Hoa Anh Đào
Trên lãnh thổ Việt Nam của chúng ta đã
từng chứng kiến sự ra đời và phát triển của ba vương quốc. Đó là vương
quốc Văn Lang ở phía Bắc ra đời vào khoảng thế kỷ VII trước công nguyên,
vương quốc Champa ở miền Trung ra đời vào khoảng thế kỷ II sau công
nguyên và vương quốc Phù Nam ra đời ở phía Nam vào khoảng thế kỷ I sau
công nguyên. Sự hưng thịnh của các vương quốc này mỗi thời kỳ một khác,
ví như trong khi Âu Lạc đang chìm trong Bắc thuộc thì ở phía Nam vương
quốc Phù Nam phát triển rất rực rỡ, đã áp đặt sự cai trị ở rất nhiều nơi
trong đó có một phần đất Champa và Chân Lạp… Nhưng đến trước khi Âu Lạc
giành được độc lập từ tay bọn đô hộ Trung Quốc thì Phù Nam đã suy yếu
và diệt vong.
Nhiều nhà nghiên cứu khi đánh
giá việc đất nước thống nhất là sự xâm lược, thôn tính lãnh thổ, mạnh
được yếu thua, cách ứng xử phong kiến mang nặng tính cục bộ mà cho rằng
Đại Việt là của người Kinh (tức người Việt), Champa là của người Chiêm
và đất Nam Bộ ngày nay thuộc quyền sở hữu của Chân Lạp (tức Campuchia
sau này), cách nhìn này dễ gây ra tâm lí tỵ hiềm trong lòng dân tộc. Khi
tìm hiểu về tình hình quản lý ở đồng bằng hay miền núi trước đây thì
thấy rằng sự chặt chẽ hay lõng lẽo có sự khác nhau ở từng vùng miền,
nhưng lãnh thổ của quốc gia chung gắn bó với hai trung tâm chính trị của
đất nước ở phía Bắc là Thăng Long (Hà Nội), phía Nam là Chà Bàn (thành
Đồ Bàn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định ngày nay). Giữa Đại Việt và Champa
luôn luôn có sự tranh chấp. Sự tranh chấp đó là không thể tránh khỏi
bởi tư duy bành trướng của giai cấp phong kiến hai nhà nước, luôn luôn
xảy ra trình trạng xung đột tùy vào sự hưng vong của hai tập đoàn phong
kiến ở hai miền, trong khi nhân dân chỉ muốn hòa bình, an cư lạc nghiệp.
Lý giải vì sao trước đây là ba vương quốc cùng tồn tại trên lãnh thổ
Việt Nam, mà sau này thống nhất thành một quốc gia duy nhất, điều đó có
nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan, nhưng nguyên nhân quan trọng
nhất được giải thích như sau: Đây là thời kỳ đất nước phát triển dưới
chế độ phong kiến ở cả hai vùng, trong bối cảnh âm mưu bành trướng xuống
phương Nam của phong kiến Trung Quốc, là nguy cơ thường trực, đe dọa sự
sống còn của các dân tộc ở Việt Nam, đặt trách nhiệm nặng nề cho hai
nhà nước phong kiến Đại Việt và Champa. Trong hoàn cảnh đó, xu hướng đối
kháng phong kiến là rất nguy hiểm cho cả hai phía. Do đó, vấn đề hội
nhập để tồn tại và phát triển là xu hướng vận động thực tế khách quan
của lịch sử, tạo nên sắc thái mới của nền văn hóa đa dân tộc của Việt
Nam.
Xưa nay khi nói về cuộc xung
đột Việt – Chiêm trong lịch sử dân tộc thì người ta thường tránh né
không dám nhìn thẳng vào sự thật. Qua bài viết lần này, chúng tôi có
tham vọng cung cấp cái nhìn toàn cảnh hơn về sự đụng độ của 2 tộc người
trên đất nước ta. Từ đó, đưa ra những ý kiến đánh giá khách quan và
trung thật nhất của vấn đề này.
I. Sự thành lập các vương quốc cổ của người Việt và người Chiêm.
- Sự ra đời vương quốc Văn Lang của người Việt.
Người Lạc Việt và một bộ phận người Tây
Âu (hay còn gọi là người Âu Việt) ở vùng Việt Bắc và Đông Bắc. Hai thành
phần Việt tộc này sống xen kẽ ở nhiều nơi ở phía Bắc nước ta. Cùng với
sự phân hóa xã hội bước đầu, do tác động trực tiếp của nhu cầu đoàn kết
trị thủy, làm thủy lợi và chống xâm lấn đã dẫn đến sự ra đời của một nhà
nước đầu tiên của nước ta. Đại Việt sử lược, bộ sử xưa nhất còn lại của nước ta cho biết: “Đến
đời Trang Vương nhà Chu, ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp
phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Phong Châu, đặt
quốc hiệu là Văn Lang, phong tục thuần hậu chất phác, chính sự dùng lối
thắt nút, truyền được 18 đời, đều xưng là Hùng Vương”. Vua Trang
Vương nhà Chu là ông vua ở ngôi vào khoảng năm 696 đến 681 trước công
nguyên. Như vậy là một nhà nước đã ra đời trong lịch sử Việt Nam vào thế
kỷ VII trước công nguyên. Không rõ Đại Việt sử lược đã dựa vào
đâu, song việc đặt sự ra đời của nhà nước Văn Lang vào khoảng giai đoạn
đầu của văn hóa Đông Sơn là điều có thể chấp nhận được và phù hợp với
nguồn tư liệu khảo cổ.
- Sự ra đời vương quốc Champa của người Chiêm.
Theo Tiến sĩ Sử học Huỳnh Công Bá, trong cuốn Lịch Sử Văn Hóa Việt Nam cho rằng: “Sức
sản xuất của cư dân Sa Huỳnh không kém gì sức sản xuất của cư dân Đông
Sơn. Chắc rằng trong xã hội Sa Huỳnh thời đó đã xuất hiện tầng lớp quý
tộc có nhiều của cải. Tầng lớp đó chắc hẳn đã có nhiều quyền lực đối với
xã hội. Cư dân văn hóa Sa Huỳnh thời đó chắc hẳn đã hoặc đang chuẩn bị
bước vào xã hội có giai cấp và nhà nước sơ khai”. Vậy là trước khi
bị nhà Hán xâm lược thì cư dân Champa mà chủ yếu có hai bộ lạc sinh
sống: bộ lạc Cau (Kramuka vams’a) và bộ lạc Dừa (Nakirela vams’a). Bộ
lạc Cau cư trú trên vùng Bình Thuận – Ninh Thuận – Khánh Hòa – Phú Yên
ngày nay và bộ lạc Dừa cư trú trên vùng Bình Định – Quảng Ngãi – Quảng
Nam – Đà Nẵng ngày nay. Tuy vậy lúc đầu không có một vương quốc chung
cho cả hai. Bộ lạc Cau ở phía nam đèo Cù Mông đã lập riêng cho mình một
tiểu quốc vào khoảng đầu công nguyên. Trong lúc tiểu quốc Nam Chăm
(Panduranga) phát triển vài ba thế kỳ thì thế kỷ II, đời Sơ Bình (190
-193) nhân lúc nhà Đông Hán suy sụp, Trung Quốc loạn lạc, nhân dân Tượng
Lâm ở nơi xa nhất đã đạt được thắng lợi trước tiên. Họ đã nổi dậy, giết
huyện lệnh, giành quyền tự chủ và lập quốc. Cuộc khởi được tiến hành
trong hoàn cảnh hết sức thuận lợi, dân Giao Chỉ và Cửu Chân cũng đang
đứng lên đấu tranh chống sự thống trị hà khắc của phong kiến phương Bắc,
đánh phá châu thành, giết thứ sử Chu Phù năm 190 khiến trong mấy năm
liền nhà Hán không lập nổi quận trị. Người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở
Tượng Lâm có tên là Khu Liên (có sách viết là Khu Quỳ, Khu Đạt, hay Khu
Vương) lên làm Vua. Vương quốc mới lập của dân Tượng Lâm trong một thời
gian dài được các thư tịch cổ Trung Hoa gọi là nước Lâm Ấp; sách Thủy kinh chú
giải thích rõ, Lâm Ấp là huyện Tượng Lâm, sau bỏ chử Tượng, chỉ gọi là
Lâm Ấp. Nhưng thực ra, tên gọi vương quốc của người Chăm chính là
Champa, lấy tên một loài hoa đẹp và rất được yêu thích của người phương
Nam: hoa Đại (tên khoa học là Michelia Champacca Linnae)[5: tr 111].
Trong thời gian về sau, các quan lại Trung Quốc thường đem quân đánh để
chiếm lại vùng đất này nhưng đều bị thất bại vì Lâm Ấp dựa vào địa thế
hiểm trở để chống lại. Năm Vĩnh Hòa thứ 3 (Tấn Mục Đế), năm 347, vua Lâm
Ấp là Phạm Văn nhận thấy dân các huyện còn lại của Nhật Nam hết sức oán
hận thái thú Hạ Hầu Lãm, Phạm Văn xuất quân đánh chiếm được quận Nhật
Nam, báo với thứ sử Giao Châu là Châu Phồn đòi lấy phía Bắc dãy Hoành
Sơn làm biên giới phía Bắc của Lâm Ấp. Đại Nam Nhất Thống Chí, tỉnh Quảng Bình chép: “Lũy
cũ Hoành Sơn (Hoành sơn cổ Lũy) ở phía Bắc huyện Bình Chính, từ trên
núi Ba Hi chạy ngang đến suốt biển. Tương truyền lũy này là do Phạm Văn
vua nước Lâm Ấp đắp để làm đường phân giới Giao Châu Lâm Ấp”. Sau
đó phong kiến Trung Quốc tấn công với ý định chiếm lại Nhật Nam nhưng bị
vua Phạm Văn đánh bật trở lại, Con Phạm Văn là Phạm Phật kế vị (349 –
380) nhiều lần cho quân đánh chiếm vào quận Cửu Chân nhưng không thành
công.
II. Những cuộc giao tranh của người Việt và Chiêm trong tiến trình lịch sử dân tộc.
Mở đầu cho cuộc đụng độ lịch
sử này là sự kiện năm 347, vua Champa là Phạm Văn đã đánh chiếm được
toàn bộ quận Nhật Nam do nhà Hán lập ra, Champa còn nhiều lần cho quân
đánh chiếm quận Cửu Chân, nhưng đều bị đánh bại. Về sau núi Đồng Trụ
được coi là giới hạn phía Nam của nước ta thời Bắc thuộc với vương quốc
Champa. Đến thời điểm bây giờ, việc xác định địa điểm chính xác của núi
Đồng Trụ còn dựa nhiều vào truyền thuyết. Nhưng khởi nghĩa Hai Bà Trưng
thì đã được chính sử ghi lại rõ ràng, các cuộc khởi nghĩa này đã nổ ra ở
Nhật Nam (Nghệ An xưa). Như vậy có lẽ vào thế kỷ I, sông Lam là biên
giới của quận Cửu chân và quận Nhật Nam (hiện tại vẫn có nhiều cơ sở
khoa học để chứng minh rằng dòng chảy phần Hạ lưu sông Lam xưa khác với
bây giờ, nếu điều đó là sự thật thì việc xác định ranh giới xưa là rất
phức tạp). Từ thế kỷ II, III, IV nhiều cuộc nổi dậy và xâm lấn đã nổ ra.
Các cuộc nổi dậy và xâm lấn này do các lãnh chúa và thủ lĩnh địa phương
người Chăm ở đồng bằng ven biển Hà Tĩnh cầm đầu. Nhưng các lãnh chúa
này đã bị đánh bật về phía Nam Sông Lam (theo An Tĩnh cổ lục)
(Các lãnh chúa vùng đồng bằng ven biển Hà Tĩnh vì trong số họ một số là
người Champa, một số chưa thể khẳng định được là người Việt hay người
Champa, kể cả Mai Thúc Loan).
Đầu thế kỷ VI, Lý Bí khởi
nghĩa ở Cửu Đức (Nghệ An) lập ra nước Vạn Xuân (544 – 602). Nhưng rồi
vua Champa là Can-Thực-Luật-Bạt-Ma lại vượt qua Sông Lam. Các thế kỷ
VIII (780), IX (802 – 803) quân Champa lại tiếp tục chiếm đóng Châu Hoan
và Châu Ái nhưng rồi lại bị quân Đường đánh bật về phía Nam Sông Lam.
Thế kỷ X, Đinh Bộ Lĩnh lập
nước Đại Cồ Việt. Lúc này ranh giới của Đại Cồ Việt và Champa gọi là Nam
Giới. Các sách An Tĩnh Cổ Lục, Phong thổ ký, các huyện Hà Tĩnh đều nhắc
đến cửa Nam Giới và núi Nam Giới là giới hạn phía Nam của Đại Cồ Việt
thời kỳ này. Đối chiếu với địa hình thì cửa Nam Giới chính là cửa Sót
ngày nay, nơi sông Hà Hoàng (bao gồm Sông Nghèn và Sông Sót ngày nay) đổ
ra Biển. Như vậy vào thời điểm bấy giờ có thể cửa Sót còn nằm về phía
Nam của núi Nam Giới (Thạch Hải, Hà Tĩnh ngày nay). Điều này là có cơ sở
vì theo Địa chí Can Lộc thì “Sông Nghèn có thể là dòng chảy chính của Hạ Lưu sông Lam ngày xưa”.
Năm 981, Đại Cồ Việt sau nhiều
lần bị Champa quấy rối, Lê Hoàn lần đầu tiên đem quân đi chinh phạt
Champa, chiếm được Địa Lý Châu (Quảng Ninh, Quảng Bình). Champa đã phải
dời kinh đô (Indrapura) từ miền Đồng Dương vào thành Phật Thệ (Vijaya,
tức Bình Định ngày nay). Sau đó Lê Hoàn trả Địa Lý Châu lại cho Champa.
Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt: Champa từ trước vẫn là một nước lớn
(đối với Đại Cồ Việt) nhưng từ sau sự kiện này đã trở thành một “tiểu
quốc” chịu thần phục Đại Cồ Việt.
Năm 1011, vua Lý Thái Tổ cho đem quân đánh Champa ở trại Bố Chính (Quảng Bình ngày nay).
Thời Lý Thái Tông, Champa lại
bỏ triều cống và hay cho quân ra quấy nhiễu biên giới, Vua cho đóng mấy
trăm chiến thuyền đặt hiệu là Long, Phụng, Ngư, Xà, Hổ, Báo, Anh vũ,
luyện tập quân bộ tinh nhuệ. Đầu năm 1044, Vua thân chinh cầm quân đánh
Champa theo đường thuỷ tiến vào cửa biển Ô –Long (nay là Tư Hiền, Thừa
Thiên Huế). Quân Champa đại bại, hơn 3000 quân bị giết, 5000 người bị
bắt sống, vua Champa là Sạ Đẩu (Jaya Simhavarman II) bị tướng Champa là
Quách Gia Di chém đầu ngay tại trận và đem dâng thủ cấp để xin hàng.
5000 tù binh bị bắt đưa về nước ta vào trấn Vĩnh Khang (phủ Tương Dương,
tỉnh Nghệ An) và trấn Đăng Châu (Quy Hoá), ban cho họ ruộng đất, lập
thành phường ấp làm ăn sinh sống.
Dưới thời Trần, sau khi Chế
Mân dâng hai châu Ô và châu Lý cho nhà Trần làm sính lễ thì người Việt
đã di cư vào hai vùng đất này để khai phá. Theo đánh giá chung của nhiều
nhà sử học, hai châu Ô, Lý mà nhà Trần đã đổi thành Thuận – Hóa là dải
đất từ Nam Quảng Trị vào đến Bắc Quảng Nam ngày nay. Vấn đề được đặt ra
là địa bàn thực tế phía nam của châu Hóa thời Trần. Theo khảo cứu của
học giả Đào Duy Anh trong Đất nước Việt Nam qua các đời, thì Trà
Kệ là huyện Quảng Điền về sau, Bồ Đài là huyện Phong Điền ngày nay, Bồ
Lãng ở vùng thượng du sông Hương, Sa Lệnh là phía đông Huế, Thế Vang là
huyện Phú Vang, Lợi Bồng tương đương với huyện Hương Thủy, và huyện Tư
Dung thì Ông cho rằng đặt vào khoảng huyện Phú Lộc ngày nay. Và cũng
theo Đào Duy Anh, biên giới phía Nam của châu Hóa thời thuộc Trần vào
đến sông chợ Cửi, tức sông Thu Bồn của Quảng Nam – Đà Nẵng. Phan Khoang, trong Việt sử xứ Đàng Trong, cho rằng “huyện
Phú Lộc, huyện Phú Vang thuộc tỉnh Thừa Thiên ngày nay và huyện Hòa
Vang, huyện Đại Lộc, phủ Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam ngày nay là đất
Hóa Châu xưa”. Vậy biên giới phía Nam của châu Hóa thời Trần là ở
đâu? Và người Việt đã vượt qua đèo Hải Vân để khai triển vùng đất Bắc
Quảng Nam mà Champa đã giao cho nhà Trần chưa? Những vấn đề này đã được
Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá qua sự khảo cứu của mình đã làm rõ ngọn ngành
những vấn đề này. Qua sự tìm hiểu của mình, bằng những tư liệu khi đi
thực địa tại vùng đất này, Ông cho rằng: “Qua các tư liệu trên, cho
thấy ít nhất là khoảng 10 năm sau ngày đám cưới Huyền Trân – Chế Mân, đã
có người Việt đến khai khẩn vùng đất Bắc Quảng Nam. Địa bàn khai phá
lúc bấy giờ diễn ra trên địa bàn trong điểm của đồng bằng sông Thu Bồn
và ở phía nam sông này, thuộc đất của huyện Duy Xuyên về sau. Như vậy
biên giới phía nam của châu Hóa thời Trần không dừng lại ở Bắc sông chợ
Cửi (Thu Bồn). Căn cứ vào bản cổ chỉ của tộc Trà làng Phú Xuân (thuộc
tổng Quảng Hóa, phủ Duy Xuyên) lập ngày 21 tháng 9 năm Thái Đức 3
(1780), vốn là một tộc họ người Chăm ở lại khai thác đất đai cùng người
Việt nơi vùng “tam giác châu” Ô Da – Thu Bồn. cho biết đến đến cuối thời
Trần, do chiến tranh Chiêm – Việt, ông tổ tộc này phải bỏ chỗ ở cũ là
làng La Vân (tức Phú Xuân về sau), chạy vào làng Đồng Dương (ở phía Nam
sông Ly Ly), là thôn nhà của ông Chế Tịnh (một người Chăm khác) ở trọ,
chúng tôi cho rằng biên giới phía nam của châu Hóa lúc bấy giờ có khả
năng đến sông Ly Ly (Hương An)”. Và cũng theo Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá đi đến nhận định rằng: “Trong
buổi đầu quốc gia Đại Việt, Bắc Quảng Nam đã thuộc về Thuận – Hóa. Nếu
Thuận Hóa là “phên dậu phía Nam” của nước Đại Việt thì huyện Điện Bàn
chính là “phên dậu của phên dậu”, một thời làm “cột mốc biên giới” che
đỡ cho cả Thuận – Hóa trong công cuộc tái thiết xây dựng, và một thời
gian dài sau đó sẽ trở thành “hành lang quân sự” của những cuộc chiến
tranh”
Dưới thời Hồ,
để ổn định biên giới phía Nam do Champa trước kia thường xuyên đánh phá
ở thời Trần mạt, Hồ Quy Ly muốn làm cho Champa suy yếu và thần phục nhà
Hồ để tránh hậu họa về sau. Vì vậy năm 1402, nhà Hồ cho xây dựng con
đường Thiên lý từ thành Tây Đô đến Hoá Châu, Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đời
Hán Thương năm Thiệu Thành thứ 2 (1402), Nhâm Ngọ, tháng 3, sửa đường
sá từ thành Tây Đô đến Hoá Châu, dọc đường đặt phố xá để truyền thư, gọi
là đường thiên lý”.
Tháng 7 năm 1402, Hồ Quý Ly cử đại binh đi đánh Champa và thắng trận. Phủ biên tạp lục cho biết: “Vua
nước ấy là Ba- Đích lại dâng đất Chiêm Động và Cổ Luỹ Động. Quý Ly nhận
chia làm 4 châu: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, đặt An phủ sứ lộ Thăng Hoa,
biên làm quân ngũ, khuyên dân nộp trâu thì cho quan tước để lấy trâu cấp
cho dân di cư”.
Theo như sự khảo cứu của Học giả Đào Duy Anh, trong Đất nước Việt Nam qua các đời,
thì lộ Thăng Hoa nằm ở phía Nam sông Chợ Cửi đến sông Bến Ván tương
đương với vùng đất Nam Quảng Nam ngay này. Cũng theo Ông thì châu Thăng
là miền Thăng Bình và Duy Xuyên. Châu Hoa là miền Tam Kỳ. Ba huyện Lê
Giang, Đô Hòa và An Bị của châu Thăng tương đương với ba huyện Lễ Dương
tức huyện Thăng Bình, Huyện Duy Xuyên và Huyện Quế Sơn ngày nay. Châu
Hoa thì tương đương với phủ Tam Kỳ thời Nguyễn, tương đương với huyện Hà
Đông, tức thành phố Tam Kỳ ngày nay, miền nguồn Chiên Đàn và miền nguồn
Hữu Bang. Châu Tư thì thuộc trong phạm vi của hai huyện Bình Sơn và Sơn
Tịnh trong lưu vực sông Trà Khúc, ở miền Bắc tỉnh Quảng Ngãi, huyện Trì
Bình ở dưới, huyện Bạch Ô ở trên. Châu Nghĩa trong phạm vi của lưu vực
sông Vệ và huyện Mộ Đức hiện ở miền Đông Nam tỉnh Quảng Ngãi.
Như vậy dưới thời nhà Hồ,
trong một thời gian biên giới về phía Nam của Đại Việt đã vượt qua sông
Trà Khúc hơn 50km về phía Nam đến huyện Mộ Đức thuộc tỉnh Quảng Ngãi
ngày nay. Nhưng sau đó trong khi Đại Việt bị quân Minh xâm lược thì
Champa đã nhân cơ hội đó chiếm lại 4 châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa.
Trong những đời vua đầu của
thời hậu Lê, sau khi mới giành được độc lập, việc nội trị được ưu tiên
hàng đầu nên trước những hành động quấy rối của Champa ở biên giới, vua
Lê Nhân Tông chỉ cho quân đánh vào thành Đồ Bàn, bắt được vua Champa là
Ba Đích Lại đưa về Thăng Long và lập cháu (gọi chú) của Ba Đích Lại là
Maha Quý Lai lên thay chứ không lấy lại Chiêm Động Cổ Luỹ (4 châu Thăng,
Hoa, Tư, Nghĩa mà nhà Hồ đã sáp nhập trước đây).
Đến năm 1470, vua Champa là
Bàn La Trà Toàn, một mặt cầu viện nhà Minh, mặt khác xuất 10 vạn quân ra
cướp Hoá Châu. Để chấm dứt sự quấy phá của Champa, vua Lê Thánh Tông
thân chinh đem 26 vạn quân đi đánh Champa. Vua cho vẽ bản đồ Champa để
biết rõ những nơi hiểm yếu của vương quốc này, vua Trà Toàn bị đánh bại.
Sau chiến thắng này, vua Lê Thánh Tông cho một số quân đóng tại kinh đô
Champa chứ không rút hết về nước như trước nữa. Trong khi khi vua Lê
Thánh Tông đánh vào kinh đô của Champa thì một viên tương của Champa là
Bố Trì Trì đem quân chạy về phía Nam đèo Cả, tự lập làm Vua, xin sắc
phong được nhà Lê đồng ý. Với ý định tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía
Nam, vua Lê Thánh Tông cắt phần đất ven biển từ đèo Cù Mông tới đèo Cả
(hay Đại Lãnh) lập nên một nước riêng gọi là nước Hoa Anh. Lại lấy phần
thượng nguyên ở phía tây Hoa Anh – vùng Cheo Reo để Lập nước Nam
Bàn.
Như vậy Chiêm Thành ngăn cách
hẳn với Đại Việt bằng hai nước, tuy nhỏ nhưng cũng là tấm đệm từ miền
núi ra đến biển. Điều này cũng được Lê Quý Đôn ghi lại ở Phủ biên tạp lục: “Tháng
2 đánh thành Chà – Bàn. Quân Thuận Hoá bắt sống được Trà Toàn. Tướng
nước ấy là Bố Trì chạy đến Phan Lung, giữ đất ấy xưng vương, chỉ còn lại
được 2 phần 5 đất nước, sai người vào cống. Bèn phong Bố Trì làm Chiêm
Thành vương, lại phong Hoa Anh vương và Nam Bàn vương, chia làm 3 nước”.
Vua Lê cho những viên quan
Champa đã đầu hàng giữ những chức vụ quan trọng đối với vùng đất mới. Ba
Thái được cử làm Đại Chiêm đồng tri châu, Đa Thuỷ làm Thiêm tri châu.
Vua có dụ: “Đại Chiêm và Cổ Luỹ trước là đất của ta, gần đây bị mất
về nước Chiêm Thành, nay lấy lại được hết. Ai dám không theo lệnh thì
chém trước tâu sau”. Vùng đất này được đặt làm đạo Quảng Nam, chia
làm ba phủ, chín huyện. Các sở đồn điền cũng được lập ra để dân nghèo từ
miền Bắc vào cùng với những kiều dân cũ đã có ở đó từ trước cùng khai
khẩn, sinh sống.
Trong cuốn sách Vương quốc Champa của Giáo sư Lương Ninh có dẫn của Đại Nam nhất thống chí như sau
“Trong cuộc hành quân này, quân Đại Việt còn vượt qua đèo Cù Mông, tiến
tới núi Đá Bia (Thạch Bi). Núi Thạch Bi ở phía đông huyện Tuy Hòa, phía
bắc đèo Cả, thuộc thị xã Tuy Hòa, tỉnh Phù Yên ngày nay. Núi này có một
chi, đến bờ biển thành hai… có một khối đá lớn, quan đầu về phía đông
như hình người… Vua Lê sai mài vách núi dựng bia đá để chia địa giới với
Chiêm Thành”. Vậy thì phải chăng lãnh thổ Đại Việt về phía nam
dưới thời Lê Thánh Tông kéo đến ngang núi Thạch Bi? Qua quá trình tìm
hiểu như sau, theo như Đại Việt sử ký toàn thư cho biết “Tháng 3 ngày 1, hạ được thành Chà Bàn, bắt sống hơn 3 vạn người…”, “ngày mồng 2 vua thấy đã phá được thành Chà Bàn rồi, xuống chiếu đem quân về”,
từ thành Chà Bàn đến núi Thạch Bi phải qua đèo Cù Mông, đi qua tỉnh Phú
Yên và xuống gần hết tỉnh Phú Yên mới tới đèo Cả trong đó có núi Thạch
Bi. Trong vòng một ngày quân Đại Việt không thể kéo quân đến nơi đây
được. Đại Việt sử ký toàn thư như chúng ta đã biết là được ghi chép dưới thời Lê nên những sự ghi nhận trên là đáng tin cậy. Lý giải vì sao Đại Nam nhất thống chí lại cho chép vụ việc này thì Tiến Sĩ Huỳnh Công Bá cho rằng: “qua
quá trình mưa gió đã bào mòn, lồi ra trên đỉnh núi một tảng đá bằng hoa
cương không bị bào mòn trông giống như một tấm bia, sau đó người dân
trong vùng đã thiêu dệt thành truyền thuyết rằng vua Lê Thánh Tông đã
cho người mài đá và khắc chữ lên phiến đá đó để đánh dấu cương giới phía
Nam của đất nước mà sau này Đại Nam nhất thống chí viết thời nhà Nguyễn
đã có sự lầm lẫn đáng tiếc, đã ghi chép vụ việc này mà giáo sư Lương
Ninh đã dẫn”. Vả lại giáo sư Lương Ninh cũng viết: “Với ý định
tạo nên sự yên ổn lâu dài ở phía nam, vua Lê cắt phần đất ven biển từ
đèo Cù Mông tới đèo Cả (hay Đại Lãnh) lập nên một nước riêng gọi là nước
Hoa Anh.” Điều này cho thấy phần đất phía Nam đèo Cù Mông Đại Việt không hề quản lý, thì sự ghi chép của Đại Nam nhất thống chí về địa giới phía Nam với Chiêm Thành là núi Thạch Bi là sự lầm lẫn hết sức đáng tiếc.
Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào
trấn thủ Thuận Hoá ở tuổi 34. Theo ông là những người bộ khúc( phụ tách
địa phương) ở Tống Sơn và nhân dân xứ Thanh Hoa. Nguyễn Hoàng dựng dinh ở
Ái Tử (Quảng Trị), lôi kéo được đông đảo nhân dân vào Thuận – Quảng với
những chính sách ưu đãi, khoan hoà. Đại Nam thực lục tiền biên cho biết:“
Chúa vỗ về quân dân, thu dùng hào kiệt, sưu thuế nhẹ nhàng, được nhân
dân mến phục, bấy giờ thường xuyên là chúa Tiên. Nghiệp đế dựng lên,
thực là xây nền từ đấy”.
Như vậy, từ những duyên cớ mà
lịch sử, Nguyễn Hoàng với sự kiện vào trấn thủ ở vùng Thuận – Quảng, đã
đặt những viên gạch đầu tiên trong sự nghiệp gây dựng nên xứ Đàng
Trong.
Cũng trong năm 1558, người
Chăm Hoa Anh thường xuyên quấy rối, cướp bóc dân cư người Việt làm ăn
sinh sống ở đây, nên Nguyễn Hoàng sai Lương Văn Chánh tiến quân vào Hoa
Anh, tới sông Đà Rằng đối phó với quân Champa, sáp nhập vùng đất này vào
lãnh thổ xứ Đàng Trong.
Đến năm 1611, quân Champa ở Hoa Anh lại
quấy nhiễu đánh phá, Nguyễn Hoàng sai Văn Phong vào Phú Yên đánh dẹp và
thu phục tiểu quốc Hoa Anh vào lãnh thổ Đàng Trong. Mở rộng Đàng Trong
từ đèo Cù Mông đến đèo Đại Lãnh. Năm 1653, vua Champa là Bà Tấm đem quân
vào đòi lấy Phú Yên, chúa Nguyễn Phúc Tần sai Hùng Lộc Hầu làm thống
binh đem 3.000 quân đi đánh, thu phục vùng đất Khánh Hòa ngày nay. Năm
1675, Người Champa thường xuyên cho quân đánh phá đất Phú Yên, Nguyễn
Phúc Tần cho quân đánh, Vua Chăm là Bà Bật phải xin hàng, dâng đất cho
chúa Nguyễn từ sông Phan Rang trở ra, Chúa Nguyễn đặt làm phủ Thái Ninh
và dinh Thái Khang để trấn thủ.
Tháng 2 năm 1693, nhân vua
Champa là Bà Tranh chủ động tấn công vào vùng Khánh Hòa ngày nay (tuyên
bố bỏ lệ triều cống, “làm phản, hợp quân, đắp lũy, cướp giết cư dân ở
phủ Diên Ninh), chúa Nguyễn Phúc Chu đã ra lệnh cho Nguyễn Hữu Cảnh chỉ
huy quân đánh dẹp, sáp nhập vùng đất còn lại của Champa, lập nên phủ
Bình Thuận. Như đã trình bày kể từ sau năm 1471 trở đi, Champa đã không
còn tồn tại với ý nghĩa là một vương quốc độc lập nữa mà trở thành một
đơn vị hành chính đặc biệt nhất của Đại Việt – một phủ có quyền tự trị
tương đối và vẫn thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với Đại Việt.
Về vấn đề vương quốc Champa
vẫn còn tồn tại như một đơn vị hành chính đặc biệt cho đến thời kỳ Minh
Mạng (1833) chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để sáng tỏ hơn.
THAY LỜI KẾT LUẬN
Như vậy, sự xung đột của hai
nhà nước phong kiến Đại Việt và Champa là không thể tránh khỏi, bởi
trong tư duy của giới lãnh đạo phong kiến thì tư tưởng bành trướng luôn
đóng vai trò chỉ đạo, tùy thuộc vào sự hưng vong, sức mạnh của mỗi vương
quốc qua các giai đoạn mà ưu thế giữa hai bên có sự thay đổi, trái
ngược lại với sự đối kháng đó thì người dân chỉ muốn sinh sống hòa bình,
mưu kế sinh nhai. Trong khi đó thì phong kiến Trung Quốc luôn rình rập
âm ưu bành trướng xuống phương Nam, là nguy cơ thường trực, đe dọa sự
sống còn của cả dân tộc. Do đó vấn đề hội nhập để cùng tồn tại và phát
triển là xu hướng vận động thực tế khách quan của lịch sử. Việc phong
kiến Đại Việt thắng thế hơn so với Champa và từng bước quản lý vùng đất
này ở các giai đoạn sau tuy nó thuộc vào nhận thức chủ quan là thôn tính
của giai cấp phong kiến nhưng nó phù hợp với xu thế chung của dân tộc
là thống nhất, cố kết dân tộc để cùng nhau chống lại mối đe dọa thường
trực là âm mưu bành trướng về phương Nam của phong kiến Trung Quốc. Việc
Champa suy yếu và lần lượt sáp nhập thống nhất vào Đại Việt là kết quả
tất yếu của một quá trình, hình thành nên sự cố kết dân tộc, pha trộn
bản sắc văn hóa giữa các cộng đồng dân cư cùng sinh sống trên lãnh thổ
Việt Nam.
https://nghiencuulichsu.com/2015/09/30/cuoc-xung-dot-viet-chiem-trong-tien-trinh-lich-su-dan-toc/
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét