Nguyễn Văn Huy*
Tìm hiểu lịch sử những cộng đồng dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam là một bổ túc cần thiết cho mọi dự án xây dựng Việt Nam tương lai. Bài viết tóm lược sự hình thành cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung, những phong trào phản kháng của người Thượng trong thời Pháp thuộc và dưới các chế độ chính trị của Việt Nam, để hiểu và nâng đỡ những đồng bào đang chia sẻ mảnh đất Việt Nam chung.
I. Sự hình thành cộng đồng người Thượng trên cao nguyên miền Trung
Thượng là tên gọi chung những sắc dân
sinh sống trên cao nguyên miền Trung Việt Nam. Dân số người Thượng hiện
nay trên 1,6 triệu người (tương đương với 1,9% dân số toàn quốc), được
chia thành 19 nhóm khác nhau, đông nhất là các nhóm Bahnar, Sedang, Hré,
Mnong, Stieng thuộc ngữ hệ Môn Khmer (Nam á) và Djarai, Rhadé, Raglai
thuộc ngữ hệ Malayo Polynésien (Nam Ðảo). Ðịa bàn cư trú của người
Thượng có hình giọt nước, rộng trên 60.000 cây số vuông, từ vừng rừng
núi phía Tây các tỉnh đồng bằng duyên hải miền Trung (bắt đầu từ Quảng
Bình xuống Ðồng Nai) đến tận biên giới Lào và Kampuchea với các tỉnh
Kontum, Gia Lai, Ðắt Lắc, Lâm Ðồng (gọi chung la Tây Nguyên) và chấm dứt
trên những sườn đồi phía Nam dãy Trường Sơn trong các tỉnh Ðồng Nai và
Sông Bé. Mỗi nhóm Thượng sinh trú trong một địa bàn riêng biệt với những
ngôn ngữ, phong tục, tập quán riêng. Mật độ dân số trung bình khoảng 30
người trên một cây số vuông; tỷ lệ tăng trưởng dân số trung bình là 2%
một năm. Ngày nay người Thượng trở thành thiểu số trên chính quê hương
của họ: 40% dân số trên Tây Nguyên.
Sự hội nhập của người Thượng vào cộng
đồng dân tộc Việt Nam còn rất mới, chưa tới 50 năm (từ 1954 đến nay), do
đó còn rất nhiều điều để khám phá.
Các tên gọi về người Thượng
Triều đình và người Việt Nam xưa gọi
chung những sắc dân sinh sống trong vùng rừng núi, chưa thấm nhuần văn
minh đồng bằng, là Man di, Thổ dân hay Liêu thuộc; khi chống lại trung
ương thì bị gọi là rợ, loạn. Vào giữa thế kỷ 19, lần đầu tiên tiếp xúc
với những sắc dân sinh sống trên cao nguyên Trường Sơn, người Pháp gọi
chung tất cả là Mọi.
Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí của Ngô Gia
Văn Phái, danh xưng mọi xuất hiện từ thế kỷ 18 khi Nguyễn Huệ mang quân
ra Bắc phò Lê diệt Trịnh. Triều thần nhà Lê (Trương Tuân và Dương Trọng
Tế) thời đó gọi quân Tây Sơn là quân Mọi. Sở dĩ có tên gọi này vì quân
Tây Sơn đa số là người Thượng (đảm trách phần nhiệm tải người và vật
dụng), kẻ nào cũng lưng đóng khố, tay cầm đòn ống, mình trần trùng trục.
Chưởng Tiến, một lục lâm hảo hán thời đó, mắng quân Tây Sơn là lũ Hồng
Mao, mọi lông đỏ vì trên đầu mỗi binh sĩ đều vấn vải đỏ và giắt lông
chim (một phong tục của người Bahnar khi lâm trận).
Không biết danh xưng Mọi có từ bao giờ,
người Pháp nói rằng người Việt đã gọi những sắc dân cư ngụ trên vùng
rừng núi phía Tây đồng bằng duyên hải miền Trung là Mọi từ lâu đời, với
nội dung kinh bỉ những người có đời sống còn man dã, dữ tợn. Ngày nay
danh xưng Mọi tuy không còn phổ biến nhưng trong dân gian vẫn còn những
biến nghĩa tiêu cực khi muốn hạ thấp nhân phẩm hay khinh miệt đối phương
với những cụm từ: làm mọi (làm không công, làm tôi tớ), man mọi (kém
văn minh), mọi rợ (dã man), thằng mọi (người không có văn hóa).
Trong thực tế danh xưng Mọi xuất phát từ
lối phát âm của người Mường: Mơl, có nghĩa là người. Khi các giáo sĩ
phương Tây đầu tiên đến Thanh Hóa vào cuối thế kỷ 16, họ đã dựa theo
cách phát âm của người địa phương gọi những sắc dân sinh sống trên vùng
rừng núi là Mwal, phiên âm ra theo tiếng la-tinh Việt ngữ hóa là mơ-oa l
hay mơ-oai. Thật ra không có sắc dân nào tên mới cả, mỗi sắc dân đều có
một tên riêng đi kèm, như Mơ Mường là người Mường. Khi cộng đồng người
Việt từ các tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh theo Nguyễn Hoàng vào Nam (tức miền
Trung ngày nay) lập nghiệp đầu thế kỷ 16, họ gọi chung người miền núi là
mơ-oai vì không biết đặt tên gì. Với thời gian, do cách phát âm riêng
biệt của người Thanh Nghệ Tĩnh, danh xưng mơ-oai biến âm thành mọi. Từ
đó về sau mới có các tên Mọi Ðá Vách (Hré), Mọi Hời (Hroi, Kor, Bru, Ktu
và Pacoh), Mọi Ðá Hàm (Djarai), Mọi Bồ Nông (Mnong) và Bồ Van (Rhadé
Epan), Mọi Vị (Raglai) và Mọi Bà Rịa (Mạ) để chỉ những sắc dân Thượng
sinh trú ở phía Tây Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh, Phú Yên, Khánh
Hòa, Bình Thuận và Biên Hòa.
Có người dùng chữ người Sơn Cước cho có
vẻ văn minh hơn, nhưng danh xưng này bao hàm tất cả những cư dân bản địa
sống trên vùng núi non hay cao nguyên miền Bắc lẫn miền Trung, do đó
không thể dùng để chỉ riêng người Thượng. Người bình dân gọi tất cả
những thổ dân không phải là người Việt có nước da ngâm đen sinh sống bên
cạnh họ là người miền ngược, người miền núi, thượng bang, người thiểu
số, người sắc tộc, v.v… Các chế độ chính trị gọi là đồng bào sắc tộc.
Chế độ cộng sản còn đi xa hơn, đồng hóa danh xưng sắc tộc (ethnie) với
dân tộc (nationalité) theo cách gọi của Liên Xô cũ và Trung Quốc; sắc
tộc thiểu số đổi thành dân tộc thiểu số, mỗi sắc tộc là một dân tộc (dân
tộc Rhadé…), chính vì thế ngày nay người Việt trong nước thường gọi
chung người Thượng là người dân tộc (?).
Trong bài này tác giả sử dụng danh xưng
Thượng, một cách gọi đặc trưng để chỉ những sắc dân sinh sống trên cao
nguyên miền Trung, hay Tây Nguyên. Thượng có nghĩa là ở trên, người
Thượng là người ở miền cao hay miền núi.
Ði tìm lịch sử
Cộng đồng người Thượng từ khi xuất hiện
cho đến nay chưa bao giờ kết hợp lại thành một quốc gia. Mỗi nhóm sắc
tộc, tùy từng thời điểm, hùng cứ một nơi, quay quần quanh một vị thủ
lãnh hay một dòng họ. Sống trên một địa bàn hiểm trở, chung quanh là núi
rừng ẩm ướt, dụng cụ sinh hoạt chính của người Thượng là gỗ rừng, văn
minh của người Thượng có thể gọi là văn minh thảo mộc, những di tích
không tồn tại lâu dài với thời gian. Gần đây nhiều di chỉ khảo cổ trên
Tây Nguyên vừa được khám phá, nhưng những phát hiện này dừng lại ở thời
đại đồ đá cách đây từ 10.000 đến 30.000 năm, giai đoạn cận kim hoàn toàn
thiếu vắng. Thêm vào đó người Thượng không có chữ viết, tìm hiểu nguồn
gốc hay lịch sử của người Thượng chính vì vậy rất là khó khăn. Những
huyền thoại dân gian truyền khẩu của người Thượng phần lớn do những giáo
sĩ người Pháp chép lại, tính chất có thực của những chuyện này rất khó
kiểm chứng.
Mặc dầu vậy, với quyết tâm, chúng ta vẫn
có thể tìm hiểu sự hiện diện của những đồng bào này qua lịch sử các thế
lực xưa trong vùng: Phù Nam, Angkor, Chiêm Thành, Xiêm La và Ðại Việt,
để từ đó nối lại những mắt xích thiếu sót trong lịch sử các cộng đồng
dân tộc Việt Nam. Tìm hiểu lịch sử của người Thượng cũng là tìm hiểu gốc
tích của dân tộc Việt Nam, bởi vì ngày nay người Thượng là công dân của
nước Việt Nam, tổ tiên của họ cũng là tổ tiên chung của dân tộc Việt
Nam.
Từ khởi thủy, trên Tây Nguyên không có
chủng tộc nào có những tên gọi như ngày nay. Tổ tiên người Thượng phần
lớn là người đồng bằng chạy lên cao nguyên lánh nạn và ở lại luôn; với
thời gian, những hòa trộn chủng tộc giữa các nhóm di dân cũ và mới làm
nảy sinh những nhóm sắc tộc khác nhau. Cũng nên biết rừng núi Trường Sơn
trước khi được sát nhập vào Việt Nam vào đầu thế kỷ 20 là địa bàn lánh
nạn lý tưởng cho những người thích sống tự do, từ chối sự thống trị của
các thế lực đồng bằng.
Theo kết quả của nhiều nghiên cứu, cư
dân đầu tiên trên Tây Nguyên mang nặng yếu tố Veddoid (hay Négroid, dáng
người nhỏ thấp, tóc đen xoắn, da ngâm đen, xuất hiện cách đây từ 10.000
đến 5.000 năm), sống theo bầy ngoài trời, biết săn bắn, chế tác dụng cụ
và vũ khí bằng xương thú và đá đẽo. Những đợt di dân về sau, mang nặng
yếu tố Mélanésien (dáng thấp, nước da ngâm đen, tóc đen dợn sóng, cách
đây từ 6.000 đến 5.000 năm) và Indonésien (từ sông Indus tới, dáng người
cao to, tóc đen dợn sóng, da không đen sậm, cách đây từ 5.000 đến 2.500
năm) tiến bộ hơn, kết hợp với những nhóm có trước tạo thành các nhóm
Thượng Môn Khmer ( người da đen, tóc quắn, xấu xí và sống khỏa thân, nếp
sống đơn giản, không trộm cắp theo mô tả của Khương Tài, sử gia Trung
Hoa vào thế kỷ 4) ở sâu trong lục địa địa và nhóm Thượng Malayo
Polynésien (dáng vạm vỡ, da ngâm đen, tóc đen dợn sóng) từ duyên hải
lên. Cả hai nhóm đều nắm vững kỹ thuật chế tác vật dụng bằng gốm, dệt
vải, rèn luyện kim loại thô sơ và làm rẫy.
Nhờ những đóng góp mới này người Thượng
bắt đầu biết kết hợp thành bộ lạc, dựng nhà sàn, chăn nuôi trâu bò và
thuần dưỡng voi rừng để chuyên chở hay xung trận. ý thức quyền lực ngày
càng rõ nét, những bộ tộc lớn thường tấn công những bộ lạc nhỏ và yếu
hơn để bắt phụ nữ và nô lệ phục vụ mình. Nhờ đất đai còn hoang trống,
những nhóm nhỏ và yếu hơn, không muốn bị sát hại hay bị làm nô lệ, trốn
vào các chốn rừng sâu; sống tách biệt với thế giới bên ngoài những nhóm
này càng trở nên lạc hậu và yếu kém hơn. Sự di chuyển theo đàn thú rừng
và lối canh tác du mục cũng làm thay đổi yếu tố thuần chủng của từng
nhóm. Với thời gian, tranh chấp về không gian sinh tồn và lãnh đạo giữa
những bộ tộc lớn ngày càng gắt gao, một số đã nhờ các thế lực tại đồng
bằng (Phù Nam và Chiêm Thành) lên can thiệp và chấp nhận triều cống. Từ
đó sự hiện diện của người Thượng bắt đầu xuất hiện trong những ghi chép
của các triều vương đồng bằng, từ thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 19. Ðến
thời Pháp thuộc, những nhóm sắc tộc Thượng lần lượt được khám phá và
liệt kê trong các văn bản.
Sự hình thành các nhóm Thượng
Vào đầu công nguyên, xuất hiện hai vương
quốc của người Malayo Polynésien lớn trên bán đảo Ðông Dương: Phù Nam
và Chiêm Thành. Lãnh thổ Phù Nam rộng từ Vịnh Thái Lan đến Biển Hồ nhưng
ảnh hưởng tỏa lên Thượng Lào và Bắc Miến Ðiện. Chiêm Thành gồm nhiều
vương quốc nhỏ sinh hoạt độc lập với nhau dọc các đồng bằng eo hẹp miền
Trung đến chân dãy Trường Sơn về phía Tây: Lâm êp hay Indrapura (Bình
Trị Thiên), Amaravati (Quảng Nam), Vijaya (Nghĩa Bình), Aryaru (Phú
Yên), Kauthara (Khánh Hòa) và Panduranga (Bình Thuận). Sinh hoạt chính
của người Malayo Polynésien là trồng lúa nước và buôn bán. Ðể tìm thêm
nguồn hàng quí hiếm trao đổi với các thuyền buôn nên Ðộ, người Malayo
Polynésien mở rộng tầm kiểm soát lên các vùng rừng núi đồng thời khuất
phục luôn các nhóm dân cư bản địa đã có mặt từ trước. Một phần lớn dân
cư bản địa, người Môn, từ chối sự thống trị mới này đã chạy sang đồng
bằng các sông Menam (Thái Lan), Salween và Irrawaddy (Miến Ðiện) lập
nghiệp; một số ít hơn trốn lên cao nguyên Trường Sơn. Một sắc dân khác,
người Khmer, rút lên cao nguyên Korat (phía Tây Thái Lan) lánh nạn và ở
luôn trên đó.
Từ thế kỷ 5 người Khmer trở nên hùng
mạnh, tiến xuống đồng bằng đánh bại Phù Nam và thành lập đế quốc Angkor
vào giữa thế kỷ 7. Các triều vương Angkor dồn mọi nỗ lực xây dựng hệ
thống dẫn thủy nhập điền và những đền đài đồ sộ bằng đá quanh Siem Reap.
Những đại công tác này đòi hỏi một nguồn nhân lực khổng lồ, các sắc dân
sinh sống quanh khu vực đều bị bắt về làm nô lệ và đã không nhiều thì
ít tiêm nhiễm yếu tố văn hóa Khmer trong sinh hoạt hay trở thành hăn
người Khmer bởi chính sách đồng hóa. Từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 15, nhiều
đoàn nô lệ đã băng rừng vượt núi chạy lên cao nguyên Trường Sơn lánh
nạn, hòa trộn với những nhóm Môn có sẵn từ trước tạo thành các nhóm hợp
chủng Môn-Khmer (như các nhóm Bahnar, Sedang, Brâu, Hré, Kor, Mnong, Mạ,
Koho, Stieng, Choro… ngày nay), với những trình độ văn hóa và kỹ thuật
khác nhau tùy theo mức độ sống chung với người Khmer tại Biển Hồ và các
nhóm Malayo Polynésien từ duyên hải miền Trung tiến lên sau này.
Về phía Ðông, từ thế kỷ 2, lãnh thổ các
tiểu vương quốc Indrapura và Amaravati của người Chăm chịu áp lực nặng
nề của người Trung Hoa ở Giao Chỉ. Mỗi lần bị đánh bại, dân cư Chăm rút
lên Trường Sơn lánh nạn; một số đã ở lại hòa trộn cùng những nhóm Môn
Khmer có sẵn để trở thành các nhóm Bru, Tà Ôi (Pacoh), Ktu, Djé Triêng.
Giữa thế kỷ 5, Chiêm Thành bị quân Tống tấn công và đại bại, dân cư
Amaravati băng Trường Sơn chạy vào Champassak (Nam Lào) lánh nạn, một số
lớn đã ở lại và tạo thành các nhóm Djarai với sự pha trộn ít nhiều yếu
tố Môn Khmer. Ðến cuối thế kỷ 7, quân Java từ Biển Ðông tràn vào đánh
phá Aryaru và Kauthara, một phần lớn dân chúng đã chạy lên cao nguyên
Darlac tị nạn và tạo thành các nhóm Rhadé. Vào giữa thế kỷ 16 quân Chiêm
tại Panduranga bị quân Việt đánh bại, một số người Chăm chạy lên cao
nguyên Di Linh tá túc, hòa hợp với các nhóm Koho và Mạ để trở thành các
nhóm Raglai. Về sau, vào đầu thế kỷ 19 thành trì cuối cùng của người
Chăm tại Panduranga lọt vào tay nhà Nguyễn, một số người Chăm rút lên
cao nguyên Ðồng Nai, hòa trộn với các nhóm có trước để trở thành người
Churu.
Qua mô tả tóm lược này, tiến trình hình
thành các nhóm người Thượng này có vẻ giản dị nhưng trên thực tế rất là
phức tạp. Sự pha trộn giữa các nhóm, tự nhiên hay bị ép buộc, để trở
thành một tập hợp khác làm thay đổi thường xuyên địa bàn cư trú của mỗi
nhóm. Nhiều nhóm đã tan biến đi, nhiều nhóm mới được thành lập và còn
giữ tên cho đến ngày nay. Cho đến nửa đầu thế kỷ 20, tiến trình chuyển
hóa của người Thượng vẫn còn tiếp diễn: các nhóm Sedang, Bahnar và
Djarai ở Kontum, các nhóm Mạ, Koho, Stieng và Mnong ở Di Linh đang có
kết hợp tự nhiên để trở thành những tập hợp khác nhưng sự xâm nhập của
người Pháp vào cao nguyên đã làm khựng lại tiến trình hợp chủng này và
chấm dứt hăn vào giữa thế kỷ 20 khi người Kinh xuất hiện trên cao
nguyên.
Thêm vào đó, nhóm Thượng nào được các
thế lực đồng bằng hỗ trợ thường hay áp đảo các nhóm khác, nhỏ và yếu
hơn, để đồng hóa. Trên cao nguyên Kontum, người Bahnar tự gây thanh thế
để củng cố cộng đồng của mình. Trên cao nguyên Pleiku và Darlac các nhóm
Djarai và Rhadé được người Chăm ủng hộ thường áp đảo các nhóm nhỏ hơn
để duy trì yếu tố thuần chủng của mình. Trên cao nguyên Attopeu, người
Sedang, Cùa và Sô săn lùng các nhóm yếu hơn, bắt làm nô lệ bán cho người
Thái và Lào. Trên cao nguyên Ðồng Nai và Sông Bé, các nhóm Mnong Bhiet
và Stieng hợp tác với các triều vương Khmer đánh phá lẫn nhau. Trong hai
cuộc chiến Ðông Dương vừa qua, cộng đồng người Thượng gần như phân hóa
vì bị lôi kéo vào các cuộc chiến tranh giành độc độc lập và ý thức hệ
giữa các phe phái.
Ðiều đáng lưu ý là các nhóm Thượng trên
cao nguyên, trừ trường hợp Pháp và Mỹ, gắn bó với các thế lực đồng bằng
thuộc văn minh nên Ðộ hơn là với những người thuộc văn hóa Trung Hoa.
Trong quá khứ và ngay trong hiện tại, người Thượng mặc dù có bị đàn áp,
ức hiếp hay có chống trả lại các cuộc xâm nhập của người Chăm, Khmer và
Thái nhưng quan hệ của họ đối với các cộng đồng có nền văn hóa nên Ðộ
lúc nào cũng dễ dàng, sự kiện này cần nên lưu ý.
Quan hệ với người Chăm và Khmer
Do xuất thân từ các vùng đất thấp, quan
hệ giữa người Thượng và các thế lực đồng bằng đã rất chặt chẽ. Người
Thượng cần gạo muối và dụng cụ kim khí, người đồng bằng cần phẩm vật
rừng xanh, cả hai cộng đồng vẫn còn trao đổi qua lại cho đến ngày nay.
Thêm vào đó là những quan hệ quyền lợi và quyền lực, các thế lực đồng
bằng cần người miền núi để bổ sung nhân lực trong các công trình xây
dựng hay quân đội, nhất là voi trận, nhằm tăng cường uy thế; các nhóm
miền núi cần người đồng bằng hỗ trợ để bảo vệ địa vị áp đảo của mình.
Sau mỗi thất bại các nhóm Thượng phân hóa thành các chi bộ nhỏ sống rải
rác khắp nơi dọc các con suối, các thung lũng lòng chảo hay trên các
triền núi, đời sống vô cùng khó khăn vì bị tản mát. Về phía các vua Chăm
và Khmer, mỗi khi thua trận, thường dâng cống phẩm vật rừng xanh (cọp,
nai, voi, ngà voi, sừng tê giác, trầm hương, cánh kiến, mật ong, vàng
bạc, đá quí) do người Thượng cung cấp cho phe thắng trận để xin thần
phục. Theo dõi những ghi chép còn lại trên bia đá của các triều vương
Angkor và Chiêm Thành cũ, quan hệ qua lại giữa hai khu vực đã được nhiều
lần nhắc đến.
Tại Chiêm Thành, tù trưởng các bộ lạc
lớn của người Thượng được phong tước chiến sĩ (Ksatriya), có quyền lập
gia đình với phụ nữ Chăm và ra vào cung đình. Các vua Chiêm Thành cũng
thường được các tù trưởng Thượng gả con gái để duy trì quan hệ quyền
lực. Năm 914 một tiểu vương Chăm gốc Bahnar tên Mahindravarman được giao
cai quản cao nguyên Kontum và khi chết được chôn tại Kon Kor trong
thung lũng sông Bla, gần Kontum. Nam 1145, vua Khmer Suryavarman II với
sự giúp đỡ của người Stieng và Mnong, sau đó là của người Rhadé và
Djarai, băng Trường Sơn vào chiếm kinh đô Vijaya (Bình Ðịnh) của người
Chăm. Năm 1150, sau khi đánh đuổi quân Khmer về bên kia dãy Trường Sơn,
vua Chăm Jaya Harivarman tấn công người Rhadé, Djarai và các nhóm Thượng
khác, mà họ gọi chung là Kirataê, do Vansaraja (êng Minh Diệp), một
người Rhadé và là anh rể của nhà vua, để tái lập trật tự trong nước. Tàn
quân của Vansaraja vượt sông Gianh vào Ðại Việt cầu cứu, vua Lý Anh Tôn
sai tướng Nguyễn Mông cùng 5.000 binh sĩ từ Thanh Hóa vào tiếp cứu
nhưng bị đánh bại, Nguyễn Mông và Vansaraja đều bị tử trận. Toàn bộ các
thung lũng ven núi nơi người Thượng cư trú đều đặt dưới sự kiểm soát của
Chiêm Thành.
Tại Chân Lạp, sự lớn mạnh của Chiêm
Thành đe dọa thế đứng của đế quốc Angkor, trong suốt thế kỷ 12 quân
Khmer với sự hỗ trợ của người Thượng đã nhiều lần băng rừng Trường Sơn
tiến vào đánh phá Chiêm Thành. Những thế kỷ sau, nơi cư trú của người
Thượng trở thành khu vực trái độn và là nơi giao chiến giữa Angkor và
Chiêm Thành.
Năm 1282, lãnh thổ Chiêm Thành bị quân
Mông Cổ chiếm đóng. Hoàng tử Harajit cùng mẹ là hoàng hậu Gaurendraksmi
trốn lên cao nguyên Ya Heou (An Khê) lánh nạn và chiêu mộ được 20.000
binh lính Thượng (đủ cả các sắc tộc lớn nhỏ) kháng chiến. Lực lượng du
kích của Harajit gây nhiều thiệt hại cả về nhân mạng lẫn vật liệu chiến
tranh cho quân Mông Cổ. Năm 1283, Toa Ðô dẫn hơn 5.000 binh sĩ, 100 tàu
chiến và 250 thuyền đổ bộ vào Quảng Ngãi và Bình Ðịnh, tiến lên cao
nguyên Kontum-Pleiku tiễu trừ quân kháng chiến nhưng vì không quen khí
hậu nóng ẩm và thiếu tiếp liệu phải lui về đồng bằng. Quân Chiêm và quân
nhà Trần đã hợp lực cùng nhau đánh đuổi quân Mông Cổ ra khỏi lãnh thổ
năm 1285. Năm 1288 Harajit lên ngôi vua, hiệu Chế Mân (Jaya Sinhavarman
III), quan hệ giữa người Chăm và người Việt, giữa người Thượng và người
Chăm ngày càng thắm thiết, nhiều đền đài Chăm được dựng lên ở Yang Mun,
Yang Prong và Drang Lai.
Từ thế kỷ 14 trở về sau, chiến tranh
giữa Chiêm Thành và Ðại Việt xảy ra thường xuyên, cộng đồng người Thượng
trên cao nguyên là nguồn nhân lực bổ sung cho quân đội Chiêm Thành. Năm
1471, vua Lê Thánh Tôn chiếm thành Ðồ Bàn (Bình Ðịnh) và chia lãnh thổ
Bắc Chiêm Thành ra nhiều xứ để cai trị, trong đó có xứ Nam Phan bao gồm
vùng đất phía Tây các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh và cao
nguyên Kontum, Pleiku, Darlac. Kể từ giai đoạn này, dân cư Ðại Việt mới
biết người Thượng nhưng vì tổ chức xã hội theo khuôn mẫu Trung Hoa nên
các sắc dân không thuần chủng Kinh đều bị cách ly. Người Manê (Thượng)
luôn bị nghi kỵ và nhiều phòng tuyến ngăn cản sự tiếp xúc giữa Kinh và
Thượng được thành lập. Những năm mất mùa, người Ðá Vách (Hroi, Kayong,
Cùa, Hré, Ktu, Krem) thường tràn vào các thôn xã người Kinh cướp bóc
lương thực.
Năm 1540, vua Lê Trang Tôn phong Bùi Tá
Hán làm trấn thủ đạo Quảng Nam với mục đích trừ loạn Ðá Vách ở phía Nam
Quảng Ngãi gồm các huyện Ba Tơ, Minh Long, Sơn Hà. Sau khi dẹp xong loạn
Ðá Vách, Bùi Tá Hán thi hành chính sách chư hầu đối với người Thượng
(thuộc man) và mở rộng giao thương hai chiều: cung cấp muối gạo, vải vóc
và nhận lại ngà voi, sừng tê giác, quế, kỳ nam, mật ong. Chính sách này
đã mang lại sự yên bình cho toàn khu vực trong gần 200 năm.
Trong cùng thời gian đó, đồng loại của
họ phía Tây Trường Sơn sống trong loạn lạc. Năm 1587, người Ai Lao từ
cao nguyên Sébang Hien tiến xuống chiếm thung lũng Sedon, Sekong, Sesan,
Sesu (tả ngạn sông Mékong) và được người Sedang tiếp sức, đánh đuổi các
bộ lạc Pacoh, Brilar, Halang lên các khu rừng rậm và núi cao phía Ðông
của Ðại Việt. Người Ai Lao còn tràn vào thung lũng sông Srepok của Chân
Lạp, chiếm cứ khu vực sinh sống của người Bahnar và Djarai dựng làng
Bandon. Ðến đầu thế kỷ 17, cuộc Nam tiến của người Ai Lao dừng lại trên
cao nguyên Darlac. Năm 1601, người Djarai, được Chân Lạp hỗ trợ, đẩy
quân Ai Lao lui về phía Bắc. Quan hệ giữa người Khmer và Djarai được
thiết lập và kéo dài cho đến năm 1860 khi các giáo sĩ Pháp đến cao
nguyên.
Quan hệ với người Kinh
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, người
Thượng là nạn nhân trực tiếp hay gián tiếp của các thế lực tranh chấp.
Mỗi khi thua trận quân chúa Trịnh hay chúa Nguyễn thường rút lên vùng
núi phía Tây lẩn tránh; phe thắng trận truy kích theo, đánh tràn vào các
bản làng Thượng và bắt dân Thượng khuân vác quân dụng và nộp lương
thực. Nhiều nhóm Thượng đã phải chạy qua xứ Nam Chưởng (trước kia là
Láng Cháng, Bắc Lào) lánh nạn.
Trong thế kỷ 17, người Thượng (Raglai và
Churu) và người Chăm tiếp tục kết hợp cùng nhau chống lại cuộc Nam tiến
của các chúa Nguyễn. Năm 1629, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên tiến quân
vượt sông Ðà Rằng, thành lập Trấn Biên dinhđến tận chân núi Thạch Bi
(đèo Cả). Vua Chăm Po Romé bị thua phải giảng hòa và xin cưới con gái
thứ ba của Sãi Vương là công chúa Ngọc Khoa, cũng là vợ thứ ba và là vợ
út của Po Romé, gọi là Po Bia út, tức hoàng hậu Akaran (vợ thứ nhất là
Po Bia Suthi, người Chăm con vua Po Ehklang, không có con trai; vợ thứ
hai là con một tù trưởng Rhadé ở Attopeu tên Po Bia Tanchan).
Năm 1697, người Ðá Vách (Hré, Ktu,
Pacoh, Bru) phía tây Bình Trị Thiên nổi lên phản đối sưu cao thuế nặng.
Năm 1714, Trà Xuy (một người Hré) lãnh đạo dân Thượng phía Tây Cam Lộ
kiểm soát một vùng đất rộng lớn phía Tây Quảng Trị. Năm 1722, người Hré
tiến chiếm Minh Linh (còn gọi là Hồ Xá thuộc tỉnh Quảng Trị), chúa
Nguyễn Phúc Chu cử Nguyễn Ðăng Khoa đi đánh dẹp nhưng bị chết trong đám
loạn quân. Quân Thượng hùng cứ khu vực cận sơn cho đến 1760 khi Nguyễn
Cư Trinh làm tuần phủ Quảng Ngãi, ông phải mượn sự tích Sãi Vãi để khích
động tinh thần binh sĩ mới dẹp yên được người Thượng. Nguyễn Cư Trinh
thành lập Quảng Ngãi đồn dinh gồm sáu đạo canh phòng các vùng cận sơn và
áp dụng chính sách dân vận để thu phục người Ðá Vách.
Năm 1765, Ðịnh vương Nguyễn Phúc Thuần
thành lập trấn Ðiện Bàn tại Quảng Nam và cho xây dựng một trường lũy
(tường thành bằng đất bện tre, có hố chông bằng cây tầm vông hay tre già
vót nhọn) từ Trà Mi (Quảng Nam), Trà Bồng, Nghĩa Hạnh, Minh Long, Ba Tơ
(Quảng Ngãi) đến An Lão, Hoài nên, Phù Mỹ (Tây Bắc Bình Ðịnh) đề phòng
người Thượng. Năm 1770, khâm sai Trần Ngọc Chu mới dẹp yên được loạn Ðá
Vách, nhưng kéo dài lâu. Năm 1773, quân Thượng lại nổi lên ở Quảng Nam
và Quảng Ngãi chống lại chính sách phân biệt đối xử. Năm 1775 tại Hải
Lăng, hai lãnh tụ Lâm và Mộc, người Tà Ôi, lãnh đạo cuộc kháng chiến ở
các huyện Cam Lộ, Ðăng Xương, Minh Linh chống lại chúa Trịnh.
Trong cuộc nội chiến Tây Sơn-chúa
Nguyễn, cao nguyên Trường Sơn là nơi ẩn lánh của phe thua trận và là hậu
cứ cho những cuộc tiến quân khác của các phe lâm chiến. Năm 1771, anh
em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ nổi lên tại Tây Sơn, một làng
trên cao nguyên An Khê thuộc tỉnh Bình Ðịnh, lãnh địa của người Bahnar.
Phong trào Tây Sơn được người Bahnar, Hré, Kor, Sedang, Rhadé, Djarai và
nhiều nhóm Thượng khác bên Lào giúp người và giúp của. Nhiều tù trưởng
Thượng tại Bình Ðịnh còn gả con gái cho anh em Tây Sơn làm hầu thiếp.
Quân Tây Sơn có ba đạo: một đạo gồm toàn người Hoa (đa số là quân cướp
biển), một đạo gồm toàn người Thượng (do tù trưởng Bok Kiom, người
Bahnar, chỉ huy) và người Chăm, hai đạo này họp thành tả quân và hữu
quân; đạo thứ ba gồm toàn người Kinh họp thành trung quân. Khi Nguyễn
Huệ hai lần mang quân ra Bắc (1788-1789), binh sĩ Thượng và Chăm đã tỏ
ra đắc lực trong việc vận chuyển người và lương thực. Nguyễn Huệ mất năm
1792, người Thượng tiếp tục ủng hộ Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng chống
lại chúa Nguyễn nhưng cuối cùng vẫn bị đánh bại. Sợ bị Gia Long trả
thù, con cháu nhà Tây Sơn chạy lên cao nguyên lẩn tránh và được người
Sedang hết lòng che chở. Từ đó cộng đồng người Thượng bị canh phòng
nghiêm nhặt, mọi quan hệ với đồng bằng đều bị cắt đứt.
Năm 1804, hai năm sau khi lên ngôi, Gia
Long cho dựng lại các tuyến phòng thủ phía Tây Quảng Nam, Quảng Ngãi,
gọi là Trấn Man (nơi ngăn giữ người Man), nay là Ðiện Bàn, gồm 4 nguyên:
Ðà Bồng, Cù Bà, Phù Bà và Ba Tơ và 5 đạo. Nguyễn Công Trứ và Nguyễn
Khắc Tuân củng cố tuyến phòng thủ này với sự thành lập nhiều đồn lũy tại
những nơi trọng điểm, nhiều khu dinh điền và đồn điền đưa dân đồng bằng
lên khai thác, đồng thời giáo hóa một số bộ lạc Thượng ven ranh nghề
canh tác lúa nước và chăn nuôi. Năm 1819, tả quân Lê Văn Duyệt xây thêm
Tịnh Man Trường Lũy (thành lũy để dẹp yên giặc Man) bằng đá và đất cao 2
thước, dầy 1 thước, dài trên 90 cây số, từ Trà Bồng qua Sơn Trà, Minh
Long phía đông Ba Tơ (Quảng Ngãi) đến Nước Giao, Gò Bùi thuộc An Lão
(Bình Ðịnh) để ngăn chặn người Thượng. Mặt ngoài trường lũy có hào chông
và hàng rào cây với 115 đồn, mỗi đồn có 10 lính canh.
Quan hệ với triều Nguyễn
Do bị cắt đường liên lạc với đồng bằng
miền Trung, tình hình trên cao nguyên rất là loạn lạc dưới triều nhà
Nguyễn và đời sống của người Thượng trở nên cơ cực vì bị người Nam
Chưởng và Xiêm La ức chế. Người Bahnar rút về phía Ðông dọc sông Bla
sinh trú, người Halang trốn lên đỉnh núi Mang Rai, người Rhadé Kpa chạy
về phía Nam hồ Taklak (Lạc Thiện) lập nghiệp, người Chom Puon và Brao
sinh sống dọc đèo Lao Bảo ẩn vào rừng sâu, người Mnong Bhiet di tản sang
Kratié. Nhiều nhóm đã bị diệt chủng hay bị đồng hóa, đến nay không còn
dấu tích. Tại một số nơi, quân Xiêm La còn xúi người Thượng đánh phá các
làng ven núi của người Việt để bắt người và cướp lương thực.
Trước sự đe dọa của Xiêm La, năm 1827 tù
trưởng Chiêu Nội dẫn 3.000 dân đinh chạy qua Ðại Việt xin bảo hộ và
dâng luôn 28 sở ruộng ở Kham Mouan làm nội thuộc. Minh Mạng đổi tên Kham
Mouan thành Trấn Ninh và phong Chiêu Nội làm Trấn Ninh phòng ngự sứ,
cai quản 7 huyện và phong các thổ mục làm thổ tri huyện và thổ huyện
thừa. Tin Ðại Việt chịu bảo hộ và giúp các thổ dân chống lại Xiêm La và
Nam Chưởng loan đến các nhóm thiểu số khác tại Ai Lao. Tù trưởng Tam
Ðộng (Tourakom) và Lạc Phán (Pak Sane) trước kia trực thuộc Vạn Tượng
cũng dâng đất xin nội thuộc, Minh Mạng liền chia làm hai phủ: Trấn Tĩnh
và Lạc Biên và giao cho các đầu mục bản địa cai quản. Về sau có thêm tù
trưởng các xứ Xa Hổ (Sa Noi), Sầm Tộ (Sam Teu), Mang Soan (Mouan Som),
Mang Lan (Mouan Ham), Trình Cố (Xieng Khoan), Sầm Nứa (Sam Neua), Mường
Duy (Mouan Yut), Ngọc Ma (Na Noi), Cám Cát (Kham Keut), Cam Môn (Kham
Mouan) và Cam Linh (Kham Len) về xin nội thuộc, tất cả đều được vua Minh
Mạng nhận bảo hộ và phong quan. Minh Mạng lập thêm ba phủ: Trấn Biên
(Xa Hổ, Sầm Tộ, Mang Soạn và Mang Lang), Trấn Ðịnh (Cam Cát, Cam Môn và
Cam Linh) đặt dưới sự quản lý hành chánh của Nghệ An, còn phủ Trấn Nam
(Trình Cố, Sầm Nứa và man Duy) trực thuộc Thanh Hóa. Các nhóm Mường và
Hmong (Mèo) sinh sống tại Mang Vang (Na Khang), Na Bí (Prasie), Thượng
Kế (Keng Kok), Tả Bang (Ta Lam), Xương Thịnh (Song Khone), Tầm Bồn
(Tchépone), Bà Lan (Pha Lane), Mang Bổng (Mouan Phin) và Lang Thời (Phak
Kha Nhia) cũng xin về nội thuộc, được chia làm 9 châu do các đầu mục
cai quản, trực thuộc Cam Lộ. Như vậy toàn bộ lãnh thổ miền Trung Lào
(Vientiane, Xieng Khoang, Hua Phan, Bolikhamsay, Kham Moun và
Savanakhet) đều nội thuộc Ðại Việt.
Người Thượng sinh trú tại vùng Hạ Lào
thường bị người Thái hiếp đáp cũng chạy qua Ðại Việt cầu cứu. Từ 1829
trở về sau, vua Thủy Xá của người Djarai thường sai người mang lễ vật
triều cống và được ban tặng lại áo mão, tước phẩm triều đình và mang họ
do vua đặt. Nhưng đời sống cửa người Thượng ngày càng khó khăn, lễ vật
triều cống thưa dần rồi ngưng hăn, thỉnh thoảng họ còn tràn vào các làng
xã của người Việt tại vùng giáp núi để cướp lương thực. Năm 1863, vua
Tự Ðức phong Nguyễn Tấn làm tiểu phủ sứ Trấn Man để ngăn chặn người
Thượng. Nguyễn Tấn đổi Trấn Man thành Nghĩa Ðịnh Sơn Phòng Trấn, ghi
chép những phong tục tập quán, ngôn ngữ của người Thượng để quan quân
học tập. Sơn Phòng Trấn gồm bốn châu: Trà My, Nghĩa Hành, Ðức Phổ và
Bồng Sơn. Năm 1866-1867, các bộ lạc lớn của người Thượng xin thần phục,
đến năm 1869 thì tất cả các bộ lạc nhỏ ở vùng rừng sâu phía tây An Lão
(Bình Ðịnh) đều ra hàng. Con cháu Nguyễn Tấn là Nguyễn Ðộ và Nguyễn Thân
tiếp tục cai trị Sơn Phòng Trấn cho đến năm 1891. Vua Tự Ðức ra chỉ dụ
nới rộng lãnh thổ lên các vùng trung nguyên, chương trình này sau đó bị
đình chỉ vì triều đình Huế phải tập trung sức lực đối phó với quân Pháp
đang làm áp lực trên khắp lãnh thổ.
Sổ bộ về dân số người Thượng thời Nguyễn
không có vì người Thượng không có họ mà chỉ có tên. Dưới thời Tự Ðức,
để tiện việc ghi chép, các quan lại triều đình (chánh tổng và tổng nguồn
là những chức quan cai trị vùng Thượng) đặt cho mỗi làng Thượng một họ
Việt chung tùy theo suy luận của mỗi người, chăng hạn như Ðinh (tráng
đinh), Hồ (loạn quân), Man (dã man) v.v… Từ đó người Thượng vùng Nam
Ngãi đều mang họ Ðinh, người Vân Kiều mang họ Hồ, người Thượng ở Bình
Ðịnh và Phú Yên mang họ Man, v.v…
Sự hiểu biết về người Thượng chỉ rõ dần
khi người Pháp mở rộng lãnh thổ lên cao nguyên. Công lao đầu tiên thuộc
về các giáo sĩ, tiếp theo là của những nhà phiêu lưu, mạo hiểm. Những
ghi chép của họ đã giúp chính quyền thuộc địa Pháp dễ dàng cai trị cao
nguyên. Người Việt sau này, thừa hưởng di sản hiểu biết đó, đã không
biết làm thăng hoa thêm.
II. Người Thượng và những phong trào phản kháng dưới thời Pháp thuộc
Từ giữa thế kỷ 16 người Việt bắt đầu
tiếp xúc giáo lý đạo công giáo, số người theo đạo càng ngày càng đông,
nhiều họ đạo lớn được thành lập. Nhưng từ thế kỷ 19 trở về sau, đạo công
giáo bị bách hại, phong trào tìm đường lên cao nguyên lánh nạn trở nên
mạnh mẽ, cộng đồng người Thượng qua đó đã được biết đến.
Sự xâm nhập của người Pháp, và của người
Kinh sau này, vào không gian sinh tồn của người Thượng là tiền đề của
những phong trào hợp tác hay phản kháng của người Thượng.
Quan hệ với các giáo sĩ Pháp
Tại Việt Nam, người Thượng đã được các
giáo sĩ phương Tây biết đến từ thế kỷ 17. Năm 1621, giáo sĩ Borri gọi
chung những nhóm dân cư phía Bắc Nam Phần là Kemoy (Kẻ Mọi). Giáo sĩ
Marini Romain đề cập tới các vua Hỏa Xá và Thủy Xá (người Djarai) từ
1646. Năm 1651, giáo sĩ Alexandre de Rhodes xác nhận xứ Rumoi (Rú Mọi)
nằm ở giữa Lào và Annam. Trong thế kỷ 18, giáo sĩ João de Loureiro xuất
bản cuốn De nigris Moi et Champanensibus (Người Mọi đen và Champa); giáo
sĩ De La Bissachère lội ngược sông Mékong lên phía Bắc và khám phá các
nhóm Thượng sinh sống dọc hai bờ sông. Năm 1765, giáo sĩ Pigues lên đến
thượng nguồn sông Prek Chlong (Kampuchea) và tiếp xúc với các nhóm
Stieng, Proue, Queraie, Penong, v.v…, rồi trở về không. Năm 1770, giáo
sĩ Juguet vào Prek Chlong giảng đạo cho người Stieng rồi chết vì kiệt
sức (1774). Tháng 5-1775, giáo sĩ Faulet thành lập họ đạo Chlong rồi
cũng chết vì bệnh sốt rét rừng (1776). Sang thế kỷ 19 những hiểu biết về
Tây Nguyên rõ ràng dần; khi thiết lập Ðại Quốc Họa Ðồ năm 1838, giáo sĩ
Taberd dùng chữ mọi để chỉ những nhóm dân sinh sống trên cao nguyên
Trường Sơn. Tuy vậy, những cố gắng này không có tiếp nối.
Phải chờ đến thời Tự Ðức, việc cấm đạo
trở nên dữ dội ở đồng bằng, cố gắng tìm đường lên cao nguyên mới được
hồi sinh. Tại Tây Nam Phần, năm 1857, giám mục Lefèbvre cho người vào
nơi sinh trú của người Stieng, phía Tây Bắc Gia Ðịnh, tìm nơi trú ẩn và
năm 1861, giáo sĩ Azémar thành lập được họ đạo Brơlam (Bình Long) nhưng
bị Pou Kombo (một lãnh tụ Khmer) đốt năm 1867. Giáo sĩ Vuillaume, khi
trốn các cuộc lùng bắt đạo tại Phan Rang năm 1865, đã chạy lên cao
nguyên Di Linh sinh sống với người Mạ và Sré.
Nhưng sự khám phá Tây Nguyên và người
Thượng chỉ qui mô hóa từ giữa thế kỷ 19. Tại Trung Phần, năm 1847, giám
mục cai quản giáo phận Ðông Nam Phần tại Bình Ðịnh, Etienne Cuénot cử
ông Nguyễn Do, một tín đồ người Kinh, đi từ Trạm Gò đến An Khê vào lãnh
thổ người Djarai Hadrong. Năm 1850, Nguyễn Do dẫn bốn giáo sĩ Pháp
(Combes, Fontaine, Dourisboure, Besombes) vào nơi cư trú của người
Bahnar, Rengao, Sedang và thiết lập các họ đạo tại Kon Xolang, Kon Koxam
và Kon Rohai. Khi về đồng bằng mỗi phái đoàn vẽ lại bản đồ và ghi chú
chi tiết phong tục tập quán của từng nhóm sắc tộc đã tiếp xúc. Ðó là
những tài liệu về cao nguyên miền Trung chưa từng được biết. (Năm 1776,
khi vào Nam kiểm kê, Lê Quí Ðôn có ghi lại một số quan hệ giữa các vua
Hỏa Xá và Thủy Xá với triều đình xứ Ðàng Trong, nhưng những mô tả này
chỉ dựa trên lời thuật chứ không do giao tiếp trực tiếp).
Trong thời kỳ này người Sedang, Djarai
và Stieng còn rất hiếu động, họ thường đánh bắt người Bahnar Reungao,
Sedang Halang và Mnong Bhiet bán làm nô lệ cho người Thái và người Lào.
Năm 1862, nhân bệnh đậu mùa làm chết nhiều người trên cao nguyên, các
thầy phù thủy Thượng cho rằng sự hiện diện của các giáo sĩ Pháp là
nguyên nhân của tai ương và kêu gọi dân chúng nổi lên đánh đuổi. Khoảng
400 quân Sedang từ phía Bắc tràn xuống tấn công các làng công giáo
Bahnar. Các bộ lạc Djarai từ phía Nam sông Bla cũng tiến lên chiếm đóng
khu vực canh tác của người Bahnar. Năm 1871, một đàn châu chấu bay đến
phá hoại tất cả mùa màng của người Thượng gây ra nạn đói, các tù trưởng
Djarai và Sédang lại hô hào dân chúng nổi lên đốt phá các làng đạo
Bahnar.
Cũng nên biết Bahnar là nhóm sắc tộc đầu
tiên, sau người Kinh, có chữ viết dựa theo mẫu tự la-tinh do các giáo
sĩ dòng Thừa Sai soạn năm 1861. Trước sự đe dọa này, các giáo sĩ Pháp
giúp người Bahnar chống trả lại và còn thành lập một đội võ trang gồm
1.200 người năm 1883 để đánh trả lại những cuộc tấn công của các nhóm
khác.
Sự hiện diện của các giáo sĩ công giáo
làm thay đổi hăn tương quan quyền lực trên Tây Nguyên. Người Bahnar
trước kia là nạn nhân của người Djarai và Sedang nay biết tự vệ hữu hiệu
hơn. Thêm vào đó, các giáo sĩ Kinh còn dạy cho người Bahnar cách trồng
lúa nước, bắp, cây bông gòn và nghề chăn nuôi (heo, bò, trâu, ngựa, gà,
vịt). Ðời sống của người Bahnar nhờ đó đã được cải thiện hơn, không bao
lâu sau dân số Bahnar tăng nhanh và trở thành một nhóm hùng mạnh.
Ðầu năm 1888, toàn quyền Constans và
tổng thư ký Klobukowski cử David Mayréna (một tay phiêu lưu khôn ngoan
và gan dạ) lên Attopeu tìm vàng. Mayréna được các giáo sĩ Pháp giúp đỡ
tận tình và nhờ tài bắn súng rất hay, đánh kiếm rất giỏi đã chinh phục
hầu hết các làng Sedang tại Dakto. Sau thành công dễ dàng này, Mayréna
thành lập vương quốc Sedangê ngày 3-6-1888, có hiến pháp, có quốc kỳ và
huy hiệu riêng. Mayréna tự xưng là êMarieÐệ Nhất, vua người Sedangê.
Không chịu thua, ngày 20-6-1888, các
giáo sĩ Pháp cũng cho ra đời Liên Bang Bahnar-Reungao-Sedang, phong một
lãnh tụ Bahnar tên Krui làm tổng thống Cộng Hòa Bahnarê. Liên bang mới
này liên hiệp với vương quốc Sedang tuyên chiến với người Djarai.
Danh tiếng của Mayréna đe dọa uy quyền
của Xiêm La, lúc đó gần như đặt trọn Tây Nguyên dưới quyền kiểm soát, và
làm chính quyền thuộc địa Pháp tại Ðông Dương lo ngại; cả hai tìm cách
triệt hạ ảnh hưởng của Mayréna trên phần đất này.
Nhân một chuyến du hành sang Châu Âu tìm
hậu thuẫn tháng 1-1889, Mayréna bị cấm trở về Ðông Dương và chết cô đơn
trên một hòn đảo ngoài khơi vịnh Thái Lan (tháng 11-1890). Tháng
3-1889, công sứ Qui Nhơn Guiomar lên Kontum giải tán vương quốc Sedang
và khuyên người Thượng gia nhập Liên Bang Bahnar-Rengao do Hội truyền
giáo Kontum cai quản. Ðiều này không làm hài lòng người Sedang, Djarai
và Rhadé, họ rút vào rừng sâu tổ chức chống phá sự hiện diện của Pháp.
Kể từ đó cao nguyên miền Trung trở nên mất an ninh và chính quyền thuộc
địa Pháp thay mặt giáo hội công giáo bảo vệ các làng đạo, đồng thời mở
rộng tầm kiểm soát trên khắp Tây Nguyên.
Chống phá sự xâm nhập của người Pháp
Mục tiêu chiến lược của Pháp trong thời
kỳ này là loại trừ ảnh hưởng của Xiêm La, mở rộng lãnh thổ về phía Tây,
thiết lập vòng đai bảo vệ quyền lợi lâu dài của Pháp tại Ðông Dương. Ðể
thực hiện, chính quyền thuộc địa Pháp tổ chức dọ thám các vùng đất lạ,
đo đạc địa hình và ghi chép phong tục tập quán của người Thượng; xây
dựng hệ thống đồn bót và cơ quan hành chánh tiền phong để cai trị và vô
hiệu hóa sự chống đối của các nhóm Thượng bất phục tùng.
Sự xâm nhập của quân đội Pháp vào sâu
trong nội địa Ðông Dương, nhất là sau khi đuổi quân Xiêm sang bên kia bờ
hữu ngạn sông Mékong và thành lập nước Lào dưới sự bảo hộ của Pháp
tháng 10-1893, làm nổ bùng một phong trào phản kháng dữ dội trên khắp
cao nguyên, từ 1893 đến 1914.
Tại Nam Lào, năm 1901, Khomadan, một
người Phù Thái đồng thời cũng là thầy pháp, kêu gọi dân chúng nổi lên
chống Pháp trên cao nguyên Boloven, từ Oubon đến Bassac. Ðầu năm 1902,
người Kha và Sedang giết đồn trưởng Henri tại Nongpol, giết cai đội
Sicre tại Kapeu, tấn công Savannakhet, bao vây Saravane. Chính quyền
thuộc địa Pháp phải cử nhiều đoàn quân chính qui lên Nam Lào tái lập an
ninh nhưng quân của Khomadan cầm cự cho tới 1907 mới bị vô hiệu hóa.
Tại Bình Trị Thiên, phong trào Cần Vương từ 1888 lôi kéo một số khá đông người Thượng chống lại quân Pháp cho đến 1897.
Năm 1898, Pháp tiếp thu hệ thống phòng
thủ cao nguyên của triều Nguyễn (Sơn Phòng Trấn). Người Thượng trước kia
được hưởng qui chế độc lập với triều đình Huế nay bị đặt dưới quyền
quản trị trực tiếp của Pháp đã đứng lên chống lại. Tháng 6-1901, người
Ktu tại A Sơ, A Dong và A Bạc tấn công đồn An Ðiềm (Ðại Lộc, Quảng Nam)
gây thương tích cho nhiều binh lính. Năm 1903, người Hré do Tổng Ren và
Tia Các cầm đầu đánh phá các đồn Mang Gia, Nước Vo và Nước Dinh (Quảng
Ngãi); tháng 4-1907 họ đánh phá Ðức Phổ, tháng 11 chiếm đồn Ðồng Mít
(Quảng Ngãi) và chỉ bị dẹp yên cuối năm 1910. Người Tà Ôi nổi lên sát
hại nhiều sĩ quan và binh lính Pháp trên thượng nguồn sông Sé Pouc
(Quảng Trị và Thừa Thiên) năm 1911.
Trên vùng đất giữa Attopeu và Kontum, từ
1900 đến 1910, người Sedang chống phá dữ dội sự xâm nhập của quân Pháp
vào xây dựng đường sá. Năm 1900, lãnh tụ Thăng Mậu dẫn quân Sedang tấn
công các làng công giáo dọc hai bờ sông Psi và Poko tại Kontum, gây
thương tích cho nhiều binh lính Pháp. Từ tháng 5 đến tháng 6-1901, người
Sedang tấn công đồn Psi, bắn trọng thương đồn trưởng Robert. Những làng
công giáo khác trong khu vực (Dak Drei, Dakto và Krong Kno) cũng bị
đánh phá thường xuyên và chỉ tạm yên năm 1902 khi Pháp đem quân chủ lực
lên đánh dẹp. Năm 1904, họ tấn công nhiều đồn bót và làng xã dưới sự bảo
trợ của quân đội Pháp trong vùng. Tháng 2-1907, phong trào nổi dậy của
người Sédang tại Plei Beer bị dập tắt. Năm 1909, hai đồn Dak Sut và Dak
To bị chiếm đóng, linh mục Jules Vialleton quản hạt Kontum bị giết.
Tháng 8-1910, quân Sedang tràn vào Trà Mi,Trà Giác, Toumorong, Mang Buk,
Mang Ri và Tiên Phước (Tây Nam Quảng Nam), đánh phá rồi rút đi. Năm
1921, đồn Dak Pha phía Bắc Kontum bị tấn công.
Tại Kontum, người Bahnar qua trung gian
các giáo sĩ tỏ ra qui phục hơn các nhóm khác, nhưng sau một thời gian bị
bóc lột (làm sâu không công, các chủ đồn điền chiếm đất một cách quá
đáng) và bị các bộ lạc Thượng khác thù ghét, người Bahnar đã nổi lên
chống lại. Tháng 1-1901, họ chiếm làng Kon Chorah (An Khê, Bình Ðịnh)
rồi rút về tử thủ tại làng Plei Bring gần Chợ Ðồn. Tháng 1-1907, quân
Pháp bị đẩy lui tại làng Kon Klot, viên giám đốc đồn điền Delignon-Paris
bị bắn chết và nhiều binh lính khác bị thương; phong trào chống đối chỉ
bị dẹp yên khi đại quân Pháp từ Bình Ðịnh lên, do cai đội Sauvalle chỉ
huy. Từ 1918, những đồn điền quanh An Khê bị người Bahnar Halakong đánh
phá thường xuyên và chỉ tạm yên năm 1922.
Người Djarai tại Pleiku đã chống trả dữ
dội các cuộc hành quân của Pháp từ cuối 1894 đến đầu 1897. Sau đó, từ
1902 đến 1904, họ tiếp tục chống trả các cuộc hành quân khác của quân
Pháp vào Pleiku và Kontum. Ngày 7-4-1904 viên thanh tra Prosper
Odend’hal bị vua Hỏa Xá Oi Ât giết; Vincillionni tiến vào An Khê thành
lập quận Cheo Reo, Oi Ât phải chạy lên thượng nguồn sông Ayun trốn. Thời
gian sau,viên trú sứ Darlac Bardin xây dựng các đồn Plei Tour và Chợ
Ðồn, đầu năm 1905, để canh chừng người Djarai. Tuy vậy những làng công
giáo vẫn thường xuyên bị người Djarai tấn công, một số giáo dân Kinh,
được trang bị vũ khí tối tân, tổ chức các cuộc hành quân trả thù những
làng Djarai lân cận. Cuối cùng đồn trưởng Chợ Ðồn, Renard, dàn xếp với
hai lãnh tụ Tay (tù trưởng 21 làng Djarai tại Pleiku) và Khun (tù trưởng
7 làng Djarai tại An Khê, hứa thôi truy kích vua Hỏa Xá tình hình mới
yên. Ngày 23-5-1905, 46 trưởng làng và 200 chiến sĩ Djarai quanh An Khê
làm lễ qui phục Pháp tại làng Plei Tay (nơi cư ngụ của Tay, nay là
Pleiku). Tuy vậy chính sách phân biệt đối xử của người Pháp trên Tây
Nguyên (ưu đãi người Bahnar) làm người Djarai bất mãn, từ 1906 đến 1909
họ lại tổ chức tấn công các làng công giáo quanh Pleiku, Plei Kuen, Plei
Bong, Plei Tour và Plei Rach. Tình hình chỉ tạm lắng yên trong hai năm
và đến năm 1911 họ lại nổi dậy đánh phá An Khê.
Cộng đồng người Rhadé được biết đến năm
1894 khi phái đoàn bác sĩ Yersin bị tấn công tại sông Poko bởi người
Rhadé Pih. Từ sau ngày đó, cao nguyên Darlac trở thành địa bàn thám hiểm
chính của Pháp trên cao nguyên. Năm 1899, viên trú sứ hạt Attopeu,
Bourgeois, thành lập đồn Bandon và chiêu dụ được Phet Lasa, một lãnh tụ
Lào tại Bandon (Bản Ðôn), và Khun Jonob, một lãnh tụ Mnong trong vùng.
Cả hai đã giúp Pháp thu phục các lãnh tụ Rhadé Kpa (Me Wal và Me Kheune
năm 1900) và nhiều lần đánh bại người Rhadé Pih do tù trưởng Ngeuh lãnh
đạo tại Ban Tour, Ban Trap và Ban Tieuah năm 1903. Trên thượng lưu sông
Năng, phụ lưu sông Ðà Rằng, năm 1901 quân Pháp bị người Rhadé Mdhur phục
kích tại làng A Mai (gần M’Drack và Cheo Reo) làm một sĩ quan bị thương
nặng (trung úy Péroux), quân Pháp chỉ làm chủ khu vực quanh Dak To. Năm
1905, Me Sao, một lãnh tụ Rhadé Mdhur chiếm đồn Bandon, quân Pháp phải
dời về Buôn Ma Thuột và Bandon chỉ được giải tỏa năm 1907, khi Me Sao bị
Henri Maitre đánh bại tại làng Me Leap.
Trên cao nguyên miền Nam, cường độ những
cuộc chống đối có phần cao hơn miền Trung. Người Mnong và Stieng đã tỏ
ra rất tích cực trong việc chống lại sự xâm nhập vào không gian sinh tồn
của họ.
Sự khám phá cao nguyên Lang Bian vào
cuối thế kỷ 19 kích thích phong trào xây nhà dựng cửa nghỉ mát tại Ðà
Lạt. Nhiều đoàn thám hiểm được cử đi khắp nơi đo đạc địa hình. Bất mãn
trước chính sách bắt dân Thượng làm sâu xây dựng đường sá quá đáng, đầu
năm 1901 lãnh tụ Tre Lương Pe hô hào người Chil và Lat tại Lang Bian nổi
lên chống lại và gây thương tích cho viên chỉ huy trưởng Canivey và
nhiều binh lính khác, nhưng vì sức yếu thế cô phong trào bị dẹp tan hai
tuần sau sau đó.
Từ 1901 đến 1904, dưới sự lãnh đạo của
Nơ Trang Long (Pou Trang Long), một lãnh tụ Mnong Bhiet, người Stieng và
Mnong đã chống trả dữ dội sự xâm nhập và gây nhiều thiệt hại cho quân
Pháp trên một địa bàn rộng lớn từ Bình Long, Tây Ninh đến Kratié. Từ
1905 đến 1908, quân Pháp thành lập một hệ thống đồn bót nối liền với
nhau (Sré Lvi, Sré Ktum, Sré Onès, La Palkei, Le Rolland, Snoul, Bù
Ðăng, Bù Ðốp, An Bình, Bà Rá, Bà Ðen, Chứa Chan, Tà Lài, Bù Nông, Bù
Tiên, Bou Pou Sra, Bou Méra…) bao vây không gian sinh tồn của người
Stieng và Mnong chứ không dám tiến vào. Tháng 7-1914, Henri Maitre bị Nơ
Trang Long giết, người Thượng làm chủ toàn bộ khu vực Ba Biên Giới
(Cambodge, Nam Kỳ và Trung Kỳ) từ 1915 đến 1933. Rất nhiều sĩ quan Pháp
và binh lính Khmer bị giết trong khoảng thời gian này và cộng đồng người
Thượng miền Nam bị đặt ra ngoài pháp luật. Tháng 5-1935, Nơ Trang Long
bị bắt và bị xử tử, phong trào chống Pháp tạm lắng xuống.
Chính sách Thượng vụ của Pierre Pasquier
Ngày 30-7-1923, Pierre Pasquier, khâm sứ
Pháp tại Huế, ban hành chính sách Thượng vụ của Pháp trên cao nguyên
(thông tư số 578-ca): cai trị trực tiếp những vùng đã bình định, bao vây
và cô lập những vùng chưa qui phục.
Ðối với những vùng Thượng đã được bình
định, Pháp cắt đứt quan hệ giữa người Thượng với người ngoại quốc (Kinh,
Khmer, Chăm, Lào, Hoa, Thái và giáo hội công giáo); tôn trọng phong tục
tập quán của người Thượng; xây dựng đường sá, trường học, chợ búa; cố
định nơi cư trú, huấn luyện cách canh tác trên đất bằng; ấn định số ngày
làm sâu (corvée), khai thác và cấp đất cho các đồn điền trồng cây công
nghiệp; tuyển dụng binh lính, đào tạo nhân sự trung gian; lập đồn bót,
xây dựng cơ quan công quyền; đàn áp các phong trào nổi loạn và đòi tự
trị; tổ chức những buổi lễ truyền thống hàng năm nhận sự qui phục của
người Thượng.
Nói thì dễ nhưng làm rất khó, người
Thượng chưa sẵn sàng hợp tác với Pháp vì không muốn bị gò bó vào cuộc
sống lệ thuộc. Thêm vào đó giáo hội công giáo bị loại ra khỏi mọi chương
trình phát triển cao nguyên, quan hệ hợp tác giữa các giáo sĩ và viên
chức chính quyền trong việc mở mang cao nguyên gần như không có. Giáo
hội công giáo đặt nặng chương trình giáo dục thần linh, văn hóa và nhân
đạo, trong khi chính quyền chú trọng vào việc đào tạo nhân sự trung gian
hơn là khai hóa người Thượng về mặt kinh tế và xã hội. Hậu quả là các
giáo sĩ chỉ lo cho người Bahnar và chính quyền Pháp chỉ giúp người
Rhadé, các nhóm khác tùy thuộc mức độ phục tùng mà nhận sự giúp đỡ.
Người Rhadé, vừa đông vừa có thể lực
được giới chính giới Pháp nhiệt tình nâng đỡ, đã trở thành nhóm ưu tú
nhất trong cộng đồng người Thượng. Người Djarai và Sedang, mặc dù cũng
đông dân và thân thể cường tráng, nhưng không được ưu đãi bằng vì trước
kia đã chống lại người Pháp. Tuy vậy ba cộng đồng lớn này là cột trụ
chính trong chính sách Thượng vụ của Pháp trên cao nguyên. Con cháu các
nhân sĩ Rhadé, Djarai và Sedang trong làng được tuyển chọn vào học các
lớp huấn luyện văn hóa, y tế và quân sự để thay thế các bậc cha anh và
trở thành giai cấp trung gian giữa chính quyền Pháp và quần chúng
Thượng. Những thanh niên này còn được huấn luyện để nghi kỵ và thù ghét
người Kinh và, khi cần, cầm súng chống lại người Kinh. Quan hệ giữa
người Kinh và người Thượng trong giai đoạn này chính vì vậy rất là lạnh
nhạt, đúng như người Pháp mong muốn.
Năm 1932, tiểu đoàn chính qui lính
Thượng (1er Bataillon des Tirailleurs Montagnards du Sud Annam) đầu tiên
được thành lập, gồm một đại đội chỉ huy gồm toàn người Rhadé đóng ở
Buôn Ma Thuột, một đại đội toàn người Rhaựdé đóng ở Buôn Djen Drom, một
đại đội toàn người Djarai đóng ở Pleiku và một đại đội toàn người Sedang
đóng ở Kontum. Tiểu đoàn này có nhiệm vụ phụ giúp người Pháp đào tạo
các tân binh Thượng được tuyển dụng sau này. Từ 1933 đến 1942, năm tiểu
đoàn chính qui khác được thành lập để giúp Pháp bình định những khu vực
chưa qui phục, với tổng quân số 2.172 người gồm đủ mọi sắc tộc Thượng.
Bộ chỉ huy các lực lượng này, do sĩ quan Pháp điều khiển nhưng người
Rhadé nắm vai trò điều động, đóng tại Buôn Ma Thuột. Binh lính Thượng bị
cấm mang vợ Việt lên cao nguyên sinh sống sau khi mãn dịch.
Thập niên 1930 có lẽ là thập niên yên
bình và hạnh phúc nhất của người Thượng, Tây Nguyên phát triển với nhịp
độ nhanh để bắt kịp đồng bằng. Người Thượng được sinh hoạt và canh tác
tự do theo phong tục và tập quán của họ. Hệ thống đường bộ, phi đạo, nhà
cửa, dinh thự, cơ sở hành chánh, trường học được tu bổ và xây dựng thêm
rất nhiều. Năm 1932, Pháp còn cho xây nhiều khám lớn tại Buôn Ma Thuột,
Dak Pek và Lao Bảo để giam giữ những tù nhân chính trị gốc Kinh, trong
đó nhiều cán bộ cách mạng của Việt Nam Quốc Dân Ðảng và Việt Minh. Giáo
hội công giáo cũng nhân dịp xây thêm nhà thờ, tu viện, trường học và cơ
sở từ thiện để tăng cường sự hiện diện.
Hội Trồng Trọt Pháp được thành lập năm
1930 để bảo vệ quyền lợi các chủ đồn điền và đưa người Việt lên cao
nguyên làm việc. Tuy vậy, đối với người Việt, Tây Nguyên vẫn là vùng sơn
lam chướng khí, ít người dám lên định cư nên sau khi mãn hạn hợp đồng
(quân sự, hành chánh và kinh tế), di dân Việt thường về lại đồng bằng
sinh sống.
Việc cấp phát đất quá đáng cho các chủ
đồn điền trên cao nguyên khiến chính quyền Pháp tại mẫu quốc ra lệnh cho
ủy Ban Guernut sang Ðông Dương điều tra từ 1937 đến 1938, nhằm hạn chế
việc đưa người Việt lên cao nguyên làm việc, giới hạn diện tích cấp đất
cho các công ty nông nghiệp lớn và thành nhiều khu dự trữdành cho người
Thượng.
Giữa hai làn đạn
Từ sau thập niên 1940, cộng đồng người
Thượng sống những ngày đen tối. Cuộc sống tự do giữa thiên nhiên bị chấm
dứt, người Thượng bị lôi cuốn vào những tranh chấp mà họ không chủ động
và còn kéo dài cho tới ngày nay.
Năm 1941, chính quyền thuộc địa Pháp
buộc phải hợp tác với Nhật quản trị Ðông Dương. Lợi dụng tư cách đồng
minh với Nhật, tháng 5-1941 Thái Lan xua quân qua sông Mékong chiếm lại
những phần đất đã nhượng cho Pháp năm 1893 (Ðông-Bắc Cambodge và Nam
Lào). Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp tại Ðông Dương, toàn bộ nhân
viên dân sự, quân đội và các chủ đồn điền Pháp bị bắt; một số đơn vị
quân sự Pháp trốn sang Lào và lên Vân Nam, trong đó tiểu đoàn 4 và 5
Thượng.
Trên cao nguyên, quân đội Nhật kiểm soát
trực tiếp binh lính Thượng do Pháp đào tạo và toàn bộ hệ thống giao
thông để chuyển vận người và vũ khí. Một số làng Thượng được Nhật trang
bị để dẫn họ di chuyển trong rừng sâu. Khẩu hiệu á Châu của người á Châu
của Nhật được một số trí thức Thượng hưởng ứng, nhưng ngày 19-8-1945
giấc mơ này tan biến, Nhật đầu hàng phe đồng minh và người Thượng bị lôi
cuốn vào phong trào Việt Minh.
Sau cuộc đảo chánh ngày 9-3-1945 của
Nhật, các tù nhân chính trị gốc Kinh bị giam giữ trong các nhà giam được
trả tự do, đa số đã về lại đồng bằng nhưng cán bộ Việt Minh đã ở lại
lại vận động trí thức và binh sĩ Thượng theo họ chống Pháp, với hứa hẹn
quyền tự trị khi cách mạng thành công. Hai chữ tự trị như có ma lực hấp
dẫn người Thượng, họ hưởng ứng một cách tận tình. Không cần một cố gắng
nào, phong trào Việt Minh hốt trọn nhiệt tình của dân Thượng, nhất là
những thành phần ưu tú Rhadé và Djarai, mà Pháp đã tốn gần nửa thế kỷ
mới đào tạo được.
Nhân sĩ và binh lính Thượng theo Việt
Minh hô hào dân chúng Thượng chiếm đóng các cơ sở hành chánh và quân sự
của Pháp do Nhật để lại và tham gia những ủy ban hành chánh lâm thời
(tên nhân vật Thượng được đề cập đến trong giai đoạn này vì có liên quan
đến những phong trào chống đối hay ủng hộ người Kinh sau 1954):
– Thị xã Buôn Ma Thuột có các ông Y Ut
Nie Buon Rit, Y Plo Eban, Y Ngong Nie Kdam, Y Wang Nie Kdam, Y Tlam
K’bour, Y Nue Buon Krong, Y Bih Aleo, Y Blieng Hmok (tất cả là người
Rhadé). Trung sĩ Y Sok Eban sau 16 ngày bị giam giữa đã tuyên thệ trung
thành với Việt Minh và được giao nhiệm vụ bảo vệ Buôn Ma Thuột.
– Thị xã Pleiku có ông Rcom Thep (người Djarai).
– Thị xã Kontum có ông Trần Quang Tường,
một người công giáo, làm chủ tịch, và các ông Prem, Deppe (cả hai là
người Bahnar). Ðại đa số người Bahnar công giáo không theo Việt Minh.
– Huyện Buôn Hô có các ông Y Wang Mlo Duon Du, Y John Nie Kdam và Y Yon Ecam (tất cả là người Rhadé).
– Huyện Cheo Reo có các ông Nay Der, Nay
Moul, Nay Phin, Rcom Briu, Rcom Pioi, Rcom Brim, Siu Ken, Siu Nang,
Ksor Ni và các bà Rcom H’dit, Rcom H’trul (tất cả là người Djarai). Phụ
cận Cheo Reo có các ông Rcom John tại Buôn Sam và Kpa Yan tại Plei Kli.
– Huyện Tân Khai (tỉnh Ðồng Nai Thượng)
trong thung lũng Ða Nhim, có các ông Touneh Han Din, Touneh Han Tin, Ya
Yu Sahau, Touprong Hiou, Touprong Ya Ba, Bahnaria Ya Don (tất cả là
người Churu).
Những người không theo Việt Minh và tình
nghi trung thành với Pháp đều bị xử tử, đó là các ông Y Say Ktla, Y Lak
Eban, Y Hong, Y Wan, Y Tum, Y Blam, Y San, Y Tuk, Y Blol, Y Flak, Y Ho,
Y Bung, Hiai, Sui, Gao, Duen, Blon, Sa, Bok, That, Ky, Cecrec, Hny và
rất nhiều viên chức Thượng khác. Nhiều người phải trốn vào rừng sâu như
các ông Y Kju, Y Kao, Y Ang, Touneh Han DÐang.. chờ Pháp đến giải vây.
Chính sách Thượng vụ của Thierry d’Argenlieu
Tháng 8-1945, đề đốc Thierry d’Argenlieu
được cử làm cao ủy Ðông Dương và tướng Leclerc làm chỉ huy trưởng lực
lượng viễn chinh Pháp tái chiếm lại Ðông Dương.
Ngay khi vừa đến Sài Gòn tháng 9-1945,
Leclerc tung các binh đoàn tinh nhuệ nhất của Pháp tái chiếm những tỉnh
và thị xã tại đồng bằng trên tay Việt Minh; tháng 6-1946 quân Pháp lần
lượt chiếm lại những thành phố và thị xã lớn trên cao nguyên miền Trung.
Một số binh sĩ và công chức Thượng theo Việt Minh đã ra qui hàng và
được Pháp trọng dụng trở lại vì thiều người, đó là trường hợp các ông Y
Sok Eban, Y Tuic Mlo Duon Du, Y Bih Aleo, Y Blieng Hmok, Touprong Hiou,
Touprong Ya Ba, Touneh Han Din, Ya Yu Sahau, Bahnaria Ya Don… Chính
trong giai đoạn này, giới lãnh đạo Thượng bị phân hóa, một số theo Pháp
và một số khác theo Việt Minh như các ông Y Ngong, Y Wang, Y Nue, Y
Tlam, Phem, Depp…
D’Argenlieu áp dụng triệt để chính sách
chia để trị, ông cho thành lập Liên Bang Ðông Dương trong Liên Hiệp Pháp
ngày 1-11-1945, Cộng Hòa Nam Kỳ ngày 25-5-1946 và Xứ Thượng Nam Ðông
Dương (Pays Montagnard du Sud Indochinois) ngày 27-5-1946. Xứ này gồm
tất cả những vùng đất có đông người Thượng cư ngụ, thủ đô ban đầu là Ðà
Lạt, sau đó dời về Buôn Ma Thuột, ông Marcel Ner làm thụ ủy. Ðể đánh dấu
sự kiện trọng đại này, d’Argenlieu tổ chức một loạt lễ tuyên thệ (qui
tụ tất cả già làng, binh sĩ, nhân sĩ và trí thức Thượng trung thành với
Pháp) tại Buôn Ma Thuột, Ðà Lạt và Kontum (tháng 6 và tháng 8-1946).
D’Argenlieu tin rằng với sự ra đời của xứ Thượng này Pháp sẽ có tiếng
nói mạnh khi thảo luận với Việt Minh về việc thống nhất Việt Nam trên
bàn các hội nghị sơ bộ tại Ðà Lạt (từ 19-4 đến 11-5-1946) và tại
Fontainebleau (tháng 7 và 8-1946). Trong hội nghị Ðà Lạt lần hai
(8-1946), d’Argenlieu chỉ mời các phái đoàn Nam Kỳ, Nam Trung Kỳ,
Cambodge, Lào và Thượng; Bắc Kỳ và Bắc Trung Kỳ không được mời. Ðại diện
phái đoàn Xứ Thượng Nam Ðông Dương có các ông Y Djac Ayun, Touprong
Hiou, Touneh Han Ðang… tham dự với tư cách quan sát viên. Nhưng ngày
5-2-1947, d’Argenlieu bị triệu hồi về Pháp, Xứ Thượng Nam Dương chết
yểu.
Việt Minh cũng không chịu thua, tháng
1-1946 một đại hội dân tộc được tổ chức tại Hà Nội, trong đó rất nhiều
nhân sĩ Thượng được mời tham dự, trong đó có các ông Y Ngong Nie Kdam, Y
Wang Mlo Duon Du, Nay Der, Nay Phin. Nhiều người khác được cử vào quốc
hội Việt Minh tháng 3-1946: các ông Y John Nie Kdam, Y Klam, Y Thang Nie
Kdam, Y Yan Phong, Y Pe, Y Hing, Y Ni, Rcom Briu, Rcom H’trul, Huk…
Buổi họp quốc hội khóa 2, ngày 29-10-1946, các đại diện Thượng (các ông Y
John Nie Kdam, Y Wang Mlo Duon Du, Nay Phin, Y Ngong Nie Kdam và Y Ut
Nie Buon Rit) chính thức được hứa hẹn qui chế tự trị dành cho người
Thượng. Sự kiện này làm các cán bộ Thượng hài lòng và nhiệt thành hợp
tác với Việt Minh chống Pháp. Tháng 12-1946, lữ đoàn lính Thượng gồm
nhiều sắc tộc được thành lập do các sĩ quan Rhadé chỉ huy. Từ 1947 đến
1954, người Thượng theo Việt Minh gây nhiều thiệt hại cho quân Pháp trên
cao nguyên.
Chính sách Thượng vụ dưới thời Bảo Ðại
Ðể đối phó với tình thế mới, chính quyền
thuộc địa Pháp sử dụng giải pháp Bảo Ðại và thành lập thêm nhiều xứ
Thượng tự trị thân Pháp khác để cô lập phong trào Việt Minh trên chính
trường và cắt đứt mọi chỗ dựa trên các vùng rừng núi với người thiểu số.
Tháng 7-1947, Xứ Thượng Nam Ðông Dương
được khai sinh trở lại do đặc ủy Gigal cai trị. Tháng 3-1948, Liên Bang
Thái Mường (gồm Lai Châu, Sơn La và Lào Cai) được thành lập cùng với Xứ
Thổ (gồm Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn) và Xứ Nùng tại Quảng Ninh. Thỏa
ước ngày 8-3-1949 công nhận quốc gia Việt Nam độc lập trong Liên Hiệp
Pháp, theo đó những sắc dân không phải người Kinhê (non-annamites) được
hưởng qui chế riêng. Ðể thực hiện dự án xứ Thượng tự trị, Pháp dành cho
Bảo Ðại vinh dự chủ tọa cùng với cao ủy Pignon buổi lễ tuyên thệ trung
thành với Pháp của người Thượng ngày 30-5-1949 tại Buôn Ma Thuột. Liền
sau đó, các chuyên viên dân sự và quân sự Pháp soạn thảo nhiều dự án tổ
chức các xứ Thượng.
Ngày 15-4-1950 Bảo Ðại ban hành Dụ số 6
thành lập hoàng Triều Cương Thổê (Domaine de la Couronne), gồm Xứ Thượng
miền Nam và Xứ Thượng miền Bắc, độc lập với các chính quyền đồng bằng.
Ranh giới và diện tích Xứ Thượng miền Nam giống như diện tích và ranh
giới Xứ Thượng Nam Ðông Dương trước kia, gồm một phần lãnh thổ Nam Kỳ,
Trung Kỳ, Cambogde và Lào, với cảng Cam Ranh làm cửa ngõđổ ra Thái Bình
Dương.
Ðối với người Thượng miền Nam hay miền
Bắc, đời sống của họ không có gì thay đổi, các chức vụ tổ chức và quản
trị lãnh thổ mới đều nằm trong tay người Pháp. Qui chế đặc biệt dành cho
Xứ Thượng miền Nam, ký ngày 21-5-1951, dành cho người Thượng nhiều ưu
đãi về quyền sử dụng đất nơi sinh trú. Quân đội hoàng triều gồm toàn
người thiểu số do Pháp đào tạo, trang bị và chỉ huy.
Ðể hạn chế thế lực của người Pháp, Bảo
Ðại ban hành Chương trình phát triển kinh tế Xứ Thượng miền Nam, do
Nguyễn Ðệ soạn thảo, ngày 11-2-1952, theo đó người Kinh được quyền lên
cao nguyên làm việc trong các đồn điền và khai phá đất đai canh tác nông
nghiệp. Ngân sách do Chương trình kỹ thuật và kinh tế đặc biệt của Mỹ
đài thọ, dưới sự hướng dẫn của bác sĩ Herman Marshall. Bị nhiều nhân sĩ
Thượng phản đối, năm 1953 Nguyễn Ðệ đổi thành Chương Trình Công Tác Xã
Hội, nhằm giúp 500.000 người Thượng và 30.000 người Kinh di cư canh tác
an toàn hơn trong những trung tâm định cư cố định, với tên gọi mới là
khu trù mật. Ngân sách vẫn do Mỹ tài trợ.
Qua chương trình này, phong trào Việt
Minh mất địa bàn bám trụ và tìm cách phá hoại. Lợi dụng sự vắng mặt của
quân chủ lực Pháp trên cao nguyên (lúc đó đang tập trung trên vùng
Thượng Du Bắc Việt), quân Việt Minh hô hào dân chúng Kinh Thượng rời bỏ
các khu trù mật và lôi kéo họ tham gia các đoàn dân công tải đạn đánh
Pháp, gây tình trạng mất an ninh thường xuyên trên các trục giao thông
chính, từ đồng bằng lên cao nguyên và quanh các thị xã lớn.
Hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chấm dứt
chiến tranh và phân chia Việt Nam thành hai vùng đối nghịch. Khoảng
120.000 người tập kết ra miền Bắc, trong đó có gần 6.000 người Thượng,
những người này được huấn luyện chính trị và quân sự để trở vào miền Nam
sau 1956 giúp phe cộng sản chuẩn bị một cuộc chiến tranh khác tàn khốc
hơn.
Xứ Thượng miền Bắc, thuộc Việt Nam dân
Chủ Cộng Hòa, được tổ chức thành nhiều vùng tự trị như Khu Thái Mèo tự
trị (29-4-1955), Khu Việt Bắc (10-8-1956), Khu Lào Hạ Yên (25-3-1957)
gồm các tỉnh Lão Cai, Hạ Giang, Yên Bái. Tất cả đều bị giải tán tháng
9-1959 và trở thành những tỉnh bình thường.
Tại miền Nam, qui chế Hoàng Triều Cương
Thổ bị chính quyền Ngô Ðình Diệm bãi bỏ ngày 10-8-1954, Xứ Thượng miền
Nam trở thành một phần lãnh thổ của Việt Nam Cộng Hòa.
Từ sau 1954, cộng đồng người Thượng tiếp
tục bị phân hóa, địa bàn cư trú của họ trở thành những bãi chiến trường
đẫm máu trong cuộc chiến mới. Nhưng người Thượng vẫn không quên đòi
quyền tự trị, một quyền mà họ hằng ao ước từ thời Pháp thuộc; lần này họ
sử dụng những phương thức đấu tranh chính trị và quân sự như người
Kinh, với sự giúp đỡ của người Mỹ và người Khmer.
III . Sự hội nhập khó khăn của người Thượng vào cộng đồng quốc gia Việt Nam
Hiệp định Genève 1954 mở đầu một giai
đoạn hợp tác mới giữa người Thượng và người Kinh trên cao nguyên. Nhưng
sự hợp tác này đã diễn ra không tốt đẹp như mong muốn, người Kinh chưa
quen sinh hoạt bình đăng với người Thượng và ngược lại. Bất hạnh lớn của
người Thượng trong giai đoạn 1954-1975 là nơi sinh trú của họ có một
tầm quan trọng chiến lược trong cuộc chiến Ðông Dương lần thứ hai, bất
cứ phe tranh chấp nào cũng đều muốn làm chủ địa bàn chiến lược này và
lôi kéo cộng đồng người Thượng theo họ chống lại phe kia. Tùy theo những
lượng định thời cuộc khác nhau, cộng đồng người Thượng đã có những phản
ứng khác nhau để rồi dẫn đến cùng một hậu quả: người Thượng không có
tiếng nói trên chính quê hương của họ.
Tây Nguyên những ngày đầu dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa
Cuối tháng 7-1954, thủ tướng Ngô Ðình
Diệm đề nghị quốc trưởng Bảo Ðại hủy bỏ qui chế Hoàng Triều Cương Thổ và
được chấp thuận ngày 10-8-1954. Năm sau, ngày 11-3-1955, Bảo Ðại phê
chuẩn Dụ số 21 sát nhập Hoàng Triều Cương Thổ vào lãnh thổ Việt Nam và
đặt khu vực này dưới quyền quản trị của Việt Nam Cộng Hòa (trong thực tế
chỉ Xứ Thượng miền Nam mà thôi, Xứ Thượng miền Bắc thuộc Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa). Cùng ngày, Ngô Ðình Diệm ban hành Sắc Lệnh số 61 thành
lập Tòa Ðại Biểu Chính Phủ thay thế Tòa Khâm Sứ, bổ nhiệm ông Vĩnh Dự
làm đại biểu chính phủ (tỉnh trưởng) tại Buôn Ma Thuột và ông Tôn Thất
Hối làm đại biểu tại Ðà Lạt. Trong cùng thời gian, chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa yêu cầu Pháp giao lại những cơ sở hành chánh và quân sự do họ
nắm giữ, đồng thời chuẩn bị kế hoạch đưa những người di cư từ miền Bắc
lên cao nguyên lập nghiệp.
Ngày 10-8-1955 Pháp rút quân khỏi cao
nguyên, chấm dứt chính thức chế độ Hoàng Triều Cương Thổ. Thành phần trí
thức và sĩ quan Thượng tin rằng sau khi tiếp thu cao nguyên họ sẽ được
chính phủ Ngô Ðình Diệm trọng dụng. Nhưng thực tế đã không xảy ra như
vậy, tất cả những chức vụ chỉ huy đều do những viên chức gốc Kinh từ
đồng bằng lên nắm giữ. Những đơn vị quân đội Thượng (Sư đoàn 4 bộ binh, 7
tiểu đoàn cơ động cùng những đơn vị tác chiến khác, khoảng 10.000
người) đặt dưới quyền chỉ huy của các sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Những
cơ quan hành chánh, giáo dục và y tế đặt dưới quyền quản trị của Tòa Ðại
Biểu Chính Phủ.
Người Thượng chưa được chuẩn bị để sống
chung với người Kinh. Cao nguyên miền Nam vào năm 1955 có khoảng 700.000
dân Thượng, đông hơn dân số Kinh vào thời điểm đó nhưng người Thượng
chỉ đảm nhiệm những vai trò thứ yếu hay không có vai trò nào cả. Tại
Darlac và Pleiku, các tỉnh trưởng còn buộc người Thượng phải ăn mặc
chỉnh tề (đa số dân Thượng trong giai đoạn này vẫn còn đóng khố) khi vào
những cơ quan công quyền trong thành phố. Thêm vào đó, thành phần di cư
người Kinh tỏ ra khinh miệt người Thượng tại những vùng cộng cư. Giọt
nước đã làm tràn ly là chính sách đồng hóa (diễn văn ngày 12-6-1955) và
cải cách điền địa (Dụ số 57 ngày 22-10-1956) của thủ tướng Ngô Ðình
Diệm: phân biệt đối xử, bãi bỏ các tòa án phong tục, cấm dạy tiếng thổ
ngữ và phủ nhận quyền sở hữu đất đai (polan) của người Thượng. Một phong
trào chống đối ngấm ngầm hình thành, một số trí thức, cán bộ và binh sĩ
Thượng bất mãn bỏ về làng, một số khác vẫn ở lại cơ quan nhưng không
làm việc. Cán bộ cộng sản nhân cơ hội trà trộn vào một số buôn làng
tuyên truyền và kích động dân Thượng chống lại chính quyền miền Nam.
Tây Nguyên có tầm quan trọng đặc biệt
đối với các chiến lược gia Hoa Kỳ, đó là cửa khẩu ngăn chặn sự xâm nhập
của quân đội cộng sản miền Bắc vào miền Nam. Sự hiện diện của du kích
quân cộng sản do đó gây nhiều lo âu cho các cố vấn Mỹ lúc đó đang huấn
luyện quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1956, nhiều phái đoàn MAAG (The US
Military Assistance Advisory Group) được gởi lên cao nguyên quan sát
tình hình và xây dựng cơ sở huấn luyện binh lính Thượng chống du kích.
Tổng thống Ngô Ðình Diệm (đắc cử ngày 24-10-1956) cũng cho thành lập Văn
Phòng Cố Vấn Thượng Vụ để góp ý về những vấn đề liên quan đến cao
nguyên miền Thượng.
Phong trào BAJARAKA
Năm 1957 một số trí thức Thượng kết hợp
lại thành một nhóm phản đối chính sách phân biệt đối xử người Thượng
trên cao nguyên với các chính quyền địa phương. Không được trả lời thỏa
đáng, năm 1958 họ thành lập tổ chức BAJARAKA (chữ viết tắt tên bốn sắc
tộc lớn trên Tây Nguyên: BAhnar, dJArai, RhAdé và KAho) và vận động dân
chúng Thượng chống lại chính quyền miền Nam. Những người lãnh đạo phong
trào gồm có các ông Y Bham nuôl (người Rhadé, sáng lập viên), Siu Síp
(nhân sĩ Djarai), Y Dhơn Adrong (hiệu trưởng trường tiểu học Lạc Thiện),
Y Nuin Hmok (giáo viên trung học buôn Kram kiêm chính trị viên), Y Nam
Êban (sĩ quan), Y Bhan Kpor, Y Chôn Mlô Duôn Du, Nay Luett, Paul Nưr
(trí thức Bahnar) và nhiều nhân sĩ gốc Chăm, Mạ, Stiêng, Kor… Cuộc chống
đối đầu tiên xảy ra vào giữa tháng 9-1957, trong một buổi học chữ Việt
dành cho người Thượng: ông Y Bham nuôl công khai nói lên những bất đồng
của người Thượng và đòi quyền “biệt lập” về hành chánh và chính trị.
Trước sự chống đối này, Văn Phòng Cố Vấn
Thượng Vụ được nâng lên thành Nha Công Tác Xã Hội Miền Thượng (nghị
định số 302/NV ngày 3-7-1957) trực thuộc Phủ Tổng Thống, trụ sở đặt tại
Huế, nhằm kêu gọi người Thượng hợp tác với chính phủ xây dựng đất nước
và chống cộng trong tinh thần Kinh Thượng bình đăng và đoàn kết. Trong
thực tế văn phòng này đã không đưa ra một chính sách nào cụ thể.
Tháng 5-1958, phong trào gởi hai kháng
thư, do ông Y Bham nuôl cùng 16 đại diện sắc tộc khác ký tên, tố cáo
những hành vi phân biệt đối xử của chính quyền Ngô Ðình Diệm đối với các
sắc tộc thiểu số; kể lại những đóng góp của các dân tộc miền núi trong
việc chống lại quân phiệt Nhật, Việt Minh và Việt Cộng; yêu cầu các
cường quốc can thiệp để người Thượng có một “lãnh thổ biệt lập” (“un
territoire à part”, nguyên văn). Thư viết bằng tiếng Pháp được gởi đến
tòa Ðại Sứ Pháp và Liên Hiệp Quốc, và thư viết bằng tiếng Anh gởi đến
tòa đại sứ Hoa Kỳ và các tòa đại sứ khác tại Sài Gòn. Kháng thư viết
bằng tiếng Anh, do giáo sư David Nuttle (người Mỹ) chuyển tới tòa đại sứ
Hoa Kỳ, tỏ ý không muốn đặt Tây Nguyên trực thuộc vào chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa mà muốn được độc lập trong khối Liên Hiệp Pháp hoặc dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của Hoa Kỳ. Trong kháng thư gởi Liên Hiệp Quốc,
phong trào xin được sát nhập vào vương quốc Lào như người Pháp đã làm
năm 1893.
Ngày 30-7-1958, phong trào gởi một phái
đoàn gồm bốn người về Sài Gòn gặp đại sứ Hoa Kỳ qua trung gian David
Nuttle. Cùng thời gian, Y Bham nuôl thành lập ủy Ban Tự Trị Trung ương,
trụ sở đặt tại Pleiku, chỉ huy tất cả các cơ quan tỉnh lỵ, quận huyện
trên Tây Nguyên. Nhiều ủy ban địa phương được thành lập tại Buôn Ma
Thuột, Kontum và Di Linh. ủy Ban tuyển mộ sĩ quan và binh lính Thượng
đang phục vụ trong chính quyền miền Nam, chọn một lá cờ tượng trưng cho
sự “biệt lập” (xanh dương, trắng và đỏ như cờ Pháp nhưng phía trên góc
trái có 4 ngôi sao màu vàng tượng trưng cho bốn sắc tộc chính) và phổ
biến một thư ngỏ mang tên “Nguyện vọng đấu tranh của đồng bào Thượng”.
Thư ngỏ này thực ra là một cáo trạng đối với chính quyền Ngô Ðình Diệm,
liệt kê những hành vi phân biệt đối xử của người Kinh đối với người
Thượng trong mọi lãnh vực, từ chính trị, hành chánh, an ninh quân sự, tư
pháp, kinh tế đến văn hóa, giáo dục, y tế, xã hội.
Trong hai tháng 8 và 9-1958, phong trào
Bajaraka tổ chức nhiều cuộc xuống đường tại Kontum, Pleiku, Buôn Ma
Thuột nhưng đều bị trấn áp, tất cả những lãnh tụ của phong trào đều bị
bắt (Y Bham nuôl, Y Dhơn Adrong, Y Dhê Adrong, Y Nuin Hmok, Y Wick Buôn
Ya, Y Het Kpor, Y Tluốp Kpor, Y Sênh Niê, Y Bun Sor, Y Yu êban, Y Thih
êban, Touneh Yoh, Siu Sip, Paul Nưr, Nay Luett…), những thành phần có uy
tín như sĩ quan và công chức Thượng đang công tác trên cao nguyên đều
bị thuyên chuyển về đồng bằng. Cộng đồng người Thượng như rắn mất đầu đã
bị cán bộ cộng sản nằm vùng tuyên truyền và lôi kéo theo họ chống lại
chính quyền miền Nam; không những thế, một số thanh niên Thượng ưu tú
còn được tuyển mộ ra Bắc học tập rồi đưa vào Nam hoạt động cho phe cộng
sản.
Trước đe dọa mới này, tháng 10-1958,
chính quyền Ngô Ðình Diệm kêu gọi Kinh Thượng hợp tác chống cộng và hứa
sẽ cải tổ sâu rộng hơn về kinh tế, xã hội miền Thượng. Văn Phòng Xã Hội
được thành lập tại Tây Nguyên, nhiều học sinh Thượng được đưa về Huế và
các thành phố Qui Nhơn, Nha Trang, Ðà Lạt học trong những trường trung
học kỹ thuật. Một số cán bộ Thượng được đưa về Sài Gòn tu nghiệp tại Học
Viện Quốc Gia Hành Chánh. Nhưng kết quả đã không như mong muốn, Văn
Phòng Xã Hội không hoạt động gì cả, các học sinh Thượng ra trường
(khoảng 150 người mỗi năm) không tìm được việc làm vì thiếu trình độ
(bằng cấp của học sinh Thượng thường do nâng đỡ). Ðời sống của người
Thượng không sáng sủa gì hơn. Những lãnh tụ Thượng còn lại đều tỏ ra bất
mãn nhưng bất lực. Trong các cuộc bầu cử Quốc Hội pháp nhiệm I (1956),
ứng cử viên Touprong Hrou đơn vị Tuyên Ðức-Lâm Ðồng bị bỏ tù vì những
tội vu vơ, pháp nhiệm II (1958) ông Y Prong Kbor đơn vị Ðắt Lắc bị xóa
tên, pháp nhiệm III (1960) ông Y Klong đơn vị ÐÐắtLắc bị buộc phải rút
tên.
Trong thời gian từ 1956 đến 1962, chuyên
viên và cố vấn Hoa Kỳ đã có mặt khắp Tây Nguyên. Việc tranh thủ người
Thượng gây nhiều tranh chấp giữa cơ quan CIA và Tòa Ðại Sứ Mỹ trong
chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ:
– Cơ quan CIA chủ trương võ trang trực
tiếp người Thượng vì họ rất thiện chiến trong các rừng rậm. Cố vấn quân
sự Mỹ vào khắp buôn làng, tổ chức phòng thủ, trang bị súng cá nhân,
thành lập các đội Dân Sự Chiến Ðấu Thượng (CIDG-Civilian Indigenous
Defense Group) và Lực Lượng Ðặc Biệt (Special Force) gồm 18.000 người
(1967) thuộc đủ mọi sắc tộc Thượng (Rhadé, Bahnar, Sédang, Kaho, Bru…).
– Tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ chủ trương kêu gọi
sự hợp tác về lâu về dài của người Thượng, đặc biệt là phát triển văn
hóa, xã hội, y tế và tín ngưỡng nhằm nâng cao mức sống. Các mục sư tin
lành được nhìn như sự tiếp nối của các giáo sĩ công giáo Pháp thời trước
nên rất được mến mộ. Nhiều phái đoàn đặc vụ dân sự USOM, USAID, các tổ
chức thiện nguyện đến chữa bệnh, hướng dẫn cách thức canh tác nông
nghiệp, xây cất nhà cửa, giúp đỡ vật chất và sáng tạo chữ viết la tinh
hóa của từng thổ ngữ để giảng dạy. Nhiều trường phổ thông vừa dạy tiếng
địa phương, vừa dạy tiếng Việt và tiếng Mỹ được thành lập tại Buôn Ma
Thuột, Pleiku, Kontum, Ðà Lạt. Nhiều sinh viên Chăm và Thượng được ghi
danh vào Viện Ðại Học Ðà Lạt.
Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên (FLHP)
Năm 1963, người Mỹ quyết định can thiệp
mạnh tại Việt Nam. Chế độ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ tháng 11-1963, tất cả
các biện pháp ban hành dưới thời Ðệ Nhất Cộng Hòa đều bị hủy bỏ. Nhờ sự
can thiệp của Mỹ, tất cả những lãnh tụ phong trào Barajaka đều được
phóng thích.
Tin tưởng được Mỹ ủng hộ, tháng 3-1964
những người lãnh đạo phong trào Barajaka thành lập Mặt Trận Giải Phóng
Cao Nguyên hay Front de Libération des Hauts Plateaux, gọi tắt là FLHP
(tên chính thức được mặt trận sử dụng) hay Mặt Trận Cao Nguyên. Lần này
mặt trận có sự tham gia của nhiều sắc tộc Thượng khác và người Chăm tại
miền Trung. Mặt trận cho phổ biến một bản hiệu triệu bằng ba thứ tiếng
(Pháp, Chăm và Rhadé) đòi quyền tự trị và chủ trương tranh đấu vừa ôn
hòa vừa bạo động. Phe chủ trương ôn hòa, do Y Bham nuôl đại diện, tham
gia mọi sinh hoạt chính trị trên khắp cao nguyên để giúp chính quyền
miền Nam xây dựng một chính sách Thượng vụ thích hợp. Phe chủ trương bạo
động, do Y Dhơn Adrong cầm đầu, kêu gọi cán bộ dân vệ và biệt kích
Thượng gia nhập FLHP chống lại chính quyền.
Sự kiện này làm giới chỉ huy quân sự
miền Nam lo ngại, những cuộc hành quân trên Tây Nguyên từ tháng 3 đến
tháng 5-1964, do tướng Vĩnh Lộc chỉ huy, phần lớn để phá vỡ những căn cứ
của quân Thượng hơn là các mật khu cộng sản. Phe bạo động bị lùng quét
gắt gao phải chạy qua Kampuchea lánh nạn. Tại đây họ lập căn cứ quanh
đồn Bốt Chá (Camp Le Rolland cũ), tỉnh Mondolkiri phía đông bắc
Kampuchea cách biên giới Việt Nam 15 cây số, rồi cử người xâm nhập vào
các buôn làng ven biên giới kêu gọi thanh niên Thượng gia nhập FLHP. Hoa
Kỳ khuyến cáo Việt Nam Cộng Hòa thương thuyết với người Thượng để tìm
một giải pháp sống chung. Ngày 5-5-1964, chính phủ miền Nam mời 64 nhân
sĩ Thượng ôn hòa, đại diện các sắc tộc, về Sài Gòn họp để tổ chức một
đại hội gồm 55 đại diện sắc tộc tại Pleiku ngày 26-8-1964 do Bộ Tư Lệnh
Quân Ðoàn II chủ trì.
Lo
sợ bị loại khỏi các cuộc thương thuyết, phe bạo động chuẩn bị một cuộc
nổi dậy võ trang do đại úy Y Nam êban chỉ huy. Ðêm 19-9-1964, các toán
biệt kích thuộc Lực Lượng Ðặc Biệt và các đội Dân Sự Chiến Ðấu Thượng
đánh chiếm một số đồn bót lớn quanh Quảng Ðức và Ðắt Lắc: trung sĩ Klé
chiếm thị trấn Bù Ðăng, thiếu úy Y Bách êban tấn công đồn Sarpa, Y Djao
Niê tiến vào buôn Miga (Ðức Lập), Y Bhan Kpor vây đồn Bù Ðốp và Bu
Briêng. Quân phiến loạn làm chủ quốc lộ 14, đánh đồn Srépok rồi tiến vào
Buôn Ma Thuột chiếm đài phát thanh kêu gọi dân Thượng nổi lên chống lại
người Kinh để xây dựng một quốc gia độc lập. Trong cuộc nổi dậy này, 35
sĩ quan và binh sĩ Kinh bị thiệt mạng, quận trưởng quận Ðức Lập (Quảng
Ðức) bị bắt sống.
Kinh ngạc và giận dữ, chuẩn tướng Vĩnh
Lộc, chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật, đã phản ứng dữ dội. Lệnh thiết
quân luật được ban hành ngay sáng 20-9-1964, mọi ngả ra vào Buôn Ma
Thuột đều bị chận xét gắt gao, Sư Ðoàn 23 cùng một số tiểu đoàn biệt
động quân và thiết giáp được huy động đến vây quanh đài phát thanh, một
số tiến về những những đồn bị chiếm đóng. Phiến quân Thượng chống trả dữ
dội. Các đồn Bù Ðăng, Miga, Bu Briêng, Srépok và nhiều cầu trên quốc lộ
14 đều bị chiếm lại, trừ đồn Sarpa vẫn còn nằm trong tay phiến quân.
Trước biến cố này, đệ tam tham vụ Tòa
Ðại Sứ Mỹ trên cao nguyên, Beachner, khuyên Vĩnh Lộc nên thương thuyết.
ông Y Bham nuôl, đại diện phe ôn hòa, phó tỉnh trưởng Buôn Ma Thuột,
được mời đến Bộ Chỉ Huy Sư Ðoàn 23 tham khảo ý kiến rồi được cử vào đài
phát thanh thương thuyết với phiến quân. Sau khi dàn xếp xong với phe
nổi loạn im tiếng súng, Y Bham được Beachner đưa về nhà riêng thảo luận.
Buổi chiều cùng ngày, đại úy Darnell đích thân đưa những lãnh tụ Thượng
khác (Y Bhim, Y Dhou) vào nhà Beachner họp. Cuộc thương lượng với đại
diện Tòa Ðại Sứ Mỹ và chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật đi đến những
thỏa thuận sau: Y Bham nuôl được cử làm chủ tịch chính thức phong trào
FLHP, những chỉ huy phiến quân (Y Dhơn Adrong, Y Sênh Niê, Y Nuin Hmok, Y
Nam êban) không bị truy tố và không bị truy đuổi khi rút quân qua
Kampuchea. Thỏa thuận xong, ngay chiều 20-9, Y Bham nuôl trốn sang
Kampuchea, sau khi để lại một kháng thư gởi chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa đòi quyền tự trị trên cao nguyên. Tại biên giới, Y Bham nuôl được
tướng nhảy dù Lès Kossem (một người Khmer gốc Chăm) cùng Y Bun Sor ra
đón và đưa về Camp le Rolland nghỉ ngơi rồi tức tốc được chở về Phnom
Penh họp.
Ngày 23-9-1964, ông Beachner và tướng
Vĩnh Lộc cùng một số nhân sĩ Thượng thành lập Ban Ðại Diện Lâm Thời
Người Thượng tại Buôn Ma Thuột do ông Y Char Hdok (hiệu trưởng trường
Nguyễn Du) làm chủ tịch, ông Y Chôn Mlô Duôn Du (nhân viên Nha Ðặc Trách
Thượng Vụ) làm cố vấn. Beachner cử Y Chôn Mlô Duôn Du làm trung gian
thương nghị giữa Việt Nam Cộng Hòa và FLHP. Sau bốn ngày thương nghị, Y
Chôn Mlô Duôn Du loan báo phe FLHP chấp nhận buông súng và thương nghị.
Ngày 28-9-1964, tướng Nguyễn Khánh cùng
tướng Vĩnh Lộc đến đồn Sarpa nhận sự đầu hàng của 233 binh sĩ FLHP. Lễ
gắn huy chương cho những người Thượng có công hòa giải được diễn ra tại
Bộ Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 Bộ Binh (Buôn Ma Thuột). Lợi dụng sự khoan hồng,
một số phiến quân FLHP và các đội Dân Sự Chiến Ðấu Thượng còn kẹt lại
chạy sang Kampuchea gia nhập vào lực lượng của ông Y Bham ênuôlđồn trú
tại Camp Le Rolland.
Mặt Trận Thống Nhất Ðấu Tranh Của Các Sắc Tộc Bị áp Bức (FULRO)
Tại Kampuchea, những lãnh tụ FLHP họp
ngày đêm chuẩn bị thành lập một phong trào đấu tranh mới. Chính quyền
Kampuchea, qua trung gian Lès Kossem, cật lực giúp đỡ sự ra đời một tổ
chức mới qui mô hơn gồm đủ mọi sắc tộc. Lãnh tụ các nhóm Khmer Krom,
Chăm và Thượng FLHP được quân đội hoàng gia Kampuchea đưa về Phnom Penh
họp.
Tối ngày 20-9-1964, dưới sự chủ tọa của
Sihanouk, Lès Kossem cho ra đời một tổ chức mang tên Mặt Trận Thống Nhất
Các Sắc Tộc Thiểu Số (Front Uni des Races Minoritaires-FURM) gồm ba mặt
trận: Mặt Trận Giải Phóng Champ?a (Front de Libération du Champa-FLC)
do Lès Kossem lãnh đạo (bí danh Po Nagar), Mặt Trận Giải Phóng xứ
Kampuchea Krom miền Tây Nam Việt Nam (Front de Libération du Kampuchea
Krom-FLKK) do Chau Dera làm đại diện và Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên
(Front de Libération des Hauts Plateaux-FLHP) do Y Bham nuôl cầm đầu.
Nhưng danh xưng FURM không được Y Bham chấp thuận và sau nhiều bàn cãi
sôi nổi các phe chọn một tên chung là Mặt Trận Thống Nhất Ðấu Tranh Của
Các Sắc Tộc Bị áp Bức, tiếng Pháp là Front Uni de Lutte des Races
Opprimées (Lutte chứ không phải Libération như nhiều người thường lầm
tưởng), gọi tắt là FULRO để xưng danh trong các hoạt động tại Việt Nam
và trên chính trường quốc tế.
FULRO chọn cờ hiệu hình chữ nhật, ba
màu: bên phải màu xanh lục có ngôi sao trắng nằm trong hình lưỡi liềm, ở
giữa có 3 sọc trắng xen kẽ với 4 sọc xanh dương, bên trái là màu đỏ.
Ngôi sao trắng trong lưỡi liềm trắng tượng trưng cho người Chăm theo đạo
Hồi tại Kampuchea và Việt Nam. Bảy sọc trắng xanh dương tượng trưng cho
bảy sắc tộc lớn người Thượng: Bahnar, Djarai, Radhé, Kaho, Sedang,
Mnông, Mạ. Màu đỏ tượng trưng cho tinh thần đấu tranh.
FULRO có ba cơ quan lãnh đạo: Hội Ðồng
Tối Cao do Chau Dera làm chủ tịch, Hội Ðồng Bảo Trợ do Po Nagar (Lès
Kossem) làm chủ tịch và ủy Ban Chấp Hành Trung ương do Y Bham làm chủ
tịch. Trong thực tế, Y Bham sống nhờ vào Lès Kossem nên không có thực
quyền nào cụ thể ngoài uy tín cá nhân. Lès Kossem có phương tiện và có
lực lượng nên nắm hết mọi quyền hành. Lès Kossem còn kéo theo một số
người Thượng và người Chăm vào FLC để gây thêm vây cánh và cho người về
Việt Nam lôi kéo một số thanh niên Chăm qua ngõ Châu Ðốc vào Kampuchea.
Mặc dù trên danh nghĩa là một tổ chức thống nhất nhưng FULRO có ba lực lượng khác nhau:
1. FULRO Khmer do Chau Dera làm chủ
tịch, nhưng vì bận tổ chức đội phòng vệ cho Sihanouk tại Phnom Penh nên
không thể sinh hoạt, mọi quyền hành đều nằm trong tay Lès Kossem. Hội
Ðồng Tối Cao của Chau Dera đổi thành ủy Ban Chấp Hành Tối Cao do Lès
Kossem lãnh đạo.
2. FULRO Chăm, do Lès Kossem chỉ huy, là
tổ chức có tầm vóc nhất. (Kampuchea có 250.000 người Khmer gốc Chăm, đa
số sinh sống tại Kompong Cham). Về đối nội, FULRO Chăm có ba ban: Ban
tình báo chuyên thu thập tin tức, tung người về Việt Nam móc nối cơ sở,
phá hoại do Huỳnh Ngọc Sắng, một người Chăm sinh sống tại Bình Thuận,
làm đại diện. Ban kinh tài thu thập tiền đóng góp của dân chúng, tiếp tế
cho hậu cứ của Y Bham nuôl tại Camp Le Rolland, do Tôn ái Liên, một
người Chăm tại Châu Ðốc, làm trưởng ban và vợ Lès Kossem, người nhận
thầu cung cấp lương thực cho các căn cứ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
Việt Nam để kiếm thêm tiền, làm phó. Ban phát triển giáo dục cử người
đi du học ngoại quốc nghiên cứu về dân tộc Chăm. Về đối ngoại, Lès
Kossem vận động các quốc gia ngoại quốc và thành lập nhiều tổ chức Chăm
tại hải ngoại ủng hộ nhóm FULRO Chăm. Năm 1970, Lès Kossem sang Bangkok
gặp hai vị tướng lục quân và không quân Thái gốc Chăm trong quân đội
hoàng gia và những lãnh tụ Thái gốc Chăm thành lập Tổ Chức Người Chăm
Chính Thống Tiến Bộ ủng hộ FULRO Chăm. (Thái Lan có 400.000 người Thái
gốc Chăm đến lập nghiệp từ thế kỷ 15). Sau đó Lès Kossem đến Djakarta
gặp tổng thống Sukarno và được hứa sẽ có 8.000 binh sĩ trong hai lữ đoàn
nhảy dù (paracommando) Nam Dương sang yểm trợ FULRO Chăm phục hồi vương
quốc Champa khi hữu sự. Lès Kossem nhận viện trợ của Indonesia thông
qua Suseno, tùy viên quân sự tòa đại sứ Indonesia tại Phnom Penh.
(Indonesia có khoảng hai triệu người Indonesia gốc Chăm, tổ tiên những
người này đã sang Indonesia và Mã Lai lập nghiệp từ thế kỷ 14 đến 16).
Quốc gia kế tiếp là Mã Lai và các nước ả Rập (Algérie), Nhật Bản nhận
giúp FULRO Chăm tu sửa lại các đền đài. (Mã Lai có 200.000 người Mã Lai
gốc Chăm lập nghiệp từ thế kỷ 14). Sau cùng Lès Kossem sang Pháp và êu
Châu vận động nhân sĩ chính trị và tôn giáo Pháp tổ chức những cuộc hội
thảo về văn minh Champa và cấp học bổng cho một số sinh viên Chăm vào
học những trường đại học lớn tại Paris (Sorbonne), Aix en Provence…
Trong các buổi hội thảo này, những trí thức Chăm và Pháp cho in những
tài liệu nhắc nhỡ sự kiện Champa bị Việt Nam xâm thực và mong muốn được
các chính quyền phương Tây giúp phục hồi hay nhìn nhận vương quốc cũ.
3. FULRO Thượng do Y Bham nuôl làm chủ
tịch, tiếp tục bị phân hóa. Nhóm Dân Sự ôn hòa do Y Bham nuôl lãnh đạo,
gồm các ông Y Dhê Adrong, Y Prêh, Y Bling, Y Thih êban, Y Ngo Buôn Ya, Y
Sênh Niê, Y Nhiam Niê…, chủ trương vận động Hoa Kỳ làm áp lực với chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa để FULRO Thượng được về Việt Nam hoạt động một
cách chính thức. Nhóm Quân Sự quá khích do Y Dhơn Adrong lãnh đạo, gồm
các ông Y Bhan Kpor, Y Nam êban, Y Nuin Hmok…, chủ trương sử dụng bạo
lực để thành lập quốc gia độc lập bằng cách uy hiếp những đồn bót quân
sự, tấn công các chuyến xe đò dân sự trên các quốc lộ 14 và 22 cùng
những liên tỉnh lộ khác của Việt Nam Cộng Hòa dọc vùng Tam Biên.
Ðể gây thanh thế, từ 29-7 đến 2-8-1965,
nhóm Quân Sự cử 200 FULRO Thượng vượt biên giới tấn công và chiếm giữ
đồn Buôn Briêng và khi rút lui còn dẫn theo 181 Dân Sự Chiến Ðấu Thượng
(dân vệ). Sau đó trung tá Y Djao Niê dẫn một trung đoàn FULRO Thượng về
đóng tại Buôn Buor (Ðắt Lắc), gần một cây cầu trên quốc lộ 14, kềm chế
nhóm Dân Sự của Y Bham nuôl do Y Dhê Adrong làm đại diện tại Buôn Ma
Thuột, lúc đó đang kêu gọi binh sĩ FULRO Thượng mang vũ khí về nộp chính
quyền miền Nam.
Trong thời gian này phe cộng sản gia
tăng áp lực tại miền Nam Việt Nam, Mặt Trận Tây Nguyên Tự Trị, do Y Bih
Aleo lãnh đạo, cùng với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tổ chức nhiều cuộc
đánh phá khắp Tây Nguyên. Hoa Kỳ muốn được rảnh tay trong nỗ lực tiến
công tiêu diệt các mật khu cộng sản trên Tây Nguyên yêu cầu chính quyền
Sài Gòn thương thuyết với FULRO Thượng tìm một phương thức sống chung và
hợp tác chống sự xâm nhập của quân cộng sản. Một đại hội các sắc tộc
Thượng được triệu tập tại Pleiku từ ngày 15 đến 17-10-1964, gồm 73 thân
hào nhân sĩ Thượng và đại diện chính quyền Sài Gòn để hình thành một
chính sách Thượng vụ hợp tình hợp lý: tái lập quyền sở hữu đất đai và
các tòa án phong tục, dạy tiếng Thượng ở cấp tiểu học, chấp nhận sự tham
chính của người Thượng, giúp đỡ thiết thực hơn người Thượng và nâng Nha
Ðặc Trách Thượng Vụ thành Phủ Ðặc ủy Thượng Vụ (trước đó, ngày 5-5-1964
Nha Công Tác Xã Hội miền Thượng đổi thành Nha Ðặc Trách Thượng Vụ trực
thuộc Bộ Quốc Phòng, ngày 7-10-1964 trực thuộc Phủ Thủ Tướng). Nhóm Dân
Sự ôn hòa, do ông Y Nhiam và bà Hzáp (vợ Y Dhê Adrong) đại diện, được
phó đại sứ Hoa Kỳ Alexis Johnson và đại tướng Morton bảo trợ từ
Kampuchea về Buôn Ma Thuột thành lập Ban Ðại Diện Chính Phủ Lâm Thời Cao
Nguyên.
Ngày 2-8-1965, Y Dhê Adrong cầm đầu một
phái đoàn từ biên giới Kampuchea về Sài Gòn thương thuyết. Một tuyên cáo
chung kêu gọi FULRO Thượng hợp tác trong nỗ lực tìm kiếm một giải pháp
sống chung và chống cộng được ký kết. Vài hôm sau, ngày 16-8-1965, từ
Camp Le Rolland Y Bham nuôl gởi đến chính phủ Việt Nam Cộng Hòa một văn
thư đòi: xác nhận lãnh thổ Thượng từ vĩ tuyến 17 đến Ðồng Xoài gồm cao
nguyên Kontum, Pleiku, Ðắt Lắc, Phú Bổn, Ðồng Nai thượng, Quảng Ðức, Lâm
Ðồng, Tuyên Ðức và một phần các tỉnh Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình
Thuận, gọi chung là Liên Bang Cao Nguyên trong Cộng Hòa Liên Bang Việt
Nam; có quốc kỳ riêng; có quân đội riêng, giảm số người Việt Nam di cư
lên cao nguyên bằng con số trước năm 1954. Y Bham đề nghị tổ chức các
cuộc thương thuyết tại Buôn Ma Thuột hoặc tại Manille (Philippines)
nhưng yêu sách này không được Sài Gòn chấp thuận.
Ba tuần sau, ngày 23-8-1965, Y Dhê
Adrong dẫn một phái đoàn khác từ Camp Le Rolland đến Buôn Ma Thuột họp.
Phái đoàn Việt Nam, do hai tướng Nguyễn Hữu Có và Vĩnh Lộc đại diện, yêu
cầu quân FULRO phải buông súng xuống mới chịu thảo luận. Buổi lễ nạp vũ
khí của 500 FULRO Thượng tại Buôn Buor được cử hành ngày 15-9-1965,
tướng Vĩnh Lộc đưa phái đoàn Y Dhê Adrong, Y Ngo Buôn Ya, Y Bun Sor, Y
Nhiam Niê, Y Sênh Niê về Sài Gòn gặp đại diện của Hoa Kỳ (các ông
Peterson và Anderson) và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa để thảo luận về qui
chế đặc biệt dành cho người Thượng, một lực lượng quân sự 150.000 người
dưới sự chỉ huy của FULRO, một quốc kỳ tương đương với quốc kỳ của Việt
Nam Cộng Hòa, một phái đoàn độc lập có quyền đi dự những hội nghị quốc
tế, quyền tiếp đón trực tiếp các đại diện của Hoa Kỳ và các nước khác,
quyền triệu tập một Ðại Hội Ðồng Dân Tộc Thiểu Số, thành lập một phái
đoàn Ðại Diện Dân Tộc Thiểu Số…
Trong khi đó, từ 29-7 đến 2-8-1965, nhóm
quá khích, sau khi tố cáo Y Bham nuôl bị mua chuộc, bí mật tổ chức bạo
loạn, họ rải truyền đơn hô hào “Cao Nguyên của người Cao Nguyên!”, “Thực
dân Kinh cút đi!”. Vài tháng sau, từ ngày 12-đến 18-12-1965, Y Dhơn
Adrong cùng Y Nuin Hmok và thiếu úy Y Nam êban dẫn một nhóm FULRO gồm
đại đội 296 Ðịa Phương Quân, trung đội 1/503 Nghĩa Quân Thượng do thượng
sĩ Nay Rí chỉ huy tấn công đồn Phú Thiện (tỉnh Phú Bổn) sát hại 32
người và làm bị thương 26 người. Sau đó Y Nam êban cùng Y Tam Uông, đội
trưởng và đội phó đại đội 281, chỉ huy lính Thượng chiếm đồn Krong Pách,
giết hết binh sĩ Kinh. Tiểu đoàn 64 FULRO do đại úy Y Klam chỉ huy đột
nhập Tòa Hành Chánh và Tiểu Khu Quảng Ðức, giết hết người Kinh, treo cờ
FULRO. Tướng Vĩnh Lộc chỉ huy trưởng Vùng II Chiến Thuật huy động Sư
Ðoàn 23 Bộ Binh và một đơn vị Thủy Quân Lục Chiến tấn công vào những nơi
bị chiếm, bắt được một số tù binh và truy đuổi tàn quân FULRO gay gắt.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, được sự khuyến cáo của đại sứ Hoa Kỳ, ra
lệnh cho Vĩnh Lộc nương tay và để những nhân vật quan trọng và sĩ quan
cao cấp Thượng chạy sang Kampuchea.
Tin nổi loạn tại Việt Nam đến Camp le
Rolland, Y Bham nuôl sai con rể là trung tá Y Em chận bắt những phần tử
quá khích tại vùng biên giới. Y Dhơn Adrong và Y Nuin Hmok bị Y Em bắt
và đem về Camp le Rolland xử tử, Y Bun Sor chạy thoát về Phnom Penh báo
cáo. Tướng Lès Kossem, không dám phản đối quyền lãnh đạo FULRO Thượng
của Y Bham nuôl, lên Camp le Rolland thương lượng và cử hai người Chăm
vào những chức vị cao bên cạnh Y Bham nuôl là Ðằng Năng Giáo (bí danh
Yang Neh) làm đệ nhất bí thư Phủ chủ tịch đặc trách chính trị và nội vụ,
và Thiên Sanh Thi giữ chức tư lệnh Quân Khu 3 (Ninh Thuận và Bình
Thuận) kiêm sư đoàn trưởng Sư Ðoàn Po Romé. Hai người Chăm này có nhiệm
vụ kềm chế những quyết định thân thiện Việt Nam của Y Bham nuôl. Y Bun
Sor được Lès Kossem phong làm phụ tá quân sự đặc trách FULRO Thượng tại
Phnom Penh.
Tuy không bằng lòng về sự canh chừng
này, Y Bham nuôl vẫn ra lệnh cho Y Dhê Adrong về Việt Nam thương thuyết
với Paul Nưr, đại diện chính quyền miền Nam. Các cuộc thương lượng kéo
dài gần một năm. Tin tưởng vào sự ủng hộ của Hoa Kỳ, phong trào FULRO
đòi hỏi rất quyết liệt và tỏ ra không nhân nhượng về yêu cầu thành lập
Liên Bang Cao Nguyên Việt Nam, quyền có quốc kỳ, quyền có quân đội riêng
và quyền đại diện chính thức. Lo sợ Y Bham nuôl phản bội lý tưởng ban
đầu là tranh đấu giành độc lập cho Tây Nguyên, ngày 20-9-1966 Lès Kossem
và Chau Dera xua quân bao vây Camp Le Rolland rồi ép Y Bham nuôl ký
giấy nhường lãnh thổ của người Thượng từ sông Srê Pok (Nam Lào và đông
bắc Kampuchea) đến Pleiku cho Mặt Trận Giải Phóng Chiêm Thành (FLC).
Nhưng âm mưu này không thành, trung tá Y Em mang quân đến giải vây và
bắt sống một số binh sĩ Khmer và Chăm đang vây Camp le Rolland. Y Bham
được giải thoát, giấy nhượng đất bị xé.
Ðể xoa dịu sự bất mãn của người Thượng,
chính sách Thượng vụ phác họa ngày 17-10-1964 được chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa cho thi hành. Ðầu năm 1966, Y Chôn Mlô Duôn Du và Nay Luett đặt
Văn Phòng Liên Lạc thuộc Nha Ðặc Trách Thượng Vụ ở Buôn Ma Thuột để
thương nghị với Y Dhê Adrong. Ngày 12-2-1966, một đại hội Kinh Thượng
được tổ chức tại Kontum lên án gắt gao nhóm quá khích và Tòa án Quân Sự
Vùng II Chiến Thuật, họp tại hội trường Diên Hồng Pleiku, xử những quân
nhân Thượng phản loạn cấp thấp (4 tử hình, 1 chung thân, 3 khổ sai 20
năm và nhiều án khổ sai 10 năm). Ngày 22-6-1966 Nha Ðặc Trách Thượng Vụ
được nâng lên thành Phủ Ðặc ủy Thượng Vụ, Paul Nưr làm đặc ủy trưởng, để
chuẩn bị cuộc hội nghị thượng đỉnh giữa Paul Nưr và Y Bham ênuôl
Ngày 2-6-1967, Y Bham nuôl đích thân cầm
đầu một phái đoàn đến Buôn Ma Thuột thương nghị và yêu cầu chính quyền
miền Nam sớm ban hành qui chế riêng cho người Thượng. Một đại hội các
sắc tộc thiểu số trên toàn quốc được triệu tập trong hai ngày 25 và
26-6-1967 để đúc kết các thỉnh nguyện chung của người thiểu số. Ba văn
kiện được đệ trình lên chính phủ là bản thỉnh nguyện, bản kiến nghị và
bản tuyên ngôn, tất cả đều được thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch ủy
Ban Hành Pháp Trung ương, long trọng chấp thuận và cam kết sẽ cho thực
hiện. Ngày 29-8-1967, đại hội các sắc tộc được tổ chức tại Buôn Ma Thuột
dưới sự chủ tọa của trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, chủ tịch ủy Ban Lãnh
Ðạo Quốc gia, và thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ, chủ tịch ủy Ban Hành Pháp
Trung ương. Chính phủ ký sắc luật số 033/67 cùng ngày ban hành Qui Chế
Ðặc Biệt nâng đỡ người thiểu số theo kịp đà tiến bộ của dân tộc. Tháng
11-1967 Quốc Hội Lập Hiến Việt Nam Cộng Hòa ủy nhiệm Bộ Phát Triển Sắc
Tộc nghiên cứu một dự thảo luật về Hội Ðồng Sắc Tộc.
Năm sau, tháng 8-1968, Y Bham nuôl dẫn
đầu một phái đoàn cao cấp gồm 28 người (Y Dhê Adrong, Y Prêh, Ksor Dút,
Kpa Doh, Y Tôn, Thiên Sanh Thi, Huỳnh Ngọc Sắng, Zu Zol, Thạch Thân
Apol, Chay Rithi, Sa Phol, Chau Chen, Chau Phước…) từ Camp le Rolland về
Buôn Ma Thuột họp với Paul Nưr, Ya Ba, Châu Văn Mổ, Nay Luett, Nguyễn
Hữu Oanh v.v… đòi hỏi những quyền lợi khác cho người Thượng nhưng không
kết quả. Cuộc thương lượng cuối cùng ở cấp bậc cao nhất giữa Y Bham nuôl
(với tư cách chủ tịch phong trào FULRO) và đổng lý Văn Phòng Phủ Thủ
Tướng được tổ chức ngày 11-12-1968 đi đến một thỏa thuận như sau: phong
trào FULRO được quyền có một hiệu kỳ nhưng không phải là quốc kỳ, Bộ Sắc
Tộc được thành lập ngay trong chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do một người
Thượng lãnh đạo, phái Ðoàn Sắc Tộc sẽ được thiết đặt tại Buôn Ma Thuột,
một tỉnh trưởng hay phó tỉnh trưởng người sắc tộc sẽ được đề cử tại
những tỉnh có đông người sắc tộc cư ngụ, những lực lượng địa phương quân
sắc tộc (Thượng) sẽ đặt dưới quyền chỉ huy của những sĩ quan sắc tộc
(Thượng), một sĩ quan hay hạ sĩ quan sắc tộc (Thượng) sẽ được đề cử ngay
trong những đơn vị quân đội chính qui có đông người sắc tộc… Lễ ký kết
sẽ được cử hành tại Buôn Ma Thuột đầu năm 1969. Phái đoàn Y Bham nuôl về
Camp le Rolland thu xếp đồ đạc chuẩn bị sang Việt Nam ở luôn.
Sáng 30-12-1968, phi đội trực thăng Việt
Nam Cộng Hòa vượt biên giới sang Camp Le Rolland đón Y Bham nuôl cùng
gia đình và lực lượng FULRO Thượng về Buôn Ma Thuột. Nhưng trước đó vài
giờ, Lès Kossem ra lệnh cho Y Bun Sor điều động hai trung đoàn quân đội
hoàng gia Khmer đến bao vây Camp le Rolland. Ðằng Năng Giáo, Y Bhan
Kpor, Y Nam êban, Ksor Dút, Kpa Doh, Kpa Blan chỉ huy đội cảm tử ập đến
bắt cóc Y Bham nuôl và gia đình đưa về Phnom Penh. Y Em cùng một số thân
tín bỏ chạy vào rừng. Phi đội trực thăng Việt Nam Cộng Hòa phải quay
trở về Buôn Ma Thuột. Cùng ngày Lès Kossem bay lên Mondolkiri trấn an và
thuyết phục binh sĩ FULRO Thượng còn lại phải tuân lệnh bộ chỉ huy
FULRO mới đặt tại Phnom Penh.
Từ đó Y Bham nuôl bị giam lỏng tại Phnom
Penh dưới sự quản chế của Lès Kossem. Một số thân tín Chăm và Thượng
được Lès Kossem thăng thưởng và cất nhắc lên những chức vụ chỉ huy. Ngày
31-12-1968 Lès Kossem thành lập Hội Ðồng Nội Các Lâm Thời FULRO, chủ
tịch là Yang Neh (Ðằng Năng Giáo), Souleiman (Thiên Sanh Thi) làm phó,
đại tá Y Bhan Kpor tham mưu trưởng, trung tá Y Nam êban tham mưu phó.
Nội các này bị Lès Kossem giải tán 10 ngày sau đó vì bất lực trong việc
tổ chức điều hành. Ðể thay thế, Lès Kossem thành lập một ủy Ban Chỉ Ðạo
Tối Cao FULRO gồm toàn người Chăm do chính ông làm chủ tịch, Souleiman
làm phụ tá đặc trách quân sự, El Ibrahim phụ tá đặc trách hành chánh,
Mohamet phụ tá đặc trách tiếp vận. Y Bun Sor được cử đi du học tại
trường Sorbonne Paris, Pháp.
Ðầu năm 1969, Lès Kossem giải tán Mặt
Trận Cao Nguyên (FLHP) và cho ra đời Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên và
Bình Nguyên Champa (Front de Libération des Hauts Plateaux et du Champa,
gọi tắt là FLHPC) do Y Bhan Kpor làm chủ tịch. Y Bhan Kpor kêu gọi
người Mỹ hãy ở lại Cao Nguyên với dân tộc Thượng. Tháng 6-1969, Lès
Kossem tạm ngưng khóa huấn luyện FULRO tại Phnom Penh, đưa các khóa sinh
lên Mondolkiri và Rattanakiri thay thế lực lượng của Y Bham nuôl. FULRO
Chăm được giao vai trò lãnh đạo tại Mondolkiri (Ðặng Nô, Ðồng Tập, Kinh
Hoài Diệp…) và tại Rattanakiri (Ðằng Năng Giáo, Kpa Toh, Tạ Văn Lành),
nhưng nhóm FULRO Thượng tại đây không chấp nhận sự chỉ huy của Y Bhan
Kpor, họ chỉ tuân phục Y Bham nuôl mà thôi. Ngày 29-7-1969 Lès Kossem
họp với Huỳnh Ngọc Sắng, Quảng Ðại Ðủ (Po Dharma), Thiên Sanh Thi, Hoàng
Minh Mộ, Ðặng Văn Thủy, Y Bhan Kpor, Y Nam êban, Kpa Doh tại Phnom Penh
tìm người làm chủ tịch FULRO nhưng không thành, ủy Ban Chỉ Ðạo Tối Cao
FULRO Chăm đảm nhận luôn việc điều hành nhóm FULRO Thượng. Giữa tháng
4-1975, Phnom Penh bị thất thủ, Y Bham nuôl cùng vợ con chạy vào tòa đại
sứ Pháp tị nạn. Quân Khmer đỏ tràn vào tòa đại sứ bắt tất cả những ai
không phải là người Pháp hay có quốc tịch ngoại quốc, toàn thể gia đình
ông Y Bham ênuôlbị quân Khmer đỏ hành quyết ngay trong sân tòa đại sứ.
Trở lại Việt Nam, hiệp ước chung cuộc
cuối cùng được ký kết giữa ông Paul Nưr, đại diện Việt Nam Cộng Hòa, và Y
Dhê Adrong, đại diện phe FULRO chứ không với Y Bham nuôl như đã dự trù.
Lễ ký kết được diễn ra trọng thể tại Buôn Ma Thuột ngày 1-2-1969 dưới
sự chủ tọa của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và thủ tướng Trần Văn Hương.
Cờ Việt Nam Cộng Hòa treo cạnh cờ FULRO với những biểu ngữ “Tình đoàn
kết Kinh Thượng muôn năm”, “Hoan hô các anh em FULRO trổ về phục vụ quốc
gia”…
Theo tin tình báo của chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa năm 1969, có 5.471 người qui thuận gồm 2.257 binh sĩ và
nhân viên dân sự, 3.214 thân nhân gia đình và 895 súng ống đủ loại. Như
vậy tổng cộng có gần 6.000 người qui thuận (ngày 15-9-1965 có hơn 500
người đã ra đầu thú).
Trong lời bế mạc buổi lễ, Y Dhê Adrong
tuyên bố: “Kể từ ngày hôm nay, phong trào FULRO không còn nữa trên Cao
Nguyên, bất cứ ai sử dụng danh nghĩa FULRO sau này để phá hoại sự đoàn
kết Kinh-Thượng sẽ bị trừng trị theo luật pháp hiện hành của chính
quyền”.
Hồ sơ FULRO đối với chính quyền Việt Nam
Cộng Hòa coi như kết thúc, một giai đoạn hợp tác mới được mở ra. Nhưng
thực tế đã không giản dị như vậy, người Chăm và Thượng vẫn chưa có một
chỗ đứng danh dự như mong muốn, phong trào FULRO tiếp tục đấu tranh
trong bóng tối.
IV .Người Thượng vẫn trên đường tìm chỗ đứng
Năm 1969, những đòi hỏi chính đáng của
nhóm FULRO Thượng ôn hòa đều được thỏa mãn, người Thượng được quyền tham
gia trực tiếp vào các sinh hoạt chính trị và đã cùng với chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa xây dựng và bảo vệ miền Nam. Giai đoạn từ giữa tháng
10-1969 đến đầu tháng 3-1975 có lẽ là thời kỳ vàng son nhất của cộng
đồng người Thượng từ khi được biết đến, nhưng thời gian đã quá ngắn ngủi
để những dự án hội nhập người Thượng vào cộng đồng Việt Nam trở thành
hiện thực. Hơn hai trăm ngàn trên tổng số một triệu người Thượng đã chết
trong cuộc chiến. Sau ngày 30-4-1975, dưới chế độ cộng sản, phong trào
FULRO, được dịp hồi sinh, đã tổ chức nhiều cuộc đánh phá chống lại chính
quyền cộng sản và bị trấn áp trong bạo lực. Cho đến nay người Thượng
vẫn còn trên đường đi tìm chỗ đứng.
Chính sách Thượng vụ thời Ðệ nhị Cộng Hòa
Tại miền Nam, sau 1969, nhiều định chế
chính trị và xã hội đã được thành lập để hội nhập người Thượng vào cộng
đồng dân tộc Việt Nam.
Dưới áp lực của Hoa Kỳ, chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa chấp thuận gần như toàn bộ những nguyện vọng chính đáng
của người Thượng qua hai đại hội sắc tộc họp tại Pleiku từ 15 đến
17-10-1964 và từ 25 đến 26-6-1967. Một số đòi hỏi của nhóm FULRO Thượng –
trừ các quyền có lãnh thổ và quân đội riêng, quyền tiếp đón các phái
đoàn ngoại giao quốc tế – cũng được thỏa mãn. Những cựu thành viên của
phong trào FULRO (gần 6.000 người) đã rời Kampuchea về lại Việt Nam sinh
hoạt bình thường, 23 cán bộ cao cấp được hồi ngạch và làm việc ngay tại
địa phương nơi cư ngụ.
Ðể tranh thủ sự hợp tác của những nhân
sĩ Thượng ôn hòa trong sinh hoạt chính trị (dân cử hay bổ nhiệm), chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa thành lập Phong Trào Ðoàn Kết Các Sắc Tộc Cao
Nguyên Việt Nam, trụ sở đặt tại Buôn Alêa. Lễ ra mắt được cử hành trọng
thể tại Buôn Ma Thuột ngày 22-4-1969. Ban chấp hành phong trào, đa số là
người Rhadé, gồm có một chủ tịch danh dự (tổng thống Nguyễn Văn Thiệu),
một chủ tịch chính thức (ông Y Bling, buôn Krong Pang), một đệ nhất phó
chủ tịch (ông Y Dhắt Niê Kdam), một đệ nhị phó chủ tịch (ông Ya Dúk,
người Kaho), một đệ tam phó chủ tịch (bà Hbi, buôn Ya), một tổng thư ký
(ông Y Kuốt Ayun), một thủ quỹ (ông Y Buăn). Ban cố vấn gồm có các ông
Paul Nưr (người Bahnar), Y Chôn Mlô Duôn Du và Y Bliêng Hmok. Ban chấp
hành các tỉnh do chính phủ chỉ định. Tại Ðắt Lắc, các ông Y Chôn Mlô
Duôn Du làm chủ tịch tỉnh bộ phong trào và Kpa Koi (người Djarai) làm
phó chủ tịch. Phong Trào Ðoàn Kết, trên thực tế, là cơ quan tuyển chọn
người để đưa vào chính quyền. Việc làm đầu tiên là đề cử người vào Hội
Ðồng Sắc Tộc.
Hội Ðồng Sắc Tộc, được thành lập bởi sắc
luật 014/69 ngày 14-10-1969 theo điều 66, 97 và 98 Hiến Pháp 1967, gồm
48 hội viên chính thức và 12 hội viên dự khuyết, trong đó 16 hội viên
chính thức và 4 dự khuyết do tổng thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ định, 32
hội viên chính thức còn lại và 8 dự khuyết sẽ được bầu tại các địa
phương. Sắc lệnh 610 (28-10-1969) qui định số hội viên cho từng sắc tộc
tùy theo dân số; hội viên do tổng thống chỉ định có thể là người Kinh
với tư cách là chuyên viên. Cơ quan lãnh đạo Hội Ðồng Sắc Tộc là Văn
Phòng Thường Trực, gồm có chủ tịch là phó tổng thống Việt Nam Cộng Hòa
(người Kinh), một phó chủ tịch, một tổng thư ký và hai phó tổng thư ký,
tất cả là người sắc tộc. Hội Ðồng có nhiều tiểu ban chuyên môn để nghiên
cứu từng vấn đề liên quan đến người Thượng. Nhiệm vụ của Hội Ðồng, trên
nguyên tắc, là đưa ra những đề nghị với chính quyền, cử đại diện đến
quốc hội điều trần và lên tiếng bảo vệ quyền lợi của các sắc tộc. Trong
thực tế, Hội Ðồng này không có ảnh hưởng nào đối với chính quyền vì chỉ
thuần túy là một cơ quan tư vấn.
Cơ quan thực sự có quyền hành là Bộ Phát
Triển Sắc Tộc được thành lập ngày 9-11-1967 nhưng chức vụ tổng trưởng
chỉ chính thức được bổ nhiệm ngày 22-12-1969 do sắc lệnh 197 SL/PTST.
ông Paul Nưr (người Bahnar) được cử làm tổng trưởng, các ông Ðoàn Chí
Khoan (người Tày) làm đổng lý, Châu Văn Mỗ (người Chăm) làm tổng giám
đốc và ông Y Chôn Mlô Duôn Du (người Rhadé) làm tổng thư ký. Bộ Phát
Triển Sắc Tộc được tổ chức từ trung ương xuống địa phương, gồm 25 ty và
65 chi nhánh.
Từ 1969 đến 1975, sự hội nhập người
Thượng vào sinh hoạt chính trị và xã hội của chính quyền Việt Nam Cộng
Hòa mang lại nhiều thành quả tích cực.
– Về chính trị, 90% các chức vụ quan
trọng liên quan đến vấn đề sắc tộc đều do người Thượng nắm giữ, 10% còn
lại do các sắc tộc khác. Các sắc tộc tại miền Nam có 1 tổng trưởng, 1
đổng lý văn phòng (thứ trưởng), 1 tổng thư ký, 1 tổng giám đốc công tác,
1 công cán ủy viên, 1 giám đốc, 3 chánh sự vụ, 1 thanh tra trưởng, 4
thanh tra ngành hành chánh, 1 tỉnh trưởng, 10 phó tỉnh trưởng, 8 quận
trưởng, 30 phó quận trưởng, 26 trưởng ty phát triển sắc tộc, 24 phó
trưởng ty, 9 chủ sự, 58 trưởng chi, 4 chánh án, 4 lục sự, 74 phụ thẩm
tỉnh và thị xã, 270 phụ thẩm xã, 106 hiệu trưởng trung và tiểu học, 10
thanh tra học vụ, 7 giám thị và 3 quản đốc ký túc xá. Sắc luật 007/71 ấn
định số ghế dành cho người Thượng trong quốc hội là 6 ghế và thượng
viện 2 ghế. Hơn một nửa số ghế nghị viên hội đồng tỉnh và thị xã trên
cao nguyên (25 trên 49 ghế) thuộc về người Thượng, đa số là người Djarai
và Rhadé.
– Về hành chánh, trong tổng số 553 xã và
2.004 ấp có người sắc tộc cư ngụ, 388 xã và 1.555 ấp do người Thượng
trực tiếp quản trị.
– Về giáo dục và đào tạo, có 65.943 học
sinh theo học các trường trung tiểu học và sơ cấp, 142 sinh viên (18 đã
tốt nghiệp), 1.483 học sinh cao đăng kỹ thuật (745 đã tốt nghiệp), nhiều
cán bộ tại chức và sinh viên Thượng được cử ra nước ngoài tu nghiệp.
Trung Tâm Huấn Luyện Trường Sơn tại Pleiku, thành lập năm 1965, đào tạo
hơn 15.000 cán bộ xây dựng sắc tộc và đến tháng 10-1970 đổi thành Trung
Tâm Huấn Luyện Cán Bộ Thượng (tương đương với Trung Tâm Huấn Luyện Cán
Bộ Vũng Tàu dành cho người Kinh), mỗi năm đạo tạo khoảng 270 cán bộ hành
chánh Thượng cho các xã ấp và đoàn trưởng Xây Dựng Nông Thôn. Từ 1970
đến 1975, hơn 50 cán bộ Thượng ưu tú được gởi đi học các khóa tham sự
hành chánh tại Học Viện Quốc Gia Hành Chánh Sài Gòn.
– Về quân sự, hơn 15.000 binh sĩ Thượng
đứng dưới cờ Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có 734 sĩ quan (130 sĩ quan
được điều chỉnh cấp bực ngày 1-2-1969) và hơn 3.000 hạ sĩ quan.
– Về xã hội, quân đội và các hội thiện
nguyện Hoa Kỳ (CORDS, USAID, USOM, World Relief…) đã xây dựng nhiều cơ
sở hạ tầng và tiện nghi vật chất nhằm nâng cao dân trí và mức sống của
người Thượng. Không một làng xã nào (đã bình định xong) không có điện
nước và hệ thống đường sá đi tới. Tại mỗi trung tâm định cư, người Mỹ đã
giúp các trẻ em Thượng học tập nếp sống văn minh mới. Sách giáo khoa
bằng 12 thổ ngữ khác nhau, phần lớn do các chuyên viên Hoa Kỳ sáng tạo
trừ tiếng Bahnar và Rhadé đã có từ trước, được giảng dạy ở bậc tiểu học.
Các giáo hội Thiên Chúa Giáo thành lập rất nhiều cơ sở từ thiện để chăm
sóc sức khỏe và giúp đỡ người Thượng. Tại Buôn Ma Thuột, Tuyên Ðức và
Lâm Ðồng các mục sư Tin Lành xây dựng nhiều nhà thờ và bệnh xá; tại
Pleiku và Kontum, các giáo sĩ Công Giáo mở các lớp học và trại cứu tế
giúp dân Thượng. Các tòa án phong tục cũng được thành lập khắp nơi để
phân xử những tranh chấp của từng sắc tộc.
Nói chung, giới trẻ Thượng thừa hưởng
trực tiếp những cải tổ nhằm nâng cao mức sống vật chất và văn hóa. Tuy
vậy, phần lớn thanh niên Thượng, quen với tiện nghi vật chất thành thị,
xa rời nếp sống cổ truyền. Nhiều nhà nhân chủng và lãnh đạo tôn giáo
Pháp nói tới hiện tượng phi văn hóa (aculture); xấu miệng hơn, người ta
còn nói hiện tượng Việt hóa (?) của người Thượng.
Cũng nên biết là, do yêu cầu của chiến
tranh, nhiều buôn làng Thượng buộc phải dời ra khỏi những khu oanh kích
tự do (free fire zone) để định cư trong ấp chiến lược dọc các trục lộ
giao thông hay cạnh các trung tâm đô thị lớn, nếp sống và lối canh tác
cổ truyền đã phần nào bị xao lãng. Phe cộng sản, mất địa bàn hoạt động,
xúi giục dân chúng Thượng trở về chốn cũ. Tây Nguyên còn là nơi diễn ra
những trận chiến kinh hồn giữa các phe tranh chấp, hàng trăm ngàn thanh
niên Việt Nam và Thượng đã bỏ mình trên các chiến địa và hàng triệu tấn
bom đạn đã dội xuống vùng này. Những địa danh như Khe Sanh, A Sao, A
Lưới, Chu Prong, Dakto, Plei Me, Toumơrong, Buôn Hô… là những sử tích
trong chiến tranh Việt Nam.
Chống đối vẫn tiếp tục
Tại Việt Nam, chính quyền đồng nghĩa với
quyền lực và quyền lợi, tranh chấp địa vị thường xuyên xảy ra mỗi khi
phân bổ chức vụ. Những lãnh tụ Thượng trong chính quyền, vì chưa quen
với sinh hoạt chung với nhau, đều giành tối đa quyền lợi về cho sắc tộc
mình. Mặc dù chỉ là một cơ quan tư vấn, sự đề cử người vào Hội Ðồng Sắc
Tộc gây tranh chấp lớn giữa các lãnh tụ Thượng (ai được chỉ định và ai
phải qua bầu cử, tỷ lệ là bao nhiêu?) và làm cản trở sự điều hành của
định chế. Vai trò của Bộ Phát Triển Sắc Tộc rất là quan trọng, ngân sách
của bộ lớn hơn Bộ Chiêu Hồi và Bộ Lao Ðộng, tranh nhau nắm bộ này là ưu
tư chính của những lãnh tụ Bahnar, Djarai và Rhadé. Nhưng chính quyền
Sài Gòn chỉ thường ưu đãi những người phục tùng chế độ, ngày 17-6-1971,
Nay Luett, một lãnh tụ Djarai, thay Paul Nưr trong chức vụ tổng trưởng
cho tới tháng 4-1975, cán bộ Rhadé đông hơn chỉ giữ vai trò thứ yếu do
đó rất bất mãn. Thêm vào đó, sự có mặt của chuyên viên kỹ thuật gốc Kinh
trong bộ càng làm những lãnh tụ Thượng tức tối, vì cho rằng chính quyền
muốn kiểm soát hoạt động của bộ, việc điều hành thường bị trì trệ.
Mặt khác, đối với chính quyền Việt Nam
Cộng Hòa, FULRO là phong trào của riêng người Thượng, do đó mọi cố gắng
đều dồn cho người Thượng, do đó, trong Phong Trào Ðoàn Kết, đại diện các
sắc tộc thiểu số đều có mặt theo tỷ lệ, trừ người Chăm và người Khmer
(vì sinh sống ở đồng bằng nên không được công nhận là những sắc tộc quốc
gia). Riêng những lãnh tụ Khmer còn bị nghi ngờ có quan hệ với chính
quyền Phnom Penh, một chính quyền thân cộng do Sihanouk đứng đầu. Trong
một cuộc bỏ phiếu tại quốc hội ngày 7-10-1969, 98 dân biểu ủng hộ thành
lập một qui chế đặc biệt cho người Khmer nhưng bị thủ tướng Trần Thiện
Khiêm phủ quyết vì quyền lợi và an ninh quốc gia. Sự kiện này càng làm
cho nhóm Khmer Chăm và Khmer Krom tại Kampuchea thêm bất mãn.
Phong trào FULRO hải ngoại:
Ðể làm áp lực với nhóm FULRO Thượng về
qui chánh tại Việt Nam, cuối tháng 10-1969, Lès Kossem thành lập ủy Ban
Hành Ðộng Lâm Thời Trung ương, bên cạnh ủy Ban Chỉ Ðạo Tối Cao do ông
lãnh đạo và cử hai người Chăm, Hoàng Minh Mộ làm chủ tịch và Huỳnh Ngọc
Sắng (Ya Mabrang) phó chủ tịch kiêm ủy viên tổ chức. Nhưng đến cuối năm
1970 Lès Kossem giải tán ủy Ban Hành Ðộng Lâm Thời Trung ương vì bất lực
và thành lập ủy Ban Lãnh Ðạo FULRO do Y Bun Sor vừa từ Pháp trở về lên
làm chủ tịch.
Ngày 18-3-1970, Lès Kossem giúp tướng
Lon Nol cùng nhóm Khmer Sray, do Intam và Cheng Heng lãnh đạo, lật đổ
Sihanouk. Sau cú đảo chính này, Lès Kossem được Lon Nol giao toàn quyền
tổ chức đội quân thiểu số tại Kampuchea gồm 7 tiểu đoàn sắc tộc thiểu số
người Chăm, Khmer Krom (người Khmer trên đồng bằng sông Cửu Long) và
Phnong (Phnong là người Thượng theo tiếng Khmer), tất cả gom lại thành
hai lữ đoàn: Lữ Ðoàn 5 Bộ Binh gồm toàn người Chăm do trung tá Chek
Ibrahim chỉ huy và Lữ Ðoàn 40 Biệt Kích gồm toàn người Thượng do Y Bhan
Kpor chỉ huy.
Lès Kossem cử người lên Mondolkiri kêu
gọi lực lượng FULRO Thượng về hợp tác trong ý đồ tái lập vương quốc
Champa và thành lập Cộng Hòa Tây Nguyên. Một số đơn vị FULRO Thượng ly
khai, mất nguồn tiếp liệu, phải về hợp tác với Lès Kossem và được bổ
sung vào Lữ Ðoàn 40; số còn lại hợp tác với quân Khmer Ðỏ, được phe cộng
sản Việt Nam trang bị và tiếp tế, chống lại Phnom Penh. Thủ lãnh FULRO
Thượng Y Bham ênuôlvẫn bị giam lỏng tại Phnom Penh
Việc làm đầu tiên của Lès Kossem trong
chức vụ mới là xúi giục các nhóm Khmer Krom và Khmer Chăm tấn công các
làng xã và ghe thuyền của người Việt quanh Phnom Penh và dọc lưu vực
sông Mékong, làm dấy lên một phòng bài Việt trên khắp lãnh thổ Kampuchea
tháng 4-1970. Sự sát hại người Việt một cách quá đáng buộc chính quyền
Việt Nam Cộng Hòa đưa quân sang Kampuchea bảo vệ đồng thời phá luôn các
căn cứ quân sự của phe cộng sản dọc vùng biên giới, đặc biệt là tại khu
Mỏ Vẹt (tỉnh Svay Rieng). Phnom Penh sau đó bị đặt dưới trướng Sài Gòn
và phong trào săn đuổi người Việt trên đất Kampuchea cũng chấm dứt.
Trước thế lực áp đảo của lực lượng Khmer
Ðỏ, cuối năm 1971 Lon Nol phong Lès Kossem hàm thiếu tướng và cử làm
tổng trấn Phnom Penh; hai lữ đoàn sắc tộc được triệu về trấn thủ quanh
thủ đô. Tại đây, thấy không thể dùng võ lực đánh lại Việt Nam, Lès
Kossem thành lập Phái Ðoàn Vận Ðộng FULRO Hải Ngoại vận động các quốc
gia dầu lửa hồi giáo ả Rập và Ðông Nam á ủng hộ phong trào FULRO của
ông. Mở đầu cuộc vận động, Lès Kossem dẫn 5 sĩ quan tùy tùng đi Saudi
Arabia xin viện trợ và viếng thăm La Mecque, sau đó sang Pháp, Mã Lai,
Indonesia, Nhật Bản và Thái Lan gặp những vị nguyên thủ quốc gia xin
giúp đỡ tài chánh và quân sự. Về lại Phom Penh, Lès Kossem tập trung 15
lãnh tụ Chăm chia thành ba nhóm đi vận động ngoại giao: nhóm đi các nước
ả Rập, do Primé đại diện, nhóm đi Ðông Nam á do El Ibrahim cầm đầu và
nhóm đi êu Châu do chính Lès Kossem hướng dẫn.
Uy tín của Lès Kossem ngày càng lên cao,
ngày 26-10-1972 ông được Lon Nol cử làm đặc sứ đi Indonesia và các nước
Ðông Nam á giải thích lập trường của chính phủ Kampuchea. Nhân dịp này,
ông vận động với các quốc gia hồi giáo Ðông Nam á giúp người Chăm phục
hồi vương quốc Champa. Nhiều buổi hội thảo về nền văn minh và văn hóa
Chiêm Thành, những quan hệ của Chiêm Thành với các quốc gia trong vùng
được tổ chức tại các thủ đô Ðông Nam á và Châu êu, từ 1972 đến 1975,
nhằm tố cáo cuộc Nam tiến của người Việt Nam. Nhưng tham vọng của Lès
Kossem đã không được toại nguyện, Khmer Ðỏ chiếm nhiều tỉnh ở phía bắc
(Strung Treng, Kratié, Rattanakiri và Mondolkiri) và tiến dần về thủ đô
Phnom Penh. Lon Nol gọi Lès Kossem về bảo vệ thủ đô, hai lữ đoàn sắc tộc
đã chống trả dữ dội các cuộc tiến công của quân Khmer Ðỏ, cuối cùng thủ
đô Phnom Penh cũng bị thất thủ. Ngày 15-4-1975, Les Kossem cùng gia
đình và một số thân tín sang Pháp tị nạn.
Phong trào FULRO Dega:
Năm 1970, cuộc chiến tại Việt Nam bước
vào giai đoạn thương nghị, người Mỹ muốn rút lui và chuẩn bị Việt Nam
hóa chiến tranh, các phe thù địch chuẩn bị cho giai đoạn hậu chiến.
Ðối với một số nhân sĩ Thượng, nhất là
những lãnh tụ Rhadé, Phong Trào Ðoàn Kết (bị giải tán năm 1972) không
thực sự tranh đấu cho quyền tự trị của người Thượng trên cao nguyên. Ðầu
năm 1972, những người này thành lập Ban Bảo Vệ Dân Tộc, chống lại chính
sách Thượng vụ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Cuối năm 1972, Ban Bảo
Vệ đổi tên thành Mặt Trận Giải Phóng Cao Nguyên Người Thượng (Front de
Libération des Hauts Plateaux Montagnards-FLHPM), còn gọi là FULRO Dega –
do Y Bham nuôl (vắng mặt) làm chủ tịch và Kpa Koi phó chủ tịch – tranh
đấu đòi quyền tự trị cho người Thượng. Dega theo tiếng Rhadé là những
đứa con của rừng núi. Cờ Dega ba màu (xanh lá cây, trắng và đỏ), ở giữa
là một đầu voi trong vòng tròn màu vàng. Tổ chức này độc lập với phong
trào FULRO ở Kampuchea.
FLHPM đặt tên cao nguyên miền Trung là
Cộng Hòa Dega và thành lập một chính phủ lâm thời gồm 11 bộ do các ông Y
Bliêng Hmok, Y Chôn Mlô Duôn Du, Kpa Koi, Y Bách êban, Y Prêh, Y Nguê,
v.v… đảm nhiệm. Cộng Hòa Dega được chia thành năm quân khu: quân khu I
gồm cao nguyên Kontum, Quảng Ngãi, Bình Ðịnh; quân khu II: cao nguyên
Pleiku, Cheo Reo (Phú Bổn cũ) và Phú Yên; quân khu III: cao nguyên Ðắt
Lắc, Mdrack (Khánh Dương cũ) và Dak Nong (Quảng Ðức cũ); quân khu IV:
cao nguyên Lang Biang (Tuyên Ðức cũ), Brah Yang (Lâm Ðồng cũ) và Gung
Car (Ðồng Xoài cũ); và quân khu V gồm Ninh Thuận và Bình Thuận. Nhóm
FULRO Champa được giao cai quản quân khu V.
Sự ra đời của FULRO Dega nằm trong kế
hoạch thành lập nhiều lực lượng thứ ba của Mỹ, do tướng John Paul Van
khuyến khích, để tranh quyền với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhất là
với Mặt Trận Tây Nguyên Tự Trị do Y Bih Aleo lãnh đạo, trong chính phủ
liên hiệp gồm ba thành phần tại miền Nam Việt Nam, theo tinh thần Hiệp
Ðịnh Paris 1973.
Ðể gây thế lực, phong trào Dega bí mật
kêu gọi nhân sĩ, sĩ quan và binh sĩ Thượng trở về Tây Nguyên chuẩn bị
cho cuộc đấu tranh mới. Ðầu năm 1975, lực lượng quân sự FULRO Dega có
trên 10.000 tay súng (hơn 2/3 binh sĩ Thượng trong quân lực Việt Nam
Cộng Hòa gia nhập hàng ngũ Dega), bộ chỉ huy và các căn cứ quân sự được
thiết lập dọc biên giới Ðắt Lắc, Quảng Ðức và Mondolkiri.
Tháng 3-1975, quân cộng sản gia tăng áp
lực trên cao nguyên. Sau khi làm chủ Buôn Ma Thuột ngày 19-3-1975, đại
tá Y Blok êban (một lãnh tụ trong Mặt Trận Tự Trị Tây Nguyên) được phong
làm chủ tịch ủy Ban Quân Quản và kêu gọi dân Thượng hợp tác.
Những lãnh tụ Thượng tại Sài Gòn, mất
liên lạc với các tỉnh cao nguyên, loan báo nhiều tin khó kiểm chứng. ông
Nay Luett, bộ trưởng Bộ Phát Triển Sắc Tộc, tố cáo FULRO Dega hợp tác
với cộng sản đánh chiếm Buôn Ma Thuột. Trong thực tế, quân Dega chỉ lợi
dụng tình trạng hỗn độn trên cao nguyên sau khi quân đội miền Nam rút
lui để chiếm một số quận huyện dọc biên giới.
Hay tin Buôn Ma Thuột thất thủ, Nay
Luett thành lập Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc Cao Nguyên nhằm tập hợp tất cả
lực lượng Thượng không cộng sản còn lại, kể cả những cựu thành viên
FULRO Thượng, tái chiếm Tây Nguyên. Nhưng thời gian đã quá cấp bách để
có một hành động cụ thể, những người lãnh đạo Mặt Trận Cứu Nguy Dân Tộc
cũng chạy theo đoàn người vĩ đại di tản sang Hoa Kỳ, số còn lại trở về
cao nguyên sống lẫn trong dân.
Tại Sài Gòn, chiều ngày 30-4-1975 ông Y
Chôn Mlô Duôn Du, tổng thư ký Bộ Phát Triển Sắc Tộc, đứng đầu ủy Ban
Cách Mạng Dân Tộc Thiểu Số do ông thành lập để bàn giao Bộ Phát Triển
Sắc Tộc cho đại diện Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, rồi trở về Ðắt Lắc.
Thời kỳ vàng son của người Thượng trong sinh hoạt chính trị tại Việt Nam
chấm dứt.
Phong trào cộng sản và người Thượng
Từ sau 1938, cán bộ Việt Minh thành lập
nhiều mật khu trên các vùng rừng núi phía Ðông dãy Trường Sơn, cạnh các
buôn làng Thượng, để chống Pháp. Sự kề cận này buộc những cán bộ Việt
Minh phải giao tiếp với cộng đồng người Thượng để được tiếp tế và, qua
đó, hiểu biết phong tục, tập quán của người Thượng. Tại Bình Ðịnh, cán
bộ Việt Minh còn giả làm người Thượng để che mắt quân đội Pháp trong các
cuộc bố ráp. Sau 1945, cán bộ Việt Minh chính thức xuất hiện trên cao
nguyên và hoạt động ngay trong các thành phố lớn. Với khẩu hiệu dân tộc
Tây Nguyên tự trị, phong trào Việt Minh đã thu phục toàn bộ thành phần
ưu tú người Thượng do Pháp đào tạo. Hàng ngàn cán bộ và binh sĩ Thượng
gia nhập phong trào Việt Minh và được giao những chức vụ quan trọng tại
các địa phương như các ông Nay Phin (đại biểu Cheo Reo), Y Wang (đại
biểu Ðắt Lắc), Nay Der (đại biểu Kontum, Pleiku kiêm chủ tịch ủy Ban Sắc
Tộc), Y Klam (trưởng Ðoàn Thanh Niên Sắc Tộc) và các ông Y Ngô Buôn Ya,
Y Thang Niê Kdam, Y John Niê Kdam là những sĩ quan cao cấp… Tiểu đoàn
Cứu Quốc Quân Ðắt Lắc, do ông Y Bih Alêo chỉ huy, đã tham gia nhiều trận
đánh lớn trên cao nguyên.
Sau 1954, khoảng 120.000 cán bộ Việt
Minh từ miền Nam ra Bắc tập kết, trong đó có khoảng 6.000 người sắc tộc,
đa số là người Rhadé và Djarai. Thanh niên Thượng tập kết được Chu Văn
Tấn, chủ tịch ủy Ban Dân Tộc, cho đi học tại Trường Các Dân Tộc Thiểu Số
Phía Nam tại Gia Lâm. Chương trình học tập văn hóa bằng tiếng Việt,
trình độ tiểu học, gồm các bộ môn lịch sử và văn hóa Việt Nam. Các học
viên Thượng còn được hướng dẫn sử dụng bản đồ, địa bàn và học tập chính
trị (chủ nghĩa Mác Lênin và các khẩu hiệu chống Ngô Ðình Diệm). Cuối năm
1959, hơn 4.000 thanh niên Thượng đã tốt nghiệp từ trường này, mỗi khóa
400 người. Trong thời gian học tập, các học sinh được nuôi ăn ở và đưa
đi thăm các danh lam thắng cảnh của miền Bắc. Thỉnh thoảng các lãnh tụ
đảng cộng sản đến ủy lạo tinh thần học sinh Thượng.
Từ tháng 3-1955 trở đi, những học sinh
Thượng ưu tú được gởi vào Trường Sư Phạm Trung ương để trở thành giáo
viên và cán bộ sắc tộc. Thời gian học tập gồm 9 tháng, mỗi khóa đào tạo
khoảng 410 cán bộ, trong đó có 120 người Thượng. Nhiều cán bộ Rhadé,
Djarai và Sedang ưu tú, sau khi tốt nghiệp được đưa sang Liên Xô và
Trung Quốc tu nghiệp trong những trường sắc tộc. ông Y Ngôn Niê Kdam,
đại biểu quốc hội năm 1956, được đưa sang Liên Xô học tập chính trị và
quân sự.
Trong thời gian này, Hà Nội chuẩn bị kế
hoạch đưa cán bộ vào miền Nam vận động tổng tuyển cử, dự trù vào tháng
7-1956 theo qui định của hiệp định Genève. Các đoàn thám hiểm đầu tiên
được cán bộ Thượng tập kết hướng dẫn, đi từ Nam Lào vào Tây Nguyên, rồi
từ Tây Nguyên xuống Sông Bé tiến vào Tây Ninh. Cuộc tổng tuyển cử đã
không xảy ra, tất cả ở lại nằm vùng trong các thôn xóm và vận động dân
chúng chống lại chính quyền miền Nam.
Năm 1958, lợi dụng tình trạng xáo trộn
trên cao nguyên, cán bộ cộng sản vào các làng Thượng tuyển mộ và đưa
từng đợt 50 thanh niên ra Bắc học tập, sau đó đưa về Tây Nguyên hoạt
động.
Ðể đối trọng với phong trào Bajaraka của
Y Bham nuôl, tháng 10-1960 Hà Nội thành lập Phong Trào Dân Tộc Tự Trị
Tây Nguyên, gọi tắt là Phong Trào Tự Trị Tây Nguyên, do các ông Y Bih
Aleo, Y Thang Niê Kdam, Y Ngôn Niê Kdam cầm đầu tại Kon Hanung. Phong
trào này là một bộ phận của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (thành lập
tháng 12-1960), có nhiệm vụ mở đường Trường Sơn (đường mòn hồ Chí Minh)
vận chuyển người và vũ khí vào Nam.
Người Hré, Ktu, Bru Vân Kiều và Tà Ôi
trên cao nguyên miền Trung được giúp đỡ tận tình vì nơi sinh trú của họ
nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh, giữa Khe Sanh và Nam Lào. Người Stiêng
và Mnong trên cao nguyên miền Nam càng được chiếu cố vì địa bàn sinh
sống của họ (phía Tây Bắc Sài Gòn) là nơi đặt bản doanh của cục R, cơ
quan đầu não của phe cộng sản ở miền Nam. Sóc Bombo của người Stiêng đã
một thời được thổi phồng như một thành trì chống Mỹ. Khu vực Tam Biên
(nơi giáp ranh cũ giữa Kampuchea, miền Nam và miền Trung) gần như là
vùng giải phóng. Qui chế tự trị được áp dụng ngay tại Dak Goklam, Ban
Tăng, Ban Het, Dak Sút, Sa Thầy, Plei Ya… 40% thanh niên trong mỗi làng
được huy động xây dựng đường mòn Hồ Chí Minh.
Mặc dù được phong nhiều chức vụ danh dự
trong các tổ chức vệ tinh của đảng cộng sản và Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam, như phó chủ tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (ông Y Bih
Alêo), chủ tịch các ủy ban sắc tộc, sĩ quan quân đội…, vai trò của
những lãnh tụ Thượng rất là lu mờ. Họ không được tham gia vào bất cứ
quyết định quan trọng nào liên quan tới cuộc chiến. Ban lãnh đạo cộng
sản rất sợ người Thượng kết hợp lại với nhau nên đã bằng mọi cách ly
gián hay gây chia rẽ các nhóm Thượng với nhau. Mọi liên lạc với các tổ
chức Thượng khác, kể cả những tổ chức chống lại chính quyền miền Nam,
đều bị ngăn chặn.
FULRO Dega và chính quyền cộng sản
Lợi dụng tình trạng hỗn độn trên cao
nguyên giữa tháng 3-1975, dân chúng Chăm và Thượng thu nhặt vũ khí, quân
trang và quân dụng, do quân lực Việt Nam Cộng Hòa vứt bỏ trong các cơ
quan và dọc các quốc lộ 1, 14, 19, nộp cho lực lượng FULRO Dega. Với số
lượng vũ khí và lương thực khô thu nhặt được, bộ tham mưu FULRO Dega,
cảm thấy đủ khả năng đối đầu với quân đội cộng sản, ra lệnh cho các đơn
vị FULRO chiếm nhiều đồn bót dọc vùng biên giới, một số buôn làng tại
Kontum, Pleiku, Ðắt Lắc, Quảng Ðức, Lâm Ðồng và Ninh Thuận. Lực lượng
FULRO Dega và FULRO Champa lúc đó có trên 12.000 tay súng và hơn 8.000
du kích.
Tại Phan Rang, giữa tháng 4-1975, Huỳnh
Ngọc Sắng (về lại Việt Nam từ đầu năm 1973) cùng Vạn Thanh Bình và Kiều
Ngọc Quyên chỉ huy FULRO Champa quân khu V. Lực lượng Chăm, gồm 2.000
tay súng, thành lập những đội du kích bảo vệ thôn ấp. Cờ FULRO được treo
khắp nơi. Khi bộ đội cộng sản tiến vào, du kích Chăm nổ súng chống lại,
nhưng sau vài cuộc chạm súng các đội võ trang Chăm bị đánh bại dễ dàng,
nhiều người bị thiệt mạng, một số bị bắt và một số khác trốn lên cao
nguyên Di Linh hợp cùng các nhóm Dega tổ chức kháng chiến.
FULRO quân khu I chặn đánh các đường
tiếp tế từ đồng bằng lên Kontum. FULRO quân khu II tấn công các buôn
làng quanh Pleiku và Cheo Reo, sát hại nhiều cán bộ cộng sản. FULRO quân
khu III chiếm các quận Lạc Thiện, Buôn Hô, Krong Pách… giết và làm bị
thương hàng chục cán bộ và bộ đội, phục kích các đoàn xe quân sự và hành
khách trên các quốc lộ 14 và 19. FULRO quân khu IV đánh phá các quận
Ðơn Dương, Ðức Trọng, Lạc Dương, Di Linh, chặn xét xe đò trên các quốc
lộ 15, 20 và 21. FULRO quân khu V, lôi kéo hàng ngàn thanh niên Chăm và
Roglai vào bưng.
Tháng 6-1975, chính quyền cộng sản tung
chiến dịch truy quét FULRO trên khắp Tây Nguyên. Nhiều cuộc hành quân
qui mô, có chiến xa và trọng pháo yểm trợ, đánh thăng vào những sào
huyệt của FULRO tại Ðắt Lắc, Lâm Ðồng và Tuyên Ðức. Những quận huyện và
buôn làng bị chiếm đều lấy lại được, nhiều cán bộ FULRO Dega cao cấp lần
lượt bị bộ đội cộng sản Việt Nam bắt (Y Chôn Mlô Duôn Du, Y Bliêng
Hmok, Y Nguê, Y Djao Niê, Nay Guh, Nay Fun, Nay Rong) và bị giam trong
các trại cải tạo tại Buôn Ma Thuột và Lâm Ðồng.
Hơn 2.000 quân FULRO Dega chạy sang
Kampuchea lánh nạn và được Khmer Ðỏ tiếp nhận. Lực lượng này do đại tá Y
Peng Ayun chỉ huy với ban tham mưu gồm nhiều sĩ quan cao cấp như trung
tá Y Hinnie, Y Bhong Rcam, Y Yỗn, Kpa Koi, Htlon…, trong đó có cả mục sư
Budar Su Kbông. Binh sĩ Dega được giúp đỡ và trang bị thêm để tiến qua
Việt Nam đánh chiếm các làng ven biên tại Lâm Ðồng, Sông Bé và Ðắt Lắc.
Những trận đánh tại vùng biên giới và dọc các quốc lộ trong những năm
1975 và 1976 rất là dữ dội.
Tại Ðắt Lắc, cuối tháng 5-1976, một số
lãnh tụ Thượng bị giam (Y Djao Niê, Nay Ful, Nay Rong, Nay Guh cùng
nhiều người khác) vượt ngục và ám sát ban lãnh đạo FULRO Dega cũ gồm các
ông Kpa Koi, Htlon, Y Bách êban, Y Dhê Buôn Dap, Hmang Mbon… để giành
quyền lãnh đạo. Tháng 7-1977, nhóm này thành lập một chính phủ mới, bộ
chỉ huy đặt tại Lạc Dương, phía Bắc Ðà Lạt. Y Djao (bí danh thiếu tướng
Dampa Kwei) tự phong thủ tướng và cử Ya Duk (người Koho) làm đổng lý văn
phòng, Nay Guh bộ trưởng quốc phòng, Nay Rong (trung tá) bộ trưởng
ngoại giao, Nay Ful bộ trưởng nội vụ (cả ba là người Djarai)… Tổ chức
quân sự vẫn giữ y như cũ gồm năm quân khu, nhưng chỉ quân khu IV, do
Paul Yưh (người Bahnar) làm tư lệnh, thực sự còn hoạt động. Vụ đảo chánh
này làm nhiều cán bộ FULRO nản chí, một số buông súng ra đầu hàng, một
số khác bỏ về làng làm nương rẫy.
Y Djao Niê cùng Huỳnh Ngọc Sắng lập
nhiều chiến khu từ Ðơn Dương (Drang), Tùng Nghĩa (Laba) đến Sông Pha
(Krong Pha) và phối hợp với thiếu tá Phong (tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn
302 Tuyên Ðức cũ) tấn công các đồn bót và sự di chuyển của bộ đội cộng
sản trên cao nguyên Lâm Ðồng. Từ 1977 đến 1978, lực lượng du kích này –
do Krajang Hput, người Koho, chỉ huy – đã tổ chức nhiều cuộc đột kích,
đốt phá nhiều trụ sở ủy ban nhân dân xã, huyện bắn pháo vào các đồn bót,
phục kích và bắt giữ những đoànđịa chất và lâm nghiệp, khủng bố những
người làm nghề khai thác cây rừng, chận xét xeđò, bắt cóc và ám sát cán
bộ thu mua lương thực trong các xã ấp quanh thị xã Ðà Lạt, các quận Ðơn
Dương và Lạc Dương.
Nhưng tranh chấp quyền lực giữa các lãnh
tụ FULRO với nhau làm tổ chức Dega yếu hăn đi. Y Djao Niê bị giết ngày
12-10-1978 tại Ðức Trọng, Y Ghok Niê Krieng lên làm thủ tướng ngày
22-1-1979, Ya Duk làm phó thủ tướng thứ nhất đặc trách nội trị và ngoại
giao kiêm phó chủ tịch thứ nhất FULRO Dega, Paul Yưh là phó thủ tướng
thứ hai đặc trách an ninh và quốc phòng; ban lãnh đạo phong trào đặt tại
Ðầm Ròn (Lâm Ðồng).
Tổng kết từ 1975 đến 1979, khoảng 8.000
binh sĩ Dega bị loại khỏi vòng chiến, phần lớn bị chết dưới những trận
tập kích của pháo binh và thiết giáp, số còn lại chết vì thiếu thuốc men
và bệnh tật. Nhiều người chịu không nổi cảnh thiếu thốn trong rừng sâu
đã ra đầu thú và đi ở tù. Sau 1980, phong trào kháng chiến Thượng, thiếu
sự hỗ trợ của dân chúng, yếu dần theo thời gian, những ổ kháng cự cuối
cùng lần lượt bị tháo gỡ và đến cuối năm 1982 thì phong trào FULRO trên
Tây Nguyên gần như tan rã, một số bị bắt, số còn lại ra đầu hàng.
Tại Kampuchea, hơn một ngàn người Thượng
đã chạy qua Thái Lan tị nạn khi bộ đội cộng sản Việt Nam tiến vào
Mondolkiri cuối năm 1979, hơn 200 binh sĩ Dega sau đó được sang Hoa Kỳ
tị nạn và 800 người Stiêng được Pháp nhận vào Guyane (Trung Mỹ) năm
1986. Lực lượng Dega còn lại phân tán thành nhiều toán nhỏ sống lẫn vào
dân chúng trong các buôn làng xa xôi.
Năm 1980, khoảng 1.500 FULRO Dega về lại
Việt Nam hoạt động. Các toán du kích Thượng đột nhập vào các tỉnh
Pleiku, Kontum, Ðà Lạt và Ðắt Lắc khủng bố, ám sát cán bộ xã ấp rồi rút
về Kampuchea. Năm 1981, quân FULRO đặt mìn phá trạm biến điện tại Gia
Lai Kontum, phục kích những toán công an tại Lâm Ðồng, chặn xét xe đò,
kêu gọi dân Thượng chống lại Việt Nam và bắt theo nhiều thanh niên
Thượng từ 15 tuổi trở lên vào bưng kháng chiến. Sự phản công của bộ đội
cộng sản Việt Nam cũng rất dữ dội: năm 1984 có 358 FULRO Dega bị giết,
1.734 bị bắt, 600 vũ khí bị tịch thu. Từ 1985 đến 1990, bộ đội cộng sản
Việt Nam tổ chức 63 cuộc hành quân trên Tây Nguyên, hạ sát 102 quân
FULRO, bắt sống 167 người khác và vô hiệu hóa hơn 10.000 dân Thượng
trong những buôn làng xa xôi, tất cả được dời về gần nơi thị tứ hay cạnh
các trục lộ giao thông để dễ canh chừng. Thiệt hại về phía bộ đội và
cán bộ cộng sản Việt Nam cũng rất cao, con số không được tiết lộ nhưng
chắc cũng bằng hoặc hơn nhóm Dega Thượng vì không quen đường đi nước
bước trong rừng và thường bị phục kích bất ngờ bởi những cựu biệt kích
Thượng.
Chính quyền Khmer thân Việt Nam, trong
những năm 1981-1983, cũng tổ chức nhiều cuộc hành quân tấn công vào sào
huyệt của lực lượng Khmer Ðỏ và FULRO Dega tại Mondolkiri nhưng bị thiệt
hại nặng phải lùi về đồng bằng. Phải chờ đến năm 1986, với sự trợ lực
của bộ đội Việt Nam, đại bản doanh FULRO Thượng tại Mondolkiri mới bị
phá hủy, tàn quân FULRO tản mác khắp nơi. Tháng 9-1991, lực lượng UNTAC
(United Nations Transitional Authority in Cambodia) của Liên Hiệp Quốc
bắt gặp hơn 400 FULRO Thượng với 175 súng cá nhân sống lây lất trong
rừng, tất cả được đưa sang Hoa Kỳ tị nạn năm 1992. Tháng 5-1998, một
nhóm sáu người (gồm ba đàn ông, một đàn và hai trẻ em, trang bị bằng
cung nỏ) thuộc lực lượng FULRO cuối cùng còn llẩn trốnbị bắt tại
ÐÐắtLắc, phong trào FULRO tại Việt Nam và Kampuchea coi như chấm dứt.
Tuy vậy, tại hải ngoại, phong trào FULRO
vẫn còn hoạt động. Y Bhan Kpor, thoát sang Thái Lan và được tị nạn tại
Hoa Kỳ, tiếp tục lãnh đạo phong trào Dega tại hải ngoại. Y Jut Buôn Tô,
cựu đốc sự hành chánh, và Kok Ksor là những người đại diện phong trào
trong việc ký kết hay hợp tác với các tổ chức khác. Hiện nay có trên ba
ngàn người Thượng tại Hoa Kỳ, đa số sinh sống tại hai tiểu bang North và
South Carolina trong bốn thành phố: Raleigh, Greenboro, Charlotte và
Spartanburg.
Người Thượng dưới chế độ cộng sản
Phong Trào Tự Trị Tây Nguyên của Y Bih
Alêo chết theo Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam năm 1976, những hứa
hẹn trong thời chiến tranh về quyền tự trị của người Thượng không còn
được nhắc đến, thay vào đó là chính sách dân tộc. dân tộc ở đây phải
hiểu là sắc tộc thiểu số và chính sách dân tộc là chính sách phòng vệ
biên giới, thuộc lãnh vực quốc phòng, chứ không phải để nâng cao đời
sống người thiểu số.
Việt Nam có trên ba ngàn cây số biên
giới đường bộ, một khu vực đang còn tranh chấp với các lân bang và là
nơi sinh trú của các sắc tộc thiểu số. Ðịa bàn cư trú của người Thượng
trên Tây Nguyên có một vị thế chiến lược quan trọng, đó là yết hầu của
ba nước Ðông Dương: làm chủ Tây Nguyên là làm chủ Việt Nam, Lào và
Kampuchea. Tây Nguyên chính vì vậy là một khu quân sự, do đảng cộng sản
trực tiếp quản lý qua trung gian các chính quyền địa phương, mặt trận tổ
quốc, quân đội và công an biên phòng. Một số làng-biên-giới được thành
lập dọc biên giới Kampuchea và Lào, các làng Thượng ven biên được dời
vào sâu trong nội địa.
Tùy theo mức độ phục tùng của từng nhóm
Thượng mà sự kiểm soát của chính quyền tăng hay giảm. Những lãnh tụ thời
chiến như Y Bih Alêo, Y Dhơn Niê Kdam, Nay Der, Nay Phin… đều đã già
hay đã chết, những cán bộ và đại biểu Thượng đang còn trong đảng hay tại
quốc hội và các chính quyền địa phương không có thực quyền, thành phần
cán bộ trẻ không được tin cậy, mọi chức vụ quan trọng đều do người Kinh
nắm giữ. Nơi cư trú của người Rhadé, Djarai, Bahnar và Stiêng bị canh
chừng nghiêm ngặt, mọi ngỏ ra vào Tây Nguyên đều bị kiểm soát. Ðoạn
đường từ Sài Gòn lên Ðà Lạt có hơn 20 trạm kiểm soát. Ðoạn đường từ Nha
Trang lên Buôn Ma Thuột có trên 15 trạm kiểm soát. Ðoạn đường liên tỉnh
từ Pleiku đến Kontum cũng có hơn 10 trạm. Du kích địa phương theo dõi
gắt gao quan hệ của từng người trong làng, nhất là quan hệ với các tu sĩ
và người ngoại quốc.
Phần lớn người Thượng ngày nay đã định
cư và định canh, chỉ còn khoảng 300.000 người vẫn còn duy trì nếp sống
du canh du cư. Từ sau 1976, đất công xã của các buôn làng đều bị tập thể
hóa, các định chế mẫu hệ (nhà rông, nhà tập thể) bị giải tán. Các tòa
án nhân dân thay thế các tòa án phong tục. Cán bộ lấn át vai trò của các
già làng, thanh thiếu niên Thượng tại những nơi đông dân bị đoàn thể
hóa. Tiếng Việt là ngôn ngữ chính giảng dạy trong các trường học, tiếng
mẹ đẻ cho trẻ em ở bậc tiểu học bị cấm. Tỷ lệ thất học trên Tây Nguyên
cao nhất nước, 60% trẻ em Thượng không đi đến trường vì thiếu ăn và
nghèo khó. Số học sinh tốt nghiệp trung học, rất ít, thường không tìm
được việc làm phải trở về buôn làng canh tác nông nghiệp. Bệnh tật nhiệt
đới (cùi, lao, kiết lỵ, sốt rét rừng…) là tác nhân gây tử vong cao
trong cộng đồng người Thượng, nhất là trẻ em. Mọi trợ giúp nhân đạo bất
cứ từ nguồn gốc nào đều bị thanh lọc gắt gao.
Tây Nguyên có từ 1,5 đến 1,8 triệu hécta
đất trồng trọt được nhưng hiện nay chỉ khai thác trên 400.000 mẫu. Từ
1976 đến nay, chính quyền cộng sản đã đưa hơn ba triệu người từ các tỉnh
đồng bằng sông Hồng và hơn 70.000 người thiểu số từ các tỉnh thượng du
miền Bắc lên Tây Nguyên khai thác số đất đai còn lại. Người Thượng trở
thành thiểu số trên chính quê hương của họ: 1,6 triệu (30%) trên tổng
dân số 5,4 triệu người. Theo luật sử dụng đất đai ban hành năm 1999,
diện tích canh tác của người Thượng bị thu hẹp lại, mỗi hộ dân chỉ được
thuê tối đa ba mẫu. Cũng nên biết trong mỗi nhà sàn (là một hộ) nhiều
gia đình sống chung với nhau theo chế độ sở hữu tập thể. Luật sử dụng
đất đai mới này phá vỡ nếp sống cổ truyền của người Thượng, vì mỗi nhà
sàn phải phân tán thành từng hộ nhỏ để có thể thuê thêm đất canh tác,
nếu không sẽ bị đói. Ðó là chưa kể nạn lợi dụng sự thật thà của người
Thượng bởi những di dân bất hảo để chiếm đoạt những khu đất tốt dọc các
con suối và các trục lộ giao thông. Tại một số nơi, do thiếu văn hóa,
những di dân còn đối xử với người Thượng như những nô lệ.
Sự có mặt ồ ạt của di dân từ đồng bằng
lên làm xáo trộn toàn bộ sinh thái trên Tây Nguyên. Do đời sống nghèo
khó và không được chính quyền giúp đỡ, sự hủy hoại môi trường sinh sống
của những di dân mới này rất là báo động. Hơn hai triệu hécta đất rừng
trên các vùng đồi núi biến thành đồi trọc, gây hạn hán mùa khô và lũ lụt
mùa mưa. Diện tích rừng từ 3,3 triệu hécta năm 1976 giảm xuống còn 2,5
triệu năm 1984 và ngày nay chưa tới một triệu. Ðó là chưa kể nạn khai
thác gỗ rừng bừa bãi của các công ty quân đội và công an biên phòng tại
các vùng biên giới để xuất khẩu. Thêm vào đó là nạn đào tìm kim loại và
đá quí bằng hóa chất gây ô nhiễm môi sinh, nhiều loại thú quí như cọp,
khỉ, công và rắn lục bị tuyệt chủng.
Tương lai của cộng đồng người Thượng rất
là bấp bênh, vấn đề hội nhập người Thượng vẫn còn nguyên vẹn. Dân tộc
Việt Nam đã trả những giá rất đắt cho hận thù và chia rẽ, chúng ta phải
thức tỉnh và nhìn ra những vết xe đổ. Xây dựng đồng thuận dân tộc phải
là ưu tư hàng đầu của những người muốn lãnh đạo Việt Nam tương lai
*Nguyễn Văn Huy là Tiến sĩ Dân tộc học, giáo sư phụ trách khoa Các Dân Tộc Ðông Nam Á tại Ðại Học Paris
Nguồn bài đăng
Nguồn bài đăng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét