KHỔNG GIÁO
Nguyễn Thanh Liêm
I - KHỔNG TỬ BẬC THẦY CỦA MUÔN ĐỜI
Khổng Tử ra đời năm
551 trước Tây lịch. Ngài là người nước Lỗ
nay thuộc vùng Sơn ĐÔng ở phía Bắc nước
Trung Hoa. Lúc mới lên ba tuổi Khổng Tử đã phải
chịu cảnh mồ côi cha. Năm 19 tuổi Khổng Tử
đã lập gia đình. Cuộc đời đi làm việc
cũng bắt đầu từ đó với chức vụ
rất khiêm nhường là “Ủy lại” là chức coi việc
thóc lúa trong kho. Ít lâu sau Khổng Tử được giữ
chức vụ trong coi nuôi bò để dùng trong vấn đề
tế lễ. Khổng Tử rất thích nghiên cứu học
hỏi, nhất là về những gì liên quan đến lễ
nghi, đến văn hóa và sử ký nước Tàu. Khoảng
29 tuổi Khổng Tử nhờ con của Lỗ Hầu
giúp đỡ phương tiện để đi đến
Lạc Ấp (kinh sư của nhà Chu) để học hỏi.
Ở đây có nhà Minh đường do triều đình lập
ra để chứa các luật lệ, thu tập những
bảo vật cùng những di tích của các bậc thánh hiền
đời trước (xem như là văn khố và bảo
tàng viện của chúng ta bây giờ vậy.) Nhờ đó
Khổng có cơ hội để khảo cứu tường
tận các nghi thức tế lễ, các thể chế nơi
miếu đường cũng như các nơi giao tế.
Học hỏi ở Lạc Ấp
được một thời gian Khổng Tử mới
trở về nước Lỗ. Cuộc đời đi
dạy học của Ngài bắt đầu từ đó,
tiếng tăm của Ngài bắt đầu được
đồn xa, số học trò theo học càng ngày càng đông.
Nhưng đến năm 517 trước Tây Lịch, lúc nầy
Khổng Tử đã được 35 tuổi, nước
Lỗ trải qua cơn loạn lạc, Khổng Tử phải
sang qua sống ở nước Tề một thời gian
hơn năm năm. Mãi đến năm 511 trước Tây
lịch Ngài mới trở về nước Lỗ để
san định sách vở. Lúc này Ngài đã được 42
tuổi. Ngài vẫn tiếp tục dạy học. Học
trò của Ngài rất đông. Họ đến từ nhiều
nơi trên khắp nước Tàu. Khổng Tử rất
vui với cuộc đời dạy học và bầu bạn
với nhiều người từ phương xa đến,
như Ngài đã nói trong quyển Luận Ngữ:
“Học nhi thời tập chi bất diệc duyệt hồ?
Hữu bằng tự
viễn phương lai bất diệc lạc hồ?”
Ý nghĩa của câu nầy là:
“Học và thường luyện tập chẳng đẹp
lắm sao? Có bầu bạn từ phương xa tìm đến
như vậy chẳng vui lắm sao?”
Tuy nhiên nhà giáo dù có yêu nghề,
yêu thương đệ tử đến đâu cũng
không thể quên được nợ núi sông. Học không phải
chỉ để “tu thân” với “tề gia”, nó còn đòi hỏi
người ta phải đem tài đức của mình ra để
“trị quốc” và giúp “bình thiên hạ” nữa. Khổng Tử
là bậc thầy đã dạy người ta phải “tu, tề,
trị, bình” thì không thể không tự mình áp dụng chủ
trương đó. Ngài phải đem “vương đạo”
ra thi thố, phải phổ biến chủ trương và
chánh sách chánh trị, đạo đức ở các nơi
trên nước Tàu. Do đó mà ngài đã tạm ngưng việc
dạy học để ra chấp chánh một thời
gian. Theo lời mời của vua nước Lỗ, Ngài ra
giữ chức Trung Đồ Tể, tức là Kinh Thành Phủ
Doãn (như Đô trưởng bây giờ.) Sau đó ít lâu được
thăng lên chức Đại Tư Khấu, cũng như
Hình Bộ Thượng Thư, tức như Tổng Trưởng
Tư Pháp ngày nay. Và sau cùng được cử làm Nhiếp
Tướng Sự, quyền nhiếp việc chính trị
trong nước như Thủ tướng của một
quốc gia vậy.
Tuy nhiên vì Ngài là người hết
mực đạo đức, chỉ muốn đem Vương
đạo ra thi thố trên đời, cho nên chánh sách cai trị
của Ngài tuy có lợi cho nhân dân vẫn không được
các vua chúa thời đó trọng dụng. Lý do dễ hiểu
là vì thứ chánh trị đạo đức đó chỉ
có lợi cho dân mà không thỏa mãn được lòng tham quyền
quý cao sang của vua chúa lúc bấy giờ. Khổng Tử và
một số ít đệ tử trung thành đã đi chu du
thiên hạ suốt mười mấy năm trời không
tìm được một nơi nào để có thi hành vương
đạo nữa. Sau 14 năm chu du khắp nước Tàu
mà không được ai dùng đến trong việc trị
nước. Ngài lại trở về nước Lỗ, sống
những ngày còn lại của cuộc đời nơi quê
nhà. Lúc này Ngài đã được 68 tuổi.
Năm 474 trước Tây lịch,
một hôm Khổng Tử dậy sớm đi tới đi
lui trước cửa vừa hát:
“Thái Sơn kỵ đồi
hồ?
Lương mộc kỵ
hoại hồ?
Triết nhân kỵ ngụy
hồ?
(Tạm dịch)
“Núi Thái Sơn có lẽ sẽ
đổ chăng?
Cây lương mộc
có lẽ sẽ nát chăng?
Người hiền
triết có lẽ sẽ nguy rồi chăng?”
Bài hát này nói lên tâm trạng của
Khổng Tử khi ngài nằm mộng thấy rằng mình sắp
sửa lìa đời. Ngài thuật giấc mộng đó
cho người học trò thân tín nhất của mình là Tử
Cống biết. Giấc chiêm bao thật là linh ứng. Mấy
hôm sau Khổng Tử trút hơi thở cuối cùng. Ngài thọ
73 tuổi.
Khổng Tử mất rồi
các đệ tử vô cùng thương tiếc. Ai cũng để
tang ba năm. Có hơn 100 đệ tử làm nhà ở gần
mộ Khổng Tử cho đến khi mãn tang. Riêng Tử Cống
thì đã ở đó đến hơn 6 năm.
Tư Mã Thiên trong phần thuật
lại cuộc đời của Khổng Tử đã viết:
“Tôi đọc sách họ Khổng, tưởng tượng
như trông thấy cách làm người của Thầy. Sang
nước Lỗ xem nhà thờ Khổng Tử với nào
xe, nào áo, nào đồ thờ, nào các học trò thời thường
đến đó tập lễ, tôi bồi hồi ở lại
không về được. Nhiều vua chúa và những người
tài giỏi khi sống rất vẻ vang nhưng khi chết
rồi là hết, chẳng còn gì để lại cho đời
sau. Thầy Khổng Tử thì áo vải đạm bạc
vậy mà khi mất đi rồi lời dạy của thầy
truyền hơn 10 đời mà học giả vẫn còn tôn
trọng. Từ Thiên Tử đến vương thần ở
nơi xứ Trung Quốc này, hễ nói đến Sấm
Kinh đều phải lấy thầy làm đích. Thật đáng
là bậc chí thánh vậy.”
Cuộc đời của Khổng
Tử là cuộc đời của một nhà giáo dục chân
chính, một bực thầy vĩ đại không phải là
chỉ riêng Trung Hoa mà còn cho cả thế giới loài người
nữa. Với Khổng Tử địa vị của ông
thầy đã được người đời xưa
nâng lên trên cả địa vị của ông cha trong gia đình
. “ Quân, Sư, Phụ” sau ông vua là đến ông thầy rồi
sau hết mới đến ông cha. Người cha cũng
có bổn phận dạy dỗ, giáo dục con cái của
mình, nhưng trong xã hội xưa người dạy dỗ
con mình nhiều nhất, người
theo dõi san sóc vun xới cái vườn kiến thức và đạo
đức của con mình biến nó thành một vườn
hoa tươi tốt người đó chính là ông thầy nó.
Làm cho một người trở thành một người có
kiến thức có đạo đức sống xứng đáng
với ý nghĩa cao đẹp của con người đó
là công của ông thầy, của người biết mang
trong mình cái trọng trách “hối nhân bất quyện” (dạy
người không biết mệt). Khổng Tử đã ý thức
được sứ mạng cũng như thiên chức
cao quý của một lương sư. Sứ mạng cũng
như thiên chức đó là truyền bá cho người đời
đạo làm người hay lề lối sống thế
nào để cho cá nhân, gia đình, quốc gia, xã hội loài
người được tốt đẹp, trật tự,
hòa bình. Hậu thế đã tôn sung Ngài như bậc thầy
của muôn đời, bậc “vạn thế sư biểu”,
bởi chủ trương, đường lối, mục
tiêu, phương pháp giáo dục của Ngài chứa đựng
nhiều giá trị mà người đời sau phải công
nhận và học hỏi.
Giáo dục là phải đổi
mới. Nhưng đổi mới ở đây không phải
cắt đứt hẳn với quá khứ để khoác
lên mình một bộ mặt hoàn toàn mới lạ không liên hệ
gì tới dĩ vãng. Giáo dục không phải là cách mạng để
có thể xóa bỏ hết những gì đã có dù tốt, dù
xấu. Sự đổi mới của giáo dục có tính cách
liên tục và chọn lọc. Người làm giáo dục phải
nghiên cứu học hỏi cái cũ, chọn lấy cái hay
cái đẹp của quá khứ để từ đó thêm
vào cái tốt đẹp của cái mới. Một phần
quan trọng của cuộc đời Khổng Tử đã
được dâng hiến cho việc sưu tầm, nghiên
cứu, chọn lọc, san định kinh sách để lưu
truyền di sản tinh thần tốt đẹp đó của
cố nhân cho thế hệ sau nầy. Khổng Tử đã
từng khiêm nhượng bảo là Ngài chỉ “thuật nhi
bất tác” (có nghĩa là chỉ thuật lại những gì
người xưa đã nói chớ chính mình không có sáng tác gì
mới mẻ), nhưng ngay trong việc thuật lại đó
cũng đã có phải sáng tác lớn lao của Ngài rồi.
Vì thuật lại ở đây không có nghĩa là ghi chép lại
trọn vẹn y như cũ mà là nghiên cứu, sưu tập,
chọn lựa, sắp xếp làm thành hệ thống. Đó
là một hình thức sáng tác vậy… Vả lại Khổng
Tử không phải chỉ đào sâu vào quá khứ thôi mà Ngài
còn bổ sung cho quá khứ đó nữa. Cho nên một ông thầy
giỏi, theo Khổng Tử phải là người biết
những cái mới bằng cách ôn lại những cái cũ.
Biết “Ôn cố nhi tri tân” là có thể dạy được
người khác vậy. Trong chủ trương trên người
ta thấy có tinh thần khiêm nhường để học
hỏi cái hay xưa cùng với tính cách liên tục từ trước
đến giờ và mãi mãi về sau. Nó không phải là một
thứ cách mạng cắt đứt hoàn toàn với quá khứ
để tạo ra cái gì mới mẻ lạ lùng. Nó bao hàm ý
nghĩa của sự tiến bộ, đổi mới, thực
hiện một cách chắc chắn vững chãi, tựa trên
sự tiếp nối liên tục với quá khứ.
Những suy tư về giáo dục
cũng như phương pháp học tập của Khổng
Tử tuy rãi rác ở nhiều chỗ trong Tứ Thư nhưng
phần chính yếu được cô đọng trong quyển
Đại học. Ngày nay chúng ta dùng danh từ đại học
để chỉ bậc học cao nhất trong ba bậc học
quen thuộc là tiểu học, trung học và đại học.
Bậc đại học là bậc tiếp theo và cao hơn
bậc trung học. Ngày xưa ở thời đại của
đức Khổng Tử, giáo dục chưa được
tổ chức có hệ thống và qui củ như ngày nay
thành ra chưa có sự phân định rõ ràng về ba bậc
tiểu – trung – đại học như bây giờ. Tuy nhiên
danh từ “Đại Học” mà Khổng Tử dùng làm nhan đề
cho quyển sách của Ngài cũng mang ý nghĩa của cái học
ở bậc cao. Thật sự thì cũng chẳng có tiêu
chuẩn nào ấn định rõ rệt thế nào là bậc
cao vì vậy nên nhiều học giả cho rằng đại
học ở đây chỉ cái học của bậc cao nhân
quân tử (hay đại nhân) tức là cái học của những
người có tài có đức để kẽ sĩ ra sức
gánh vác việc quốc gia, xã hội. Nhưng dù hiểu thế
nào đi nữa thì việc giáo dục của đức Khổng
Tử cũng có tính cách mở rộng cho mọi người
chớ không phải giới hạn cho một loại người
nào lúc bắt đầu. Không phải là bậc đại
nhân rồi mới được lựa chọn để
theo học. Không có vấn đề thi tuyển hay khảo
sát gì cả, và cũng không có một chính sách kỵ thị
nào trong vấn đề thu nhận người vào học.
Đối với Khổng Tử mọi người khi
sanh ra đời đều mang trong mình bản tánh tốt
tự nhiên ai cũng như ai. Nhưng khi lớn lên vì ảnh
hưởng của xã hội, của hoàn cảnh xung quanh và
môi trường sinh sống mà người ta thay đổi
khác nhau. Người ta khi sanh ra đời ai cũng có bộ
óc, có đời sống trí thức, hay cái “minh đức”
như Khổng Tử gọi, cho nên ai cũng có thể được
giáo dục để trở nên tốt đẹp hơn.
Vì ai cũng như ai, lúc bắt
đầu, ai cũng mang trong mình bản chất và giá trị
của con người, nên cần phải có cơ hội đồng
đều cho mọi người trong vấn đề học
vấn, giáo dục. Tính cách nhân bản của một nền
giáo dục bắt đầu từ chỗ đó. Dịch
vụ giáo dục phải được đem đến
cho mọi người một cách đồng đều không
có vấn đề sàng sãi, lựa chọn, thứ nhất
là bằng lý lịch của gia đình hay tổ tông, bằng
màu da, bằng nơi sanh đẻ bằng tình trạng kinh
tế xã hội (social economic status) hay bằng bất cứ
những yếu tố gì khác. Nền giáo dục được
coi là nhân bản phải bắt đầu từ chỗ mở
rộng cửa ngay từ đầu để đón nhận
mọi người như nhau. Vấn đề chuyên môn hóa
ở trên đại học ngày nay có thể đưa đến
sự giới hạn, chọn lọc sinh viên trong một số
ngành chuyên môn nào đó. Nhưng sự hạn chế số
sinh viên trong một ít ngành chuyên môn trên đại học không
phải là sự đóng kín cửa các đại học không
cho người ta được đi học vì một lý
do nào đó (như vì cha ông thuộc thành phần chánh trị
khác với nhóm người đang cầm quyền chẳng
hạn.) Nền giáo dục nhân bản phải bắt đầu
từ chỗ xem mọi người là con người như
nhau, nghĩa là cùng mang bản chất người và cùng có
giá trị của con người.
Giáo dục của đức
Khổng Tử bắt đầu từ chỗ đó. Đối
tượng của nó là con người với tất cả
giá trị của con người. Mở đầu quyển
Đại học Khổng Tử bảo: “Đại học
chi đạo tại minh minh đức, tại tân dân, tại
chỉ ư chí thiện.” Câu này có nghĩa là : “Con đường
của đại học là ở chỗ làm sáng cái đức
sáng ở nơi con người, ở chỗ làm mới người
dân, ở chỗ dừng lại ở nơi thật đẹp.”
Ý nghĩa thật sự của câu nói này cần được
khai triển thêm cho rõ. Nó nói lên mục tiêu của sự học
hỏi của bậc đại nhân. Mục tiêu đó là học
hỏi để làm cho tâm trí của mình được sáng
tỏ, và khi tâm trí mình được sáng tỏ mở mang
thì hãy đem sự hiểu biết của mình mà giúp đỡ
khai hóa người dân làm cho dân chúng được tiến
bộ mới mẻ, và tiếp tục giúp đỡ người
đời và quốc gia xã hội đưa quốc gia xã hội
đến chỗ thật tốt đẹp. Mọi người
ai cũng như ai, đều mang sẵn trong người
một cái “đức sáng” (minh đức) khi sanh ra đời.
Tuy nhiên vì hoàn cảnh xã hội, vì môi trường sinh sống
khác biệt của mỗi người mà cái đức sáng
đó không được phát huy hoặc bị lu mờ như
một tấm gương bị bám bụi. Công việc của
giáo dục là làm sao phát huy được đức sáng đó,
cũng như luôn luôn lau chùi tấm kiếng đừng cho
bám bụi để làm cho nó trở nên sáng sủa sẵn có
từ trước chớ không làm cho sự sáng sủa của
nó gia tăng. Ngược lại cái đức sáng ở nơi
con người nếu được trao dồi cẩn thận
sẽ đựơc phát huy và trở nên sáng sủa hơn
trước rất nhiều.
Nhưng đức sáng ở
con người là cái gì?
Trong địa hạt tâm lý,
nhất là khi liên hệ tới giáo dục, người ta
thường nói đến trí tuệ (intelligence), là khả
năng thu nhận những tin tức những dữ kiện
những kiến thức cũng như khả năng giải
quyết các vấn đề một cách khéo léo nhanh chóng. Nó
là đầu não, là bộ óc là tâm trí hiểu theo nghĩa thông
thường. Cái minh đức mà Khổng Tử nói đến
trong quyển Đại học của Ngài là trí tuệ của
con người, là đầu não là bộ óc hay tâm trí của
con người vậy. Tự nó, tuy đã mang cái mầm sáng
sủa, nhưng chưa đủ sáng, nó cần phải được
rèn luyện trao dồi thêm. Học vấn, giáo dục là công
trình giúp tâm trí con người được phát triển mở
mang đầy đủ. Mục tiêu kế tiếp là làm mới
người dân. Có người nào cho rằng chữ “tân dân”
ở đây phải đọc và hiểu là “thân dân” mới
đúng. Thân dân là gần gũi với dân, thương yêu
giúp đỡ người dân. Thân dân mới hàm chứa được
lòng nhân mà Nho giáo luôn luôn nhấn mạnh. Tân dân chỉ là làm
mới người dân, mà làm mới người dân vì lợi
ích của kẻ thống trị, thì chưa chắc đã
bao hàm ý nghĩa gần gũi, thương yêu dân chúng. Thật
sự thì đối với dân, nhà Nho thường đặt
trọng tâm vào ba việc là “thứ, phú, giáo” tức là làm
cho dân đông, làm cho dân giàu và dạy dỗ giáo dục người
dân. Thương dân, lo cho đời sống của người
dân được phát triển đầy đủ. Nhà Nho
lúc nào cũng nghĩ đến dân, ý dân là lòng trời theo
quan niệm của Nho giáo. Cho nên theo thiển ý, tân dân hay thân
dân gì cũng được vì đối với Nho giáo tinh
thần nhân bản vẫn được đề cao, và
người dân là cứu cánh chớ không phải là một
phương tiện trong hệ thống triết lý này.
Mục tiêu sao hết là dừng
lại ở chỗ thật tốt đẹp (chỉ ư
chí thiện). Có lẽ đây là mục tiêu không bao giờ đạt
được bởi có bao giờ đi tới chỗ chí
thiện đâu. Thành ra có thể đây là mục tiêu để
người ta luôn luôn hướng tới vậy thôi chớ
sự chí thiện thì chắc chắn chẳng bao giờ có
được. Chúng ta có thể hiểu mục tiêu này như
là sự luôn luôn hướng đến chỗ toàn thiện
toàn mỹ. Chi tiết hơn và với một hiện biện
chứng chặt chẽ hơn Khổng Tử nói đến
những giai đoạn ứng dụng của học vấn
giáo dục như sau: Tu thân, tề gia, trị quốc bình
thiên hạ, tức là sửa mình cho tốt đẹp, sắp
đặt việc nhà cho đâu vào đấy, góp phần vào
việc xây dựng quốc gia, và đóng góp vào việc làm
cho thế giới hòa bình yên ổn. Học vấn giáo dục
phải được dùng vào việc làm cho tốt đẹp
từ cá nhân đến gia đình đến quốc gia và đến
cả thế giới loài người ở trên trần
gian.
Tu thân là sửa mình, là biến
con người từ chỗ sai lầm khiếm khuyết đến
chỗ đúng đắn, tốt đẹp. Tu thân đòi
hỏi phải có học vấn giáo dục để mở
mang trí tuệ, phát triển óc suy tư, nhận biết được
cái gì đúng, cái gì sai, giữ lấy cái đúng, cái tốt
và hành động theo những tiêu chuẩn đúng và tốt
đó. Học vấn giáo dục ứng dụng vào trường
hợp mỗi cá nhân là như thế. Khi cá nhân được
tu sửa, con người trở nên tốt và đúng, thì người
ta có thể dùng ảnh hưởng tốt của mình cộng
thêm những kiến thức mình đã học hỏi được
để dùng vào việc sắp đặt lo lắng cho
gia đình được yên ấm đâu vào đó, trên dưới
có ngăn nắp có trật tự. Lo cho gia đình yên ổn
được rồi thì có thể đem tài đức của
mình phụng sự cho quốc
gia, góp phần dựng nước và trị nước.
Trong một quốc gia, nếu từ người lãnh đạo
ở trên cao như vua, tổng thống, thủ tướng,
quốc trưởng cho đến những cấp lãnh đạo
ở dưới như tổng, bộ trưởng đến
đổng lý, tổng thư ký, tổng giám đốc và
xuống dưới nữa như chánh sự vụ, trưởng
ty, chủ sự…đều có học vấn giáo dục, đều
biết sửa mình để trở nên đúng và tốt đều
biết làm hết bổn phận và trách nhiệm của
mình đối với quốc gia dân tộc thì bộ máy
chính quyền sẽ vô cùng tốt đẹp và công việc
trị nước và dựng nước rất hữu hiệu
và kết quả sẽ thật mỹ mãn. Nhà cửa yên ổn,
quốc gia hùng mạnh tốt đẹp thì có thể mở
rộng ảnh hưởng đi đến cảnh thanh
bình an lạc cho cả thế giới loài người. Lý tưởng
hơn nữa là nếu quốc gia nào cũng có được
những người có kiến thức tốt, biết sửa
mình để hành động đúng thì cảnh thanh bình an
lạc cho mọi người trên cõi đời này chắc
chắn sẽ thực hiện được như vậy.
Nhưng phải học như
thế nào để có thể đạt được kết
quả tốt? Trong quyển Đại học thầy Khổng
Tử bảo phải “thành ý, chánh tâm, trí tri, cách vật”. Thành
ý là lòng thành thật, thành thật nhận thấy mình biết
hay không biết, hiểu hay không hiểu, và thành thật muốn
học hỏi. Muốn học hỏi cho đến nơi
đến chốn thì trước hết phải nhận
biết tình trạng của mình và có tấm lòng thành muốn
học hỏi thật sự. Đó là điều kiện
cần phải có cho việc học. Nhưng thành ý chỉ
mới là điều kiện cần thôi chưa phải là điều
kiện đủ. Chánh tâm mới là điều kiện đủ.
Chánh tâm là lòng mình phải ngay thẳng. Làm cho lòng mình ngay thẳng
ở đây có nghĩa là phải dứt bỏ mọi định
kiến, mọi hiểu biết sai lầm đã có từ
trước vì tất cả những cái đó có thể làm
cho cái nhìn của mình thiên lệch, thiếu vô tư. Sự
thiên lệch (bias), thiếu vô tư, thiếu khách quan sẽ
rất dễ đến những nhận xét hay những hiểu
biết nông nỗi, không chính chắn. Làm cho lòng mình ngay thẳng
chính chắn để đừng bị chi phối bởi
những định kiến, những hiểu biết sai lầm
từ trước, để cho mình có được cái
nhìn trung thực, chính chắn về mọi sự, mọi
vật. Đó là điều kiện đủ để
cho sự học hỏi có kết quả thực sự.
Khi đã có những điều kiện cần và đủ
rồi thì người ta có thể đi đến chỗ
“trí tri” tức là hiểu biết đến nơi đến
chốn, bằng phương pháp “cách vật” tức là mổ
xẻ phân tích sự vật. Vật ở đây không chỉ
giới hạn ở vật thể mà nên hiểu rộng là
mọi sự việc và mọi vật hay một cách tổng
quát là tất cả những gì có thể trở thành đối
tượng của sự nghiên cứu học hỏi. Một
vật như máy điện thoại, máy tính, cái dây, cái hoa,
con chim, con cá cho đến các sự việc như một
hiện tượng xã hội hay một hiện tượng
thiên nhiên…đều có thể là đối tượng của
sự nghiên cứu. Hãy phân tích, mổ xẻ đối tượng,
tìm hiểu sâu xa các chi tiết liên hệ để đi đến
sự hiểu biết đầy đủ đến nơi
đến chốn đó là “trí tri tại cách vật” vậy.
Trên đây là đường lối,
phương cách học hỏi, còn phương pháp giảng
huấn thì như thế nào?
Phương pháp giảng huấn
mà đức Khổng Tử đã áp dụng trong cuộc đời
dạy học của Ngài cho đến ngày nay vẫn còn được
khoa sư phạm (pedagogy) lưu ý học hỏi để
áp dụng, nhất là ở những nước có tự do
dân chủ và nền giáo dục mang nhiều tính chất nhân
bản. Phương pháp giảng huấn của Khổng Tử
không được ghi chép thành văn nhưng người đời
sau có thể suy ra từ những gì mà các đệ tử của
Ngài ghi lại về cuộc đời dạy học của
Ngài. Có thể tóm tắt những nét chính trong phương
pháp giảng huấn của ông thầy vĩ đại này
như sau:
1. Thương từng người học trò; hiểu
rõ từng cá nhân mỗi người; giúp mỗi cá nhân phát
triển tựa trên hoàn cảnh và điều kiện của
mỗi người. Đây là một điểm tâm lý sư phạm rất
đáng được lưu ý. Ngày nay nhiều nhà tâm lý sư
phạm vẫn đề cao đường lối “cá nhân
giáo huấn” (individualized instruction) vì người ta thấy
rằng mỗi người có một đời sống tâm
lý (nhất là tính tình, nhân cách, trí tuệ…) cũng như một
môi trường sinh sống (hoàn cảnh gia đình và xã hội)
đặc biệt của mình, không ai hoàn toàn giống ai cả.
Do đó khi áp dụng một chương trình học duy nhất,
cứng rắn cùng một cách giảng dạy như nhau
cho cùng một số đông người thì kết quả
của công trình giảng dạy, học tập (teaching /
learning process) sẽ không được tốt đẹp
lắm. Đáng lý ra người ta phải có một chương
trình học và một phương pháp giảng dạy thích
hợp cho mỗi cá nhân học sinh nhưng việc đó không
thể nào thực hiện được cho nên người
ta phải tạm dùng cách chuyên môn hóa (specializing) phân chia các ban,
phân chia học sinh ra từng lớp hay từng nhóm có trình độ
gần nhau để công việc giảng dạy / học
tập có kết quả hơn. Tạo cơ hội đồng
đều (equal opportunity) để mọi người đều
được hưởng quyền giáo dục, tức là
không kỳ thị, không loại bỏ một ai là điều
cần phải có trong một nền giáo dục nhân bản,
nhưng điều đó không có nghĩa là phải xem tất
cả các người đi học đều giống hệt
như nhau và đều bằng nhau về phương diện
khả năng thu nhận và học tập.
2. Vai trò của người thầy không phải là tạo
ra những bộ óc cho người đi học, cũng không
phải là để nhồi vào đầu óc người đi
học một mớ kiến thức nào đó một cách máy
móc và cũng không nên xem bộ óc con người như một
tờ giấy trắng mà mình muốn vẽ cái gì lên đó
cũng được.
Vai trò thực sự đúng
nghĩa của người thầy là người hướng
dẫn, giúp đỡ cho người đi học có cơ
hội và biết đường hướng để phát
triển con người toàn diện. Ở bên trời Tây, và
cũng xấp xỉ đồng thời với Khổng Tử,
nhà hiền triết Socrates cũng có quan niệm tương
tự như Khổng Tử về vai trò của giáo dục
hay của người làm giáo dục. Socrates dùng một hình
ảnh cụ thể hơn để nói rõ vai trò của kẻ
làm thầy. Người làm thầy cũng làm công việc tương
tự như người hộ sinh (đỡ đẻ).
Người đó giúp cho đứa trẻ ra khỏi bụng
mẹ để vào đời chớ người đó không
phải là người sanh ra đứa bé.
3. Phương pháp giảng huấn của đức
Khổng Tử đòi hỏi phải dựa trên thực tế
và có phần thực hành trong việc học chứ không phải
chỉ có tính cách lý thuyết suông. Phương pháp đó dùng lối
đối thoại, dùng cách hỏi và trả lời giữa
trò và thầy khiến cho sự học vấn giáo dục
trở nên linh động, gần gũi đi liền với
cuộc sống thật sự ở ngoài đời. Với
mỗi đệ tử trong mỗi hoàn cảnh, Khổng Tử
có câu trả lời khác về cùng một vấn đề,
vì phải tùy lúc, tùy người, tùy hoàn cảnh mà có cách giải
đáp cho sát với thực tế. Lý thuyết và thực hành
cần phải đi đôi với nhau thì cái học mới
hữu dụng.
Giáo dục ngày nay còn bao gồm
nhiều vấn đề quan trọng khác như vấn đề
quản trị, việc phát triển trường sở,
thiết lập chương trình học, đào tạo giáo
chức, soạn và in sách giáo khoa, tổ chức thi cử và
lượng giá, vấn đề tu nghiệp và hội thảo
v.v…ngoài những gì liên hệ tới triết lý giáo dục
như mục tiêu, đường hướng, phương
pháp.
Lẽ dĩ nhiên là ổ thời
đại của Khổng Tử có những vấn đề
chưa được đặt ra vì việc giáo dục ở
thời đại đó chưa có lớn lao, phức tạp
như bây giờ. Tuy nhiên với mục tiêu cao cả, đường
lối tốt đẹp, phương pháp hữu hiệu,
giáo dục của Khổng Tử mang nhiều tính cách nhân bản
và khoa học khiến cho người đời sau phải
tôn thờ Ngài như bậc thầy của muôn đời
“VẠN THẾ SƯ BIỂU”
Ngày đản sanh của đức
Khổng Tử có một thời đã được chọn
làm ngày biết ơn thầy (teacher’s day) ở Trung Hoa. Giáo
dục của đức Khổng Tử mới là giáo dục
thật sự có ý nghĩa và làm người thầy trong “nền
giáo dục có ý nghĩa đó mới xứng đáng với
địa vị “quân, sư,
phụ” vậy.
II - KHỔNG TỬ CHẤP CHÁNH.
Khổng Tử sinh ra đời
và lớn lên trong xã – hội Trung Hoa thời Xuân Thu (722 – 481
trước Tây lịch). Đây là thời kỳ có chiến
tranh luôn với quân Nhung Địch ở miền Tây Bắc
Trung Hoa và giữa các chư hầu với nhau. Các chư hầu
thôn tính lẫn nhau. Các nước lớn nuốt dần các
nước nhỏ bé. Một số các nước lớn
dần dần trở thành các chư hầu cường thịnh
nên coi thường hay lăm le cạnh tranh với thế
lực trung ương của nhà Chu. Cùng với chiến
tranh loạn lạc bao nhiêu cảnh đảo ngược
trong kỷ cương luân thường cũng bày ra đầy
trong xã hội. Cảnh “tôi giết vua, con giết cha” đã
xảy ra rất thường trong khoảng mấy trăm
năm của thời Xuân Thu. Tư khi nhà Chu dời đô
sang Đông quyền lực trung ương càng ngày càng suy nhược,
tình hình chính trị xã hội càng lung lay suy sụp.
Lớn lên trong hoàn cảnh xã hội
đó, Khổng Tử muốn đem đạo đức
luân lý cải thiện con người cũng như xã hội.
Khổng Tử có chí muốn cải lương chính trị
nên bảo: “Cẩu hữu dụng ngã giả, cơ nguyệt
như dĩ khả dã, tam niên hữu thành”, ý nói nếu có bậc
quân vương nào dùng đến Khổng Tử trong việc
cai trị thì trong một năm Ngài đã có thể sắp đặt
làm cho tình hình khả quan hơn và trong ba năm thì chính sách của
Ngài đã thành tựu vậy. Hoài bảo đem đạo
thánh hiền ra thi hành để cứu đời, đem vương
đạo ra áp dụng vào chánh sách cai trị để làm
cho quốc gia có trật tự và hưng thịnh, và làm cho
thiên hạ được thái bình, là hoài bảo luôn luôn được
Khổng Tử ấp ủ trong lòng. Cho nên năm 50 tuổi
khi họ Công Tôn Phất Nhiểu làm phản ở ấp
Phi, gia thần họ Quý sai người đến triệu
Khổng Tử ra giúp. Khổng Tử đã có ý muốn đi
giúp. Nhưng rồi Ngài lại không đi vì có lời can ngăn
của học trò là thầy Tử Lộ. Sỡ dĩ Khổng
Tử muốn ra giúp Công Tôn Phất Nhiểu vì Ngài nghĩ rằng
: “Vua Văn, vua Vũ ngày xưa cũng khởi sự từ
một tỉnh nhỏ mà làm nên vương nghiệp của
nhà Chu. Ngày nay ấp Phi tuy nhỏ, nhưng cũng cứ thử
xem.” Ngài muốn thử thi hành vương đạo ở
nơi ấp Phi nầy xem như thế nào rồi từ đó
phát triển dần ra trong thiên hạ. Nhưng vì có lời
can ngăn của học trò nên sau cùng Ngài đã bỏ ý định
ra giúp Công Tôn Thất Nhiểu.
Sau đó ít lâu vua Lỗ mời
Khổng Tử giữ chức Trung Đô Tể, cũng giống
như kinh thành Phủ Doãn, tức là như đô trưởng
ngày nay vậy. Khổng Tử nhận lời, và sau một
năm cai trị kinh thành nước Lỗ trở thành nơi
kiểu mẫu khiến nhiều nước láng giềng
ganh tị. Sau khi vua Lỗ băng hà, Ngài được thăng
lên chức Đại Tư Khấu, tức như hình bộ
thượng thư, hay tổng trưởng tư pháp ngày
nay vậy. Ngài ở chức vụ nầy được
bốn năm thì lại được cử làm Nhiếp
Tướng Sự, quyền nhiếp việc chính trị
trong nước. Làm ở chức vụ nầy được
7 ngày Khổng Tử giết Thiếu Chính Mão, vốn là một
quan đại phu tham lam gian nịnh nổi tiếng thời
bấy giờ. Sau ba tháng làm việc thì tình hình chính trị được
hoàn thiện, kỷ cương luật lệ phân minh, cảnh
thịnh trị đã bày ra trước mắt. Nước
Tề ở bên cạnh phải xin cầu thân và phải chịu
trả lại ba ấp trước kia Tề đã chiếm
cứ của Lỗ. Nhưng vua Tần trong lòng không muốn
cho nước Lỗ trở nên cường thịnh. Vua Tề
dùng 80 người con gái đẹp đẽ và múa giỏi
cùng với 30 con ngựa tốt dâng cho Lỗ hầu. Từ
đó Lỗ hầu mê say gái đẹp, ngựa hay, bỏ
cả công việc triều chính. Tử Lộ nói với Khổng
Tử : “Thầy trò ra đã đến lúc rút lui rồi.”
Khổng Tử bảo:
“Hãy chờ xem. Sắp đến
ngày tế Nam giao rồi. Nếu nhà vua còn nghĩ đến
chính sự thì trong ngày này nhà vua phải đến để
tự tay mình để xẻ thịt, chia phần cho các
quan. Nếu nhà vua không đến ta sẽ ra đi.”
Quả nhiên Lỗ hầu đã
mê say gái đẹp và ngựa hay đến đổi quên
hết cả việc tế lễ. Thế là hai thầy trò
Khổng Tử và Tử Lộ bèn khăn gói ra đi. Từ
đó Khổng Tử đi chu du thiên hạ suốt mười
mấy năm trời không tìm được nơi nào để
thi hành vương đạo. Một hôm đi qua đất
Khuông, Ngài bị người ta bắt giam vì người ta
tưởng lâm Ngài là Dương Hổ, một kẻ tàn bạo
với dân. Học trò Ngài rất lo sợ, nhưng Khổng
Tử bình thản bảo:
“Từ khi vua Văn Vương
mất đi rồi thì chỉ còn có ta là giữ được
chế độ cũ của chính thể Vương đạo
mà thôi. Nếu ta mất đi thì chế độ đó cũng
sẽ mất. Nếu trời còn muốn bảo tồn chế
độ của tiên vương thì dân Khuông có tài gì mà làm hại
ta được.
Sau đó nhờ có người
can thiệp cho nên Ngài được giải vây để
trở về nước Vệ và lại tiếp tục
con đường chu du thiên hạ. Khi gian thần Phật
Bật nổi loạn ở nước Trịnh, y có mời
Khổng Tử về giúp. Khổng Tử định đi
nhưng Tử Lộ can ngăn, Tử Lộ thưa:
“Ngày xưa trò nầy có được
nghe thầy dạy rằng kẻ nào làm điều bất
thiện thì người quân tử không vào bè đảng của
nó, nay Phất Bật làm phản, như vậy y là kẻ bất
thiện mà thầy lại muốn ra giúp là ý làm sao?”
Khổng Tử đáp:
“Đúng vậy. Ngày xưa ta có
nói như thế. Nhưng ta cũng thường nói rằng:
cái giống bên kia nếu tính chất thật bền thì có mài
cũng không mòn; giống trắng thì dầu có nhuộm cũng
không đen. Vậy nên dầu gần người bất
thiện đi nữa cũng không lây xấu đến ta được
đâu. Vả lại ta sinh ra để làm người hữu
dụng, chớ có phải như trái bầu kia sao cứ
treo đó mà chẳng ăn?”
Tuy nói vậy nhưng Khổng
Tử cũng không đi giúp Phất Bật. Khổng Tử
thấy cái đạo của mình không thực hiện được
vì nó không thể được các nhà thống trị chấp
nhận dù Ngài chỉ có thể được thi thố và
truyền bá rộng rãi khi nào Ngài có được chánh quyền
ở trong tay. Đáng lý Ngài phải làm một cuộc cách mạng
để thực hiện chánh sách cai trị đạo đức
lý tưởng đó. Nhưng vì chủ trương Vương
đạo của Ngài không cho phép Ngài đứng ra làm cách mạng
được.
Ngày kia khi ở nước Vệ
Khổng Tử ngồi gõ khánh
ở trong nhà. Một người ẩn sĩ gánh cỏ đi
ngang, nghe tiếng khánh của Khổng Tử bèn nói:
“Người đánh khánh có bụng
sốt sắng với đời nhiều lắm vậy.
Nhưng người ấy bỉ lậu thay, dụng tâm quá
nhiều. Đời chẳng có ai biết đến mình
thì nên thôi đi…phải chăm chước tùy thời mới
được.”
Nghe vậy Khổng Tử bèn
tự bảo: “Quyết định quên đời chẳng
có khó gì đâu.” Đối với Ngài, việc xoay lưng lại
xã hội, quên cuộc đời để sống yên thân đâu
phải là chuyện khó làm. Chính thái độ dấn thân vào
đời, đem hết tinh thần để phụng sự
cho loài người, làm cho cuộc đời tốt đẹp
lương thiện hơn mới là điều khó. Khổng
Tử đã chọn con đường khó khăn đó.
Một hôm khác, khi đi chu du
sang nước Sái, Khổng Tử thấy hai người đang
cày ruộng. Đó là hai bậc ẩn sĩ là Tràng Thư và
Kiệt Nịch, Khổng Tử bảo Tử Lộ đến
hỏi thăm đường. Tràng Thư hỏi Tử Lộ:
-Người
cầm cương trên xe kia là ai vậy?
Tử Lộ trả lời:
-Đây
là ông Khổng Khâu (tức là Khổng Tử)
-Có phải
là Khổng Khâu nước Lỗ không?
-Thưa
phải.
-Ông ấy
chu du đã lâu để dạy Đạo cho đời, hẳn
là đã biết đường rồi, đâu còn phải
hỏi ai nữa.
Tử Lộ lại hỏi Kiệt
Nịch. Kiệt Nịch hỏi lại Tử Lộ:
-Anh là
ai?
Tử Lộ bảo:
-Tôi là
Trọng Do
Kiệt Nịch lại hỏi:
-Anh là
học trò của Khổng Khâu nước Lỗ phải không?
Tử Lộ đáp:
-Thưa
phải.
Kiệt Nịch bèn nói:
- Đời loạn đã lâu,
cuộc đời cuồn cuộn như giòng nước
chảy mãi không thôi. Làm sao mà đổi loạn ra trị được?
Anh đi theo Khổng Tử là kẻ tị nhân (là kẻ bị
người đời xa lánh) sao bằng đi theo ta là người
tị thế (tức là người xa lánh cuộc đời)
có phải hơn không?
Nghe Tràng Thư và Kiệt Nịch
nói vậy Khổng Tử than: “Người không thể cùng đàng
với điểu thú được, Người mà không cùng
ở với xã hội loài người thì ở với ai?
Nếu như thiên hạ đã có đạo rồi thì Khổng
Khâu nầy đâu còn phải dấn thân lo đổi loạn
ra trị làm gì nữa!”
Thương thay cho người
có ý muốn dấn thân giúp đời như Khổng Tử!
Tội nghiệp thay cho thân phận nhà giáo muốn đem lý
người tưởng đạo đức vào địa
hạt chính trị để cho vương đạo được
phổ cập trong thế giới loài người!
Lý tưởng của Khổng
Tử, hoài bảo và ý hướng của Ngài, thật là tốt
đẹp. Nhưng Ngài đã thất bại một cách rất
đáng thương bởi thực tế chính trị ở
ngoài đời, nhất là ở thời ly loạn kỷ cương
đổ nát, văn hóa suy đồi, không thể nào chấp
nhận để cho đạo đức chen vào. Làm chính
trị là phải nắm cho được và phải giữ
cho được chính quyền ở trong tay bằng bất
cứ giá nào, bằng bất cứ phương tiện gì
dù có phải hy sinh xương máu của bao nhiêu người
khác. Đó là cách làm chính trị để thống trị của
những kẻ gọi là thành công trên chính trường. Loại
chính trị thống trị đó dĩ nhiên khó mà hội nhập
tinh thần đạo đức vào trong. Có ai dùng lòng nhân,
dùng chữ nghĩa, chữ tín để đoạt được,
cướp lấy, và giữ vững chính quyền thống
trị được đâu? Ngược lại chính trị
thống trị thường phải bao gồm nhiều ác
tính từ sự độc ác, mưu mô, gian xảo, tham
lam, tráo trở, đến thủ đoạn, xuyên tạc,
bóp méo, láo khoét , độc tài, chèn ép, dụ dỗ, ném đá
dấu tay…
Trong hoàn cảnh chiến tranh
loạn lạc thời Xuân Thu, giữa khí thế chính trị
thống trị đang hoành hành, Khổng Tử đã không
thành công trong lý tưởng đem đạo đức vào
trong chính trị. Chủ trương Vương đạo
của Khổng Tử đã không được các nhà thống
trị đương thời dùng đến. Khổng Tử
đã thất bại trong cuộc đời làm chính trị
của Ngài.
III - KHỔNG TỬ VỚI CHỦ
TRƯƠNG CHÍNH DANH.
Thầy Tử Lộ hỏi đức
Khổng Tử:
-Nếu
vua nước Vệ mời Thầy làm chính trị, thì thầy
làm điều gì trước nhất?
Tình trạng của nước
Vệ lúc nầy đang suy đồi. Trước câu hỏi
của thầy Tử Lộ, đức Khổng Tử trả
lời:
-Trước
hết là phải chính danh chăng?
Và Khổng Tử giải thích
thêm:
-Vì nếu
danh không chính thì lời nói sẽ không thuận, mà lời nói
không thuận thì việc làm ắt sẽ không thành.
-Nhưng
chính danh là gì?
-Danh là
một cái tên mà người dùng để gọi một vật
hay một hạng người nào.
Cái điện thoại, cây bút…là
những danh xưng chúng ta gán cho vật dụng. Ông vua, ông
thầy, ông cha, ông quan…là những danh xưng chúng ta dùng để
gọi một hạng người nào đó trong xã hội.
Danh thường đi liền với phận, tức là bổn
phận, nhiệm vụ. Chúng ta dùng danh xưng ông vua để
gọi cái người có bổn phận phải cai trị
dân chúng, lo cho dân chúng được no cơm ấm áo, dạy
dỗ dân chúng để dân chúng tiến bộ, sống xứng
đáng với địa vị con người v.v…Chính danh
luôn luôn gắn liền với định phận, để
cho mọi người, với cái danh xưng đúng, có một
vị trí đúng, có những bổn phận rõ gắn liền
với danh xưng đó.
Khi Tề cảnh Công hỏi đức
Khổng Tử về chánh sách cai trị, đức Khổng
Tử trả lời:
-Quân nhân,
thần thần, phụ phụ, tử tử.
Câu nầy có nghĩa là “vua phải
ra vua” tức là làm đúng bổn phận hay đúng vai trò của
ông vua. Quan phải ra quan tức phải làm đúng bổn
phận của ông quan. Cha phải ra cha tức là khi làm cha
mình phải đóng đúng vai trò của người cha. Và
con phải cho ra con tức phải làm hết bổn phận
của một người ở địa vị làm con.
Tề Cảnh Công nghe Khổng
Tử nói xong vội khen:
-Phải
lắm. Nếu vua mà không ra vua, bề tôi không ra bề tôi,
cha không ra cha, con không ra con, thì cương thường đỗ
nát, trật tự xáo trộn,
thiên hạ đâu có thanh bình, dù có lúa thóc người
ta cũng không ngồi yên mà ăn được.
Cho nên đối với Khổng
Tử, muốn cho xã hội có trật tự, mọi việc
đâu ra đó, mọi người đều phải giữ
đúng vai trò của mình, làm tròn bổn phận tương
xứng với danh xưng của mình. Chính danh định
phận là như vậy.
Về sau có người đặt
vấn đề như sau với thầy Mạnh Tử.
Người đó nói:
-Châu Văn
Vương vốn là bề tôi của Trụ Vương.
Châu Văn Vương đã nổi lên đánh giết Trụ
Vương để lập nên nhà Châu. Bề tôi mà giết
vua thì có đáng tội hay không? Tại sao nhà nho đã không kết
tội Châu Văn Vương mà lại còn tôn sùng Châu Văn
Vương xem như bậc thánh nhân?
Áp dụng thuyết chính danh định
phận của Khổng Tử thầy Mạnh Tử trả
lời người đó rằng:
-Ta nghe
nói Châu Văn Vương có giết một kẻ thất
phu tên là Trụ chớ ta chưa hề nghe nói có giết vua
bao giờ.
Theo thầy Mạnh Tử, Trụ
Vương không đáng được gọi là vua, ông ta
chỉ là một kẻ thất phu. Gọi ông ta là vua là danh
không chính rồi. Tại sao? Vì Trụ Vương, khi ở
ngôi vị ông vua, đã không làm trọn đạo một người
làm vua. Làm vua, theo nho giáo, là người thay trời để
trị dân. Trời thương dân như con đẻ, thì
người làm vua, người thay trời để lo cho
dân, cũng phải thương dân như con đẻ. Thương
dân, lo cho dân, đem bình an trật tự lại cho xã hội,
làm cho người dân được thái bình no cơm ấm
áo, đó là bổn phận của nhà vua đối với
thần dân. Khi lên ngôi, vua Trụ đã không làm tròn sứ mạng
cao quí đó. Ông ta chỉ là một kẻ tàn ác, bạo ngược,
ngồi trên ngai vàng để hà hiếp, áp bức, làm khổ,
giết hại dân lành mà thôi chớ không hề làm được
một việc tốt đẹp nào đáng được
xem là thay trời để lo cho dân.
Đã không đóng được
vai trò đúng của một nhà vua, tất nhiên Trụ Vương
chỉ được coi như một kẻ thất phu,
tàn bạo. Ông ta sẽ bị truất phế, sẽ bị
trừng trị xứng đáng với những tội lỗi
mà ông đã gây ra, sẽ bị thay thế bởi một người xứng đáng hơn.
Người đó là Châu Văn Vương, một người
đã được trời lựa chọn để thay
ý trời lo cho dân.
Thật sự, đối với
nhà nho, trời không ở đâu xa, trời rất gần dân.
Nhà nho bảo lòng trời là lòng dân, cái gì người dân muốn
là trời muốn. Thành ra trời với dân chỉ là một.
Dân là trời vậy.
Đối với chúng ta ngày
nay, tư tưởng “chính danh định phận” còn có giá
trị gì chăng ngoài giá trị lịch sử của nó. Một
số người ngày nay, thấm nhuần tư tưởng
tự do tiến bộ của Tây Phương, thường
xem luận lý Khổng Mạnh như những sợi dây trói
buộc con người không cho phép cá nhân được phát
triển toàn vẹn, không cho con người đựơc
tự do mưu cầu hạnh phúc cá nhân mình.
Sống với Tam Cương
Ngũ Thường, con người chỉ còn là một kẻ
lúc nào cũng bị chi phối bởi những bổn phận
đối với người khác, mà không còn là một con
người sống cho tình cảm tự nhiên và hạnh phúc
cá nhân của mình nữa. Lúc nào người ta cũng chỉ
là một bề tôi, bắt buộc phải trung thành, phải
làm theo răm rắp mệnh lệnh của nhà vua. Và là một
người con bắt buộc phải làm tròn chữ hiếu
với cha mẹ, phải nghe theo cha mẹ, sống theo ý muốn
của cha mẹ mà thôi, chớ không hề được sống
cho cá nhân mình. Luân lý khắt khe của Khổng Mạnh dường
như đã không chừa chỗ nào cho cá nhân con người được sống thật sự
nữa. Con người lúc nào cũng bị chìm đắm
trong các bổn phận nặng nề của hai chữ
trung hiếu mà thôi. Địa vị của người phụ
nữ lại còn tệ hại hơn khi họ phải giữ
đúng tam tùng, tức là tại gia tùng phụ, xuất giá tùng
phu, và phu tử tòng tử. Lệ thuộc ở ông chồng,
phải giữ sự trinh tiết, phải tròn cả hiếu
trung, người phụ nữ trong xã hội nhà nho, quả
đã chẳng còn gì để sống cho riêng cá nhân mình nữa.
Thật ra, nhà nho, ở thời
Khổng Mạnh, không đến nỗi khắt khe đến
vô lý như vậy. Nhà nho đặt ra bổn phận, nhưng
bổn phận cho tất cả mọi người, chớ
không riêng cho những kẻ yếu kém. Có bổn phận của
bề tôi nhưng cũng có bổn phận cho ông vua. Có bổn
phận cho kẻ làm con thì cũng có bổn phận cho kẻ
làm cha vậy. Nhà nho bảo: “Quân xử thần tử, thần
bất tử bất trung” nghĩa là khi nhà vua bảo mình chết
thì mình phải tuân theo lệnh vua mà chết, nếu không thì
mình sẽ mang tội bất trung. Nhưng nhà vua phải thế
nào thì bề tôi mới phải giữ được lòng
trung thành tuyệt đối như vậy. Cho nên nhà nho bảo
“quân chánh” thì thần mới trung. Cũng như “phụ” phải
“từ” thì “tử” mới “hiếu”. Phải là nhà vua đạo
đức, ngay thẳng, công bằng, biết thương
biết lo cho dân, biết làm hết bổn phận của
nhà vua, thì mới mong có bề tôi làm tròn bổn phận của
bề tôi đối với vua được. Người
làm cha cũng vậy, cũng phải trọn đạo làm
cha thì mới mong con mình đóng trọn địa vị làm
con hiếu thảo.
Trong ý nghĩa đó tư tưởng
chính danh địa phận vẫn có giá trị đối
với chúng ta ngày nay. Trên phương diện chính trị
chẳng hạn, một chánh quyền, bao gồm những
người cầm quyền cai trị trong một nước,
cho xứng đáng với danh xưng của nó, phải có bổn
phận lo cho người dân, bảo vệ người dân.
Phát triển quốc gia, làm cho đời sống của người
dân được ấm no hạnh phúc. Nếu người
cầm quyền không làm đựơc việc đó, hay làm
ngược lại lòng dân, thì chánh quyền đó sẽ bị
coi như không xứng đáng với danh xưng chính quyền
theo thuyết chính danh. Một chánh quyền mà danh không chánh,
thì lời nói của chánh quyền đó sẽ không có hiệu
quả. Một nhóm người cai trị bạo ngược,
có thể dùng sức mạnh để đàn áp, cưỡng
bức, hà hiếp, đày ải, giết chóc người dân
làm cho đời sống của người dân phải nghèo
đói, khốn khổ, nhóm người đó không xứng đáng
với danh xưng chính quyền đối với người
dân. Không thật sự thương dân, không lo cho dân mà còn dùng
những biện pháp cai trị trái với lòng dân thì chánh quyền
đó không thể được xem là chánh quyền đúng
với danh xưng của nó nữa. Đó chỉ là những
kẽ thất phu cướp quyền mà thôi.
Ở các nước dân chủ
thật sự thì loại người cướp quyền
như vậy sẽ dễ dàng bị thay thế bởi những
người xứng đáng hơn qua lá phiếu của người
dân, qua các cuộc bầu cử bằng, dân chủ, tự
do chọn lựa người lo cho mình đâu. Những kẻ
cướp quyền cai trị bao giờ cũng đi đến
một bạo quyền, một chính thể độc tài,
tàn bạo, dùng mọi hình thức kềm kẹp, áp bức
để cai trị trong những trường hợp như
vậy người dân không còn dùng được lá phiếu
để nói lên nguyện vọng của mình nữa. Ở
trường hợp này chỉ có cách là có người lãnh đạo
nhân dân nổi lên lật đổ cường quyền giống
như Châu Văn Vương nổi dậy lật đổ
Trụ Vương vậy thôi.
Lẽ dĩ nhiên là đối
với các loại vũ khí tối tân hiện nay, và với
màn lưới công an, cảnh sát đựơc tổ chức
một cách qui mô chặt chẽ ngày nay của các bạo quyền,
cuộc nổi dậy của người dân không dễ dàng
xảy ra như xưa được. Ngày xưa sự chênh
lệch về tình trạng trang bị vũ khí giữa bạo
quyền với dân chúng không có bao nhiêu, nhưng ngày nay sự
chênh lệch đó vô cùng to lớn. Tuy nhiên khó khăn không có
nghĩa là không thể xảy ra được. Sự nổi
dậy của người dân dù khó khăn đến đâu
vẫn có thể xảy ra và bạo quyền dù có mạnh đến
thế nào rồi cũng có ngày sụp đổ.
Trước đây, trước
thập niên 1990, có ai nghĩ rằng sẽ có cuộc nổi
dậy của người dân (hay những người lãnh
đạo mới của nhân dân) lật đổ cường
quyền cộng sản ở Liên Bang Sô Viết đâu. Thế
mà chuyện đó vẫn xảy ra được. Vã lại
sự nổi dậy không có nghĩa là nổi dậy không có
nghĩa là nổi dậy với gươm giáo, súng đạn
mà thôi, mà còn có trăm ngàn hình thức khác. Những hình thức
nổi dậy khác có thể từ tiêu cực đến
tích cực, có thể từ sự bất hợp tác đến
mĩa mai, chưởi rủa, khinh khi, châm biếm, phá hoại,
đảo chánh v.v… đến những sự cầu cứu,
hợp tác với những sức mạnh bên ngoài để
tấn công mặt kinh tế, gây áp lực về mặt
chính trị v.v…Cuộc nổi dậy do đó có thể xảy
ra bằng hình thức này hay hình thức khác.
Tóm lại, hoặc giả là
chính quyền phải sữa chữa, phải thật tâm làm
việc cho dân, phải làm hết bổn phận đối
với người dân để xứng danh chính quyền,
hoặc giả tiếp tục chính sách bạo ngược,
tàn hại dân chúng, để một ngày nào đó bị dân
chúng nổi dậy lật đổ dưới hình thức
này hay hình thức khác. Trên phương diện chính trị,
tư tưởng chính danh định phận vẫn là một
tư tưởng có giá trị đối với chúng ta ngày
nay vậy.
Ở các địa vị khác
cũng thế. Từ gia đình đến xã hội, mỗi
hạng người đều có bổn phận tương
xứng với danh xưng của mình. Mọi người ở
trong vị trí nào hãy làm đúng bổn phận mình trong vị
trí đó để được xứng đáng với cái
danh xưng của mình. Làm thầy thì phải biết thương
yêu lo lắng dạy dỗ cho học trò để cho học
trò có cơ hội kính nể thương yêu thầy và làm
tròn bổn phận học hành của học trò. Nếu thầy
chỉ thấy có đồng lương, làm công việc dạy
dỗ một cách tắc trách, xem học trò như kẻ thù,
thì thầy đó không xứng đáng để được
gọi là thầy nữa. Trong gia đình cha phải hết
bổn phận của cha đối với con cái để
con cái có thể theo đó mà trọn đạo làm con.
Định phận là nói rõ bổn
phận của mỗi người và chính danh nghĩa là gọi
đúng danh xưng của mỗi người tương xứng
với bổn phận của họ. Chính danh định
phận luôn luôn đi đôi gắn liền nhau.
IV - LUÂN THƯỜNG CỦA KHỔNG
TỬ.
Khổng giáo thật ra không phải
là một tôn giáo theo đúng nghĩa của chữ. Đối
với các nhà tư tưởng học, Khổng giáo chỉ
là một triết lý sống, và trong triết lý đó, phần
đạo đức là phần được chú trọng
tới nhiều nhất. Triết lý của Khổng Tử
là triết lý về cuộc sống của con người,
cuộc sống thực tế ở trên thế gian nầy.
Những vấn đến siêu hình, thượng đế,
linh hồn…ít khi được đặt ra. Con người
từ đâu đến, hoặc sau khi chết, con người
sẽ đi về đâu cũng không được bàn đến,
chỉ cuộc sống hiện tại, cuộc sống
ngay bây giờ của con người ở trên thế giới
này mới được nói đến một cách có hệ
thống. Đó là đối tượng chính trong triết
học của Khổng giáo.
Trong cuộc sống hiện tại,
không phải tất cả mọi vấn đề quan trọng
của cuộc sống con người đều được
Khổng Tử bàn đến. Khổng Tử chỉ chú trọng
nhiều vào khía cạnh bổn phận mà thôi, nhất là bổn
phận của kẻ dưới đối với người
trên như bề tôi đối với vua, con cái đối
với cha mẹ, hay vợ đối với chồng chẳng
hạn. Người trên cũng có bổn phận của người
trên, nhưng những bổn phận đó xét kỹ không có
gì nặng nề như bổn phận khá khắt khe những
người ở dưới. Quyền làm người cũng
như quyền của cá nhân không thấy nói được
nói đến. Đối với Khổng Tử, nếu người
trên nghĩ đến cái lợi cho mình thì kẻ dưới
cũng chỉ nghĩ đến cái lợi mà thôi, và nếu
mọi người đều nghĩ đến cái lợi
của riêng mình thì xã hội sẽ suy đồi, hư hỏng
hết. Do vậy, Khổng Tử chỉ nói đến bổn
phận mà thôi. Ngài bảo “phóng lợi nhi hành đa oán.” có
nghĩa là kẻ nào chỉ làm lợi thì ắt sinh ra oán thù.
Quân tử và tiểu nhân khác nhau ở hành vi vị lợi
hay vị nghĩa. Khổng Tử bảo: “Quân tử dụ
ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi.” Người
quân tử chỉ lo làm việc nghĩa trong khi kẻ tiểu
nhân chỉ nhắm vào những việc làm có lợi mà thôi.
Lợi ở đây là lợi cho cá nhân, cho bản thân mình. Bổn
phận của con người, trong hệ thống luân lý của
Khổng giáo, đựơc thu gọn vào hai chữ LUÂN THƯỜNG.
Luân là mối liên hệ giữa
người và người. Sống ở đời là sống
cùng người khác chứ không thể sống một mình được. Khi sinh
ra đời, ta đã có cha mẹ, đã có một gia đình,
đã phải sống trong một
cộng đồng, một xã hội loài người. Chúng
ta chỉ có thể hiện hữu trong gia đình và trong xã
hội đã có sẵn đó. Sống với người
khác ở xung quanh tất nhiên phải có mối quan hệ với
những người khác đó, từ những người
trong gia đình đến những người ngoài xã hội.
Trong gia đình ta có mối liên hệ giữa vợ chồng,
và mối liên hệ giữa bạn bè với nhau hoặc giữa
các đồng nghiệp hay các cộng sự viên… Mỗi mối
liên hệ như vậy là một luân, và trong hệ thống
luân lý Khổng Giáo, có tất cả năm mối liên hệ
như vậy, gọi là ngũ luân, kể ra như sau:
Liên hệ vua tôi (quân thần)
Liên hệ cha con (phụ tử)
Liên hệ vợ chồng (phu phụ)
Liên hệ anh em (côn đệ)
Liên hệ bạn bè (bằng hữu)
Trong mỗi mối liên hệ
trên đây nhà nho đặt ra một tiêu chuẩn đạo
đức để hướng dẫn hành động và
tư tưởng của con người làm thế nào để
cho mối liên hệ đó được tốt đẹp.
Chính thật ra, Khổng Tử không nêu ra tiêu chuẩn đó,
nhưng các nhà kho khác đã nêu ra cho nên có sự bất đồng.
Về mối liên hệ vua tôi chẳng hạn, tiêu chuẩn
đạo đức được đặt ra là “quân nghĩa, thần hành” theo sách
Tả Truyện, nhưng tiêu chuẩn đạo đức
đó lại là “quân nhân, thần trung” đối với sách
Lễ vận, trong khi Mạnh Tử thì lại bảo: “quân
thần hữu nghĩa”. Đối với một số
nhà nho khác thì tiêu chuẩn đạo đức trong liên hệ
quân thần là “quân chánh thần trung”. Hiểu một cách rộng
rãi thì trong mối liên hệ giữa
vua và tôi nhà nho đòi hỏi nhà vua phải dùng nhân nghĩa và
sự ngay thẳng đối xử với bề tôi, và bề
tôi phải dùng lòng trung thành và sự tuân hành đối xử
với vua. Tiêu chuẩn đạo đức ở đây
là vua nhân nghĩa chính trực, bề tôi tuân theo mệnh lệnh
và trung thành với vua.
Về mối liên hệ cha
con, thì tiêu chuẩn đặt ra trong hai sách Tả Truyện
và Lễ Vận là “phụ từ tử hiếu”, riêng Mạnh
Tử thì bảo “phụ tử hữu thân”. Đối với
đa số các nhà nho thì phụ từ từ hiếu là tiêu
chuẩn đạo đức tốt nhất cho liên hệ
cha con. Cha mẹ thương con, lo lắng cho con, nuôi nấng
dạy dỗ cho con nên người; con nhớ ơn cha mẹ, hiếu thảo
với cha mẹ, đó là tiêu chuẩn đạo đức
cho mối liên hệ gia đình.
Về mối liên hệ vợ
chồng, sách Lễ Văn ghi “phu nghĩa, phụ kính” nhưng
sách Mạch Tử thì bảo “phu phụ hữu biệt”. Đối
với đa số các nhà nho thì người phụ nữ
không có đời sống riêng tư mà phải tùy thuộc ở
những người khác. Lúc chưa có chồng thì sống
với cha mẹ, cuộc sống lúc này thì phải tùy thuộc
ở cha mẹ. Khi có chồng thì phải theo chồng, cuộc
sống từ đó phải tùy thuộc ở nơi ông chồng.
Khi chồng chết rồi thì sống với con, lúc này thì
cuộc sống lại tùy thuộc ở nơi con. Ba liên hệ
tùy thuộc đó được gọi là tam tùng bao gồm
“tại gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử.”
Liên hệ tùy thuộc thứ nhì là xuất giá tùng phu đã
phần nào nói lên bổn phận của người đối
với vợ chồng trong hệ thống luân lý nho giáo. Vợ
phải nghe theo chồng, trinh thuận và trung thành với chồng,
lo lắng phụng sự cho chồng, đó là những bổn
phận mà nhà nho đã vạch ra cho người phụ nữ
khi đã có chồng. Ngược lại, chồng phải
có “nghĩa” đối với vợ. Nghĩa là gì? Là lẽ
phải, là cái gì đúng và tốt thì gọi là nghĩa như
nghĩa cử, nghĩa hiệp, nghĩa khí…Người Mỹ
hay dùng chữ correctness hoặc righteousness để dịch
chữ nghĩa trong hệ thống luân lý của nhà nho. Chồng
phải lấy sự đúng và tốt mà đối xử
với vợ.
Ba liên hệ vua tôi, cha con và vợ
chồng là ba liên hệ quan trọng nhất trong ngũ luân.
Nhà nho còn gọi đó là ba giềng mối chính tức “tam
cương”, trong đạo làm người. Tam cương
là quân thần cương, phụ tử cương và phu
thê cương. Cương là sợi dây chính, sợi dây lớn
làm cái giềng để mắc những sợi dây nhỏ
vào đó làm thành cái lưới. Ông vua được xem như
sợi dây chính đó để các bề tôi và thần dân như
những sợi dây nhỏ mắc vào đó mà làm thành cái lưới.
Quân vi thần cương là vậy. Cũng cùng ý nghĩa đó,
nhà nho bảo phụ vi tử cương và phu vi thê cương.
Hai mối liên hệ còn lại
trong ngũ luân là liên hệ anh em, và liên hệ bạn bè. Về
liên hệ anh em, sách Tả Truyện ghi là “huynh ái, đệ
kính” trong khi sách Lễ Vận thì bảo “huynh lương, đệ
đễ”. Hiểu một cách rộng rãi thì bậc anh chị
phải thương yêu đối xử tốt với các
em, và các em phải thương yêu kính trọng anh chị.
Con người sống ở
trên đời này không thể tránh được những
mối liên hệ mà nho giáo đã nói đến. Đối
với phần đông nếu không nói là hầu hết chúng
ta ai cũng phải có bạn bè hay người quen biết,
và đối với số đông ai cũng phải làm vợ
làm chồng, làm cha làm mẹ. Đóng vai nào thì phải có những
bổn phận trong vai trò đó như thuyết chính danh của
Khổng Tử đã cho thấy. Những tiêu chuẩn đạo
đức của nhà nho đề ra cho các bổn phận đó
được thu gọn vào một số chữ thường
thấy sau đây: nhân, nghĩa, từ, ái, kính, trung, hiếu,
dễ, tín. Những chữ này diễn tả những đặc
tính, những phẩm hạnh cần có ở nơi mỗi
người. Muốn cho những mối liên hệ trong ngũ
luân được tốt đẹp, mỗi người
cần phải làm tròn bổn phận của mình. Muốn làm
tròn những bổn phận đó còn người cần phải
có (hay phải trau dồi) một số những đức
tính nào đó. Số đức tính đó được thu
gọn vào những chữ sau đây: nhân, nghĩa, lể,
trí, tín. Năm chữ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín đó được
nhà nho gọi là ngũ thường. Thường là cái gì phải
có luôn luôn, cái hằng có như cái áo mình mặc ở trong người
hằng ngày vậy. Ngũ thường là năm đức
tính cần phải có luôn luôn ở mỗi người.
Đứng đầu trong năm
đức tính đó là lòng NHÂN. Đây là chữ rất quan
trọng trong triết lý của Khổng Tử.
Nhân là đức tính quan trọng
vào bậc nhất trong số năm đức tính của
ngũ thường là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Chữ
nhân theo phương pháp chiết tự, gồm có chữ nhân
là người và chữ nhị là hai. Ý nghĩa của chữ
nhân là thú tình cảm mà con người phải có để đối
xử với người khác. Tình cảm đó là tình thương
gây ra bởi sự hiểu biết, thông cảm nhau đưa
đến lòng vị tha. Sống ở đời người
ta phải chấp nhận sự hiện hữu cũng như
sự khác biệt của tha nhân. Chấp nhận tha nhân, hiểu
biết tha nhân, thương và đối xử một cách
tốt đẹp, đó là lòng nhân, là đức tính nền
tảng của con người trong sự sống chung với
người khác ở trên đời này. Tuy nhiên, lòng nhân
theo đức Khổng Tử, không giống như tính phiếm
ái hay từ bi bác ái của các triết thuyết tôn giáo khác.
Phiếm ái hay bác ái là yêu thương tất cả mọi
người kể cả kẻ thù của mình, cho nên cái hệ
luận của chủ trương đó là “lấy ân báo oán”
như chúng ta thường nghe nói. Đối với Khổng
Tử nếu mình lấy ân để báo oán thì đối với
người ân mình lấy gì để báo? Nếu kẻ gây
oán cũng được hưởng ân như như kẻ
đã làm ân thì còn đâu sự công bằng. Do đó Khổng
Tử chủ trương: “Dĩ trực báo oán, dĩ đức
báo đức”, tức là lấy sự ngay thẳng chính trực
mà báo oán, và lấy đức báo oán.
Lòng nhân ở trong triết lý
Nho giáo, hiểu theo nghĩa biết người khác, thông cảm
và thương người khác, đưa đến một
luật đạo đức tiêu cực là “Kỷ sở bất
dục vật thi ư nhân” tức là cái gì mình không muốn
thì đừng làm điều đó cho người khác. Tiêu
cực vì nó chỉ khuyên mình “đừng làm” những cái “không
thích” mà thôi. Nó thiếu khía cạnh tích cực là “hãy làm cho
người khác những gì mình thích người khác làm cho
mình.”
Dù là tiêu cực, chủ trương
trên đây cũng cho thấy là mình phải đối xử
với người khác giống như mình đối xử
với chính mình vậy. Đó là lòng nhân. Nó là cái gốc, cái
căn bản trong đạo làm người, cho nên Khổng
Tử mới nói trong sách Trung Dung là “nhân giả, nhân giả”
, tức là đạo nhân là đạo làm người vậy.
Sau đức tính “nhân” là đức
tính “nghĩa”. Nghĩa là đúng, là phải, là tốt. Người
Mỹ hay dùng chữ correctness hay righteusness để dịch
chữ nghĩa. Nó là sự biểu hiện của lòng nhân
trong cuộc sống của con người.Chúng ta thường
nói vợ chồng ăn ở với nhau cho có “nghĩa”, hoặc
ở cho có “nhân nghĩa”, tức là có sự hiểu biết
thương yêu nhau, đối xử với nhau cho đúng,
cho phải lẽ, cho tốt đẹp. Ở trường
hợp vợ chồng, hay anh em, bạn, chữ “nghĩa” còn
bao hàm ý nghĩa “thủy chung”, tức là trước sau như
một, không hề đổi thay lòng dạ. Đối xử
với anh em, bạn bè, vợ hay chồng, lúc nào cũng đúng,
cũng phải lẽ, cũng tốt, lúc giàu có cũng vậy
mà khi nghèo khổ sa cơ thất thế cũng vậy, thì
đó là thủy chung, đó là nghĩa vậy.
Sau chữ nghĩa là chữ lễ.
Lễ bao gồm những luật lệ, những quy tắc
hướng dẫn cử chỉ và hành động của
con người trong mọi trường hợp, làm thế
nào cho phải cho đúng phép, từ những nghi thức cúng
tế, những cung cách xử sự trong triều đình, đến
phép lịch sự xã giao ở ngoài đời. Nói chung là những
phép tắc, những qui luật về hành vi và cử chỉ
và lời nói của con người trong mọi trường
hợp từ trong nhà đến xã hội. Nó cũng là một
hình thức biểu lộ khác của lòng nhân cho nên Khổng
Tử bảo “Khắc kỷ phục lễ vi nhân”, tức
là thắng được cá nhân mình để làm theo đúng
phép tắc luật lệ, đó là nhân vậy.
Trí hiểu một cách nôm na là
bộ óc của con người. Nó là sự hiểu biết,
sự ý thức về chân lý.
Hiểu rộng ra “trí” có thể được xem như đời
sống trí thức (vie intellectuelle) của con người
bao gồm tất cả các chức năng tâm lý như suy
luận, phán đoán, trí tuệ…Trong hệ thống triết
lý của Khổng Tử, chữ trí không những chỉ sự
hiểu biết mà còn có ý nghĩa là khôn khéo, thấu đáo,
hiểu xa biết rộng. Nhờ có đức tính này mà
con người có thể biết được sự thật,
nhận đựơc chân lý, phân biệt đựơc
phải trái tốt xấu, để hướng hành động
của mình đến chỗ tốt đẹp.
Tín là lòng tin. Nói đúng và làm đúng,
giữ đúng lời nói của mình để cho người
để cho người khác tin được ở nơi
mình, đó là chữ tín. Hứa với ai điều gì thì
phải giữ đúng lời hứa đó như vậy về
sau người ta mới có thể tin mình được. Nếu
mình hứa hay nói một điều mà mình lại làm khác hơn
thì làm sao người ta còn có thể tin được nơi
mình. Giữ được chữ tín là điều rất
khó, nhưng người ta phải cố gắng giữ
cho được nó bởi nó vô cùng quan trọng trong cuộc
sống chung của con người trong xã hội này.
Năm đức tính vừa lược
thuật trên đây là năm đức tính mà Khổng Tử
muốn con người phải có để có thể sống
chung với nhau làm cho đời sống cá nhân, gia đinh và
xã hội được tốt đẹp. Muốn cho gia đình
và xã hội được tốt đẹp thì năm mối
liên hệ trong ngũ luân phải được thực hiện
theo đúng tiêu chuẩn đạo đức đề ra,
và muốn thực hiện được những tiêu chuẩn
đạo đức đó, thì mỗi cá nhân phải trau dồi
cho có được năm đức tính cần có của
ngũ thường.
Ý nghĩa của luân thường
trong Khổng giáo là như vậy. Mục đích của luân
thường rất tốt, rất thực tế. Nó nhắm
vào việc làm thế nào để mỗi cá nhân con người
được tốt, để có một gia đình tốt,
và một xã hội loài người tốt. Nhưng tốt
ở đây chỉ có nghĩa là không xấu mà thôi. Nhiều
triết gia cho rằng hệ thống luân lý của Khổng
Tử chỉ chú trọng vào phía tiêu cực mà thôi chứ ít
khi nhìn về phía tích cực.
Nó tiêu cực ở chỗ chỉ
nhắm vào bổn phận chứ không nhắm vào quyền
vào làm người. Nó còn tiêu cực ở chỗ chỉ
khuyên người ta đừng làm những cái xấu nhiều
hơn là khuyên người ta nên làm những cái tốt. Gia đình
và xã hội tốt của Khổng Tử có thể là một
gia đình có lễ nghi, có trật tự, một xã hội
không có chiến tranh và loạn lạc, không có áp bức, không
có tham nhũng, không có xáo trộn nhưng nó mang ý nghĩa
tích cực của một gia đình hạnh phúc, một xã
hội phát triển tiến bộ và hùng mạnh.
Nhưng dù có tiêu cực đi
nữa, đạo lý luân thường của Khổng Tử
vẫn có nhiều giá trị thực tế đối với
cuộc sống hiện tại của con người. Năm
mối liên hệ vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn
bè tuy không bao quát được tất cả mọi liên hệ
giữa người và người trên thế gian này nhưng
nó cũng bao gồm được những mối dây liên
hệ chính rất quan trọng
trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Liên hệ vua tôi
có thể hiểu rộng ra để bao gồm cả người
lãnh đạo và người được lãnh đạo,
người chỉ huy và người được chỉ
huy, người ra lệnh và người tuân hành, chủ nhân
và công nhân…Liên hệ cha con thì hiểu là liên hệ giữa
cha mẹ và con cái kể cả dâu rể. Liên hệ bạn bè thì có thể mở
rộng đến những cộng sự viên, những người
lân cận, những người láng giềng, những đồng
nghiệp…Hiểu rộng như vậy thì ngũ luân có thể
bao gồm hầu hết các mối liên hệ giữa người
và người trên cõi đời này. Tiêu chuẩn đạo
đức cho mỗi mối dây liên hệ có thể được
thay đổi cho thích hợp với đời sống của
con người ở ngưỡng cửa thế kỷ XXI
hơn.
Đến như ngũ thường
thì quả thật đáng được chúng ta làm sống
lại để cho con người có những đức
tính cần thiết cho cuộc sống tốt đẹp và
lành mạnh. Chữ nhân, chữ nghĩa, chữ tín là những
chữ cần phải trau dồi và áp dụng ở trên đời,
nhất là cho những người có ít nhiều quyền lực
ở trong tay.
Không có lòng nhân, những kẻ
cầm quyền có thể chỉ là những kẻ bạo
tàn, dùng mọi biện pháp phi nhân để kềm kẹp
người dân, bắt buộc người dân phải sống
khổ sở mà phục vụ cho bạo quyền. Không có
nghĩa, kẻ cầm quyền chỉ nhìn thấy có cái lợi
cho cá nhân mà thôi. Kẻ đó chỉ có thể nhũng lạm
quyền thế, chiếm công vi tư, tham lam hối lộ
vơ vét của dân, làm giàu trên xương máu của đồng
bào. Không có chữ tín, chánh quyền chỉ là một bọn
láo khoét, hứa một đường làm một nẻo,
khiến cho dân chán ghét, mất hết lòng tin. Nói là đi học
tập mười ngày để rồi đem giam người
ta bao nhiêu năm tháng, chánh quyền như vậy thì còn ai
tin được?
Người cầm quyền mà
không có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín thì thật là một tai họa
cho những người bị trị vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét