Nguyễn Văn Huy*
I. Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè
Chăm là một trong 54 nhóm chủng tộc bất
khả phân của dân tộc Việt Nam. Dân số người Chăm hiện nay khoảng 100.000
người, trong đó hơn 2/3 định cư tại Phan Rang, Phan Rí, Phan Thiết và
Bình Tuy ; số còn lại sinh sống tại Châu Đốc, Tây Ninh và Sài Gòn.
Cũng nên biết, trong thực tế, có khoảng
400.000 người Chăm sinh sống tại khắp nơi trên thế giới, đông nhất là
tại Kampuchia (270.000 người), kế đến mới tới Việt Nam (100.000 người),
sau là Thái Lan (15.000 người) và cuối cùng là Liên Bang Mã Lai, năm
1979 đã tiếp nhận khoảng 10.000 người Chăm đến từ Kampuchia. Hải ngoại
có khoảng 200 người Việt gốc Chăm (hơn 50 gia đình), đa số định cư tại
Hoa Kỳ.
Tài liệu nói về nhóm dân cư này tuy có
nhiều nhưng cũng rất thiếu. Đa số các tài liệu viết về các sinh hoạt có
tính văn hóa và xã hội trong khi phần lịch sử và sinh hoạt chính trị của
nhóm dân cư này hoàn toàn thiếu vắng, nếu có chăng thì nội dung cũng bị
bóp méo để phù hợp với nhu cầu tuyên truyền của các chế độ đương quyền.
Chính vì thế mỗi khi đề cập tới cộng đồng người Chăm, người Việt thường
có một nhận thức rất mơ hồ, chỉ biết đại khái đó là một sắc tộc thiểu
số ở miền Trung và Châu Đốc có nước da ngăm đen, phong tục tập quán, tín
ngưỡng và văn hóa khác với người Kinh. Trầm trọng hơn, phần lớn những
người lãnh đạo đất nước cũng không nắm rõ nguồn gốc những cộng đồng
chủng tộc đã góp phần tạo thành dân tộc Việt Nam, do đó khó có thể xây
dựng một chính sách dân tộc phù hợp với ước vọng của từng cộng đồng.
Chính vì thế nội dung loạt bài viết về người Chăm này nhằm khai thông bế
tắc đó. Nhận lại anh em, tìm lại bạn bè là chặng đường cần thiết trước
khi cùng nhau xây dựng một tương lai chung.
Người Chăm và các danh xưng
Chăm là tên một nhóm dân cư, trước kia
là thần dân vương quốc Chiêm Thành (Campa, Champa, hay Chăm Pa) cũ, đã
có mặt từ lâu đời tại miền Trung trước khi người Kinh đến đây lập
nghiệp.
Trước khi đi vào chi tiết, tưởng cũng
nên phân biệt người Chăm và người Chămpa. Chăm là nhóm dân cư gốc Nam
Đảo (malayo-polynésien) sinh sống trên những vùng đất thấp dọc duyên hải
miền Trung, Chămpa là toàn thể các nhóm dân cư thuộc vương quốc Chiêm
Thành cũ gồm cả người Chăm đồng bằng lẫn người Thượng (gốc Nam Đảo hoặc
Môn Khmer), sinh sống rải rác trên các vùng rừng núi phía Tây dãy Trường
Sơn, hay Tây Nguyên.
Champa là tên một loài hoa màu trắng
hồng nhạt, hay trắng vàng nhạt, có hương thơm ngào ngạt có thể tìm thấy
tại khắp nơi trên duyên hải miền Trung. Người Việt gọi là hoa sứ, tên
khoa học là Michelia Champaca Linn. Không biết người Champa đã chọn loài
hoa sứ này đặt tên cho xứ sở mình từ hồi nào, nhưng chữ Champa đã được
tìm thấy trên một bia ký có từ thế kỷ thứ 6 tại Mỹ Sơn, viết bằng chữ
Phạn (sanscrit). Trước đó, trong bộ Geographica năm 150 sau công nguyên,
Claudius Ptolémée (90-168), nhà địa lý gốc Hy Lạp và là sứ giả của
hoàng đế La Mã Marc-Aurèle Antonin tại Alexandrie (Ai Cập), đã có lần
nói tới một xứ tên Zamba trên vùng Viễn Đông. Sách Tân Đường thư, do Âu
Dương Tu và Tổng Kỳ biên soạn thế kỷ 10, phiên âm là Chiêm Bà khi nói về
Hoàn Vương Quốc (vương quốc Lâm Ấp cũ). Về sau Champa được người Việt
biết qua tên phiên âm Hoa ngữ là Chiêm Thành (Tchan-tcheng).
Trước kia người Việt gọi cộng đồng người
Chăm là Chiêm, Chàm, Hời… Những danh xưng này được đọc theo cách viết
của người Trung Hoa, hay theo cách phát âm của người miền Trung, do đó
không phản ánh trung thực danh xưng chính xác của người Chăm hiện nay.
– Chiêm là tên gọi những cư dân sinh
sống trên lãnh thổ Chiêm Thành ; danh xưng Chiêm thỉnh thoảng vẫn được
nhắc nhở trong sử sách và tài liệu nghiên cứu, ngoài dân gian ít ai nói
tới.
– Chàm là cách đọc trại đi từ chữ
Champa ; danh xưng Chàm hiện còn rất thông dụng trong dân gian, một vài
địa danh còn giữ chữ Chàm kèm theo như Cù Lao Chàm tại Quảng Nam, Tháp
Chàm tại Phan Rang, quận Phan Lý Chàm, xã Ma Lâm Chàm tại Bình Thuận…
Trong nước, những nhà dân tộc học đã thay chữ Chàm bằng danh xưng Chăm
từ lâu ; điều này đã làm hài lòng cộng đồng người Chăm tại cả Thuận Hải
lẫn Châu Đốc, vì là cách gọi đúng nhất theo lối phát âm từ chữ Chăm-pa.
– Danh xưng Hời rất ít được nhắc đến,
người chỉ thấy chữ này xuất hiện một vài lần trong tập thơ Điêu Tàn, năm
1937, của Chế Lan Viên. Hời là cách đọc trại đi từ chữ Hroi (H’roi hay
Hờ Roi), tên của một bộ lạc sơn cước sinh sống trên vùng rừng núi phía
Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định. Người Hroi thật ra cũng
là người Chămpa, vì trước kia là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ
di tản lên Tây Nguyên tránh loạn rồi định cư luôn tại đây, họ vẫn còn
giữ ngôn ngữ và một số phong tục tập quán của người Chăm đồng bằng trong
những sinh hoạt thường nhật. Ngoài ra còn phải kể thêm những nhóm
Bahnar Chăm, Bru-Vân Kiều, Kaho, Raglai, Rhadé, Djarai, Stiêng, Churu
v.v…, tất cả đều là thần dân của vương quốc Chiêm Thành cũ di tản lên
cao nguyên trong những giai đoạn loạn lạc rồi ở luôn tại đây. Trên khắp
cao nguyên, những nhóm người mới hòa nhập và pha trộn với các nhóm người
cũ tạo thành những sắc dân hỗn hợp mang hai dòng máu Chăm-Thượng trong
những thời điểm khác nhau. Người Chăm lai Thượng gọi là Chăm Pal, nhưng
người Việt ít biết đến tên này. Vì không có truyền thống đặt tên cho
từng nhóm người, dân chúng gốc Kinh gọi chung tất cả những cư dân sinh
sống trên miền núi phía Tây là người Hroi, sau đó biến âm thành người
Hời.
Chữ Hời mang một nội dung xấu, đó là
những nhóm man di chuyên đi cướp bóc, vì trong quá khứ người Hroi đã
nhiều lần tiến công vào các làng xã người Kinh cướp bóc lương thực,
trong những giai đoạn khó khăn, dưới thời các chúa Nguyễn. Sau này người
Chăm tại Thuận Hải gọi những cư dân gốc Chăm sinh sống tại các tỉnh
Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định là Chăm Hoi hay Chăm Hroi. Sử sách
Việt Nam thời Nguyễn gọi chung là Mọi Đá Vách.
Ngoài ra cũng có một số người Chăm lai
Việt gọi là Chăm Yuôn (Yuôn hay Yun có nghĩa là người Việt). Người Việt
gọi là Kinh Cựu, nhưng danh xưng này rất ít người biết đến vì người Kinh
Cựu luôn tự nhận mình là người Kinh. Cũng nên biết những binh sĩ hay
tội đồ gốc Kinh, bị đày ra vùng biên địa giáp ranh với Chiêm Thành, đã
lập gia đình với những phụ nữ Chăm (mà họ cho là người Kinh cổ xưa), từ
đó mới sinh ra chữ Kinh Cựu.
Về ngôn ngữ, người Chăm được nhiều nhà
nhân chủng học xếp vào họ Nam Đảo (Malayo Polynésien), nghĩa là có nguồn
gốc xuất phát từ các hải đảo phía Nam vùng biển Đông Nam Á. Điều này có
thể đúng khi đối chiếu văn minh, văn hóa của người Chăm với văn minh,
văn hóa của các dân tộc cùng hệ ngôn ngữ tại Đông Nam Á vào thời tạo
dựng. Nhưng qua những khám phá khảo cổ gần đây, văn minh và văn hóa của
người Chăm tại Việt Nam không hoàn toàn do ngoại nhập mà có sự pha trộn
yếu tố văn minh và văn hóa của những nhóm cư dân bản địa có mặt từ
trước.
Trong thực tế không có bộ tộc nguyên
thủy nào có tên Chăm. Chăm chỉ là tên gọi của nhiều nhóm dân cư sau này
chọn sinh sống trên lãnh thổ của vương quốc Champa hay Chiêm Thành cũ,
gọi chung là người Chămpa, chứ không phải tên riêng của một nhóm chủng
tộc. Sau này cộng đồng người Chăm đồng bằng chấp nhận danh xưng Chăm, và
đồng hóa nguồn gốc Nam Đảo của mình với nền văn minh và văn hóa Chiêm
Thành cũ, để phân biệt với các nhóm Chămpa khác xuất phát từ nhiều nguồn
gốc ngôn ngữ và chủng tộc khác nhau. Có thể nói vương quốc Chiêm Thành
xưa kia là một liên bang đa chủng và đa văn hóa.
Nền văn hóa cổ Champa
Sau khi đã thống lãnh toàn bộ các khu
vực có dân cư sinh sống trên vùng duyên hải miền Trung, từ thế kỷ thứ 2
đến thế kỷ 8, các nhóm người hải đảo gốc Malayo Polynésien bắt đầu thiết
đặt nền tảng vật chất để trị vì lâu dài: xây dựng kinh thành, phổ biến
lối sống định canh và tổ chức xã hội theo kiểu lãnh chúa. Vì trình độ
văn hóa không cao nhưng giỏi chinh chiến, những nhóm này một mặt chỉ lưu
giữ một phần của nền văn minh hấp thụ qua các đạo sĩ và thương nhân Ấn
Độ (chữ Phạn và văn hóa Ấn Độ) đến đây trao đổi hàng hóa hay tạm trú,
mặt khác vẫn duy trì một số tập tục, văn hóa bản địa cổ truyền của mình.
Qua những di tích và văn hóa còn lại, người ta nhận thấy tất cả đều có
sự pha trộn giữa yếu tố bản địa và Ấn Độ. Tuy vậy, với thời gian, văn
hóa Ấn Độ dần dần trở thành yếu tố độc tôn, lấn át văn hóa bản địa ở
phía Nam và Trung Hoa ở phía Bắc.
Nhưng các đạo sĩ và thương gia Ấn Độ chỉ
truyền bá văn minh, văn hóa, tổ chức xã hội, kỹ thuật hàng hải, buôn
bán và canh tác nông nghiệp của họ cho giới vương quyền và các lãnh chúa
địa phương mà thôi, quần chúng dân gian không được chiếu cố tới. Sự
phân biệt này có nhiều lý do, thứ nhất là quần chúng dân gian không có
trình độ văn hóa cao, thứ hai là họ không phải là thành phần có quyền
quyết định, thứ ba là sự tuân thủ các điều luật của đạo Bà La Môn, đẳng
cấp này không thể giao tiếp với đẳng cấp kia. Và qua đó, những đạo sĩ Bà
La Môn dần dần được các lãnh chúa trọng vọng và giữ những vai trò cao
trong triều chính để giúp họ cai trị hữu hiệu và lâu bền.
Luật Manu của đạo Bà La Môn (Brahmanism)
phân chia xã hội thành bốn đẳng cấp (castes). Đứng đầu là Brahman, tức
giới đạo sĩ (phần lớn là người Ấn Độ), được cho là sinh ra từ miệng của
Brahma (Phạm Thiên), nắm quyền văn hóa tư tưởng và học thuật. Thứ hai là
Ksatriya (Lý Đế Lợi), tức đẳng cấp vua chúa, quí tộc, chiến sĩ (phần
lớn là người Chăm gốc Nam Đảo), được sinh ra từ hai cánh tay của Brahma
nên nắm quyền chính trị và quân sự. Thứ ba là Vaisya (Phệ Xá), tức giới
thương gia và phú nông (đa số là người Chăm giàu có và người Thượng gốc
Nam Đảo), được sinh ra từ hai đùi của Brahma nên có quyền làm kinh tế và
xây dựng. Thứ tư là Sudra (Thủ Đà), tức đẳng cấp thợ thủ công, bần dân
(đa số là các sắc dân miền núi và tù binh), được sinh từ hai bàn chân
của Brahma chỉ để bị sai khiến và làm nô dịch.
Tuy vậy, trong giai đoạn đầu, do chịu
ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa và Phật phái Đại Thừa, không thấy có
sự phân chia đẳng cấp xã hội trong những bia ký tìm được trên lãnh thổ
Bắc Chiêm Thành. Ngược lại trên lãnh thổ Nam Chiêm Thành, đẳng cấp Sudra
vẫn tiếp tục tồn tại cho tới thế kỷ 19. Ngày nay đẳng cấp Brahman chỉ
còn thấy trong các dịp tế lễ của giáo dân đạo Bà La Môn (các thầy Paseh,
Tapah) và đạo Bani mà thôi (các thầy Char, Po Adhya, Po Bac), nhưng đã
biến dạng rất nhiều so với nguyên thủy.
Người Chăm theo đạo Bà La Môn được gọi
là Chăm Jăt, tức người Chăm chính thống. Đạo Bà La Môn trở thành tôn
giáo chính trong giai đoạn đầu, từ thế kỷ 3 (theo bia Võ Cảnh ở Nha
Trang). Tuy gọi là tôn giáo chính nhưng chỉ giới vương tôn quí tộc mới
có quyền hành lễ và dự lễ mà thôi, quần chúng dân gian hoàn toàn bị cấm.
Đạo Bà La Môn lúc ban đầu phát triển mạnh tại miền Nam Chiêm Thành rồi
phát triển ra miền Bắc từ thế kỷ thứ 4, dưới triều vua Bhadravarman I
(Fan-houta hay Phạm Hồ Đạt), người sáng lập ra triều đại Gangaraja (sông
Gange, Ấn Độ). Đạo Bà Là Môn giữ vai trò độc tôn trong các triều chính
cho đến thế kỷ 10, sau đó nhường vai trò lại cho đạo Phật Tiểu Thừa
(Thevada). Dưới triều vua Indravarman II (thế kỷ 9), pháp danh
Paramabuddhaloka, đạo Phật và đạo Bà La Môn cùng nhau phát triển, nhiều
tu viện và chùa được xây dựng tại Đồng Dương thờ Buddha và thần Siva.
Phật giáo Tiểu Thừa tuy được du nhập
cùng lúc với đạo Bà La Môn nhưng không phát triển mạnh vì không thừa
nhận tính cực đoan của giai cấp cầm quyền đương thời, do đó chỉ phát
triển mạnh trong giới dân gian. Phật giáo tại Champa có hai phái: phái
Arya Sammitinikaya (Tiểu Thừa) và phái Sarva Stivadanikaya (Đại Thừa),
đa số Phật tử Chăm trong giai đoạn đầu theo phái Tiểu Thừa. Miền Nam
Chiêm Thành không có dấu vết gì về Phật giáo Đại Thừa ; ngược lại tại
miền Bắc, do ảnh hưởng Trung Hoa, Phật giáo Đại Thừa do các tu sĩ Trung
Hoa mang vào phát triển mạnh từ thế kỷ thứ 6 đến thứ 9, nhất là trong
giới dân gian sinh sống tại châu thổ sông Hồng và sông Mã (Cửu Chân,
Nhật Nam), sau đó thì mất hẳn.
Ngôn ngữ của người Chăm cũng rất khó xác
định. Nói người Chăm có một ngôn ngữ đặc thù là không đúng. Thổ dân bản
địa lúc ban đầu có lẽ đã trao đổi với nhau bằng ngôn ngữ cổ Mã Lai, kế
là thổ ngữ Nam Đảo. Về sau một số dân cư từ phía Nam tràn lên miền Bắc
và miền núi lập nghiệp góp phần pha trộn ngữ âm Môn Khmer vào tiếng địa
phương. Rồi những đợt di dân từ ngoài biển (Java, Sumatra), những dân
tộc phương Bắc (Văn Lang, Trung Hoa) và những nền văn minh khác (Ấn Độ, Ả
Rập) liên tiếp gia nhập vào vùng đất này, ngôn ngữ của người Chămpa đã
biến đổi, phân hóa thành nhiều hệ khác nhau (nhất là các sắc dân miền
núi), mặc dầu vậy yếu tố Nam Đảo vẫn là mạnh nhất, ảnh hưởng và chi phối
đến lối phát âm chính của người Chăm.
Tại miền Bắc, do ảnh hưởng của Trung Hoa
những bậc vương tôn có thể đã sử dụng chữ Hán trong các văn thư trao
đổi với các quan lại nhà Hán tại Giao Chỉ cho tới năm 192, lúc đó còn là
lãnh thổ thuộc nhà Hán (quận Tượng Lâm). Nhưng đến đời con cháu Khu
Liên, người sáng lập vương quốc Lâm Ấp đầu thế kỷ thứ 3, nhiều phái bộ
được cử sang Giao Chỉ triều cống, các văn thư đều viết bằng chữ Hồ (tức
chữ Phạn cổ). Điều này chứng tỏ người Ấn Độ (tu sĩ và thương nhân) đã
vào Lâm Ấp truyền giáo và giao thương trước thế kỷ thứ 2 và đã phổ biến
chữ viết. Những địa danh và tên các vương triều từ thế kỷ thứ 3 trở đi
đều mang tên Ấn Độ, kể cả tên nước (Campapura là tên một địa danh tại
miền bắc Ấn Độ). Chữ Phạn trở thành chữ quốc ngữ của vương quốc Champa
cổ từ thế kỷ 2. Những bia ký tìm được đều được khắc bằng chữ sanskrit,
tức chữ Phạn cổ.
Lâu dần chữ Phạn cổ có nhiều thay đổi.
Người Chăm pha trộn và biến cải chữ Phạn cổ thành tiếng “Chăm mới”, nhất
là từ sau thế kỷ 15 khi vương quốc miền Bắc bị tan rã, dân chúng Nam
Chiêm Thành chỉ sử dụng chữ “Chăm mới” và còn áp dụng cho đến ngày nay.
Chữ “Chăm mới” có nhiều trùng hợp với các loại chữ viết của các dân tộc
hải đảo Đông Nam Á, nhất là với ngôn ngữ Malaysia và Indonesia.
Đạo Hồi được người Ả Rập truyền bá vào
Đông Nam Á từ thế kỷ thứ 7, mạnh nhất là trong các quần đảo Sumatra,
Java, bán đảo Mã Lai và các hải đảo nhỏ phía đông nam Philippines. Người
“Java” (cách gọi chung những nhóm dân cư hải đảo thời đó) hấp thụ giáo
lý đạo Hồi qua các giáo sĩ và thương nhân Ả Rập trốn chạy những cuộc
thánh chiến đẫm máu đang xảy ra quanh vùng biển Địa Trung Hải và Trung
Đông từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 9. Yếu tố hấp dẫn dân cư Nam Đảo
theo đạo Hồi là tính (thiện) tuyệt đối của nó: không tôn thờ hình tượng
và xây dựng đền đài như đạo Bà La Môn. Dân cư hải đảo, đa số là thành
phần ngư dân, đã theo đạo rất đông vì không muốn tham gia xây dựng đến
đài tôn thờ các vị thần Ba La Môn giáo nữa. Khi các “hải tặc Java” (cách
gọi những ngư phủ không hành nghề đánh cá mà chỉ chuyên đi cướp bóc
ngoài khơi Biển Đông) đổ bộ lên miền Trung, họ đã mang theo một số sinh
hoạt của nền văn minh và văn hóa Hồi giáo đến với các nhóm dân cư bản
địa. Đó chỉ là những hiện tượng rời rạc vì đa số dân cướp biển không có
trình độ văn hóa cao, không thể vừa cướp bóc vừa truyền đạo.
Nhiều thuyền buôn Ả Rập từ các hải cảng
Basra, Siraf và Oman đã đến buôn bán với Chiêm Thành trong các thế kỷ 7
và 9, nhưng không được đón tiếp nồng hậu vì ngôn ngữ bất đồng, do đó
không thể truyền đạo cho dân chúng địa phương. Hơn nữa thương nhân Ả Rập
không ở lại như người Ấn Độ vì sợ cướp bóc, thêm vào đó họ cũng không
thích hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền Trung. Đạo Hồi được
truyền bá vào vương quốc Chiêm Thành qua trung gian các nhà ngoại giao
và thương nhân Java và Sumatra ngoài khơi Biển Đông. Vì lẽ đó, đạo Hồi
tại Chiêm Thành có nhiều khác biệt so với đạo Hồi chính thống.
Mốc thời gian đạo Hồi được du nhập vào
Chiêm Thành là thế kỷ 10. Dưới thời vua Indravarman III (918-959), tể
tướng Po Klun Pilih Rajadvara nhận cho một số gia đình hoàng tộc Rahdar
Ahmed Abu Kamil, Naqib Amr, Ali (trốn chạy chính sách cai trị khắc
nghiệt của những tiểu vương Java) vào tị nạn. Những người này đã nhân
dịp truyền bá luôn giáo lý đạo Hồi cho các gia đình hoàng gia Chiêm
Thành.
Trong các thế kỷ sau mới có thêm các
giáo sĩ, thương gia và giáo dân Hồi giáo Java từ Biển Đông vào giảng dạy
giáo lý, lần này cho quần chúng. Qua tư cách và lối sống đạo của các
người Hồi giáo Java, giáo lý đạo Hồi chinh phục nhanh chóng đức tin của
quần chúng Chiêm Thành, thật ra họ cũng không muốn bị tước hết tài
nguyên nhân vật lực để xây dựng những đền đài Bà La Môn giáo nữa. Nhiều
người Chăm đã được thương nhân và giáo sĩ Java đưa sang Ả Rập học đạo.
Đạo Hồi được đông đảo người theo và trở thành tôn giáo thứ hai của vương
quốc Chiêm Thành, sau đạo Bà La Môn, từ thế kỷ thứ 11 đến thế kỷ 15.
Chữ Ả Rập được du nhập vào vương quốc Chiêm Thành cùng với đạo Hồi,
nhưng không lấn át được chữ Phạn.
Vị vua theo đạo Hồi được biết đến nhiều
nhất là Po Alah (Po Ovlah, Po Âu Loah hay Po Allah), trị vì 36 năm
(1000-1036) tại Sri Bini (Qui Nhơn). Po Alah học đạo ở La Mecque 37 năm
rồi mới về nước trị vì. Dưới triều vua Po Alah, đạo Bà La Môn và đạo Hồi
phát triển rất mạnh, nhiều đền thờ Siva và nhà thờ Hồi giáo được xây
dựng tại Amavarati (Mỹ Sơn-Quảng Nam). Đạo Hồi rất thịnh hành tại Thuận
Hải (các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận ngày nay), nhưng cũng biến cải dần
theo thời gian, theo phong tục và lối sống của người địa phương, mất dần
tính chính thống của đạo Hồi Ả Rập. Đạo Hồi tại Thuận Hải có tên là đạo
Bani (Hồi giáo biến cải), người Chăm theo đạo Bani được gọi là Chăm
Bani để phân biệt với người Chăm theo đạo Hồi chính thống, gọi là Chăm
Islam. 3/5 người Chăm tại Thuận Hải theo đạo Bà La Môn, 2/5 còn lại theo
đạo Bani. Tuy vậy tại Thuận Hải cũng có ba làng Chăm Islam (2 ở Văn Lâm
và 1 ở Phước Nhơn, huyện Ninh Phước, chiếm tỷ lệ 30% so với người theo
đạo Bani).
Về sau, khi bị áp bức và chiến tranh đe
dọa, một mảng lớn giáo dân theo đạo Bà La Môn và đạo Hồi chạy sang Chân
Lạp và Java sinh sống. Khi định cư tại Chân Lạp, người Chăm bị nhóm Hồi
giáo Mã Lai đồng hóa, cộng đồng Chăm và Mã Lai tại đây được gọi chung là
Khmer Islam. Tại Chân Lạp sau một thời gian xung đột chính trị và tôn
giáo với người Khmer (theo đạo Bà La Môn và Phật giáo Tiểu Thừa), một số
người Chăm đã chạy về Châu Đốc lập nghiệp, đa số là thành phần tu sĩ,
trí thức, nông dân và thương nhân. Người Chăm tại đây học kinh Coran
viết bằng chữ ẢRập. Được những thương nhân ẢRập di cư truyền cho cách
thức buôn bán, người Khmer Islam và Chăm Islam rất giỏi buôn bán.
Tại miền Trung, các thầy Char (Po Char)
của người Chăm Bani thay mặt giáo dân giữ đạo. Tín đồ Bani chỉ giữ đạo
vào mùa chay (ramadan) mà thôi, không nhất thiết phải cầu kinh 5 lần một
ngày hay ăn chay trường. Ngược lại người Chăm theo đạo Hồi tại Châu Đốc
giữ đạo đúng theo luật của Hồi giáo chính thống: tín đồ đều hướng về La
Mecque 5 lần trong ngày để cầu nguyện, họ rất kiêng cử trong việc ăn
uống và rất khắt khe trong việc lập gia đình.
Truyền thuyết về các dòng vương tôn
Theo truyền thuyết, các dòng vương tôn
cầm quyền tại Chiêm Thành đều xuất thân từ hai dòng họ lớn. Mỗi dòng họ
lấy một vật tổ (totem) làm biểu tượng. Dòng vương tôn ở phía Nam lấy cây
Cau (Kramukavansa) làm biểu tượng, những nhà nghiên cứu gọi là chi bộ,
bộ tộc hay thị tộc Cau. Dòng vương tôn ở phía Bắc lấy cây Dừa
(Narikelavansa) làm biểu hiệu, gọi là chi bộ, bộ tộc hay thị tộc Dừa.
Chỉ những truyền nhân xuất thân từ hai dòng họ này mới được công nhận
lên ngôi vua, tức phải thuộc đẳng cấp Brahman và Ksatriya. Những người
dân thường, cho dù có tài giỏi hay anh dũng đến đâu cũng không được công
nhận là vua nếu không chứng minh có liên hệ huyết thống đến hai dòng họ
này, tức phải do một phụ nữ mang dòng máu vương tôn sinh ra.
Trong lịch sử Chiêm Thành, nhiều người
xuất thân là dân thường phải biện hộ có thần linh yểm trợ để lên ngôi
vua như Phạm Văn (nguyên là một người chăn dê gốc Hoa), Lưu Kỳ Tông (một
người Việt muốn lên làm vua nhưng không được dân chúng tuân phục) hay
nhiều vị tướng khác sau khi đã hạ đối thủ chính trị.
Thật ra người dân thường khó giữ được
ngôi cao trong xã hội Chiêm Thành vì không bao giờ có cơ hội, hơn nữa
những người thuộc giai cấp vương tôn, đặc biệt là giới vương tôn nữ
phái, chỉ lập gia đình với những dòng vương tôn với nhau, do đó không có
những cuộc hôn nhân không môn đăng hộ đối và ít có những cuộc hôn nhân
dị chủng, dị giáo. Phụ nữ quí tộc Chăm chỉ chọn chồng cùng đẳng cấp, đa
số cung phi của các vua Chiêm Thành đều xuất thân từ các gia đình quí
tộc. Khi một vua Champa cưới một người vợ ngoại quốc, ông ta chỉ có thể
lập gia đình với con gái của những vua chúa thuộc các vương triều khác,
chứ không thể lấy một người thường dân.
Xã hội Chiêm Thành tuy theo chế độ mẫu
hệ nhưng lại phụ quyền. Trong gia đình, người đàn bà, gọi là Mẹ cả, đảm
nhiệm vai trò chọn người kế thừa, bàn thảo tương lai con cái, chọn chồng
cho con gái, đứng ra cưới hỏi, gìn giữ bàn thờ tổ tiên, giữ gìn hương
hỏa. Ngoài xã hội, người đàn ông có toàn quyền quyết định việc canh tác,
giao thiệp và buôn bán, nhưng chỉ người con trai hay đàn ông nào được
sinh ra bởi một người mẹ thuộc dòng quí tộc mới được chấp nhận làm vua
hay giữ vai trò cao trong triều đình.
Tài liệu cổ và truyền thuyết Chăm cho
biết truyền nhân của những dòng họ vị vua cai trị vương quốc Champa là
hai vị nữ thần được sinh ra bởi nữ thần Sakti Bhagavati, vợ của Siva:
Visitrasaga cho các vua phía Nam và Uroja cho các vua phía Bắc. Chỉ
những người mang dòng máu từ những phụ nữ này mới được giữ những địa vị
cao và nắm giữ vai trò lãnh đạo, con cháu của họ có thể là những người
sinh sống tại đồng bằng hay trên miền núi.
Hình tượng Linga (bộ phận sinh dục tượng
trưng cho sức mạnh của phái nam, biểu tượng của khả năng tái tạo) tượng
trưng cho thần Siva (nam tính) hiện thân qua nữ thần Uroja. Hình tượng
Yoni (cơ quan sinh sản của phái nữ, biểu tượng của khả năng dưỡng dục)
tượng trưng cho nữ thần Bhagavati (nữ tính) hiện thân qua nữ thần
Visitrasaga. Uroja còn được gọi là thần Núi, Visitrasaga là thần Biển.
Tượng Uroja được xây dựng trên các triền núi ở phía Bắc, tượng nữ thần
Bhagavati được tôn thờ nhiều trên những vùng bình nguyên phía Nam, cạnh
các bờ biển. [Vị thần bảo vệ vương quốc Nam Chiêm Thành là nữ thần Yan
Po Nagar (Bà Mẹ Đất Nước hay Thiên Y Thánh Mẫu)]. Chính những phân chia
dòng tộc Nam và Bắc này mới nảy sinh ra huyền thoại về các bộ tộc Cau và
Dừa.
Về bộ tộc Cau, theo truyền thuyết, vào
thời xa xưa một vị vua cai trị phương Nam một hôm thấy bên cạnh cung
đình có một cây cau trổ một buồng trái thật lớn và thật đẹp. Đến ngày
trổ hoa, buồng cau không nở, nhà vua thắc mắc liền sai một gia nhân trẻ
tuổi trèo lên hái xuống xem sao. Gia nhân mang xuống dâng lên vua. Vua
lấy gươm báu chẻ mo cau ra thì thấy một em bé mặt mũi hồng hào đẹp đẽ.
Nhà vua rất vui mừng, nhận làm con nuôi và đặt tên là Radja Po Klong,
tức hoàng tử Po Klong (Po Klău). Mo cau bọc hoàng tử được dùng làm mộc
đỡ của hoàng gia và mũi nhọn của mo cau được biến thành gươm báu của nhà
vua. Mộc đỡ và gươm báu sau này trở thành biểu tượng cho uy quyền của
các vị vua Chiêm Thành phía Nam.
Hoàng tử Po Klong không chịu bú sữa của
người thường mà chỉ bú sữa của một con bò tơ ngũ sắc. Đó cũng là lý do
giải thích tại sao người Chăm ở phía Nam sau này từ chối giết và ăn thịt
bò. Hoàng tử Po Klong càng lớn lên càng đẹp và khỏe mạnh. Nhà vua sau
đó gả con gái và cho kế nghiệp. Khi lên ngôi, Po Klong cho xây một cung
thành tuyệt mỹ trải rộng trên bảy ngọn đồi, đặt tên là Băl.
Băl sau này là thủ đô của các tiểu vương
quốc Champa theo tiếng “Chăm mới”, như Băl Cău ở Phan Rang, Băl Canar ở
Phan Rí (thôn Tịnh Mỹ) của bộ tộc Cau. Chuyện bò ngũ sắc là dựa theo
truyền thuyết Bò Thần của đạo Bà La Môn bên Ấn Độ, ý muốn nói bò là một
vị thần, dân chúng phải tôn thờ không được ăn thịt hay sử dụng phó sản
của bò để tỏ lòng tôn kính thần linh.
Về bộ tộc Dừa, các dòng vương tôn phương
Bắc cũng dựa theo truyền thuyết trên để tạo sự huyền bí về dòng dõi
vương quyền của mình, nhưng đổi buồng cau thành buồng dừa và mo cau
thành mo dừa. Theo lời kể lại, một vị hoàng tử được sinh ra từ một mo
dừa, làm con nuôi một vị vua, lấy một cô công chúa và sau đó được tôn
lên làm vua. Không rõ vị vua này tên gì, các nhà nghiên cứu Chăm học và
khảo cổ chưa tìm ra sử tích.
Thật ra, các dòng vương tôn phía Bắc, vì
chịu ảnh hưởng muộn màng nền văn minh Ấn Độ, phải tìm trong kho tàng
dân gian một câu chuyện huyền bí đề cao dòng tộc vương quyền của mình để
tỏ ra ngang hàng với các dòng vương tôn phía Nam. Tuy nhiên, do chịu
nhiều ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa lúc ban đầu, thay vì phải thờ vật
tổ (cây Cau hay Bò Thần) như người phía Nam, người Chăm phía Bắc đề cao
cây Dừa như một biểu tượng huyền bí của uy quyền – như người Hoa đề cao
con rồng hay con phượng. Hơn nữa, vật tổ của người Chăm phương Bắc không
mang ý nghĩa tôn giáo mà chỉ thuần túy là một biểu tượng. Tượng mà
người Chăm miền Bắc tôn thờ là Buddha, Siva và các vị thần Ấn Độ khác.
Một vị vua làm được nhiều tốt cho dân chúng, khi chết đi được dân chúng
tạc tượng và lập đền thờ tôn kính như một vị Phật. Tên vị vua quá cố
thường được kết hợp với tên thần Isvara (tức Siva), do đó tên sau cùng
của các vị vua quá cố thường có thêm chữ “vara” (như Bradresavara,
Sambhudresavara) để thần thánh hóa ngôi vị của mình, vua là do thần sai
xuống cai trị dân gian.
Qua sự phân chia này, trong suốt dòng
lịch sử của vương quốc cổ Champa, các bia ký ghi lại rất nhiều tranh
chấp giữa hai bộ tộc về quyền lãnh đạo, không bộ tộc nào chịu nhường bộ
tộc nào. Bộ tộc Dừa bị coi là bộ tộc bình dân (không tinh khiết) thường
bị các dòng vương tôn bộ tộc Cau (tự nhận là truyền nhân chính thống)
khinh thường. Tuy nhiên vì quyền lợi của đất nước, nhiều lúc hai bộ tộc
này đã biết kết hợp lại với nhau thành một để đối phó với kẻ thù chung.
II .Thời kỳ xác định bản thể
Vương quốc Chiêm Thành (Champa) cổ cho
đến nay vẫn còn là một bí ẩn đối với người Việt Nam. Vương quốc này ở
đâu, xuất hiện từ thời nào, phát triển ra sao và tại sao biến mất? Không
sử sách Việt Nam nào nhắc đến. Đọc lại sử xưa, những nhân vật lịch sử
Chiêm Thành, với những tên phiên âm Hán hóa, thường được nhắc tới một
cách mơ hồ, đôi khi với những lời lẽ xúc phạm, từ đó sinh ra hiểu lầm
rồi hiểu sai dẫn đến tâm lý phân biệt đối xử hay khinh thường, không
thông cảm lẫn nhau.
Đây là thiếu sót lớn trong quan hệ giữa
người Việt và người Việt với nhau. Tình trạng này cần sớm chấm dứt vì
cộng đồng người Chăm ngày nay là thành tố bất khả phân của dân tộc Việt
Nam. Quá khứ của người Chăm cũng là quá khứ chung của người Việt Nam.
Tìm hiểu lịch sử vương quốc Chiêm Thành xưa, chính vì thế, không những
là một bắt buộc lịch sử mà còn là một biểu lộ tình cảm để hàn gắn những
tai họa mà cộng đồng người Việt Nam nói chung đã gây ra cho những dân
tộc anh em trước khi cùng nhau bắt tay xây dựng lại một đất nước chung.
Quan niệm về đất đai, lãnh thổ và tổ chức chính trị
Trước khi đi sâu vào phần tìm hiểu lịch
sử vương quốc Chiêm Thành xưa, tưởng cũng nên duyệt lại một số quan niệm
về đất đai và lãnh thổ của người Kinh và người Chăm. Có nắm vững yếu tố
này, chúng ta sẽ dễ dàng theo dõi những chuyển biến lịch sử tiếp theo
và kết quả tất yếu của nó. Khuyết điểm của những nhà viết sử hay nghiên
cứu dân tộc học là thường dựa trên những quan điểm văn hóa và tình cảm
của mình để phê phán các dân tộc khác, hiểu lầm và ngộ nhận là không
tránh khỏi.
Đất đai và lãnh thổ tuy là những giá trị
cụ thể nhưng quan điểm của người Kinh và người Chăm rất khác nhau. Đối
với người Kinh, đất đai và lãnh thổ vừa là một giá trị vật chất vừa là
một biểu tượng tình cảm, trong khi đối với người Chăm đó là một giá trị
tâm linh và là một biểu tượng thần quyền.
Qua những đợt di dân liên tục từ hơn một
ngàn năm qua, lãnh thổ của người Kinh không ngừng mở rộng theo thời
gian và cộng đồng người Kinh ngày nay đã có mặt tại khắp nơi trên thế
giới. Người Kinh tuy rất quí đất đai nhưng đó chỉ là một tài sản cần
phải bảo vệ, một kỷ niệm cần phải giữ gìn. Rất ít ai chịu giam mình nơi
chôn nhau cắt rốn nếu điều kiện sinh sống nơi đó khó khăn. Nơi nào có
thể an cư lạc nghiệp được, nơi đó trở thành quê hương, nơi nào sinh sống
khó khăn thì bỏ đi tìm nơi khác. Và khi ra đi, người Kinh mang theo cả
bàn thờ tổ tiên, gia phả và tín ngưỡng đi theo, do đó không có vấn đề
mất gốc hay mất cội nguồn.
Suy cho cùng, người Kinh vừa là một dân
tộc du mục vừa là một dân tộc phù sa, bởi vì, một mặt, lịch sử dân tộc
Kinh là một lịch sử di dân thường trực và cuộc di dân này đến nay chưa
chấm dứt, mặt khác, người Kinh chỉ gắn bó với những vùng đất thấp, đất
đồng bằng cạnh những dòng sông hay trục lộ giao thông, ít ai chịu gắn bó
đời mình với rừng núi hay biển cả bao la.
Trên phạm vi lớn hơn là lãnh thổ. Lãnh
thổ bao gồm cả đất đai, bầu trời và vùng nước, có lằn ranh nhất định và
thuộc chủ quyền một quốc gia. Đối với người Kinh, lãnh thổ là một phạm
trù ảo, không cụ thể, cha chung không ai tiếc. Lãnh thổ rộng hẹp ra sao
là vấn đề trách nhiệm của những người lãnh đạo quốc gia, không ảnh hưởng
gì đến đời sống thường ngày của người dân.
Người Chăm thì ngược lại, đất đai là một
vật thể thiêng liêng không thể sang nhượng và chối bỏ. Từ ngàn xưa cha
ông đã ở đây thì con cháu đời sau phải ở đó, không ai tự quyền rời bỏ
quê cha đất tổ định cư nơi khác. Rời bỏ quê cha đất tổ là từ bỏ dòng
tộc, từ bỏ thần linh. Chính vì thế, trong suốt dòng lịch sử đương đầu
với người Kinh, cộng đồng người Chăm chấp nhận mọi hy sinh và gian khổ
để giữ đất và bám đất, cho dù quê hương không còn hay bị tước mất. Tất
cả những lễ lạc trong triều chính và ngoài dân gian đều nhằm vinh danh
các vị thần cai quản đất đai, vì đất là nguồn sống và cũng là nơi ngự
trị của các vị thần bảo vệ đất, che chở gia đình và đồng tộc. Nếu vì một
lý do nào đó ngoài ý muốn một người Chăm phải rời bỏ quê hương đi nơi
khác lập nghiệp, sinh hoạt tâm linh của người đó luôn gắn liền với nơi
sinh quán cũ, vì không ai được quyền mang bàn thờ tổ tiên và thần linh
đi theo, con người lệ thuộc thần linh chứ không ngược lại. Hơn nữa nếu
phải ly hương, người đó cũng không thể đi ra ngoài lãnh thổ đã được thần
linh che chỡ, nghĩa là chỉ giới hạn trong vùng đất của đồng tộc mà
thôi. Đó là lý do giải thích tại sao tại người Chăm không di cư ra khỏi
địa bàn cư trú của họ và tại nhiều nơi, nhất là ở Bình Thuận, người Chăm
định cư tại một làng cách xa nơi sinh quán cũ cả trăm cây số nhưng vẫn
muốn lệ thuộc về hành chánh và nghi lễ tại làng cũ. Đạo Hồi khi du nhập
vào đây cũng phải thích nghi với tâm lý tôn thờ thần linh của người Chăm
để được chấp nhận và đã biến cải thành đạo Bani. Tất cả chỉ vì người
phụ trách lễ nghi và sổ bạ hành chánh địa phương là các thầy Paseh,
Tapah (nếu là giáo dân đạo Bà La Môn) và các thầy Char, Po Adhya, Po Bac
(nếu là giáo dân đạo Bani). Đây là một khó khăn về quản trị hành chánh
mà các chính quyền người Kinh không hiểu nổi và muốn xóa bỏ, nhiều tranh
chấp đáng tiếc đã xảy ra.
Nhiều người sẽ hỏi dân số vương quốc
Chiêm Thành xưa bây giờ ở đâu? Không lẽ đã bị tiêu diệt hết sao? Con số
100.000 người Chăm tại Bình Thuận và Châu Đốc có phản ánh đúng sự thật
không?
Câu trả lời là không và dân chúng gốc
Chăm vẫn còn nguyên vẹn. Người Chăm đồng bằng không đi đâu cả, họ đã ở
lại trên lãnh thổ cũ tại miền Trung và với thời gian đã trở thành công
dân Việt Nam một cách trọn vẹn. Có thể nói không một người Việt Nam nào
sinh sống từ lâu đời tại miền Trung nào mà không mang ít nhiều dòng máu
Champa trong người. Điều này cũng rất dễ khám phá, ít nhất là về hình
dáng: da ngăm đen, vai ngang, mặt vuông, tóc dợn sóng, vòm mắt sâu, mắt
bầu dục hai mí, mũi cao, môi dầy, miệng kín. Cũng không phải vô tình mà
cách phát âm của người miền Trung khác hẳn phần còn lại của đất nước,
với nhiều âm sắc thấp của người Champa. Đó là chưa kể những danh từ có
nguồn gốc Champa. Cũng không phải tình cờ mà các điệu múa hát của người
Chăm trở thành những điệu múa hát trong cung đình và ngoài dân gian thời
Nguyễn. Nêu ra một vài trường hợp cụ thể trên chỉ để chứng minh một
điều: dân cư vương quốc Champa cũ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội Việt
Nam. Nhắc lại quá khứ của người Chăm cũng là nhắc lại quá khứ của cộng
đồng người Việt tại miền Trung nói chung.
Về chính trị, vương quốc Champa được tổ
chức theo định chế liên bang. Trước khi bị xóa tên, vương quốc Chiêm
Thành là một kết hợp của nhiều tiểu vương quốc, từ đèo Ngang (Quảng
Bình) đến mũi Kê Gà (Bình Thuận). Mỗi tiểu vương cai trị một lãnh thổ
riêng, với một dân số nhất định, sinh hoạt độc lập với các tiểu vương
khác và không can thiệp vào nội bộ của nhau. Một cách không chính xác,
vương quốc Chiêm Thành cũ (Campapura) có ít nhất năm tiểu vương quốc:
Indrapura (Bình Trị Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Nghĩa Bình),
Kauthara (Phú Khánh) và Panduranga (Bình Thuận). Có thể thêm tiểu vương
quốc Aryaru (Phú Yên) là sáu, nhưng sự hiện diện của tiểu vương quốc này
trong lịch sử Chiêm Thành không rõ ràng.
Trong mỗi tiểu vương quốc cũng có sự
phân chia quyền hành giữa các lãnh chúa địa phương. Chính sách địa
phương tản quyền này đã được triều đình Việt Nam công nhận năm 1471, khi
thành Đồ Bàn, kinh đô vương quốc Chiêm Thành, vừa bị đánh chiếm: đất
Quảng Nam được chia thành nhiều lãnh địa khác nhau và giao cho những
lãnh chúa Champa địa phương cai quản. Vương quyền trung ương Chiêm Thành
chỉ giữ vai trò thần quyền, gìn giữ sự thống nhất và sự vẹn toàn lãnh
thổ mà thôi, những sinh hoạt khác đều do các tiểu vương quốc địa phương
đảm nhiệm. Khi có nhu cầu hay gặp nguy biến, triều đình trung ương nhân
danh thần linh bảo vệ vương quốc kêu gọi các tiểu vương địa phương đóng
góp nhân tài, vật lực xây dựng đền đài, chuẩn bị chinh chiến hay triều
cống các thế lực lớn mạnh hơn. Vị thần bao vệ vương quốc Chiêm Thành
được biết đến nhiều nhất là nữ thần Yan Po Nagar (Bà Mẹ Đất Nước hay
Thiên Y Thánh Mẫu), đền thờ đặt tại Xóm Bóng, Nha Trang.
Về biên giới, lằn ranh phân chia giữa
các tiểu vương quốc và vương quốc Chiêm Thành cũ với các thế lực chính
trị đương thời là một biên giới thần quyền, không ai được quyền vượt qua
và cũng không ai có quyền xâm phạm. Vương triều Chiêm Thành không có
tham vọng đất đai, họ chỉ tập trung phát triển và bảo vệ những đất đai
thuộc quyền sở hữu mà thôi. Những chuyển biến lịch sử sau đây chứng minh
điều đó.
Tượng Lâm: địa bàn xác định bản thể
Rất khó xác định mốc thời gian để biết
vương quốc cổ Chiêm Thành đã được hình thành từ hồi nào. Phần lớn những
nhà khảo cổ và sử học đều đồng ý là vương quốc này xuất hiện vào đầu
công nguyên, tức là thời gian người Chăm bắt đầu có chữ viết, chữ Phạn
cổ. Nói như vậy không có nghĩa là trước đó người Chăm không có lãnh thổ,
không có tổ chức chính quyền và không có lịch sử riêng. Bản thể Chiêm
Thành có trước danh xưng. Tổ chức chính quyền của họ có thể đã thành
hình cùng lúc với sự xuất hiện của các Lạc hầu, Lạc tướng trên địa bàn
lưu vực sông Hồng và sông Mã của nước Văn Lang, thời Hùng Vương.
Những tài liệu có dấu vết thời gian rõ
ràng (sử liệu cổ Trung Hoa và các bia ký) ghi nhận vương quốc cổ Chiêm
Thành chính thức xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 2, năm 192 khi quốc gia
Lâm Ấp ra đời. Thật ra vương quốc này trước đó có rất nhiều tên: Hồ Tôn
Tinh, Tượng Lâm. Sau này được đồng hóa với các tên Lâm Ấp, Hoàn Vương
Quốc, Chiêm Thành (Campapura), Phan Rang (Panduranga), cuối cùng là trấn
Thuận Thành (Pradara). Những tên gốc Phạn vừa kể đều do người Trung Hoa
hay người Việt đặt ra, dựa theo cách phát âm của người địa phương mà
gọi.
Về nước Hồ Tôn Tinh, sách Lĩnh Nam Chích Quái viết: “Xưa kia bên ngoài lãnh thổ Âu Lạc có một vương quốc mang tên Diệu Nghiêm [có thể là Phù Nam]. Vị vua của vương quốc này có tên là Tràng Minh, hiệu Quỷ Vương [Dasanana] có mười đầu. Phía bắc vương quốc này có một vương quốc khác tên Hồ Tôn Tinh [quốc gia của người khỉ] do vua Dasaratha cai trị. Hoàng tử Chung Tư [Rama], người kế vị vua Dasaratha, có một người vợ là công chúa Bạch Tinh [Sita].
Công chúa Bạch Tinh có một sắc đẹp tuyệt trần không giống người phàm.
Quỷ Vương, mê hồn trước sắc đẹp của Bạch Tinh, mang binh sang đánh nước
Hồ Tôn Tinh cướp công chúa về nước. Hoàng tử Chung Tư, quá căm giận, dẫn
đầu một đoàn hầu binh xe núi băng biển tiến vào vương quốc Diệu Nghiêm,
giết Quỷ Vương, đưa công chúa Bạch Tinh về”.
Theo nhận xét của học giả Huber (La Légende du Ramayana en Annam,
Etudes indochinoises), Hồ Tôn Tinh có thể là vương quốc Champa cổ.
Những quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ thời đó đều có sự tích
giống nhau, tại Indonésia trong các đền thờ Bà La Môn lớn đều khắc
chuyện thần thoại này trên tường đá. Chuyện Quỷ Vương có mười đầu chỉ là
cách mô tả thô thiển ngai vàng của các vị vua trong thần thoại Ấn Độ và
Phù Nam thường có hình con rắn hổ mang [naja] mười đầu.
Về đất Tượng Lâm, các sử liệu Trung Hoa
xác quyết đó là phần đất ở vùng cực nam quận Nhật Nam xưa kia, trực
thuộc quyền quan trị hành chánh của Giao Châu thời Bắc thuộc, ngày nay
là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định (có tài liệu ghi đến cửa
Đại Lãnh, Phú Yên). Những nhà khảo cổ phương Tây cho rằng Tượng Lâm có
thể là phần đất chạy dọc theo bờ biển, từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân, nằm
trong lãnh thổ các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa
Thiên, gọi chung là Thanh Nghệ Tĩnh và Bình Trị Thiên. Một số học giả
người Chăm xác nhận lãnh thổ Tượng Lâm bao gồm: Indrapura (Bình Trị
Thiên), Amavarati (Quảng Nam) và Vijaya (Nghĩa Bình), sau này gọi chung
là Bắc Chiêm Thành.
Như vậy, về văn hóa, Tượng Lâm là nơi
tập cư của nhiều nhóm người xuất thân từ nhiều nền văn hóa khác nhau,
một sự pha trộn văn hóa tự nhiên giữa các giống người vào thời hoang sơ.
Đầu tiên là sự pha trộn văn hóa giữa các nhóm Indonésien di cư (văn hóa
Indus) và cổ Mã Lai (văn hóa Sa Huỳnh), kế là với nhóm Việt tộc sơ sử
(văn hóa Đông Sơn), sau có thêm người Hán (văn hóa Khổng Mạnh) từ phương
bắc di cư xuống và người Môn Khmer (văn hóa Óc Eo-Phù Nam) từ tây-nam
đi lên. Cuối cùng là những nhóm Malayo-Polynésien (văn hóa Mã Lai – Đa
Đảo hay Nam Đảo) từ biển cả tràn vào hồi đầu công nguyên. Nhóm sau cùng,
hùng mạnh hơn, đã thu phục hay đồng hóa những nhóm có trước, để chỉ còn
yếu tố Nam Đảo độc tôn, và thiết đặt quyền cai trị lâu dài (thế kỷ 1
trước và sau công nguyên). Một số cư dân bản địa, không chấp nhận hay
không chịu nổi sự cai trị của nhóm di dân mới tới, đã di tản lên vùng
rừng núi sinh sống và trở thành những nhóm sắc tộc thiểu số ngày nay,
nhưng không vì vậy mà quan hệ giữa đồng bằng và miền núi bị cắt đứt, dân
cư hai vùng đã nương tựa nhau để tồn tại trong suốt thời gian qua.
Sang thế kỷ thứ 2, một số thương nhân Ấn
Độ đến vùng đất này buôn bán và luôn tiện phổ biến nền văn minh và văn
hóa mà họ thừa hưởng cho thành phần cầm quyền địa phương và một số cơ
chế tổ chức quốc giả đã được thành hình từ miền Nam lên miền Bắc. Một
tấm bia đá tìm được ở làng Võ Cảnh (Nha Trang) cho biết vị vương cai trị
vùng đất phía nam vào thế kỷ thứ 2 tên là Sri Mara, không có phần kế
tiếp. Nhiều học giả cho rằng vị vương đó là Khu Liên, người thành lập
vương quốc Lâm Ấp ở phía bắc, là sai. Sri Mara chỉ là một tiểu vương
Champa ở phía nam (Kauthara), trong khi Khu Liên là một tiểu vương khác ở
phía bắc (Indrapura).
Do nằm cạnh lãnh thổ với Trung Quốc, sự
hình thành vương quốc Champa phía bắc được biết đến nhiều nhất bởi các
nguồn sử liệu Trung Hoa để lại và cũng nhờ đó người ta biết thêm quan hệ
giữa người Việt (các Lạc hầu và Lạc tướng) và người Chăm trong thời Bắc
thuộc đã rất gắn bó.
Cũng nên biết đất Giao Châu, tức nước
Văn Lang cũ là thuộc địa của nhà Đông Hán (-202 đến + 220) từ năm 111
trước công nguyên. Sau khi diệt xong nhà Triệu (Triệu Đà), Hán Vũ Đế
chia đất Âu Lạc (Văn Lang cũ) ra làm ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật
Nam. Theo Tiền Hán thư, quận Giao Chỉ có 92.440 hộ gồm 746.237
dân, quận Cửu Chân có 35.743 hộ gồm 166.013 dân và quận Nhật Nam có
15.460 hộ gồm 69.485 dân. Quận Nhật Nam có năm huyện: Tây Quyển (Hà
Tĩnh), Ty Cảnh hay Ty Ảnh (Quảng Bình), Châu Ngô (Quảng Trị), Lô Dung
(Thừa Thiên) và Tượng Lâm (từ Quảng Nam trở xuống).
Không chấp nhận sự cai trị của người
Hán, một số dân cư (các nhóm Lạc hầu, Lạc tướng) từ các quận Giao Chỉ,
Cửu Chân và Nhật Nam đã hoặc trốn lên các vùng rừng núi phía tây ẩn náu,
hoặc chạy xuống các vùng cực nam (huyện Tượng Lâm) hợp lực với những
nhóm dân cư bản địa chống lại quân Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành địa
bàn tranh chấp quyền lực giữa quan quân nhà Hán với các nhóm cư dân bản
địa trong suốt thời kỳ Bắc thuộc.
Trương Tôn, thái thú quận Cửu Chân (25-56 trước công nguyên), mô tả dân chúng huyện Tượng Lâm là “những
giống người còn man di, chỉ biết bắt cá và săn thú rừng, không biết cày
cấy. Bọn người này rất bất trị, thường hay nổi lên chống lại thiên
triều, đốt nhà, giết người, cướp của, rồi rút vào rừng sâu mỗi khi quân
tiếp viện đến“.
Tại Giao Chỉ, năm 42, một Lạc tướng tên
Thi Sách nổi lên chống lại sự cai trị hà khắc của quân Hán nhưng thất
bại, ông bị quân đô hộ giết chết. Vợ là Trưng Trắc, cùng em là Trưng
Nhị, tiếp nối cuộc kháng chiến chống lại nhà Hán. Hai Bà chiêu mộ nghĩa
binh gốc Nam Đảo phía nam và Lạc Việt phía bắc, đánh đuổi quân đô hộ ra
khỏi xứ sở. Binh lực của Hai Bà chiếm 65 thành trì trong các quận Nhật
Nam, Cửu Chân và Giao Chỉ. Hán vương (Quang Vũ Đế) phải cử Phục Ba tướng
quân Mã Viện mang đại quân sang đánh dẹp và chiếm lại những phần đất đã
mất. Để xác nhận uy quyền của nhà Hán, Mã Viện cho dựng cột đồng khắc
sáu chữ: “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” [Trụ đồng ngã xuống, Giao Chỉ không còn].
Thông điệp này thật ra là một lời nhắn nhũ đám quan quân địa phương:
muốn giữ yên đất Giao Chỉ phải ngăn chặn phiến quân từ phía nam tràn
lên, nếu không đất Giao Chỉ sẽ mất. Quan quân địa phương ở đây phải hiểu
là quan quân nhà Hán và quan quân Lạc Việt hợp tác với nhà Hán cai trị
đất Giao Chỉ (gọi chung là người Kinh, tức người định cư trên đồng
bằng).
Lệnh của Phục Ba tướng quân Mã Viện có
lẽ đã được đông đảo dân chúng địa phương nghe theo nên, theo truyền
thuyết, khi đi ngang trụ đồng mỗi người phải ném một cục đá vào chân trụ
đồng để nó luôn được đứng vững. Sự kiện này giải thích sự qua lại ở khu
vực biên giới phía nam quận Giao Chỉ của các thương nhân phía bắc rất
là tấp nập. Lâu dần trụ đồng bị lấp, ngày nay không còn dấu vết do đó
không biết ở đâu. Cũng có thể Mã Viện, sau khi diệt xong hai Bà Trưng,
đã thi hành một chính sách cai trị mềm dẽo hơn để lấy lòng dân chúng địa
phương, vì không có sử sách nào nhắc đến những cuộc bạo động của người
Giao Chỉ chống lại thiên triều trong suốt hơn 50 năm sau đó.
Trụ đồng này là mốc ranh giới đầu tiên
giữa nhà Hán và dân cư gốc Nam Đảo. Sự kiện này chứng minh các nhóm dân
cư gốc Kinh theo nhà Hán sinh sống trên phần đất phía nam quận Nhật Nam
rất sợ những cuộc tiến công của người Nam Đảo phía dưới. Về địa điểm của
trụ đồng, sử cổ Trung Hoa (Hậu Hán Thư và Thuy Kinh chú) ghi
chép rằng nó nằm ở phần lãnh thổ cực nam của nhà Hán (quận Nhật Nam) ở
huyện Cửu Phong (còn gọi là Cự Phong, tỉnh Quảng Trị ngày nay). Những
nguồn sử khác (Tấn thư, Nam Tề thư và Lương thư) cũng xác nhận trụ đồng được dựng lên ở phía nam huyện Tượng Lâm (phía bắc Thừa Thiên). Có sách (Tân Đường thư) ghi trụ đồng được dựng lên ở phía nam Quảng Châu.
Dấu ngoặc về hai Bà Trưng
Nguồn gốc của hai Bà Trưng cũng cần được
nghiên cứu lại, vì trong thời kỳ này đất Giao Chỉ chịu ảnh hưởng văn
hóa Trung Hoa. Sau gần hai thế kỷ bị đô hộ (từ –111 đến +42) chế độ mẫu
hệ của người Lạc Việt bị chế độ phụ hệ do người Hán mang tới lấn át, mất
dần ảnh hưởng rồi biến mất trong xã hội thượng lưu và giới quí tộc.
Người phụ nữ bản địa tuy mất đi vai trò lãnh đạo xã hội, nhường chỗ cho
phái nam, nhưng uy quyền của họ vẫn được tôn trọng trong giới dân gian
(gia tộc và gia đình).
Trong thời Bắc thuộc, nhà Đông Hán muốn
xóa bỏ nền văn hóa Đông Sơn của các nhóm Lạc Việt để chỉ còn văn hóa
Trung Hoa, các quan cai trị đã thay thế chế độ mẫu hệ bằng chế độ phụ
hệ, khuyên khích định cư, cải đổi lối ăn mặc và canh tác nông nghiệp.
Chế độ mẫu hệ của các dòng Lạc hầu, Lạc tướng bị xóa bỏ dần theo từng
chính sách cai trị của các quan thái thú từ Bắc triều gởi xuống. Có lẽ
phần lớn các nhóm Lạc Việt sinh sống trên lưu vực sông Hồng chấp nhận sự
cai trị của người Hán, chỉ một số ít còn lại từ chối sự hội nhập này đã
rút lên miền núi sinh sống và trở thành những nhóm người Mường ngày nay
(gia đình hai Bà Trưng có lẽ là một trong những nhóm này), hay chạy
xuống phía nam kết hợp với các nhóm Nam Đảo, vẫn còn mang nặng yếu tố
mẫu hệ.
Sử sách Trung Hoa nói rằng hai Bà Trưng,
thuộc dòng “man di”, là chị em sinh đôi, quê tại xã Cổ Lai, huyện Châu
Diên, quận Phong Châu (làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, tỉnh Phúc Yên ngày
nay). Trưng Trắc lấy chồng là Thi Sách, người huyện Châu Diên (Vĩnh Yên)
và định cư tại quê chồng. Sử sách Việt Nam cho rằng hai Bà thuộc dòng
Lạc hầu, Lạc tướng (văn hóa Đông Sơn), quê ở huyện Mê Linh (ngoại thành
Hà Nội), từ Ba Vì đến Tam Đảo, đất bản bộ cũ của các vua Hùng, sinh sống
bằng nghề nuôi tằm, do đó mới có tên Trứng Chắc (kén dầy) và Trứng Nhị
(kén mỏng), sau này đọc trại thành Trưng Trắc và Trưng Nhị.
Thi Sách là một quan lại bản địa thuộc
dòng Lạc tướng, hợp tác với quan quân nhà Hán cai trị Châu Diên. Sau khi
cưới Trưng Trắc, có thể đã bị ảnh hưởng bởi ý chí độc lập của gia tộc
bên vợ, đã chống lại sự cai trị của quan quân nhà Hán. Trong giai đoạn
này, có lẽ yếu tố mẫu hệ còn mạnh nên Thi Sách đã không được sự hưởng
ứng mạnh mẽ của dân chúng địa phương nên thất bại. Khi Thi Sách bị sát
hại, Trưng Trắc đã cùng em là Trưng Nhị nổi lên chống lại quân Hán thì
không những đã được dân chúng Giao Chỉ ủng hộ mà cả dân chúng phía nam
(Cửu Chân, Nhật Nam, đặc biệt là huyện Tượng Lâm) hưởng ứng và tôn lên
làm lãnh tụ. Yếu tố mẫu hệ nổi bật trong đạo quân kháng chiến, trong năm
tộc lớn thời đó hai Bà đã kén chọn được 62 vị tướng, trong đó hơn phân
nửa (32 người) là phụ nữ như Thánh Thiên công chúa, Man Thiện, Diệu
Tiên, bà Lê Chân, Bát Nàn, Hoàng Thiều Hoa, Đào Kỳ, Xuân Nương, Liễu
Giáp, Việt Huy, Ả Di, Ả Lã, Ả Tắc, Nàng Đê, v.v… và 21 tì tướng, trong
đó gần phân nửa là phụ nữ.
Cũng nên biết chữ “ả, nương, nàng, đào,
liễu” là những từ Hán để chỉ người phái nữ. Yếu tố Phật giáo cũng nổi
bật trong cách đặt tên người: Man Thiện, Diệu Tiên, Bát Nàn là những
pháp danh Phật giáo. Yếu tố vương quyền cũng bắt đầu xuất hiện với những
tước vị như người Hán: công chúa Thánh Thiên được phong binh hàm Bình
Tây đại nguyên soái, bà Lê Chân giữ chức Tiên Phong nữ tướng quân… Nhưng
sự kiện nổi bật nhất là đạo binh của hai Bà Trưng đã biết dùng voi xung
trận, một loại quân dụng hoàn toàn xa lạ với người Hán. Đây là bằng
chứng cho thấy sự hợp tác giữa các nhóm dân cư sông Hồng và dân cư phía
bắc miền Trung rất là mật thiết, vì thuần phục voi là nghề của những
người miền núi phía tây-nam Bắc phần.
Những cuộc nổi dậy của người Chăm ở Tượng Lâm
Sau biến cố hai bà Trưng, có lẽ chính
sách cai trị của quan quân Đông Hán đã cởi mở hơn nên đất Giao Chỉ trở
nên yên bình trong hơn năm thế kỷ. Ngược lại, tình hình chính trị phía
nam, huyện Tượng Lâm, luôn giao động.
Mùa hè năm 100, hơn 2.000 dân Tượng Lâm
nổi lên phá đồn, đốt thành, giết một số quan quân cai trị. Chính quyền
đô hộ phải huy động quân của các quận huyện khác đến dẹp, giết được chủ
tướng, cuộc nổi loạn mới tạm yên. Từ đó chính quyền nhà Hán không dám ức
hiếp một cách thô bạo dân cư tại đây nhưng đặt vùng đất này dưới quyền
cai trị trực tiếp, do một binh trưởng sứ cầm đầu, phòng hờ những cuộc
nổi loạn sau này. Để lấy lòng dân cư địa phương, quan quân nhà Hán tổ
chức phát chẩn cho dân nghèo, miễn thuế hai năm…
Mục đích của chính sách cai trị trực
tiếp này là thu thuế và nhận phẩm vật triều cống (vàng, bạc, sừng tê
giác, ngà voi, móng chim ưng, hương liệu, vai lụa…) càng nhiều càng tốt.
Thuế và phẩm vật triều cống do những lãnh chúa địa phương (thuần phục
nhà Hán) thay mặt thiên triều quyên góp trong dân chúng. Như vậy nhà Hán
vừa có thu nhập vừa không hao tốn ngân quỹ, lại duy trì được ảnh hưởng
trên vùng đất đó, bù lại lãnh chúa địa phương được thiên triều sắc phong
và được bảo vệ khi bị tấn công.
Theo sử liệu cổ của Trung Hoa (Hậu Hán thư, Lưu Long truyện, Mã Viện truyện)
ghi lại thì người huyện Tượng Lâm luôn chống đối lại chính sách cai trị
của nhà Hán và thường tranh chấp lẫn nhau về quyền cai trị tại vùng đất
này. Tượng Lâm ở quá xa chính quốc nên sự cai trị trực tiếp của những
quan đô hộ và binh lực thiên triều làm hao tốn công quỹ mà lợi ích chính
trị và kinh tế chưa chắc đã cao, do đó đã rất lơ là.
Năm 136, khoảng 1.000 dân Tượng Lâm nổi
lên chống lại sự cai trị của nhà Hán và đánh chiếm huyện Tượng Lâm, họ
đã đốt thành và giết trưởng lại (huyện trưởng). Năm sau thứ sử Giao Chỉ
là Phàn Diễn phải điều hơn 10.000 binh sĩ từ hai quận Giao Chỉ và Cửu
Chân xuống đàn áp nhưng thất bại. Thay vì đi dẹp loạn, đoàn quân này lại
phối hợp với dân quân Tượng Lâm chống lại và chiếm đóng một số thành
quách khác trong quận, quan quân Đông Hán phải rút lui khỏi huyện Tượng
Lâm.
Năm 138, Giả Xương, một quan thị ngự sử
nhà Hán đi sứ phía nam, đã cùng với các quan thái thú trong quận Nhật
Nam gom quân đi dẹp những cuộc nổi loạn ở huyện Tượng Lâm. Nhưng sau gần
một năm cố gắng, tất cả đều thất bại, không những thế họ còn bị dân
quân địa phương bao vây hơn cả năm trời. Từ đó nhà Hán mất tin tưởng ở
đám quan quân địa phương và chỉ tin dùng quan quân từ Trung Hoa đưa
xuống. Năm sau Hán Thuận Đế sai tướng Cổ Xương huy động 40.000 quân ở
các châu Kinh, Dương, Duyên, Dự (Trung Hoa) xuống đàn áp cuộc nổi dậy.
Cổ Xương bị quân nổi loạn đánh bại, Hán vương sai một tướng khác tên Lý
Cố mang viện binh tiếp trợ nhưng Lý Cố viện bảy lý do để hoãn binh. Cuộc
tiến quân bị khựng lại và tình hình tạm yên trở lại.
Những kế sách của Lý Cố là: ly gián nội
bộ những người nổi loạn bằng cách mua chuộc những lãnh chúa địa phương
nhằm làm suy yếu tiềm lực của dân quân Tượng Lâm ; tránh can thiệp bằng
quân sự vào những tranh chấp cục bộ của người địa phương ; chỉ để lại
một quan lại người địa phương thay mặt thiên triều cai trị ; vấn đề lãnh
đạo địa phương để cho người địa phương chọn lấy, người thắng cuộc được
thiên triều tấn phong ; quan cai trị địa phương phải là một lãnh chúa
thần phục thiên triều ; tước Vương Hầu (dành cho người nhà Hán) và Liệt
Thổ (dành cho người địa phương).
Để thực hiện mưu kế của Lý Cố, Hán
vương phong Trương Kiều làm thứ sử Giao Chỉ và Chúc Lương làm thái thú
Cửu Chân ; cả hai có nhiệm vụ thu thuế và nhận phẩm vật từ những quan
lại được nhà Hán tấn phong. Trương Kiều đã thu phục được hàng chục ngàn
thường dân Nhật Nam và Tượng Lâm qui thuận Hán triều.
Năm 144, dân chúng quận Nhật Nam và
huyện Tượng Lâm lại nổi lên chống lại ách cai trị của nhà Hán, nhưng bị
thứ sử Hạ Phương đánh bại. Năm 157, một người tên Chu Đạt cùng với dân
chúng Cửu Chân nổi lên giết huyện lệnh ở Cự Phong và thái thú Nghê Thức
chiếm quyền lãnh đạo. Sự kết hợp tự nhiên giữa dân chúng hai quận Cửu
Chân và Nhật Nam gây nhiều bối rối cho các quan quân cai trị. Dưới sự
chỉ huy của đô úy quận Cửu Chân là Ngụy Lãng, quân Hán phản công quyết
liệt, giết hơn 2.000 dân Cửu Chân, phe nổi loạn phải chạy xuống phía nam
chiếm quận Nhật Nam và chống trả lại. Trong ba năm liền, từ 157 dến
160, lực lượng nghĩa quân huyện Tượng Lâm, khoảng 20.000 người, tiến lên
đánh quân Hán và chiếm nhiều huyện khác của Nhật Nam. Vài năm sau, năm
178, Lương Long cầm đầu cuộc khởi nghĩa chống lại quân Hán, chiếm được
nhiều vùng đất từ Giao Chỉ đến Hợp Phố và từ Cửu Chân đến Nhật Nam ; năm
181 Hán vương cử Lã Đại mang đại quân sang đánh dẹp tình hình mới tạm
yên.
Đến đời Hán Sơ Bình (190-193), nhân nội
tình Trung Hoa loạn lạc, dân chúng Tượng Lâm, phối hợp với dân cư hai
quận Cửu Chân và Nhật Nam, nổi lên đánh đuổi quân Hán và đạt thắng lợi
sau cùng. Năm 192, tiểu vương quốc Champa đầu tiên phía bắc chính thức
ra đời, dưới tên Lâm Ấp. Tiểu vương quốc này là đầu tàu mở đầu cuộc đấu
tranh giành độc lập của người Kinh ở phía bắc và là phong trào thống
nhất vương quốc Chiêm Thành ở phía nam.
III .Thời kỳ mở nước và dựng nước
Từ sau nửa thế kỷ thứ hai sau công
nguyên, phần lãnh thổ cực nam Giao Chỉ trở nên khó trị, dân cư bản địa
liên tục nổi lên chống lại chính sách cai trị hà khắc của chính quyền đô
hộ nhà Hán. Huyện Tượng Lâm trở thành nơi tranh chấp thường trực giữa
quan quân đô hộ và nhân dân địa phương.
Năm 190, người Tượng Lâm nổi lên giết
thứ sư Chu Phù và chiếm huyện thành. Vài năm sau, năm 192, dân cư Tượng
Lâm lại nổi lên giết huyện lệnh (huyện trưởng) và tôn Khu Liên, con một
quan công tào (xã trương) địa phương, lên làm vua. Khu Liên tự tiện xén
một phần lãnh thổ cực nam của quận Nhật Nam – huyện Tượng Lâm – thành
lập một vương quốc riêng: Lâm Ấp.
Lâm Ấp: một biến cố lịch sử
Cho đến nay gần như không một sử gia
Việt Nam nào quan tâm đến biến cố Lâm Ấp. Có lẽ nhiều người cho rằng Lâm
Ấp không quan trọng vì không dính líu gì, nếu không muốn nói là thù
địch, với người Việt Nam. Tất cả đều rất lầm. Cuộc nổi dậy của người Lâm
Ấp là của chính dân tộc Việt Nam, người Việt cổ, vào thời đó. Lâm Ấp là
một biến cố lịch sử trọng đại, mở đầu giai đoạn đấu tranh giành độc lập
của những dân tộc bị đặt dưới ách đô hộ của người Hán.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung
Hoa, một lãnh thổ đặt dưới quyền kiểm soát trực tiếp của thiên triều đã
tự tách ra và tuyên bố độc lập. Sự kiện này trái với nguyên tắc tổ chức
chính quyền của người Hoa, vì từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên trở
đi, dưới thời nhà Hán, nguyên tắc trung ương tập quyền đã là nền tảng
của các chính sách cai trị của người Trung Hoa, không có ngoại lệ. Giao
Chỉ thời đó là một phần lãnh thổ Trung Hoa, các quan cai trị đều do
thiên triều trực tiếp chỉ định, mọi ý đồ ly khai hay tự trị đều bị trừng
trị. Mục đích của chính sách trung ương tập quyền này là giữ gìn và bảo
vệ sự toàn vẹn giống nòi, người Hán không chấp nhận bất cứ một pha trộn
chủng tộc nào ngoài chủng tộc Hán với nhau.
Một lấn cấn khó chịu là trong suốt thời
Bắc thuộc, đại bộ phận giới “quí tộc” Lạc Việt (Lạc hầu và Lạc tướng),
và người Kinh – bị khuất phục bởi văn minh và văn hóa do người Hán mang
lại – đã hợp tác với người Hán trong việc quản trị đất nước, đương nhiên
ở những địa vị thấp hơn. Những cuộc nổi dậy chống lại chính sách cai
trị hà khắc và muốn tách khỏi văn minh và văn hóa của người Hán, phần
lớn đều do người Mường (hai Bà Trưng năm 42 và bà Triệu năm 248) và
người Nam Đảo (Mai Thúc Loan năm 722) khởi xướng. Những cuộc nổi dậy của
người Kinh – Lý Bí, Triệu Quang Phục, Lý Phật Tử (thế kỷ 6 và 7), Phùng
Hưng và Dương Thanh (thế kỷ 8), Khúc Thừa Mỹ và Dương Đình Nghệ (thế kỷ
10) – đều xuất phát từ động cơ bất mãn của những người cộng tác không
được ưu đãi hơn là ý chí giành độc lập hay muốn tách khỏi ảnh hưởng của
người Hoa. Chỉ đến thời Ngô Quyền ý chí độc lập của người Việt mới rõ
ràng nhưng người Kinh lại xem người Chăm là đối thủ, nên đã không ngừng
phân biệt đối xử vì văn hóa khác biệt và uy hiếp họ trong suốt thời kỳ
tự chủ, quên hẳn quá khứ ruột thịt đã qua.
Trở về với Lâm Ấp, khi thành lập vương
quốc riêng có lẽ Khu Liên không có ý định tách rời ảnh hưởng văn minh và
văn hóa Trung Hoa, nhưng với thời gian quyết tâm tách khỏi quỹ đạo
Trung Hoa ngày càng rõ nét. Sở dĩ có sự đoạn tuyệt này là vì tổ chức
chính trị xã hội của người Hoa không còn phù hợp với nền tảng chính trị
xã hội Lâm Ấp nữa.
Vào thời kỳ này, thương nhân và tu sĩ Ấn
Độ đã giao tiếp mật thiết với người Chăm sinh sống ven biển miền Trung.
Khi ở lại chờ thuận buồm xuôi gió trở về quê cũ, những người Ấn này đã
truyền cho giới quí tộc địa phương văn minh và văn hóa của họ, và đương
nhiên truyền luôn cả cách thức tổ chức xã hội. Khác với người Hoa, tổ
chức xã hội của người Ấn dựa trên nguyên tắc tản quyền và phân quyền,
phù hợp với nếp sống và ước nguyện tự trị của người địa phương nên rất
được ưa chuộng. Đặc điểm của người Ấn là không dùng bạo lực để áp đặt
văn hóa hay uy quyền chính trị của mình trên những xã hội khác, kém hơn,
mà để các thân hào địa phương tự nguyện làm thay, sau khi hấp thụ văn
minh và văn hóa của họ.
Tranh chấp văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ
trong nội bộ Lâm Ấp ngã ngũ sau khi Khu Liên qua đời, chữ Phạn cổ
(sanscrit, một loại chữ viết xuất phát từ miền nam Ấn Độ cách đây hơn
2.000 năm) trở thành chữ viết chính thức của các triều vương. Các bia ký
tìm được trong giai đoạn này đều khắc bằng chữ Phạn. Quốc thư trao đổi
của Lâm Ấp với Trung Hoa thời đó được viết bằng chữ “Hồ” (chữ của nước
Hồ Tôn Tinh, tức chữ Phạn) thay vì chữ Hán. Văn hóa Ấn Độ, từ phía Nam
đưa lên, trơ thành văn hóa của toàn vương quốc Lâm Ấp. Đạo Bà La Môn và
đạo Phật được phổ biến rộng rãi trong quần chúng, lấn át anh hương đạo
Khổng và đạo Lão của văn hóa Trung Hoa để lại trong vương quốc. Cũng nên
biết thờ cúng ông bà là tín ngưỡng dân gian của người bản địa, Kinh hay
Chăm, do đó rất được kính trọng, giáo lý và nghi lễ các tôn giáo khác
phải thích hợp theo nếu muốn được ủng hộ.
Về chính trị, các vị vua Lâm Ấp đều gán
ghép tên mình với một thần linh, thường là với Siva (còn gọi là Isvara)
để có độc quyền cai trị. Uy quyền vua thể hiện qua cái lọng màu trắng mà
dân gian không được dùng. Phụ tá nhà vua là các quan lại trung ương và
địa phương, được phân chia thành ba hạng: đứng đầu là hai vị tôn quan
(senapati và tapatica-hai tể tướng võ và văn), kế là thuộc quan gồm ba
hạng: luân đa đinh (dandavaso bhatah-tướng chỉ huy cấm vệ), ca luân trí
đế (danay pinang, quan hầu trầu) và ất tha già lan (yuvaraja-kế vương),
sau cùng là ngoại quan (quan lại địa phương). Quân lực Lâm Ấp khoảng từ
40 đến 50.000 người, gồm kỵ binh, tượng binh và thủy binh,
Triều đình Trung Hoa có lẽ cũng muốn
chấm dứt tình trạng tranh chấp văn hóa và chính trị kéo dài quá lâu này
nên đã chấp nhận sự ly khai một cách miễn cưỡng, họ đặt tên quốc gia mới
này là Lâm Ấp, thay vì Hồ Tôn Tinh hay Tượng Lâm như trước kia, và duy
trì mối quan hệ tốt để nhận càng nhiều phẩm vật triều cống càng tốt.
Về danh xưng, Lâm Ấp chỉ là sự biến
nghĩa của chữ Tượng Lâm. Đối với nhà Đông Hán, danh xưng Lâm Ấp là một
khinh miệt, vì đó chỉ là một phần đất nho không quan trọng ở vùng cực
nam để thiên triều phai quan tâm trực tiếp. Sách Thuy Kinh Chú giai
thích: “Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bo chữ Tượng để chỉ còn chữ Lâm”.
Cũng nên biết ngôn ngữ Trung Hoa trong thời kỳ này có nhiều hạn chế
trong việc phiên âm các tên ngoại quốc: Lâm Ấp là cách phát âm Việt hóa
từ chữ Lin-yi, phiên âm từ chữ “Hindi” hay “Indi”, tức người Ấn. Có
người nói đó là cách phiên âm từ chữ Phạn “Indirapura” (đất của người Ấn
Độ). Về sau người Chăm đặt tên phần đất từ Quảng Bình đến Thừa Thiên là
Indrapura (đất của Indra, thần sấm sét). Lâm Ấp cũng có thể do sự phát
âm Việt hóa từ chữ “Krom” hay “Prum” (hai tộc của người Việt cổ) mà ra.
Bình dân hơn người ta giai thích: Lâm là rừng, Ấp là thôn nho v.v… Nói
chung, cho dù diễn giải thế nào Lâm Ấp là một định chế độc lập với vương
triều Trung Hoa tại Giao Chỉ.
Về tên gọi Khu Liên cũng thế, có rất
nhiều tranh cãi. Sử sách Trung Hoa viết tên vị vua đầu tiên của Lâm Ấp
là Khu Liên, có sách viết là Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương. Nhiều sử
gia cho rằng Khu Liên thuộc dòng dõi của bộ tộc Dừa ơ phía Bắc… Thật ra
Khu Liên không là tên của người nào cả, đó chỉ là cách gọi một cách kính
trọng một người có ngôi vị cao trong một định chế tập thể (làng, xã,
huyện…). Đối với dân chúng địa phương, “Khu” không phai là tên riêng mà
là tước vị của một tộc trương (lãnh chúa), phiên âm từ chữ “Kurung” (như
các vua Hùng) của người Việt cổ – hay chữ “Varman” của người Chăm từ
tiếng Phạn, có nghĩa là tước tộc trương, lãnh chúa hay vua.
Trước đó, năm 137, các quan đô hộ nhà
Hán gọi quân phản loạn ở Tây Quyển (Quảng Bình) là “rợ Khu Liên”. Như
vậy Khu Liên chỉ là tên gọi chung những người không cùng văn hóa với
người Hán ở phía nam Giao Chỉ. Tên gọi này không liên quan gì đến danh
xưng Sri Mara (tên một vị vương tôn người Chăm khác cùng thời kỳ, con bà
Lona Lavana ở Panduranga) tìm thấy trên một bia ký bằng đá granít
(ngang 1 mét, dày 1 mét, cao 2,5 mét) ở làng Võ Cạnh (nay thuộc xã Vĩnh
Trung), Nha Trang.
Về địa lý, vương quốc Lâm Ấp ở đâu, rộng
hẹp như thế nào? Còn rất nhiều điểm tối, không ai rõ. Theo sử cổ Trung
Hoa thì lãnh thổ vương quốc này là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam,
phía nam huyện Lô Dung (Thừa Thiên ngày nay). Đường Thư nói Lâm Ấp từ
huyện Tây Quyển (Quảng Bình) trở xuống. Đại Nam Nhất Thống Chí nói Tượng
Lâm là Bình Định và Phú Yên. Thuy Kinh Chú cho biết thu phu Lâm Ấp lúc
đầu không biết ở đâu, sau được biết đặt tại Khu Lật (Huế, Thừa Thiên),
phía Nam có sông Lô Dung (sông Hương) chay qua. Một cách tóm lược, dựa
vào sử sách xưa, lãnh thổ Lâm Ấp có thể đã trải dài từ Quảng Bình đến
Quảng Nam.
Một số chuyên gia Champa cho rằng Lâm Ấp
là lãnh thổ Indrapura (đất của thần Indra), từ mũi Hoành Sơn đến đèo
Hải Vân, do vương triều Gangaraja, tức những người Ấn Độ đến từ sông
Gange, khai sinh ra. Sự kiện này cần được ghi nhận với tất cả dè dặt vì
cho đến nay chưa một dấu tích bia ký nào giải thích sự kiện này.
Các triều vương Lâm Ấp
1. Triều vương thứ nhất (192-366): khai sinh vương quốc
Khu Liên lên ngôi năm 192, trị vì trong
nhiều năm, nhưng không biết mất năm nào và ai là người kế vị. Sử cổ
Trung Hoa (Lương thư) cho biết trong khoang thập niên 220-230, con cháu
Khu Liên có gơi phái bộ đến thống đốc Quang Đông và các thái thú Giao
Châu (Lã Đại và Lục Dận) triều cống và duy trì quan hệ ngoại giao.
Sự kiện nổi bật sau thời Khu Liên là
cuộc dấy binh của bà Triệu năm 248 tại quận Cửu Chân chống lại quân Đông
Ngô (Trung Hoa). Bà Triệu, còn gọi là Triệu Trinh Nương, là một thiếu
nữ Mường cưỡi voi ra trận làm khiếp đảm quân địch. Bà Triệu cũng là mẫu
người lý tưởng của chế độ mẫu hệ: thân hình nẩy nở (vú dài ba thước!?)
và can đảm (dám đứng ra gánh vác việc nước). Có lẽ trong giai đoạn này
con cái của Khu Liên gia nhập vào đội quân của bà Triệu rất đông vì cuộc
khởi nghĩa này được sử Trung Hoa ghi nhận là cuộc nổi dậy của nhân dân
Lâm Ấp.
Nhà Đông Ngô phong danh tướng Lục Dận
tước An Nam hiệu úy, tức thứ sử, sang Giao Châu dẹp lọan. Lục Dận vừa
dùng mưu vừa làm áp lực chiêu dụ các bộ lạc nổi loạn ; sau hơn 6 tháng
cầm cự quân của Bà Triệu bị cô lập và bị đánh bại phai chạy về miền Nam
lánh nạn. Lục Dận xua quân xuống chiếm Khu Lật (Huế), bắt theo hàng ngàn
thợ khéo tay mang về Giao Châu rồi dâng cho nhà Đông Ngô năm 260. Những
vùng đất bị nghĩa quân Lâm Ấp chiếm đóng đều bị lấy lại. Lãnh thổ Lâm
Ấp trơ về vị trí cũ, tức huyện Tượng Lâm, quân Đông Ngô không dám tiến
xuống xa hơn.
Có lẽ truyền nhân đích tôn của Khu Liên
đã chết trong cuộc khởi nghĩa này vì không còn được nhắc tới nữa. Sách
Lương thư cho biết năm 270, cháu ngoại của Khu Liên là Phạm Hùng (Fan
Hiong hay Fan Hsung) lên làm vua.
Cũng nên biết “Phạm” ở đây là cách phiên
âm Hán hóa từ chữ “Po” (hay Pô, Phò, Pha) của người Chăm, tức là người
đứng đầu, lãnh tụ hoặc là ngài, chứ không phải là cách phiên âm từ chữ
“varman” của người Ấn, cũng có nghĩa là vua, vương, ngài, hay “họ Phạm”
của người Việt Nam mà ra. Cũng nên biết người Lâm Ấp theo chế độ mẫu hệ,
chỉ có tên chứ không có họ.
Dưới thời Phạm Hùng, lãnh thổ Lâm Ấp
được nới rộng tới thành Khu Túc, cạnh sông Gianh, phía bắc và tới Khánh
Hòa (Kauthara) phía nam. Phạm Hùng cũng đã chinh phục và thống nhất các
tiểu vương quốc khác nằm trong các lõm đất dọc duyên hai miền Trung:
Amavarati (Quang Nam), Vijaya (Quang Ngãi, Bình Định) và một phần lãnh
thổ Aryaru (Phú Yên). Nhưng sau hơn 10 năm chinh chiến (271-282), Phạm
Hùng bị quân Tây Tấn (do Đào Hoàng chỉ huy) đánh bại, năm 283 con là
Phạm Dật (Fan Yi) lên ngôi thay. Năm 284, Phạm Dật gơi một sứ bộ sang
Trung Hoa cầu hòa ; Lâm Ấp được thái hòa và Phạm Dật trị vì 52 năm thì
qua đời.
2. Triều vương thứ hai (337-420): mở rộng vương quốc
Phạm Dật qua đời năm 336, một tể tướng
cướp ngôi vua tự xưng Phạm Văn (Fan Wen). Phạm Văn không phải là người
Chăm mà là một người gốc Hoa quê ơ Dương Châu, bị bán làm nô lệ cho một
quan cai trị huyện Tây Quyển tên Phạm Tương. Năm 15 tuổi, vì phạm tội
gian Văn phai trốn theo một thương gia người Lâm Ấp sang Trung Hoa và Ấn
Độ buôn bán, nhờ đó đã học hỏi được kỹ thuật luyện kim và xây thành lũy
của người Hoa. Khi về lại Lâm Ấp năm 321, Văn trở thành người thân tín
của Phạm Dật và được giao trọng trách xây thành, đắp lũy, dựng cung đài
theo kiểu Trung Hoa, chế tạo chiến xa và vũ khí, chế biến dụng cụ âm
nhạc v.v… và được thăng chức tể tướng.
Dưới thời Phạm Văn, kỹ thuật luyện sắt
(rèn kiếm, đúc lao) đạt đến tột đỉnh. Nhà vua áp dụng văn minh Ấn Độ
thẳng vào đời sống: cai tổ lại hệ thống quan lại theo khuôn mẫu Ấn Dộ,
nhờ đó guồng máy tổ chức chính quyền chạy đều và mang lại hiệu qua tốt ;
xây dựng thu phu chính trị tại Khu Lật (K’iu-sou, hay Thành Lồi, Huế),
hình chữ nhật, chu vi 2100 mét, tường cao 8 mét, có 16 cưa, dân chúng
sống chung quanh chân thành, mỗi khi có loạn, các cửa thành đều đóng
lại. Với thế mạnh này, Phạm Văn đánh thắng hai nước Đại Kỳ Giới và Tiểu
Kỳ Giới (có thể đây là hai vương quốc trên đất Lào ngày nay), chinh phục
nhiều bộ lạc khác như Che Phou, Siu Lang, Khiu Tou, Kan Lou và Fou Tan
(có thể là những bộ lạc thiểu số gốc Thái trên dãy Trường Sơn), tăng
cường số phụ nữ mang về từ các lãnh thổ đánh chiếm được và tăng nhân số
trong quân đội (khoảng từ 40.000 đến 50.000 người).
Năm 340, Phạm Văn xin nhà Đông Tấn cho
sát nhập quận Nhật Nam, gồm các huyện Tây Quyển, Ty Canh, Chu Ngô, Lô
Dung và một phần đất phía nam quận Cưu Chân huyện Hàm Hoan (Thanh Hóa)
vào lãnh thổ Lâm Ấp nhưng không được toại nguyện. Phạm Văn liền xua quân
tiến công vào nội địa Nhật Nam, chiếm huyện Tây Quyển, giết thứ sư Hạ
Hầu Lâm, lấy mũi Hoành Sơn (nam Thanh Hóa) làm biên giới phía bắc, cho
xây lại thành Khu Túc (cạnh sông Gianh) phòng giữ. Từ đó phần lãnh thổ
từ đèo Ngang trơ xuống thuộc về Lâm Ấp và cũng kể từ đó phía bắc đèo
Ngang là nơi xảy ra những trận thư hùng giữa Lâm Ấp và Giao Châu trong
suốt hai thế ky 4 và 5. Năm 349 nhà Đông Tấn phản công, quân Lâm Ấp bị
đánh bại, Phạm Văn bị trọng thương và qua đời, con là Phạm Phật (Fan Fo)
lên thay.
Phạm Phật là một vị tướng tài ba, được
nhiều sử gia cho là người mơ đầu vương triều Gangaraja (Bắc Chiêm
Thành). Vừa lên ngôi, Phạm Phật tấn công quân Đông Tấn tại Nhật Nam và
vây thành Cưu Chân. Năm 351, quân Lâm Ấp bị đánh bại phai bo chạy về
phía tây tại Lãng Hồ, huyện Thọ Lãnh (Thanh Hóa), thành Khu Túc bị
chiếm, ranh giới được thiết lập lại tại huyện Ty Canh gần sông Nhật Lệ
(Quang Bình). Năm 359, quân Đông Tấn chiếm huyện Thọ Lãnh và đánh bại
quân Lâm Ấp tại vịnh Ôn Cấn, chiếm thành Khu Túc; Phạm Phật xin hòa và
gơi sứ bộ sang Trung Hoa triều cống (372 và 377). Phạm Phật mất năm 380
nhường ngôi cho con là Phạm Hồ Đạt.
Phạm Hồ Đạt (Fan Houta) được nhiều học
gia cho là vua Dharmamaharaja, hiệu Bhadravarman I, người sáng lập vương
triều Gangaraja. Dưới thời Phạm Hồ Đạt, Phật giáo tiểu thừa (Thevada)
phát triển mạnh, nhiều nhà sư đến trực tiếp từ Ấn Độ sang truyền đạo.
Thành Khu Lật (Huế) vẫn là trung tâm chính trị nhưng đổi tên thành
Kandapurpura, nghĩa là Phật Bao Thành (vì là nơi có nhiều đền đài và
hình tượng Phật và Siva). Bên cạnh đó nhà vua còn cho xây dựng thêm một
trung tâm tôn giáo mới tại Amavarati, tức thánh địa Hào Quang (nay là Mỹ
Sơn, một thung lũng cách Đà Nẵng 70km về phía tây). Nhiều đền thờ Bà La
Môn được xây dựng tại Mỹ Sơn để thờ thần Siva và tượng Linga, tượng
trưng sức mạnh phái nam. Ngôi đền đầu tiên được xây bằng gỗ vào cuối thế
ky 4 mang tên Bradresvara, kết hợp giữa tên vua Bradravarman I và thần
Isvara (hay Siva). Kể từ thế ky thứ 4 trở đi lãnh tụ chính trị và tôn
giáo tại Lâm Ấp là một: thờ thần tức thờ vua, vua thay mặt thần Siva cai
quan muôn dân. Siva vừa là thần bảo hộ xứ sở vừa là vị thần giữ đền
(Dvarapala) để dân chúng đến thờ phượng và dâng lễ vật.
Năm 399, Phạm Hồ Đạt mang quân chiếm
quận Nhật Nam, giết thái thú Khổng Nguyên, tiến công quận Cửu Đức, bắt
sống thái thú Tào Bính nhưng bị quân của thống chế Đỗ Viện đánh bại phải
rút về dưới đèo Ngang. Năm 413, Phạm Hồ Đạt mang bộ binh chiếm đóng
Nhật Nam, ra lệnh cho thủy binh đổ bộ vào Cửu Chân đốt phá các làng xã
ven duyên. Thứ sư Đỗ Tuệ Độ mang quân ra nghinh chiến, chém được con của
Phạm Hồ Đạt là Phạm Trân Trân (tiểu vương đất Giao Long) và tướng Phạm
Kiện, bắt làm tù binh hơn 100 người, trong có một hoàng tư tên Na Neng,
tất ca đều bị chém đầu. Phạm Hồ Đạt trốn vào rừng sâu rồi mất tích.
Trong khi chưa tìm được một vị vua mới, triều đình Lâm Ấp tiếp tục triều
cống Trung Hoa để được yên về chính trị.
Trong thời gian từ 413 đến 420, con cháu
Phạm Hồ Đạt tranh giành ngôi vua, nội chiến xảy ra khắp nơi. Năm 413,
một người con của Phạm Hồ Đạt là Địch Chớn (Ti Chen), đạo sĩ Bà La Môn,
được triều thần đưa lên ngôi vua, hiệu Gangaraja (sông Gange bên Ấn Độ).
Địch Chớn là người đam mê văn hóa Ấn Độ muốn nhường ngôi cho em là Địch
Khai (Ti Kai) để sang Ấn Độ sống những ngày cuối đời, nhưng Địch Khai
sợ bị triều thần ám hại, dẫn mẹ chạy trốn vào rừng. Ngôi báu đành nhường
cho Manorathavarman, cháu Địch Chớn nhưng tể tướng Thiếu Lâm (Tsang
Lin) chống lại vì người này không được sinh ra từ một người mẹ có dòng
máu tinh khiết (tức đẳng cấp Brahman), nên bị Manorathavarman giết chết.
3. Triều vương thứ ba (420-530): tranh chấp với Trung Hoa
Năm 420, con cháu của Thiếu Lâm ám sát
vua Manorathavarman và đưa người em cùng mẹ khác cha của Địch Chớn là
Văn Địch (Wen Ti) lên thay. Văn Địch xưng hiệu là Phạm Dương Mại I (Yan
Mah hay Fan Yang Mai), có nghĩa là Hoàng tư Vàng, nhưng không trị vị lâu
vì bị chết trong một cuộc tấn công của quân Đông Tấn. Con là thái tư
Đốt, 19 tuổi, được nhà Đông Tấn phong vương năm 421, hiệu Dương Mại II.
Nhân tình thế loạn lạc bên Trung Hoa
(nhà Tống dẹp nhà Đông Tấn), năm 431, Dương Mại II dẫn hơn 100 chiến
thuyền tấn công các làng ven biển tại cưa Thọ Lãnh, Tứ Hội và Châu Ngô
(quận Nhật Nam và Cưu Chân) nhưng bị đánh bại, quân Tống chiếm thành Khu
Lật, Dương Mại II chạy trốn ra Cù Lao Chàm (Quang Nam). Năm 433, Dương
Mại II xin “lãnh” đất Giao Châu về cai trị nhưng vua Tống không chịu,
chiến tranh lại xảy ra. Năm 443 vua Tống Du Long phong thống chế Đàn Hòa
Chi làm thứ sư Giao Châu, cùng hai phó tướng là Tống Xác và Túc Canh
Hiến, mang đại quân đánh Lâm Ấp, Phạm Dương Mại II chạy thoát được ra
cưa Tượng Phổ, vịnh Bành Long (Bình Định), tổ chức lại lực lượng, tăng
cường thêm nhiều đội tượng binh rồi ra lệnh tổng phan công nhưng không
địch nổi quân Nam Tống. Những người sống sót chạy sang Láng Cháng (Luang
Prabang tại Bắc Lào) tị nạn, một số chạy đến Champassak (Nam Lào) ẩn
náu. Đàn Hòa Chi thu rất nhiều vàng bạc, châu báu, tượng đồng và đập phá
rất nhiều đền đài. Sư Trung Hoa (Tống Thư) chép rằng Đàn Hòa Chi lấy
được nhiều tượng vàng (mười người mới ôm xuể), đem nấu chay thâu được
hơn 10 vạn cân (50.000 kí-lô vàng?). Từ đó Trung Hoa biết Lâm Ấp có
nhiều vàng nên mỗi khi có dịp là tiến quân xuống đánh cướp. Trong thời
này, nhiều nhà sư Phật giáo Trung Hoa ái mộ nét kiến trúc và tượng đài
trong các đền thờ tại Mỹ Sơn sang Lâm Ấp tìm hiểu và học hoi rất đông,
nhiều tượng Bồ Tát của Phật giáo Đại Thừa Trung Hoa được tìm thấy trong
các chùa (chùa Quang Khê) trong vùng.
Trong lúc chạy trốn về phía nam, Dương
Mại II chinh phục luôn các tiểu vương tại Vijaya (Bình Định), Aryaru
(Phú Yên), thống nhất lãnh thổ phía Bắc. Năm 443, Dương Mại II về lại
Khu Lật, thấy canh hoang tàn, buồn rầu rồi mất năm 446. Lãnh thổ phía
Bắc của Lâm Ấp bị đẩy lùi về huyện Lô Dung (Thừa Thiên), con cháu Dương
Mại II lại tranh chấp quyền hành.
Năm 455 con Dương Mại II là Phạm Chút
(Fan Tou) lên ngôi, hiệu Trần Thành (Devanika). Trung tâm chính trị vẫn
tại Khu Lật, nhưng Trần Thành cho xây dựng thêm một trung tâm văn hóa và
tôn giáo mới tại Amaravati, gọi là thánh địa Hào Quang (Mỹ Sơn, Quang
Nam). Vương quốc Lâm Ấp tiếp tục được nới rộng xuống phía nam đến tận
sông Ba (Tuy Hòa), thuộc lãnh thổ Aryaru (Phú Yên) và vùng núi non phía
tây lân cận (cao nguyên Kontum, Darlac), và phía tây tới Champassak (Nam
Lào), nhiều bộ lạc Thượng sống trên dãy Trường Sơn cũng theo về triều
cống. Phạm Trần Thành mất năm 472, Lâm Ấp không có vua, nội bộ triều
đình có biến động.
Năm 484, một người Khmer tên Phạm Đăng
Căn Thăng (Kieou Tcheou Lo), con vua Phù Nam Jayavarman tị nạn tại Lâm
Ấp, cướp ngôi và cầm quyền trong gần 20 năm. Năm 492, con Phạm Trần
Thành là Phạm Chư Nông giết Căn Thăng giành lại ngôi báu. Phạm Chư Nông
bị chết đuối năm 498, con cháu tiếp tục trị vì đến năm 527: Phạm Văn Tổn
(Fan Wen Kuoan) trị vì từ 498 đến 502, Phạm Thiên Khơi hiệu Devavarman
(510-514) và Cao Thức Thắng Khơi hiệu Vijayavarman hay Bật Tôi Bật Ma
(526-527).
4. Triều vương thứ tư (529-757): củng cố và ổn định lãnh thổ
Năm 529, Vijayavarman mất không người kế
tự. Triều đình Lâm Ấp phong Luật Đa La Bật Ma lên làm vua, hiệu
Rudravarman I. Năm 577 Luật Đa La Bật Ma mất, con là Prasastadharma lên
kế nghiệp, hiệu Phạm Phạn Chi (Sambhuvarman). Dưới thời Phạm Phạn Chi,
văn hóa Lâm Ấp tỏa rộng khắp Đông Nam Á. Năm 598, nhà Tùy chiếm dóng Lâm
Ấp và phân chia thành ba châu: châu Hoan (Ty Canh), châu Ái (Hai Âm) và
châu Trong (Khương). Năm 605, Phạm Phạn Chi dời kinh đô về Sinhapura,
thành phố Sư Tư (nay là Trà Kiệu, cạnh sông Thu Bồn, huyện Duy Xuyên,
tỉnh Quang Nam). Danh xưng Campa (Chiêm Thành) chính thức xuất hiện
trong hời này.
Năm 629 Phạm Phạn Chi mất, con là Phạm
Đầu Lê (Kandharpardharma) kế nghiệp. Năm 645 Phạm Đầu Lê qua đời, vương
triều Lâm Ấp loạn lạc. Phạm Trấn Long (Prabhasadharma), con Đầu Lê, vừa
giành được ngôi vua liền bị giết chết, dân chúng đưa con trai của một
công chúa, em gái của Trấn Long, tên Chư Cát Địa lên làm vua, hiệu
Bhadresvaravarman (sự ghép tên giữa thần Bradresvara và vị tổ
Bradravarman). Chư Cát Địa làm vua được một năm (646) thì bị triều thần
lật đổ, công chúa Tchou Koti, con gái của chánh phi của Phạm Đầu Lê,
được tôn lên làm nữ vương, hiệu Jagaddharma. Đức độ của bà Jagaddharma
rất được dân chúng kính trọng. Sau khi qua đời, nữ vương Jagaddharma
được dân chúng lập đền thờ tại tháp Po Nagar (Xóm Bóng, Nha Trang).
Năm 653 Tchou Koti nhường ngôi cho chồng
(người Khmer) tên Prakasadharma (Po Kiachopamo), hiệu Vikrantavarman I.
Năm 685, Vikrantavarman I qua đời, nhường ngôi cho con là
Vikrantavarman II (Kientotamo).
Dưới thời Vikrantavarman II, văn hóa
Lâm Ấp toa khắp Đông Nam Á, các quốc gia lân bang đều muốn kết thân. Năm
731, Vikrantavarman II qua đời, con là Rudravarman II (Lutolo) trị vì
đến năm 757 thì mất. Con là Bhadravarman II lên thay nhưng bị các vương
tôn miền Nam hạ bệ, chấm dứt vai trò lãnh đạo của vương triều miền Bắc.
IV .Thời vàng son
Sau thời kỳ dựng nước và mở nước khó
khăn, từ thế kỷ thứ 4 vương quốc Lâm Ấp đã trở thành một thế lực chính
trị đáng kể trong vùng, dưới thời Bradravarman I (Phạm Hồ Đạt), người
sáng lập triều đại Gangaraja phía Bắc. Là một kết hợp của nhiều tiểu
vương quốc khác nhau, lãnh thổ phía Bắc giáp ranh với quận Cửu Chân,
lãnh thổ phía Nam trải dài đến mũi Kê Gà (Varella, Phan Thiết). Hào
quang của Lâm Ấp chiếu sáng vùng trời Đông Nam Á, các quốc gia láng
giềng đều tìm đến để làm thân.
Cho đến nay không ai biết hai miền Nam
Bắc đã thống nhất như thế nào, nhưng từ thế kỷ 5 trở về sau thông thương
giữa hai miền trở nên liên tục và ồ ạt, lượng người và hàng hóa di
chuyển từ miền Nam lên miền Bắc thay đổi dần dần cán cân quyền lực.
Người Chăm phía Bắc, vì phải thường xuyên đối phó với quân thù, trở nên
thiện chiến ; khi mộ quân hay trên đường chạy nạn, vì bị quân Trung Hoa
truy đuổi, họ khuất phục luôn những tiểu vương quốc khác đã có mặt dọc
bờ biển miền Trung từ lâu đời, quen sống trong hòa bình và an lạc. Với
thời gian, vương quyền miền Bắc suy yếu dần, vì dồn hết tài nguyên nhân
vật lực cho chiến tranh, vai trò lãnh đạo nhường lại cho các vương triều
phía Nam giàu có và hùng mạnh hơn.
Triều vương thứ năm (758-854):vương triều Panduranga hay Hoàn Vương Quốc
Năm 757, môt tiểu vương phía Nam nổi lên
hạ bệ Bhadravarman II – nhà vua trẻ vừa lên ngôi – rồi tự xưng vương,
hiệu Prithi Indravarman, chấm dứt dòng Gangaraja phía Bắc.
Theo bia ký đọc được, Prithi Indravarman
là người đã thống nhất lãnh thổ Champa một cách chính danh nhất, vì
được triều thần công nhận là “người thống lãnh toàn bộ đất nước như
Indra, thần của các vị thần”. Tuy đất nước đã được thống nhất, lãnh thổ
này vẫn chưa có tên. Khi sang Trung Hoa triều cống, không biết sứ thần
của Prithi Indravarman đã giải thích như thế nào mà sử liệu cổ Trung Hoa
đặt tên lãnh thổ mới của người Chăm trong thời kỳ này là Hoàn Vương
Quốc, “vương quyền trở về quê cũ”. Để xác minh điều này, việc làm đầu
tiên của Prithi Indravarman là dời kinh đô Sinhapura (thành phố sư tử
hay Trà Kiệu, Quảng Nam) về Virapura (thành phố Hùng Tráng, nay là thôn
Palai Bachong, xã Hòa Trinh, huyện An Phước – cách Sài Gòn 310 cây số về
phía Bắc trên quốc lộ 1, tỉnh Ninh Thuận).
Dưới thời Prithi Indravarman, văn minh
và văn hóa Ấn Độ từ phía Nam đưa lên lấn át toàn bộ sinh hoạt của người
Chăm phía Bắc ; chữ Phạn được phổ biến rộng rãi trong giới vương quyền
và các nơi thờ phượng ; đạo Bà La Môn được đông đảo người theo ; đạo
Phật Tiểu Thừa (Thevada) phát triển mạnh trong chốn dân gian ; đền đài,
dinh thự và chùa tháp được xây dựng lên khắp nơi, nhiều nhất là tại Khu
Lật (Huế), Amavarati (Mỹ Sơn), Sinhapura (Trà Kiệu)… để tạ ơn thần linh.
Tuy vậy nguyên tắc tự trị của các tiểu vương quốc phía Bắc vẫn được tôn
trọng, vì không thấy di ảnh hay hình tượng nữ thần Bhagavati – vị thần
bảo hộ Panduranga được Prithi Indravarman chọn làm “Bà Mẹ xứ sở” để dân
chúng thờ phượng – trong các di tích khảo cổ trên lãnh thổ Chiêm Thành
phía Bắc.
Về “Bà Mẹ xứ sở”, ngôi tháp bằng gỗ
trước kia thờ nữ vương Jagadharma (646-653) được Prithi Indravarman cho
xây dựng lại bằng vật liệu cứng tại Aya Tră (Nha Trang), trên một ngọn
đồi cao cạnh cửa sông Cái (Xóm Bóng), để thờ tượng nữ thần Bhagavati
(bằng vàng). Tháp này về sau được biết dưới tên Po Nagar, hay Tháp Bà.
Truyền thuyết Chăm cho rằng Hoàn Vương
Quốc trước kia do nữ vương Po Nagar cai trị trong suốt 200 năm, từ 758
đến 958. Thời gian trị vì lâu dài này là thời gian mà vương triều
Panduranga thịnh hành. Nữ vương Po Nagar – còn gọi là Yan Pu Nagara, Po
Ino Nagar hay Bà Đen (nguời Việt Nam gọi là Thánh Mẫu Thiên Y Ana) – là
vị nữ thần được tạo nên bởi áng mây trời và bọt biển, người tạo dựng ra
quả đất, sản sinh gỗ quí, cây cối và lúa gạo. Bà có 97 phu quân, trong
đó chỉ một mình Po Yan Amo là người có uy quyền và được tôn trọng hơn
cả. Bà có 38 người con gái, tất cả đều hóa thân thành nữ thần, trong đó
có ba người được người Chăm chọn làm thần bảo vệ đất đai và còn thờ
phượng cho tới ngày nay: Po Nagar Dara, nữ thần Kauthara (Khánh Hòa) ;
Po Rarai Anaih, nữ thần Panduranga (Ninh Thuận) và Po Bia Tikuk, nữ thần
Manthit (Phan Thiết).
Prithi Indravarman là một quân vương tài
giỏi, đất nước thái bình và rất phồn vinh. Sự giàu có của Hoàn Vương
Quốc hấp dẫn các vương quốc lân bang, đặc biệt là Srivijaya (Palembang),
Malayu (Malaysia), Javadvipa (Java), Nagara Phatom (Thái Lan),
Sriksetra (Miến Điện) và Angkor (Chân Lạp) ; họ đến để trao đổi hoặc chờ
dịp cướp phá.
Năm 774, quân Nam Đảo từ ngoài khơi đổ
bộ vào Kauthara và Panduranga, chiếm Virapura. Vua Prithi Indravarman đã
chống trả lại mãnh liệt nhưng bị chết trong đám loạn quân (sau này được
dân chúng tôn thờ dưới pháp danh Rudraloka). Một bia ký đọc được ở tháp
Po Nagar ghi “những người đen đủi và gầy yếu từ miền xa đến, ăn những
thức ăn khủng khiếp hơn xác chết, lại có tính hung ác. Bọn người này đi
mành đến lấy cắp tượng linga của thần Sri Sambhu, đốt phá đền thờ [Po
Nagar]”. Sau cuộc tấn công này quân Nam Đảo cướp đi rất nhiều báu vật,
trong đó có tượng nữ thần Bhagavati bằng vàng.
Ngay khi Prithi Indravarman vừa tử trận,
một người cháu gọi ông bằng cậu tên Satyavarman được hoàng tộc tôn lên
thay thế. Nhưng vừa lên ngôi, Satyavarman đã cùng hoàng tộc chạy lên
miền Bắc (Bình Định) lánh nạn. Tại đây, nhà vua được cộng đồng người
Chăm và người Thượng địa phương (Bahnar, Hré) giúp thành lập một đạo
quân hùng mạnh tiến xuống Kauthara tấn công quân Nam Đảo. Trước uy lực
của Satyavarman, quân Nam Đảo lên thuyền bỏ chạy ra khơi, tân vương dẫn
hoàng gia về lại Virapura. Tại đây, nhà vua xây thêm một cung điện mới
trong thành Krong Laa và không ngờ đã sáng chế ra một phong tục mới mà
các đời vua sau bắt chước theo, đó là tục trồng cây Kraik, biểu tượng
của hoàng gia, trước cung điện. Đền Po Nagar, bị quân Nam Đảo phá hủy,
được Satyavarman cho dựng lại bằng gạch, 10 năm sau (774-784) thì hoàn
thành và tồn tại cho tới ngày nay. Năm 786, Satyavarman mất (được dân
chúng thờ phượng dưới pháp danh Isvaraloka), em trai út của ông được
hoàng tộc đưa lên ngôi, hiệu Indravarman I (786-801).
Hay tin Satyavarman từ trần, năm 787,
quân Java từ ngoài khơi lại tràn vào Virapura cướp phá, sát hại rất
nhiều binh sĩ và dân chúng, phá tháp Hòa Lai thờ thần Bhadradhipatisvara
tại Virapura. Quân Nam Đảo chia ra làm hai nhóm, một nhóm bắt theo
nhiềuá phụ nữ cùng rbáu vật chở về nước, một nhóm khác chiếm giữ
Panduranga. Phải hơn mười năm vất vả Indravarman I mới đuổi được quân
Nam Đảo ra khơi để khiến thiết lại xứ ở (năm 799). Tại Virapura, nhà vua
xây lại tháp Hòa Lai bằng ba tháp mới, gọi là Kalan Ba Tháp, thờ các
thần Indrabhadresvara, Sankara và Narayana. Cũng vất vả lắm Indravarman I
mới dẹp yên được một số giặc giã nổi lên từ khắp nơi, như tại Candra
(phía bắc), Indra (đông-bắc), Agni (phía đông), Yama (đông-nam), quan
trọng nhất là loạn Yakshas (phía nam). Yakshas là những bộ lạc Thượng cư
ngụ trên lãnh thổ đế quốc Angkor chứ không phải là quân Khmer.
Đầu thế kỷ thứ 9, Indravarman I mất, em rể là hoàng thân Deva Rajadhiraja lên thay, hiệu Harivarman I, mở đầu một trang sử mới.
Trong hai năm đầu tân vương dồn mọi nổ
lực xây dựng lại đất nước và phục hồi thế lực quân sự. Để nhận thêm sự
ủng hộ của quần chúng, nhà vua sai tể tướng Senapati Pangro trùng tu lại
tháp Po Nagar và xây thêm hai tháp mới cạnh tháp chính, một ở hướng nam
và một ở hướng tây-bắc để dân chúng đến chiêm bái tượng nữ thần
Bhagavati, được tạc lại bằng đá hoa cương.
Sau những cố gắng vượt bực, Hoàn Vương
Quốc hưng thịnh trở lại, Harivarman I quyết định trả thù những quốc gia
đã tấn công và cướp bóc đất nước của ông trước đó. Tháng 1-803, quân
Chăm tấn công châu Hoan (Tỷ Cảnh, nay là Thanh Hóa) và châu Ái (Hải Âm,
nay là Nghệ Tĩnh), mang về rất nhiều phẩm vật. Với lượng lúa gạo mang về
miền Bắc, thủy quân Hoàn Vương Quốc xuất dương trừng phạt vương quốc
Kelantan ở Java và Patani ở Malaysia. Khi trở về, nhà vua cho người lên
Tây Nguyên mộ thêm binh sĩ và được sự hưởng ứng nồng nhiệt của người
thiểu số. Với đạo quân này, hai lần (nam 803 và 817), Harivarman I tiến
vào cao nguyên Đồng Nai thượng, đánh bại quân Khmer và kiểm soát một
vùng đất rộng lớn.
Để có thêm nguồn lương thực, năm 808,
Harivarman I xua quân đánh chiếm châu Hoan và châu Ái lần nữa, nhưng bị
thái thú Trương Châu đánh bại: 59 người trong hoàng tộc bị bắt sống,
nhiều thớt voi, tàu chiến và quân trang quân dụng bị tịch thu, hơn
30.000 người bỏ xác tại trận. Về con số ba vạn người bị chết này, tưởng
cũng nên tương đối hóa nó vì thời đó người Hoa chưa phát minh ra số
“không” (zéro) do đó cái gì nhiều quá, đếm không xuể đều được ghi là
“vạn” ; con số ba vạn ở đây có thể do nhiều đơn vị khác nhau cùng báo
cáo và cũng có thể được thổi phồng để được triều đình trung ương khen
thưởng, vì qua năm sau, năm 809, Harivarman I tái chiếm châu Hoan và
châu Ái một cách dễ dàng và mang về rất nhiều phẩm vật.
Không rõ Harivarman I mất năm nào nhưng
con trai là tiểu vương (pulyan) đất Panduranga lên kế vị năm 817, hiệu
Vikrantavarman III. Vì tân vương còn nhỏ tuổi, triều thần phong tể tướng
Senapati Par, tiểu vương đất Manidhi (?), làm phụ chính. Viên tể tướng
này đã tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Kambujas (Kampuchea ngày
nay), do vua Jayavarman II cai trị, phá nhiều thành trì khmer trên cao
nguyên Đồng Nai thượng. Để tạ ơn Bà Mẹ Xứ Sở, trong khuôn viên Po
Nagar, Senapati Par cho xây thêm hai tháp mới về phía tây và tây-nam,
thời gian sau xây thêm ba tháp khác: một tại khu trung tâm thờ Sri
Shambu, một phía tây-bắc thờ Shandhaka và một phía nam thờ Ganesha. Mặc
dù vậy, trung tâm chính trị và tôn giáo vẫn được duy trì tại Virapura,
thủ phủ Panduranga.
Dưới thời Vikrantavarman III, Hoàn Vương
Quốc rất là giàu có, quân lực rất là hùng mạnh. Một bia ký, tìm được
tại tháp Po Nagar, mô tả Vikrantavarman III như sau: “[Người] đeo nhữngdây
vàng có đính ngọc trai và ngọc bích, giống như mặt trăng tròn đầy đặn,
che một chiếc lọng trắng bao phủ cả bốn phương trời bởi vì lọng còn sâu
hơn cả đại dương, thân thể [Người] trang sức phủ kín bởi vương miện,
đai, vòng, hoa tai, những tràng hồng ngọc… bằng vàng, từ đó phát ra ánh
sáng giống như những cây leo [sáng lấp lánh]”. Thư tịch cổ Trung Hoa (Cựu Đường thư) mô tả thêm: “[Vua] mặc áo cổ bối bạch diệp… trên đeo thêm trân châu, dây chuyền vàng làm thành chuỗi…”. Đẳng cấp quí tộc và phụ nữ cung đình cũng đeo trang sức quí: “Phu nhân mặc vải cổ bối triệu hà… mình trang sức dây chuyền vàng, chuỗi ngọc trai“. “[…] Quân đội được trang bị nhiều loại vũ khí khác nhau…“.
Với thời gian, Hoàn Vương Quốc trở thành
nạn nhân của sự giàu có của mình, các thế lực lân bang liên tục tràn
váo cướp phá. Trong suốt hơn 20 năm, từ 854 đến 875, quân của đế quốc
Angkor đã nhiều lần tiến đánh Hoàn Vương Quốc, chiếm nhiều vùng đất rộng
lớn dọc tả ngạn sông Đồng Nai, đôi khi còn băng cao nguyên Langbian đột
nhập vào lãnh thổ Panduranga cướp phá.
Vikrantavarman III mất năm 854 (được thờ dưới pháp danh Vikrantasvara), không người kế tự, nội bộ triều đình xảy ra tranh chấp.
Triều vương thứ sáu (859-991): vương triều Indrapura hay Campapura (Chiêm Thành)
Sống mãi trong xa hoa, vương triều
Panduranga trở nên yếu đuối. Sau hơn 20 năm chinh chiến với Angkor quyền
hành trong nước lọt dần vào tay các dòng vương tôn miền Bắc, chính họ
đã chống trả lại các đợt xâm lăng của đế quốc Angkor.
Năm 859, một vương tôn mang nhiều chiến
công, tên Laksmindra Bhumisvara Gramasvamin, được triều thần đưa lên
ngôi, hiệu Indravarman II.
Mặc dù là truyền nhân đích tôn của các
đời vua trước (ông nội là Rudravarman II, cha là Bhadravarman II),
Indravarman II lên ngôi do “dày công tu luyện, do sức mạnh của trí tuệ
trong sáng”, vì Indra là thần trên các vị thần. Sau khi qua đời ông được
dân chúng thờ dưới tên Paramabuddhaloka.
Dưới thời Indravarman II, trung tâm
quyền lực chính trị và tôn giáo được dời lên phía Bắc tại Indrapura –
thành phố Sấm Sét (nay là Đồng Dương, cách Đà Nẵng hơn 50km về phía nam)
trên bờ sông Ly Ly (một nhánh sông Thu Bồn, cách thánh địa Trà Kiệu 15
cây số). Vị trí của Indrapura rất thuận lợi trong việc phòng thủ chống
lại những cuộc tiến công của quân Khmer và quân Nam Đảo.
Phật giáo Đại Thừa cũng phát triển mạnh
trong giai đoạn này, nhiều nhà sư Trung Hoa được phép đến Indrapura
truyền đạo, xây chùa chiền và thu nạp giáo đồ, nhưng không mấy thịnh
hành. Indravarman II là người đã dung hòa được hai tôn giáo lớn nhất
thời đó (Bà La Môn và Phật giáo) trong dân gian và xã hội: nhiều Phật
viện (Vihara), Phật đường, tu viện, đền thờ được xây dựng khắp nơi lãnh
thổ, một bảo tháp dài 1.330m tên Laksmindra Lokesvara được xây dựng cạnh
đền thờ Bà La Môn (một tượng Buddha thời này, cao 1,14m, được tìm thấy
tại Đồng Dương năm 1978).
Đẳng cấp tu sĩ (Brahman) rất được trọng
vọng, đạo Bà La Môn rất thịnh hành. Indravarman II rất tự hào vì các đại
thần dưới quyền đều là những người Brahman và Ksatriya, và chính nhà
vua cũng là một Brahman.
Quốc hiệu Campapura (đất nước của
người Chăm, theo tiếng Phạn cổ) được Indravarman II chính thức sử dụng
khi tôn vinh đất nước mình. Sử sách Trung Hoa phiên âm là Chang Cheng
(từ chữ Campapura hay Campa mà ra), tiếng Việt là Chiêm Thành hay Chiêm
Bà, tiếng Tây phương là Champa. Trong thực tế, Campa là tên của một cây
có hoa màu trắng, nhụy vàng, hương rất thơm. Tiếng Việt gọi là hoa đại
hay bông sứ. Loài hoa này được trồng quanh cung điện của các vua Chăm và
đền thờ của người Chăm ; sau này được trồng tại nhiều nơi thờ tự của
các tôn giáo khác ở miền Trung và các gia trang có sân vườn rộng. Mỗi
dịp lễ lạc người Chăm thường hái bông sứ dâng lên bàn thờ, mùi hương tỏa
ngát không gian của đền thờ. Campa cũng là tên một địa danh miền bắc Ấn
Độ, trên con sông Hasdo, tỉnh Madhya Pradesh, gần thành phố Bhagalpur
(Bilaspur). Thời đó, vì mến mộ văn minh và văn hóa Ấn Độ, các vị lãnh
đạo Champa thường đặt tên triều vương, lãnh thổ và thành phố của mình
theo tên các địa danh đã có tại Ấn Độ.
Chiêm Thành dưới thời Indravarman II rất
là hùng mạnh, hai miền Nam-Bắc đã được thống nhất trong hòa bình. Trong
những năm 861, 862 và 865, quân Chiêm Thành tổ chức nhiều cuộc tấn công
vào phủ An Nam, mang về rất nhiều lương thực và của cải. Năm 889 vua
Angkor là Yasovarman hai lần tiến quân vào Chiêm Thành nhưng đều bị đánh
bại và chết trong rừng sâu (năm 890), một phần đất trên Đồng Nai thượng
và lãnh thổ đông-bắc Angkor (cao nguyên Rattanakiri và Mondolkiri) đặt
dưới quyền kiểm soát của Chiêm Thành.
Năm 890 Indravarman II mất, cháu là
hoàng thân Jaya Sinhavarmadeva Campapura Paramesvara kế vị, hiệu Jaya
Sinhavarman I. Tân vương được nhiều danh tướng Ajna Jayendrapati, Ajna
Narendranpavitra, Sivacarya, Po Klun Pilih Rajadvara… tận tình giúp đỡ.
Nhà vua tiếp tục cho xây thêm nhiều đền đài tráng lệ, tu viện Phật giáo
quanh thánh địa Đồng Dương. Tượng nữ thần Bhagavati được cho đúc lại
bằng vàng thờ trong chính điện tháp Yan Po Nagara.
Uy quyền của vương triều Indrapura nới
rộng lên đến Tây Nguyên. Cao nguyên Darlac-Kontum do một tiểu vương
người Thượng, tên Mahindravarman, cai trị. Nhiều đền đài Chăm được xây
cất trong thung lũng sông Bla gần Kontum (đền Kon Kor được xây cất năm
914 thờ thần Mahindra Lokesvara).
Jaya Sinhavarman I mất năm 898, con là
Jaya Saktivarman lên thay (899-901). Những vị vua tiếp theo –
Bhadravarman II (901-918) và con là Indravarman III (918-959) – tiếp tục
sự nghiệp của cha ông trong lãnh vực tôn giáo: đạo Bà La Môn trở thành
quốc giáo.
Qua trung gian những gia đình hoàng tộc
gốc Nam Đảo – Rahdar Ahmed Abu Kamil, Naqid Amr Ali – trốn chạy chính
sách cai trị khắc nghiệt của những tiểu vương Java, được tể tướng Po
Klun Pilih Rajadvara nhận vào tị nạn, đạo Hồi chính thức được phổ biến
trong chốn hoàng gia. Với thời gian, đạo Hồi được đông đảo quần chúng
bình dân tin theo. Nhân cơ hội, những gia đình quí tộc tị nạn này truyền
bá luôn văn minh và văn hóa Nam Đảo, đặc biệt là lối kiến trúc và cách
điêu khắc, cho nghệ nhân Chăm. Vào thời này, người Chăm đã nắm vững kỹ
thuật đi biển, biết buôn bán và giao hảo tốt với các quốc gia lân bang:
Trung Hoa và Java.
Vừa lo ngại vừa ganh tị sức mạnh và sự
giàu có của Chiêm Thành, năm 945 vua Khmer là Rajendravarman II cùng
binh sĩ băng rừng từ Angkor vào Kauthara, cướp tượng nữ thần Bhagavati
bằng vàng – vị thần bảo vệ xứ sở và là biểu tượng uy quyền của Chiêm
Thành – trong tháp Yan Po Nagara mang về nước ; từ sau ngày đó, vương
triều Indravarman III suy yếu hẳn.
Dưới thời Indravarman III, biến cố quan
trọng ảnh hưởng đến sự tồn vong của vương quốc Chiêm Thành là sự hình
thành một vương quốc độc lập phía Bắc: nước Đại Cồ Việt, nhưng chỉ thực
sự để lại hậu quả qua các triều vua sau. Năm 959, Indravarman III từ
trần, con là Jaya Indravarman I lên thay năm 960.
Việc làm đầu tiên của tân vương là cho
tạc lại tượng nữ thần Bhagavati bằng đá hoa cương để dân chúng đến thờ,
năm 965 mới xong. Năm 972, Jaya Indravarman Iraq từ trần, con là Phê Mi
Thuế, Paramesvaravarman I (972-982), lên thay.
Sinh hoạt chính trị của Chiêm Thành
trong giai đoạn này rất là hỗn độn, năm 978, một người tên Kinan Tache
mang phẩm vật sang Trung Hoa triều cống để được phong làm vua Chiêm
Thành nhưng không được nhà Tống nhìn nhận. Trong lúc đó, lợi dụng tình
trạng loạn lạc tại Đại Cồ Việt (loạn thập nhị sứ quân, từ 944 đến 972),
quân Chiêm Thành nhiều lần tiến lên đánh phá những quận huyện ở phía
nam, gây nhiều thiệt hại nhân mạng và tài sản.
Năm 979, hay tin Đinh Tiên Hoàng bị ám
sát, Ngô Nhật Khánh, một sứ quân Đại Cồ Việt, thuyết phục vua
Paramesvaravarman I, dẫn hơn một ngàn chiến thuyền từ Chiêm Thành vào
chiếm Hoa Lư, nhưng không thành. Ngô Nhật Khánh bị giết, quân Chăm phải
rút về.
Tình hình chính trị của Đại Cồ Việt
trong giai đoạn này cũng không lấy gì làm sáng sủa: triều đình không có
vua, Hạng Lang tức Đinh Vệ Vương còn quá nhỏ (6 tuổi), mẹ là thái hậu
Dương Vân Nga không thể một mình đảm đương việc nước vì phía Bắc quân
Tống lăm le tiến xuống, phía Nam quân Chiêm sẵn sàng tiến lên. Năm 980,
Dương Vân Nga nhường cho Lê Hoàn làm vua Đại Cồ Việt, hiệu Lê Đại Hành
hoàng đế. Tân vương sai sứ sang Trung Hoa báo tin, dâng vài tù binh
Chiêm vừa bắt được làm quà biếu. Vua Tống nhận tặng phẩm nhưng lại muốn
duy trì ảnh hưởng tốt với Chiêm Thành, sai thống đốc Quảng Châu cho
những tù binh Chiêm ăn uống rồi thả về nước.
Bực mình trước tin này, Lê Đại Hành sai
Từ Mục và Ngô Tử Canh sang Chiêm Thành yêu cầu vua Chiêm sang bái kiến.
Paramesvaravarman I, sau khi nhận lại tù binh từ nhà Tống và tin chắc sẽ
được Bắc triều bênh vực nếu bị Lê Đại Hành tấn công, đã không những
không sang bái kiến mà còn bắt giam sứ giả. Lê Đại Hành rất giận nhưng
chưa có phản ứng.
Sau khi đánh đuổi quân Tống ra khỏi lãnh
thổ phía Bắc cuối năm 980, Lê Đại Hành củng cố lại lực lượng chuẩn bị
tấn công Chiêm Thành. Đầu năm 982, nhà vua dẫn đại quân tiến vào
Indrapura. Đây là cuộc Nam chinh đầu tiên của người Việt vào đất Chiêm
Thành. Paramesvaravarman I tử trận ngay tại cửa thành, chấm dứt triều
đại Indrapura.
Lê Đại Hành tiến vào kinh đô Indrapura
(Đồng Dương), giết tướng giữ thành Tỳ My Thuế, bắt sống hàng trăm vũ nữ
trong hậu cung, tịch thu rất nhiều báu vật mang về nước. Bên ngoài binh
lính Việt đốt phá thành trì, san phẳng lăng tẩm các vị vua Chiêm, bắt
theo hàng ngàn tù binh, trong đó một nhà sư Ấn Độ tên Thiền Trước Tăng
(bhiksu). Lãnh thổ Bắc Chiêm Thành (Bình Trị Thiên) bị chiếm đóng từ 982
đến 983.
Sau chiến thắng này, văn hóa và nghệ
thuật (nhất là âm nhạc) Chiêm Thành chính thức được du nhập vào đời sống
cung đình và dân gian Việt. Đền đài, dinh thự tại Hoa Lư được trang trí
bằng những chiến lợi phẩm do các thợ Chiêm Thành chạm trổ và sản xuất
ra.
Indravarman IV (Xá Lợi Đà Ngô Nhựt Hoàn)
– được hoàng triều tôn lên làm vua khi Paramesvaravarman I vừa tử trận –
chạy vào Panduranga lánh nạn và chịu triều cống nhà Lê mới được yên.
Năm 985 Nhựt Hoàn sai pháp sư Kinkoma sang Trung Hoa xin nhà Tống cứu
viện nhưng được khuyên là nên duy trì quan hệ tốt với Đại Cồ Việt.
Nội bộ nhà Lê cũng xảy ra tranh chấp về
quyền lãnh đạo trên lãnh thổ Bắc Chiêm Thành, người thì đề nghị cai trị
trực tiếp, người thì khuyên tản quyền. Cuối cùng một giải pháp trung
gian được áp dụng: nơi nào còn đông đảo người Chăm cư ngụ thì giao cho
người địa phương quản lý, nơi nào đông dân cư gốc Kinh sinh sống thì
triều đình Đại Cồ Việt đặt quan cai trị trực tiếp. Sự kiện này chứng tỏ
sự cộng cư giữa các nhóm cư dân địa phương sau khi Lâm Ấp giành được độc
lập vẫn còn khắng khít, nhưng từ khi người Kinh bắt đầu cai trị trực
tiếp lãnh thổ Bắc Chiêm Thành chống đối bắt đầu xảy ra.
Năm 983, một quản giáp (trưởng làng)
người Kinh sinh sống trên lãnh thổ Bắc Chiêm Thành tên Lưu Kỳ Tông nổi
lên chém đầu một người con nuôi của Lê Đại Hành, lúc đó là một quan cai
trị trực tiếp, xây thêm thành lũy quanh Phật Thành (Fo Che) phòng thủ
lãnh thổ Bắc Chiêm Thành, rồI mộ hơn 10.000 người và nhiều voi ngựa đánh
Đại Cồ Việt. Lê Đại Hành tiến quân xuống đánh nhưng cuộc chiến đã không
xảy ra, vì sau khi vượt núi Đông Cổ và sông Bà Hòa (Thanh Hóa), đại
quân của nhà Tiền Lê chịu không nổi sương lam chướng khí phải rút về.
Năm 986, hay tin vua Indravartman IV
(Ngô Nhựt Hoàn) của người Chăm từ trần, Lưu Kỳ Tông liền tự xưng vương
và xin nhà Tống thừa nhận. Sự tiếm quyền này xúc phạm đến tín ngưỡng của
người Chăm vì Lưu Kỳ Tông không xuất thân từ vương tộc hay đẳng cấp tôn
giáo nào, và là một đe dọa cho cộng đồng người Hoa địa phương. Một
người Chăm gốc Hoa tên Poulo Ngo dẫn theo khoảng 150 người đổ bộ lên đảo
Hải Nàm và vùng duyên hải nam Quảng Châu tị nạn. Năm 988, thêm 300
người khác do Ho Siuan dẫn đầu đổ bộ lên bờ biển Quảng Châu. Người Chăm
gốc Nam Đảo còn lại theo Bằng Vương La (Cu-thì-lợi Hà-thanh-bài Ma-la),
một người Champa sinh sống tại Phật Thành, kháng chiến chống Lưu Kỳ
Tông.
V. Thời kỳ xung đột
Triều vương thứ bảy (991-1044): vương triều Vijaya
Năm 989 Lưu Kỳ Tông, một người Kinh tự
nhận là vua lãnh thổ Chiêm Thành phía Bắc từ năm 983, bị Bằng Vương La
(Cu-thì-lợi Hà-thanh-bài Ma-la), một vương tôn Chăm phía Nam, nổi lên
lật đổ và được dân chúng tôn lên làm vua, hiệu Harivarman II
(Dương-to-pai hay Dương Đà Bài). Harivarman II xưng vương tại Phật Thành
(Vijaya), nhưng tổ chức vương quyền vẫn đặt tại Indrapura (Đồng Dương),
ý muốn đề cao nguồn gốc thần quyền của ông từ bộ tộc Dừa. Harivarman II
được nhiều sử gia xác nhận là người sáng lập vương triều thứ bảy của
Chiêm Thành.
Năm 990, một người Việt tên Dương Tiến
Lộc – làm quan quản giáp đi thu thuế tại châu Ái và châu Hoan (Thanh
Hóa, Nghệ An) – hô hào người Kinh và Chăm nổi lên chống lại nhà Lê.
Dương Tiến Lộc có yêu cầu Harivarman II giúp đỡ nhưng bị từ chối. Hay
tin có phản loạn, Lê Đại Hành liền mang quân vào đánh dẹp, Dương Tiến
Lộc cùng những người phản loạn bị giết chết, hơn 360 tù binh Chăm bị bắt
mang về miền Bắc, một số được tuyển làm nài điều khiển voi trong binh
lực nhà Lê.
Năm 992, quan hệ giữa nhà Lê và vương
triều Vijaya trở nên bình thường và, để tỏ lòng biết ơn Harivarman II từ
chối không ủng hộ cuộc phản loạn của Dương Tiến Lộc, Lê Đại Hành trả tự
do cho hơn 300 tù binh Chăm về nước. Cũng nên biết làn ranh phân chia
Đại Cồ Việt và Chiêm Thành trong giai đoạn này được xác định tại đèo
Ngang, tức địa phận Di Luân, gần cửa sông Gianh (Quảng Bình). Cùng thời
gian này, quan hệ giữa Chiêm Thành và Trung Hoa trở nên bình thường,
Harivarman II được nhà Tống công nhận, hai bên trao đổi nhiều phẩm vật
quí giá. Nhân dịp này Harivarman II yêu cầu vua Tống giao trả những
người Chăm tị nạn tại Quảng Châu trước đó (986-988) về lại Chiêm Thành.
Mối giao hảo thân thiết giữa Chiêm Thành
và Trung Hoa không làm vua Lê hài lòng. Năm 994, Lê Đại Hành cho người
vào Viyaja yêu cầu Harivarman II triều cống nhưng bị từ chối, vua Lê
liền cất quân sang đánh. Quân Chiêm tuy có đẩy lui được cuộc trừng chinh
này nhưng hao tổn cũng khá nhiều, Harivarman II chấp nhận sẽ triều cống
trở lại. Nhưng Lê Đại Hành yêu cầu phải triều cống tức khắc và buộc
Harivarman II phải đích thân sang bái kiến mới vừa lòng. Vua Chiêm liền
sai một thân tín tên Chế Đông sang thay mặt, Lê Đại Hành trách là vô lễ ;
Harivarman II phải sai cháu là Chế Cai sang chầu và hứa sẽ không quấy
phá vùng biên giới nữa mọi việc mới yên. Tuy vậy trong những năm 995 và
997, do thiếu đói vì mất mùa quân Chiêm có tràn sang cướp phá một số
làng xã dọc vùng biên giới rồi rút về liền. Lê Đại Hành cũng chỉ củng cố
lại một số địa điểm phòng thủ chứ không trả đũa ; một số gia đình nông
dân nghèo gốc Kinh được đưa vào lập nghiệp trên một phần lãnh thổ Bắc
Chiêm Thành, sau này có tên là Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh.
Năm 999, Harivarman II mất, con là Po
Alah (Po Ovlah hay Âu Loah) – một tín đồ Hồi giáo trung kiên đã từng
sang La Mecque hành hương – lên thay, hiệu Yanpuku Vijaya (Dương-phổ-cu
Bi-trà-xá-lợi). Trung tâm quyền lực đặt tại Vijaya, tức thành phố Chiến
Thắng (còn có tên là Phật Thệ, Phật Thành hay Chà Bàn, Đồ Bàn, nay là
thị trấn An Nhơn). Toàn bộ vương tộc tại Indrapura (Đồng Dương) được đưa
về Sri Bini (Qui Nhơn) định cư, vì nơi này ít bị uy hiếp hơn khi có
chiến tranh. Dưới thời Yanpuku Vijaya (999-1010), đạo Hồi cùng với đạo
Bà La Môn phát triển mạnh mẽ. Tân vương tổ chức lại quân đội và cử nhiều
phái đoàn sang Trung Hoa thông sứ với hy vọng được nhà Tống bảo vệ khi
bị Đại Cồ Việt tấn công.
Năm 1005, hay tin Lê Đại Hành mất,
Yanpuku Vijaya mang quân tấn công Đại Cồ Việt, lúc đó do Lê Long Đĩnh
(1005-1009), một hôn quân, cai trị. Hai bên giữ thế giằng co, bất phân
thắng bại trong 40 năm (1005-1044). Yanpuku Vijaya mất năm 1010, Sri
Harivarmadeva lên thay, hiệu Harivarman III. Tân vương cai trị đến năm
1018 thì mất, Chế-mai-pa Mộ-tài (Chemeipai Moti) lên thay, hiệu
Paramesvaravarman II.
Trong lãnh thổ người Kinhù, Lý Công Uẩn
lật đổ nhà Lê, thành lập nhà Lý (năm 1010), hiệu Thái Tổ, đổi quốc hiệu
là Đại Việt. E ngại uy dũng và mến mộ đức độ của Lý Thái Tổ, Chiêm Thành
và Chân Lạp cử người sang triều cống. Giao hảo giữa Chiêm Thành và Đại
Việt rất là tốt đẹp, nhưng chỉ kéo dài được mười năm. Năm 1020, do mất
mùa và đói kém, quân Chiêm Thành tiến chiếm hai châu Bố Chánh và Ma Linh
(Quảng Bình). Năm 1021, thái tử Phật Mã, trưởng nam của Lý Thái Tổ,
chiếm lại hai châu bị mất. Năm 1026, quân của thái tử Phật Mã chiếm luôn
châu Điền (Thừa Thiên). Lý Thái Tổ mất năm 1028, Phật Mã lên thay, xưng
hiệu Thái Tôn. Vua Chiêm Thành không những không chịu thông sứ với Đại
Việt mà còn xua quân đánh phá các làng ven biển tại châu Điền, châu Ái
(Thanh Hóa) và châu Hoan (Nghệ An). Sau khi củng cố lại lực lượng tại
châu Hoan, Lý Thái Tôn sát nhập ba châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh vào
lãnh thổ Đại Việt và cử võ quan vào trấn thủ.
Năm 1030, Paramesvaravarman II qua đời,
triều đình Viyaja rối loạn. Một vương tôn tên Chế Li (Cheli) tiếm ngôi,
xưng hiệu Vikrantavarman IV. Nội chiến liền xảy ra, rất là khốc liệt.
Con cháu Paramesvaravarman II nổi lên chống lại. Năm 1038, con
Vikrantavarman IV là hoàng tử Địa Bà Thích cùng với một số thủ hạ trong
binh đội địa phận Bố Chánh (hơn 100 người do các tướng Bố Cả, Lan Đồ
Thích, Lạc Thuẩn, La Kế và A Thát Thích chỉ huy) nổi lên giành ngôi với
vua cha nhưng không thành, phải chạy vào Đại Việt xin tị nạn. Tại đây
Địa Bà Thích hai lần xin nhà Lý (1039 và 1040) đưa về làm vua, nhưng
không được chấp nhận.
Trước đe dọa của chính con mình, năm
1401 Vikrantavarman IV – sau khi liên minh được với vương quốc Angkor là
vua Surayavarman I – yêu cầu nhà Lý giao hoàng tử Địa Bà Thích phản
nghịch về xử tội, nhưng không thành. Quân Chăm liền tấn công Đại Việt,
Vikrantavarman IV bị giết ngay trong trận đầu, con là thái tử Sạ Đẩu (Po
Tik) lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman II. Tân vương sai sứ sang Trung
Hoa xin vua Tống tấn phong đồng thời cũng xin được bảo vệ, nhờ đó được
yên bình vài năm. Năm 1043, quân Chiêm dùng thuyền đổ bộ vào một số làng
xã ven biển đánh phá và chỉ rút lui khi quân Lý tiến tới.
Năm 1044, viện cớ Chiêm Thành không chịu
triều cống từ hơn 16 năm qua và còn quấy rối lãnh thổ, Lý Thái Tôn dẫn
đầu một đại binh gồm 10.000 thủy quân xuống đánh. Jaya Sinhavarman II
vừa tổ chức phản công vừa cho người sang Trung Hoa cầu cứu. Quân Chiêm
chận quân Đại Việt tại phía nam sông Thu Bồn (Quảng Nam) nhưng bị thua
to: gần 30.000 binh sĩ và hơn 60 voi trận phơi thây trên chiến trường,
hơn 5.000 quân Chiêm và 30 voi trận bị bắt sống. Jaya Sinhavarman II
cũng bị tử thương trong trận này, tướng Quách Gia Gi (Isvaras) liền cắt
lấy đầu mang sang trại vua Lý làm lễ vật xin hàng. Lý Thái Tôn thấy quân
Chiêm bị giết quá nhiều liền ra lệnh không cho binh sĩ giết người vô
cớ. Quân Đại Việt tiếp tục tiến xuống phía Nam, chiếm đế đô Phật Thệ
(Vijaya hay Đồ Bàn), bắt được vương phi Mỹ Ê cùng nhiều cung nữ và nghệ
nhân mang về đất Bắc.
Trên đường về nước, khi đến sông Lý Nhân
(sông Hương), Lý Thái Tôn cho người mời Mỵ Ê sang chầu nhưng bà nhảy
xuống sông tự tử để giữ tiết với chồng. Quý mến sự thủy chung này, vương
phi Mỵ Ê được Lý Thái Tôn phong tước Hiệp chánh hộ thiên và cho lập đền
thờ. Những tù binh Chiêm Thành sau đó được cấp ruộng đất và cho định cư
tại Hưng Hóa (Nghệ An) trong hai xã Vĩnh Khương và Đăng Châu. Nông dân
Đại Việt cũng di cư vào các vùng đất mới tại Bố Chánh, Địa Lý và Ma Linh
lập nghiệp.
Trong số tù binh Chăm có một thiền sư
Phật giáo tên Thảo Đường. Tăng sư Thảo Đường lập ra phái Thiền tông thứ
ba tại Đại Việt. Nhiều chùa Phật giáo Tiểu Thừa tại miền Bắc Việt Nam
(chùa Vạn Phúc ở Bắc Ninh, chùa Thiên Phúc ở Sơn Tây) do nhân công gốc
Chăm xây dựng. Thợ Chăm dạy cho thợ Đại Việt cách đúc tượng Phật và xây
cất chùa kiểu Ấn Độ. Nghệ nhân Chiêm Thành dạy cho các cung nữ triều
đình nhà Lý các điệu nhạc Chiêm Thành (các điệu nam ai, nam oán…).
Triều vương thứ tám (1044-1074): loạn sứ quân
Quách Gia Gi là một vương tôn thuộc đẳng
cấp Ksatriya (chiến sĩ). Sau khi đầu hàng nhà Lý, ông được triều thần
tôn lên làm vua năm 1044, hiệu Jaya Paramesvaravarman I. Trước một đất
nước bị kiệt quệ vì chiến tranh, Quách Gia Gi một mặt phải giao hảo tốt
với Trung Hoa và Đại Việt để được yên thân, mặt khác tập trung sức lực
còn lại bình định loạn lạc ở phía nam. Trước kia, theo thỏa hiệp giữa
Vikrantavarman IV và Surayavarman I (vương quốc Angkor), quân Khmer vào
giúp Chiêm Thành dựng trại tại Panduranga, khi Vikrantavarman IV mất
quân Khmer không những không chịu rút quân về mà còn muốn chiếm giữ luôn
lãnh thổ Panduranga.
Năm 1050, viện cớ một tiểu vương tại
Panduranga không tuân phục triều đình trung ương, Jaya Paramesvaravarman
I cùng cháu là hoàng thân Yavaraja Mahasenapati mang quân chinh phạt và
cũng nhân dịp đánh đuổi quân Khmer ra khỏi lãnh thổ. Tiểu vương
Panduranga thua trận, một số binh sĩ và dân chúng đất Pănrăn (Phan Rang)
phải trốn trong các hầm đất, hang động hoặc chạy lên núi trốn, một số
khác chạy theo quân Khmer về bên kia biên giới lánh nạn. Toàn bộ tài
sản, súc vật của dân chúng Pănrăn bị tịch thu mang về Vijaya làm chiến
lợi phẩm ; những tù binh bị mang về làm nô lệ và hạ xuống làm đẳng cấp
Sudra. Tiểu quốc Panduranga bị đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của
triều đình trung ương Vijaya. Trong giai đoạn này, người Chăm chạy loạn
lên Tây Nguyên (đặc biệt là cao nguyên Đắc Lắc) lánh nạn một số đã ở lại
định cư vĩnh viễn, hòa trộn với những nhóm dân cư có trước để thành
người Rhadé.
Dẹp xong loạn phía Nam, Jaya
Paramesvaravarman I xây dựng lại đất nước. Nhà vua cho dựng lại các
tượng đài bằng đá hoa cương trong tháp Po Nagar, cấp cho những vị tu sĩ
giữ đền 50 nô lệ Chăm, Khmer, Hoa, Miến, Xiêm, 15 cân vàng, 15 cân bạc,
và nhiều vật dụng quí giá khác. Nhà vua mất năm 1060, con trai trưởng
lên kế vị hiệu Bhadravarman III, trị vì được một năm (1060-1061) thì
mất.
Năm 1061, em trai của Bhadravarman III
là Chế Củ lên thay, hiệu Rudravarman III. Rudravarman III là một người
tinh khôn, một mặt giao hảo bình thường nhà Lý để tránh bị nghi ngờ, mặt
khác chuẩn bị quân sĩ tiến đánh Đại Việt. Năm 1068, Rudravarman III
mang quân đánh vào các làng của người Việt tại Ma Linh và Địa Lý, quân
Lý thua phải rút lên phía Bắc.
Năm 1069, Lý Thánh Tôn (lên ngôi năm
1054) cùng Lý Thường Kiệt mang 30.000 quân và 200 chiến thuyền tiến
chiếm Sri Bini (Qui Nhơn), rồi đế đô Vijaya (Bình Định), giết tướng giữ
thành là Bố Bì Đà La trên sông Tu Mao (nay là Hà Giao). Rudravarman III
băng rừng chạy sang Chân Lạp tị nạn. Tại đây hoàng gia Chăm bị người
Khmer bạc đãi, Rudravarman III về lại Vijaya chịu cho quân Đại Việt bắt
sống, cùng với 3.000 quân và gia quyến, hơn là qui thuận Angkor. Tuy vậy
thành Vijaya vẫn bị quân Đại Việt tràn vào đốt phá trước khi rút về
nước. Dân số Vijaya lúc đó được ghi nhận là hơn 2.560 gia đình. Để chuộc
lại tự do, Rudravarman III xin dâng ba tỉnh phía bắc Chiêm Thành gồm Bố
Chánh (hay Bố Chính), Địa Lý và Ma Linh (Quảng Bình và bắc Quảng Trị
ngày nay). Lãnh địa Indrapura bị xóa tên và trở thành ba tỉnh của Đại
Việt. Nhà Lý đổi tên Ma Linh thành châu Minh Linh, Địa Lý thành châu Lâm
Bình, châu Bố Chánh được giữ nguyên tên.
Thật ra ba châu Bố Chánh, Địa Lý và Ma
Linh đã thuộc về Đại Việt từ lâu, từ đời nhà Tiền Lê (năm 982), cách đó
gần 80 năm. Do sức ép về dân số, nhiều gia đình nông dân nghèo khó không
có đất canh tác trên đồng bằng sông Hồng và sông Cả đã tự động di cư
đến đây rồi khai phá đất hoang và canh tác hoa mầu. Trong cuộc sống cộng
cư, với thời gian, có thể những nhóm di dân cư này đã hòa trộn với các
nhóm dân cư gốc Kinh có mặt từ trước, khi vương quốc Lâm Ấp được thành
hình, hoặc với người Chăm địa phương từ nhiều đời để tạo thành các nhóm
“dân miền Trung”. Yếu tố Chăm do đó không còn mạnh mẽ, nếu không muốn
nói là mất hẳn ảnh hưởng trên vùng đất này, nhường chỗ cho yếu tố Kinh,
đầy sức sống và đông đảo hơn. Nói một cách khác, sự dâng đất này là một
hình thức công nhận quyền sở hữu chính thức của nhà Lý trên một vùng đất
đã thoát khỏi sự kiểm soát của chính quyền trung ương Chiêm Thành từ
lâu. Sự dâng đất này còn ngụ ý là Chiêm Thành sẽ không mang quân sang
quấy phá nữa, vì thần linh bảo vệ hoàng tộc và đất đai không còn nữa.
Đất ở ba châu này thật ra có phì nhiêu hơn ở vùng Thanh Hóa (tức châu
Điền), nhưng không phì nhiêu bằng đất ở Amavarati (Quảng Nam). Sự tranh
chấp giữa Đại Việt và Chiêm Thành về sau trên phần lãnh thổ này vì tự ái
dân tộc nhiều hơn vì sự mầu mỡ của đất đai.
Sau khi nhượng hẳn cho Đại Việt ba châu
phía Bắc, Rudravarman III mất uy tín trước các tiểu vương. Chiêm Thành
bị loạn sứ quân, không ai còn nghe ai nữa. Hơn mười tiểu vương tự tuyên
bố độc lập, kẻ mạnh mang quân đi đánh tiểu vương quốc yếu để mở rộng
lãnh thổ hoặc gây thanh thế. Các tiểu vương ở phía Nam, liên minh với đế
quốc Angkor, biến Panduranga thành trung tâm chống lại vương triều và
các tiểu vương phía Bắc. Năm 1074, buồn phiền trước cảnh đất nước loạn
lạc và bị các tiểu vương phía Nam xua đuổi, Rudravarman III (Chế Củ) dẫn
gia đình sang Đại Việt xin tị nạn và tan biến luôn trong xã hội người
Kinh.
Triều vương thứ chín (1074-1139): tranh chấp với Đại Việt
Tại Panduranga, một hoàng thân xuất thân
từ Panduranga tên Thăn (còn gọi là Yan Visnumurti, Madhavamurti hay
Devatamurti, tiếng Việt là Thân), cùng em là hoàng tử Pãn (tên Việt là
Phan), đã lần lượt chinh phục các tiểu vương sứ quân, thống nhất lại đất
nước. Năm 1074, Thăn được quần thần tôn lên làm vua, hiệu Harivarman
IV, mở đầu triều vương thứ chín.
Thăn là tên một hoàng tộc thuộc bộ tộc
Cau mà dân chúng Panduranga cho là dòng vương tôn chân truyền của vương
quốc Champa. Chính vì thế Harivarman IV rất tự hào về nguồn gốc xuất
thân của mình, vì luôn tự nhận là sự kết hợp của hai bộ tộc lớn nhất của
Chiêm Thành: cha là Pralaysvara Dharmaraja, dòng Narikelavansa thuộc
đẳng cấp Ksatriya, bộ tộc Dừa ở Amaravati ; mẹ thuộc dòng Kramukavansa,
đẳng cấp Brahman, bộ tộc Cau ở Panduranga. Sở dĩ có sự giải thích dài
dòng về nguồn gốc xuất thân này – nhất là nguồn gốc xuất thân của mẹ,
dòng Brahman chính thống – vì Harivarman IV biết chắc rằng trong các sứ
quân không ai hội đủ điều kiện về nguồn gốc xuất thân để có thể được tôn
lên làm vua trên toàn cõi Chiêm Thành.
Việc làm đầu tiên của Harivarman IV là
phục hồi lại các đền đài đã bị tàn phá bởi quân Đại Việt và cuộc nội
chiến. Không đầy một năm sau, Chiêm Thành trở nên hùng mạnh trở lại.
Harivarman IV mang quân sang đánh Đại Việt, giành lại phần lãnh thổ mà
Rudravarman III đã nhượng trước đó.
Năm 1075, viện cớ phục hồi ngôi vua cho
con cháu Rudravarman III (Chế Củ), nhà Lý sai Lý Thường Kiệt mang quân
chiếm lại ba châu vừa bị mất. Trước sự chống trả mãnh liệt của quân
Chiêm, Lý Thường Kiệt phải lui binh nhưng cho người vẽ lại địa thế rồi
đưa một số nông dân gan dạ (thật ra là những binh lính trá hình) vào
định cư. Hay tin quân Lý bị Chiêm Thành đánh bại, vua Tống sai Vương An
Thạch mang 10.000 quân tiến qua biên giới tấn công Đại Việt. Lý Thường
Kiệt lui về bảo vệ lãnh thổ phía bắc. Ba châu vừa chiếm lại lọt vào tay
Chiêm Thành.
Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì kết hợp
với Chiêm Thành và Angkor, mang 7.000 quân tiến công Đại Việt nhưng bị
Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đánh bại. Thừa thắng, Lý Thường Kiệt tiến
xuống chiếm đóng đế đô Phật Thành, Harivarman IV phải cùng con cái và
một số thân tín chạy lên núi trốn ; tại đây phái đoàn được các sắc dân
Thượng che chỡ.
Quân Lý chỉ chịu rút khỏi Phật Thành khi
Harivarman IV tuyên bố chấp nhận triều cống nhà Lý trở lại. Hay tin
này, hoàng thân Sri Nandanavarmadeva (người Khmer) – mang quân vào miên
Nam Chiêm Thành theo lời mời của Quách Quì để chống lại nhà Lý – chiếm
luôn Panduranga. Vua Harivarman IV phải yêu cầu nhà Lý giúp đỡ. Lúc này
mặc dù đã tuổi già sức yếu, Lý Thường Kiệt vẫn phải thân chinh đi đánh
dẹp. Quân Khmer thua to bỏ chạy về nước, Harivarman IV truy đuổi và tiêu
diệt hết tại Somesvara (Biên Hòa ngày nay). Nhà vua sai em là hoàng tử
Pãên (tiếng Việt là Phan) chiếm thành Sambhupura (Sambor) trên sông
Mékong, bắt được nhiều tù binh cùng vàng bạc và của cải mang về nước.
Dẹp xong loạn phương Nam, Harivarman IV
tập trung phục hồi đất nước. Mặc dù vẫn duy trì triều đình tại Vijaya,
nhà vua sửa sang lại các nơi thờ phượng khác trên toàn quốc và cho xây
dựng lại các thánh địa tôn giáo tại Indrapura (Đồng Dương) và Sinhapura
(Mỹ Sơn). Hoàng tử Pãn đích thân đôn đốc việc trùng tu các đền thờ tại
Sinhapura (Mỹ Sơn). Dưới triều vua Harivarman IV, Chiêm Thành trù phú
trở lại, đền đài cung điện tìm lại những nét huy hòang tráng lệ ngày
xưa.
Năm 1080, Harivarman IV nhường ngôi cho
con là thái tử Văk Pulyan Rajadvara, 9 tuổi. Tân vương lên ngôi năm
1081, hiệu Jaya Indravarman II (Chế Ma Na). Chú là hoàng tử Pãn thế
quyền giám quốc. Nhưng không biết vì nguyên do nào mà cả triều thần và
thái tử Văk đồng tôn Pãn lên làm vua, hiệu Sri Paramabodhisatva (Si-bà
Ra-ma Bồ-đề Sát-bà). Paramabodhisatva giao hảo tốt với Đại Việt, mục
đích chính của nhà vua là duy trì sự thống nhất của Chiêm Thành, vì lúc
đó một tiểu vương Panduranga tên Rudravarman ly khai, không công nhận
vương quyền phương Bắc. Thật ra sự ly khai này đã xảy ra từ 16 năm
trước, nhưng triều đình Vijaya vì bận lo giải quyết những vấn đề khác
cấp bách hơn nên chưa ra tay. Tiểu vương Rudravarman bị đánh bại,
Panduranga bị dưới quyền cai trị trực tiếp của Phật Thành (Vijaya).
Năm 1086, nội bộ Chiêm Thành xảy ra nội
chiến. Thái tử Văk (Jaya Indravarman II) được triều đình thúc đẩy muốn
cầm quyền trở lại. Ước muốn này gặp sự phản đối của vua Paramabodhisatva
(hoàng tử Pãn) – người muốn đưa trưởng nam của mình là hoàng tử Pulyan
Sri Yavaraja lên ngôi – đã tìm mọi cách loại trừ thế lực của thái tử Văk
nhưng không được. Cuối cùng Paramabodhisatva mất tích, phe của ông bị
phe của thái tử Văk giết hết. Jaya Indravarman II lên ngôi và tiếp tục
triều cống Đại Việt. Năm 1092, Jaya Indravarman II nhờ nhà Tống giúp đòi
lại vùng đất đã mất nhưng không kết quả.
Năm 1103, một người Việt ở phủ Diên Châu
(Nghệ An) tên Lý Giác nổi lên làm phản. Lý Thường Kiệt vào đánh, Lý
Giác thua chạy sang Phật Thành (Vijaya) thuyết phục vua Jaya Indravarman
II hưng binh chiếm lại vùng đất đã mất. Lý Thường Kiệt một lần nữa phải
thân chinh đi dẹp lọan, Jaya Indravarman II bị thua phải trả lại ba
châu đã chiếm và chịu triều cống trở lại năm 1104.
Nhà Lý liền phân chia lại các châu vừa
lấy lại như sau: châu Bố Chánh gồm huyện Nam Bố Chánh (Bố Trạch ngày
nay) và huyện Bắc Bố Chánh (Quảng Trạch và Tuyên Hóa ngày nay), châu Lâm
Bình (Địa Lý cũ) gồm huyện Phong Lộc (Quảng Ninh ngày nay) và huyện
Phong Đăng (sau gọi là Phong Phú, tức huyện Lệ Thủy ngày nay). Hai huyện
Phong Lộc và Phong Phú là vựa lúa lớn nhất của đất Indrapura. Châu Minh
Linh (Ma Linh cũ) được chia thành hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh.
Năm 1113, cháu Jaya Indravarman II là
Harivarman V lên ngôi, tân vương giữ nguyên chính sách cai trị của chú,
quan hệ giữa Chiêm Thành và Đại Việt rất là thân thiết. Harivarman V trị
vì đến năm 1129 thì mất không người kế vị, Chiêm Thành lâm cảnh loạn
lạc. Vương triều Panduranga không chịu sự cai trị của Vijaya, liên kết
với Chân Lạp đánh lại. Hai miền Nam Bắc đánh phá lẫn nhau trong suốt 10
năm (1129-1139).
Triều vương thứ mười (1139-1145): dưới sự khống chế của người Khmer
Năm 1129 Harivarman V mất, hoàng triều
Champa tôn người con nuôi của nhà vua tên Po Sulika lên thay, hiệu Jaya
Indravarman III. Vì không có quan hệ gia tộc trực tiếp với dòng vua cũ,
Jaya Indravarman III phải tự nhận có quan hệ xa xôi với các triều vua
trước để được dân chúng phục tùng. Theo các bia ký đọc được tại Đồng
Dương và Po Nagar, Jaya Indravarman III sinh năm 1106, được nhận vào
hoàng tộc năm 1129 tước Devaraja, được phong vương (Yuvaraja) năm 1133.
Jaya Indravarman III xây thêm nhiều tượng thần Siva, Visnu và Linga
trong những năm 1139, 1142 và 1143 tại Indrapura và Kauthara để xác nhận
ông là truyền nhân của đẳng cấp Brahman.
Cùng thời gian này, năm 1112, tại Chân
Lạp vua Suryavarman II lên ngôi. Năm sau tân vương xua quân đánh chiếm
Chiêm Thành. Tham vọng của nhà vua được thời cuộc hỗ trợ vì bên Trung
Hoa nhà Tống đang bận chống quân Kim (Mãn Châu) ; vua Lý Thần Tông chết
sớm, Lý Anh Tôn còn quá nhỏ, các tướng lãnh tranh quyền, Đại Việt bị suy
kém. Năm 1128, được Nam Chiêm Thành hỗ trợ, Suryavarman II dẫn 20.000
quân, đi trên 700 chiến thuyền, đổ bộ vào Thanh Hóa đánh phá và cũng là
một cách răn đe Đại Việt không nên hỗ trợ Bắc Chiêm Thành, bị Angkor
liên tục đánh phá từ 1030. Không chịu đựng nổi sự hà hiếp của người
Khmer, đời sống dân chúng Chăm rất là khổ sở. Dưới sự cai trị hà khắc
của người Khmer, một số vương tôn Chăm chạy vào Đại Việt xin tị nạn (Cụ
Ông và 30 gia nhân, Kim Đình A Phú và 4 gia nhân, Tư Bồ Đà La cùng 30
gia nhân, Êng Ma và Êng Câu…). Trong những năm 1131 và 1136, quân Nam
Chiêm Thành và Chân Lạp hợp nhau đánh phá Nghệ An và bờ biển Thanh Hóa.
Năm 1132, viện cớ Jaya Indravarman III
không chịu hợp tác tấn công Đại Việt, Suryavarman II tiến quân lần nữa
sang đất Chiêm Thành: đế đô Vijaya bị chiếm năm 1145. Jaya Indravarman
III mất tích trên chiến trường (được dân chúng thờ dưới tên Rudraloka),
những người chống lại quân Khmer đều bị xử trảm. Suryavarman II tự xưng
là hoàng đế của cả Chân Lạp lẫn Chiêm Thành. Kể từ 1145 đến 1149, lãnh
thổ đế quốc Khmer được nới rộng lên phía Bắc, từ Champassak (Nam Lào)
đến đèo Hải Vân (Bắc Chiêm Thành), người Khmer trực tiếp điều khiển binh
lực Chiêm Thành.
Triều vương thứ mười một (1145-1318): xung đột với Angkor
Năm 1145 hoàng thân Parabrahman được
triều thần đưa lên kế vị Jaya Indravarman III, hiệu Rudravarman IV. Vừa
lên ngôi, Rudravarman IV cùng con trai là Ratnabhumivijaya (hoàng tử
Sivanandana) bị quân Khmer truy lùng ráo riết phải bỏ Vijaya chạy vào
Đại Việt lánh nạn. Thời gian sau, Rudravarman IV băng rừng về lại
Panduranga lập chiến khu trên cao nguyên, nhiều bộ lạc Thượng gia nhập
quân kháng chiến rất đông. Trên đường chạy loạn, Rudravarman IV lâm bệnh
mất năm 1147 (dân chúng thờ dưới tên Brahmaloka hay Parabrahmaloka),
con là thái tử Ratnabhumivijaya lên thay, hiệu Jaya Harivarman I (Chế Bì
Ri Bút).
Trên cao nguyên, Jaya Harivarman I được
đông đảo người Thượng và người Khmer (có thể là người Thượng thuộc hệ
ngôn ngữ Môn Khmer) ủng hộ. Nhà vua tổ chức kháng chiến chiếm lại
Panduranga, nhưng lãnh thổ Bắc Chiêm Thành (Vijaya) vẫn còn nằm trong
tay người Khmer, do em rể vua Jaya Indravarman III là hoàng tử Hariveda
(đẳng cấp Ksatriya) cai trị. Vương quốc Chiêm Thành bị chia đôi.
Năm 1148, vua Khmer (Jaya Indravarman
III) cử tể tướng Sankara cùng tướng Sipakhya tấn công Panduranga, nhưng
bị quân Chăm đánh bại tại đồng bằng Kayev, tỉnh Virapura (tiếng Khmer là
Rajapura, tiếng Việt là Phan Rang). Thừa thắng xông lên, năm 1149, Jaya
Harivarman I dẫn đầu đoàn quân Chăm, Thượng chiếm thành Vijaya, giết
Hariveda trên sông Yami (sông Hà Giao, Bình Định), thống nhất lại đất
nước. Kinh đô đặt tại Vijaya.
Do phân chia quyền lợi không đồng đều,
người Rhadé, Bahnar và nhiều bộ lạc Thượng khác tôn Vansaraja (Ưng Minh
Diệp), anh rể Jaya Harivarman I, lãnh đạo phong trào kháng chiến chống
lại Jaya Harivarman I. Năm 1150, sau khi xưng vương tại Madhyamagrama
(ngày nay là An Khê, cạnh núi Yang Mung), Vansaraja dẫn đại quân xuống
đồng bằng tấn công người Chăm, nhưng bị đánh bại tại làng Slay. Jaya
Harivarman I tiến lên cao nguyên càn quét quân nổi loạn, Vansaraja phải
chạy vào Đại Việt xin nhà Lý giúp đỡ đưa về làm vua. Lý Anh Tôn sai
thương chế Nguyễn Mông mang 5.000 binh sĩ từ Thanh Hóa và Nghệ An vào
đánh Chiêm Thành. Chiến trận đã diễn ra rất là khốc liệt tại Dalva (Đông
Hà) và Lavan (La Vang), cả Nguyễn Mông lẫn Vansaraja đều bị tử trận.
Trong những năm sau (1151-1155), quân Chiêm Thành thường xuyên vào lãnh
thổ Đại Việt (Nghệ An) cướp phá, vua Lý Anh Tôn định cất quân đi chinh
phạt nhưng Jaya Harivarman I chịu dâng nhiều phẩm vật quí giá nên thôi,
thực sự nhà Lý cũng e ngại sức mạnh quân sự của Chiêm Thành.
Vì dồn hết mọi năng lực vào chiến tranh
đánh dẹp nội loạn và ngoại xâm, đời sống dân chúng Chiêm Thành trở nên
cơ cực, nhiều lãnh chúa địa phương nổi lên chống lại triều đình trung
ương. Năm 1151, Jaya Harivarman I phải hao tổn nhiều công sức lắm mới
khuất phục được những cuộc nổi loạn tại Amavarati. Vừa dẹp loạn phương
Bắc, Jaya Harivarman I lại phải đương đầu với những cuộc nổi loạn tại
Panduranga, do người Khmer đỡ đầu. Phải mất năm năm (1151-1155), nhà vua
mới dẹp xong được loạn và sau 1160 Chiêm Thành tìm được lại sự hùng
mạnh của quá khứ và giao hảo tốt với các lân bang.
Năm 1162, Jaya Harivarman I băng hà
truyền ngôi cho con là hoàng tử Sakan Vijaya, hiệu Jaya Harivarman II.
Năm 1167 Sakan Vijaya bị hoàng thân Vatuv Gramapuravijaya soán ngôi,
hiệu Jaya Indravarman IV.
Trong những năm 1164-1166, quân Chiêm
Thành thường xuyên tổ chức đánh cướp các tàu buôn Ả Rập qua lại trên
Biển Đông và tiến lên đánh phá các làng xã của Đại Việt tại châu Lâm
Bình và Minh Linh. Năm 1167, Lý Anh Tôn sai Tô Hiến Thành mang quân đánh
Chiêm Thành. Jaya Indravarman IV vội cử người sang cống nạp, Tô Hiến
Thành lui quân về nước. Quà cáp thường là chiến lợi phẩm cướp từ các tàu
buôn Ả Rập. Chính vì những hành vi cướp bóc tàu thuyền này mà nhà Tống
từ chối không phong vương cho Jaya Indravarman IV, mặc dầu đã cử nhiều
phái đoàn sang Trung Hoa triều cống.
Jaya Indravarman IV (1151-1205), còn gọi
là Po Klong Girai, Po Klong Garai hay Po Klău Girai, là người có công
xây đập Chaklin (Nha Trinh) và hai mương dẫn nước (mương Cái và mương
Đực) tại Phan Rang để canh tác nông nghiệp. Theo truyền thuyết, Po Klong
Garai – còn gọi là Vua Lác, con của nữ thần Po Sah Ino – lúc mới sinh
ra đã mắc bệnh cùi, may nhờ có rắn naga liếm nên lành bệnh. Tuy mang
bệnh cùi từ lúc còn trẻ nhưng nhà vua đã tỏ ra đắc lực trong việc chiến
chinh. Khi băng hà, nhà vua dân được chúng thờ trong tháp Po Klong Garai
(tháp Chàm Phan Rang, phường Lưu Vinh, thị xã Tháp Chàm).
Jaya Indravarman IV quyết chí phục thù
đế quốc Angkor về việc xâm chiếm và đô hộ Chiêm Thành. Quân lực Chiêm
Thành dưới thời Jaya Indravarman IV rất giỏi về tượng binh và thủy
chiến. Năm 1170, sau khi điều đình với Đại Việt giữ thế trung lập (bằng
phẩm vật triều cống), Jaya Indravarman IV mang đoàn tượng binh tấn công
Chân Lạp, lúc đó do vua Dharanindravarman II cai trị. Cuộc chiến kéo dài
một năm, bất phân thắng bại (quân Khmer cũng dùng tượng binh đối chọi),
sau cùng quân Chiêm phải rút về nước vì hết lương thực.
Năm 1171, một quan nhân gốc Hoa (không
rõ tên) – quê ở Ki Yang Kiun, Quí Châu, thuộc đảo Hải Nàm, bị chìm tàu
trôi giạt vào bờ biển Chiêm Thành – được dân chúng dẫn đến trình diện
Jaya Indravarman IV. Người này chỉ cho vua Chiêm cách cưỡi ngựa xung
trận thay vì dùng voi như trước, điều này làm nhà vua rất thích thú vì
hiệu quả thần tốc và gọn nhẹ của nó. Sau khi nắm vững được thuật cỡi
ngựa, Jaya Indravarman IV cử một đoàn người sang Cửu Châu, đảo Hải Nàm,
mua hết ngựa chiến nhưng bị vua Tống không cho bán (vì những hành vi hải
tặc trước đó). Đoàn thương buôn Chăm nổi giận bắt người, đốt những trại
nuôi ngựa không chịu bán. Dân Hải Nàm quá lo sợ phải bán cho họ một số
ngựa mới được yên, nhưng không đủ để thành lập một đội kỵ binh. Năm
1172, Jaya Indravarman IV cử một đoàn người khác sang Trung Hoa triều
cống, trả về những thường dân bị bắt và yêu cầu xin được mua ngựa, vua
Tống vẫn từ chối.
Không mua được ngựa, Jaya Indravarman IV
tấn công Chân Lạp bằng đường thủy (năm 1176). Nhà vua cho đóng thêm
nhiều tàu chiến, tập dượt thủy binh. Năm 1177, Jaya Indravarman IV đi
thuyền từ cửa sông Cửu Long vào chiếm Vrah Nagar (Prah Nokor, ngày nay
là Sài Gòn). Quân Chiêm tịch thu nhiều chiến lợi phẩm và bắt theo nhiều
tù binh Khmer về nước. Những tù binh này lúc đầu có bị bạc đãi, nhưng về
sau được đối xử tử tế để trở thành dân Chăm và hội nhập hoàn toàn vào
xã hội dân Chiêm Thành.
Trong số tù binh này có một vương tôn
Khmer, sau này là Jayavarman VII. Lúc còn ở Chiêm Thành, Jayavarman VII
học được cách tổ chức xã hội, cách huấn luyện binh sĩ thủy bộ và còn kết
thân được với nhiều hoàng thân của xứ này. Ông được thả về nước năm
1186 để kế nghiệp anh là vua Yasovarman II, bị soán ngôi.
Về lại Chân Lạp, Jayavarman VII kết
nghĩa với một vương tôn Chăm tên Sri Vidyanandana, quê ở Tumpraukvijaya
(một làng ở Bình Định), đến Chân Lạp lập nghiệp từ 1182. Sau khi dẹp
được loạn ở Malyan (hay Mou Leang, một làng ở vùng phía Đông Chân Lạp),
hoàng thân Sri Vidyanandana được Jayavarman VII phong một tước hoàng tộc
Khmer là Yuvaraja. Năm 1190, Jayavarman VII sai Vidyanandana đi đánh
Chiêm Thành, ông chiếm được Vijaya, bắt sống Jaya Indravarman IV mang về
Chân Lạp. Hoàng tử In (anh em cột chèo với Jayavarman VII) được phong
làm tiểu vương xứ Nagara Vijaya (Bắc Chiêm Thành), hiệu Surya Jayavarman
(hay Surya Jayavarmadeva), hoàng thân Vidyanandana được phong làm tiểu
vương xứ Rajapura (Nam Chiêm Thành), hiệu Suryavarman (còn gọi là
Suryavarmadeva hay Bố Trì), cả hai đều đạt dưới sự lãnh đạo của
Jayavarman VII. Vương quốc Chiêm Thành trở thành một thuộc địa của Chân
Lạp. Panduranga và Vijaya là hai tỉnh của đế quốc Angkor. Người Thượng
trên Tây Nguyên không công nhận vương quyền mới này đã cùng một số vương
tôn Chăm khác tổ chức đánh phá Amavarati, Vijaya và Panduranga.
Năm 1191 tại Vijaya, Surya Jayavarman
(hoàng tử In) bị Rasupati, một hoàng thân Champa, đánh bại phải chạy về
lại Chân Lạp. Rasupati tự xưng là vua xứ Vijaya, hiệu Jaya Indravarman
V. Không nhìn nhận vương quyền mới này, Jayavarman VII cho Jaya
Indravarman IV (cựu vương Chiêm Thành và cũng là thân phụ của hoàng tử
In) về Bắc Chiêm Thành chiếm lại ngôi báu. Jaya Indravarman IV được
Suryavarman (hoàng thân Sri Vidyananda) tiếp sức mới chiếm được Vijaya,
Rasupati (Jaya Indravarman V) bị xử trảm. Thay vì giao thành lại cho vua
Chăm cũ, Suryavarman chiếm luôn Vijaya ; Jaya Indravarman IV liền kêu
gọi dân chúng tại Amavarati và các làng Ulik, Vyar, Jriy, Traik chống
lại. Năm 1192, Jaya Indravarman IV bị tử trận tại Traik. Suryavarman
thống nhất lại đất nước, lên ngôi vua và tìm cách tách khỏi ảnh hưởng
của đế quốc Angkor.
Hay tin hoàng thân Suryavarman làm phản,
Jayavarman VII cử đại quân, trong số này có cả người Thượng (do tướng
Jai Ramya cầm đầu), sang đánh Chiêm Thành. Cuộc chiến kéo dài từ 1193
đến 1194, đại quân Khmer bị đánh bại. Thay vì theo quân Khmer về nước,
một người Djarai tên Sri Agara chiếm một vùng đất lớn từ Amavarati đến
Pidhyan (Phú Giang, bắc Phú Yên) rồi tự xưng vương năm 1193, hiệu Patau
Ajna Po Ku.
Tuy đẩy lui được quân Khmer, Suryavarman
vẫn lo sợ. Năm 1194, ông dời cư lên Amaravati (Quảng Nam) tránh nạn và
giao hảo tốt với Đại Việt năm 1198, bằng cách triều cống hằng năm, và
được vua Lý Cao Tông (Long Cán) phong vương năm 1199. Đất nước được thái
bình trong vài năm thì Suryavarman bị chú là Yuvaraja on Dhanapati
Grama (Bố Do) soán ngôi năm 1203. Dhanapati Grama đưa quân Khmer vào
chiếm Amaravati, Suryavarman dẫn một hải đội hơn 200 chiến thuyền chạy
vào cửa Cửu La (Nghệ An) xin tị nạn. Tại đây, vị hoàng thân Chăm (người
Việt gọi là Bố Trì) bị Dĩ Mông và Phạm Giêng, hai quan trấn thủ Nghệ An,
nghi ngờ. Suryavarman rất buồn lòng, dùng mưu đốt thuyền của Phạm Giêng
và giăng buồm ra khơi mất tích.
Dhanapati được lệnh vua Khmer đánh dẹp
các cuộc nổi loạn tại Chiêm Thành, đặc biệt là trên cao nguyên. Patau
Ajna Po Ku bị bắt sống đem về Chân Lạp trị tội. Dhanapati được phong
toàn quyền cai trị xứ Chiêm Thành. Chiêm Thành trở thành một tỉnh của đế
quốc Angkor lần thứ hai. Dhanapati được con trưởng của Jaya Harivarman
II (1162-1167), sinh sống tại Chân Lạp, tên Ansaraja Turaivijaya phụ lực
cai trị Chiêm Thành. Turaivijaya cai quản đất Amavarati, tổ chức nhiều
cuộc tấn công vào lãnh thổ Đại Việt (Nghệ An) trong những năm 1207, 1216
và 1218 ; tất cả đều bị quan trấn thủ Nghệ An Lý Bất Nhiêm đẩy lui.
Chiêm Thành bị đế quốc Angkor tái đô hộ trong suốt 17 năm (1203-1220).
Năm 1220 bị quân Xiêm La làm áp lực tại chính quốc, quân Khmer rút khỏi
Chiêm Thành. Trong gần 100 năm chống chọi và bị Angkor đô hộ, Chiêm
Thành bị kiệt quệ.
Quân Chân Lạp vừa rút khỏi Chiêm Thành,
hoàng tử Ansaraja Turaivijaya (tên Khmer là Sri Ajirang) được hoàng tộc
Chăm tôn lên làm vua, hiệu Jaya Paramesvaravarman II, đóng đô tại
Viyaja. Vừa lên ngôi, tân vương cho xây lại những tượng đài bị đập phá
tại tháp Sri Sanabhadresvara (Mỹ Sơn) và Po Nagar (Nha Trang), xây thêm
các đập nước, mở rộng diện tích dinh điền, đất nước phồn thịnh trở lại ;
nhiều bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên về thần phục. Năm 1230, hoàng tử
Abhimanyuvarman, một vương tôn tỉnh Pankaja người Cathei, được Jaya
Paramesvaravarman II cử làm thống lãnh đất Panduranga. Những tiểu vương
kế nghiệp ông được biết đến sau này tại Panduranga là Po Unvavah, Po
Binasur, Po Putrik v.v… (Tên những vương tôn Chăm tại miền Nam Chiêm
Thành, hay tại Panduranga sau này, đều kèm theo chữ Po (Pô, Pu, Pou hay
Poh), có nghĩa là Ông, Ngài hay Vua). Năm 1244, vua Chiêm tổ chức nhiều
đợt tấn công vào duyên hải Nghệ An và Thanh Hóa, chiếm đóng Bố Chính,
Địa Lý và Ma Linh.
Tại Đại Việt, sau khi ổn định triều
chính, năm 1252 Trần Thái Tôn dẫn đại quân đi đánh Chiêm Thành. Cuộc
tiến công kéo dài gần một năm, thành Vijaya thắt thủ, vương phi Bố Gia
La cùng nhiều cung phi, tù binh và quan chức triều đình Chăm bĩ bắt mang
về Đại Việt. Jaya Paramesvaravarman II bị tử trận năm 1254, em là hoàng
tử Sakan Vijaya lên thay, hiệu Jaya Indravarman VI. Jaya Indravarman VI
duy trì giao hảo với Đại Việt, triều cống đều đặn. Năm 1257, nhà Trần
rút quân về nước, lúc đó đang bị quân Nguyên (Mông Cổ) đe dọa.
Năm 1257, Jaya Indravarman VI bị ám
sát, hoàng tử Pulyan Sri Yuvaraja, con người chị (công chúa Suryadevi)
lên thay, hiệu Jaya Sinhavarman VI. Năm 1266, hoàng tử Chay Nuk, con
Jaya Paramesvaravarman II, lên kế vị, hiệu Indravarman V. Indravarman V
tiếp tục giao hảo tốt với Đại Việt. Năm 1278, Indravarman V sai hai sứ
giả (Bồ Tinh và Bồ Đột) sang Đại Việt xin bảo hộ và thành lập một liên
minh chống lại quân Mông Cổ.
Hay tin này, năm 1281, vua Nguyên (Hốt
Tất Liệt) cử hữu thống chế Toa Đô (Sogatu) và tả thống chế Lưu Thâm cùng
tham chính A Lý và Ô Mã Nhi mang 10 vạn thủy binh từ Quảng Châu sang
Chiêm Thành buộc Indravarman V phải đích thân về Trung Nguyên triều
cống. Không chống nổi quân Mông Cổ, Indravarman V chịu đặt Chiêm Thành
dưới sự bảo hộ của nhà Nguyên năm 1282. Toa Đô được nhà Nguyên phong làm
thống đốc toàn quyền cai trị xứ Chiêm Thành, tiểu vương Chăm nào chịu
theo quân Nguyên đều được phong làm phó vương.
Hoàng tử Harijit Po Devada Svor (hay Po
Depitathor), con Indravarman V, cùng mẹ là hoàng hậu Gaurendraksmi,
không chấp nhận sự đô hộ của Mông Cổ rút vào rừng, tổ chức kháng chiến.
Harijit mộ được khoảng 20.000 người, gồm đủ mọi các sắc tộc Thượng sinh
sống trên cao nguyên Ya Heou, phía tây bắc Chiêm Thành, tấn công quân
Nguyên trên khắp lãnh thổ Bắc Chiêm Thành. Năm 1283, Toa Đô dẫn đầu một
đoàn quân gồm 5.000 người, 100 tàu và 250 thuyền đi dọc theo bờ biển và
các con sông lớn đổ bộ lên Tây Nguyên nhưng bị đánh bại. Quân Mông Cổ –
một phần bị bệnh tật, không chịu đựng nổi khí hậu nóng nực của miền
nhiệt đới, một phần vì đói kém, thiếu tiếp liệu từ lục địa – phải rút về
trấn giữ đồng bằng.
Tháng 4-1285, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi mang
hải đội từ Chiêm Thành, trong đó có đội thủy binh người Chăm, tiến lên
ra Bắc hợp với Thoát Hoan vây thành Thăng Long, kinh đô của Đại Việt.
Quân của Thoát Hoan bị quân Trần đánh bại phải rút về nội địa, quân của
Toa Đô bị đánh tan tại Nghệ An. Toa Đô bị chết tại trận, quân Trần bắt
được rất nhiều tù binh Mông Cổ và Chăm, trong đó có hai tướng Chăm tên
Lậu Khê và Na Liên, bị trả về cho vua Chiêm Thành xử tội. Những binh
lính Chăm khác theo Mông Cổ, không dám về lại quê cũ, theo quân Nguyên
về Hoa lục và được cho định cư trên đảo Hải Nàm, bờ biển nam Quảng Châu,
nơi đã có nhiều người Chăm khác đến lập nghiệp từ năm 992 dưới thời Lưu
Kỳ Tông. Những binh lính Chăm này, đa số theo đạo Hồi, đã lập gia đình
với người địa phương và ở lại lập nghiệp. Đây là đợt di dân thứ hai của
người Champa ra hải ngoại.
Năm 1288 Indravarman V mất, hoàng tử
Harijit lên ngôi, hiệu Jaya Sinhavarman III (Chế Mân), đặt kinh đô tại
Vijaya. Mặc dù không triều cống nhà Trần, bang giao giữa Đại Việt và
Chiêm Thành rất là thắm thiết. Chỉ một thời gian ngắn sau Chiêm Thành
hùng mạnh trở lại, các vương quốc lân bang, trong có Đại Việt cử người
sang thông hiếu đều đặn. Nhiều đền đài được xây cất cả tại đồng bằng lẫn
trên cao nguyên. Chế Mân cho xây một tháp trên đồi Chok Hala, gọi là
đồi Trầu, để dân chúng đến tế lễ, sau này là tháp Po Klong Garai (Tháp
Chàm Phan Rang).
Năm 1292 và 1293, trên đường tiến đánh
Java (Indonesia) và Madjapahit (Mã Lai) quân Mông Cổ xin vào bờ mua tiếp
liệu nhưng bị Chế Mân từ chối, phải giương buồm đi tiếp. Cũng nên biết
Chế Mân có rất nhiều quan hệ tình cảm với các tiểu vương Nam Đảo. Vợ cả
của Chế Mân là vương phi Bhaskaradevi, con một đại vương Java ; thứ phi
là hoàng hậu Tapasi, con gái một tiểu vương Yavadvipa (Mã Lai). Lãnh thổ
Chiêm Thành trong thời kỳ này được nới rộng lên cao nguyên Darlac và
Langbian, Chế Mân cho xây một đền thờ tại Yang Prong (An Khê) để đón
nhận phẩm vật triều cống của những bộ lạc Thượng trên Tây Nguyên.
Năm 1301, cựu hoàng Đại Việt là Trần
Nhân Tôn, sau khi nhường ngôi cho con là Trần Anh Tôn, đi thăm các nước
láng giềng. Khi thăm Chiêm Thành, Trần Nhân Tôn được Chế Mân tiếp đãi
nồng hậu và đã ở lại đây 9 tháng. Để tạ ơn, khi ra về cựu vương hứa gả
công chúa Huyền Trân (em gái Trần Anh Tôn) cho Chế Mân. Cuối năm 1301,
Chế Mân sai Chế Bồ Đày mang lễ vật sang cưới Huyền Trân. Triều đình nhà
Trần có nhiều người không thuận, cuộc thương thảo kéo dài từ 1302 đến
1305 ; sau cùng, mùa hè năm 1306, Chế Mân thuận tặng cho nhà Trần hai
châu Ô và châu Rí (châu Lý), phía bắc đèo Hải Vân, để làm quà cưới, nhà
Trần mới chịu và sai Đoàn Nhữ Hài đưa Huyền Trân về Chiêm Thành. Tại
đây, Huyền Trân được Chế Mân đặt tên là hoàng hậu Paramesvari.
Châu Ô và châu Rí là đề tài tranh chấp
giữa Đại Việt và Chiêm Thành trong thời gian sau đó. Năm 1307, Trần Anh
Tôn đặt tên lại hai châu mới này thành Thuận châu (Quảng Trị) và Hóa
châu (Thừa Thiên và một phần Quảng Nam ngày nay), rồi giao cho Đoàn Nhữ
Hài cai quản. Châu Thuận gồm các huyện Đăng Xương (nay là Triệu Phong),
Hải Lăng, Phong Điền, Quảng Điền và Hương Trà. Châu Hóa gồm các huyện
Phú Vang, Phú Lộc, Diên Phước và Hòa Vang. Người Chăm sống trong các
làng La thỉ, Tác Hồng và Đà Bồng nổi lên chống sự cai trị của người
Việt. Để trấn an dân Chăm, Đoàn Nhữ Hài chấp nhận để người Chăm chịu sự
quản trị trưc tiếp của các nhân sĩ Chăm địa phương và cho miễn thuế ba
năm.
Về chủ quyền, nông dân Việt đã đến lập
nghiệp và khai phá hai châu này từ lâu, nhất là trong thời gian có chiến
tranh với Mông Cổ. Thật ra sự sát nhập này, trên bình diện nào đó, chỉ
là sự hợp thức hóa một sự kiện đã rồi, vì quan hệ cộng sinh giữa hai
chủng tộc đã diễn ra từ lâu đời. Những cuộc hôn nhân dị chủng chắc chắn
không phải là những trường hợp ngoại lệ, với thời gian dân cư Việt có lẽ
đã đông hơn dân cư Chăm tại đây.
VI . Bùng lên trước khi tàn lụi
Dấu ngoặc về công chúa Huyền Trân
Sau 5 năm thương lượng gay go giữa hai
triều đình về của hồi môn, năm 1306 vua Trần Anh Tôn chấp thuận gả công
chúa Huyền Trân cho Chế Mân, bù lại lãnh thổ bắc Chiêm Thành
(Indrapura): châu Ô và châu Lý thuộc nhà Trần. Cuộc hôn nhân dị chủng
này đã trở thành tranh chấp giữa hai dân tộc và hai triều đình suốt thời
gian sau đó. Cho đến nay chưa một tài liệu nào giải thích về trường hợp
công chúa Huyền Trân một cách rõ ràng và có tính thuyết phục. Người
Chăm tố cáo nhà Trần lợi dụng cuộc hôn nhân này để chiếm đoạt đất đai
của họ. Thơ văn Việt Nam bênh vực Huyền Trân như là nạn nhân của một vụ
đổi chác chính trị và đả kích Chế Mân (với những lời lẽ khiếm nhã) dám
sánh ngang hàng với người Việt…
Những lý luận vừa kể chứng tỏ sự thiếu
hiểu biết về phong tục tập quán của người Chăm. Khi cựu vương Trần Nhân
Tôn hứa gả Huyền Trân cho Chế Mân, ông muốn thành lập một liên minh quân
sự chống lại quân Mông Cổ khi bị tấn công. Nhưng chiến lược này đã
không được quần thần chấp nhận vì không muốn một sự pha chủng nào trong
quan hệ hoàng gia.
Có lẽ bà hoàng hậu thứ ba này của Chế
Mân đã rất được sủng ái nên sử tích Chăm kể rằng Huyền Trân được nhà vua
đưa đi thăm viếng những danh lam thắng cảnh của Chiêm Thành. Các suối
nước nóng dọc bờ biển miền Trung được dành riêng cho bà tắm rửa, kể cả
suối Vĩnh Hảo (huyện Tuy Phong, Phan Thiết), để hạnh phúc của vua và
hoàng hậu được bền lâu. Nhưng hạnh phúc đã không dài lâu. Hơn một năm
sau, tháng 5-1307 Chế Mân từ trần. Hung tin đến tai nhà Trần bốn tháng
sau đó, tháng 9-1307. Lo sợ em gái mình bị hỏa thiêu, Trần Nhân Tôn sai
quan nhập nội hành khiển thượng thư tả bộc sạ Trần Khắc Chung và quan an
phủ sứ Đặng Văn sang Chiêm Thành phúng điếu rồi tìm kế đưa Huyền Trân
về.
Việc hỏa thiêu vợ khi vua băng hà là
hoàn toàn bịa đặt. Nếu Huyền Trân bị triều đình Chiêm Thành bắt chết
theo Chế Mân thì bà đã bị hỏa thiêu từ lâu rồi, vì theo tục lệ của người
theo đạo Hồi hay Bà La Môn xác người chết chỉ giữ tối đa là 7 ngày sau
đó phải đem hỏa thiêu.
Thật ra trong vụ này triều đình Chiêm
Thành đã quyết định trả Huyền Trân về lại cho nhà Trần để đòi lại hai
châu Ô và Rí nên đã tiếp đón phái đoàn Trần Khắc Chung một cách ân cần
và cấp hơn 300 thủy binh hộ tống. Sự từ khước kết nghĩa suôi gia này có
một ý nghĩa đặc biệt, nó thể hiện sự từ chối hợp tác giữa hai nền văn
minh và văn hóa khác nhau, một bên là văn minh văn hóa Khổng Mạnh và một
bên là văn minh văn hóa Ấn Độ. Cả hai vương triều gần như chấp nhận sự
khác biệt đó và không muốn có một sự hòa hợp nào.
Còn chuyện hỏa thiêu có lẽ đã do Trần
Khắc Chung thêu dệt ra để được Trần Anh Tôn cử sang Chiêm Thành đón
Huyền Trân về nước. Sau khi gặp lại người yêu, thay vì căng buồm về Bắc
ông dẫn Huyền Trân ra một hoang đảo tư thông với nhau trong suốt một năm
liền, đến mùa thu năm 1308 mới lên thuyền về lại Thăng Long. Đoàn thủy
binh Chăm lúc đó mới được giao trả cho Chiêm Thành để báo cáo sự việc.
Cũng nên biết, nhà Trần áp dụng chế độ
nội hôn để bảo vệ quyền lợi hoàng tộc. Việc Trần Khắc Chung tư thông với
Huyền Trân được coi là bình thường. Nhưng triều đình Chăm không chấp
nhận và rất căm hận về chuyện này, vì Huyền Trân là hoàng hậu Champa bị
một quan Việt thông dâm xúc phạm đến danh dự hoàng triều và tín ngưỡng
quốc gia. Có lẽ cũng chính vì thế mà Hưng Nhượng đại vương Trần Quốc
Tảng (con Trần Hưng Đạo) mắng “họ tên người này không tốt, có lẽ nhà
Trần mất vì người này chăng?”, vì Khắc là thắng, Chung là tàn (thắng
xong thì tàn lụi theo). Cuộc tình sử tay ba này ít được người đời nhắc
tới mà chỉ nói về cuộc hôn nhân dị chủng mà thôi.
Về phía Chiêm Thành, đền thờ Chế Mân
được lập tại Tháp Po Klong Garai (Tháp Chàm, Phan Rang) và tại Yan Prong
(An Khê, Đắc Lắc) cạnh núi Se San. Dân chúng thờ ông dưới tên Sri Jaya
Sinhavarma Lingesvara.
Hoàng tử Po Sah – 23 tuổi, con của chánh
hậu Bhaskaradevi (người Java), tước Pulyan Mahendravarman tiểu vương
lãnh địa từ sông Vok (sông Bung) đến bắc Bình Định (Bhumana) – lên thay
năm 1307, hiệu Jaya Sinhavarman IV (còn gọi là Chế Chí hay Chế Dà La).
Việc đầu tiên của tân vương là xúi giục dân Chăm tại Thuận châu và Hóa
châu nổi loạn.
Năm 1311, Trần Anh Tôn tấn công Chiêm
Thành, bắt Chế Chí về giam tại cung Gia Lâm (và mất năm 1313), đưa em
trai của Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm lên thay, hiệu Chế Năng. Năm 1314
Chế Năng kéo quân ra Bắc chiếm lại châu Ô và châu Rí và chỉ bị đẩy lui
năm năm sau đó. Năm 1318, quân Trần tiến xuống Đồ Bàn, Chế Năng cùng
hoàng gia chạy sang Java lánh nạn, triều đình Chiêm Thành bị bỏ trống.
Đây là đợt di dân thứ ba của người Chăm ra hải ngoại. Chế Năng là con thứ hậu Tapasi, người Yavadvipa.
Triều vương thứ mười hai (1318-1390): tột đỉnh
Năm 1318, nhà Trần phong một tướng Chăm
tên Thủ (Patalthor) lên ngôi, hiệu Chế A Năng (hay Thành A vương, tương
đương với tước phó vương của Đại Việt). Vì không thuộc dòng dõi bộ tộc
Cau và Dừa, Chế A Năng liên tục bị triều thần chống đối từ 1323 đến
1326. Để có sự chính thống, năm 1323 Chế A Năng cử em trai là Pao Yeou
Patseutcho đi sứ sang Trung Hoa xin nhà Nguyên công nhận. Hay tin này,
năm 1326 nhà Trần mang quân sang đánh nhưng bị đẩy lùi. Chiêm Thành sống
trong thái bình cho tới 1342.
Năm 1336 Chế A Năng từ trần, con ruột là
Chế Mỗ và con rể là Trà Hoa Bồ Đề tranh ngôi vua trong 6 năm, Chiêm
Thành sống trong loạn lạc. Năm 1342 Chế Mỗ bị đuổi sang Đại Việt, Trà
Hoa Bồ Đề chính thức lên ngôi. Năm 1353, Trần Dụ Tôn đưa Chế Mỗ về nước
nhưng đến Cổ Lũy (Quảng Ngãi) thì bị quân Chiêm chận đánh, quân Trần rút
về, Chế Mỗ buồn rầu rồi qua đời. Từ sau ngày đó, quân Chiêm Thành liên
tục tràn sang đánh phá Hóa châu và Thuận châu.
Năm 1360, Trà Hoa Bồ Đề qua đời, em Chế A
Năng là Po Binasor (Po Bhinethuor) được triều thần tôn lên làm vua,
hiệu Chế Bồng Nga (Che Bonguar). Chế Bồng Nga là một vị tướng tài, chỉ
huy nhiều trận đánh vào lãnh thổ Đại Việt. Vừa lên ngôi, ông liền tổ
chức lại quân đội, chuẩn bị chiến tranh với nhà Trần nhằm chiếm lại
những phần lãnh thổ bị mất. Những tù trưởng và bộ lạc Thượng trên Tây
Nguyên theo Chế Bồng Nga rất đông.
Từ 1360 đến 1370, quân Chiêm Thành ra
vào lãnh thổ Đại Việt như chốn không người. Dân cư Đại Việt lập nghiệp
dọc các vùng bờ biển Bố Chánh, Tân Bình, Thuận Hóa (Nghệ An, Quảng Bình,
Quảng Trị, Thừa Thiên) sinh sống rất khổ sở trước nạn binh đao. Từ 1371
đến 1383, quân Chiêm đã ba lần chiếm đóng Thăng Long và năm 1390 lúc
đang tiến vào Thăng Long lần thứ tư thì Chế Bồng Nga bị tử trận, chấm
dứt một trang anh hùng sử.
Nét đặc biệt của Chế Bồng Nga là mỗi lần
đánh phá xong, ông cho rút quân về bên kia đèo Hải Vân chứ không cho
người ở lại quản trị trực tiếp những vùng đất vừa bị chiếm như những vua
trước, vì người Chăm tin rằng trấn đóng những vùng đất lạ sẽ mang tai
họa và cũng không muốn bị hao tổn lực lượng bởi những hành động kháng
chiến. Tuy vậy vẫn có thể nói trong vòng 30 năm, Chế Bồng Nga đã khôi
phục lại những vùng đã mất từ hơn 300 năm trước đó (Bố Chánh, Địa Lý và
Ma Linh bị mất năm 1069, châu Ô, châu Rí năm 1306).
Chế Bồng Nga chết, quân Chiêm như rắn
không đầu liền bị rối loạn, quân Trần sát hại rất nhiều. Các vùng đất
dưới ảnh hưởng Chiêm Thành đều được thu hồi. Lê Quí Ly (tức Hồ Quí Ly
sau này) kinh lý các vùng đất Hóa châu và Thuận châu, tổ chức lại việc
phòng thủ và cho xây dựng lại những nơi bị tàn phá. Phan Mãnh được bổ
nhiệm cai trị hai xứ Tân Bình (Quảng Bình) và Thuận Hóa (Quảng Trị và
Thừa Thiên). Nhà Trần đưa dân chúng từ các vùng trung du, vùng đồng bằng
sông Hồng và sông Mã vào định cư tại Tân Bình và Thuận Hóa.
Triều vương thứ mười ba (1390-1458): suy yếu
Bị đánh bại năm 1390, tướng La Khải (Ko
Cheng) chiếm được xác Chế Bồng Nga mang đi hỏa táng, rồi thu quân về
nước. Về Đồ Bàn, La Khải liền xưng vương và chịu triều cống nhà Trần trở
lại. Năm 1391, La Khải xin nhà Minh thừa nhận nhưng đến năm 1413 con
của ông là Ba Đích Lại mới được nhà Minh tấn phong.
Chính sách cai trị khắt khe của La Khải
gây bất mãn trong nước. Vây cánh của Chế Bồng Nga đều bị La Khải thay
bằng những tướng sĩ thân tín, con trai của Chế Bồng Nga tên Chế Ma Nô Dã
Na cùng em là Chế San Nô sợ bị ám hại đã chạy qua Đại Việt xin tị nạn.
Cả hai được nhà Trần phong tước Hiệu chính hầu. Năm 1397, một hoàng thân
tên Chế Đà Biệt, em là Mộ Hoa, con là Gia Diếp cùng toàn thể gia quyến
sang Đại Việt tị nạn. Chế Đà Biệt được Lê Quí Ly giao trọng trách bảo vệ
biên giới phía nam của Đại Việt đề phòng những cuộc tấn công mới của
quân Chiêm Thành. Năm 1400, La Khải mất, con là Ba Đích Lại (Jaya
Sinhavarman V) lên ngôi.
Tại Đại Việt, năm 1400 Lê Quí Ly lên
ngôi vua, đổi thành họ Hồ. Cũng nên biết, lúc nhà Trần suy yếu vai trò
của Lê Quí Ly trở nên nổi bật và trực tiếp điều khiển triều đình từ
1372. Vì thiếu sự chính thống, Hồ Quí Ly thường ra oai bằng cách tấn
công Chiêm Thành và các lãnh thổ Chiêm Động (nay là Thăng Bình, Quảng
Nam, hay bắc Amavarati), Cổ Lũy (nay là Tư Nghĩa (Quảng Ngãi), Bạt Đạt
Gia, Hắc Bạch (nam Quảng Ngãi, bắc Bình Định) và Sa Lý Nha (tức Sa
Huỳnh) lần lượt bị sát nhập từ 1400 đến 1403. Vựa lúa lớn nhất Bắc Chiêm
Thành bị mất hẳn, toàn bộ đất đai tại Indrapura và Amaravati (Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và Quảng Ngãi) cũng không còn.
Những vùng đất mới được phân thành châu
Thăng, châu Hoa, châu Tư và châu Nghĩa ; bốn châu mới này họp lại thành
lộ Thăng Hoa do một quan an phủ sứ cai trị, chỗ giáp giới đặt thành trấn
Tân Ninh. Chế Ma Nô Dã Na (con Chế Bồng Nga), lúc đầu làm Thăng Hoa
quận vương để chiêu dụ dân chúng Chăm, sau được phong Cổ Lũy thượng hầu
giữ hai châu Tư và Nghĩa. Quí Ly đưa những nông dân cùng gia đình không
có đất cày từ những châu khác ở phía bắc vào khai phá đất mới. Người
Champa không chấp nhận sống dưới sự cai trị của người Việt bỏ đi lên núi
hoặc về Vijaya (Đồ Bàn) lập nghiệp.
Năm 1403, Ba Đích Lại yêu cầu nhà Minh
can thiệp để đòi lại Indrapura và Amavarati, nhưng bị nhà Hồ từ chối.
Chỉ khi nhà Hồ bị dẹp và nước Đại Ngu bị nhà Minh đô hộ, từ 1407 đến
1427, Chiêm Thành mới phục hồi lại sức mạnh quân sự và những vùng đất đã
mất dưới tay nhà Hồ đều lấy lại được.
Năm 1407, hoàng tử Ngauk Glaun Vijaya
(con Ba Đích Lại) cất quân đánh Đại Việt, giết quan trấn thủ lộ Thăng
Hoa là Chế Ma Nô Dã Na (con của Chế Bồng Nga). Ba Đích Lại được nhà Minh
phong vương năm 1413. Mặc dù vậy, dân chúng Champa không muốn di dân
lên những vùng đất vừa chiếm lại lập nghiệp, chỉ một số người muốn trở
về để giữ gìn hương hỏa mà thôi. Dẹp yên phía Bắc, Ba Đích Lại mang quân
xuống tấn công vương quốc Chân Lạp phía nam đang suy yếu, vì bị Xiêm La
đánh phá liên tục. Quân Chăm chiếm được nhiều vùng đất lớn dọc sông
Đồng Nai và trên đồng bằng sông Cửu Long. Quân Khmer bị đuổi tới thành
phố Chantabun, gần biên giới Xiêm La, vua Chau Ponea Yat phải cầu cứu
nhà Minh và quân Minh đã hai lần tiến vào Chiêm Thành (1408 và 1414) làm
áp lực Chiêm Thành mới chịu rút quân, Chân Lạp thoát nạn đô hộ. Mặc dầu
vậy, quân Chiêm Thành cũng chiếm được thị trấn Nagara Brah Kanda (thị
xã Biên Hòa ngày nay).
Năm 1428, Lê Lợi đuổi được quân Minh ra
khỏi lãnh thổ và lên ngôi vua, hiệu Thánh Tổ. Trước thế lực của nhà Lê,
Ba Đích Lại trả những vùng đất đã chiếm dưới thời nhà Minh, đổi thành lộ
Thuận Hóa thuộc đạo Hải Tây và đặt quan cai trị. Việc giao hảo giữa
Chiêm Thành và Đại Việt trở nên tốt đẹp.
Năm 1433 Lê Lợi mất, con là Nguyên Long,
11 tuổi, lên ngôi hiệu Thái Tôn, Ba Đích Lại liền trở mặt. Năm 1434,
ông cho quân sang đánh phá các vùng đất (Hóa châu) vừa giao trả trước
đó, vua Lê phải cử Lê Khôi và Lê Chiếc ra dẹp, vua Chăm mới chịu triều
cống trở lại.
Thật ra từ 1390 đến 1433 Chiêm Thành
không có vua, đất nước lâm vào cảnh nội loạn. Đối với người Chăm, La
Khải và Ba Đích Lại chỉ là những kẻ soán ngôi. Năm 1433, quần thần Chiêm
đưa công chúa Po Sahnar về miền Nam cai trị (Panduranga), đóng đô tại
Phan Rí, không tuân lệnh Vijaya. Hoàng tử Nauk Glaun Vijaya thân chinh
đi đánh dẹp, gây nhiều thù oán với các dòng vương tôn Champa phía nam
như bắt công chúa Po Sahnar về giam tại Vijaya. Chính vì thế năm 1441
khi Ba Đích Lại qua đời, Nauk Glaun Vijaya không được triều thần cho nối
ngôi mà đưa người cháu của cố vương là Maha Kilai (Mã Kha Qui Lai) lên
thay. Chú của tân vương là Po Parichanh tự đứng ra nhiếp chính, rồi tự
xưng vương năm 1442, hiệu Bí Cai (Maha Vijaya) và được nhà Minh công
nhận.
Vừa lên ngôi, Bí Cai liền mang quân tấn
công nhà Lê và bị đánh bại. Vua Lê Nhân Tôn tiến chiếm Phật Thành (còn
gọi là Đồ Bàn, Chà Bàn, Vijaya) bắt được nhiều vương tôn Champa, trong
đó có công chúa Po Sahnar, rồi rút về. Ba Đích Lại cùng hoàng gia phải
chạy lên núi trốn trong những buôn làng của người Thượng như Trà Toàn
(Po Ka Prah), Trà Toại (Po Ka Prih). Kinh đô Phật Thành (Vijaya) bị nhà
Lê đổi thành Đồ Bàn.
Trong hai năm 1444 và 1445, Bí Cái nhiều
lần dẫn quân tiến vào Hóa châu nhưng đều bị đẩy lùi. Năm 1446, được
Maha Quí Lai hướng dẫn, quân Lê chiếm thành Đồ Bàn, bắt sống Bí Cai và
tất cả phi tần đem về Thăng Long. Maha Quí Lai được nhà Lê tôn lên làm
vua Chiêm Thành và chịu triều cống, quan hệ giữa hai nước tốt đẹp trở
lại. Năm 1448, Lê Nhân Tôn đánh dẹp các lực lượng Thượng do những hoàng
tôn Chăm lãnh đạo, chiếm xứ Bồn Man (Djarai-Kontum) và đặt thành châu
Quy Hợp rồi giao cho một vương tôn Chăm thần phục nhà Lê cai quản.
Năm 1449 Maha Quí Lai bị người em tên Bí
Do (Maha Kido) bắt giam rồi xưng vương. Bí Do sai Giao Nể Mỗ và Bàng
Thoan sang Đại Việt báo tin, vua Lê không những không công nhận mà còn
khiển trách nặng nề. Sau biến cố này, Bí Do đuổi 70 gia đình Việt định
cư tại Chiêm Thành về nước rồi ngưng luôn việc xin tấn phong. Năm 1452,
Quí Lai mất, Bí Do sai sứ sang Trung Hoa xin nhà Minh công nhận và được
phong vương năm 1457.
Triều vương thứ mười bốn (1458-1471): tan rã
Năm 1458 thái tử Po Tam (Po Dam hay Po
Kathit), con Bí Cai, giết Bí Do rồi tự xưng vương, hiệu Bàn La Trà
Nguyệt (Maha Banla Tranguyet). Năm 1460, Trà Nguyệt nhường ngôi cho em
là Po Kaprah, hiệu Bàn La Trà Toàn (Maha Tratoan). Trà Toàn cử người
sang Đại Việt xin tấn phong nhưng bị nhà Lê buộc dâng phẩm vật triều
cống nên Trà Toàn tức giận. Trong hai năm 1468 và 1469, Trà Toàn vừa cho
người sang cầu viện nhà Minh vừa mang đại quân (100.000 người) sang
chiếm Hóa châu (1469-1471).
Tức giận trước sự khiêu khích này, vua
Lê Thánh Tôn quyết định phạt Chiêm một lần cho đích đáng. Trước khi ra
quân, ngày 6-10-1471, nhà vua đọc hịch Bình Chiêm trước ba quân, lời lẽ
rất đanh thép, rồi cho sứ sang Trung Hoa báo cáo sự xâm phạm lãnh thổ
của Chiêm Thành. Lê Thánh Tôn cất đại quân hơn 250.000 người sang đánh
Chiêm Thành, trong đó 100.000 đi bằng đường thủy, 150.000 đi bằng đường
bộ. Đại quân nhà Lê chiếm cửa Thị Nại rồi tiến về Đồ Bàn. Trà Toàn sai
em là Po Kaprih dẫn đội tượng binh gồm 5.000 người ra đối chọi nhưng bị
đánh bại, Trà Toàn rút vào cố thủ thành Đồ Bàn.
Sau cuộc tấn công, khoảng 60.000 binh
lính và thường dân Chăm bị loại khỏi vòng chiến, hơn 30.000 người bị bắt
làm tù binh, tất cả đều bị đày lên Thanh Hóa. Một số tù binh Chăm gồm
thợ khéo tay, nài voi được đưa về Thăng Long xây dựng đền đài và huấn
luyện voi trận cho nhà Lê, chùa Bà Đá tại Hà Nội được xây dựng trong
giai đoạn này. Toàn bộ tài sản và báu vật tại Đồ Bàn đều bị tịch thu,
trong đó có ấn kiếm hoàng gia (một hộp bằng bạc hình chiếc gươm), biểu
tượng của vương quyền Chiêm Thành. Trà Toàn và cả hoàng gia gồm 50 vương
tôn (Po Sahama, Po Ngasa, Bà Thái, Đa Thủy…) đều bị bắt.
Trong cuộc tiếp kiến, Trà Toàn xin vua
Lê chỉ làm tội một mình ông và tha cho con cái gồm 10 người. Trên đường
về tới Nghệ An, Trà Toàn tự tử chết. Lê Thánh Tôn sai cắt đầu Trà Toàn
treo ở đầu thuyền và cho khắc chữ “Cổ Chiêm Thành ngươn ác Trà Toàn chi
thủ”.
Lê Thánh Tôn giải tán vương quốc Chiêm
Thành. Thủ đô chính trị, hành chánh và tín ngưỡng của vương quốc Bắc
Chiêm Thành Vijaya bị đổi thành Đồ Bàn và cấm người Chăm đến cư ngụ.
Em Trà Toàn là Po Kaprih dẫn theo một số
tàn quân trốn lên xứ Bồn Man (cao nguyên Kontum-Darlac), được dân chúng
tôn lên làm vua. Po Kaprih xưng hiệu Trà Toại và cho người sang Trung
Hoa cầu cứu nhà Minh, báo cáo tình hình của Chiêm Thành. Lê Thánh Tôn
sai Lê Niệm mang 30.000 quân lên Tây Nguyên lùng bắt Trà Toại đem về trị
tội.
Nhà Minh không tán thành việc Đại Việt
chiếm đóng Chiêm Thành nhưng không dám can thiệp trực tiếp, kể cả việc
xin phóng thích Trà Toàn và hoàng gia Chiêm Thành. Năm 1472 nhân vua Lê
Thánh Tôn sai sứ sang Trung Hoa báo cáo sự tình, Minh Hiển Tông trách cứ
việc chiếm đế đô Đồ Bàn. Sau đó nhà Minh sai sứ sang phong vương cho
Trà Toại nhưng khi đến cửa Tân Châu (Quảng Nam) quân Lê không cho cập
bờ. Lê Thánh Tôn phản đối việc phong vương này và tuyên bố Chiêm Thành
đã trở thành một châu của Đại Việt: châu Giao Nam. Nhà Lê phong cháu của
Trà Toàn tên Bố Trì Tri (Thái Da) làm vương đất Giao Nam (còn gọi là
Phan Long).
Chiêm Thành bị phân hóa
Năm 1472, Bố Trì Tri, cháu của Trà Toàn,
chạy về Panduranga (Giao Nam) xưng vương, hiệu Thái Da (Jayavarman
Mafoungnan). Tân vương sai sứ sang Đại Việt xin thừa nhận và xin tiếp
tục triều cống. Ranh giới phân chia hai nước được xác nhận tại đèo Cù
Mông, cạnh chân núi Thạch Bi.
Vua Lê Thánh Tôn áp dụng chính sách bảo hộ, chia Chiêm Thành ra làm ba tiểu quốc, phong ba tiểu vương cai trị.
1. Bồ Trì Tri cai quản đất Giao Nam, tức
Nam Chiêm Thành gồm Kauthara và Panduranga, bằng 1/5 lãnh thổ cũ, từ
mũi Kê Gà trở xuống gồm 5 lãnh địa: Aya Tră (Nha Trang), Panră (Phan
Rang), Krău (Long Hương), Phan Rí (Parik) và Pajai (Phố Hài, gần Phan
Thiết). Giao Nam (tức Panduranga) được độc lập về chính trị, kinh tế và
tín ngưỡng nhưng phải triều cống nhà Lê. Kinh đô trong giai đoạn đầu đặt
tại Virapura, tức Phan Rang.
2. Trà Toại cai trị đất Nam Phan: xứ Bồn Man, tức châu Quy Hợp (Tây Nguyên ngày nay và một phần cao nguyên Attopeu Nam Lào).
3. Một vương tôn Champa (người Thượng) khác cai quản đất Hóa Anh: lãnh thổ Aryaru cũ (Phú Yên).
Sau 1471, lãnh thổ của vương quốc Chiêm
Thành phía nam (Kauthara và Panduranga) chỉ còn từ đèo Cù Mông đến mũi
Kê Gà (cap Varella). Lãnh thổ Đại Việt mới kéo dài từ ải Nam Quan đến
đèo Cù Mông. Phần đất Chiêm Thành cũ, gọi là Nam Bàn (từ Quảng Nam đến
Đồ Bàn) được chia thành ba vùng gồm Đại Chiêm tức Chiêm Động (Quảng
Nam), Cổ Lũy (Quảng Ngãi) và Đồ Bàn (Bình Định). Một tướng Chăm tên Bà
Thái (Po Thai) làm tri phủ đất Đại Chiêm. Những quan Đại Việt cai trị Đồ
Bàn và Cổ Lũy có quyền tiền trảm hậu tấu.
Hàng đoàn người Chăm, trong đó có nhiều
gia đình vương tôn không chấp nhận sự cai trị của người Việt tại Cổ Lũy,
chạy vào rừng sâu trên lãnh thổ xứ Láng Cháng (Luang Prabang, Bắc Lào)
lánh nạn, một số vượt Trường Sơn chạy sang Chân Lạp định cư. Đây là cuộc
di dân lần thứ tư sau các đợt di tản năm 986, 1285 và 1318. Lê Thánh
Tôn đổi tên đất Cổ Lũy thành đạo Quảng Nam gồm 3 phủ (Thăng Hoa, Tư
Nghĩa và Hoài Nhơn) và 9 huyện.
Trên cao nguyên một lãnh tụ Chăm tên
Công (còn gọi là Chăm Công) được sự giúp đỡ của vương quốc Láng Cháng tổ
chức đánh phá các làng xã và đồn phòng thủ của quân Việt. Năm 1479, Lê
Thánh Tôn mang đại binh gồm 180.000 người sang Láng Cháng dẹp loạn Chăm
Công, truy đuổi vua Láng Cháng sang lãnh thổ Miến Điện. Vua Lê giao một
vương tôn Chăm thân Đại Việt cai trị xứ Quy Hợp gồm 7 huyện và cho thành
lập phủ Trấn Ninh giao cho một quan người Việt cai trị.
Tại Nam Bàn, Lê Thánh Tôn cho thành lập
Thái bộc tư khanh, một bộ phận hành chánh chuyên lo đặt lại cho đúng qui
chế họ tên của người Chăm theo đúng phiên âm Đại Việt. Vì người Chăm
không có họ nên việc xét tên đặt họ rất khó khăn, nếu tên có nhiều chữ
thì chỉ giữ lại ba chữ cuối: thí dụ như Tô Môn Tô Sa Môn viết thành Tô
Sa Môn, Sa Qua Sa Oa Qua thành Sa Oa Qua…
Vua Lê còn ra lệnh cấm quan viên và dân
chúng Việt chứa chấp người Chăm. Nhà Lê đưa những tội phạm biệt xứ gốc
Kinh vào các châu Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (thuộc đạo Quảng Nam)
khai phá đất mới. Những lưu dân này lúc ra đi, hoặc độc thân hoặc không
được mang theo gia đình, một số đã lập gia đình với các thiếu nữ Chăm
và sinh con đẻ cái. Con cái của những người này sau đó đã trở thành
người Việt, quên hẳn gốc Chăm của mẹ và đã trở thành những người miền
Trung. Người Chăm tại Phan Rang gọi những người Chăm mang hai giòng máu
tại Quảng Nam và Bình Định là Chăm Hoi (người Việt gọi là Hời). Phụ nữ
Chăm Quảng Nam và Bình Định lấy chồng Việt là chuyện thường, nhưng rất
hiếm trường hợp phụ nữ Chăm tại Ninh Thuận và Bình Thuận lấy chồng Việt,
vì khác biệt tôn giáo, đa số theo đạo Chăm Bani (Hồi giáo cải cách).
Dân chúng Việt sống trên các lãnh thổ
Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, tức Indrapura cũ, thỉnh thoảng bị
người Hroi, một bộ lạc gốc Malayo Polynesien cư ngụ trên Tây Nguyên,
tràn xuống đánh phá, từ đó người miền Trung gọi chung tất cả những người
có nước da đen đủi ở trần là Hời. Về sau danh xưng này được đồng hóa
với người Chăm trước thế ky 15. Thật ra người Chăm lai Thượng hay Thượng
gốc Chăm được người Chăm Phan Rang gọi là Chăm Pal, không liên quan gì
đến người Chăm Hoi tại Bình Định. Họ là những người thuộc các bộ lạc
Rhadé, Raglai, Churu v.v…
Năm 1478, Bố Trì Tri mất,em à Koulai lên
thay và bị ám sát tại Lão Qua (Lào) năm 1505, con là Chakou Poulo kế
nghiệp. Chakou Poulo lo mở mang xứ sở, giao hảo với Trung Hoa và được
nhà Minh sắc phong năm 1515 và nhìn nhận vương quốc Nam Chiêm Thành cho
tới năm 1543. Thuyền buôn ngoại quốc (Trung Hoa, Mã Lai, Khmer, Bồ Đào
Nha và Hòa Lan) vẫn lui tới các hải cảng Panduranga buôn bán tấp nập
trong những thế ky 16 và 17.
Đầu thế ky 16, người Chăm trong các vùng
đất Thuận Hóa và Nam Bàn thường hay nổi lên đánh giết những gia đình
người Việt đến định cư lập nghiệp. Đất Nam Bàn trở nên khó cai trị, việc
quản trị sau đó phải giao cho những quan Việt. Được sự đồng ý của chúa
Trịnh, vua Lê sai Nguyễn Hoàng trấn thủ đất Thuận Hóa giữ yên bờ cõi
phía Nam. Nhiều gia đình hoàng tộc Champa sinh sống trên vùng đất này
chạy về Panduranga tị nạn. Một số dân cư Chăm sinh sống dọc các bờ biển
miền Trung trở thành những nhóm hải tặc tổ chức cướp phá các đội thương
thuyền ngoại quốc, nhất là của người Bồ Đào Nha và Hòa Lan, đi lại trong
vùng để sinh sống. Địa Bàn hoạt động của các đám hải tặc là quanh các
đảo Côn Lôn và Phú Quý.
Chiêm Thành trên danh nghĩa không còn
được nhắc tới nữa, nhưng trong thực tế vương quốc Chiêm Thành đối với
người Chăm vẫn tồn tại mặc dù đất đai bị thu hẹp. Sau này vào thời
Nguyễn sơ, nhất là dưới thời Nguyễn Hoàng, vương quốc Chiêm Thành được
nhìn nhận trở lại.
VII .Cố gắng tồn tại trong khó khăn
Đối với nhiều sử gia và học giả phương
Tây, biến cố 1471 đánh dấu sự giải thể vương quốc Chiêm Thành, không một
biên khảo lịch sử hay niên giám triều đình Chiêm Thành nào được phổ
biến từ sau ngày đó. Trong thực tế, sinh hoạt triều chính của các dòng
vương tôn Chiêm Thành vẫn tiếp tục, với một qui mô tuy nhỏ hẹp nhưng
không kém phần xúc tích. Tuy vậy tìm hiểu lịch sử người Chăm trong giai
đoạn này rất là khó khăn vì thiếu chứng liệu, người viết đã dựa vào các
nguồn sử liệu Việt Nam, đối chiếu với nhiều nguồn sử liệu khác của nước
ngoài để phác họa lại giai đoạn thiếu sót này.
Nam Chiêm Thành trong thế kỷ 16
Sau 1471, nhóm hoàng tộc Chăm từ Nam Bàn
(từ Quảng Nam đến Đồ Bàn) chạy về Giao Nam (Bình Thuận) lánh nạn và
tranh chấp quyền bính với các dòng vương tôn địa phương tại Phan Rang
(Virapura). Nhóm người này tự nhận là truyền nhân đích tôn của vương
triều cũ (vương triều Vijaya) và kêu gọi dân chúng địa phương không thừa
nhận dòng họ Bố Trì Tri (Jayavarman Mafoungnan) vì chỉ là cấp thừa hành
của các dòng tiên vương. Tuy âm thầm nhưng rất mãnh liệt, các dòng
vương tôn Nam Bắc Chiêm Thành kết thành từng phe nhóm tranh chấp lẫn
nhau. Với thời gian, dòng dõi vương tôn Nam Bàn được dân chúng mến
chuộng và tôn lên làm vua cai trị lãnh thổ Nam Chiêm Thành. Yếu tố bộ
tộc truyền thống Cau và Dừa phai dần trong ký ức tập thể dân gian và kể
từ thế kỷ 15 trở về sau huyền thoại này không còn được nhắc tới nữa. Dân
chúng Panduranga (Nam Chiêm Thành), quá mệt mỏi trước các cuộc chiến
tranh chống ngoại xâm và nội chiến, muốn quên đi quá khứ để chỉ chăm lo
cuộc sống hằng ngày.
Dòng họ Bố Trì Tri không trị vì lâu. Năm
1478 Bố Trì Tri mất, em là Koulai lên thay nhưng năm 1505 bị ám sát tại
Champassak (Nam Lào), con là Chakou Poulo kế nghiệp và trị vì đến 1530
thì mất. Kể từ sau ngày đó con cháu dòng vương tôn Nam Bàn được hoàng
triều và dân chúng tôn lên làm vua. Con Trà Toại là hoàng thân Po
Karutdrak được tôn lên làm vua, kế nghiệp Chakou Poulo cai quản xứ
Panduranga. Con Karutdrak, thái tử Maresarak làm vua năm 1536. Po
Kanarai lên ngôi năm 1541, hiệu Chế Bãi. Năm 1553 Chế Bãi mất, Po Ất (Po
At) lên thay.
Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh,
người Chăm phía Bắc vẫn thỉnh thoảng nổi lên quấy phá Thuận Hóa (châu Ô
và châu Rí). Nhân cớ này, Nguyễn Hoàng xin Trịnh Kiểm cho vào trấn thủ
Thuận Hóa năm 1558, rồi bí mật xây dựng cho mình và con cháu cơ nghiệp
riêng. Mỗi lần các chúa Nguyễn bị các chúa Trịnh làm áp lực, vương quốc
Chiêm Thành lãnh nhận những hậu quả.
Năm 1560, Nguyễn Hoàng bị Trịnh Kiểm
buộc phải nộp hàng năm 400 cân bạc, 500 tấm lụa nếu muốn được yên. Không
sao tìm đủ phẩm vật dâng nộp, Nguyễn Hoàng cử người xuống Aryaru (Tuy
Hòa) thông báo cho vua Po Ất cung cấp số lượng phẩm vật nói trên, nhưng
bị từ chối. Liền tức thì, Nguyễn Hoàng xua quân tiến chiếm Phan Rang,
quân Chăm rã hàng, hàng ngàn người chạy theo Po Ất lên Tây Nguyên lánh
nạn. Sau khi cướp phá các đền đài và tịch thu hết tài sản của hoàng gia
Chiêm, Nguyễn Hoàng rút quân về nước nhưng để lại số binh sĩ trấn giữ
Tuy Hòa. Năm 1579, lợi dụng sự yếu kém của quân Chăm, một hoàng thân
Khmer trấn thủ lãnh thổ đông-bắc Chân Lạp (Mondolkiri và Rattanakiri)
dẫn đại quân tiến vào Phan Rang giết Po Ất rồi tự xưng vương, hiệu Po
Klong Halau (Po Klău Haluv).
Nam Chiêm Thành trong thời Nguyễn sơ
Sau khi làm chủ toàn bộ lãnh thổ
Panduranga, Po Klong Halau (1579-1603) mở rộng giao thương với phương
Tây, nhà vua tìm mua súng điểu thương và những khẩu đại pháo phòng thủ
bờ biển và kinh thành. Không bao lâu sau, vương quốc Panduranga trở nên
hùng mạnh, Po Klong Halau tổ chức nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ Đại
Việt, chiếm Thành Hồ (Tuy Hòa) trên sông Đà Rằng năm 1579 và thách đố
các thế lực khác trong vùng, nhất là Chân Lạp.
Trước sự đánh phá của quân Chiêm phía
nam và áp lực quân sự của chúa Trịnh phía bắc, Nguyễn Hoàng không những
bỏ qua việc mất Thành Hồ mà còn đề nghị thành lập một liên minh quân sự
với Chiêm Thành. Po Klong Harau cũng muốn được yên với Đại Việt để chống
trả những cuộc tiến quân của Chân Lạp nên đã chấp thuận. Năm 1594, nhà
vua gởi quân sang tiếp cứu tiểu vương Johore, đất Madjapahit (bán đảo
nam Mã Lai, gần Singapore), chống lại sự tấn công của quân Bồ Đào Nha.
Năm 1597, vua Khmer Chetta I (tiếng Chăm
là Cau Bana Tan, hiệu Paramaraja V) mang quân đánh Chiêm Thành viện cớ
Po Klong Harau làm phản không chịu sát nhập Panduranga vào lãnh thổ Chân
Lạp. Nhờ được trang bị những loại vũ khí mới, quân Chăm đánh bại quân
Khmer trong những trận đầu và còn tiến sâu vào nội địa Chân Lạp. Về sau,
được người Chăm tị nạn tại Chân Lạp ủng hộ, quân Khmer phản công trở
lại và cuộc chiến trở nên ngang ngửa. Khi quân Chăm rút lui về nước,
quân Khmer do tướng Ukana Tejo và hai tướng gốc Chăm, Po Rat và Laksmana
chỉ huy, tiến vào Panduranga cướp các khẩu trọng pháo do người Bồ Đào
Nha cung cấp.
Liên minh giữa Đàng Trong và Panduranga
cũng không bền lâu. Năm 1603 khi Po Klong Halau qua đời, con là Po
Thikdhik lên thay, hiệu Po Nit. Po Nit không những không chịu thông sứ
với xứ Đàng Trong mà còn xây kho lương, tuyển mộ binh sĩ đánh phá phủ
Hoài Nhơn, đạo Quảng Nam. Nguyễn Hoàng liền thành lập dinh Phú Yên và
đưa một số di dân gan dạ vào lập các “lân” (làng biên giới) để canh tác
và dò xét tình hình.
Năm 1611, sau khi củng cố xong thế lực ở
phía bắc đèo Ngang, Nguyễn Hoàng sai một người Chăm không rõ tên, gọi
là Văn Phong (Văn Phong là tên một chức chủ sự) dẫn quân qua đèo Cù Mông
chiếm thành Phú Yên (Aryaru), tổ chức dinh điền và đưa dân từ các tỉnh
Quảng Nam đến Bình Định vào định cư, lập ra hai xã Đồng Xuân và Tuy Hòa.
Quân Chăm tấn công liên tục hai xã mới này, nhưng không thành công. Po
Nit mất năm 1613, em là Po Chai Păran kế nghiệp. Po Chai Păran dời đô từ
Virapura (Phan Rang) về Bal Canar (thôn Tịnh Mỹ, Phan Rí) đề phòng chúa
Nguyễn tấn công bất ngờ. Năm 1618 Po Chai Păran mất, con là Po Ehklang
lên ngôi.
Năm 1622 nội bộ triều chính Panduranga
có loạn, một vương tôn đạo Bani tên Po Klong Menai (Po Klău Manai) giết
Po Ehklang rồi tự xưng vương, hiệu Po Mahtaha. Dưới thời Po Klong Menai,
xung đột với người da trắng và tôn giáo trở nên trầm trọng. Trong những
năm 1622-1630, thuyền buôn của các thương nhân Hòa Lan qua lại trên
Biển Đông bị quân “Mã Lai” (thực ra là người Chăm) cướp bóc và thương
điếm của người phương Tây tại Côn Sơn thường xuyên bị đập phá, những cơ
sở truyền đạo của các giáo sĩ phương Tây trên lãnh thổ Panduranga đều bị
đốt. Những vị lãnh đạo các tôn giáo Bà La Môn và Bani cũng nhân cơ hội
xúi giục giáo dân chống phá lẫn nhau trong những dịp lễ lạc. Đất nước
trở nên loạn lạc, dân chúng sống trong cảnh lầm than, tại mỗi nơi các
lãnh chúa và tù trưởng địa phương tùy theo sức mạnh của mình tổ chức
đánh phá các nơi khác để cướp bóc lương thực.
Trước cảnh loạn lạc này, năm 1627, một
tù trưởng người Thượng gốc Churu tên Thốt được dân chúng Chăm và người
Thượng tôn lên làm lãnh tụ đứng ra dẹp loạn. Dẹp loạn xong, tù trưởng
Thốt được dân chúng tôn lên làm vua, hiệu Po Romé (Pô Rômê). Việc đầu
tiên của tân vương là buộc các lãnh tụ tôn giáo Bà La Môn và Bani (các
thầy Paseh và thầy Char) phải sinh hoạt chung với nhau, phân chia những
ngày lễ lớn như các lễ nghi về nông nghiệp (lễ dựng chòi, lễ mừng cây
lúa, lễ cúng chúa lửa, lễ cúng sân lúa, lễ cúng cơm mới…) cho hợp lý để
các thầy tế lễ và giáo dân đạo kia có thể tham dự. Po Romé (1627-1651)
là một vị vua sáng suốt, biết tổ chức, chăm lo đời sống dân chúng, đất
nước sống trong thái hòa. Gần như tất cả các vương quốc địa phương đều
giao thương với Chiêm Thành: Xiêm La, Chân Lạp, Ai Lao, Ấn Độ, Mã Lai và
Đại Việt, kể cả với các quốc gia phương Tây. Nhiều đập nước lớn dẫn
thủy nhập điền (như đập Marên) được thành lập tại những nơi khô cằn và
triền núi để dân chúng canh tác. Nhà vua chọn Krong Laa (làng Palai
Bachong, xã Hòa Trinh, thị xã Phan Rang, trên quốc lộ 1, cách Sài Gòn
310 cây số) làm kinh đô, cạnh sông Krong Binh (sông Viêu). Nơi này trước
kia là kinh đô cũ (Virapura) của vua Satyavarman, được trồng nhiều cây
Kraik tượng trưng cho uy quyền của vua.
Năm 1629, một chủ sự người Chăm, gọi là
Văn Phong, nổi lên đánh phá các làng di dân người Việt tại Phú Yên. Sãi
vương Nguyễn Phúc Nguyên sai Nguyễn Phúc Vinh mang quân xuống đánh dẹp
và thành lập Trấn Biên Dinh, lấn sâu vào lãnh thổ Chiêm Thành tới chân
núi Thạch Bi (đèo Cả) để bảo vệ di dân. Sau thất bại này, Po Romé làm
hòa và xin cưới con gái thứ ba của Sãi Vương là công chúa Ngọc Khoa (em
của Ngọc Liên và Ngọc Vạn, đã gả cho vua Chân Lạp Chetta II năm 1620, và
là chị của Ngọc Đỉnh), gọi là Po Bia Út, tước hiệu hoàng hậu Akaran.
Cũng nên biết Po Romé có rất nhiều vợ.
Vợ thứ nhất tên Po Bia Suthi (hay Po Bia Suchi), con vua Po Ehklang,
không có con. Po Romé lên cao nguyên Đắc Lắc cưới người vợ thứ hai, con
một tù trưởng Rhadé, tên Po Bia Thanh Chan (hay Po Bia Suncan) và sinh
hạ được nhiều con. Sau cùng nhà vua xin cưới công chúa Ngọc Khoa, vợ thứ
ba và cũng là vợ út của Po Romé (không tài liệu nào nhắc đến con cái
của bà Ngọc Khoa). Tuy là sui gia với chúa Nguyễn, quân Chăm vẫn thỉnh
thoảng tấn công quân Việt tại Phú Yên. Năm 1651, trong một trận giáp
chiến với quân Việt, Po Romé bị tử thương. Dân chúng Chăm rất thương
tiếc và xây cho ông một tháp lớn tại Phan Rí để thờ, gọi là tháp Po Romé
(thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước).
Năm 1652, Po Nraup, người con cùng mẹ
khác cha với Po Romé, lên ngôi, hiệu Bà Thâm (còn gọi là Bà Tấm hay Bà
Bì). Bà Thâm là một người Chăm lai Thượng (Chăm Pal), cha là người Chăm,
mẹ là người Churu. Vừa lên ngôi Bà Thâm dẫn quân tấn công Trấn Biên
Dinh, chiếm lại thành Phú Yên. Hiền vương Nguyễn Phúc Tần sai tướng Hùng
Lộc (một người gốc Chăm theo chúa Nguyễn) mang 3.000 binh sĩ vượt đèo
Hổ Dương (đèo Cả, núi Thạch Bi), đánh bọc hậu, chiếm Aya Tră (Nha
Trang), bắt được Bà Thâm. Để cầu hòa, Bà Thâm dâng đất Kauthara và chấp
nhận lấy xã Kamran (Cam Ranh) làm ranh giới: phần đất phía nam sông Phan
Rang thuộc vua Chiêm Thành, phần đất phía bắc thuộc về chúa Nguyễn
(lãnh thổ Kauthara) và đổi tên thành phủ Thái Ninh (gồm Thái Khang và
Diên Ninh), sau là phủ Diên Khánh (Khánh Hòa). Tướng Hùng Lộc được phong
làm thái thú. Nhiều đoàn người Chăm, lo sợ bị trả thù, vượt cao nguyên
Đắc Lắc sang Xiêm La lánh nạn, đông nhất là tại Ayuthya.
Lãnh thổ Panduranga như vậy chỉ còn lại 4
địa phận: Panră (Phan Rang), Krău (Long Hương), Parik (Phan Rí) và
Pajai (Phố Hài). Kinh đô dời về Bal Canar (thôn Tịnh Mỹ, Phan Rí). Vương
quốc Nam Chiêm Thành mất đi những hải cảng lớn, việc giao thương với
các tàu buôn phương Tây giảm dần và mất hẳn vào giữa thế kỷ 18, người
Champa trở thành một dân tộc lục địa, mất hẳn khả năng hàng hải và ngư
nghiệp.
Năm 1653 Bà Thâm qua đời, hoàng thân Po
Prik Tirai Pakhuoh được chúa Nguyễn cho lên thay. Po Prik Tirai là con
trai vương phi người Rhadé (Po Bia Tanchan) của Po Romé. Năm 1657, Po Ja
Tanưh, rể vua Po Prik, được chúa Nguyễn phong vương (đề đốc đại tướng).
Năm 1659, Po Saut (Bà Tranh) lên ngôi trị vì đến năm 1692.
Cũng nên biết từ 1620, vua Chân Lạp là
Chey Chetta II tặng Sãi vương Nguyễn Phúc Nguyên đất Đồng Nai làm quà
cưới công chúa Ngọc Vạn, nhưng vì bận đối phó với chú Trịnh nên chúa
Nguyễn chưa thể đưa người vào khai phá ngoài những lưu dân phiêu lưu và
tội phạm bị đày xa xứ. Từ sau ngày đó, vương quốc Nam Chiêm Thành nằm
trong thế gọng kìm giữa hai thế lực, xứ Đàng Trong và Chân Lạp. Quân
Việt có băng qua lãnh thổ Panduranga năm 1630 giúp Chey Chetta II nhưng
rút về hết khi xong nhiệm vụ. Năm 1679 nhân có hai vị tướng nhà Minh xin
tị nạn, chúa Nguyễn cho vào khai phá đất Đồng Nai. Phong trào di dân
Việt từ Diên Khánh vào Đồng Nai trong giai đoạn này còn rất hạn chế vì
không thể băng ngang lãnh thổ Chiêm Thành bằng đường bộ trong khi tàu
thuyền thì quá hiếm hoi và chỉ dành cho nhu cầu triều chính và quân sự.
Năm 1691, Bà Tranh (Po Saut) xua quân
đánh Diên Ninh với hy vọng chiếm lại Kauthara, rồi không chịu triều cống
nữa. Năm 1692, Minh vương Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Kính chiếm
Panduranga, giết Bà Tranh và bắt theo một số cận thần gồm Kế Bà Tử (Po
Saktiray Depatih), Tả Trà Viên (Po Thutirai Depatih), vương phi Bà Ân
cùng rất nhiều binh sĩ đem về giam tại núi Ngọc Trản (Thừa Thiên). Hoàng
thân Po Chongchan (Po Choncăin) được đưa lên kế nghiệp và bị buộc phải
triều cống nhiều phẩm vật quí hiếm cùng vàng bạc cho chúa Nguyễn, lúc đó
ngân khố đang rất thiếu hụt. Không chịu nổi sự áp đặt này, năm 1692 Po
Chongchan bỏ vương triều, dẫn theo khoảng 5.000 gia đình tín đồ đạo Bani
chạy sang Chân Lạp tị nạn. Đây là đợt tị nạn thứ sáu (sau năm 986,
1285, 1318, 1471 và 1652) của người Chăm ra hải ngoại và là đợt tị nạn
thứ hai sang Chân Lạp. Đoàn người di tản đã để lại nhiều tài sản quí báu
cho người Churu và người Kaho cất giữ trên cao nguyên Đồng Nai thượng
và Langbian. Tại Chân Lạp, nhóm người này họp với nhóm “Mã Lai” (người
Khmer gốc Chăm theo đạo Hồi) tạo thành nhóm Chăm Java, theo đạo Hồi
chính thống. Một số sau đó về định cư tại Châu Đốc gọi là Chăm Islam
(Chăm Islam khác với Chăm Bani, mặc dù cùng là đạo Hồi). Từ 1692 đến
1695, người Chăm tại Panduranga không có vua.
Quân Việt liền tiến chiếm Panduranga
đang bị bỏ trống và đặt cho tên mới là trấn Thuận Thành. Những lãnh địa
cũ của người Chăm cũng được đổi tên và giao cho các tướng Việt nắm giữ:
Nguyễn Trí Thắng cai quản Phố Hài, Nguyễn Tấn Lễ địa phận Phan Rí, Chu
Kiêm Thắng lãnh thổ Phan Rang.
Tháng 8-1693, trấn Thuận Thành đổi thành
phủ Bình Thuận (trấn là khu quân sự chưa ổn định, phủ là khu vực hành
chánh đã ổn định). Dân chúng Chăm không chấp nhận sự cai trị trực tiếp
của người Việt đã nổi lên chống đối. Để trấn an, Minh vương Nguyễn Phúc
Chu phong Kế Bà Tử, em vua Po Saut, làm khám lý (tỉnh trưởng) phủ Bình
Thuận, ba người con của Bà Ân làm đề đốc (quận trưởng) thay mặt Minh
vương cai trị và thâu thuế. Những tù binh Chăm bị giam tại Huế cũng được
trả về phủ Bình Thuận ; tất cả buộc phải ăn mặc như người Việt: quan
thì áo thụng, mũ cánh chuồn, đi hia ; binh lính thì mặc áo cộc, đội nón
lá, không được vấn váy (sà rông), tóc bới ra sau. Người Chăm tại phủ
Bình Thuận được hưởng qui chế giám hộ (tự trị về hành chánh, kinh tế và
tôn giáo) đã tỏ ra bớt chống đối nhưng sự căng thẳng vẫn tồn tại.
Năm 1696, nhân có nạn đói, một người Hoa
tên A Ban và một hoàng thân Chăm tên Ốc Nha Thát xúi giục dân chúng nổi
loạn nhưng liền bị dập tắt. Sau biến cố này, qui chế bảo hộ bị hủy bỏ,
phần đất đông người Chăm cư ngụ nhất tại phủ Bình Thuận đổi thành trấn
Thuận Thành, Kế Bà Tử được phong làm “phiên vương” (vua), một tước ngang
với vua Chăm cũ, và được giao lại ấn kiếm, yên mã. Kể từ cuối thế kỷ
17, người Chăm tuy mất độc lập nhưng vẫn còn hưởng qui chế tự trị.
Trấn Thuận Thành thật ra chỉ còn là một
vùng đất nhỏ tại Phan Rang và Phan Rí, người Chăm gọi là Bal Prădară
(Thuận Hải), gồm hai huyện An Phước (phía nam Phan Rang) và Hòa Đa (phía
nam Phan Rí). Cung đình vua Chăm đặt tại Bal Canar (Tịnh Mỹ) về hình
thức. Bên cạnh sự quản trị đó, phong trào di dân lập ấp của người Việt
vào trấn Thuận Thành ngày càng gia tăng. Những làng Việt Nam, hơn 200
làng, tạo thành những khoảng da beo trong lãnh thổ Prădară. Những người
Chăm bất mãn bỏ lên cao nguyên sống lẫn lộn với người Thượng (Churu,
Kaho và Djarai) tại Djiring (Lâm Đồng), một số khác chạy sang Chân Lạp
hòa nhập với nhóm Chăm Java đã có từ trước. Sự thù ghét người Việt tại
Chân Lạp do những nhóm Chăm di cư gieo rắc bắt đầu manh nha trong lòng
người Khmer.
Sự cộng cư giữa người Chăm và Việt rất
là khó khăn, do bất đồng văn hóa, tôn giáo, hành chánh và việc khai thác
đất đai ngày càng gay gắt. Năm 1712, một quan lại và khoảng 30 binh
lính Kinh được tăng cường để phụ giúp Kế Bà Tử về hành chánh. Sự hiện
diện của những Kinh binh này làm người Chăm bất mãn vì nhiều khu đất tốt
lần lượt lọt vào tay nhóm người này. Từ đó người Chăm sống co cụm lại
trong hai huyện An Phước và Hòa Đa để duy trì bản thể và phong tục tập
quán riêng. Tại Phan Lý Chàm, người Kinh thành lập bốn thôn giữa các
làng Chăm: Xuân Quang (xóm Ổi), Xuân Hội (xóm Tầm), Tuân Giáo (xóm Rau
Cá) và Tuân Mục. Về sau những di dân này lập gia đình với thiếu nữ Chăm,
gọi là người Kinh Cựu (Cựu ở đây là người Chăm). Một số tù binh Việt
Nam, bị bắt từ thế kỷ 18, chấp nhận ở lại Chiêm Thành lập gia đình với
phụ nữ Chăm cũng được gọi là người Kinh Cựu (Chăm Yuôn, tức người Chăm
lai Việt).
Để duy trì tốt sự tuân phục của các dòng
vương tôn Chăm, các chúa Nguyễn lần lượt phong vương con cháu Kế Bà Tử
và Tả Trà Viên. Kế Bà Tử trị vì đến năm 1727. Năm 1728, Nguyễn Phúc Chu
phong Po Jinah Depatih, cháu Kế Bà Tử, làm vương trấn Thuận Thành. Năm
1731, Tả Trà Viên, con Po Saut, lên thay. Năm 1732, Po Rattirai Depatih,
cháu Kế Bà Tử, làm vương trấn Thuận Thành. Con Rattirai, Po Tathun
Demurai kế nghiệp năm 1763. Po Tithuntirai Rakhuoh (Rakhvăh), con Tả Trà
Viên, được chúa Nguyễn tấn phong năm 1765, nhưng đến năm 1768 mới chính
thức chấp chánh.
Giữa hai gọng kìm
Trong thời gian từ 1771 đến 1799, Đại
Việt có nội chiến. Tây Sơn, nhà Lê và chúa Nguyễn đánh phá lẫn nhau.Tây
Sơn là một làng ở phía tây Bình Định, gần An Khê, nơi có nhiều người
Chăm Hroi (Hời) và người Thượng sinh sống. Phong trào Tây Sơn được rất
đông người Chăm Hoi theo, về sau có thêm nhiều bộ lạc người Thượng gia
nhập. Năm 1773, phong trào Tây Sơn phát triển mạnh trên cao nguyên Bình
Định, một số người Chăm sống dưới quyền của nữ chúa Thị Hỏa tham gia
phong trào. Tại Quảng Ngãi, một lãnh tụ Chăm tên Lía (còn gọi là Doan)
theo Tây Sơn khởi nghĩa. Lực lượng thủy binh của Tây Sơn cũng có rất
nhiều người Chăm đồng bằng.
Từ 1776 đến 1798, người Chăm sống trong
trấn Thuận Thành buộc phải ngả theo một trong hai thế lực, hoặc Tây Sơn
hoặc chúa Nguyễn. Quân Tây Sơn chiếm giữ Thuận Thành năm 1776, chúa
Nguyễn lấy lại năm 1779, Tây Sơn tái chiếm năm 1791, Nguyễn Ánh chiếm
lại năm 1793. Quân Tây Sơn trở lại Thuận Thành năm 1794, Nguyễn đẩy lùi
năm 1798. Sau những cuộc xung đột liên tục này, dân chúng không còn biết
nghe ai.
Từ 1781 đến 1783, trấn Thuận Thành tuy
có vua (do Tây Sơn đưa lên) nhưng không được chúa Nguyễn công nhận. Năm
1782, một vương tôn dòng Kế Bà Tử tên Po Tithuntirai Deparan (tên Việt
là Tá) xin theo Nguyễn Huệ. Năm 1783, Tá chiếm cao nguyên Đồng Nai
thượng chống lại Nguyễn Ánh. Cũng trong năm 1783, một lãnh tụ Chăm Bà La
Môn tên Po Tolripho từ Ấn Độ về lập chiến khu chống lại người Việt
nhưng bị Nguyễn Huệ đánh bại. Po Tolripho phải chạy lên Cheo Reo (Phú
Bổn) ẩn lánh trong các buôn làng người Thượng.
Năm 1790 Nguyễn Ánh chiếm lại trấn Thuận
Thành, cháu Kế Bà Tử là Môn Lai Phu Tử được phong làm chưởng cơ cai
quản trấn Thuận Thành, sau đó bị bãi chức vì tình nghi theo Nguyễn Huệ.
Po Ladhun Paghuh, hay Thôn Ba Hú, được phong làm chưởng cơ (tiểu vương)
Thuận Thành. Tước Thuận Thành trấn phiên vương bị bãi bỏ.
Để tưởng thưởng các trung thần, Nguyễn
Ánh ban họ Nguyễn cho những vương tôn Chăm trung thành. Môn Lai Phù Tử,
cháu Kế Bà Tử, mang tên Nguyễn Văn Chiêu ; Po Ladhun Paghuh thành Nguyễn
Văn Hào ; Po Sănuncăn là Nguyễn Văn Chấn… Năm 1793, Nguyễn Văn Hào (Po
Ladhun Paghuh) được phong làm chánh trấn Thuận Thành, Nguyễn Văn Chấn
(Po Sănuncăn) làm phó trấn.
Năm 1794, quân Tây Sơn tiến vào Thuận
Thành, Nguyễn Văn Hào chạy vào Gia Định. Năm 1796, Po Thong Khang, một
thủ lĩnh người Chăm Hồi giáo tại Dã Giang, pháp danh Tăng Ma, theo Tây
Sơn bị đánh bại tại Phô Châm. Tháng 10-1796, tù trưởng hai huyện Phô
Châm và Đồng Phủ nổi lên đánh phá quân chúa Nguyễn nhưng liền bị đánh
dẹp. Năm 1798 Nguyễn Ánh làm chủ Thuận Thành và giao cho Nguyễn Văn Hào
cai trị. Năm 1799, Nguyễn Văn Hào mất, Nguyễn Ánh đưa Nguyễn Văn Chấn
lên thay.
Dưới thời Gia Long (1802-1820), qui chế
tự trị của người Chăm được duy trì trong chừng mực. Phong trào di dân và
chính sách ban thưởng ruộng đất cho các công thần tại trấn Thuận Thành
đã đẩy những người không chấp nhận sự cai trị của nhà Nguyễn vào chốn
rừng sâu và đất cao. Dòng họ còn lại của vị vua cuối cùng là Po
Chongchan không được Gia Long nhìn nhận, tất cả bỏ sang Chân Lạp tị nạn.
Những vùng đất tốt quanh thành Đồ Bàn cũ trước kia, do người Chăm Hroi
cư ngụ và bị kết tội theo Nguyễn Huệ, đều bị tịch thu. Thành Đồ Bàn bị
đổi tên thành Bình Định, tức đã dẹp yên được loạn Tây Sơn.
Về hành chánh, Gia Long sát nhập trấn
Thuận Thành (trước kia trực thuộc thuộc phủ Bình Thuận) vào Gia Định
thành và phong Nguyễn Văn Chấn (Po Săununcăn) làm chính vương, dưới
quyền quản trị trực tiếp của tổng trấn Lê Văn Duyệt. Tước vương này
tương đương với chức chưởng cơ của triều đình Huế và được người Chăm
nhìn nhận như là vua (patau). Năm 1807, Nguyễn Văn Vĩnh (Po Klănthu) lên
thay và được phong làm phó vương.
Lo sợ thế lực của Lê Văn Duyệt lấn át uy
quyền của mình tại miền Nam, năm 1822 Minh Mạng đặt phủ Bình Thuận trực
thuộc Phú Xuân. Phó vương Nguyễn Văn Vĩnh bị triệu về Huế giam lỏng vì
tình nghi theo Lê Văn Duyệt. Phó tổng trấn Gia Định thành kiêm trấn thủ
phủ Bình Thuận, Trương Văn Chánh, cũng bị triệu về kinh, một thân tín
của Minh Mạng là Mai Gia Lương được đưa vào thay.
Năm 1823, khi chính vương Nguyễn Văn
Chấn lâm bệnh qua đời, Mai Gia Lương đưa một người Chăm thân tín tên
Bait Lan lên thay nhưng không được người Chăm công nhận. Minh Mạng buộc
phải đưa Nguyễn Văn Vĩnh về làm vương để giữ yên nhân tâm và ban cho ấn
đồng “Quản Lý Thuận Thành Quan Phòng”. Với sự tín cẩn này, Nguyễn Văn
Vĩnh áp dụng chính sách cai trị khe khắt của Minh Mạng khiến dân chúng
Chăm bất mãn và không nhìn nhận ông là truyền nhân đích tôn của dòng Kế
Bà Tử. Nhiều nhân sĩ Chăm vào Gia Định cầu cứu Lê Văn Duyệt nhưng tả
quân bất lực vì Minh Mạng đã tước hết quyền. Các nghi lễ của người Chăm
bị cấm cử hành ngoài trời và chốn đông người.
Năm 1829 Nguyễn Văn Vĩnh mất, không
người kế vị. Lê Văn Duyệt đề nghị Nguyễn Văn Nguyên (hoàng tử Po Dhar
Kauk), con Nguyễn Văn Vĩnh, lên làm phó vương Gia Định Thành kiêm trấn
thủ trấn Thuận Thành, hiệu Po Kabait Thvac, lên thay. Minh Mạng, ngược
lại, chọn Nguyễn Văn Thừa (Po Phauk Tha), con Nguyễn Văn Chấn, lên thay
nhưng chỉ cho giữ chức tuần phủ (kham ma).
Nhiều phong trào chống đối nhà Nguyễn đã
xảy ra nhưng đều bị dep tan trong biển máu như cuộc nổi dậy của Tà La
Văn (Ja Lidon), một người Thượng ở Cam Tăng, Phan Thiết, năm 1823 ; của
Nvait Kabait, một tướng người Thượng trên Đồng Nai thượng, năm 1826 ;
của Katip Sumat, một tu sĩ Hồi giáo toàn nguyên, kêu gọi thánh chiến
chống các đạo khác tại Ninh Thuận năm 1833 ; của Ja Thakva (Điền Sư),
tại Bình Thuận năm 1834.
Minh Mạng buộc người Chăm phải lấy một
trong sáu họ Việt do chính nhà vua ban: Nguyễn, Dụng, Lâm, Diệp, Hắc,
Tôn. Về sau có thêm các họ: Thiên, Quảng, Bá, Đàng, Thiết, Thổ, Dương
v.v… Người Bani có các họ Inh Khrit, Inh Gra, Yang Inh, Than Bra, Băng
Tay Bajang, Popat v.v… Tên thánh của người Chăm theo đạo Hồi tại Châu
Đốc phải phiên âm ra tiếng Nôm thành một họ như Hosen thành Châu Sanh,
Mahli thành Mạch Ly v.v…
Trong hai năm 1854 và 1858, nhiều người
Chăm Islam sống sót sau những cuộc tàn sát của quân Khmer chạy qua Châu
Đốc tị nạn, được Trương Minh Giảng cho định cư cùng với những người Chăm
có mặt từ trước ở vùng biên giới dọc theo sông Hậu gần Châu Đốc (rạch
Bình Gỉ) và Tây Ninh ; tất cả sinh sống bằng nghề trồng rau quả, lúa
nước và thương mại. Người Chăm miền Tây thành lập được 7 làng (Châu
Giang, Katambong, Phum Soài, Lama, Kakôi, Ka Côki và Sàbâu), dân số
khoảng 5.000 người chia làm 9 đội đặt dưới sự cai quản của quan hiệp
quản người Kinh tại Châu Giang.
Từ 1954 đến nay
Dưới thời Pháp thuộc (1884-1954), người
Chăm được xếp hạng ngang với người Kinh nên không hưởng một qui chế đặc
biệt nào. Họ được toàn quyền sinh hoạt tôn giáo. Chỉ sau năm 1946, khi
phong trào Việt Minh xâm nhập vào các thôn làng Chăm, người Pháp mới chú
tâm đào tạo thanh niên và phát triển những vùng dân cư gốc Chăm. Hậu
duệ cuối cùng của Po Chongchan là một hoàng hậu, từ trần tại Huế năm
1927, không người thừa kế, chấm dứt dòng vương chính thức của Nam Chiêm
Thành.
Sau năm 1954, người Chăm chịu sự quản
trị trực tiếp của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Địa phận Thuận Thành xưa
kia được chia thành hai tỉnh Ninh Thuận (thủ phủ là Phan Rang) và Bình
Thuận (thủ phủ là Phan Thiết). Riêng tỉnh Bình Thuận, chính quyền Ngô
Đình Diệm thành lập thêm quận Phan Lý Chàm, tách khỏi huyện Hòa Đa. Hai
quận An Phước (Ninh Thuận) và Phan Lý Chàm (Bình Thuận) do chính người
Chăm tự quản lý lấy vì có số đông. Ông Thanh Giác làm quận trưởng quận
Phan Lý Chàm, sau là dân biểu quốc hội năm 1966 ; ông Quảng Đại Minh làm
quận trưởng quận An Phước. Về chính trị, hai nhân vật này đại diện cho
đẳng cấp lãnh đạo người Chăm trong thời Đệ Nhất Cộng Hòa, tranh đấu ôn
hòa trong các định chế hợp pháp của chính quyền miền Nam để quyền sinh
tồn và phát triển của cộng đồng người Chăm được tôn trọng.
Tại những nơi đông dân cư Chăm sinh
sống, vì lý do an ninh kể từ sau 1965 vai trò lãnh đạo hành chánh địa
phương do những sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa đảm nhiệm. Những nhân
vật quản trị cộng đồng người Chăm là những sĩ quan quân đội gốc Kinh do
vị tướng chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật chỉ định, năm 1968 quyền
này được giao lại cho những sĩ quan gốc Chăm. Cho đến năm 1975, chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa đã đào tạo được nhiều sĩ quan cao cấp: 1 trung
tá và 7 thiếu tá.
Trong nội bộ cộng đồng người Chăm, những
sĩ quan và cán bộ hành chánh gốc Chăm hợp tác chặt chẽ với các lãnh tụ
tôn giáo địa phương để quản trị, đặc biệt là việc cắt đặt ngày giờ tế lễ
giữa hai tôn giáo Bà La Môn và Bani tại Ninh Thuận và Bình Thuận. Những
đòi hỏi của người Chăm tại Việt Nam ít được chính quyền miền Nam nâng
đỡ hay chú ý tới vì không bị coi là kém phát triển, chính vì thế trong
cuộc nổi dậy của phong trào FULRO năm 1964 có nhiều lãnh tụ Chăm tham
dự.
Sau tháng 4-1975, không những cộng đồng
người Chăm cũng không được chính quyền cộng sản nâng đõ hơn mặc dù nhận
được nhiều hứa hẹn trong chiến tranh mà còn bị nghi ngờ theo tàn quân
FULRO chống lại nhà nước. Để loại trừ ảnh hưởng của các lãnh tụ tôn
giáo, tháng 12-1981, chính quyền cộng sản ban hành chỉ thị số 121/BBT
cải tạo phong tục, tập quán, mê tín, dị đoan của người Chăm (đả kích một
số nghi lễ gây lãng phí tiền bạc, của cải, thời gian, không vệ sinh và
duy trì các hình thức bóc lột bằng phẩm vật thông qua việc thực hiện các
lễ cúng). Chỉ thị này gây chấn động trong giới tu sĩ và giáo dân Chăm,
một phong trào chống đối rầm rộ nổi lên và chính quyền cộng sản đã
nhượng bộ: cuối năm 1982, người Chăm được phép sinh hoạt tín ngưỡng theo
tập tục riêng.
Hiện nay tất cả những lễ nghi lớn của
người Chăm tại Thuận Hải đều do bà Nguyễn Thị Thềm chủ lễ. Thật ra bà
Thềm – hiện cư ngụ tại làng Tịnh Mỹ (tên cũ là Bal Chanar), thị xã Phan
Lý Chàm – chỉ là con cháu của một vị tướng (không rõ tên và cũng không
biết thời nào), nhưng vì còn lưu giữ kiếm và áo mão của tổ tiên nên được
công nhận là truyền nhân của dòng quan lại (chứ không phải vua) cuối
cùng của trấn Thuận Thành. Tìm người kế thừa vai trò của bà Thềm trong
việc tế lễ hiện nay đang được đặt ra vì bà Thềm không có con, em trai
của bà là ông Dung Gạch không có vai trò trong chế độ mẫu hệ.
Về dân số, năm 1963 trên toàn quốc có
51.975 người Chăm, trong đó 33.600 cư trú tại Ninh Thuận và Bình Thuận,
3.000 tại Bình Định, 915 tại Bình Tuy, 1.760 tại Tây Ninh và 12.700 tại
Châu Đốc. Năm 1970 toàn miền Nam có khoảng 75.000 người Chăm, 2/3 sống
tại Ninh Thuận và Bình Thuận. Năm 1989, dân số Chăm tăng lên 99.000
người, hiện nay trên 110.000 người. Đa số sống bằng nghề nông và tiểu
thủ công nghiệp, chỉ một số rất ít cộng tác với chính quyền trong các
lãnh vực hành chánh, an ninh và giáo dụïc. Những đại biểu quốc hội và
chức sắc “dân cử” địa phương không có uy tín trong cộng đồng.
Từ năm 1975 đến nay, có hơn 22.000 người
Chăm tị nạn tại khắp nơi trên thế giới, trong số này hơn 4/5 là người
Chăm tại Kampuchia (khoảng 2.000 người đã di tản ngay khi Phom Penh thất
thủ), và được phân chia như sau: Pháp có hơn 1.000 người (hơn 30 người
Chăm đi từ Việt Nam), Đan Mạch: 250, Canada: 400, Úc: 400, Hoa Kỳ khoảng
2.000, đông nhất là tại Malaysia: hơn 10.000. Những người Chăm di tản
chỉ sinh hoạt riêng với nhau, không giao thiệp với người Việt di tản.
Người Kampuchia gốc Chăm thường tỏ ra quá khích trong việc bài xích Việt
Nam và vẫn tiếp tục xúi giục thành lập vương quốc Champa
PHỤ LỤC :Cộng đồng người Chăm tại Kampuchia
Cộng đồng người Chăm tại Kampuchia hiện
nay (230,000 người) đông gấp hai lần cộng đồng người Chăm tại Việt Nam
(115,000 người). Sự đông đảo này không phải tình cờ. Vì ở sát cạnh nhau,
Kampuchia là vùng đất dung thân của những gia đình người Chăm trốn chạy
những cuộc nội chiến và chiến tranh xảy ra tại Chiêm Thành cũ. Nhóm
Chăm Java. Cộng đồng người Chăm có mặt đông đảo trên lãnh thổ Kampuchia
từ sau ngày thành Ðồ Bàn (Vijaya) thất thủ năm 1471. Hàng trăm gia đình
Chăm, sinh sống dọc vùng duyên hải Bình Trị Thiên, chạy lên Tây Nguyên
lánh nạn, một số đã ở lại và sống lẫn với các sắc tộc Thượng đã có từ
trước, một số khác vượt thảo nguyên Kontum sang Chân Lạp định cư và trở
thành những dân cư Khmer gốc Chăm. Ðợt tị nạn đông nhất có ghi rõ số
lượng xảy ra vào năm 1692, khi quân của Minh vương Nguyễn Phúc Chu chiếm
đóng Khánh Hòa (Kauthara).
Sử liệu Khmer cho biết có khoảng 5,000
gia đình người Chăm, do những vương tôn dẫn đầu, đã băng rừng vượt núi
đến Chân Lạp xin tị nạn. Vua Khmer Jaya Chetta III chấp thuận bảo vệ và
cho định cư tại Udong (đế đô cũ). Những người này đều được đối xử tử tế.
Với thời gian, một số di chuyển đến những địa phương khác quanh đế đô
khai phá đất đai và trồng trọt. Sau 1835, có thêm nhiều đợt di dân Chăm
khác đến. Những người này không chấp nhận chính sách cai trị hà khắc của
vua Minh Mạng, nhất là từ khi quyền tự trị tại trấn Thuận Thành
(Panduranga) bị xóa bỏ. Dân số Chăm định cư tại Chân Lạp ngày càng tăng
lên, đa số được đưa đến các tỉnh Pretviha (phía tây bắc) và các tỉnh
Kongpong Cham, Prayveng, Svayrieng, Kandang và Takeo (phía tây nam) định
cư. Một số khác tình nguyện sang Thái Lan định cư tại các tỉnh Ubon,
Ratchathani và Sisakhet.Thật ra người Khmer và người Chăm không xa lạ gì
nhau. Lúc tiểu vương quốc Panduranga còn hùng mạnh, sự giao hảo giữa
người Chăm và người Khmer đã rất khắng khít, dân cư hai vương quốc này
đã thiết lập nhiều quan hệ sui gia thân thiết. Nhiều vị vua tại
Panduranga có vợ là người Khmer. Nhiều vị vua Chân Lạp đã từng sinh
trưởng tại vương quốc Nam Chiêm Thành, như Jayavarman III, và cũng có
nhiều vị vương Chăm được hoàng triều Khmer nuôi nấng, như
Suryavaravarman. Người Khmer gọi chung cộng đồng di dân này là Chăm
Java. Tại sao Chăm Java? Theo những sử liệu Khmer, người Java (Chà Và)
đã đến định cư tại Kampuchia từ thế kỷ 14.
Thật ra Java là hai nhóm người khác
nhau: Người Mã Lai và người Java. Vì không nắm vững địa lý và phong tục
tập quán của hai nhóm này, dân chúng Khmer gọi chung là Java. Người Java
từ các đảo Bornéo, Sumatra, Minang Kabau… đến Chân Lạp từ đầu thế kỷ
16; người Mã Lai đến từ các lãnh địa Singapore, Trengganu, Thái Lan… để
trốn tránh chiến tranh, đói kém hay sự trù dập của các chính quyền địa
phương. Ða số những người tị nạn này là đàn ông, đi trên những thuyền
nhỏ đổ bộ các vùng bờ biển phía đông nam, rồi di chuyển dần vào sâu
trong nội địa và định cư tại các tỉnh Prayveng, Takeo, Kandang, Kampot,
Kompong Chnang, Kompong Spư. Thời gian sau đó, những nam nhân Java di cư
này lập gia đình với những phụ nữ Khmer, gọi là Java Kur. (Kur theo
tiếng Chăm là Khmer). Vì theo đạo Hồi chính thống (Sunnite), nhóm này
sống tách biệt với người Khmer chính gốc, đa số theo Phật Giáo. Nhưng từ
khi tiếp xúc được với những nhóm Chăm di cư có mặt tại chỗ, vì cùng
ngôn ngữ, phong tục và tôn giáo, cả hai nhóm dân gốc Nam Ðảo ly hương
này kết hợp lại với nhau để thành nhóm Chăm Java. Người Chăm và các
vương triều Khmer. Sự xuất hiện của nhóm Chăm Java xảy ra đúng vào lúc
hoàng triều Chân Lạp có nhiều biến loạn.
Từ 1516 đến 1525, hai tiểu vương
Paramaraja II (Cau Bana Cand hay Ang Chan) và Sri Jettha (Stec Kan hay
Nay Kan) tranh quyền lẫn nhau. Ðược sự hỗ trợ của nhóm Chăm Java,
Paramaraja II đuổi được Sri Jettha sang Xiêm La. Từ sau ngày đó nhóm di
dân hỗn hợp này đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng trong nội chính Chân
Lạp, nhiều người được phong tới chức thượng thư (Samtec Cau Hva). Năm
1594, quân Xiêm tiến chiếm đế đô Longvek, cướp đi nhiều tài sản rồi rút
về. Vua Paramaraja IV (Chetta I) cử hai lãnh tụ Chăm Java, Po Rat và
Laksmana, sang Chiêm Thành cầu cứu. Vì đang bận chống lại chúa Nguyễn
tại Phú Yên, vua Po Klong Halau (gốc Khmer) đã không tiếp đãi trọng hậu
hai lãnh tụ này. Cảm thấy bị nhục và lợi dụng lúc đế đô Panran (Phan
Rang) vắng chủ, cả hai tháo gỡ nhiều khẩu đại bác (mua của người Bồ Ðào
Nha) và bắt theo một số phụ nữ Chăm mang về Chân Lạp. Trong thời gian
đó, năm 1595, con của Sri Jettha tên Ram de Joen Brai (Prah Rama) đã
cùng một người Tây Ban Nha tên Blas Ruiz, một người Bồ Ðào Nha tên Diego
Veloso và một người Hòa Lan chiếm, trốn chạy qua Lào. Joen Brai xưng
hiệu Ram I, dời đô về Srei Santhor.
Vừa từ Chiêm Thành trở về và hay tin đảo
chánh, hai vị tướng Chăm Java đành ủng hộ tân vương. Ram I liền ra lệnh
cho Ukena Tejo, một tướng Khmer, và hai vị tướng Chăm Java kia sang
đánh Chiêm Thành nhưng bị quân Ðại Việt lúc đó đã làm chủ đất Phú Yên
đánh bại. Trong lúc đó, tại Chân Lạp, Ram I bị người Tây Ban Nha ám sát
năm 1596. Hay tin này, Ukena Tejo cùng Po Rat và Laksmana về chiếm lại
đế đô, sát hại rất nhiều người Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha và tôn hoàng tử
Cau Bana Nur con của Ram I lên ngôi, hiệu Ram II, nhưng bị hoàng tử Cau
Bana Tan (Ponhea Tan, con của Paramaraja IV) được người phương Tây và
vương quốc Lào ủng hộ, trở về Longvek chiếm lại ngôi báu năm 1597, xưng
hiệu Paramaraja V. Ba vị tướng xin thần phục và được giao bảo vệ đế đô.
Laksmana còn được cử làm đô đốc Bộ Thủy Vận đặc trách về quan thuế và
giao dịch quốc tế. Nhưng chính sách bài phương Tây một cách trắng trợn
vì lý do tôn giáo của ba vị tướng ngày càng bị nhiều quần thần thân
phương Tây chống đối. Ukena Tejo bị phe phản loạn xử tử, Po Rat bị Diego
Veloso đâm chết.
Còn lại một mình, năm 1599, Laksmana kêu
gọi dân Khmer và Chăm Java nổi loạn, chiếm đế đô Srei Santhor, giết tất
cả người phương Tây rồi rút về Thbuang Khmum thành lập một tiểu vương
quốc riêng tên Ponhea Lu. Tại đây Laksmana bị một tân vương khác tên
Paramaraja VI (Cau Bana An hay Ponhea An) đánh bại, phải chạy qua Chiêm
Thành xin tị nạn nhưng bị vua Po Klong Halau bắt giết vì tội cướp người
và vũ khí vài năm trước đó. Tuy bị mất những địa vị cao trong triều
đình, người Chăm vẫn được cậy nhờ mỗi khi vương quyền Khmer lâm nguy.
Năm 1603, với sự trợ lực của nhóm Chăm Java, hoàng tử Cau Bana Nom
(Ponhea Nom) tranh chấp với Paramaraja VII (Ponhea To hay Sri Suryobarm)
nhưng không thành. Năm 1621, Ponhea Nu lên ngôi, hiệu Jaya Chetta II,
tuyển rất nhiều người Chăm vào đoàn quân viễn chinh sang Attopeu (Lào)
tìm vàng. Năm 1630, Ang Non I lên ngôi, nhưng đến năm 1636 phải nhờ
người Chăm bảo vệ và chấp nhận cho người Chăm có một lãnh thổ riêng tại
Ponhea Lu (Thbuang Khmum hay Kompong Cham), cạnh thủ đô Udong.
Trong thời gian này đạo Hồi phát triển
mạnh tại Chân Lạp. Sự cuồng tín và lòng dũng cảm của những tín đồ Hồi
giáo được nhiều vương tôn Khmer cậy nhờ mỗi khi có biến. Năm 1642, Cau
Bana Cand (Ram Cul hay Nặc Ông Chân) nhờ nhóm Chăm Java giúp lật đổ Ang
Non I và lên ngôi, hiệu Ramadhipatih I (Nặc Ông Chân) và phong một phụ
nữ Chăm tên Nan Hah làm hoàng hậu, hiệu Anak Mnan Kapah Pau. Nhà vua
theo đạo Hồi (tên thánh là Ibrahim) và áp dụng triệt để giáo lý Hồi Giáo
trong đời sống. Chính sách này đã làm dân chúng Khmer bất bình, một
phong trào bảo vệ Phật Giáo chống lại Hồi Giáo nổi lên khắp nơi. Chống
không lại, con cháu các vị vua Khmer cũ chạy sang Ðàng Trong cầu cứu.
Năm 1658 chúa Hiền xua 3,000 quân tiến chiếm Mỗi Xuy (Biên Hòa), bắt
Ramadhipatih I về giam tại Quảng Bình, đưa Batom Racha (Nặc Ông Nộn hay
Ang Sur) lên ngôi, hiệu Paramaraja VIII (1659-1674) và năm 1659 đuổi
được nhóm Hồi Giáo chạy sang Xiêm La, trong số này có rất nhiều gia đình
vương tôn Khmer. Cộng đồng người Chăm Hồi Giáo còn lại chạy về Nokor
Vat (tỉnh Svayrieng) cạnh biên giới tây-nam Việt Nam ẩn náu, một số khác
ở lại phục tùng vị vua mới và được cho giữ những chức vị cao trong
triều đình. Hồi giáo mất dần ảnh hưởng trong đời sống chính trị và xã
hội tại Chân Lạp.
Nhưng cũng kể từ đó cộng đồng người Chăm
Hồi giáo chống lại bất cứ triều đình Khmer nào thân Việt Nam hay thân
Phật giáo. Năm 1672, hoàng tử Sri Jaya Chetta (Ang Chey hay Nặc Ông
Ðài), cháu Ramadhipatih I, giết cha vợ là vua Paramaraja VIII lên ngôi,
hiệu Padumaraja II, và nhờ Xiêm La chống lại quân Việt. Vị tân vương mời
hoàng hậu gốc Chăm, vợ của vua Ramadhipatih I, từ Battambang về Udong
làm thái hậu, nhưng bà này từ chối và trốn về Thbaung Khmum nhờ đồng
hương giành lại ngôi báu. Padumaraja II bị ám sát chết, Udong bị chiếm
đóng và hoàng hậu cũ lên ngôi nhưng chỉ tồn tại được 5 tháng. Các con
của Ramadhipatih I đã vận động dân chúng Khmer lật đổ bà hoàng thái hậu
và giành lại quyền lãnh đạo nhưng anh em lại tranh chấp lẫn nhau. Thommo
Racha (Nặc Ông Thu) nhờ Xiêm La và nhóm Chăm Java giúp; Ang Non (Nặc
Ông Nộn) chạy sang Ðàng Trong cầu cứu. Năm 1674, chúa Nguyễn sai Nguyễn
Dương Lâm và Nguyễn Ðình Phái đánh chiếm thành Udong. Ramadhipatih I
chạy trốn vào rừng và mất tích. Con trưởng là Nặc Ông Thu đầu hàng nhưng
được chúa Nguyễn phong Ông Thu làm chánh vương cai trị Lục Chân Lạp,
đóng đô tại Udong (Long Úc hay Nam Vang), Nặc Ông Nộn được phong làm phó
vương cai trị Thủy Chân Lạp (miền Nam Việt Nam), đóng đô tại Prei Nokor
(Sài Gòn).
Năm 1691, sau khi Nguyễn Hữu Kính đánh
chiếm lãnh thổ Panduranga, giết Po Saut (Bà Tranh) vì đã dám chống cự
lại Minh vương Nguyễn Phúc Chu, một lãnh tụ Chăm tên Po Chonchanh, đạo
Bà Ni (Hồi giáo cải tiến), dẫn 5,000 người băng cao nguyên Di Linh sang
Chân Lạp tị nạn, tất cả được đưa đến Thbaung Khnum (Kompong Cham) lập
nghiệp. Trong hai thế kỷ 17 và 18, nội bộ triều đình Khmer luôn có loạn
lạc, quân Xiêm La và quân Ðàng Trong liên tục sang can thiệp để đưa một
vị vua thân mình lên ngôi. Trong khi đó, tất cả các vị vương Khmer đều
nhờ các nhóm Chăm tại Thbuang Khmum và Chroy Chanvar giúp sức. Năm 1782,
nhân dịp triều đình Khmer đang rối loạn, một người Chăm tên Duôn Ser
chiếm Udong và Chroy Chanvar rồi xưng vương. Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên
tị nạn và nhờ Mạc Thiên Tứ xin chúa Nguyễn giúp, quân Chăm bị đánh bại,
Duôn Ser bị giết. Dưới thời Nặc Tôn, cộng đồng người Chăm tại Chân Lạp
bị sát hại tập thể, một số chạy qua Xiêm La ẩn lánh, một số khác chạy
vào xứ Ðàng Trong xin tị nạn và được định cư tại Moat Chruk (Châu Ðốc).
Trong thời gian này binh lực nhà Nguyễn
thường tiến qua Chân Lạp bảo vệ các triều vương Khmer thân Việt, nhóm
Chăm Java cũng nhờ đó được người Khmer để yên. Thế lực của nhóm này lên
cao khi năm 1795, một lãnh tụ Chăm, hoàng tử Thị Hảo (Chay Brey hay Po
Ceng Sei Brei) và binh lính từ Panduranga qua tị nạn. Năm 1817, một
hoàng thân Chăm (không rõ tên) được cử làm tổng trấn tỉnh Kongpong Cham.
Năm 1834, con vị tổng trấn này được Minh Mạng phong tước tổng trấn thay
mặt triều đình Huế cai trị Kompong Cham, nhưng chính sách bảo hộ này bị
người Khmer thân Xiêm La chống đối. Năm 1854 sau khi nhờ quân Xiêm La
đuổi quân Việt ra khỏi lãnh thổ, vua Ang Duong (Harirak Rama hay Ang
Tuon) áp dụng chính sách bài Việt và cứng rắn với người Chăm: Quyền tự
trị tại Thbuang Khmum bị bãi bỏ, sự qua lại với Châu Ðốc bị hạn chế.
Nhiều chức sắc cao cấp trong cộng đồng Chăm tại Thbuang Khmum nổi lên
chống lại vì không muốn bị đồng hóa với người Khmer.
Năm 1858, một sứ giả của vua Ang Duong
là Udkana Yodhasangram (Yuthea Sangkream) được cử đến thương thuyết
nhưng bị quân Chăm phản loạn giết chết. Ang Duong mang 10,000 quân đến
đánh, giết được nhiều thủ lãnh Chăm, giải tán Ponhea Lu và tuyên án khổ
sai cho hơn 6,000 người khác. Gia đình những người Chăm còn lại bị đày
sang các tỉnh Pursat, Lovek, Kompong Tralach, Kompong Luong và khu vực
giữa Tonlé Sap và Phnom Penh, đạo Hồi bị cấm truyền bá. Một thủ lãnh
Chăm Java dẫn hàng ngàn người Chăm Java chạy sang Châu Ðốc tị nạn và
giúp nhà Nguyễn tấn công các vị vua Khmer chống người Việt và người
Chăm. Năm 1861 triều đình Khmer lại có loạn, Norodom (Narottam hay Nặc
Ông Lân), con vua Ang Duong, vừa lên ngôi thì bị hai em là hoàng tử
Sisowath (Preah Kevea hay Ang Sor) và hoàng thân Sivattha (Sivotha)
tranh ngôi. Sivattha được người Chăm hậu thuẫn chiếm thành Udong,
Norodom chạy qua Bangkok, thủ đô Xiêm La lánh nạn. Tại đây, Norodom kêu
gọi người Chăm tại Châu Ðốc qua giúp. Nhân dịp này, với sự có mặt của
quân Pháp tại Nam kỳ, cộng đồng người Chăm tại Châu Ðốc yêu cầu quân
Pháp chiếm luôn Chân Lạp với hy vọng được tự do truyền bá đạo Hồi. Năm
1862 Norodom được người Pháp và người Chăm đưa về nước giành lại ngôi
vua, nhưng Chân Lạp vẫn bị đặt dưới quyền bảo hộ của Xiêm La. Năm 1864,
Pháp đuổi quyền Xiêm ra khỏi lãnh thổ và đứng ra bảo hộ Chân Lạp trực
tiếp, đổi tên nước là Cambodge.
Dân chúng Khmer, không tán thành việc
này, nổi lên chống lại triều đình. Một nhân sĩ Khmer tên Assoua, tự nhận
là hoàng tử Ang Phim, cháu vua Ang Duong, kêu gọi người Khmer chống
Norodom. Trong cuộc tranh chấp này, cộng đồng người Chăm bị chia rẽ.
Người Chăm tại Kompong Cham theo Assoua; người Chăm tại Châu Ðốc theo
Pháp ủng hộ Norodom. Vùng biên giới phía cực nam Việt Nam trở thành vùng
tranh chấp giữa người Khmer, người Việt và người Chăm. Người Chăm muốn
thành lập một tiểu vương quốc Hồi giáo tại Hà Tiên, chấp nhận triều cống
Cao Miên và nhận Pháp bảo hộ. Cambodge xác nhận Hà Tiên là lãnh thổ của
họ và người Việt nói Hà Tiên là một thị xã của miền Nam từ lâu đời. Sau
cùng Pháp sát nhập Hà Tiên vào lãnh thổ Nam kỳ. Trong khi đó, tại
Cambodge, triều thần muốn đưa hoàng tử Sisowath lên thay. Bị cô lập,
Norodom giao cho Samdech Chau Ponhea, một tướng Chăm, bảo vệ vòng đai
thành Udong nhưng sau cùng phải giao cho Brière de l’Isle, một sĩ quan
Pháp, đảm nhiệm vì trong phe phản loạn cũng có người Chăm do đó rất khó
phân biệt. Sau cùng Samdech Chau Ponhea được giao bảo vệ hậu cung. Năm
1865, một tu sĩ Phật giáo tên Pou Kombo (tự nhận là hoàng tử Ang Phim,
con vua Ang Chan, cháu vua Ang Duong) cùng với 2,000 người Chăm tại Châu
Ðốc nổi lên chống lại Norodom, bao vây thành Udong. Khoảng 1,000 người
Chăm khác từ Châu Ðốc theo quân Pháp sang bảo vệ thành Udong. Pou Kombo
chạy sang Châu Ðốc và Tây Ninh tị nạn.
Sau khi chiêu mộ thêm binh sĩ Chăm và
Khmer, ngày 17-12-1866, Pou Kombo tiến vào Udong. Quân Khmer bỏ chạy,
chỉ còn quân Chăm của Samdech Chau Ponhea ở lại tử thủ. Nhưng qua ngày
hôm sau, hơn 500 quân Chăm của Pou Kombo bỏ theo Chau Ponhea vì lý do
tôn giáo (Pou Kombo là một nhà sư Phật Giáo). Hoàng tử Sisowath (Preah
Kevea), được cả người Khmer và người Chăm tại Kompong Cham lẫn Châu Ðốc
ủng hộ, đứng ra lãnh đạo cuộc phản công chống Pou Kombo. Tháng 12-1867,
quân phản loạn bị bao vây tại Kompong Thom, Pou Kombo bị giết. Pháp rất
hài lòng về sự dũng cảm và sự trung thành của quân Chăm Hồi Giáo ở Châu
Ðốc, buộc Norodom phải khen thưởng xứng đáng.
Nhiều
nhân vật Chăm giữ những chức vị quan trọng trong triều đình vua
Norodom. Nhưng vì sự cuồng nhiệt trong lối sống đạo, người Chăm Hồi giáo
không chiếm được nhiều thiện cảm của dân chúng Khmer, đa số theo đạo
Phật. Chỉ các vua chúa Khmer mới tin tưởng nhóm người Chăm Hồi giáo vì
sự trung thành và sự cang cường của họ, một số quân nhân Chăm được tuyển
mộ để bảo vệ hoàng gia và vòng đai củ thủ đô Nam Vang. Norodom mất năm
1904, hoàng thân Sisowath lên thay, vòng đai cận vệ của nhà vua chỉ toàn
người Chăm. Trong hai triều kế tiếp, Monivong (1928-1940) và Sihanouk
(từ 1940), người Chăm được giữ nhiều vai trò quan trọng trong vương
quyền.
Năm 1970, vòng đai phòng thủ Phnom Penh
được giao cho tướng Les Kosem, một người gốc Chăm và là một sĩ quan nhảy
dù được huấn luyện từ Pháp. Khi đã ổn định được thế đứng trong chính
quyền Cambodge, Les Kosem liền nghĩ tới việc phục hồi vương quốc Champa
cũ. Sau 1954, những người Chăm Java theo đạo Hồi là Khmer Islam và tỏ ra
thù nghịch với người Việt. Trong những năm 1975-1979, những nhóm người
Chăm sinh sống trong những thành phố tại Kongpong Cham, Kongpong Chnang
và nhiều nơi khác bị đuổi về nông thôn, hơn phân nửa đã bị Khmer đỏ sát
hại, số còn lại chạy sang Châu Ðốc và vùng biên giới Thái Lan lánh nạn.
Khi Khmer đỏ bị quân đội cộng sản Việt Nam đẩy lui ra khỏi lãnh thổ
Kampuchia, người Khmer Islam tị nạn tại Châu Ðốc trở về Kompong Cham,
Kompong Chnang và Phnom Penh sinh sống. Cộng đồng người Chăm Hồi giáo
sống dưới chế độ cộng sản thân Việt Nam của Heng Samrin và Hun Sen được
tự do giữ gìn văn hóa và giữ đạo của họ. Hiện có hơn 260 giáo đường Hồi
giáo tại Kampuchia và mỗi năm có trên 20 người hành hường tại La Mecque.
Cũng nên biết đương kim thủ tướng Hun Sen xuất thân từ Kompong Cham, do
đó rất được người Chăm ủng hộ. Chính phủ của Norodom Ranariddh cũng
thế. Sự phồn thịnh và ổn định của Kampuchia trong những năm 1979-1980
một phần là do sự đóng góp của nhóm Chăm Hồi giáo này, họ là đầu cầu vận
chuyển hàng hóa từ Việt Nam qua ngõ Châu Ðốc và trên sông Hậu. Trong
các chức vụ cao trong chính quyền Khmer, của Hun Sen và Ranariddh, đều
có người Khmer Islam.
*Nguyễn Văn Huy là Tiến sĩ Dân tộc học, giáo sư phụ trách khoa Các Dân Tộc Ðông Nam Á tại Ðại Học Paris
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét