Nguyễn Duy Chính
Hình như ai trong chúng ta khi đọc Ỷ
Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung (được Tiền Phong Từ Khánh Phụng dịch ra
Việt ngữ dưới nhan đề “Cô gái Đồ Long”) đều tự hỏi Minh giáo có thực hay
không, những bang phái, giáo hội đã sinh hoạt và ảnh hưởng thế nào
trong xã hội. Theo bộ tiểu thuyết kiếm hiệp này, Minh giáo là một tôn
giáo được tổ chức chặt chẽ và qui mô, đứng đầu phe tà và đã từng nhiều
lần đụng độ với phe chính phái. Sự xuất hiện của họ thật kỳ bí và như
một tấm màn dần dần vé lên, mỗi lúc lại cho chúng ta biết thêm một số
chi tiết về hoạt động, về tổ chức cũng như về giáo qui của họ. Trong sử
sách, Minh giáo cũng được nhắc đến, tuy không phong phú như những tôn
giáo khác, nhưng cũng đại biểu cho một hệ thống tư tưởng, cái hệ thống
nhị nguyên không những phổ biến trong nhiều cơ sở triết học của thế
giới, mà lại cũng dễ dàng được quần chúng chấp nhận hơn vì phân biệt
trắng đen, thiện ác, có những tiêu chuẩn nhất định không mơ hồ như hệ
thống nhất nguyên. Nhìn theo quan điểm xã hội, hệ thống tư tưởng của
Minh giáo lại tương đồng với Tây phương và trong một thời gian khá dài,
những cơ sở đó tranh huy với những tôn giáo khác, tuy trên bình diện
triết học không áo diệu bằng Phật học hay Lão học, nhưng về phương diện
tổ chức, Minh giáo có tính quần chúng hơn và phát triển cũng có qui củ
hơn. Chỉ về sau này, khi Nho giáo được đưa lên thành hệ thống học thuật
làm thước đo cho khả năng của kẻ sĩ, đẩy lùi các tôn giáo khác ra khỏi
quan trường, Minh giáo mới suy yếu và dần dần biến mất. Trong phạm vi
bài này, chúng tôi sẽ đối chiếu những chi tiết mà Kim Dung đưa ra trong
bộ Ỷ Thiên Đồ Long Ký với Minh giáo trong sách vở để nhìn lại một vấn đề
luôn luôn hiện hữu trong suốt lịch sử Trung Hoa: vai trò của tôn giáo
trong các cuộc nổi dậy.
Minh Giáo: Bái Hỏa giáo hay Mani Giáo?
Khi nói tới Ba Tư (tức Iran ngày nay),
chúng ta vẫn hình dung đó là một xứ mà mình vẫn gọi là “nghìn lẻ một
đêm” với những truyện thần kỳ thật phong phú. Có lẽ ít ai biết rằng ở
vào những thế kỷ đầu Công Nguyên, khu vực Trung Đông cũng đã có nhiều
giao tiếp với Trung Hoa trên nhiều mặt, và tôn giáo chính của họ khi đó
cũng khác hẳn với thế giới Muslim chúng ta thấy ngày nay. Đã có những
triều đại thân cận với nước Tàu đến nỗi khi họ bị xâm chiếm, họ chạy qua
cầu cứu và nhờ viện binh để quay về “phục quốc”, chẳng khác gì những Lê
Chiêu Thống, Trần Thiêm Bình ở nước ta. Đời nhà Đường, vì gốc tích của
họ cũng mang giòng máu ngoại vực, việc trao đổi văn hóa giữa các dân tộc
vùng Trung Đông và Hán tộc cũng được dễ dàng. Sự phát triển và thịnh
trị của thời kỳ này cũng nhờ vào chính sách tương đối khai phóng thuở
ấy. Không những khoa học, kỹ thuật, các loại sản phẩm công nghiệp được
trao đổi, mà tôn giáo cũng từ bên ngoài du nhập vào Trung thổ rất nhiều.
Thời kỳ đó, phía Tây Trung Hoa có một
dân tộc tương đối phát triển là Thổ Phồn, tổ tiên của dân tộc Tây Tạng
ngày nay, là một chi lưu của người Khương. Khi vua Đường Thái Tông lên
ngôi (626 Tây Lịch), vua nước Thổ Phồn là Tùng Tán Hãn Bố giao hiếu với
Trung Hoa, được vua nhà Đường gả Văn Thành Công Chúa cho (641 TL). Sử
sách chép rằng Công Chúa mang theo một đoàn tùy tùng rất lớn đến hơn năm
ngàn năm trăm người, lại không biết bao nhiêu là sản vật, gia súc, tư
trang, hàng hóa. Từ đó những vương tôn công tử nước Thổ Phồn sang Trường
An du học mở đầu cho một thời kỳ giao lưu văn hóa giửa Trung thổ và các
nước phía Tây. Chính thời này, các phát kiến của Trung Hoa như chế tạo
nông cụ, dệt vải, nuôi tằm, xây cất, làm giấy, đồ gốm, luyện kim, lịch
toán, y học… truyền ra bên ngoài và ngược lại nhiều kỹ thuật từ các nước
Trung Đông cũng truyền vào nước Tàu. (Dư Tử Lựu, Nguồn Gốc Con Rồng –
Long Đích Căn, Thương Vụ Ấn Thư Quán , Hongkong 1985, tr. 176)
Về tôn giáo, việc truyền bá từ bên ngoài
vào Trung Hoa đã có từ lâu. Ngay thời Nam Bắc Triều, một tôn giáo từ Ba
Tư có tên là Bái Hỏa Giáo (Zoroastrianism) được truyền vào Trung Quốc.
Tôn giáo này do một người Ba Tư tên là Zarathushtra – nguyên nghĩa là
con lạc đà già – thành lập từ thế kỷ thứ 6 trước Công Nguyên tại Đại Hạ
(nay ở biên giới A Phú Hãn). Người ta gọi họ là Majus hay Mazdeans. Giáo
đồ của tôn giáo này lấy kinh của Ba Tư là A Duy Tư Đà (Àvesta Gatha)[1]
làm kinh điển, chủ trương phân ra làm hai bên thiện ác, nhị nguyên.
Theo họ, việc gì quang minh, lửa, thanh tĩnh, sáng tạo, sự sống thuộc về
thiện đoan. Còn hắc ám, ác, dơ bẩn, phá hoại, chết thuộc về ác đoan.
Con người được tự do chọn lựa để làm điều thiện hay điều ác. Khi chết đi
sẽ được Thượng đế (tức Ahura Mazda) phán xét, ai qua được thì lên thiên
đường, người nào không qua thì xuống địa ngục. Vì thế khi còn sống mọi
người phải làm lành, lánh dữ, bỏ chỗ tối mà tìm chỗ sáng. Châm ngôn đạo
đức của họ là nghĩ điều lành, nói điều lành, làm điều lành. Họ có một
nghi thức riêng để lễ “thánh hỏa” dưới quyền chủ tế của một “majus”. Tôn
giáo này có thời là quốc giáo của Ba Tư trong triều đại Sasanian.
Đạo Bái Hỏa truyền vào bắc Trung Hoa từ
năm 516-9 theo phái đoàn của người Ba Tư. Đến đời Tùy, họ được thành lập
ở Trường An những khu vực riêng để hành đạo. Ngoài việc trao đổi các sứ
thần giữa hai bên, các thương nhân Ba Tư cũng sang Trung Hoa buôn bán.
Hiện nay, tại Quảng Châu, Tuyền Châu, Dương Châu và Trường An, Lạc Dương
vẫn còn nhiều dấu tích của người Ba Tư thời đó.
Năm 621, tiên từ (shrine) đầu tiên được
xây dựng cho người “hồ” ở kinh đô và đến năm 631 thì một tu sĩ (Magi)
được vào làm quan trong triều. Đến năm 652, khi người Muslim từ Ả Rập
(Islam) sang xâm chiếm Ba Tư, họ bị đánh đuổi, một phần chạy sang phía
tây nước Ấn (nay còn lại ở Bombay được gọi là Parsees có nghĩa là người
Persian) nhưng một số lớn chạy sang Trung Hoa, khi đó vào đời nhà Đường.
Vua cuối cùng của triều đại Sasanian là Yazdegird đệ tam (Yazdagard
III) cầu viện vua Đường Thái Tông để đem quân khôi phục đất nước. Tuy
nhiên, nhà Đường từ chối và họ đành phải sống lưu vong với dân chúng
vùng Tân Cương ở Trung Á nhưng lại bị thổ dân phản bội. Gần đây, khi
khai quật một số địa điểm vùng Tây An, người ta đã tìm thấy một số tiền
làm bằng bạc của Ba Tư thời kỳ này, nhiều mộ chí bằng cả hai thứ tiếng
Ba Tư và chữ Hán. (Dư Tử Lựu, tr. 183)
Nhà Đường tiếp tục bảo vệ con của
Yazdegird là Peroz (Firuz) và cho phép họ được xây cất đền thờ và tiếp
tục hành đạo. Peroz vẫn được công nhận là vua nước Ba Tư và được phong
một chức võ quan tại triều. Ông ta chết ở Trường An và con là Narseh
được tập tước vương. Narseh cố gắng đem quân Tàu về lấy lại nước nhưng
thất bại và những người thuộc triều đại Sasanian định cư tại Trung Hoa
trong khoảng 200 năm. Một số tiểu quốc được hình thành nằm giữa biên
giới Ba Tư và Trung Hoa không theo đạo Hồi, độc lập đã tồn tại trong
nhiều năm và nhiều phái bộ, sứ thần đã đến kinh đô nhà Đường trong
khoảng từ 713 đến 755 sau TL. Những cư dân của các tiểu quốc này trở
thành những người buôn ngọc, phù thủy, thợ thủ công và thương nhân. Họ
xây dựng bốn, năm tiên từ (thánh đường), tại Trường An, hai, ba tiên từ
tại Lạc Dương, một tại Khai Phong và nhiều nơi
khác như Dương Châu, Đôn Hoàng, Thái Nguyên … Họ cũng di cư đến nhiều
nơi khác, có người tới tận Hải Nam và vùng nước ta nhưng không biết rồi
ra sao.
Đến năm 845, nhà Tống tiêu diệt các tôn
giáo và bài xích tất cả các tôn giáo từ nước ngoài, nhất là đạo Phật và
Bái Hỏa giáo cũng bị tiêu diệt. Vì họ coi lửa là đại biểu của quang minh
(sáng sủa), nên việc thờ phụng “lửa thần” (thánh hỏa) là nghi lễ chính
yếu. Người Trung Hoa gọi tôn giáo này dưới nhiều tên như tiên giáo, hỏa
tiên giáo, bái hỏa giáo, Ba Tư giáo … Bái hỏa giáo đến đời Nguyên hay
Minh thì không còn ai biết đến. Theo sách vở, Bái hỏa giáo là một tôn
giáo chỉ thu hẹp trong phạm vi chủng tộc và không chủ trương bành trướng
hay chiêu dụ người ta theo đạo. Kinh điển của họ không được dịch sang
tiếng Tàu và có lẽ người Tàu cũng không ai đổi qua theo đạo này. Tuy
nhiên, họ cũng đem lại một số ảnh hưởng, vì đời Đường là triều đại mở
cửa nên nhiều kỹ thuật mới được du nhập, nhiều sắc thái văn hóa được đón
nhận trong sinh hoạt hàng ngày.
Một tôn giáo khác cũng truyền từ Ba Tư
là Ma Ni giáo (tức Manichaeism, do Mani người Ba Tư sáng lập vào thế kỷ
thứ 3 sau Công Nguyên). Ma Ni giáo kết hợp nhị nguyên luận của hỏa tiên
giáo, đồng thời dung hợp nhiều tôn giáo trong đó có một số tư tưởng của
Phật giáo và Ki tô giáo mà thành. Ma ni giáo được gọi là tôn giáo của
ánh sáng (Religion of Light) và truyền vào Trung Hoa qua nhiều sự tích
ly kỳ. Cho đến giờ phút này, người ta vẫn chưa rõ Mani là tên người hay
là một cách xưng hô tôn quí. Nghĩa của chữ này cũng không rõ ràng, theo
cổ ngữ Hi Lạp thì là skeuos và homilia, nhưng hình như nguyên thủy lại
bắt nguồn từ tiếng Babylonian-Aramaic có nghĩa là Vua của Aùnh Sáng.
Mani sinh ra tại Baghdad,
khoảng thế kỷ thứ 3, dưới thời mà người Ba Tư làm chủ cả khu vực
Mesopotamia, ngày nay là Iraq. Cha ông hình như là người Mandaeans. Sau
khi đi lang thang trong vài năm, sống đời khổ hạnh để suy tưởng về giáo
lý, năm 242 (có chỗ chép rõ là ngày 20 tháng 3) ông được mặc khải và tự
cho mình là một nhà tiên tri, lập nên một giáo phái mới. “Cũng như Phật
Thích Ca đến Aán Độ, Zoroaster[2] với Ba Tư, hay chúa Jesus đến miền
Tây, thời kỳ này thiên sứ đến với ta, tức Mani, đến với vùng Babylonia”.
Đó là lời tuyên bố của ông và tự cho mình là một tông đồ của Thượng đế.
Ông lại đi lên Bactria ở miền tây bắc Ấn Độ, và nghiên cứu thêm về Phật
giáo. Ông chịu ảnh hưởng sâu đậm của các tư tưởng Gnostic (mộït chi
phái của Thiên Chúa giáo thời kỳ sơ khai, bị coi như tà giáo). Đến năm
241, ông quay về Ba Tư sau khi vua Shapur đệ Nhất lên ngôi, là người
dung chứa các tôn giáo. Ông bắt đầu truyền giáo, dung hợp cả Gnosticism,
Zoroastrianism, Christianity, Buddhism, Lão giáo và những tôn giáo địa
phương tại Ba Tư. Trong suốt thời vua Shapur, ông được tự do truyền giáo
và hoạt động trong khối giáo đồ của mình. Thế nhưng khi vua Bahram đệ
nhất lên ngôi, người giáo đồ Bái hỏa coi Mani là thù nghịch. Mani bị cầm
tù và bị đóng đinh, xác bị bêu tại cổng thành để răn đe những người
theo ông. Những tín đồ của đạo Mani cũng bị tàn sát không thương tiếc.
Theo sử sách ông chết khoảng 276-277 sau Công Nguyên. Tôn giáo của ông
truyền sang tận Bắc Phi, Nam Âu châu và Trung Hoa.
Tư tưởng chính yếu của đạo Manichaeism
là nhị nguyên đối đãi và mục tiêu của con người là làm sao giải thoát
được bằng cách khai mở luồng ánh sáng vốn bị vật chất giam hãm. Có hai
đẳng cấp trong giáo phái này, đẳng cấp tu sĩ là thành phần được “thiên
khải”, và “giáo đồ” là đại số quần chúng phục vụ cho thành phần được
Thượng Đế lựa chọn. Tu sĩ sống độc thân, khắc kỷ, chỉ lo đi truyền giáo
và học đạo. Những tu sĩ chắc chắn sẽ được giải thoát ngay khi chết vì họ
đã được ân sủng của minh tôn. Giáo đồ có quyền lập gia đình nhưng phải
chăm lo phục vụ các trưởng lão, và khi chết đi sẽ được tái sinh làm tu
sĩ. Chính đạo này, dưới cái tên Ma ni giáo, Minh tôn giáo hay Minh giáo
đã ảnh hưởng quan trọng trong sinh hoạt xã hội của Trung Hoa trong một
thời gian khá dài, hơn hẳn những tôn giáo khác cũng xuất xứ từ Ba Tư.
Ma ni giáo truyền vào Trung Thổ khoảng
năm 694 đời nhà Đường, mặc dù đạo này có mộït số ảnh hưởng đến Lão giáo
từ trước đó. Năm 694 cuốn “Nhị Tông Kinh” (Erzongjing) bộ kinh chính yếu
của họ được đem vào nước Tàu. Theo Minh Sử viết vào thế kỷ thứ 17, một
mục sư vào truyền giáo dưới thời vua Cao Tông (650-83) nhưng nhiều học
giả không đồng ý mà chỉ công nhận là năm 719 có một đại trưởng lão của
họ từ Tokharistan đến mà thôi. Năm 732, trong một chỉ dụ của nhà Đường
có nhắc tới họ đi truyền tà giáo mang danh nghĩa một tông phái của đạo
Phật. Tuy nhiên vì đây là một tôn giáo của người Hồ nên triều đình không
cấm chỉ miễn là họ giới hạn việc sinh hoạt trong những dân tộc thiểu
số. Năm 745, người Hồi Hột (Uighur) kiến tạo một vương quốc rộng lớn,
kéo dài từ sông Ili (Y lê) đến tận sông Hoàng Hà. Một trong những tiểu
vương (khans) theo đạo Ma ni năm 762 và Ma ni giáo trở thành quốc giáo
của Tân Cương. Tới lúc đó, một số lớn người Hồi (Uighurs) đã cải đạo
theo đạo Ma Ni và sau khi họ giúp nhà Đường chống lại loạn An Lộc Sơn,
một số đông người Hán cũng theo. Họ có thể đã xây cất nhiều đền đài từ
trước nhưng sách vở chỉ chắc chắn là có một đền Ma ni – dưới tên Hán tự
là Đại Vân Quang Minh (Dayun huangming) được thành lập tại Trường An năm
768. Khoảng năm 771, tại các vùng Kinh, Dương, Hồng (Nam xương), Việt
(Thiệu Hưng) cũng có đền Ma ni và đầu thế kỷ thứ 9, tại Lạc Dương, Thái
Nguyên đã có những đền thờ của họ được xây cất. Như vậy xét về mặt địa
lý, giáo phái này bành trướng từ miền Tây Trung Hoa lan sang tận miền
đông, sát bờ biển. Nhà Đường tương đối khoan dung hơn người La Mã khi họ
bách hại người Thiên Chúa giáo và người Ma ni giáo vào thế kỷ thứ tư
sau Công Nguyên.
Đến năm 842-3, khi dân tộc Hồi suy yếu
vì bị người Kirghiz đánh bại, triều đình lại bắt đầu một chính sách bài
giáo, đặc biệt là những tôn giáo từ bên ngoài truyền vào Trung thổ nhất
là Phật giáo. Ma ni giáo cũng bị càn quét, đền đài bị phá hủy, của cải
bị tịch thu, kinh sách bị đốt. Tại Trường An, hơn 70 nữ tu Ma ni bị
giết. Từ đó họ phải lui vào bóng tối, hoạt động âm thầm và biến thành
một đoàn thể bí mật. Họ chia ra thành nhiều chi phái, dưới nhiều tên
khác nhau và cũng hoạt động trong những khu vực hay hình thái khác nhau.
Chi lưu mạnh nhất có tên là Minh Giáo, tôn Trương Giác đời Đông Hán làm
giáo tổ, còn thờ Ma Ni làm thần Quang Minh. Chính đây là tôn giáo mà
Kim Dung đã huyền thoại hóa trong bộ Ỷ Thiên Đồ Long ký thành Minh Giáo,
một đoàn thể vừa mang màu sắc bang hội, vừa có thêm một số nghi lễ thần
bí, đứng đầu phe hắc đạo.
Giáo nghĩa của họ chủ yếu là phân biệt
hai đằng thiện ác, sáng tối, dùng thuyết tam tế phân biệt ba cõi quá
khứ, hiện tại, tương lai làm nền tảng, và tin tưởng rằng quang minh rốt
ráo sẽ chiến thắng hôn ám. Giáo đồ Minh giáo mặc đồ trắng, sống giản dị,
cần kiệm, ăn chay, không uống rượu, người chết thì để trần truồng đem
bỏ ngoài sa mạc cho chim ăn, không thờ tổ tiên, thần, Phật mà chỉ lễ bái
mặt trời, mặt trăng. Tổ chức trong giáo phái này rất nghiêm mật, trưởng
lão của họ gọi là hành giả, giáo đồ chia thành thị giả, thính giả, cô
bà, trai tỉ… Họ truyền bá mạnh tại các vùng Hoài Nam, Mân, Triết, Cám
(Giang Tây). Về sau họ hợp nhất với Di Lặc giáo, Bạch Liên giáo. Minh
giáo phát triển mạnh khoảng thế kỷ thứ 11 sau Công Nguyên. Theo
Al-Beruni, một sử gia Ả Rập thì “đa số người Hồi, người Trung Hoa và Tây
Tạng ở vùng Tây Vực, cả một số người Ấn Độ cũng theo đạo Mani”. Những
kinh điển và tài liệu người ta tìm được ở Turfan gần đây phù hợp với
những nhận định đó. Thời kỳ này Minh giáo đã bành trướng mạnh và trở
thành một tôn giáo có thế lực.
Qua đời Ngũ Đại, Tống, Nguyên họ khởi
nghĩa nhiều lần, đặc biệt là cuộc nổi dậy Mẫu Ất thời kỳ cuối của nhà
Lương, hay Phương Lạp đời Tống (1120-22). Cuộc khởi nghĩa quan trọng
nhất mà họ tham gia có lẽ là cuộc nổi dậy chống lại người Mông Cổ vào
thế kỷ thứ 14, lập nên triều đại nhà Minh, mặc dầu nhiều học giả không
cho rằng nhà Minh có liên quan đến Minh giáo.
Hiện nay, đền thờ duy nhất của người Ma
Ni còn sót lại trên thế giới ở tại Quan Châu (Phúc Kiến), vùng duyên hải
Trung Hoa trong đó có khắc nổi tượng Ma Ni dưới danh hiệu Quang Minh
Phật (Buddha of Light). Có lẽ vì tên Mani tương đồng với Thích Ca Mâu Ni
nên nhiều người đã lầm lẫn giữa hai tên này. Tuy nhiên hình tượng khác
hẳn hình tượng của Phật giáo. Trên đầu có một vòng hào quang, với hai
chùm tóc chảy từ đầu xuống vai. Hình tượng mặc áo trắng và theo tự tích
khắc ở đó thì ngôi đền này do một giáo đồ kiến lập năm 1340. Tài liệu
ngày nay người ta kiếm được để nghiên cứu về đạo Mani được gọi là Turfan
(Turpan), là những kinh điển mà các khảo cổ gia người Đức đào được ở
Đôn Hoàng (Dunhuang) vào khoảng 1902-14. Trong số các tự tích tìm thấy
có cả những đoạn mà từ lâu nay bị mất trong thánh kinh của họ, cả những
văn chương viết bằng tiếng Pahlavi, Saghdian, Thổ Phồn và tiếng Hán. Một
số tài liệu khác về đạo Ma ni thì kiếm thấy ở Ai Cập năm 1933 và trong
những sách vở bài xích đạo Ma Ni do người đạo Thiên Chúa, Muslim hay Bái
Hỏa viết.
Thi nhân Bạch Cư Dị đã từng viết một bức
thư thay mặt vua nhà Đường trả lời cho vua nước Hồi khi họ xin triều
đình Trung Hoa bảo vệ những người theo đạo Mani. Julia Ching nhận định
là vấn đề của đạo Mani là họ vay mượn từ các tôn giáo khác khiến cho đối
với các dân tộc Cận Đông thì họ giống như Thiên Chúa hay Do Thái giáo,
trong khi đối với các dân tộc Viễn Đông thì họ lại giống như Phật giáo.
Chính Mani cũng coi Jesus là đấng tiên tri của người Do thái, Zoroaster
là đấng tiên tri của người Ba Tư, còn Phật Thích Ca là đấng tiên tri của
người Ấn Độ. Và khi ông tổng hợp được nhiều tôn giáo trong đạo của
mình, ông ta tin rằng “Giáo hội của ta ưu việt hơn các giáo hội đã có từ
trước, và những tôn giáo trước đây chỉ phổ biến tại một số quốc gia hay
thành thị, còn Giáo hội của ta sẽ lan truyền đến khắp mọi thành phố, và
lời giao rảng của ta sẽ đến khắp thế gian.” (Julia Ching, Chinese
Religions tr. 174)
Một trong những đặc tính của các tôn
giáo ở Trung Hoa là những tổ chức này không hoàn toàn mang tính chất tôn
giáo mà luôn luôn pha thêm một số hình thức thế tục trên phương diện xã
hội hay chính trị. Tôn giáo cũng không có một vị trí quyền lực cao cấp
như tại Tây phương. Tuy có một số thời kỳ, nước Tàu có những Quốc Sư
nhưng những vị cao tăng đó không thể nào sánh được với thế lực của những
giáo hoàng hay giáo chủ ở Âu Châu hay Trung Đông. Minh giáo hình thành
vào đời Đường là giai đoạn văn hóa tương đối khai phóng nên được chấp
nhận dễ dàng cũng như Phật giáo nhưng đến triều Minh, Thanh, khi Nho
giáo đã có một vị trí độc tôn, các tôn giáo có nguồn gốc từ bên ngoài
không còn được coi trọng nữa. Chính vì thế, cũng như nhiều tôn giáo
khác, Minh giáo dần dần tàn lụi.
Trên thực tế, Minh giáo là một tôn giáo rất
khắt khe. Những tu sĩ của họ phải sống một đời sống khắc kỷ và giữ mình
nghiêm nhặt. Theo kinh điển của giáo phái này, những người được Thượng
đế lựa chọn (Primates Manichaeorum) có một đời sống khổ hạnh và phải
luôn luôn di hành, không được ở yên một chỗ. Họ không được quyền có tài
sản, không ăn thịt, uống rượu, và trấn áp mọi dục tình. Họ cũng không có
quyền có nghề nghiệp, buôn bán, hay học những ma thuật hoặc nghiên cứu
tôn giáo ngoài chính tôn giáo của họ. Nhiệm vụ chính yếu của họ là kìm
giữ và đóng kín ba cửa ải – miệng, tay và ngực (oris, manuum, sinus). Để
giữ miệng, họ không được nói năng độc địa, không ăn uống các chất độc
hại. Thịt gia súc sẽ khởi động ma vương trong cơ thể con người, vì thế
họ chỉ được ăn rau cỏ và trái cây. Để giữ gìn cho bàn tay khỏi ô uế, họ
không được sát sinh, bẻ cây hái trái. Để giữ gìn cho trái tim được trong
sáng, họ không được nghĩ ngợi bậy bạ chẳng hạn như nghĩ những điều
không trong sạch hay trái với giáo lý của đạo Mani. Họ cũng không được
lập gia đình vì coi rằng sự truyền chủng là một hành động kéo dài sự tăm
tối, và loài người sinh sản chính là vì bị Thượng đế trừng phạt. Chính
vì khó khăn như thế nên số người được ở trong hàng giáo phẩm rất hiếm
hoi.
Minh Giáo theo Kim Dung
Không biết rằng vô tình hay cố ý, Kim
Dung đã cố tình pha trộn giữa Bái hỏa giáo và Ma ni giáo. Mặc dù hai tôn
giáo này có những điểm chung, sử sách không nói rằng Ma ni giáo cũng
coi lửa làm biểu tượng của quang minh như Bái hỏa giáo. Do đó Minh giáo
qua Kim Dung là một tổ chức được tiểu thuyết hóa, ít tôn giáo mà nhiều
tính chất bang hội. Chính vì thế chúng ta thấy Minh giáo được tổ chức
chặt chẽ nhưng lại dựa trên những liên kết thế tục hơn là thần quyền. Từ
một đoàn thể bí mật, Minh giáo đã nhanh chóng biến mình để thành một
đảng cách mạng. Chúng ta có thể nói rằng Minh giáo của thời Mạt Nguyên
có nhiều điểm tương đồng với Thiên địa hội đời Thanh sơ hay Thái Bình
Thiên quốc đời Thanh mạt và hoàn toàn khác hẳn những tôn giáo sẵn có ở
Trung Hoa, tiêu biểu là Phật giáo hay Lão giáo. Ngay từ sau chương giới
thiệu câu chuyện, Kim Dung đã cho xuất hiện nhiều nhân vật liên quan đến
tà giáo nhưng không đề cập đến nguyên ủy ngọn ngành của họ. Một Ân Tố
Tố nữ cải nam trang cố tình làm cho phái Thiếu Lâm tưởng Trương Thúy Sơn
là thủ phạm vụ giết người ở Long Môn tiêu cục, một Tạ Tốn thần oai lẫm
lẫm khi đến Vương Bàn Sơn đảo cướp thanh đao Đồ Long. Rồi những nhân vật
hạng nhì như Thường Kim Bằng hay Bạch Qui Thọ cũng có võ công hơn người
khi dương đao lập uy. Hết việc nọ tới việc kia, cho tới khi hai vợ
chồng Trương Thúy Sơn – Ân Tố Tố tự sát, chúng ta vẫn chưa hiểu rõ tà
phái được tổ chức như thế nào. Tấm màn bí mật đầu tiên được vén lên là
khi Trương Tam Phong cứu Thường Ngộ Xuân khi người này bị quân Mông Cổ
truy kích trên sông Hán Thủy:
Trương Tam Phong cũng đã từng nghe qua
về lai lịch của ma giáo, biết ma giáo phụng thờ đại ma vương tên là Ma
Ni, người trong tôn giáo gọi là Minh Tôn. Tôn giáo lày đến trung thổ từ
đời Nguyên Hòa, Hiến Tông nhà Đường, khi đó gọi là Ma Ni giáo lại còn
gọi là Đại Vân Quang Minh giáo, giáo đồ tự xưng Minh giáo nhưng người
ngoài gọi họ là Ma giáo.” (Ỷ Thiên Đồ Long ký, tr. 415-8)
Thế nhưng Minh giáo cũng còn rất mơ hồ,
chưa thấy những liên kết với nhau. Khi sáu đại môn phái – Thiếu Lâm, Võ
Đương, Hoa Sơn, Không Động, Nga Mi, Côn Luân – tiến hành cuộc trường
chinh vây đánh thẳng vào trung khu của Minh giáo là Quang Minh Đính ,
Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi mới tiết lộ qua về tổ chức
của Minh giáo:
“Chỉ nghe Diệt Tuyệt sư thái quát lên: “Dập tắt yêu hỏa, diệt hết ma hỏa”. Bà ta ngừng lại một lát nói tiếp:
Thuyết Bất Đắc nói: -
Chính thế. Đến đời Nam Tống thời Kiến Viêm, có giáo chủ Vương Tông
Thạch tại Tín Châu khởi sự, thời Thiệu Hưng có giáo chủ Dư Ngũ Bà tại Cù
Châu khởi sự, đời Lý Tông, năm Thiệu Định có giáo chủ Trương Tam Thương
tại một dải Giang Tây, Quảng Đông khởi sự. Chỉ vì bản giáo xưa nay luôn
luôn chống lại triều đình, quan phủ nên triều đình gọi chúng tôi là “ma
giáo”, càng cấm đoán nghiêm nhặt hơn. Chúng tôi muốn sống còn, hành sự
không khỏi kín đáo, lạ lùng, để tránh tai mắt quan quân. Chính đại môn
phái đối với chúng tôi tích oán thành thù hận, thế hia bên ghét nhau như
nước với lửa. Đương nhiên, trong số giáo chúng của bản giáo, cũng đôi
khi có những kẻ không tự kiềm chế, làm những trò không phải, ỷ mình có
võ công, giết người vô tội cũng có, gian dâm cướp bóc cũng có, đem cái
tiếng tăm của bản giáo đổ xuống sông xuống…”(Ỷ Thiên Đồ Long ký, tr.
757-8)
Tuy nhiên, một cách chính thức phải kể
đến đoạn mà Kim Dung thác danh một cuốn sách của Dương Tiêu soạn ra để
viết về lịch sử của Minh giáo:
“Hai người nói chuyện một lát, Trương Vô Kỵ thuận tay cầm một cuốn sách trên bàn của Dương Tiêu lên, thấy trên bìa có viết bảy chữ tựa đề “Minh Giáo Lưu Truyền Trung Thổ Ký”, bên dưới có một hàng chữ nhỏ “Đệ Tử Quang Minh Tả Sứ Dương Tiêu cung soạn”. Trương Vô Kỵ nói:
Chàng đọc đến đây, quay đầu nói với Dương Tiêu: -
Dương tả sứ, cái câu “pháp cấm dũ nghiêm, nhi dũ bất khả thắng cấm”
chính là rõ ràng nói lên việc bản giáo được lòng dân chúng.” (Ỷ Thiên Đồ
Long ký tr. 1016-8)
Thế nhưng khi tìm hiểu về Minh giáo
trong khung cảnh thực tế xã hội Trung Hoa, chúng ta thấy rằng Kim Dung
đã không đơn thuần chỉ dựa vào tài liệu và sử sách. Minh giáo trong Ỷ
Thiên Đồ Long ký là một kết hợp giữa một giáo phái với một bang hội, một
tổ chức mà những giáo đồ không chỉ có chung một đức tin. Chính cái tinh
thần tương thân tương trợ, một kỷ luật nội bộ, những qui tắc và thứ bậc
đã tạo cho Minh giáo thành một tổ chức có thực lực chính trị vì họ đã
huy động được một hậu thuẫn quần chúng. Minh giáo của Kim Dung dưới thời
mạt Nguyên đó và Thiên địa hội trong thời Thanh sơ có nhiều điểm tương
đồng, ít nhất trong vai trò chính trị của nó là một tổ chức đối kháng
với triều đình. Cả hai đều có ý định khôi phục lại giang sơn đang bị
người bên ngoài thống trị. Tuy nhiên, Kim Dung không chỉ biến giáo phái
này thành một tổ chức ái quốc, ông còn muốn đặt Minh giáo như một trong
ba nguồn văn hóa chính yếu tạo nên cái gọi là văn minh Trung nguyên
trong thời kỳ đó, đại diện cho một khuynh hướng võ thuật – võ công Tây
vực, có xuất xứ từ Ba Tư với nền văn minh Trung Đông làm nền tảng. Văn
minh Tây vực đó là một trong ba nền văn minh làm thành thế đỉnh túc cho
Hán tộc bao gồm văn minh Trung nguyên, đại diện là quan niệm âm dương
trong Dịch lý với Trương Tam Phong và phái Võ Đương, văn minh Thiên
Trúc, với Phật học làm nền tảng mà chùa Thiếu Lâm là đại biểu.
Trương Vô Kỵ được coi như một tập đại
thành của ba nền văn minh khi chàng có căn bản là Cửu Dương Thần Công
phát xuất từ một vị cao tăng của Thiếu Lâm, lại được học Càn Khôn Đại Na
Di và võ công trong Thánh Hoả Lệnh của Minh Giáo, cũng như Thái Cực
Quyền và Thái Cực Kiếm của Trương Tam Phong.
Kết luận
Tại Trung Hoa, tôn giáo không dựa trên
tín niệm như tại Âu Châu, cũng như tổ chức thường rất rời rạc. Nhiều
đoàn thể kết hợp bằng nhiều mẫu số, địa phương, sắc tộc, tương trợ, nghi
thức tế lễ, giáo điều, ý thức hợp quần, và cả những mô thức sinh hoạt
chung. Những bang hội, hiệp hội, môn phái, giáo phái … được kết hợp
không khác nhau bao nhiêu. Riêng Minh giáo, tổ chức này không còn thuần
túy như đạo Mani nguyên thủy mà đã bị đồng hóa với những tôn giáo có sẵn
để trở thành một tổ chức quần chúng, ít phần tôn giáo nhưng nhiều phần
thế tục.
Hiện nay, giáo đồ của đạo Bái Hỏa chỉ
còn chừng hai trăm nghìn, nhiều nhất là tại Ấn Độ (100,000) và Iran
(60,000). Riêng ở Bắc Mỹ Châu có chừng 15,000 và hàng năm có những buổi
lễ, nhất là vào khoảng tháng 8, 9 kỷ niệm ngày sinh của Zraathustra. Họ
sống một đời sống trong sạch và hiền hòa, tôn trọng những giáo nghĩa cổ
kính (không ngoan, lẽ phải, đạo đức, bác ái, toàn thiện, bất tử và
thiêng liêng), yêu thiên nhiên.[4]
Trong lịch sử, người ta đã thấy nhiều
nhóm giáo phái biến hình thành một lực lượng nổi dậy, chẳng hạn như giặc
Khăn Vàng thời Tam Quốc, Bạch Liên giáo đời Minh, Thiên Địa Hội đời
Thanh. Có lẽ chính vì thế, những người cầm quyền tại Trung Hoa luôn luôn
nhìn tôn giáo bằng một con mắt ít thiện cảm, nhất là những tôn giáo có
khả năng điều động tín đồ thành một phong trào. Thiên Địa Hội đời sơ
Thanh, Thái Bình Thiên Quốc thời Thanh Mạt, loạn Quyền Phỉ thời đầu thế
kỷ, hay Thanh Bang thời Dân Quốc đều là những tổ chức bán chính trị, bán
tôn giáo có ảnh hưởng rất mạnh đến vận mệnh của một triều đại. Có lẽ vì
thế mà nhà cầm quyền Trung Hoa hiện nay cũng muốn “tiên hạ thủ vi
cường” với những người trong nhóm Pháp Luân Công.
Nguồn: http://nghiencuulichsu.com/ |
Thứ Năm, 18 tháng 5, 2017
Minh Giáo
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét