phần xứ Đàng Trong như chúng
đã làm ở mấy nơi trong nước An Độ. Nhưng có mấy người am hiểu tình hình
xứ này bàn là không nên nói thế với chúa, nhưng cách thế đích thực phải
dùng là cho phép người Hà Lan tới buôn bán trong xứ và mời cả nước Hà
Lan tới nữa. Phương châm của người Đàng Trong là không bao giờ tỏ ra sợ
một nước nào trên thế giới. Thật là hoàn toàn trái ngược với vua Trung
Hoa, ông này sợ tất cả, đóng cửa không cho người ngoại quốc vào và không
cho phép buôn bán trong nước ông. Các sứ giả phải nại nhiều lý do mới
được như ý sở cầu.
Chúa Đàng Trong tỏ ra thích để cho người
Bồ đến buôn bán ở nước ngài một cách lạ lùng. Và đã mấy lần ngài cho họ
ba hay bốn địa điểm ở nơi phì nhiêu nhất và phong phú nhất trong vùng
hải cảng Đà Nẵng, để họ xây cất một thành phố, với tất cả những gì cần
thiết, cũng như người Tàu và người Nhật đã làm. Và tôi mạn phép nói lên
cảm tưởng về việc này với hoàng đế công giáo 5, tôi xin nói rằng ngài
nên ra lệnh cho người Bồ nhận lời đề nghị rất lịch thiệp chúa Đàng Trong
đã đưa ra và sớm xây cất ở đó một thành phố tốt đẹp, làm nơi an toàn và
cư trú, lại dùng để nhanh chóng bảo vệ hết các thuyền tàu đi Trung
Quốc. Cũng có thể giữ một hạm đội sẵn sàng chống lại người Hà Lan. Họ đi
Tàu hay đi Nhật, dù muốn dù không, họ bó buộc phải qua giữa eo biển nằm
trong bờ biển xứ này thuộc về các hoàng tử trấn thủ Phú Yên và Quy Nhơn
với những quần đảo Chàm.
Đó là một ít điều tôi tưởng là nên tường
thuật một cách chính xác về tình hình vật chất ở xứ Đàng Trong, theo sự
hiểu biết của tôi, trong thời gian mấy năm tôi ở đó 6 như sẽ biết nhiều
hơn trong phần thứ hai của bản tường trình này.
Chú thích (1) Trong Lịch sử Đàng Ngoài, De Rhodes nói rõ hơn tại sao người Việt Nam không thành thạo ngành hàng hải, mặc dầu có nhiều bờ biển và nhiều hải cảng tốt, xem sd. ch.16, phần 1. (2) Thuyền mành hay thuyền tam bản? (3) Hội An (4) Hội An ở phía bắc sông Thu Bồn, gần cửa sông Cửa Đại. Hàng từ sông Thu Bồn, sông Vĩnh Điện, sông Trường Giang chuyển đến cũng dễ dàng. (5) Các vua Bồ, Tây, Pháp thời đó thường xưng mình là các vua hay hoàng đế công giáo (les rois catholiques).
Chương 9: QUAN TRẤN THỦ QUY NHƠN ĐƯA CÁC CHA DÒNG ĐẾN TỈNH ÔNG CAI QUẢN VÀ CHO DỰNG MỘT TRÚ SỞ VÀ MỘT NHÀ THỜ CHO CÁC CHA
Cha Buzomi, cha De Pina và tôi, chúng
tôi bỏ Hội An để đi Quy Nhơn theo quan trấn thủ của tỉnh đó. Suốt cuộc
hành trình, ông đối đãi với chúng tôi rất lịch sự và tỏ ra hết sức tử
tế. Ông luôn luôn để chúng tôi ở cùng nhà với ông và đối xử với chúng
tôi một cách rất đặc biệt. Thực ra chúng tôi chẳng có thế giá gì về mặt
con người bắt buộc ông phải xử như thế.
Ông dành một chiếc thuyền để phục dịch
riêng cho một mình chúng tôi và các người thông ngôn, không muốn cho
chúng tôi để đồ đạc ở đó, vì đã có một thuyền khác dành riêng cho việc
này. Chúng tôi trẩy đi suốt mười hai ngày với đầy đủ tiện nghi, sáng
chiều đậu bến 1. Thường thì các hải cảng đều ở cạnh các thành phố đẹp
nhất thuộc tỉnh Quảng Nghĩa. Nơi đây ông có quyền như ở Quy Nhơn, mọi
người đều ra đón, chúc mừng và tỏ lòng quy phục ông với rất nhiều lễ vật
quý và chúng tôi cũng là những người thứ nhất được dự phần, do lệnh
quan trấn thủ vì ông muốn thế. Mọi người đều lấy làm lạ khi thấy chúng
tôi được trọng đãi và vì thế người ta quý mến chúng tôi, có thịnh tình
với chúng tôi. Và đó cũng chính là điều quan trấn thủ muốn, ông cũng
nghe theo lời chúng tôi thỉnh cầu trong rất nhiều trường hợp phải xử trị
một trọng tội nào đó. Chúng tôi chưa kịp mở miệng xin ân xá thì ông đã
bằng lòng ban ngay rồi. Do đó chúng tôi được nổi tiếng, có thế giá không
kém quan trấn thủ. Thấy chúng tôi có lòng bác ái và thương xót hết mọi
người nên mọi người đều quý mến và tìm đến chúng tôi.
Ngoài ra ông muốn trong suốt cuộc hành
trình người ta đối xử với chúng tôi như thể chúng tôi là những quan lớn,
tới đâu ông cũng cho tổ chức trò chơi và hội hè cho dân chúng, khi thì
cho đấu chiến thuyền, lúc thì cho đua thuyền, đặt giải thưởng cho thuyền
nào thắng cuộc. Không ngày nào ông không thân chinh sang thuyền chúng
tôi. Ông rất thích trao đổi với chúng tôi, nhất là khi chúng tôi nói về
sự cứu rỗi đời đời và về đức tin đạo thánh của chúng tôi. Cứ thế, rồi
chúng tôi tới tỉnh Quy Nhơn. Nhưng chúng tôi còn phải đi mấy ngày đường
nữa mới về được tới dinh quan trấn thủ. Ông muốn cho chúng tôi đi đường
bộ để được thoải mái và vui thú.
Thế là ông truyền đưa bảy cỗ voi tới,
tất cả đều đã sẵn sàng. Ông còn muốn dành cho chúng tôi cái danh dự đặc
biệt là mỗi người chúng tôi có riêng một cỗ voi, kèm theo một trăm
người, một phần đi bộ, một phần đi ngựa. Vì cuộc hành trình này chỉ là
để tiêu khiển, nên chúng tôi đi mất tám ngày, tới đâu cũng được tiếp đón
và đối xử như một ông hoàng, nhất là ở nhà một bà chị của ông, người ta
tiếp chúng tôi rất long trọng trong một bữa tiệc rất linh đình. Không
những vì có rất nhiều món khác nhau, mà còn vì có nhiều cách nấu nướng
đặc biệt và nhiều thứ thịt thà, dọn theo bếp Châu Au 2 của chúng tôi,
mặc dầu cả quan trấn thủ, cả mọi người trong nhà đều không dùng được.
Rồi sau cùng, chúng tôi tới tư dinh. Sau
tất cả những cuộc vui và cỗ bàn trong cuộc hành trình, chúng tôi được
tiếp đón một cách rất trịnh trọng và đặc biệt thường chỉ dành cho các
ông hoàng bà chúa. Tám ngày tiệc tùng liên tiếp và cỗ bàn linh đình, ông
còn để chúng tôi ngồi ngai của chúa. Chính ông, bà vợ và con cái ông
săn sóc chúng tôi, ăn chung với chúng tôi, làm cho cả dinh đều bỡ ngỡ.
Ai cũng đồng thanh quả quyết rằng người ta chỉ dành những danh dự này
cho bản thân các chúa mà thôi. Đó là cơ hội cho mấy người nói và đồn
thổi khắp xứ này rằng chúng tôi là những bậc đế vương tới xứ này để bàn
những việc rất quan trọng. Nghe lời đồn đó, quan trấn thủ rất lấy làm
hài lòng và tuyên bố trong cuộc họp chung các quan trong phủ rằng: thật
ra các cha là con vua con chúa, tức là các thiên sứ đến những vùng đất
này, không phải vì thiếu thốn hay cần thiết thứ gì, vì ở nước các cha
không thiếu gì, trái lại, mọi của cải đều dư dật, nhưng chỉ vì các cha
hăm hở sốt sắng cứu vớt các linh hồn.
Viên quan đức độ này, khi hoàn toàn còn
là lương dân, đã là người rao giảng Phúc âm. Ông làm cho mọi người nghe
ông thì đều kính phục ông, nhất là ở bất cứ nơi nào người ta cũng coi
ông là một người rất mực thông thái.
Tám ngày qua đi, chúng tôi cho ông biết
là chúng tôi thích ở trong thành để dễ bề rao giảng Phúc âm hơn, còn nếu
ở trong tư dinh thì không dễ dàng cho công việc chúng tôi, vì ở xa tỉnh
chừng một dạm rưỡi, trong miền thôn quê, theo kiểu ở đây. Quan trấn đã
vui lòng giữ chúng tôi ở lại với ông vì rất quý chuộng chúng tôi, và ông
đã buồn phiền khi phải xa chúng tôi: thế nhưng vì trọng công ích hơn tư
lợi nên ông nghe theo điều chúng tôi sở nguyện và tức khắc truyền cho
người ta chọn cho chúng tôi một địa điểm rất tiện để làm nhà cho chúng
tôi ở, trong vùng gọi là Nước Mặn. Ông còn thêm, trong tư dinh của ông
có tới hơn một trăm nhà, chúng tôi có thể chọn một nhà nào xứng đáng
nhất để làm nhà thờ và chúng tôi cứ cho ông biết thì tức khắc ông sẽ
định liệu cho đủ sự cần thiết. Chúng tôi khiêm tốn cảm tạ ông về tất cả
những ơn huệ ông đã ban cho chúng tôi trong cuộc hành trình và những
việc ông vẫn còn tiếp tục làm cho chúng tôi, và sau khi từ biệt, chúng
tôi leo lên lưng voi ngay để cùng đoàn tuỳ tùng đi tới Nước Mặn, một địa
điểm dài chừng hai dặm và rộng tới một dặm rưỡi. Ở đây chúng tôi cũng
được tiếp đãi với tất cả sự sang trọng, quan trấn đã truyền phải dành
cho chúng tôi. Nhưng vì không chịu được vắng mặt lâu hơn, ngay ngày hôm
sau, ông thân hành đến thăm chúng tôi và kiểm tra xem người ta có sửa
soạn nhà chúng tôi tươm tất và thuận tiện không. Ông còn nói với chúng
tôi rằng chúng tôi là người ngoại quốc không có nhiều tiền bạc, không có
nhiều của cải, không có đủ sự cần dùng, nên ông nhận cung cấp cho chúng
tôi mọi sự cần thiết.
Thế là ông truyền mỗi tháng người ta đem
đến cho chúng tôi một món tiền khá lớn và mỗi ngày người ta đưa tới nào
là thịt thà, cá mú, thóc gạo, không phải chỉ đủ cho chúng tôi mà còn
cho các người thông ngôn và người làm nữa. Không chỉ có thế, ngày nào
ông cũng gửi cho chúng tôi quà bánh, rất đầy đủ, không kể các đồ vật
khác để bồi dưỡng chúng tôi một cách hậu hĩ. Để tỏ lòng trọng kính chúng
tôi và tạo uy tín cho chúng tôi trước mọi người, một ngày nọ, ông mở
một phiên tòa ngay trong sân nhà chúng tôi, theo cách thức được thực
hiện ở Đàng Trong như chúng tôi đã nói. Trong phiên tòa này, ông phải xử
mấy người phạm trọng tội, mỗi người đều được xử theo tính chất của tội
phạm. Trong số các phạm nhân có hai người bị xử tử bằng vũ khí và phải
chịu hình tên bắn. Nhưng trong khi người ta trói các người này thì chúng
tôi can thiệp để xin ân xá cho họ. Ông liền tha ngay và truyền cho cởi
dây trói tức thì. Ông tuyên bố lớn tiếng là chưa bao giờ ông ban ân xá
này cho một người nào cả. Nhưng vì những vị nhân đức này, ta không thể
khước từ được.
Rồi quay về phía chúng tôi, ông giục
chúng tôi quyết định về nơi chúng tôi thấy thuận tiện để dựng một nhà
thờ. Chúng tôi liền chỉ cho ông thấy một địa điểm chúng tôi cho là rất
hợp và rất tiện để làm việc đó. Ông chấp thuận ngay, rồi ông trở về tư
dinh ở ngoài thành phố. Ba ngày sau, người ta đến cho chúng tôi biết là
nhà thờ đã được đem đến. Được tin đó chúng tôi rất vui mừng và sung
sướng, chúng tôi ra khỏi nhà, hăm hở tới coi sự lạ lùng này, chúng tôi
cũng muốn biết xem nhà thờ có thể đem đến bằng cách nào.
Chúng tôi biết là nhà thờ phải được làm
bằng ván lắp, theo họa đồ đã vẽ. Chúng tôi cũng được biết là tòa nhà này
rất lớn và rất cao, phải được đặt trên những cột cao và lớn. Tức thì
chúng tôi phát hiện ra trong cánh đồng một đạo quân trên một nghìn người
khuân vác các bộ phận của nhà thờ. Mỗi cột có ba mươi người lực lưỡng
và khoẻ mạnh nhất khênh. Còn những người khác thì vác xà, người khênh
ván, người khênh nóc, kẻ mang sàn, người khuân cái này kẻ mang cái khác.
Tất cả đều trật tự mang đến, mỗi người một bộ phận. Sân nhà chúng tôi
chật ních người. Chúng tôi niềm nở đón tiếp họ với niềm hân hoan các bạn
có thể nghĩ được là như thế nào. Chỉ có một điều làm cho chúng tôi buồn
phiền là trong nhà không có gì để ít ra cho họ ăn qua loa. Đám người
rất đông này tuy được quan trấn trả công hậu hĩ nhưng chúng tôi cũng
thấy xấu hổ và bẽ mặt nếu để họ ra đi mà không cho họ chút gì lót dạ.
Nhưng chúng tôi không phải lo lắng lâu
khi thấy mỗi người ngồi trên đồ vật người ta căn dặn phải kỹ càng giữ
lấy và khi đã sẵn sàng họ mở khăn gói ra, trong đó có tất cả dụng cụ nhà
bếp gồm có nồi, thịt, cơm và cá. Họ nhóm lửa và tự nấu nướng lấy. Không
ồn áo. Không xin xỏ gì. khi họ ăn xong thì một người chủ thầu lấy dây
đo địa điểm, đo khoảng giữa hai cột, rồi ông cho gọi người đem tới dựng
vào chỗ. Sau đó ông gọi tất cả lần lượt khuân các bộ phận khác tới và
mỗi người đem lắp xong là ra về ngay. Cứ thế, tất cả đều làm việc trong
trật tự không nhầm lẫn. Ai cũng làm đúng cách thức, và tất cả khối lớn
lao đó được dựng nội nhật trong một ngày, làm cho chúng tôi rất mực sung
sướng. Nhưng hoặc là vì người ta làm quá vội vã, hoặc là vì người lắp
đặt không cẩn thận nên ngôi nhà không đứng thẳng lắm, trái lại hơi
nghiêng một chút. Người ta kể cho quan trấn biết, thế là ông cho gọi
kiến trúc sư tới và truyền cho phải làm lại ngay, nếu không sẽ bị cắt
gân chân và phải gọi tất cả ngần ấy thợ trở lại để làm cho xong. Kiến
trúc sư tuân lệnh và cho dỡ hết, rồi với tất cả khéo léo và thận trọng
hơn, ông cho làm lại thật đúng và trong không bao lâu công việc đã hoàn
thành.
Để biết rõ về quan trấn đạo hạnh đã tận
tâm lo việc của chúng tôi và rất quý trọng công việc đó, thì tôi sẽ kể
một việc rất đặc biệt để kết thúc chương này. Số là có những làn gió nồm
rất nồng nực thường nổi lên và thổi liên tục vào các tháng sáu, bảy và
tám gây nên một sức nóng bức lạ lùng làm cháy, làm khô héo và thiêu huỷ
nhà cửa vì chỉ làm bằng gỗ. Do đó chỉ một tia lửa nhỏ vì vô ý hay do
cách nào khác rơi vào thì cũng có thể làm lửa bốc lên ngay lập tức như
châm diêm đốt vậy. Vì thế, thường xảy ra nhiều vụ hỏa hoạn lớn ở khắp
lãnh thổ trong ba tháng đó. Một khi lửa đã bén vào một nhà thì trong
nháy mắt ngọn lửa từ nhà này sẽ lan sang hết các nhà khác, lần lượt
thẳng tắp theo hướng gió thổi và biến tất cả thành tro một cách thảm
hại. Để tránh nguy cơ này, nhất là tránh cho nhà thờ chúng tôi ở ngay
giữa thành phố và cũng để cho người ta biết chúng tôi được quan trên quý
trọng đến mức nào, ông ra sắc lệnh bắt tất cả các nhà ở cùng hàng với
nhà chúng tôi, theo hướng luồng gió nóng thổi, phải dỡ mái xuống trong
hai tháng đó. Và số nhà phải để trống mái đó nhiều đến độ có thể chiếm
một khoảng rộng ít là hai dặm Ý. Và ông đã chủ ý ra lệnh như vậy để nếu
lửa bén vào một nhà nào trong những nhà ấy thì dễ ngăn cản không cho nó
bén sang nhà chúng tôi. Mọi người đều nghiêm chỉnh thi hành vì danh dự
và sự trọng kính họ dành cho ông.
Chú thích (1) Từ Hội An đi Quy Nhơn bằng đường biển (2) Các cha khoản đãi viên quan bằng các món ăn Au.
Chương 10: QUAN TRẤN TỈNH QUY NHƠN QUA ĐỜI
Công việc của chúng tôi tiến triển tốt
đẹp ở thành phố này và có rất nhiều thành công. Khu truyền giáo ngay
buổi đầu đã thu được thành quả tốt đẹp, như chúng ta đã thấy ở chương
hai. Nhưng sau đó nổi lên cơn bão táp dữ dằn của cuộc bắt bớ do vụ hạn
hán và mất mùa, tưởng như đã nhận chìm giáo đoàn.
Bây giờ mọi sự thật là yên ổn và vui
tươi do sự biệt đãi và che chở của quan trấn thủ Quy Nhơn. Và ruộng nho
mới nở hoa, hứa hẹn một mùa quả rất thơm ngon. Nhưng bất thần xảy đến
cái chết của quan trấn thủ, khác nào ngọn gió bấc khắc nghiệt làm tan
tác và cuốn theo trong chốc lát tất cả các hy vọng tốt đẹp. Tai họa đã
xảy đến như sau. Quan trấn một hôm cưỡi voi đi săn rất thích thú. Ông
hứng chí đến độ không còn biết giữ gìn đã chạy suốt một ngày trong ánh
nắng gay gắt của mặt trời. Nóng bốc lên đầu đến nỗi chiều hôm đó ông lên
cơn sốt kịch liệt. Được tin, chúng tôi đến ngay phủ để thăm ông. Chúng
tôi ở bên ông hai ngày, nài xin ông sửa soạn chịu phép thánh tẩy, như đã
nhiều lần ông ngỏ ý muốn chịu, nhưng lại luôn cho biết là chỉ chịu khi
nào ông thu xếp xong các công việc, nhưng ra ông chẳng thu xếp gì cả.
Tới ngày thứ ba, ông mất trí và lên cơn hoảng hốt. Ông vẫn tiếp tục mê
sảng trong ba ngày cho tới khi kiệt lực vì cơn bệnh, ông tắt thở khi
chưa nhận phép thánh tẩy.
Mọi người đều có thể hiểu một cách dễ
dàng tai nạn này làm chúng tôi đau đớn đến chừng nào. Chúng tôi thấy
mình ở trong một vương quốc xa lạ, bị bỏ rơi và thiếu thốn mọi trợ lực
của loài người. Nhưng điều làm chúng tôi đau lòng hơn hết là thấy một
người tắt thở trước mặt chúng tôi mà chưa chịu phép rửa tội. Người đó đã
giúp đỡ chúng tôi và chúng tôi đã thăm nom săn sóc cho tới hơi thở cuối
cùng. Về các nghi lễ ma chay phúng điếu chúng tôi không thể tường thuật
hết các chi tiết vì sẽ không bao giờ cùng.
Chương 11: THIÊN VĂN
Trước hết nên biết về một ít tục lệ
thịnh hành trong xứ này có liên quan tới thiên văn học, nhất là về những
thiên thực. Họ ham hiểu biết khao này đến nỗi trong viện đại học 1 của
họ có những phòng rất rộng lớn để giảng khoa này một cách công khai và
người ta trích ra nhiều tiền thưởng và dành cho các nhà thiên văn lợi
tức đặc biệt gồm có nhiều ruộng vườn để làm một thứ tiền lương. Chúa có
các nhà thiên văn của chúa. Hoàng tử có các nhà thiên văn của hoàng tử.
Những người này chuyên chú học hỏi để rồi thông báo cho đúng thời kỳ có
thiên thực. Nhưng họ không có bộ lịch cải cách và những khoa chuyên
nghiệp bàn về sự vận chuyển của mặt trời và mặt trăng nên họ thường tính
rất sai về mặt trăng và nguyệt thực, do đó thường thường họ nhầm tới
hai hay ba giờ và nhiều khi, tuy hiếm hơn, tới một ngày trọn, còn họ chỉ
tính đúng về điều chính yếu của thiên thực 2.
Khi họ tính đúng thì họ được ban thưởng
cho đất ruộng, trái lại nếu tính sai thì mất cả những ruộng đất đã được
từ những lần trước. Khi có thiên thực, xứ này trở nên rất náo động.
Trong thời gian đó, họ giữ những tập tục xung quanh mặt trời và mặt
trăng. Họ sửa soạn các nghi lễ rất linh đình. Chúa được báo trước ra sắc
lệnh cho tất cả các tỉnh trong nước và bắt các văn nhân cũng như thường
dân phải chuẩn bị đợi ngày đó. Khi ngày đó tới thì tất cả các quan trấn
tỉnh, các hàng quan khác, các tướng lãnh, kị binh và dân chúng cùng các
viên chức, tất cả hội họp nhau trong mỗi thành phố và lãnh thổ. Nhưng
cuộc tập họp chính yếu là ở trong phủ chúa, nơi có mặt tất cả các quan
cao cấp trong nước, tất cả đều ra ngoài đem theo vũ khí và cờ hiệu. Chúa
đứng đầu mặc y phục tang chế, rồi tất cả triều đình, họ nhìn ngắm mặt
trời và mặt trăng, và trong khi thấy thiên thực thì họ quỳ xuống lạy một
hay hai hay nhiều lần, nói mấy lời thương xót vị hành tinh đang chịu
cực nhọc và thống khổ. Bởi vì họ cho rằng thiên thực không là gì khác,
nếu không phải là mặt trời và mặt trăng bị con rồng nuốt và thay vì nói
như chúng ta là mặt trăng bị khuất một nửa hay bị khuất hết, thì họ lại
nói. Da an nua, da an het, có nghĩa là con rồng đã ăn một nửa, con rồng
đã ăn hết tất cả.
Cách nói của họ tuy có vẻ quá đáng,
nhưng lại nói lên được cái cơ bản của thiên thực, cũng một nguyên tắc
như chúng ta, nghĩa là do đường hoàng đạo là đường chính và là đường của
mặt trời gặp đường của mặt trăng trong khi vận chuyển, đó là hai điểm
gọi là đầu và đuôi của con rồng, như các nhà thiên văn thường nói, do đó
dễ đi đến kết luận là họ cũng có cùng một lý thuyết với chúng ta về
thiên thực, sử dụng cùng từ ngữ và tên gọi con rồng, họ cũng có những từ
như Lâu (Aries), Tất (Taurus), Tĩnh (Gemini) và những từ khác để chỉ
các cung hoàng đạo.
Nhưng chúng ta hãy trở lại việc các dân
tộc này thương xót các hành tinh: sau khi họ đã thờ lạy rồi thì chỉ còn
nghe thấy tiếng súng hỏa mai, súng musqueton, súng đại bác người ta bắn,
thứ nhất là từ phủ chúa, sau từ khắp kinh thành, hết các chuông đều đổ
inh ỏi, nào kèn thổi, nào trống đánh, tóm tắt là người ta không bỏ một
dụng cụ nào, kể cả soong nồi và những dụng cụ làm bếp khác mà không đem
ra khu vang trong thời gian đó, nghe rất ồn ào và inh ỏi. Họ nói là làm
thế để ngăn cản không cho con rồng nuốt mặt trời và mặt trăng hay để bắt
nó phải nhả và mửa vật nó đã nuốt.
Nói chung thì như vậy. Bây giờ tôi xin
nói riêng đến việc có liên quan tới vụ nguyệt thực xảy ra ngày mồng 9
tháng 12 năm 1620 vào 11 giờ thiên văn, nghĩa là một giờ trước nửa đêm.
Vào chừng thời gian này tôi đang ở Nước Mặn thụôc tỉnh Quy Nhơn, tại đây
có một tướng lãnh cai quản khu chúng tôi ở. Một lần ông đến thăm chúng
tôi, mấy ngày trước khi xảy ra nguyệt thực, chúng tôi có bàn về việc đó.
Ông quả quyết là sẽ không có và ông cực lực bác lại lời chúng tôi, mặc
dầu chúng tôi đã cho ông thấy sự thực bằng cách tính toán của chúng tôi
và cả cách thức nguyệt thực sẽ xảy ra, tất cả đã được vẽ trong sách của
chúng tôi. Nhưng không tài nào làm cho ông tin được. Ông rất cố chấp và
quả quyết là nếu có nguyệt thực thì hẳn chúa đã cho biết trước một tháng
trong toàn cõi, theo tục lệ. Bây giờ chỉ còn tám ngày mà vẫn chưa có
sắc lệnh ban hành trong nước, như thế là dấu hiệu hiển nhiên cho thấy là
không có nguyệt thực xảy ra. Mà vì ông cứ cố chấp quả quyết ngược lại
những điều chúng tôi nói, nên ông thách chúng tôi, ai thua thì phải mất
cho người được một Cabaia (là một thứ áo bằng lụa). Chúng tôi vui lòng
thỏa thuận như thế, nếu chúng tôi thua, chúng tôi cũng sẽ vui lòng biếu
ông chiếc áo dài còn nếu chúng tôi được thì thay vì áo dài, ông phải đến
nghe giáo lý tám ngày 3 trong nhà chúng tôi và nghe những gì thuộc về
đạo thánh của chúng tôi. Ông đáp, tôi bằng lòng và không những thế mà
còn tin theo Kitô giáo nếu quả thực tôi thấy có nguyệt thực, và hơn nữa,
ông nói: nếu những sự bí ẩn ở trên trời như các thiên thực, các cha
hiểu biết xác đáng và chắc chắn, còn hiểu biết chúng tôi chỉ là sai lầm,
thì là đạo của các cha và sự hiểu biết về Thiên Chúa thật, không thể
không đích đáng và đạo của chúng tôi hoàn toàn sai lầm. Thời điểm xảy ra
nguyệt thực mà chúng tôi đã tiên đoán đã đến, viên tướng lãnh đến nhà
chúng tôi, đem theo nhiều học trò và nho sĩ để làm chứng về những gì sẽ
xảy ra, nhưng vì nguyệt thực chỉ bắt đầu từ 11 giờ thiên văn, nên trong
thời gian đó tôi đi đọc kinh nguyện, tôi cũng nhớ quay trở đồng hồ cát
chừng một giờ trước. Nhưng họ liên tục đến gọi tôi như có vẻ thách thức
ra coi nguyệt thực, họ cho rằng tôi lui vào nhà trong không phải để đọc
sách nguyện mà để che giấu sự hổ thẹn vì thực ra không xảy ra. Họ rất bỡ
ngỡ thấy tôi trả lời quả quyết là chưa tới giờ và phải kiên nhẫn một
chút cho đến khi đồng hồ cát của tôi mà họ nhìn ngắm như một đồ vật từ ở
thế giới bên kia rơi xuống 4. Và khi tôi bước ra ngoài, tôi chỉ cho họ
thấy là vòng mặt trăng không hoàn toàn tròn như thường lệ vào lúc bắt
đầu có nguyệt thực, rồi tối dần tối dần, thế là sáng tỏ sự thật như tôi
đã tiên đoán. Viên tướng lãnh và các văn nhân đều ngạc nhiên về sự việc
xảy ra, tức thì họ truyền lệnh cho người ta tới các nhà trong khu phố và
tới khắp các phố phường loan tin có nguyệt thực, mọi người chạy ra để
khua chuông đánh trống và làm các nghi lễ như thường lệ để cứu mặt trăng
trong cơn nguy khốn.
Một trường hợp tương tự đồng thời đã xảy
ra, giữa những người và ở một địa điểm quan trọng hơn nhiều. Chúng tôi
biết rằng các nhà toán học của chúa không biết nguyệt thực này, trái lại
các nhà toán học của hoàng tử lần này chuyên chú học hỏi nên biết là có
nguyệt thực ở Quảng Nam nhưng với một sai lầm quan trọng, không phải họ
chỉ lầm hai hay ba giờ mà một ngày tròn. Họ công bố sẽ có nguyệt thực
vào ngày Rằm nghĩa là một ngày trước khi xảy ra nguyệt thực thực sự. Cha
Francois de Pina lúc đó đang ở trong phủ, cha báo tin cho một cận thần,
ông này ở gần hoàng tử hơn các vị khác, lúc nào cũng theo ngài với tính
cách người chủ nghi lễ, và theo chức vụ được gọi là ông nghè 5, và nhờ
vị này thưa với ngài là nguyệt thực không thể xảy ra vào thời điểm như
nhà chiêm tinh đã loan báo, mà là vào ban đêm hôm sau như cha Cristoforo
Borri đã nói. Cha nhờ ông cho chủ ông là hoàng tử biết tin đó và cũng
cho ngài thấy sự sai lầm của các nhà chiêm tinh. Nhưng ông nghè chưa tin
lời cha cho lắm. Vì không hoàn toàn tin tưởng nên cũng không muốn nói.
Thế rồi đến giờ các nhà chiêm tinh đã đoán thì chúa và cả phủ ra xem
nguyệt thực theo cách thức của họ và cứu mặt trăng mà họ tưởng là sắp bị
ăn. Nhưng thấy rõ là đã bị lừa, ngài rất giận các nhà toán học và
truyền bớt một tỉnh lợi tức họ đã được theo tục lệ chúng tôi đã nói
trên, khi họ tính sai. Bấy giờ ông nghè lợi dụng cơ hội thưa với chúa là
đạo trưởng Tây dương đã nói với mình, trước khi xảy ra, là đêm sau mới
có.
Thế rồi ông nghè đến tìm cha để biết chắc
chắn thời điểm nguyệt thực. Cha cho biết theo đồng hồ và các dụng cụ
khác, là sẽ xảy ra đúng 11 giờ đêm sau. Nhưng ông cũng chưa lấy làm chắc
và vì ngờ vực, ông không muốn đánh thức chúa khi chưa thấy rõ nguyệt
thực bắt đầu. Chờ cho tới lúc đó ông mới chạy đến đánh thức ngài và vội
vã cùng mấy người cận thần làm các nghi lễ kính bái và cúng tế theo tục
lệ khi có nguyệt thực. Ông cũng không dám công bố biến cố này ra vì sợ
làm mất uy tín của các nhà toán học và sách vở họ dùng.
Sau khi nói về nguyệt thực thì chúng tôi
xin kết thúc chương này bằng một vụ nhật thực xảy ra vào ngay 22 tháng
năm năm 1621. Trong vụ này, các nhà thiên văn của chúa tiên đoán là sẽ
xảy ra và kéo dài trong hai tiếng đồng hồ. Nhưng vì họ rất tín nhiệm
chúng tôi về vấn đề này và để biết chắc chắn hơn, họ đến tìm chúng tôi
để xem chúng tôi nghĩ sao. Tôi cho họ biết rằng chắc chắn sẽ có nhật
thực và không gì xác đáng hơn. Chúng tôi cho họ coi đường vẽ trong lịch
của chúng tôi. Nhưng tôi cố ý không nói cho họ biết là vì thị sai của
mặt trăng với mặt trời nên trong xứ Đàng Trong không thể trông thấy
được. Họ không biết thế nào là thị sai. Do đó theo sách và cách tính của
họ, họ thường nhầm lẫn, không tìm đúng thời điểm. Tôi khất họ một thời
gian ngắn để coi rõ lại điểm này.
Tôi chỉ nói chung chung với họ là cần
phải đo lại trời với đất để xem nhật thực có thể thấy được ở Đàng Trong
hay không và như vậy tôi có ý hoãn câu trả lời cho tới lúc họ công bố có
nhật thực. Sau cùng, họ thích thú vì thấy sách của chúng tôi phù hợp
với ý kiến của họ và không đào sâu hơn nữa, họ chắc chắn là sẽ có nhật
thực và đưa tin cho chúa. Chúa liền công bố sắc lệnh và truyền giữ và
làm những việc theo thông tục. Khi sai lầm của các nhà thiên văn đã được
phổ biến đi khắp nơi thì tôi cho biết là nhật thực này không thể xem
thấy ở bất cứ nơi nào trong xứ Đàng Trong. Điều này đến tai hoàng tử. Để
biết rõ sự thật, ông sai các nhà toán học đến hỏi ý kiến tôi và tranh
luận về vấn đề này. Kết quả cuộc tranh luận là về phía họ, họ rất lúng
túng và phân vân làm cho hoàng tử lưỡng lự, không biết trong lãnh thổ
thuộc quyền ông, có nên theo ý kiến là sẽ có nhật thực như đức thân phụ
ông đã công bố hay nên nói ngược lại. Điều làm ông khó xử hơn cả và là
điều ông chú ý hơn hết, đó là không những các sách của họ mà cả sách của
chúng tôi cùng nói là sẽ có nhật thực và ông sẽ mất uy tín nếu không
công bố như thường lệ. Thế nhưng lòng tin tưởng vào lý thuyết của chúng
tôi, trong dịp nguyệt thực mới xảy ra đây, ngăn cản không cho ông giải
quyết. Đến nỗi để khỏi nghi ngờ, ông lại phái người tới hỏi chúng tôi
một lần nữa để cho biết chúng tôi còn quả quyết nữa không. Tôi đáp là
sau khi đã làm tất cả các phép toán và đã tính rất kỹ thì tôi thấy một
cách không thể sai lầm rằng không một nơi nào trong nước ông có thể thấy
nhật thực vì thế ông không phải lo lắng cho công bố gì nữa.
Ngày đó trời đẹp, sáng và trong, không
có chút mây nào. Vả lại vào tháng 5, mặt trời ở xứ này chiếu thẳng trên
đầu và vào khoảng 3 giờ chiều, giờ phải xảy ra điều họ kể, giờ mọi người
chịu nóng bức. Thế nhưng chúa không quên ra khỏi phủ với các cận thần,
chịu mệt nhọc trong thời gian chờ đợi, nhưng không có chuyện gì xảy ra
chúa bực tức đã khiển trách họ rất nặng lời và quở mắng họ rất nghiêm
khắc. Họ tạ lỗi, và cho là nhật thực chắc chắn xảy ra, nhưng trong khi
tính toán họ đã nhầm lẫn một ngày liên quan tới sự giao hội của mặt
trăng và chắc chắn là ngày mai cũng vào giờ này sẽ có nhật thực. Chúa
tin lời họ nói và ngày hôm sau vào đúng giờ này, chúa chẳng nhận thấy
được gì ngoài cái nóng bức như ngày hôm trước. Các nhà toán học lại một
phen nữa bị chúa trách phạt.
Chú thích (1) Có thể là quá đáng không? (2) Trình độ nghiên cúu lịch và khoa học thiên văn của ta thời đó khá thấp kém. Xem Hoàng Xuân Hãn, Lịch và Lịch Việt Nam, tập san KHXH Paris 1982, tr.54-58 (3) Nghe giáo lý trong tám ngày. Có liên hệ tới Phép giảng tám ngày của De Rhodes không? (4) Hẳn không ngoa vì trình độ khoa học, cơ giới của ta thời đó quá thấp, ngay cả chúa Sãi cùng cận thần cũng không hơn. (5) Có thể lúc này Sãi vương có mặt ở Quảng Nam, vì ngài ở Ai tử thuộc Quảng Bình. Như vậy Borri thuật lại vụ nguyệt thực ở Quy Nhơn (Nước Mặn) và Quảng Nam nữa, lúc này có De Pina
Chương 12: ĐỜI SỐNG TINH THẦN Ở ĐÀNG TRONG
Xứ Đàng Trong còn có nhiều đền chùa rất
đẹp với tháp cao và lầu chuông. Mỗi địa điểm dù nhỏ bé đến đâu thì cũng
có đền chùa thờ cúng thần Phật. Có những pho tượng rất lớn có vàng có
bạc chứa chấp và tàng trữ ở trong. Thật không hơn không kém là một kho
tàng thánh trong ngực hay trong bụng pho tượng. Không ai dám sờ mó vào
trừ khi bị lâm vào cơn túng quẫn cùng cực. Một tên ăn trộm nào đó thò
tay lục trong bụng tượng mà không nghĩ đến tầm quan trọng của việc phạm
thánh, vì ở đây người ta vẫn quan niệm rằng làm như vậy là phạm thượng.
Lại nữa họ đeo ở cổ nào là tràng hạt, chuỗi hột. Họ tổ chức rước sách,
lễ lạt rất long trọng, để kính thần Phật như chúng ta thấy nơi những
giáo dân sốt sắng nhất của ta. Và hơn nữa có những ông sãi có chức tương
ứng với chức tu viện trưởng, giám mục và tổng giám mục cũng cầm gậy dát
vàng dát bạc không khác những gậy chúng ta dùng trong Giáo hội.
Tất cả giáo phái của họ không có mục
đích nào khác ngoài việc tôn thờ Thượng Đế hay ao ước vinh quang và hạnh
phúc đời sau hoặc công nhận hồn bất tử hoặc quả quyết mọi sự đều chấm
dứt khi thân xác chết. Tất cả lương dân phương Đông đều công nhận hai
nguyên lý này. Các giáo phái đếu phát nguyên từ kinh sách của một đại
triết gia và nhà siêu hình học trứ danh gọi là Thích Ca. Vị này còn có
trước Aristote 1 và không thua kém ông về tài trí và tinh thông các sự
thiên nhiên. Với trí óc minh mẫn, ngài suy nghĩ về thiên nhiên và sự
thành lập vũ trụ. Ngài chiêm ngưỡng nguyên lý và cứu cánh vạn vật, nhưng
nhất là về bản thể con người làm chủ lâu dài đại thế giới này.
Giáo thuyết ngài Thích Ca công bố được
người Trung Hoa đón nhận. Họ rất mong muốn được giải thoát nên đã đón
nhận giáo thuyết này và chủ trương thành mười hai giáo phái khác nhau
trong đó có một giáo phái được người ta theo và sùng hơn cả và là phái
chủ trương vạn vật là hư không họ gọi là Genfiu, thiền phái. Những người
theo phái này có tục cùng nhau hẹn ngày về miền thôn quê để nghe một
vài thượng tọa thuyết pháp về đề tài cực lạc.
Thế nhưng bây giờ phải trở lại với người
xứ Đàng Trong 2, họ không đón nhận toàn bộ thứ giáo lý quá khích và phi
lí chối bỏ hình thức bản thể và quy mọi sự về hư không. Khắp nơi trong
nước, tất cả đều công nhận hồn là bất tử và do đó có phần thưởng đời đời
cho người lành và hình phạt trường cửu cho kẻ dữ, làm cho chân lý đó mờ
nhạt đi vì đầy những điều vô lý và sai lầm. Thứ nhất họ không phân biệt
hồn người dữ tách rời khỏi thân xác với các thần xấu và gọi tất cả là
tà ma, và cho rằng không những thần xấu mà cả hồn người dữ đều tìm cách
làm hại người sống. Thứ hai là một trong những phần thưởng của hồn người
đã sống lành thánh đó à chuyển3 từ một thân này tới một thân khác tốt
hơn, trọng hơn, như từ thân xác một người dân thường đến thân xác một đế
vương hay quan cao cấp. Thứ ba là hồn người quá cố cần ăn uống và bồi
dưỡng thân xác, do đó đôi khi trong năm họ có tục dọn cỗ bàn thịnh soạn
và long trọng, con cái cúng tế cha mẹ đã khuất, chồng cúng tế vợ, bạn bè
cúng tế người thân thích.
Chú thích (1) Borri sánh Khổng Tử với Aristote, ở đây cũng coi Phật tổ như nhà hiền triết Hy Lạp đại tài Aristote (2) Tin tưởng của người Đàng Trong về hồn (3) Thuyết luân hồi
Chương 13: VỀ XỨ ĐÀNG NGOÀI
Trong năm năm 1 ở Đàng Trong, tôi chuyên
cần tìm hiểu và học để biết chắc chắn những gì liên quan đến Đàng
Ngoài; ngôn ngữ là ngôn ngữ chung vì cả hai xứ đều thuộc về một quốc
gia. Theo những câu chuyện những người từ Đàng Trong tới tỉnh Quy Nhơn,
nơi tôi thường trú, kể lại, tôi sẽ chỉ thuật lại những gì cần thiết cho
việc tìm hiểu xứ Đàng Trong và việc cai trị xứ này vẫn còn thuộc về Đàng
Ngoài.
Về địa thế, không kể Đàng Trong phụ
thuộc vào Đàng Ngoài, thì gồm có 4 tỉnh có bề rộng và bề dài bằng nhau, ở
giữa là kinh thành của Đàng Ngoài, tên kinh thành này cũng là tên cho
cả nước 2, ở đây có triều đình và có vua cai trị. Kinh thành thì ở giữa
có bốn tỉnh vâyquanh như một hình vuông góc, các tỉnh khá lớn, diện tích
cả nước gấp bốn lần Đàng Trong. Phía Đông là vịnh Hải Nam, giữa có con
sông lớn, thuyền bè đi lại được, nó bắt nguồn từ tỉnh Đàng Ngoài xa
chừng 18 dặm, có một số thuyền Nhật Bản.
Nước sông này thường dâng lên vào tháng
sáu và tháng một, làm ngập hầu như cả nửa kinh thành, nhưng lụt này chỉ
kéo dài trong một thời gian ngắn. Về phía Nam thì gần Thuận Hóa, như
chúng tôi đã nói, thuộc về Đàng Trong; về phía Bắc thì giáp với Trung
Quốc, nhưng không cần có luỹ tường che chở, vì thế sự giao thông đi lại
giữa người Trung Hoa và người Đàng Ngoài rất thường xuyên, không cần
tường luỹ, không cần cửa đóng then cài, họ đều buôn bán với các người
ngoại quốc khác. Sau cùng, về phía Tây là nước Lào, nơi cha Alexandre de
Rhodes người thành Avignon thuộc dòng chúng tôi đã từ Đàng Trong mà tới
3. Tôi cho rằng nước Lào cũng ở cạnh Tây Tạng là đất mới khám phá ra,
tôi cũng cho là Tây Tạng cách xa và rộng ở cạnh nước Lào, theo vị trí
thì thấy hai nước này đều rộng lớn. Cho nên tôi nghĩ là không thể có
nước nào chen vào giữa hai nước đó và cũng vì các cha đã tới đó đều
khẳng định là tỉnh cuối cùng của Tây Tạng, về phía Đông thì ở cạnh và
thông thương với dân tộc bán nhiều tơ lụa và bát đĩa bằng đất nung tinh
xảo và quý như ở Trung Quốc với nhiều hàng hóa khác, mà chúng tôi biết
rằng là Đàng Ngoài có rất nhiều người thường bán cho người Lào.
Về việc cai trị ở xứ này thì các vua
chúa nối tiếp nhau như sau. Quyền tối cao của nhà vua thì ở trong tay
một người gọi là bua, thế nhưng vị này không dính vào việc nước, ông
trao tất cả quyền hành cho một người thân tín gọi là chúa với đủ mọi thế
lực rộng lớn và biệt lập, khi hòa bình cũng như lúc chiến tranh, đến
nỗi vị này hầu như không còn nhận ai là kẻ trên mình nữa. Nhà bua thì
ngự trong đền, xa hết mọi việc trong nước, chỉ giữ lại cho mình một sự
tôn sùng bề ngoài như thể một vị thần thiêng liêng với quyền ban hành
luật pháp, chuẩn y sắc lệnh hay chỉ dụ. Khi chúa mất thì bao giờ cũng để
cho con mình kế vị trong việc trị nước; thế nhưng thường xảy ra cái
nạn, các người quản trị những người con đó cũng ham chức vị và cho giết
đi để tranh giành quyền làm chúa 4.
Thế lực của các chúa rất rộng lớn, vì đi
liền với một nước rộng lớn có dân số đông gấp ba hay bốn lần dân Đàng
Trong; còn quân đội thì như chúng tôi đã nói ở trên, có thể lên tới
80.000 người. Nên không khó gì khi chúa muốn thì chúa có thể cho mộ thêm
cho tới 300.000 hoặc hơn với đầy đủ vũ khí, bởi vì các tướng lãnh trong
nước như ở nước chúng ta có các công hầu bá tước, họ phải tự lực cung
cấp đủ cho cuộc chiến tranh 5. Còn lực lượng của nhà vua thì không quá
40.000 binh lính hộ vệ; thế nhưng các chúa Đàng Ngoài và cả Đàng Trong
đều công nhận ông là kẻ bề trên và cả một chúa khác chúng tôi đã nói ở
phần một, ông này đã trốn lánh trong tỉnh giáp với Trung Quốc, mặc dầu
ông vẫn luôn làm ngụy 6.
Khi chúng tôi nói vương quốc này theo
dòng truyền kế thì chúng tôi cũng nói về nhà vua, bao giờ cũng có thế tử
kế nghiệp để giữ dòng truyền thống đế vương; đó là tất cả những gì tôi
muốn vắn tắt nói về Đàng Ngoài theo những điều tôi được biết khi tôi trở
về Châu Au.
Chú thích (1) Lại một lần nữa, chúng ta xem năm 1622 là năm Borri bỏ Đàng Trong chứ không phải năm 1621, Đỗ Quang Chính cũng sai vì chỉ cho Borri ở Đàng Ngoài trong 3 năm, chứ không phải 5 năm (xem: Sd, tr.27) (2) Từ đời Lê, đổi Đông Đô thành Đông Kinh, và người ngoại quốc gọi xứ Bắc là Đông Kinh (Tunquim, Tonquin, Tonkin) (3) Thực ra không bao giờ De Rhodes tới Lào, chỉ có Raphael de Rhodes là người con tinh thần của Alexandre de Rhodes đã tới Lào rồi lập nghiệp ở xứ Bắc (xem Lịch sử việc truyền giáo Tây Tạng của Launay) (4) Thực ra chưa bao giờ xảy ra, con các chúa Đàng Ngoài thảy đều kế nghiệp cha: Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh Tạc, Trịnh Căn… (5) Chế độ phong kiến ở Bắc cũng khác chế độ phong kiến ở Châu Au. Các công hầu bá tước chỉ có quyền trong khi sống, sau đó thuộc về nhà vua nhà chúa; các hoạn quan đứng đầu một tỉnh, sau khi mất thì thuộc về nhà vua; khi có đám rước thì chúa đi voi, còn vua đi kiệu; nhà chúa tổ chức hết các cuộc đón tiếp phái đoàn ngoại giao, các cuộc thi đua tập dượt, trừ có phái đoàn ngoại giao Trung Quốc thì thuộc về nhà vua. (6) Nhà Mạc ở Cao Bằng
KẾT LUẬN
Bản tường trình nhỏ mọn này không thể
không kích động những người ít thích đi khám phá các lãnh thổ mới và chỉ
biết quý trọng xứ sở và đền đài riêng của mình, để họ có một ít kiến
thức, đó là trong thế giới có biết bao điều đẹp đẽ, những điều này, tuy
không vượt giới hạn của những điều tự nhiên, nhưng cũng có thể được gọi
là những phép lạ của thiên nhiên. Đó chính là điều tôi đã trình bày, bởi
chính mắt tôi đã thấy ở xứ Đàng Trong: lãnh thổ có khí hậu và các mùa
khác nhau rất dễ chịu để ở. Lãnh thổ có rất nhiều đồng ruộng thênh thang
và phì nhiêu, với mọi thứ lương thực, lúa thóc, trái cây, chim chóc và
thú vật, biển thì vô số các loại cá rất thơm ngon. Lãnh thổ có khí hậu
rất trong lành và dân cư chưa biết thế nào là dịch hạch. Lãnh thổ có rất
nhiều vàng, bạc, tơ lụa, kỳ nam và các thổ sản khác rất có giá. Lãnh
thổ phát triển thương mại rất mạnh, nhờ có các hải cảng và tất cả các
quốc gia cập bến. Sau hết, lãnh thổ có dân cư dễ giao du, có tình và rất
mực quảng đại. Người ta có thể tiếp xúc và sống an toàn, không những vì
giá trị và đức can trường lớn lao của người Đàng Trong, được tất cả các
nước lân cận đều công nhận, vì có lực lượng quân sự và tất cả các thứ
vũ khí mà họ sử dụng rất tài tình và thiện nghệ không ai sánh kịp mà còn
vì chính thiên nhiên như đã bảo vệ họ, bao bọc họ, một bên là biển trời
cho để làm hào hố và một bên là dãy Trường Sơn Alpes và Pyrénées 1 hiểm
trở của Kẻ Mọi. Đó là phần lãnh thổ người ta gọi là Đàng Trong. Người
bản xứ thì thông minh đĩnh ngộ, họ dễ dàng và sẵn sàng đón tiếp hết các
người ngoại quốc đến xứ họ và rất dễ dàng để cho mỗi người sống theo
luật lệ riêng của mình, cũng không cần nghiên cứu tường tận về học thuật
và chữ viết 2 của họ trước khi giảng dạy họ, như các cha dòng ở Trung
Quốc phải làm và tiêu phí những năm đầu tiên là những năm tốt nhất, bởi
vì chỉ cần học tiếng nói của họ, thứ tiếng rất dễ, như chúng tôi đã
viết, đến nỗi chỉ trong một năm là đã có thể nói được dễ dàng 3. Những
người bản xứ còn rất dễ giao thiệp, họ không chạy trốn khi thấy người
ngoại quốc như các dân tộc khác ở các miền phương Đông.
Họ có đến chùa, họ cúng tế và rước kiệu. Họ tin có hình phạt đời đời cho kẻ dữ và hạnh phúc trường cửu cho người lành.
Chú thích (1) Dãy núi Alpes ranh giới Pháp – Ý, dãy núi Pyrénées ranh giới Pháp –Tây Ban Nha. (2) Chữ nho rất khó đọc đối với người ngoại quốc. Tiếng Việt tương đối dễ học, nhất là khi đã dùng thứ chữ phiên âm hay quốc ngữ. (3) Hẳn lúc đầu đã khởi sự một công cuộc ghi chép theo tự mẫu Latin. Như vậy dễ hơn rất nhiều.Nguồn bài đăng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét