XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Chủ Nhật, 13 tháng 4, 2014

DẪN NHẬP Đạo Cao Đài

DẪN NHẬP
Đạo Cao Đài


Biểu tượng thường được biết đến của đạo Cao Đài.
Tiếng “Caodaisme” do chữ “Cao Đài” mà dịch nghĩa từng chữ là : Đền đài Tối cao. Từ ngữ nầy ở trong các kinh cầu nguyện rất cổ điển của Phật giáo. Điều nầy đặt nguồn gốc chính của tôn giáo nầy, trước tiên chúng ta sẽ thấy đó là Phật giáo canh tân.
Tôn giáo mới nầy (Thông điệp chủ yếu từ năm 1926) có gốc rễ nơi những truyền thống lâu đời nhất của Phật giáo và những khải thị thanh khiết nhất.
Đạo Cao Đài trong một vài điểm nào đó, được so sánh với đạo Tin Lành về nguồn gốc đối với Công giáo La mã. Vả lại, cái khả năng so sánh ấy đã vượt qua trong cái nghĩa lợi lộc, nghĩa là trong cái nghĩa hòa hợp tốt đẹp, giống như hiện tại cho phép xem xét trong một tương lai không xa, sự hiệp nhứt của các Giáo hội Công giáo trong một Tổng Giáo hội Công giáo thống nhứt.
Tính cách đặc biệt của Đạo Cao Đài là tinh thần tổng hợp. Cho nên, vai trò hòa giải của Đạo Cao Đài có thể đem lại những đóng góp lớn lao cho nền hòa bình tôn giáo hay nền hòa bình nói chung.
Không có chủ nghĩa đảng phái trong Đạo Cao Đài, cũng như thay vì dẫn tới những đối kháng giữa các tôn giáo, tôn giáo mới nầy đang và sẽ tạo ra, càng lúc càng hơn, mối khuyến dụ thường xuyên về sự hòa hợp tốt đẹp giữa nhiều sự phục tòng tôn giáo, thần bí, triết lý hay bí pháp.
Sự hòa hợp tốt đẹp của các thế lực tâm linh ban cho thế giới sự hài hòa tốt nhất trên tất cả các mặt.
Người bạn đáng thương tiếc của chúng tôi, Gabriel Gobron, muốn chứng minh cái đẹp, cái chơn thực, cái hiệu dụng của Đạo Cao Đài bằng cách trình bày lịch sử và cách hành đạo của nền tôn giáo ấy.
Gabriel Gobron sanh tại Bayonville ngày 5 tháng 7 năm 1895, đã từ trần ngày 8 tháng 7 năm 1941 tại Rethel.
Thông thạo nhiều ngôn ngữ, nhà khảo cứu không mệt mỏi trong thế giới thần linh và linh hồn, tiểu thuyết gia, sử gia, ký giả, giáo sư,  Gabriel Gobron là người hiếu kỳ và mãi mãi là người hiếu kỳ. Cao thượng, lòng quảng đại tràn ngập tinh thần, Gabriel Gobron là nhà bút chiến hăng hái.
Chắc chắn là người hiếu kỳ, nhưng không phải xu hướng tài tử, khi ông nghĩ rằng mình đã phát hiện một cái đẹp tinh thần, một chơn lý triết học hay tôn giáo, ông muốn phổ biến cho mọi người biết ngay và chia sớt với họ. Ông không ngần ngại đả kích luôn luôn hăng hái những ai mà dưới mắt ông muốn che đậy sự thật. Chính vì thế, ông đã khám phá ra Đạo Cao Đài và chính vì thế ông đã đấu tranh đến hơi thở cuối cùng, cầunguyện cho tôn giáo ấy phát triển. G. Gobron là người đại trí, nhứt là một người cao thượng.
Sau giai đoạn sưu tầm, nghiên cứu và khám phá từ năm 1930, G. Gobron là nhà truyền giáo xác tín, một người thọ giáo sáng suốt và chẳng bao lâu sau ông chính thức được Đạo Cao Đài tín nhiệm ở phương Tây và đặc biệt ở Pháp.
Những buổi thuyết giảng, những bài báo, những công trình nghiên cứu tiếp nối nhau với những bài chưa in, đã tạo thành một tập ký lục dày mà quyển sách nầy, xuất bản sau khi G. Gobron mất, là một trong những phần chánh.
Vì vậy, tác phẩm nầy tạo thành một thông điệp chính xác của thế giới vô hình. Đối với chúng tôi, đây là một tác phẩm rất an ủi, khi hoàn thành bài nầy, than ôi ! rút lại chỉ còn có 200 trang.
Thông điệp của thế giới vô hình, tác phẩm nầy xuất bản sau khi Gabriel Gobron mất, chúng tôi hy vọng, sẽ được đón nhận một cách đặc biệt bởi đông đảo bạn bè thần linh học của tác giả, người đã đóng góp rất nhiều bằng ngòi bút, lời nói và sự thực nghiệm cho Thần linh học.
Có thể nói, Thần hinh học đã đưa Gabriel Gobron đến với Đạo Cao Đài, bởi vì như thế chúng ta sẽ thấy, tôn giáo nầy chính thật là Phật giáo canh tân, đã có nơi nguồn gốc và bảo tồn đến nay những sợi dây liên lạc chắc chắn với Thần linh học. Do đó nơi tác phẩm nầy, Gabriel Gobron có ghi tiểu đề thứ nhì là : Thần linh học Việt Nam.  
Bởi tôn trọng để kỷ niệm tác giả, cũng như để chính xác trong sự trình bày, chúng tôi giữ nguyên hai tiểu đề xem như hoàn hảo :
Đạo Cao Đài,
Phật giáo canh tân, và
Thần linh học Việt Nam.
Để cho đầy đủ, chúng tôi có thể nói thêm : Sự tổng hợp các tôn giáo. Làm như thế là lấn sang một tác phẩm khác mà chúng tôi hy vọng sau nầy sẽ công bố nếu như chúng tôi được sự khích lệ cần thiết. Những sự khích lệ ấy là một việc thuần túy tinh thần.
Vì Đạo Cao Đài xuất phát từ  Thần linh học để canh tân Phật giáo và sau đó sẽ phát triển trong sự tổng hợp hài hòa các tôn giáo. Như thế, đạo chẳng mất đi những ưu điểm trong nguồn gốc Thần linh học, cũng không trong nguồn gốc tạo thành của Phật giáo.
Là khoa Thông Thiên học thực sự, giáo lý Đạo Cao Đài, với sự chọn lọc hoàn hảo, thu hút tất cả cái Thiện cái Mỹ của các tôn giáo khác, nhứt là những tinh hoa trong luân lý thực hành, hoặc trong lễ nghi, hoặc trong triết lý.
Tánh khiêm cung của “Anh Gago” (đó là tiếng mà các tín đồ Cao Đài ở Đông Dương gọi Gabriel Gobron) khiến ông vui lòng giới hạn vai trò mình là người tranh luận bênh vực và truyền bá nền Tân tôn giáo. Những nghiên cứu, sự thiền định, sự thần bí của Gago làm cho ông xứng đáng hơn nữa. Ta có thể nói rằng, ngày hôm nay, Gago là một triết gia đầu tiên và một sử gia đầu tiên của Đạo Cao Đài.
Công trình của ông dường như chưa hoàn thành khi ông từ bỏ đời sống hằng ngày để đi vào cõi Đông phương vĩnh cửu; với sự phát hành sách nầy, giá trị sử gia của Đạo Cao Đài được xác nhận.
Từ thế giới vô hình, Anh Gago sẽ soi sáng và che chở chúng ta vì đó là ý muốn sâu thẳm trong đức tin của ông.
Một cách thành kính, chúng ta hãy nghe ông nhận lãnh sứ mạng với sự khiêm tốn hoàn toàn tính cách Cao Đài :
“ Nếu tôi nhận lãnh vai trò khô khan của một sử gia đầu tiên của Đạo Cao Đài, chính là vì những huynh đệ và thân hữu Việt Nam của tôi đã phán đoán trong sự khoan dung thái quá của họ rằng tôi là một trong những người phương Tây có nhiều tài liệu nhứt về sự tiến triển và những khổ não của Đạo Cao Đài.
“ Một sức khỏe mong manh khó giúp tôi hoàn thành bổn phận nặng nề của một nhiệm vụ như thế. Tôi xin lỗi quí độc giả chú ý, kế bên tất cả khiếm khuyết trong công việc của tôi, tôi chỉ cầu xin quí vị nhất là tha lỗi cho tôi, khi nó đưa tôi đến chỗ quá đáng, nghĩa là của tình huynh đệ, cả với các vị đối nghịch và kẻ thù rằng : Đây là một tín đồ Cao Đài không xứng đáng, nó cũng không đi đến quyền lực của lãnh chúa, người bịnh sẽ vứt bỏ cái mũ của nó trong sự tức giận và chà đạp lên những văn phẩm thần thánh của Đấng Christ, của Đức Phật, Đức Khổng…”
Với sự sám hối, chúng tôi gởi đi thông điệp nầy, cuối cùng, chúng tôi im lặng để độc giả, thoát khỏi những lời phê bình của chúng tôi, đọc di cảo đầu tiên nầy của Gago.
NGUỒN GỐC
THẦN LINH HỌC Việt Nam
Mục sư  Stainton Moses lui về ẩn dật tại núi Athos trong 6 tháng, trong khoảng thời gian nầy, ông nghiên cứu Thần học và đối chiếu các lý thuyết trái nghịch nhau.  Việc làm tuyệt vời nầy đem lại cho tâm trí ông, từ chỗ thiên về khuôn phép, giáo điều, không khoan dung, đến chỗ khiêm tốn hơn, minh triết và chơn thực. Sau đó, ông được bổ nhiệm đến ở trong một ngôi nhà nhỏ của Mục sư thuộc đảo Man. Nơi đây, các thú nhàn rỗi không thiếu : cảnh thiên nhiên, đọc sách, cầu nguyện, thiền định, trầm tư mặc tưởng về thần bí, làm cho ông thành một nhà giảng đạo rất thương tâm : Đấng Thượng Đế đã nắm chặt lấy ông và xem chừng như không buông thả ông, như xưa kia ma quỉ không buông thả Socrate. Thượng Đế dẫn Mục sư Stainton Moses đến trường đại học Oxford, biến ông thành một trong những công cụ quí báu nhứt của “Tân Thiên khải”, một trong những đồng tử  linh cảm nhất trong thế kỷ của chúng ta.
Chính cũng trong  cảnh cô tịch, yên tĩnh,  ẩn dật mặc tưởng mà Đấng Cao Đài tìm thấy người tín đồ đầu tiên của Ngài.  Chẳng  có  đền thờ nào đẹp hơn thiên nhiên, chẳng cóquyển sách nào thiêng liêng hơn quyển sách đời : Đức Jésus lui về vườn Gethsémani cũng tại sa mạc; Thánh François d’Assise nói về Thần mưa, Thần gió, về những ngôi sao im lặng, về những con chim én lắm lời và sờ bàn tay lên mõm của con chó sói Gubbio rồi dắt nó về nơi Ngài như dắt một con chó hiền từ ngoan ngoãn. Nhà tự nhiên học Thụy điển  Bengt Berg có thể làm cho con Lahol, một con chim rất nhát ở miền Laponie, đẻ trứng và ở trong lòng bàn tay của ông. (Mon ami le pluvier, Stock). Nơi nào Thánh nhân cư ngụ, đất chỗ đó là Thánh địa và thiên nhiên là huyền bí.
Người tín đồ Cao Đài đầu tiên
Đạo Cao Đài được thành lập chánh thức từ năm Bính Dần (1926), nhưng từ 6 năm trước đã có một người thờ phụng Đấng Cao Đài : đó là ông Đốc Phủ Ngô Văn Chiêu, sau đó ông tòng sự tại Phòng nhì của Phủ Thống đốc Nam Kỳ.
Là Quận Trưởng hành chánh vào năm 1919 tại Phú Quốc (một hòn đảo trong vịnh Thái Lan), Ngài Ngô Văn Chiêu  sống cuộc đời hiền đức theo đúng điều luật chặt chẽ của Lão giáo. Trong địa phương hẻo lánh ấy lại thích hợp với đời sống tu hành, thỉnh thoảng nhờ những đồng tử nhỏ tuổi, từ 12 đến 15 tuổi, ông Phủ Chiêu tổ chức các đàn cơ Cầu Tiên, nhận được những lời giáo huấn cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh. Trong số những Đấng tiếp xúc được, có một Đấng tự xưng là “Cao Đài”, quan tâm đặc biệt đến ông Phủ Chiêu.
Lúc đầu, cái tên ấy làm kinh ngạc những người hiện diện, bởi vì không có một quyển sách tôn giáo nào ghi chép việc nầy. Tuy nhiên, ông Phủ Chiêu mà sự mẫn tiệp của ông làm cho bạn bè ngưỡng mộ, nhận ra rằng đó là biệt danh của Thượng Đế, vì bởi những khải thị và những giáo huấn triết lý
ở trình độ cao mà ông đã lãnh hội được nhiều lần.
Ông Phủ Chiêu xin phép Đấng Cao Đài cho ông được phụng thờ Ngài dưới một hình thức xác thực và ông được lịnh tượng trưng Ngài bằng một con Mắt làm biểu hiệu.
Đó chính là sự nhập môn của người tín đồ Cao Đài đầu tiên vào tôn giáo mới và tôn giáo nầy 6 năm sau được lập nên ở  Sài Gòn.
Chẳng bao lâu sau, ông Phủ Chiêu được đổi về thủ đô Sài Gòn, nơi đây, ông thuyết phục được vài người tin theo đạo mới và gia nhập đạo.
Nhưng, chúng ta hãy tạm rời những người nhập đạo mới đầu tiên  ấy trong giây lát để chỉ cho độc giả biết cách thức mà Đấng Cao Đài tuyển mộ các đồng tử.
Vào giữa năm Ất Sửu (1925), một nhóm nhỏ các thơ ký người Việt Nam thuộc nhiều nghiệp vụ hành chánh khác nhau tại Sài Gòn, tiêu khiển vào mỗi buổi tối bằng việc thông công với người vô hình theo lối Thần linh học. Họ dùng cái “bàn gõ” (table frappante). Những thử nghiệm đầu tiên không kết quả. Nhưng với sức nhẫn nại và kiên trì, họ đạt được những kết quả tích cực.
Với những câu hỏi đặt ra cho các Đấng chơn linh, hoặc bằng thơ, hoặc bằng văn xuôi, họ nhận được những câu trả lời đáng kinh ngạc. Cha mẹ hay bạn bè quá cố của họ hiển linh để nói với họ những việc gia đình và đồng thời khuyên họ hy sinh quên mình. Những phát hiện xúc động ấy giúp họ nhận biết sự hiện hữu của thế giới huyền bí.
Tuy vậy, có một Đấng thiêng liêng thông công được rất đáng chú ý vì sự ân cần của Ngài và những điều giáo hóa của Ngài về đạo đức và triết lý ở một mức độ rất cao. Đấng ấy ký dưới tên giả là “A à ”, không muốn cho biết về Ngài, mặc dầu có những lời cầu nguyện của những người tham dự.
Sau đó, những ông thơ ký Việt Nam khác đến tham gia làm đông đảo thêm nhóm xây bàn tài tử. Những đàn Cầu Tiên được tổ chức nghiêm túc hơn và đều đặn hơn.
Vì việc dùng cái “bàn gõ” không tiện lợi, nên một Đấng thiêng liêng bảo phải thay thế bằng “Ngọc cơ”. Với Ngọc cơ, các Đấng có thể viết chữ trực tiếp, việc thông công tự nhiên được nhanh hơn và các đồng tử phò cơ đỡ mệt hơn.
Ngày 24-12-1925, nhân dịp Lễ Noel, Đấng thiêng liêng dẫn dắt bấy lâu nay, vẫn khăng khăng giữ nặc danh, nay tiết lộ với các vị phò cơ, Ngài là Đấng Thượng Đế đến dưới tên gọi là Cao Đài để truyền dạy chơn lý tại nước Việt Nam.
Diễn tả bằng tiếng Việt Nam, Ngài nói đại ý như sau :
“ Hãy vui hưởng ngày lễ nầy. Đây là lễ kỷ niệm ngày Ta đến Âu châu để dạy đạo. Ta rất vui lòng gặp các con, những tín đồ đầy lòng kính trọng và yêu mến Ta. Ngôi nhà nầy của một trong các vị phò cơ sẽ có tất cả ơn phước của Ta. Những biểu hiện Toàn Năng của Ta sẽ khiến các con còn kính mến Ta hơn nữa.”
Từ đó, Đấng Cao Đài truyền thụ nền Tân giáo lý cho các tín đồ.
Đây chính là sự tuyển chọn các đồng từ đầu tiên có phận sự tiếp nhận các Thánh Ngôn (thông điệp thiêng liêng).
Về ông Phủ Chiêu, người tín đồ Cao Đài đầu tiên, tạp chí La Revue Caodaiste (số 22 tháng 3 năm 1933), nhân dịp ông từ trần, cho chúng ta biết vài chi tiết.
I. Thời thơ ấu : Ông Phủ Ngô Văn Chiêu chào đời ngày 28-2-1878 tại Bình Tây (Chợ Lớn) trong một ngôi nhà nhỏ ở phía sau chùa Quan Đế. Ngay khi sanh ra, cậu bé từ chối bú sữa mẹ, nên phải thay sữa mẹ bằng nước cháo.
Cha mẹ của cậu rất nghèo, sau đó dọn nhà về Mỹ Tho và giao cậu cho người cô để được cô gởi cậu đi học.
Vốn rất thông minh, ở tuổi 12, cậu đã dám đến gặp quan Chủ Tỉnh Mỹ Tho để xin học bổng và được chấp thuận. Cậu được nhận vào học sinh nội trú có học bổng bậc tiểu học, rồi trung học tại Collège Mỹ Tho.  Cậu đã hăng hái làm việc và đã trúng tuyển kỳ thi tuyển Thư ký Hành chánh. Thời bấy giờ, việc làm nầy là điều mơ ước của những học sinh có bằng cấp Thành Chung. Ở tuổi 21, người thanh niên ấy vì không có điều kiện  học xa hơn nữa, nên bằng lòng bước vào cuộc đời công chức để giúp đỡ cha mẹ.
II. Cuộc sống  công chức và Thiên chức tôn giáo :
Người công chức ấy (ông Chiêu) khởi đầu được bổ dụng vào Sở Di Trú tại Sài Gòn, làm việc trải qua 3 năm từ  1899 đến 1902. Vốn là người có khuynh hướng tôn giáo, ông thích kể chuyện các vị Thánh và những chuyện mạo hiểm của các vị Tiên ở nước Trung hoa thời cổ, mà ông được bè bạn người Tàu kể cho nghe trong thời gian ở nhà người cô, có chồng là người Tàu. Một hôm, một người bạn gặp ông đang kể chuyện các vị Thánh cho các học trò Tàu ở Chợ Lớn mà ông thường đến dạy kèm vào buổi tối.
Ông rất tôn kính các bậc Thần Thánh. Tại nhà của ông, ông lập bàn thờ Đức Quan Thánh Đế Quân và thường tụng kinh Minh Thánh, quyển kinh mà chơn linh Quan Thánh nhập vào một người có đạo đức cao viết nên và ông đã ăn chay 2 ngày mỗi tháng.
Vào năm 1902, nơi đàn cầu cơ lập ra ở Thủ Dầu Một, ông đến hầu đàn, một vị Đại Tiên giáng đàn tiết lộ cho ông biết sứ mệnh tôn giáo và khuyến khích ông sớm theo Đạo.
Nếu chúng ta tham khảo tạp chí “Ấn Độ tranh ảnh” có loạt bài đề cập tới những biểu hiện khác nhau về tôn giáo tại Ấn Độ thuộc Anh, tại Thái Lan, Trung hoa, Nhựt bổn và Phi Luật Tân, vv . . . , chúng ta thấy trong tạp chí số 2 tháng 3 năm 1933, một khảo cứu về Đạo Cao Đài ở Nam Kỳ. Chúng ta đọc qua đề tài về nguồn gốc của tôn giáo ấy :
“ Mới đây (1929), Đạo Cao Đài đã phổ biến nhanh chóng và lan rộng khắp Nam Kỳ
Nguồn gốc : Đầu năm 1926, một vài trí thức trẻ người Việt Nam, tất cả đều là tín đồ Phật giáo, tụ họp trong một căn nhà nhỏ tại trung tâm Sài Gòn. Họ thường xây bàn để thí nghiệm về Thần linh học.
Sau giai đoạn dò dẫm, họ hoàn thành và nói rằng họ đạt được những kết quả đáng kinh ngạc khi dùng những người bạn có khả năng tiếp điển mạnh mẽ.
Khởi đầu trong việc giao tiếp thiêng liêng, một trong những vị Tiên của Trung hoa cổ là Lý Thái Bạch, Homère của Trung hoa, người đã canh tân văn học Trung quốc vào triều đại thứ 13 nhà Đường (713 - 742) và là một tín đồ Lão giáo nhiệt thành.
Như thế, một lần nữa, chúng tôi đã chứng minh được tiểu đề : Đạo Cao Đài hay Thần linh học Việt Nam.
Nhân chứng người Pháp
Đó là ông Jean Ross, cộng tác viên của báo “Le colon français” ở Hải Phòng, viết về nguồn gốc của Đạo Cao Đài :
“ Năm 1926 !  Chúng tôi đang ở vào đầu năm.
Trong vài ngày nữa là đến Tết Việt Nam. Cách chợ trung tâm không xa, trên con đường thẳng góc với đại lộ nối liền Sài Gòn - Chợ Lớn, một dãy phố có vẻ đơn sơ là nơi ở của phần đông các công chức thuộc cơ quan hành chánh lớn và các công ty. Tại một trong những căn phố đó, từ nhiều tháng nay, những thơ ký trẻ của sở thuế, sở công chánh, sở hỏa xa, của công ty, . . . (ở xa nên không ghi rõ), tụ họp nhau vào buổi tối sau giờ làm việc ở sở, giải trí với nhau bằng cách Xây bàn, làm cho cái bàn  nói được.
Họ là những tín đồ Phật giáo tất cả (1). Họ bắt đầu như thế nào ?  Một trong những người ấy đã nghe nói về Thần linh học, về Xây bàn  trong sở làm việc,  nơi mà một trong những ông sếp của ông ta, gốc Nam Kỳ, là một  tín đồ Thần linh học xác tín, đại diện của Hội Thần linh học quan trọng nhứt của nước Pháp. Ông ta nói lại cho nhiều bạn nghe và một ngày đẹp trời, bốn người bạn ấy ngồi vây quanh một cái bàn. 
“ Cứ thử xem có được không ? Có thật không ? Họ đã bảo nhau như thế. Những kết quả buổi đầu luôn luôn không sáng sủa, nhưng dần dần họ loại bỏ những người không có khả năng tiếp điển thiêng liêng và thay vào đó là những bạn có thiên tư  hơn, họ ghi nhận được những kết quả kỳ diệu.
Họ đặt những câu hỏi cho cái bàn và họ đều nhận được câu trả lời. Họ hỏi rằng có phải họ giao tiếp được với Thần linh ?  Câu trả lời khẳng định là : đúng.
Chuyện trở nên nghiêm túc. Mỗi lần thí nghiệm, họ hỏi danh hiệu của vị Thần linh giáng bàn nói chuyện với họ. thường là những vị Thánh hiền thời cổ Trung hoa như Lý Thái Bạch hay Quan Thánh Đế Quân, đôi khi là một Đấng vô danh. Việc làm lúc đầu chỉ là một trò giải trí với chủ nghĩa thần bí vốn rất quen thuộc với tâm hồn người Việt Nam, về sau trở thành cuộc nói chuyện có tính đặc ân với các Đấng Thần linh thượng đẳng của thế giới huyền bí mà họ cầu xin những lời khuyên bảo.
Không hề có một nghi ngờ nào về tính cách chơn thật của các cuộc nói chuyện đó, trước hết vì tất cả những người
Chú thích của dịch giả :  (1) Đính chánh :  Nhóm xây bàn  đó có 4 ông :  Phạm Công Tắc theo Công giáo, 3 ông : Cao Quỳnh Cư, Cao Quỳnh Diêu và Cao Hoài Sang thì chưa có tín ngưỡng tôn giáo tham dự đều cùng xuất phát từ một điểm khởi hành, họ không thể nghi ngờ trò lừa bịp của một ai trong bọn họ, kế đó, vì sự thông linh với thế giới huyền bí làm họ phát hiện được những sự nâng cao tình cảm, những kiến thức khoa học và triết học sâu sắc mà không một ai trong bọn họ có thể là tác giả.
Nhưng việc sử dụng cái bàn xây để trao đổi với thế giới vô hình, thật sự không được tiện lợi !  Phải mất nhiều thời gian mới nhận được một câu trả lời.
Chính vào thời kỳ mà tôi nói (tác giả G. Gobron), nghĩa là trước Tết Bính Dần (1926), họ thố lộ tâm tình với Thần linh mà họ tiếp xúc. Vị ấy trả lời là nên dùng Ngọc cơ.
Họ thỉnh cầu chỉ dẫn Ngọc cơ gồm có những gì ? (Những người nầy ước chừng không thông thạo Thần linh học hay chỉ tham dự một đàn Cầu Tiên duy nhứt nên họ chỉ mới tập sự). Đấng Thần linh khuyên họ nên đến hỏi một người đồng bào của họ là ông Phủ Chiêu, rất thông thạo về cách cầu cơ trong Thần linh học (2), bởi vì rất khó mà làm cho hiểu được với phương tiện là một cái bàn cử động.
Lúc đó, Đạo Cao Đài sắp được sáng lập hay nói đúng hơn là sắp bước vào giai đoạn được quần chúng  biết đến, bởi từ nhiều năm nay, như chúng ta đã thấy, có một người thờ phụng Đấng Cao Đài. Người nầy theo giáo lý của Đức Phật Thích Ca, không ai khác hơn là ông Phủ Chiêu.
Chú thích của dịch giả :  (2) Đính chánh : Lúc bấy giờ nhóm 4 vị xây bàn chưa liên lạc với ông Phủ Chiêu. Việc cầu cơ là do Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi ông phán Phan Văn Tý thuộc Chi Minh Thiện. Ông Tý cho mượn một cây Ngọc cơ và hướng dẫn quí ông cầu cơ. (Xem Đại Đạo Truy Nguyên của Huệ Chương). Việc Xây bàn là theo Thần linh học phương Tây, nhưng việc Cầu cơ thỉnh Tiên là theo Lão giáo, từ đạo Minh Sư bên Trung hoa truyền qua VN.
Ngoài luân lý đạo đức của Đức Phật và Đức Khổng Tử mà ông Phủ Chiêu sùng kính như những biểu hiện thiêng liêng, ông còn tin tưởng sự hiện hữu của Thượng Đế Toàn năng, là Chúa tể càn khôn vũ trụ mà ông gọi là Đấng Cao Đài. Ông cũng tin tưởng các Đấng thiêng liêng mà ông đã liên lạc được trong nhiều năm.
Phẩm hạnh của vị tín đồ Cao Đài đầu tiên ấy rất gương mẫu, người mà các thanh niên được gởi tới để học hỏi.
Đồng bào của ông Phủ Chiêu, toàn thể đều xem ông như một vị Thánh sống.  Ông chỉ bảo các vị thơ ký cách dùng Ngọc cơ (mà sau nầy tôi sẽ có dịp quay trở lại) giúp cho những buổi cầu cơ được dễ dàng rất nhiều. Chính ông cũng trực tiếp tham dự, hân hoan sử dụng các đồng tử có đặc khiếu, thành thạo, có khả năng tiếp điển mạnh mẽ lạ thường.
Sau khi đến liên lạc với ông Phủ Chiêu, cũng trong hoàn cảnh tương tự và theo sự chỉ bảo của Đấng thiêng liêng nói trên, các vị thơ ký ấy đến tìm nhà của một người đồng bào  khác, là cựu quan chức Nam kỳ, cựu Nghị viên Thượng Nghị viện Đông Dương, Lê Văn Trung (3), người cũng tự mình thỉnh thoảng tham dự  các đàn cầu cơ. Những người thơ ký trẻ tuổi chưa hề biết tên Lê Văn Trung trước khi Đấng thiêng liêng chỉ dẫn. Ông Trung trước kia không sống đời đạo đức
Chú thích của dịch giả : (3)  Đính chánh : Nhóm thơ ký trẻ gồm các vị : Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, theo lịnh của Đức Chí Tôn đến gặp Ngài Lê Văn Trung trước khi đến với ông Phủ Chiêu. Trước khi nhóm thơ ký trẻ đến tìm ông Trung thì ông Trung đã đến hầu đàn ở Chợ Gạo Phú Lâm, được Đức Lý Thái Bạch độ ông bằng cách dùng huyền diệu làm cho đôi mắt của ông sáng lại (vì trước đây  ông bị bịnh quáng mắt). Sau khi Ngài Trung gia nhập nhóm, Đức Chí Tôn ra lịnh quí ông đến gặp ông Phủ Chiêu để hỏi về cách thờ phượng Đức Chí Tôn.
gương mẫu, mà lại thích hưởng thụ những gì có thể được. Vào thời điểm trước khi  những thơ ký trẻ tuổi tìm đến ông để xin lời chỉ bảo, thì ông Trung đã tiêu phá gần hết gia tài của ông.
Trước 50 tuổi, ông Lê Văn Trung, dưới con mắt của mọi người, là một người đam mê vật chất, tham dự cầu cơ một cách tài tử, xem như là lời dặn trước của Đấng Thượng Đế, chỉ định ông hiệp với ông phủ Chiêu mà ông Trung đã quen biết từ lâu, để chỉ đường mở lối cho các vị trẻ tuổi đã theo Thần linh học. Kể từ ngày ấy, ông Trung quyết định sống cuộc đời gương mẫu và tỏ ra xứng đáng với sứ mạng mà Đấng Cao Đài giao phó. Vì thế, ông ngưng hút thuốc phiện một cách đột ngột mà không thấy khó chịu. (Những tín đồ Cao Đài nói rằng, điều đó chứng tỏ ông Trung được Đức Chí Tôn phù hộ, vì một người khác không thể cai thuốc dễ dàng như thế). Ông cử uống rượu, cử ăn thịt cá, trở nên ăn chay thật sự và sống khổ hạnh như những vị hòa thượng khắc khổ nhất.
Sự nhập đạo nhiệm mầu nầy lôi cuốn một số đông môn đệ đầu tiên thường thuộc những gia đình khá giả hay đang nắm chức vụ cai trị khá cao, nhứt là ông Phủ Tương đang làm việc trong tỉnh Chợ Lớn, như là bạn đồng liêu của ông Phủ Chiêu, là một người có đạo đức cao, luôn luôn thực hành nhơn đạo của Đức Khổng Tử, ông Đốc phủ Lê Bá Trang, ông Huyện hàm Nguyễn Ngọc Thơ và bạn đời của ông là bà góa phụ Monnier, người Nam Kỳ, rất giàu, từ nhiều năm đã dùng một phần tiền thu nhập vào các công việc từ thiện.
            Ông Phủ Chiêu là người được chỉ định trước tiên vào chức vụ chỉ huy tối cao của nền Tân tôn giáo, Giáo Tông của Đạo Cao Đài, nhưng ông Phủ Chiêu né tránh nên Ngài Lê Văn Trung được chỉ định thay thế.
Tôi (tác giả G. Gobron) có hỏi một trong những Chức sắc cao cấp, những lý do vì sao ông Phủ Chiêu có thái độ như vậy ?  Vị ấy trả lời cho tôi biết rằng ông Phủ Chiêu chính là tín đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài ở Nam Kỳ, đã làm tròn phận sự lãnh đạo tối cao của nền tôn giáo, nhưng ông tỏ ra không đủ khả năng vượt qua các thử thách mà Thượng Đế đã định cho ông, cũng như đã đặt ra cho tất cả vị lãnh đạo cao cấp khác, trước khi nâng phẩm vị họ lên  một bậc trên nấc thang mà tột đỉnh là sự hoàn thiện. Do đó, ông phải chuộc lại sự yếu đuối mà ông đã từng chứng tỏ, trước khi lấy lại địa vị mà ở quá khứ  dành quyền cho ông.
Giáo Tông của Đạo Cao Đài
Sự nhập đạo của Ngài Lê Văn Trung, người trở thành Giáo Tông của Đạo Cao Đài, là một trong những biến cố lớn ở Đông Dương.
Đó là vào năm 1925, ông Trung ở Chợ Lớn, say mê vào công cuộc kinh doanh, trong cảnh huyên náo của một thành phố vốn tôn thờ tiền bạc, ông hoàn toàn xa lánh tôn giáo. Một buổi chiều, theo lời mời của một người bà con, vốn là một tín đồ xác tín Thần linh học thuộc Chi  Minh Lý ở Sài Gòn (Chi nầy giống như  Minh Tân, Minh Thiện, phát sinh từ Thần linh học trong những năm trước 1925 - Lời chú thích của tác giả), ông đến dự một đàn cầu cơ tại Chợ Gạo trong vùng ngoại ô.
Tại buổi hội nhóm nầy, Đức Lý Thái Bạch  giáng đàn, nói riêng với ông Trung, tiết lộ nguyên căn thiêng liêng của ông, đồng thời báo cho ông biết sứ mạng tôn giáo sau nầy của ông. Đức Lý khuyến khích ông Trung sớm đặt mình vào nền tôn giáo mới. Xúc động vì ân sủng, ông Trung không ngần ngại thay đổi cách sống. Được sự nâng đỡ của đức tin, ông Trung can đảm bỏ hút thuốc phiện  ngay và bắt đầu ăn chay; ông cũng từ bỏ công việc kinh doanh để có thể hiến dâng hoàn toàn cho tôn giáo.
Sự nhập đạo của vị nầy, mới hôm qua còn tha thiết của cải và sự hưởng thụ cuộc đời, thật quá rõ ràng để người ta tự hỏi, phải chăng cho đến hôm đó, những đàn cầu cơ tổ chức tại Chợ Gạo, đã được thúc giục lập ra bởi các Đấng với sứ mạng truyền  giáo, trong mục đích duy nhứt là dìu dắt ông Lê Văn Trung trở lại con đường Đạo Pháp. 
Cho nên, khi ông Trung quyết định sống theo Đức tin mới mà ông vừa tiếp thu được, các Đấng thiêng liêng liền ra lịnh giải tán nhóm đồng tử Thần linh học (nơi đàn Chợ Gạo)  trong sự  kinh ngạc và đau buồn sâu đậm của những người trong nhóm.
Tại Sài Gòn, Đấng Cao Đài nhận thấy đã đến lúc đem những đồng tử xây bàn của Ngài tiếp cận với ông Lê Văn Trung. Ngài gởi hai trong số những đồng tử nầy (ông Cư và Tắc)  đến nhà ông Trung với lịnh truyền là tổ chức tại đó một đàn cầu cơ để Ngài ban cho những lời giáo huấn.
Ông Trung, không quen biết những đồng tử nầy, nhưng vẫn chấp nhận lời đề nghị của họ khi đã biết lý do mà họ tìm đến ông. Một đàn cầu cơ được thiết lập. Đấng Cao Đài, giữa những lời giáo huấn, báo cho ông Trung biết sứ mạng trọng đại sắp tới của ông trong nền Tân tôn giáo mà Ngài sắp lập ra để cứu độ nhơn loại.
Sự tiết lộ nầy xác nhận những lời bóng gió trong  những Thánh giáo khác nhau mà ông Trung đã nhận được từ đàn Chợ Gạo với những đồng tử khác. Sự kiện đó củng cố thêm lòng tín ngưỡng của ông và khuyến khích ông hiến dâng trọn vẹn cho công cuộc hành đạo.
Sau đó ít lâu, Đấng Cao Đài gởi quí ông Trung, Cư, Tắc đến gặp ông Phủ Chiêu, người sẽ hướng dẫn họ trong con đường đạo với tính cách là một người Anh Cả. Về phía ông Phủ Chiêu, ông đã được Đấng Cao Đài cho biết trước, nên tiếp đón ba vị khách trên một cách thân ái. Ông liền  đưa ba vị khách đến tiếp xúc những đồng đạo đầu tiên của ông.
Cái hạt nhân của Đạo Cao Đài được hình thành gồm 12 người, tất cả đều học thức trong văn hóa Pháp, đều là công chức mà phần lớn trong các cơ quan hành chánh tại Sài Gòn.
Lòng nhiệt thành và tinh thần bất vụ lợi của các vị tiên phong, trong những ngày giờ đầu tiên, thu hút một số đông tín đồ mỗi ngày mỗi nhiều. Đạo Cao Đài thoát khỏi phạm vi giới hạn nhỏ hẹp, truyền bá khắp trong dân chúng vào đầu năm Bính Dần (1926).
Ông Phủ Chiêu, quen với cảnh sống cô tịch, cảm thấy trái ý bởi sự qui tụ đông đảo tín đồ, làm cho ông lo lắng. Là một công chức có ý thức trong các nhiệm vụ, ông quyết định từ đây lánh xa phong trào tôn giáo lớn mạnh nầy.   
Ngài Lê Văn Trung được Đấng Cao Đài chỉ định thay ông Phủ Chiêu vào cuối tháng tư  năm ấy.
Những Thánh Thất đầu tiên
Những đàn cầu cơ tiếp tục được tổ chức ngày càng nhiều tại các tư gia và phần lớn là tại các Thánh Thất, trong đó có các trung tâm sau đây : Chợ Lớn, Cần Giuộc, Lộc Giang, Tân Định, Thủ Đức và Cầu Kho.
Hai đồng tử được bổ nhiệm đến mỗi Thánh Thất để tiếp nhận các Thánh giáo của Đấng Cao Đài. Sự thu nhận các tân tín đồ cũng được quyết định tại nơi đó. Các tín đồ đến gia nhập hằng loạt, làm tăng thêm đến hằng trăm người đăng ký nhập môn trong mỗi kỳ đàn.
Tuyên ngôn chánh thức của Đạo Cao Đài
Tôn giáo mới phát triển rất nhanh vì được dân chúng tiếp nhận nồng nhiệt. Lo lắng cho hoạt động giữa thanh thiên bạch nhựt và giữ trong giới hạn của phạm vi pháp luật nghiêm nhặt, các nhà lãnh đạo đưa ra một Tuyên ngôn chánh thức có 28 người ký tên, được gởi đi ngày 7-10-1926 đến ông Thống Đốc Nam Kỳ. Đính kèm theo Tuyên ngôn nầy là danh sách các tín đồ ký tên gồm 247 người hiện diện trong buổi lễ công nhận sự hiện hữu chánh thức của Đạo Cao Đài.
Việc truyền đạo
Sau khi bản Tuyên ngôn được chánh quyền địa phương lịch sự tiếp nhận, các nhà lãnh đạo của nền Đại Đạo tổ chức các đoàn truyền giáo trong quốc nội.
Có tất cả ba đoàn truyền giáo : một cho các tỉnh miền Đông, một cho các tỉnh ở Trung ương và một cho miền Tây.
Chưa đầy hai tháng, hơn 20 ngàn người cải giáo nhập môn vào Đạo Cao Đài, trong đó có nhiều nhân sĩ bản xứ. Chính nhờ các đàn cầu cơ và nhất là nhờ lòng nhân đức vô hạn của của Đấng Thượng Đế luôn luôn thể hiện trong mỗi lần cầu nguyện. Những Thánh giáo có một ảnh hưởng quyết định trên những người hầu đàn, nên Đạo Cao Đài đã tiếp nhận sự nhập môn vào đạo hằng loạt.
Thành quả lớn lao ấy là do những nghi thức thờ cúng mới của Đạo Cao Đài không có gì trái với những gì mà các tôn giáo chánh đã thực hành trong nước.
LỄ KHAI ĐẠO
Từ ngày mùng 10 tháng 10 âm lịch (dl 14-11-1926), những cuộc đi truyền đạo được đình chỉ. Tất cả những nổ lực của các vị lãnh đạo đều tập trung vào Lễ Khai Đạo, diễn ra trong ba ngày : 14, 15 và 16 tháng 10 âm lịch của năm Bính Dần (dl 18, 19, 20-11-1926) tại chùa Từ Lâm Tự ở Gò Kén (Tây Ninh). Toàn Quyền Đông Dương, cũng như Thống Đốc Nam Kỳ và các viên chức cao cấp của Pháp và Việt đều được mời dự lễ.
Đại lễ cử hành rất long trọng, qui tụ đáng kể nhiều tín đồ đến từ khắp các tỉnh Nam Kỳ. Cuộc lễ cũng thu hút hằng ngàn người ngoại đạo đến  xem vì hiếu kỳ hay đến quan sát.
Sự hiện diện của Đại Úy Monet, một đại tín đồ Thần linh học Pháp, được đặc biệt chú ý.
Trong cuộc lễ nầy, Hội Thánh Cao Đài được xây dựng và Tân Luật được thiết lập và ban hành.
Thủ phủ chính thức của Đạo Cao Đài
Từ Lâm Tự là một ngôi chùa Phật vừa mới được xây cất bởi Hòa Thượng Giác Hải ở Chợ Gạo (Chợ Lớn). Vị Hòa Thượng nầy đã cải giáo để nhập vào đạo mới là Đạo Cao Đài. Nhưng sau đại lễ Khai Đạo, những tín đồ Phật giáo đã cung cấp tiền bạc cho Hòa Thượng xây chùa Từ Lâm, không được Hòa Thượng tham khảo ý kiến về sự hiến chùa cho Đạo Cao Đài, nên đòi hỏi giao hoàn chùa lại cho cố chủ.
Mặt khác, kinh nghiệm cho biết chùa quá nhỏ, khoảnh đất cất chùa quá chật hẹp, khó có thể xây dựng một cách thích đáng Tòa Thánh của một nền Tân tôn giáo đang phát triển với một tương lai vĩ đại.
Theo chỉ dẫn của Đấng Đại Tiên, khoảnh đất mà trên đó xây dựng Đền thờ tạm thời hiện nay đã được chọn và mua để xác định xây dựng Tòa Thánh Cao Đài, tọa lạc tại làng Long Thành, tỉnh Tây Ninh, khá rộng khoảng 100 mẫu, đủ đáp ứng nhu cầu hiện tại và tương lai.
Việc di chuyển Thánh Thất từ Gò Kén đến làng Long Thành thực hiện vào tháng 3 năm 1927. Số tín đồ tiếp tục tăng lên đáng kể. Những cuộc hành hương đến Thánh Thất mới đáng ghi chép : mỗi ngày tiếp đón cả ngàn người.
Cũng như tất cả tôn giáo khác vào buổi đầu, Đạo Cao Đài cũng có những kẻ chống đối mà những lời chỉ trích của họ thường rất kịch liệt, luôn luôn bị xúi giục bởi một đầu óc thiếu khách quan.
Trong lúc đó, những vị lãnh đạo Cao Đài, vâng theo lời giáo huấn của Đức Chí Tôn, cố gắng giữ mình và tự hoàn thiện trong nền Đại Đạo,  bằng cách chỉ quan tâm đến lợi ích về đạo đức và tinh thần của nhơn loại.
Đó là câu trả lời duy nhứt mà họ được phép dùng để đối phó với những kẻ công kích, vì tất cả tín đồ chân chính của Đạo Cao Đài phải giữ nghiêm khắc với chính mình.  
Rốt cuộc, sau 4 năm hiện hữu, Đạo Cao Đài đã có nửa triệu tín đồ. Mặc dầu có rất nhiều trở ngại gieo rắc trên đường đi, họ luôn luôn tiếp tục tiến bước và đắc thắng đến mục đích mà Đấng Thượng Đế đặt ra cho họ : Sự phục hưng nhơn loại trong nền hòa bình thế giới.
Nguồn gốc của giáo lý Đạo Cao Đài
Tạp chí “L’Inde illustrée” (Ấn độ hình ảnh) tóm tắt cho biết như sau đây :
“Cao Đài là danh xưng tượng trưng của Thượng Đế, được khải thị tại phương Đông lần thứ ba.
“Ý tưởng của các tín đồ về đức tin mới là Đấng Thượng Đế, theo lời giáo hóa về sự tiến bộ tinh thần của loài người, được tinh tế hơn xưa, Thượng Đế lần nầy thể hiện qua các đồng tử, không muốn ban cho một người nào nơi cõi trần cái đặc ân  sáng lập Đạo Cao Đài.
“ Cái hình thức biểu hiện mới của Đấng Thượng Đế chứng tỏ rằng tôn giáo đặt dưới quyền thống trị của vị sáng lập trần thế, không thích hợp tính cách đại đồng, vì các nhà tiên tri của họ nổi lên chống lại cái chân lý được đề xướng bởi các tôn giáo khác mà họ tỏ ra không có sự khoan dung.
“ Giáo lý Đạo Cao Đài là sự dung hợp giáo lý của các tôn giáo xưa ở phương Đông : Phật giáo, Lão giáo, Nho giáo.
“ Trong một Thánh giáo được chuyển đi vào ngày 13-2-1927, với sự hiện diện của vài người Pháp, Đức Lý Thái Bạch, một trong những khâm sứ của Thượng Đế, đã trình bày giáo lý ấy. Chúng tôi xin trích ra từ Thánh giáo ấy những dòng sau đây :
“ Những Thánh giáo của các tôn giáo không được thực hành đúng. Trật tự và hòa bình thời xưa bị xóa bỏ. Qui luật đạo đức của loài người bị xuyên tạc. Đối với những người thiếu suy nghĩ và hoài nghi, Thượng Đế chỉ tồn tại trên từ ngữ. Họ không biết rằng nơi chỗ tối cao đang ngự trị một Đấng Chúa tể của mọi sự biến đổi của vũ trụ và của tất cả số phận con người.
“ Thuở xưa, các dân tộc không hiểu biết nhau, thiếu các phương tiện vận chuyển, Ta (Đấng Thượng Đế) thiết lập trong các thời kỳ khác nhau năm nhánh của Đại Đạo (gọi là Ngũ Chi Đại Đạo) gồm :
1. Nhơn đạo : Khổng giáo.
2. Thần đạo : Khương Thái Công, thờ các vị Thần.
3. Thánh đạo : Thiên Chúa giáo.
4. Tiên đạo :  Lão giáo.
5. Phật đạo :  Phật giáo.
“ Mỗi Chi Đại Đạo dựa trên tập quán và phong tục của mỗi giống dân được đặc biệt kêu gọi để hành đạo.
“ Ngày nay, tất cả những phần đất của thế giới được khai phá : nhơn loại hiểu biết nhau hơn, khao khát một nền hòa bình thật sự. Nhưng vì có nhiều tôn giáo nên nhơn sanh luôn luôn không sống trong sự điều hòa người nầy với người khác. Cho nên, Ta quyết định qui hiệp tất cả tôn giáo thành một mối duy nhứt để đem trở về một khối thống nhứt nguyên thủy.
“ Hơn nữa, giáo lý của các tôn giáo, trải qua nhiều thế kỷ, đã bị biến thể bởi chính các vị lãnh nhiệm vụ truyền giáo, đến mức mà ngày nay, Ta nhứt định chính mình Ta đến với các con  để chỉ dạy con đường phải theo. . .
Cũng trong Thánh giáo ngày 13-1-1927, Đức Lý Thái Bạch còn nói thêm :
“ Các huynh đệ thân mến,  Chúa Jésus nhân từ đã đến với các bạn để vạch ra con đường Thánh thiện cho các bạn. Hãy cố gắng đi theo đường ấy để sau nầy có được sự bình an của tâm hồn, hãy bước tới mỗi ngày một bước mau lẹ trong tình thương yêu của Thượng Đế. Hãy đoàn kết, hãy thương yêu nhau người nầy người khác, hãy giúp đỡ lẫn nhau. Đó là Thiên điều.
“ Vào lúc nầy, nơi mà mỗi người bị bắt buộc chịu đựng nỗi khổ sở, nếu người nào chỉ nghĩ đến lợi lộc cá nhân, nếu người nào tìm cách gieo đau khổ và phiền não, người đó sẽ mạo hiểm bị lôi cuốn vào trong dòng thác địa ngục, nơi đây, cái hung dữ sẽ bẻ gãy cuộc sống và làm hoen ố tâm hồn.”
Sự thật, Đạo Cao Đài hay Đại Đạo là một tôn giáo giản dị nhứt hiện nay khi nói về việc hành đạo và sự thờ cúng. Tôn giáo mới nầy chỉ đòi hỏi các tín đồ mỗi ngày tụng kinh cầu nguyện Đấng Cao Đài, hoặc tại nhà của họ, hoặc trong Thánh Thất; không có phép sám hối xưng tội, không có phép thông công. (Việc cầu cơ là một việc làm tế nhị và nguy hiểm, chỉ dành riêng cho Hội Thánh.
Số lượng Giáo sĩ  giới hạn trong phạm vi cần thiết nhứt để truyền bá giáo lý, khuyến khích tín đồ thực hành Nhơn đạo, như  Đức Khổng Tử đã quan niệm. Chỉ có một Thượng Đế duy nhứt, là Đức Chí Tôn, Đạo Cao Đài khuyên bảo các tín đồ noi theo đạo đức thuần túy của Đức Chúa Jésus, đạo đức của Đức Khổng Tử, cả hai đều không có gì khác nhau.
Đạo Cao Đài cũng khuyên bảo sùng bái các Đấng chơn linh thượng đẳng, ân nhân của nhơn loại vào các thời kỳ khác nhau; Đức Chúa Jésus, cũng như Đức Phật Thích Ca, cũng như Đức Khổng Tử, cũng như các vị Thần thời cổ Trung hoa, không nên quên các Đấng ấy trong các lời cầu nguyện.
Trên nguyên tắc, các Chức sắc của Đạo Cao Đài bị cấm cầu các Đấng thiêng liêng trong khối đông đảo tín đồ, để tránh cho những đồng tử trở nên chuyên nghiệp và tránh lạm dụng tính dễ tin của quần chúng ưa chuyện thần bí.
Ngọc cơ được cất giữ trong Thánh Thất. Nhưng những đồng tử linh tính tiếp tục được các tín đồ nghe theo. Theo ý kiến của tôi (tác giả), thật là bất công khi tuyên bố quá nhanh rằng các vị sáng lập Đạo Cao Đài muốn che giấu sự thật để dành riêng cho mình độc quyền tiếp xúc các Đấng vô hình.
Người hành đạo cần vươn lên để chiếm được cái quyền đạt đến trí huệ trọn vẹn. Trong vài trường hợp, đó là thái độ của Giáo hội Công giáo đối với Thần linh học.
NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Giáo lý của Đạo Cao Đài không chỉ nhằm mục đích hoà hợp các tín ngưỡng tôn giáo, mà còn thích nghi với tất cả mức độ tiến hóa của tâm linh.
1. Về phương diện đạo đức : Giáo lý Đạo Cao Đài nhắc nhở con người có bổn phận đối với chính mình, đối với gia đình, đối với xã hội, ấy là một gia đình mở rộng, kế đó đối với nhơn loại, gia đình thế giới;
2. Về phương diện Triết học : Giáo lý Đạo Cao Đài truyền dạy sự khinh thường danh vọng, sự giàu có, sự xa hoa, tắt một lời là sự giải thoát khỏi những nô lệ vật chất, để tìm tòi trong tâm linh sự  yên tĩnh của tâm hồn;
3. Về phương diện văn hóa : Giáo lý Đạo Cao Đài khuyên nhủ sùng bái Thượng Đế, Đại Từ Phụ của tất cả chúng ta, tôn thờ các Đấng chơn linh thượng đẳng vốn tạo nên hệ thống trật tự oai nghiêm trong thế giới huyền bí. Chấp nhận sự thờ cúng tổ tiên theo truyền thống dân tộc, bài trừ việc cúng bằng các thứ thịt thú vật, cũng như giấy vàng mã;
4. Về phương diện tâm linh : Giáo lý Đạo Cao Đài xác nhận sự đồng ý với các tôn giáo khác về các hệ thống triết học tâm linh và tâm lý, sự hiện hữu của linh hồn và sự tồn sinh của nó nơi thể xác, sự tiến hóa của linh hồn  bởi sự đầu thai chuyển kiếp liên tiếp, cái kết quả sau khi chết của các hành vi của con người định bởi luật Nhân quả.
5. Về phương diện truyền giáo : Đạo Cao Đài truyền đạo cho các tín đồ xứng đáng những giáo huấn mặc khải mà nó cho phép các tín đồ, bởi quá trình tiến hóa tâm linh, đạt đến  sự  hưởng thụ toàn phúc.  
Các tín đồ
Có ba loại tín đồ:
1. Những tu sĩ chơn tu, những Chức sắc cao cấp, những người bị bắt buộc tuân thủ một lối sống, nếu không khổ hạnh thì ít nhất cũng phải kiêng cữ  một số điều : quan hệ xác thịt nam nữ bị cấm chỉ, họ có thể có vợ nhưng vợ chỉ là bè bạn; rượu, thịt, cá đều bị cấm chỉ; họ chỉ được nuôi sống bằng thảo mộc (ăn chay). Chỉ riêng họ mới được phép giao tiếp với Đức Thượng Đế và các Đấng chơn linh thượng đẳng, nhưng chỉ được làm trong trường hợp đặc biệt mà thôi.
2. Các đồng tử, có số lượng 12 người, họ cũng được xem là Chức sắc hay phụ tá, không phải là tu sĩ chơn tu, nhưng họ cũng bị bắt buộc tuân thủ một số luật lệ và kiêng cữ một số điều trong đời sống vật chất. Họ vẫn đi làm việc thường ngày trong các hoạt động thương mãi hay kỹ nghệ. Họ cũng bị chính thức cấm chỉ cầu cơ, khi không có hiện diện của những Chức sắc cao cấp mà không được các vị nầy mời đến  sau khi tụng kinh cầu nguyện Đức Chí Tôn.
3. Những môn đồ bình thường,  đây là khối đông đảo tín đồ, họ không có bổn phận nào khác hơn là tuân theo đạo đức và qui tắc hành xử do các Chức sắc của Ban Trị Sự Cao Đài truyền dạy và đáng kể là phải cúng lạy đều đặn mỗi ngày trước bàn thờ Đấng Cao Đài, trong một ngôi chùa riêng biệt, hoặc trong một Thánh Thất mới tạo nên, hay nơi tư gia của họ trước một bàn thờ nhỏ được sắp đặt, trên đó đặt hình vẽ Thiên Nhãn có mây bao quanh, giữa hai chưn đèn nghi lễ có một lư hương chứa đầy tro để cắm nhang, và phẩm vật dâng cúng là hoa quả, nhiều hay ít cũng được.
Theo một tài liệu khác gần đây, tôi (tác giả) thấy những tín đồ chia làm hai bậc: Thượng thừa và Hạ thừa.
Được xếp vào bậc Thượng thừa là những tu sĩ chơn tu, họ có thể là Chức sắc hay tín đồ thường. Ở bậc Thượng thừa, họ bị bắt buộc để râu dài và tóc dài, phải ăn chay, cấm xa hoa, cấm quan hệ tình dục. Đời sống của họ thoát khỏi sự nô lệ vật chất, hoàn toàn dâng hiến để phụng sự tôn giáo.
Những tín đồ thuộc Hạ thừa gồm đông đảo tín đồ, vẫn tiếp tục theo đuổi công việc bình thường, bổn phận về tôn giáo của họ gồm việc thực hành cúng lạy hằng ngày và hành xử đúng theo Tân Luật.
Các tín đồ ở cả hai bậc đều bắt buộc tuân theo Ngũ Giới Cấm, trích ra từ  đạo đức của Phật giáo : không sát sanh, không gian tham, không tà dâm, không ăn cao lương mỹ vị, không phạm tội bằng lời nói.
Về chế độ ăn uống, đối với các tín đồ bậc nhì (Hạ thừa), qui định việc ăn chay theo từng bậc, phải kiêng cữ thịt thú vật, chỉ ăn chay một số ngày nhứt định trong một tháng âm lịch. Như thế, khởi đầu ăn chay tạm thời 2 ngày sóc vọng mỗi tháng, kế đó tiếp tục lên Lục trai, ăn chay 6 ngày trong một tháng, rồi Thập trai tức là 10 ngày trong mỗi tháng.
Đạo Cao Đài thu nhận vào lòng tất cả những người có thiện ý, không phân biệt chủng tộc, địa vị xã hội. Một người dân có thể sát cánh trong tình huynh đệ với một Đốc phủ sứ.
Sự thờ cúng trong Đạo Cao Đài
“Sự thờ cúng được cử hành mỗi ngày tại Thánh Thất, cũng như tại tư gia, vào bốn thời (Tứ thời) : lúc 6 giờ, giữa trưa (12 giờ), 18 giờ và giữa đêm (12 giờ khuya).
Quỳ lạy trước Thiên bàn, trong sự nhiệt thành của tâm hồn hướng về Đấng Thượng Đế, chúng ta khởi đầu tụng kinh Niệm Hương, tiếp theo tụng Khai Kinh, mà lời kinh như sau :
Biển trần khổ vơi vơi trời nước,
Ánh thái dương giọi trước phương đông.
Tổ Sư Thái Thượng Đức Ông,
Ra tay dẫn độ dày công giúp đời.
Trong Tam giáo có lời khuyến dạy,
Gốc bởi lòng, làm phải làm lành.
Trung dung Khổng Thánh chỉ rành,
Từ bi Phật dặn lòng thành lòng nhơn.
Phép Tiên đạo tu chơn dưỡng tánh,
Một cội sanh ba nhánh in nhau.
Làm người rõ thấu lý sâu,
Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh.
Nghi thức ấy đã xong, chúng ta cất giọng tụng kinh bài Vinh Danh Thượng Đế (Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế), kế đó tụng 3 bài kinh xưng tụng ba Đấng Giáo chủ Tam giáo : Đức Phật, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử.
Nghi thức cúng lạy hằng ngày tất cả đơn giản như thế.
Về phần hiến lễ trong Thánh Thất, vào các ngày lễ lớn, việc thực hành các nghi tiết có phần quan trọng hơn.
Người ta trách Đạo Cao Đài một cách tổng quát đã xa lìa Thần linh học khoa học, để trở thành một tôn giáo. Đáng tiếc ! Có thể lắm ! Nhưng đừng quên quá mau rằng, chúng ta không ở Paris, Bruxelles, Berlin hay Rome, và rằng tâm hồn của người Á châu luôn luôn nhiệt thành, mặc dầu trên khuôn mặt vẫn đeo cái mặt nạ đông cứng và không cảm giác.
Lòng bác ái
Mấy từ ngữ đơn giản nầy tóm lược khuynh hướng chủ yếu của Đạo Cao Đài. Những ứng dụng thực tiễn suy ra gồm :
1. Tình huynh đệ giữa nhơn loại.
2. Lòng thương yêu loài vật.
Bởi vì chúng ta có bổn phận trong tình huynh đệ đối với mọi người, xem mọi người đều là anh em trong đại gia đình thế giới, chúng ta cũng có bổn phận đối xử tốt loài vật, vì chúng nó là những em út còn lạc hậu trên con đường tiến hóa. Chúng ta phải chăm sóc chúng vì chúng được tạo ra để giúp việc cho chúng ta, đối đãi với chúng một cách dịu dàng, và tránh làm cho chúng đau đớn vô ích. Đời sống thú vật của chúng cần được tôn trọng, bởi vì nếu làm tổn thương đến chúng thì chúng ta đã làm chậm trễ sự tiến hóa của nạn nhân.
Vì vậy, tất cả tín đồ Cao Đài ý thức bổn phận của mình và giữ việc ăn chay để tránh khỏi làm tòng phạm sát sanh hằng ngày, làm tổn hại những em út cấp dưới.
Ông Schopenhauer nói: Giữa lòng thương xót loài vật và lòng nhân từ có sự ràng buộc chặt chẽ, người ta có thể nói không ngần ngại rằng, khi một người hung dữ  với loài vật thì người ấy không thể là người lành.
3. Lòng nhân từ đối với thảo mộc:
Không ai biết hết những ích lợi của thảo mộc đã đem lại cho nhơn loại. Ân nhân yên lặng của con người, nó không hề trách móc về sự bội bạc, sự tàn ác của con người. Cây cối che bóng mát cho những ai ngồi tại gốc của nó, không phân biệt khách bộ hành mệt nhọc hay người tiều phu hung bạo. Người ta nói, cây đàn hương đã xông hương lưỡi rìu chặt nó.
Thảo mộc là một kho thuốc thiên nhiên thực sự, nơi đó, chúng ta có thể tìm được những thứ thuốc trị bệnh bá chứng cho chúng ta. Bài học về lòng tốt, lòng hy sinh  không thể rút ra từ thảo mộc cho lợi ích của chúng ta hay sao ?
Những thí nghiệm khoa học gần đây của Sir Bose, một bác học Ấn Độ, đã chứng minh rằng thảo mộc sống như loài người, mà vài loại cây, đặc biệt như cây mắc cở có một hệ thần kinh nhạy cảm hơn của chúng ta về những tổn thương thân thể. Chúng ta sẽ nghĩ gì khi một người nào đó đùa giỡn bẻ gãy một cành cây hay nhổ bật rễ một cái cây ?  Nếu  vì nhu cầu cho đời sống vật chất buộc chúng ta phải dùng thảo mộc, thì đối với “các thí sinh thi lên động vật” nầy, chúng ta phải có lòng tốt là không bao giờ nên chặt bỏ hay phá hại chúng một cách vô ích.
4. Phụng sự nhơn sanh. (bổ túc bổn phận của tình huynh đệ)
Biết bao nhiêu dịu dàng, trìu mến, thiên nhiên đã đem lại cho con người khi sống ẩn dật trong cảnh cô tịch. Lánh xa thế giới loài người, mà những cám dỗ không còn giá trị, trong cảnh tĩnh mịch của cuộc sống ẩn dật, người ta thanh lọc cuộc sống, lắng dịu những đam mê và nâng cao tư tưởng lên gần Thượng Đế. Rồi trong niềm say mê trầm tư mặc tưởng, nơi đó được khơi dậy cái tình cảm của Đấng thiêng liêng, nên cảm nhận nhiều hơn cái nguồn gốc thiêng liêng của mình.
Đó là đời sống nội tâm dẫn lối những người thượng thừa, được phú bẩm những năng lực lớn, khi sứ mạng phàm trần của họ hoàn thành, họ mong muốn được an lạc tinh thần. Nhưng, trước khi đạt đến  giai đoạn cao cấp trong con đường hành tu của nhơn loại, người khách lữ hành, vẫn tìm cách tiến lên, nhưng phải giúp đỡ những kẻ đang dò dẫm đi sau.
Như thế, tất cả tín đồ Đạo Cao Đài, lo lắng về hành động theo nguyên tắc nhân ái, trong mọi trường hợp, tự hiến mình cho việc phụng sự nhơn sanh. Được thúc đẩy bởi lòng ham muốn giúp đỡ đồng loại, họ sẵn sàng đem đến sự an ủi cho những nỗi khổ đau về tinh thần và xã hội bằng những lời nói hay việc làm của họ. Và trong niềm khao khát về lòng từ bi, họ luôn luôn đưa tay giúp đỡ tất cả những người cần đến sự giúp đỡ của họ. Chịu đựng tất cả nỗi khổ nhục bất cứ từ đâu tới, họ vẫn sống không thù hận, giữa những người thù hận họ. Tất cả tín đồ Đại Đạo, Chức sắc hay Đạo hữu, phải nhận nhiệm vụ khó khăn là đem linh hồn đến Thượng Đế, ghi khắc vào trí não những Thánh giáo của Đấng Cao Đài, dựa trên lòng yêu mến điều thiện và sự tôn thờ chơn lý.
Nếu đã cố gắng tuyên cáo chơn lý mà vẫn không thuyết phục được những kẻ vô tín ngưỡng, thì ít ra cũng làm cho họ dao động vài phần, và lúc bấy giờ những nghi ngờ được khơi dậy trong tâm hồn những kẻ từ trước đến nay không có đức tin, sẽ làm tiếp những gì còn lại. . . .
 Chính khi hoàn thiện và cứu độ kẻ khác, người ta cũng hoàn thiện và cứu độ chính mình, vì những hành động thương yêu, từ thiện, đến lượt nó tạo nên lộ phí trong cuộc hành trình dài về Cực lạc. Bởi vì việc phụng sự nhơn sanh là một trong những điều kiện cần thiết của việc tự độ, người ta có tất cả lợi ích để thực hiện với lòng nhiệt thành hơn là cho phép họ lòng hâm mộ tôn giáo và tiến bộ đạo đức của họ.
Không dám có cao vọng tự đặt mình là nhà truyền giáo, người tín đồ phải thúc đẩy đặc biệt những đồng đạo của mình làm điều thiện và đạo đức. Nó có thể đạt được, không phải bằng bài thuyết giảng trống rỗng, mà bằng cách làm gương và thích hợp cuộc sống theo giáo lý mà mình chủ trương. Nếu thỉnh thoảng nó trốn lánh bổn phận, xa rời con đường đạo mà Đức Chí Tôn đã vạch ra, thì đấy chính là do sự yếu đuối hay khinh suất của nó, chớ không phải do những Thánh giáo mà nó có sứ mạng truyền bá, bởi chúng tôi há cần nhắc lại luôn luôn những Thánh giáo ấy, một lý tưởng hòa bình và tình yêu huynh đệ.
Giống như các tôn giáo hiện hữu, Đạo Cao Đài cũng có những kẻ giả tu (không thành tín sùng đạo) và những tín đồ còn thiếu đức tin để chống lại những cám dỗ của các Tà Thần. Đó là những phần tử bất hảo làm hoen ố tôn giáo mà họ đang theo và họ sẽ bị loại ra hoàn toàn.
Ngũ Giới cấm
1. Không giết hại các sinh vật  (vì chúng đều có Sanh hồn do Thượng Đế ban cho);
2. Không gian tham (để tránh khỏi sa đọa vào vật chất vì nhu cầu sở hữu và thống trị). Chính sự tiến bộ của xã hội hiện nay mà tất cả dường như khêu gợi lòng kiêu ngạo và thèm khát giàu có;
3. Không dùng cao lương mỹ vị:
- Không ăn thịt thú vật (phải ăn chay).
- Không uống rượu (vì nó làm hại thể xác và chơn thần).
“ Tác dụng độc hại của rượu lên chơn thần :
“ Chơn thần nhập vào thể xác và bao bọc thể xác bởi khí thể của nó. Trung tâm sinh hoạt của nó ở tại óc và trung tâm linh khí của nó ở tại Nê huờn cung. (Chính tại trung tâm Nê huờn cung nầy mà Hộ Pháp đến gìn giữ chơn linh của người tu luyện cho đến khi đắc đạo).
“ Nay, tác dụng kích thích của rượu lan lên tận óc, làm tụ máu trong não, gây ra những xáo trộn trong chơn thần,  thiệt hại đến đời sống người luyện đạo, phá vỡ sự hòa hiệp huyền bí (của Khí và Thần) đã được thiết lập nơi người tín đồ. Hơn nữa, trong lúc loạn thần ấy, để cửa mở trống (trung tâm linh khí) cho Tà Thần xâm nhập chiếm đoạt thể xác, thi hành quyền lực trên thể xác, xúi giục thể xác gây ra những hành động đáng trách, có thể dẫn đến sự sa đọa vào địa ngục. Cho nên, Đức Chí Tôn chính thức cấm chúng ta uống rượu.”
4. Không tà dâm (việc nầy đưa chúng ta vào nghiệp ác).
5. Không phạm tội bằng lời nói:   
“ Sự khải thị dạy cho chúng ta biết rằng Thượng Đế đã đặt định một chơn linh hướng dẫn và gìn giữ cái mạng sống của con người. Cái chơn linh ấy rất vô tư, có sứ mạng không ngừng liên lạc với các Đấng trọn lành nơi hệ thống thượng đẳng (Ngọc Hư Cung) để trình bày trước Tòa Phán xét một bản báo cáo chi tiết về tất cả hành động tốt xấu. Đó là bản báo cáo tất cả việc làm của con người, gồm những công đức và tội lỗi, không thể tránh khỏi bị xử trí bởi luật Quả báo luân hồi. Hơn nữa, chơn linh ấy được giao phó gìn giữ chúng ta, mà còn có sứ mạng dạy bảo khuyên nhủ chúng ta. Trong ngôn ngữ nghèo nàn và thiếu thốn của con người, người ta gọi chơn linh ấy là Lương tâm. Nay, trước khi chúng ta tìm cách lừa dối kẻ khác bằng những lời nói dối, chúng ta đã lừa dối Lương tâm của chúng ta, nghĩa là lừa dối chơn linh ấy.
“Chơn linh ấy ghi chép không những tất cả việc làm mà còn tất cả lời nói của chúng ta, cả khi chưa thực hành. Bởi vì, dưới mắt của các Đấng trong Tòa Phán xét, những tội lỗi của lời nói cũng đáng bị trừng phạt như lúc hành động.
“Như vậy, chúng ta cần phải thật cẩn thận trong lời nói cũng như trong hành động.”
Thánh giáo Pháp văn
Những Thánh giáo Pháp văn thường được tiếp nhận bởi các đồng tử của Đạo Cao Đài do các Đấng ban ra như: Allan Kardec, Léon Denis, Camille Flammarion, Descartes, Jeanne d’Arc, Chateaubriand, vv . .  và nhứt là Victor Hugo và gia đình Victor Hugo.
Nhiều vị lãnh đạo trong Đạo Cao Đài, là người VN hiện nay, do sự tái kiếp của nhiều người trong gia đình Hugo. Những việc kỳ lạ làm cho người ta tin tưởng điều đó. Trong một số  ít  Thánh Thất, có treo hình của Victor Hugo.
Sự đầu thai chuyển kiếp trong Đạo Cao Đài
Liên quan với Phật giáo, Lão giáo và Khổng giáo, và tôi tin tưởng có thể xác quyết mà không sợ bị buộc tội : với giáo lý của Kardec (Allan Kardec được xem là một vị Thần linh tôn giáo), Đạo Cao Đài tin vào thuyết Nhân Quả và Luân Hồi, hệ quả của nó. Người tín đồ Cao Đài thẳng thắn tuyên bố rằng, không mới lạ gì về điểm nầy.
Tất cả sự chấp ý (tư tưởng, lời nói hay việc làm) là một cái Nhân, sẽ mang lại cái Quả:
Cái Nhân gắn chặt với cái Quả, Quả là sự biến thái cách nào đó của Nhân, là sự giải thích cụ thể của Nhân.
Sự giải thích ấy chính xác đến nỗi chỉ cần xem xét tỉ mỉ kiếp đầu thai hiện tại của một thực thể, đủ để chỉ cho chúng ta biết cùng một lúc kiếp quá khứ và kiếp tương lai của nó. Kiếp đầu thai hiện tại của một thực thể với sự xen kẽ những nỗi vui buồn được xác định bởi những việc làm mà họ đã hoàn thành trong kiếp sống trước. Cũng vậy, những việc làm trong kiếp hiện tại xác định nguyên nhân tác thành của kiếp lai sinh.
Cái Quả có thể được tách ra khỏi Nhân trong một thời gian lâu hay mau. Nếu khoảng cách đó ngắn, cái Quả đến tức khắc và kẻ có tội thấy ngay hình phạt trước mắt.  
Nếu khoảng cách đó dài, đó là vì kẻ tội lỗi còn được hưởng một thời gian nữa cái Quả tốt của những việc làm tốt của nó trong những kiếp trước xa xưa hay kế cận còn kéo dài.
Nhưng, ngay sau khi sự miễn dịch vô hình ấy chấm dứt thì luật Nhân Quả liền thể hiện đầy đủ. Trong nhiều trường hợp, sự suy sụp diễn ra nhanh đến chóng mặt, giải thích như thế về sự suy tàn của một số gia đình như đã nói ở trên. (Trích trong tạp chí La Revue Caodaiste, Tháng 3, số 33).
Tự do ý chí của con người bị giới hạn bởi cái Quả nghiệp của kiếp trước. Người tín đồ Cao Đài quả quyết rằng, chính mình tạo ra số phận của mình. Việc hành thiện giúp cho thực thể tự cổi bỏ dần dần cái nghiệp quả của nó.
Ngài Ngô Văn Chiêu, tín đồ đầu tiên của Đạo Cao Đài mới qui vị gần đây, nói : “Để tự biết mình, người môn đệ phải tự chúc mình những nỗi khổ đau.”
Đạo Cao Đài còn tin tưởng rằng, sự xuất hiện của một sắc dân mới, cũng như  giáo sư  Pietro Ubaldi (29-4-1933) tin rằng, loài người tương lai sẽ là Thần thông nhơn, một mẫu mới của sinh vật, như những người bạn Thông thiên học của chúng ta đã nhận thấy mẫu người mới đang hình thành :
“Kinh nghiệm chứng tỏ rằng, mỗi lần giáng trần của Đấng Cứu Thế, Ngài mang tên gọi là: Lão Tử, Thích Ca hay Jésus, loài người như được đánh thức từ cơn mê. Một luồng sức mạnh huyền bí lưu thông khắp nơi, giúp con người hiểu được những điều mầu nhiệm mà đến lúc đó họ vẫn còn lờ mờ, sự khai mở đột ngột và mầu nhiệm của một vài năng khiếu như : trực giác, ký ức, trí thông minh, huệ nhãn, cho phép người tín đồ đạt tới Đạo, từ đấy mở rộng cửa đối với họ.
Tiếp nhận được linh khí của vũ trụ, chỉ đến gần trái đất sau hàng ngàn thế kỷ, người tín đồ hiểu một cách dễ dàng  những Thánh giáo và để đốt giai đoạn, một ngày nào đó, người tín đồ sẽ được đến gần và nhập vào Thượng Đế.
“Kể từ khi xuất hiện Đạo Cao Đài, mà Đức Chí Tôn là Giáo chủ, những hiện tượng thuộc loại nói trên, được loan báo chút ít khắp Nam Kỳ. Điều ngạc nhiên hơn hết là việc ăn chay trường thực hiện không khó khăn bởi những tín đồ nam nữ ở mọi lứa tuổi. Người ta thấy những đứa trẻ 4 hay 5 tuổi  không chịu nổi khi thấy dĩa cá hay thịt. Người ta thấy những đứa trẻ 13 hay 14 tuổi khước từ ăn mặn để chỉ ăn toàn rau cải và chỉ ăn một lần trong mỗi ngày, vào lúc giữa trưa (ăn ngọ). Người ta cũng thấy những người chỉ ăn toàn là trái cây. Các sự kiện nầy của một đẳng cấp mới, làm ngạc nhiên những tu sĩ Phật giáo mà chính họ thú nhận rằng, trong số họ chỉ có một số  ít  người là giữ được trường chay.
“Kế đó, đến sự phát triển bất ngờ của vài năng khiếu như : ký ức, sự thông minh, trực giác nơi những người mà họ vốn chưa bao giờ tiếp thu một kiến thức nào.”
Tạp chí La Revue Caodaiste từ khi sáng lập, đã loan báo một vài sự kiện về đầu thai chuyển kiếp ở Việt Nam. Chúng ta vui mừng được thấy những huynh đệ của Đạo Cao Đài đã thừa nhận những cuộc điều tra và kiểm soát độ chính xác khoa học cần thiết ở Tây phương mà nó cần những bằng chứng cụ thể hơn là những sự làm chứng về đạo đức.
Những bằng chứng ấy đem chúng ta đến cái điểm lợi ích lớn lao : một sự kiện tái sinh được kiểm tra tỉ mỉ đã đánh đổ ngay những sự chống đối quen thuộc vốn đã nghe cả trăm lần chống đối sự tái sinh (đầu thai). Tạp chí La Revue Caodaiste đi theo con đường đó và chúng tôi khen ngợi họ.
Đạo Cao Đài nhắc lại, mỗi người của chúng ta, trước khi đi tái sinh, phải ăn cháo lú (loại cháo làm quên hết dĩ vãng). Nếu người nào ăn nhiều cháo ấy (khi người ấy có nhiều tội lỗi và nên quên nhiều), nó không nhớ lại được tiền kiếp của nó. Nếu người nào ăn ít cháo lú (khi người ấy đến  một của những kiếp tái sinh gần đây và nó không hổ thẹn về những lỗi lầm trầm trọng), bằng phương pháp hồi quang phản chiếu, bằng trực giác, bằng sự phát huệ, nó sẽ nhớ lại những kỷ niệm về những kiếp tái sinh trước đây.
Nhưng, đó là là khả năng thiên phú của một người ưu tú về thiền hay những bậc hiền triết khiêm tốn và trầm lặng mà người đời không biết đến họ.
Sự xác nhận ấy được chứng thực, và chúng tôi dám nói rằng : Chúng tôi thích những tài liệu được thiết lập bởi phương pháp thực nghiệm.
Kết luận:
 Thời đại của chúng ta đang phá sản, hỗn độn, khao khát giàu có, hận thù, vui lòng nói đến sự xem xét lại thuế khóa, xem xét lại các hiệp ước, các đường biên giới, quan thuế, vv . . .  Nhưng họ lại quên xem xét lại cái mà người ta ít nói đến là cái chìa khóa của tất cả mọi sự xét lại : Chúng ta có nên bắt đầu bằng sự xem xét lại Lương tâm không ?
Chính vì Đạo Cao Đài hiểu rõ sự cần thiết đó và trù tính xem xét lại Lương tâm mà tôn giáo nầy đã gặp phải sự chống đối của bao thế lực hắc ám tại Á châu : Tổng hợp mạnh mẽ các tôn giáo ở Á châu, làm gạch nối với Thiên Chúa giáo, tập hợp sự kiện tâm linh và Thần linh làm nền tảng cho thuyết duy tâm hiện đại của Tây phương; kêu gọi lòng thương yêu đến Vô Danh, Vô Cực, đến nền hòa bình thế giới và đại đồng huynh đệ các dân tộc, vĩnh phúc nơi Đấng Cao Đài, vĩnh phúc cho các anh, tín đồ Đạo Cao Đài, những người anh em xa xôi của nước Việt Nam, mà chúng tôi đã tiếp nhận được và hôm nay xin cảm tạ lời giáo huấn và bài học hay.
Châu Âu xưa cũ có dám chấp nhận sự đảo lộn giá trị  mà thời đại mới đòi hỏi không ?
Chúng tôi tin là có, và do đó, chúng tôi nói lời cảm tạ đối với các tín hữu Cao Đài ở Đông Dương.
ĐẠO CAO ĐÀI
trong các Hội Nghị Quốc Tế
Chúng tôi được Tòa Thánh Tây Ninh (Nam Việt Nam) ủy nhiệm làm đại diện Đạo Cao Đài trong các Hội nghị quốc tế về tôn giáo.
1. Hội nghị quốc tế Thần  linh học Barcelone (1934)
Người ta đọc trong tạp chí La Revue Spirite (số tháng 10 - 1934, trang 505) trong một loạt các nguyện vọng được toàn hội chấp thuận :
“ Mục thứ 8 : Phong trào Cao Đài : Do đề nghị của ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại nước Pháp của Đạo Cao Đài (hay Phật giáo canh tân, hay Thần linh học VN), Hội nghị quốc tế Thần linh học lần thứ 5 họp ở Barcelone (từ ngày 1 đến 10-9-1934) thỉnh cầu rất cung kính Chánh phủ Pháp vui lòng nhớ lại các lời hứa long trọng vào tháng 3 năm 1933 tại Quốc Hội Pháp, của Thủ Tướng Sarraut, lúc ông là Bộ Trưởng Thuộc địa, thiết lập với ân huệ cho những tín đồ Cao Đài một qui chế cũng rộng rãi như qui chế được hưởng bởi những người theo Thiên Chúa giáo hay các tín đồ Phật giáo trong các nước của Liên bang Đông Dương.”
2. Hội Nghị thế giới về tôn giáo ở Luân đôn (1936)
Báo Le Cyne (ngày 20-9-1936) loan tin :
“ Tại Hội nghị Quốc tế về Tôn giáo tổ chức ở Luân
đôn, dưới sự chủ tọa của Ngài Francis Younghusband, nơi đó ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại nước Pháp của Đạo Cao Đài, tham dự theo lời mời của Tòa Thánh Tây Ninh, Đạo Cao Đài được thừa nhận là tôn giáo khoan dung nhứt thế giới. Trước đông đảo hội viên gồm đại diện của tất cả tôn giáo lớn trên thế giới và các đại diện báo chí quốc tế, đại diện Cao Đài tại Pháp tuyên bố : “ Đạo Cao Đài là một thực nghiệm về sự hòa hợp các chủng tộc và các sắc dân, mà quí vị hội họp nơi đây là vì mục tiêu ấy. Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân  chắc chắn là một thực nghiệm sống của sự kết hợp và phục nhứt các tôn giáo.”  Nhiều tràng pháo tay nhiệt liệt hoan nghinh câu kết luận ấy.
3. Hội Nghị Thần linh học thế giới ở Glasgow (1937)
Nhựt báo L’Annam nouveau (14-11-1937) loan tin :
“ Do đề nghị của ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của Đạo Cao Đài hay Thần linh học VN, Hội nghị Thần linh học thế giới lần thứ 6 họp ở Glasgow (từ ngày 3 đến 10-9-1937), sau Hội nghị Thần linh học thế giới lần thứ 5 tại Barcelone, nêu ra nguyện vọng là những người theo Thần linh học VN trong các nước của Liên bang Đông Dương  được hưởng những tự do tín ngưỡng và thờ cúng như những người VN theo Thiên Chúa giáo hay đạo Tin Lành, dầu họ là dân thuộc địa, dân bảo hộ, dân lai hay người ngoại quốc.
“ Nguyện vọng nêu ra trong Hội nghị Thần linh học quốc tế ở Baecelone đã mở ra thời kỳ khá rộng rãi cho các tín đồ Cao Đài hay Thần linh học VN”.
Nguyện vọng nầy được trình bày và bàn cãi trong bộ phận triết học của Hội nghị, được nhìn nhận bởi sự hoan nghinh trong buổi hội họp dân chúng tổ chức tại Phòng Triển lãm mỹ thuật McLellan ngày 9-9-1937.
4. Hội nghị thế giới về Tín ngưỡng tại Ba-lê (1939)
Tóm tắt bài tường thuật của tạp chí La Revue Spirite (Tạp chí Thần linh học)  (Ba-lê, 8 - 9) :
“ Hội nghị thế giới về Tín ngưỡng đã được tổ chức trước đây ở Luân đôn, Oxford, Cambridge, năm nay tổ chức tại Ba-lê. Cộng sự viên của chúng ta là ông Gabriel Gobron, được ủy nhiệm bởi các tín đồ Cao Đài hay Phật giáo canh tân ở Đông Dương, đến tham dự.
Những lời trách cứ mà ông đã đưa ra trong Hội Nghị tại Luân đôn có thể được lập lại nơi đây và hơn thế nữa : Những người tổ chức, hầu hết là người Anh, chỉ quan tâm đến các tôn giáo xưa có một quá khứ lâu dài và phong phú (lời phát biểu của ông Lacombe ngày 10-7-1939) và như vậy là đặt ra ngoài, các tôn giáo mới, những giáo lý mới và hơn nữa tôn giáo tổng hợp như Đạo Cao Đài có chủ trương dung hợp cơ bản những tín đồ Phật giáo, Công giáo, Lão giáo, Nho giáo, Hồi giáo, vv. . .
Vô ích để nói rằng Thần linh học, Thông Thiên học, Nhân loại học, vv . . . đều bị bỏ ra ngoài Hội Nghị nầy, chỉ tìm kiếm sự hợp tác trong “tôn kính” của những tôn giáo lớn và không bao giờ có sự dung hợp cơ bản hay tổng hợp.
Không có một so sánh nào về sự cao trọng của các tôn giáo được tha thứ. Giáo hội Công giáo, tuy chánh thức vắng mặt, nhưng được đại diện rộng rãi (Giáo sư Maritain, ông Lacombe, vv. . .) và trong tất cả các ngày, Công giáo đều nhận được sự tôn kính.
Hàng trăm người, phần nhiều là dân anglo-saxon, - sĩ quan, viên chức, giáo sư, quí tộc, trưởng giả - tham dự các ngày Công giáo, Do Thái giáo, Phật giáo, Tin lành, Hồi giáo, Ấn giáo, họ xen vào các cuộc tranh luận, đôi khi ngoài các đề tài nêu ra : Làm thế nào ngự trị tinh thần huynh đệ trên thế giới bởi sự tụ hội các tôn giáo ?
“ Sự bảo trợ chánh thức ban cho Hội Nghị (ông Champetier de Ribes và ông Georges Mandel) sự tiếp nhận Hội Nghị tại trường đại học Sorbonne bởi ông Viện Trưởng Roussy, với sự tham dự của các thuộc địa Pháp (một vị tướng ở Tunis, một Tỉnh trưởng ở Syrie, vv . . .) một “Ủy ban Pháp”  làm tăng uy thế của các buổi thảo luận long trọng tại Giảng đường Richelieu từ ngày 2 đến 11-7-1939.
“ Ưu điểm của Hội Nghị - ngoài những giới hạn hẹp hòi mà người ta qui định và những dự phòng chánh đáng - là kêu lên những quyền của con người, mà hiện thời bị chà đạp trong  tất cả các chế độ độc tài.
“ Một nguyện vọng là kêu gọi các nhà độc tài nên nhân đạo hơn nữa, được Hội Nghị chấp nhận và vấn đề người tị nạn phải được ghi vào nghị trình của Hội Nghị sắp tới  tổ chức ở Hòa-lan. Một lời kêu gọi gởi đến các Giáo hội chánh thức được đưa ra.
“ Những khách đến viếng thăm điện Versailles, các viện  bảo tàng Ba-lê, các trung tâm trí thức, Thánh đường Hồi giáo, nơi đó nhân phẩm có tính cách của dân Ba-lê đón nhận một cách lịch sự các Hội viên, vv. . . đã theo dõi hội tập thường ngày. Quả thật, người ta nói nhiều nhưng người ta cũng hành động : một Hội nghị như thế là một sự kiện đáng ghi nhớ. Người ta muốn tuyên bố nó quan trọng hơn cả Hội nghị Quốc liên, tiếp theo một trong những tiệc trà qui tụ nhiều Hội viên mà một ngày nào đó khơi lên ngọn lửa của những tân tín đồ về lý tưởng tôn giáo. “
Báo La Vérité ở Nam Vang, nơi đó có trụ sở của Hội Thánh Ngoại giáo Đạo Cao Đài, có tường thuật gần giống như trên (ngày 26-7-1939) : Đạo Cao Đài trong Hội Nghị các
tôn giáo tại Ba-lê (trang 1 và 5) :
“ Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân đã được giới thiệu vào năm nay trong Hội Nghị các tôn giáo tại Ba-lê (từ ngày 3 đến 11 tháng 7) bởi ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của Đạo Cao Đài, ông gặp lại các nhân vật lãnh đạo mà ông đã quen biết tại Luân đôn vào năm 1936, Ngài Francis Younghusband là chủ tọa và ông Arthur Jackman làm thơ ký.
“ Chánh phủ Pháp đã tổ chức và bảo trợ Hội Nghị các tôn giáo, chính các ông Georges Mandel, Bộ Trưởng Bộ Thuộc địa; ông Champetier de Ribes, Bộ Trưởng Bộ trợ cấp; ông Viện trưởng Viện Đại học Ba-lê, Bác sĩ Roussy, đã cung cấp Giảng đường rộng lớn Richlieu của Đại học Sorbonne làm nơi hội họp cho Hội Nghị.
Một Ủy ban Pháp, dưới quyền của Giáo sư  Louis  Massignon, gồm nhiều nhân vật : bà De Coral-Rémusat, ông Jean Herbert, bà De Margerie, công chúa A. Murat, ông De Traz, ông Lacombe, giáo sư Daniel Rops, vv . . . điều khiển các cuộc thảo luận, tập trung vào đề tài căn bản : Làm thế nào mở mang tinh thần hợp tác huynh đệ trên thế giới bởi các tôn giáo ?
“ Chung quanh vấn đề đặt ra nầy, người ta chẳng những ghi nhận các ngày Công giáo, Tin lành, Ấn giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Do Thái giáo, vv . . . tùy theo diễn giả chánh thức thuộc vào một trong những tín điều nào.
Như thế, thứ ba ngày 4 tháng 7 là ngày Công giáo : Giáo hội Công giáo chánh thức vắng mặt, không tham dự các công việc của Hội nghị, nhưng Giáo sư Jacques Maritain, ông Lacombe và vài người Công giáo khác đóng vai trò hàng đầu trong tuần lễ Hội nghị. Giáo hội Công giáo vô hình nhưng hiện diện.
“ Nói thật ra thì tầm vóc của Hội Nghị không lớn lắm, cũng không quốc tế như người ta mong ước. Điều nầy do vài hạn chế đặt ra cho các Hội viên :
1. Không một tôn giáo nào được bày tỏ ưu điểm của mình để thu hút tín đồ của tôn giáo khác.
2. Không có vấn đề thống nhứt hay dung hợp các tôn giáo, nhưng chỉ có sự hợp tác giữa các tôn giáo khác nhau đã bị chia rẽ từ trước. Một tôn giáo thống nhứt tổng hợp như Đạo Cao Đài cảm thấy khó chịu trong Hội Nghị; cũng thế, ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp tuyên bố với ông Olivier Lacombe, Phó Chủ tịch Ủy ban Pháp, rằng ông ta là người “tà giáo” duy nhứt trong Hội nghị.
3. Tiến trình của Hội nghị, theo nguyên tắc, được dành cho các tôn giáo lớn và xưa chứng tỏ sự lớn mạnh của họ bởi quá khứ lâu dài. (Lời nói của ông Lacombe ngày 1-7-1939).
“ Ngài Francis Younghusband lúc bấy giờ tuyên bố với ông Gabriel Gobron rằng ông Gobron là người được trọng đãi, được tự do phát biểu và bàn cãi như tất cả mọi người, sau khi ông trình ủy nhiệm thư của cấp thẩm quyền Đạo Cao Đài với Phòng thư ký ở trường Sorbonne.
“ Ông Georges Mandel, Bộ Trưởng Thuộc địa, xác nhận sự tham dự của các phần tử của Đế quốc Pháp tham gia vào các công việc và tranh luận nơi Hội nghị. Do đó, tướng Hasan Husny Abdelwhab ở Tunis một Tùy viên của Cao Ủy Phủ của Syrie, đã được lên  trình bày về Hồi giáo.
Trái lại, ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của chúng ta không gặp các phần tử  Pháp ở Á châu; Ấn giáo và Phật giáo chỉ được đại diện bởi những người Anh : Tỳ Khưu Thittila (Tu viện Rangoon), Giáo sư Dasgupta (Calcutta), vv…
“ Mỗi ngày, ở Ba-lê cũng như ở Luân đôn năm 1936, có một bài thuyết trình vào buổi sáng, kế đó là tranh luận vào buổi chiều, sau đó thì đi viếng thăm các cảnh lạ (Điện Versailles, các Viện Bảo tàng, vv. . .) và đến các trung tâm trí thức của Ba-lê (Viện Văn minh Ấn độ, Hồi giáo, Hội Liên hiệp Pháp Anh, vv. . .).
“ Ông Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại Pháp của chúng ta đã phê phán tổ chức Hội nghị ở Luân đôn, nơi đó nhiều bậc trí thức đơn độc, không đại diện cho ai cả (và đôi khi có một chút tự kiêu), đã chiếm diễn đàn trong 1 hoặc 2 giờ.
“ Nay thì Hội nghị ở Ba-lê dành cho những đại diện của các cộng đồng, theo đúng từ ngữ của qui chế Hội nghị tại Sorbonne. Như thế, các người không chuyên nghiệp  và tài tử    phải tránh ra để nhường chỗ cho những đại danh như Giáo sư Jacques Maritain (Viện Công giáo Ba-lê), Giáo sư Dasgupta (Ấn giáo), Bác sĩ  Sié (Đại học Nam kinh), tướng Hasan Husny Abdelwahab, Tử tước Samuel (Cựu Cao ủy ở Palestine), Tỳ khưu Thittila (Tu viện Rangoon), Giáo sư Hauter (Đại học Tin lành Strasbourg), vv. . .
“ Thứ ba, ngày 11 thì chấm dứt các công việc và tranh luận trong tình huynh đệ lịch sự nhứt. Họ chia tay với sự bịn rịn và đau lòng, sau khi biểu quyết những nguyện vọng, các giải pháp, xem xét các dự án, các cải thiện, quyết định địa điểm cho Hội nghị sắp tới ở Hòa Lan, vv. . .
“ Trong số rất nhiều sự việc thú vị, đáng chú ý là nguyện vọng yêu cầu các nhà độc tài cư xử nhân đạo hơn với dân chúng; những lời khen ngợi về công trình hòa bình của ông Chamberlain; lời cảm tạ đối với nhà cầm quyền Pháp đã đối đãi tốt đẹp với các tôn giáo mà không cần chứng minh, khả năng chọn  Strasbourg, Jérusalem, Genève, vv . . . làm nơi Hội nghị sắp tới; sự kêu gọi các Giáo hội nên cho phổ biến các công trình của Hội nghị mà một diễn giả đã nói rằng các chánh trị gia và những người cổ súy họ. Vấn đề người tỵ nạn  được đặt ra cho năm tới.
“ Ủy ban Pháp quyết định tiếp tục tại Ba-lê công việc làm cho các tôn giáo lớn xích lại gần nhau hơn và hiểu biết nhau hơn. Nhiều Hiệp hội liên tôn được chú ý trong thủ đô, cung cấp cho các Hội viên thích tham dự các cuộc hội họp và đóng góp các cố gắng.
Từ đây Hội nghị sẽ thay thế Hội Quốc liên, đã bị đả phá bởi “ Chúng tôi nghĩ rằng, không bao lâu nữa, Đạo Cao Đài sẽ có vai tuồng quan trọng bởi cái gương mẫu sống động của nó, trong các Hội nghị quốc tế về tôn giáo.”
CÁC VỊ GIÁO TÔNG
của Đạo Cao Đài
Tờ báo Le Populaire [Bình Dân] (xuất bản tại Sài Gòn ngày 18-11-1935) loan tin : Ở Tây Ninh, Ngài Phạm Công Tắc kế vị Ngài Lê Văn Trung và trở thành Giáo Tông của Đạo Cao Đài :
“ Nhơn dịp lễ kỷ niệm ngày mất của Ngài Lê Văn Trung, Giáo Tông của Đạo Cao Đài (*), Tòa Thánh Tây Ninh  tổ chức đại lễ trong ba ngày : 8, 9 và 10 tháng 11 vừa qua, có hơn 5 ngàn tín đồ dự lễ.
“ Một Đại hội gồm : Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh được tổ chức vào hai ngày 11 và 12 tháng 11, sau khi chấm dứt các buổi lễ, để giải quyết vấn đề khó khăn là việc kế vị Ngài Lê Văn Trung.
“ Hội Nhơn Sanh và Hội Thánh đồng thanh tín nhiệm giao chức vụ nặng nề nầy cho Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Tất cả kiến nghị tín nhiệm đều được Đại hội biểu quyết đồng ý.
“ Như thế, một vấn đề gây ra sự chú ý nhiều lần của công luận đã được giải quyết  đúng qui tắc.
“ Chúng tôi mong rằng, dưới quyền lãnh đạo của vị Giáo Tông mới, Đạo Cao Đài sẽ tiến bước êm đềm.
(*) Chú thích của Dịch giả: Gọi Ngài Lê Văn Trung là Quyền Giáo Tông (Pape intérimaire) thì đúng hơn, vì Ngài chỉ nắm quyền Giáo Tông hữu hình tại thế. Giáo Tông chánh thức của Đạo Cao Đài là Đức Lý Thái Bạch, nắm cả hai quyền : vô vi và hữu hình.
Tờ báo còn thông báo các buổi lễ:
“Nhơn dịp lễ Kỷ niệm ngày mất của Ngài Lê Văn Trung, Quyền Giáo Tông của Đạo Cao Đài, các cuộc lễ lớn diễn ra trong các ngày : 8, 9, 10 và 11 tháng 11 tại Tòa Thánh Tây Ninh. Đây là  chương trình các buổi lễ :
“ Ngày 8 tháng 11, lúc 14 giờ : Đại lễ mãn tang tại Giáo Tông Đường.
“ Ngày 9 tháng 11, lúc 19 giờ : Thỉnh linh vị vào Đền Thánh; 20 giờ : Cúng tế.
“ Ngày 10 tháng 11, lúc 19 giờ : Thỉnh linh vị ra Đại Đồng Xã.
“ Ngày 11 tháng 11, lúc 6 giờ : Lễ Cúng tế trước Cửu Trùng Thiên. Điếu văn của các Chức sắc Đại Thiên phong.”
 Nhơn dịp Lễ Kỷ niệm Khai Đạo lần thứ 10, tờ báo La Presse indochinoise [Báo chí Đông Dương] (ngày 3-9-1936) nhắc lại cho công chúng Đông Dương biết rằng, Đạo Cao Đài hay là Phật giáo canh tân :
“ Đạo Cao Đài, một Tân tôn giáo phát sanh tại Đông Dương vào năm 1926, đã ban cho những người được khai tâm đầu tiên những bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn, Đấng Cao Đài, dưới hình thức là những thông điệp huyền bí mà các đồng tử đã nhận được một cách thận trọng để lưu truyền lại cho đời sau.
“ Vật làm thông công môi giới của Thần linh học cho phép tiếp nhận nhiều thông điệp phát ra từ các bậc đại hiền triết của thời cổ, từ cõi vô hình, giáng điển xuống Tòa Thánh Tây Ninh (Nam Kỳ) một cách đều đặng.
“ Các tín đồ của Đạo Cao Đài càng lúc càng nhiều, được dạy cho biết các kiến thức về giáo lý và luật pháp  của Ba Đấng Giáo chủ : Đức Phật Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử.
“ Những điều giáo huấn tổng quát của Phật giáo là : không sát sanh, không trộm cướp, không  muốn vợ của người khác, không làm chứng dối, không uống rượu.  Phật giáo còn tiến rất xa trong việc tìm đến sự toàn thiện, vì Phật dạy  thương yêu kẻ thù, lời giáo huấn mà phương Tây của chúng ta xem như là một chuyện buồn cười, bởi vì nó đem đến một cảnh tượng đau buồn của lòng thù hận, của sự hung dữ, của sự trả thù mà lịch sử đã ghi lại.
“ Lão giáo mà giáo lý lấy trọn trong sách Đạo Đức Kinh, khai triển song song đến các tư  tưởng triết lý tuyệt diệu của Thiên Chúa giáo, mặc dù Lão giáo xuất hiện trước Thiên Chúa giáo gần 600 năm. Lão giáo dạy tôn thờ sự thật và giữ gìn đức tánh. Điều nầy chứng tỏ rằng người ta có thể gặp nơi các quốc gia (Á đông) xem như còn mọi rợ đối với một Âu châu già nua của chúng ta, sự thực hành những câu phương ngôn dịu hiền và nhân từ, cốt yếu giữ gìn sự hòa hợp và lòng lương thiện giữa loài người.
“ Nho giáo (Khổng giáo) mà những lời giáo huấn không phản đối tinh thần khoa học tân thời của chúng ta, luôn luôn tỏ ra lo âu là muốn nâng cao nhơn loại lên trên các thú tánh bằng cách mở mang phát triển các phẩm chất tốt đẹp, tạo ra một tinh hoa tinh thần và trí thức, để dẫn dắt đến hạnh phúc cho những người bất lực, dốt nát, bởi họ thiếu các yếu tố ban đầu về sự thông minh, lý trí và hiểu biết.
“ Giáo lý của Ba Đấng Giáo chủ thêm vào tôn giáo lòng bác ái và nhân từ của Đấng Christ, sự kính trọng người chết và sự thờ cúng tổ tiên.
“ Tóm lại, Đạo Cao Đài là bằng chứng của lòng khoan dung đại độ đối với tất cả các tôn giáo hiện hữu, bởi vì nó bao gồm tất cả, nó tự cho mình có mục đích  là chống lại tà giáo, gieo vào dân chúng lòng thương yêu điều thiện và thương yêu vạn vật của Thượng Đế, thực hành đạo đức, học tập sự yêu mến công lý và sự nhẫn nhục, phát hiện về luật quả báo các hành động của con người sau khi chết, sự tẩy trược tâm hồn.
“ Đối với tất cả lời chỉ dẫn, gởi đến cho :
“ Ngài Phạm Công Tắc, lãnh đạo cao cấp của Đạo Cao Đài, Tòa Thánh Tây Ninh.
“ Ông Đặng Trung Chữ, Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo tại Nam Vang.
“ Ông Trần Quang Vinh, Phó Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo tại Nam Vang.
“ Bà Batrya (Trần Kim Phụng), Giáo Sư, Chủ trưởng Nữ phái tại Nam Vang.
                           Hiệp Thiên Đài :
“ Ô Cao Đức Trọng, Tiếp Đạo (đồng tử) tại Nam Vang.
                             Tại Âu Châu :
“ Ông Gabriel Gobron, Tiếp Dẫn Đạo Nhơn tại nước Pháp của Phật giáo canh tân, được giải thưởng của Hàn Lâm Viện Pháp, ở số 12 đường Thiers, Rethel (Ardennes), Pháp.
 “ Thư từ quốc tế : tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha.
                      Những đại diện khác :
“ Ông Charles, cựu Giám đốc Sở Dân sự Đông dương, số 8 công trường P. -Royal, Ba-lê.
“ Ông Henri François, Văn khố thành phố Nantes (Loire-Inférieure) Pháp.
“ Ông Gabriel Abadie, Giáo Hữu, Sở Tư pháp, Hà Nội.
“ Ông Delagarde, Lễ Sanh, P.T.T. Hà Nội.
“ Ông Bùi Quế, Lễ Sanh, làng An Cựu, thôn Nhi Tây, Huế, Việt Nam.
“ Ô. Mai Văn Nghĩa, Lễ Sanh,130 đường Huế, Hà Nội
“ Nguyễn Văn Khỏe, Lễ Sanh, Chánh Thơ ký Sở Thương chánh, vv . . .
Nhiều nhựt báo loan tin : “ Đại lễ của Đạo Cao Đài Kỷ niệm Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung” :
“ Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh từ mấy ngày nay rất nhộn nhịp. Hàng ngàn tín đồ ráo riết làm việc để hoàn thành các việc chuẩn bị lễ Kỷ niệm người quá cố cho xứng đáng.
Cuộc lễ bắt đầu từ thứ năm ngày 26 tháng 11 lúc 19 giờ, kéo dài trong 3 ngày. Hội Thánh sẽ thiết lễ. Cũng trong dịp nầy, sự tự do thờ cúng mà chủ nghĩa tự do của Chánh phủ Pháp được ban cho tôn giáo. Tất cả địa phương của Đạo Cao Đài ở Đông Dương đều được kêu gọi về Tòa Thánh dự lễ.
Một chương trình vĩ đại được tiên liệu : Đốt đuốc, cộ hoa rực rỡ, pháo bông.  Một đại lễ sắp diễn ra.
Người ta quả quyết rằng, đây là cuộc lễ lớn nhứt từ khi lập Đạo Cao Đài.”
Tờ báo La Vérité [Sự thật] (ngày 20-11-1936) báo cáo những sự việc vui vẻ bằng từ ngữ : “ Nơi Tòa Thánh Cao Đài, 20 ngàn tín đồ làm lễ Kỷ niệm Khai Đạo lần thứ 10 và lễ mãn tang Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.”
“ Ngày 28 tháng 11, đặc phái viên của chúng tôi gởi về : Từ tất cả các nơi ở Nam Kỳ, Cao Miên, cả vài bộ tộc thiểu số (Mọi), hàng ngàn tín đồ đi đến Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh vào các ngày nầy để dự lễ Đại Tường và tiếp theo là lễ mãn tang Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.
“ Đúng 2 năm, Đức Quyền Giáo Tông của Đạo Cao Đài từ trần - dùng một từ ngữ tỏ ý tôn kính : qui Thiên.
“ Sự chia rẽ trong Đạo Cao Đài thành hai phe lớn đối nghịch nhau sắp hoàn toàn tiêu hủy nhơn dịp bổ nhiệm người kế vị. Nơi Thánh địa, Hội Thánh thận trọng chỉ định Ngài Phạm Công Tắc vào chức vụ lãnh đạo tối cao tạm thời, nhưng không cho một danh hiệu chánh thức của tôn giáo.
“ Còn ở Mỹ Tho, ông Nguyễn Ngọc Tương được ban cho danh hiệu Giáo Tông bởi vài trăm tín đồ. Vị Giáo Tông mới nầy được bổ nhiệm như thế, được hộ tống bởi một đám đông ủng hộ, đến Tòa Thánh Tây Ninh để nhậm chức và cũng để tham dự lễ Đại Tường.
“ Cổng vào Tòa Thánh của Đạo Cao Đài bị cấm, không cho vị đứng đầu chi phái Mỹ Tho vào, bởi vì chỉ có nơi Thánh địa, lời nói chơn thật và thiêng liêng (của Đức Chí Tôn) truyền dạy các Chức sắc cao cấp của Đạo do cơ bút của đồng tử. Phải chăng Đấng Cao Đài đã chỉ định Ngài Phạm Công Tắc vào phẩm vị lãnh đạo tối cao của Đạo ?
 “ Người ta hiểu rằng, từ đây, tại sao các vị lãnh đạo Cao Đài tổ chức lễ Đại Tường huy hoàng hiếm có. Những cộ hoa đi diễn hành trong tỉnh lỵ Tây Ninh không bị Tỉnh trưởng ngăn cấm. Chúng tôi nghĩ rằng, sự ngăn cấm đó không chánh đáng, bởi vì tất cả đều diễn ra trong bình yên ở khắp nơi. Cộ hoa, rước đuốc, pháo bông trong 3 ngày lễ làm tăng thêm sự vui mừng của dân chúng. Ánh sáng đèn điện rực rỡ làm cho vùng Thánh địa có vẻ là một thành phố nhỏ náo nhiệt.
“ Chúng tôi có gặp các vị lãnh đạo cao cấp nhứt. Người đứng đầu hiện thời của Đạo mà chúng tôi trước đây đã sát cánh cùng nhau trước khi cải sang Đạo Cao Đài, đã  làm việc trong Sở Thương chánh, trong lúc đó, người bạn thời niên thiếu của chúng tôi là Lê Thế Vĩnh, Trưởng ban Nghi lễ, đã chiến đấu như là “Thanh niên Việt Nam” để cải thiện số phận của dân tộc Việt Nam.
“ Chiều nay là lễ mãn tang Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, những bài diễn văn sẽ được đọc lên cho chúng ta biết về tình hình hiện tại của nền Đạo Cao Đài, những khuynh hướng, những khả năng và về tương lai của  Đạo.
“ Người ta biết rằng, Đạo Cao Đài phát sinh từ năm 1926, dưới sự  thúc giục của phong trào xây bàn  nhập cảng từ nước Pháp. Nhưng có điều quần chúng không biết là có một người Pháp lai, độc giả trung thành của Léon Denis và Allan Kardec, đã bỏ tiền túi ra để đi truyền bá những tư  tưởng về Thần linh học trong thuộc địa, việc nầy góp phần không ít vào sự phát triển nhanh chóng lạ thường của nền Tân tôn giáo, đặt trên cùng một hàng Bốn Đấng Giáo chủ : Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca và Jésus Christ. Chủ nghĩa tổng hợp lạ thường nầy giải thích rõ hơn nữa sự thành công mau lẹ của phong trào bên cạnh những người VN và cả người Cao Miên nữa.
“ Chánh phủ Pháp có thể lo sợ trong một lúc nào đó về nền Tân tôn giáo phát sinh chậm trễ giữa thế kỷ 20 nầy, nhưng về sau, những nhà lãnh đạo tôn giáo của chúng ta được phép truyền đạo nơi Bắc Kỳ, những phái bộ truyền giáo Cao Đài được đi Pháp, Trung hoa.
“ Sự biểu lộ hiện thời tại Tây Ninh, phải chăng là điểm khởi đầu cho sự củng cố và bành trướng phong trào, đã bị ngưng trệ trong suốt năm qua ?
“ Phải chăng các vị lãnh đạo tôn giáo Cao Đài nuôi tham vọng trở thành những nhà lãnh đạo tinh thần của một phần Viễn Đông nhờ vào sự phát triển của Đạo Cao Đài ?
“ Một tương lai không xa sẽ cho chúng ta cái chìa khóa của những bí ẩn nầy.”
                                             SROK - SAROU - (Đặc phái viên)
LỄ KHÁNH THÀNH
Thánh Thất Nam Vang
Lễ Khánh Thành long trọng Thánh Thất Nam Vang được tổ chức vào thứ bảy, ngày 22 tháng 5 năm 1937, trong đó bài diễn văn của Giáo Sư  Thượng Vinh Thanh, Phó Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài (Phật giáo canh tân)  là phần chánh. (Người ta tin rằng ông Vinh là François Hugo tái kiếp).
Sau đây là vài đoạn trích lục dài của bài diễn văn trên:
“ Khi Hội Thánh chỉ định tôi mở lời hôm nay nhơn dịp chúng tôi sắp khánh thành Thánh Thất đầu tiên được xây dựng trong thủ đô Vương quốc Cao Miên, đã từ lâu tôi ngần ngại nhận lãnh cái danh dự đặc biệt nầy, sợ rằng không đủ sức cho một sứ mạng nhiều khó khăn và tế nhị.
“Phải cần có sự khẩn khoản của tất cả các hiền huynh trong Hội Thánh, đặc biệt của vị niên trưởng, Giáo Sư Thượng Bảy Thanh, là người đáng kính của chúng tôi, có công đầu trong Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân, đã chỉ định tôi xuất hiện hôm nay trước đông đảo quan khách dễ cảm kích và được chọn lựa.
“Nói tiếng Pháp còn chưa chắc chắn và nhất là không quen lên diễn đàn, tôi yêu cầu quí vị khoan hồng đối với tôi.
“ … Xin quí Bà và quí Ông tin rằng, trong ngôi nhà nầy, quí vị sẽ tìm được sự hoà bình và hòa hiệp, sự khoan dung rộng rãi nhứt, ở đây không có một tiếng nói nào có tính cách bất hòa được thốt ra, tất cả mọi người nơi đây đều có bổn phận thương mến nhau như anh chị em ruột, vâng theo một luật pháp duy nhứt của Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa, Đại Từ Phụ của tất cả, không phân biệt chủng tộc và quốc gia.
“ Chúng tôi chọn ngày khánh thành Thánh Thất đầu tiên nơi đây là ngày Kỷ niệm thoát xác của một người Pháp vĩ đại, một nhân vật vĩ đại : đó là Victor Hugo, mà từ năm 1927, Ngài là Chưởng Đạo thiêng liêng đáng kính mến của chúng tôi. Chúng tôi  muốn bày tỏ lòng biết ơn nước Pháp, nước đã sanh ra một nhà thơ vĩ đại mà chúng ta đã học và yêu mến khi còn trên ghế nhà trường Pháp, một nước Pháp anh hùng, hào phóng và nhân đạo.
“ Chính năm 1927, vị lãnh đạo cao cấp của Đạo Cao Đài hiện nay, Ngài Phạm Công Tắc, đã đến xứ Cao Miên và chơn linh Victor Hugo giáng đàn trước tiên nhờ việc xây bàn, kế đó là nhờ một miếng ván nhỏ làm cơ và sau cùng là cây Ngọc cơ. Nhờ đó thiết lập được Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài mà chơn linh Victor Hugo trở thành Chưởng Đạo thiêng liêng  của chúng tôi. Nhờ những lời giáo huấn của Ngài, chúng tôi truyền bá giáo lý mới, trước tiên là trên lãnh thổ Cao Miên, kế đó sang Pháp, rồi Lào, sau đó là Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
“ Tiếp theo xin bày tỏ lòng kính trọng đến những vị thường xuyên vận động nơi nước Pháp hay nơi Đông Dương để binh vực Đạo Cao Đài như  : Luật sư Roger Laseaux, Luật sư Lortat Jacob, Thủ Tướng Albert Sarraut, các Thống sứ Richome, Silvestre, Thibaudeau, các Dân biểu  H. Guernut, Marius Moutet, E. Outrey, Paul Ramadier, Marc Rucart, Jean Piot, J.-M. Renaitour, M. Voirin, A. Philip, Cô Marthe Williams, Trung tá Alexis Métois, Félicien Challaye, ông E. Tozza, Gabriel Abadie de Lestrac, Jean Laffray (Chủ nhiệm báo La Griffe (móng vuốt), Charles Bellan, cựu Thống sứ Pháp tại Cao Miên, vv . . .  Chúng tôi xin cáo lỗi sự thiếu sót ngoài ý  muốn trong bài tường trình mau lẹ nầy.
“ Như vậy, chúng ta họp nhau đây trong sự long trọng là để khánh thành “Ngôi nhà của Thượng Đế” tại Nam Vang.
“ Thời gian đã qua khá xa, nơi đảo Phú quốc nằm trong vịnh Thái lan, Đấng thiêng liêng giáng điển giống như đã giáng điển nơi đảo Jersey, đối diện cái vô tận của biển cả, đối diện cái vô cùng của bí ẩn tâm linh và số phận con người, qua các cuộc xây bàn của Bà De Giradin và Victor Hugo.
“ Thời gian cũng đã khá xa, Đấng thiêng liêng giáng điển xuống những nhóm nhỏ gia đình ở Sài Gòn, dẫn đến sự nhập đạo của Ngài Lê Văn Trung và Ngài trở thành nhà lãnh đạo cao cấp đáng kính của Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân (Đại Ân Xá kỳ ba của Thượng Đế ở Đông phương).
“ Từ năm 1919, nhưng nhứt là từ năm 1925, phong trào của chúng tôi không ngừng trở nên vững vàng và chiếm được lòng tín ngưỡng và những tâm hồn mới trên khắp thế giới.
“ Quả thật, - giống như tất cả những cái mới nổi bật của thế giới - Đạo Cao Đài đã gặp phải chủ nghĩa hoài nghi, sự nhạo báng, sự ngờ vực, về những biểu tượng của Đạo có ý nghĩa nhứt: Thiên Nhãn mà người ta thấy trong nhóm Thông Thiên học và Triết lý học, chữ Vạn có nguồn gốc từ tất cả chủ nghĩa biểu tượng và từ tất cả khoa học bí truyền của nền văn minh thế giới. Những biểu tượng ấy đáng kính nhứt của chúng tôi đã bị chế nhạo hay bị buộc tội vô căn cứ, vì lý do dốt nát và không hiểu biết của những kẻ phàm tục, chỉ thấy chúng tôi ở mặt ngoài.
“ Một câu tục ngữ xưa của Pháp : Nếu anh  muốn nhổ cỏ dại, trước hết anh phải bước vào vườn.
“ Nhưng nhứt là về căn bản tâm linh, tại sao lại sợ hãi gọi con mèo là con mèo và Rollet là một tên bịp bợm, theo những câu thơ bất hủ của Boileau ?  Nhứt là về căn bản Thần linh học của phong trào chúng tôi là đầu đề của những chế giễu dễ dàng nhứt và dai dẳng nhứt. Ở đây, chúng tôi không biện hộ cho Thần linh học tân thời. Mặc dầu bị tấn công không ngừng từ ba phần tư của thế kỷ, vấn đề Thần linh học không ngừng thu hút những nhà bác học nổi tiếng, mà chúng tôi xin đơn cử một thí dụ thôi, như Ngài Olivier Lodge, nhà vật lý nổi tiếng thế giới, Viện trưởng Đại học Birmingham, hội viên Hàn Lâm viện Hoàng gia Anh quốc.
“ Thần linh học không ngớt lan tràn đến  các đảo như Porto Rico và Cuba (nước mà Thần linh học tỷ lệ với dân số, nơi đó những đài phát thanh vô tuyến đã phát ra đều đặn những chương trình Thần linh học), toàn nước Ba Tây, quê hương của Thánh kinh, nơi đó có 8 triệu người tự nhận theo Thần linh học (200 ngàn tại Rio-de-Janeiro). Thần linh học không ngừng lan tràn đến các Đại học đường - một sự kiện khó tin - bởi vì Utrecht, Leyde, Belgrade, Lund, Buenos-Ayres, Londres, nhiều phân khoa đại học Mỹ đã có giảng đường dành cho Thần linh học thực nghiệm.
“ Sau cùng nó không ngừng được thiện cảm ở tư  tưởng gốc trong thời đại của chúng ta, bởi vì sau khi nó quyết định một cách không thể chối cãi được tính chất tiên tri sứ mạng và sự nghiệp của Victor Hugo, nó đã ảnh hưởng đến những khảo cứu của Bác sĩ Hans Driesch, Giáo sư Đại học Leipzig, lý thuyết gia Đức, về thuyết Tân sinh lực và những thử nghiệm sáng chói của Allan Kardec và của Bergson nữa.
“ Còn bao nhiêu chuyện nữa mà chúng tôi có thể nói lên để binh vực sự kiện Thần linh học, nhưng chúng tôi cần chỉ ra rằng, sự dốt nát khi không có định kiến, rất thường vấp phải sự thiếu hiểu biết đau khổ của con người. Một hiền triết Anh nói rằng : Thương hại cho những người nào không giữ được nụ cười trước những lời chỉ trích nông cạn !
“ Vả lại, chúng tôi đã giữ kín cây ngọc cơ, để nhớ đến  Giáo hội Công giáo, những nhà Thần linh học huệ trí, rằng việc thực hành Thần linh học (Cầu cơ) có thể đạt được kết quả tốt đẹp khắp nơi trên địa cầu, cái điểm khởi đầu của một thời đại mới của con người : thời đại Thần linh học; nhưng nó cũng có thể dẫn dắt những người ngây thơ không thận trọng, những kẻ hư đốn, đến những kết quaû rất tai hại.  (Có nhiều nhóm Thần linh học trong vùng băng giá ở Alaska, trong những trang trại thuộc đồng cỏ hoang ở Argentine, trong cảng thiên nhiên tươi tốt ở Ấn Độ).
“ Xưa kia, Thánh Paul khuyên bảo các môn đồ nên nhận thức rõ các chơn linh. Và đây là Giáo hội Anh giáo lúc bấy giờ bị cả triệu tín đồ đào ngũ, đã cho một số giáo sĩ  tiếp xúc với các hội Thần linh học để củng cố lại đức tin bởi chứng cớ, để củng cố tôn giáo bởi khoa học, để liên kết trong chiều hướng mới được kêu gọi bởi nhơn loại. (Một người lớn trên bảy  còn lui tới ở Giáo hội Anh giáo).
“ Nhưng, cái gì là đặc điểm của Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân ?  Đó không phải là căn bản thực nghiệm tâm linh hay thần linh, sự thông công giữa người sống và người chết, tình huynh đệ vẻ vang cảm động của thế giới hữu hình và vô hình, mà là cái năng lực tổng hợp các giáo lý mà chúng tôi đã thực hiện một cách đúng đắn bằng cách tôn thờ các Đấng Thần linh Á châu  lẫn các Đấng Thần linh Âu châu.
Không một Ngôi nhà Thượng Đế nào sánh được với Ngôi nhà Thượng Đế của chúng tôi, bởi vì người Âu châu cũng như người Á châu, người có tín ngưỡng cũng như người không tín ngưỡng, đều có thể nâng cao linh hồn của họ lên đến cái mức hy vọng ưa thích nhứt của họ, kẻ thì tôn thờ Đức Chúa Jésus, người thì tôn kính Đức Phật Thích Ca, kẻ thì chiêm ngưỡng Đức Khổng Tử (như những người tự do tư  tưởng ở Tây phương).
“ Hãy nói cho chúng tôi biết, hiện nay quí vị thấy ở nơi nào, có sự tổng hợp tâm linh đó ?  trong cái thế giới bị chia rẽ bởi vật chất, nóng sốt bởi thù hận, đổ máu bởi chiến tranh.
“ Không một nơi nào có thể hơn Thánh Thất Cao Đài, vì nơi đây, người ta làm việc trong tình huynh đệ của con người, trong tình thân hữu của các chủng tộc, trong sự liên hiệp các lục địa trong một tập hợp rộng lớn của con người, viết lên lá cờ lịnh hai chữ : Tâm linh - Hòa bình, sáng chói của những người thiện tâm.
“ Thế nên chúng tôi dám nói thẳng với người phương Tây rằng: Chúng tôi vì hòa bình.  
Hòa bình, đối với chánh quyền và những lãnh tụ của đời, họ có sứ mạng thường bạc bẽo và khó khăn để làm thỏa mãn sự buông thả dục vọng, trái ngược của con người. Hòa bình đối với những quốc gia láng giềng, hòa bình đối với người ngoại quốc, bởi vì chiến tranh đem lại quá nhiều điều ác, để không là mê tín hung tợn hay là tội ác của quỉ, với tiêu đề Pháp ngữ: Hòa bình liên kết của một nền hòa bình không thể phân chia, hòa bình bởi hòa hợp, nằm trong công thức của chúng tôi, mặc dầu trong thời buổi hắc ám. Đó là cái nghĩa của sự tổng hợp tâm linh của chúng tôi.
Trở qua Âu châu, quả thật có một phiền trách nhỏ là Đạo Cao Đài đã loại ra Mahomet và Hồi giáo khỏi các Thánh Thất. Về phần chúng tôi không có sự loại trừ ấy.
Và chúng tôi cần lập lại nơi đây, một trong những giáo huấn thần bí của Hồi giáo để nhận xét rằng, không một người Cao Đài nào không từ chối nhận biết đó, bằng giai thoại của thuyết thần bí Hồi giáo, lịch sử  từ sự sanh ra của chính mình đến thiêng liêng, từ sự đảo nguợc giá trị  tâm hồn người tu :
Một môn đồ đến trước cửa nhà của thầy và gõ cửa.
Im lặng. Người ấy gõ cửa lần nữa.
Một tiếng nói từ bên trong phát ra :
- Ai đó ?
- Tôi  (Bản ngã)
Im lặng. Cửa không mở . . . . .
Sau đó, người môn đồ lại đến trước nhà thầy lần nữa và gõ cửa. Một tiếng nói từ bên trong phát ra :
- Ai đó ?
- Anh  (Phi ngã hay Vô ngã)
Và lần nầy cửa mở.
Thật ra, một tôn giáo biết truyền bá cái chơn lý phổ quát như thế, một tôn giáo đã dạy các tín đồ những câu tuyệt diệu: “Tôi không là người Hồi giáo, không là Thiên Chúa giáo, không là Do Thái giáo, tôi là bạn thân của Thượng Đế”.
Tôi nói: Thật ra, tôn giáo nầy không phải là của riêng phần chúng tôi, là của một âm mưu nào, là của một phép phù thủy nào; rằng những người Hồi giáo ở Ấn độ, rằng những người Hồi giáo ở Pháp, xin hãy tín nhiệm chúng tôi và hãy an tâm cho tất cả điều thiện.
Và vì chúng tôi vừa nói đến người Pháp Hồi giáo có xây cất Thánh đường Hồi giáo tại Ba-lê, nơi đó mỗi ngày năm lần vang lên từ tháp chuông cao, tiếng gọi của vị tu sĩ báo giờ cầu nguyện, làm chúng tôi cảm thấy nhẹ nhàng, hôm nay xin cảm tạ tận đáy lòng, đầy tình chơn thật và biết ơn nước Pháp của Đạo Cao Đài, nước Pháp mà với tinh thần độ lượng, với ý chí hòa hiệp, đôi tay hữu nghị luôn luôn giúp đỡ những kẻ yếu thế mà họ không thể tự mình thực hiện, cho phép chúng tôi hưởng được những gì mà chúng tôi hưởng được, giúp đỡ chúng tôi trở nên cái gì mà chúng tôi sẽ được.
 Tại nước Pháp nầy, bao gồm Đại Ân Xá kỳ ba của Thượng Đế ở Đông phương, cái nền tảng tâm linh mà khoa học có thể đạt đến sự phổ quát toàn cầu bởi tính chất tổng hợp tôn giáo mà nó liên kết và thu gọn trong tình huynh đệ hằng hữu, trong hòa bình và năng động.
Tại nước Pháp nầy, khuyến khích và tán trợ một nguồn hy vọng mới trên thế giới mà hôm qua còn chào đón, không chỉ tờ tuần báo như La Nature (Thiên nhiên) ở Ba-lê, tờ Religio của La Mã, và tờ Reformator ở Rio-de-Janeiro.
Tại nước Pháp nầy luôn luôn sẵn sàng tán dương và ca tụng những giá trị tinh thần có tính phổ quát, xây dựng và nhân đức. Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân, từ vị lãnh đạo cao cấp và từ Hội Thánh đến các tín đồ thấp kém, hôm nay bày tỏ lòng biết ơn vô tận nước Pháp.
Làm việc với tinh thần tổng hợp, trong cái nghĩa phổ quát, chúng tôi có ý thức góp công như một người Pháp, được gần gũi hơn nữa với tâm hồn người Pháp, với những điều đó chúng tôi tin tưởng có được những tương quan bí mật huyền diệu mà sự thông công giữa người sống và người chết không thể tùy thuộc chúng tôi, mà sẽ được làm mạnh thêm và thí nghiệm ở tương lai.
Trước nhận định lạc quan đó, chúng tôi mới dám bày tỏ điều mong ước quí báu nhứt của chúng tôi đối với mọi người là : nước Pháp tự do, đại lượng, giúp đỡ chúng tôi mở rộng việc hành thiện với tất cả cố gắng trên tất cả dân Pháp hay dân bảo hộ, không phân biệt, bởi vì trước sự đói khát của tâm hồn, phải có những khả năng tinh thần để cân bằng cho tất cả. Nơi đó là công bình, nơi đó là chánh trực.
Tất cả có thể tự thực hiện đến tối đa và tất cả cũng có thể hướng đến tất cả để làm việc tại lâu đài thiêng liêng, lầu đài của tâm hồn, theo câu nói rất đẹp của Nữ Thánh Thérèse, trong con người bản xứ phù du mà bánh xe đời sống ràng buộc tạm thời số phận vào những cõi Trời, nơi đó địa cầu của chúng ta chỉ là một cục đá giữa hàng tỷ hòn đá khác trong không gian vô tận. . . . .Trước viễn cảnh vô tận ấy, những giới hạn hẹp hòi  làm chậm lại một cách đau khổ sự phát triển của tâm hồn mà sự thức tỉnh chờ đợi một tia sáng hay một ánh lửa ?  Vì vậy, chúng tôi tin tưởng rằng nước Pháp sẽ hoàn toàn tin cậy chúng tôi và ban cho chúng tôi những quyền hành giống như các tôn giáo khác, để mời đến dự bữa tiệc có nhiều thức ăn thiêng liêng, những huynh đệ của chúng tôi mà họ chưa đến được với chúng tôi hay chúng tôi chưa đến được với họ.
Nước Pháp, trung thành với truyền thống cao cả, trước hết chúng tôi xin cảm tạ, đã cho chúng tôi phụng sự nhơn sanh, đó là bổn phận đầu tiên và lớn nhứt của tất cả tín đồ Cao Đài.
Cuộc lễ khánh thành nầy gây được nhiều tiếng vang trong giới báo chí Đông Dương.
Nhựt báo La Presse indochinoise ngày 22-4-1937 nói về cuộc viếng thăm Thánh Thất Cao Đài Nam Vang :
“ Thánh Thất Cao Đài Nam Vang tọa lạc gần góc đại lộ Pasquier và đường Verdun. Khi xưa, cách nay 8 năm, Thánh Thất nầy chỉ là một ngôi nhà lá đơn giản làm chỗ trú ngụ cho những nhà truyền giáo đầu tiên.
Sau nhiều cố gắng đáng khen của việc truyền giáo, số tín đồ Cao Đài tại Nam Vang có được hơn hai chục ngàn người nam nữ, trong đó đếm được nhiều người Âu châu và cả ngàn người Tàu.
Nhờ lòng hy sinh và thiện tâm của tất cả tín đồ mà ngôi đền thờ hôm nay trở thành một tòa nhà lộng lẫy.
Lễ Khánh Thành diễn ra ba ngày : 21, 22, và 23 tháng 5, cũng trong dịp nầy, lễ Kỷ niệm hàng năm của Victor Hugo được cử hành. Nghi lễ của hai cuộc lễ hợp lại làm một làm cho cuộc lễ trở nên vĩ đại.
Những vị lãnh đạo cao cấp của Đạo Cao Đài Tây Ninh như Ngài Phạm Công Tắc, Bà Huyện Xây (?) sẽ hiện diện trong cuộc lễ. Ông Đặng Trung Chữ, lãnh đạo Cao Đài tại Nam Vang, hẹn gặp chúng tôi tại Thánh Thất hôm nay, nhưng ông bị gọi cấp tốc đi Châu Đốc nên ông Hương thay thế, hướng dẫn chúng tôi đi viếng Thánh Thất mới vừa xây dựng lại. Ông Hương, người ốm với gương mặt trái xoan, trán cao, có một chòm râu đen dưới càm, tượng trưng hình dáng của một kiểu mẫu Chức sắc của Đạo Cao Đài.
Rất tháo vác, ông đưa chúng tôi đi viếng Thánh Thất vừa được trang trí mới và cho chúng tôi những lời giai thích thỏa đáng. Nơi cửa lớn vào đền thờ, một bức hình lớn của Victor Hugo với dáng điệu cổ điển của nhà tư  tưởng, làm cho người ta chú ý ngay. Bên cạnh Ngài trên cùng một bàn thờ  là hình của Bác sĩ Tôn Dật Tiên, người cha của cách mạng Trung hoa. Một vị tượng trưng người canh tân của Đạo Cao Đài, vị kia là người truyền đạo tuyệt vời.
Ở giữa là chánh điện trang nghiêm, sắp đặt một cách giản dị. Không trang trí dư thừa, có một quả địa cầu bằng giấy, một Con Mắt vẽ lên trên, kế đó, theo thứ tự đẳng cấp, sắp đặt các tượng của Đức Phật Thích Ca, Đức Chúa Jésus, các vị Thánh. Bên phải của chúng tôi là tượng Quan Công với gương mặt đỏ tươi đang đọc sách, bên trái của chúng tôi là tượng Đức Phật Quan Âm đang cầu nguyện. Cuối cùng, đối diện với chánh điện, có một tấm cẩm thạch lớn treo trên tường, khắc các tên : Moutet, Guernut, Albert Sarraut, Félicien Challaye, vv. . .
… Bên cạnh tôn giáo nói riêng, tín đồ Cao Đài còn chăm lo việc giáo dục trẻ em. Chúng tôi viếng một lớp học, điều khiển bởi một giáo viên trẻ, có độ 20 học sinh, đang đọc bài học thuộc lòng với giọng lớn và nhịp nhàng đáng khen. Tất cả đều là con em nhà đạo. Ông Hương nói với chúng tôi trong sự thỏa mãn, vừa đưa chúng tôi ra về.
Vừa rời khỏi Thánh Thất và người hướng dẫn, chúng tôi có cảm tưởng rằng những người điều khiển Đạo Cao Đài tại Nam Vang có công rất nhiều cho sự đắc thắng của nền đạo, những kết quả đạt được là bằng cớ tốt nhứt cho công trình bền vững của họ, nó còn tôn vinh những thành công trong lễ Khánh thành sắp tới.
Tờ báo L’Opinion (Công luận) ngày 24-5-1937 thuật lại Lễ Khánh Thành như sau :
“ Theo chương trình dự thảo, Thánh Thất Cao Đài Nam Vang được khánh thành vào ngày thứ sáu bởi nhiều cuộc lễ, chúng tôi sẽ trở lại những cuộc lễ nầy, bởi vì trên tờ báo hôm nay chúng tôi thiếu chỗ đăng bài tường thuật chi tiết.
“ Tuy nhiên đây là bài diễn văn ngắn của Ngài Thượng Chữ Thanh, Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài trong ngày lễ đầu tiên :
“ Tôi hoàn toàn tri ân quí vị đến dự đông đảo lễ Khánh Thánh Thánh Thất đầu tiên của Đạo Cao Đài tại Cao Miên, mà cũng là ngày lễ kỷ niệm hằng năm của vị Chưởng Đạo thiêng liêng của chúng tôi : Victor Hugo.
“ Nhơn danh Hội Thánh Đạo Cao Đài, tôi xin gởi đến quí Bà quí Ông lời cảm tạ nồng nhiệt nhứt của chúng tôi đối với tấm lòng chiếu cố tốt đẹp của quí vị.
“ Có lẽ quí vị đã biết sự phát sinh của Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân bởi những đường lối công khai khác của chúng tôi. Quí vị đã thấy cái nguồn gốc của nó được phát sinh từ sự liên hiệp của triết lý Đông phương và triết lý Tây phương. Đó là sự tổng hợp tất cả đức tin của thế giới.
“ Chúng ta hiểu thế nào về triết lý Đông phương ?
“ Phải chăng triết lý ấy đến từ những tư  tưởng triết lý cao siêu của tất cả các tôn giáo Á châu mà phần lớn  ở nước Trung hoa, trừ ra Phật giáo thì nguồn gốc ở Ấn độ, nhưng Phật giáo đã có hàng ngàn năm nhập tịch vào Trung hoa và VN.
“Triết lý làm nền tảng đạo đức Á châu  đã cho các nước phương Đông một nền văn minh nhiều ngàn năm mà nước Trung hoa được xem là then chốt. Nước Việt Nam hưởng lợi của nền văn minh nầy một cách rộng rãi.
“Nhờ dụng cụ thông công của Thần linh hoc, chúng tôi nhận ra rằng một sự cải cách tình trạng đạo đức của toàn nhơn loại là cần thiết cho sự tiến hóa tâm linh của nhơn loại.
“Tinh thần của nhơn loại đã đến một thời kỳ, nơi đó những giáo điều và giáo lý xưa không thể thỏa mãn sự bành trướng tự do hơn và siêu việt hơn. Một kỷ nguyên mới dành cho nhơn loại; kỷ nguyên mới nầy cho nhơn loại một chân trời rộng rãi hơn về tự do tín ngưỡng.  Một đức tin mới phải được ban cho nhơn loại. Đức tin nầy phải bao hàm tất cả đức tin hiện hữu, tất cả được bảo tồn trong cái thanh khiết triết học, nơi đó danh từ Cao Đài (Đền thờ cao hay Đức tin lớn của thế giới) được sáng tạo bởi Đấng thiêng liêng.
Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân thực hành sự khoan dung rộng rãi đối với tất cả các tín ngưỡng. Nó tôn kính tất cả tín ngưỡng của con người cũng như  tôn kính cái Tâm của vũ trụ, sự biểu thị của Thượng Đế. Biểu tượng con Mắt trên bàn thờ của chúng ta là hình ảnh của cái Tâm cá nhân và cái Tâm vũ trụ. Sự thờ phượng của chúng tôi là thờ Thượng Đế và nhơn loại. Sự biểu hiện bên ngoài của tôn giáo mới của chúng tôi cốt gom tất cả tư  tưởng về số 1 ban đầu: cái Tâm của chính mình và cái Tâm của Thượng Đế.
“Một tiếng nói trong nội tâm cho chúng tôi biết rằng: nhơn loại là một : một ở quốc gia, một ở tư  tưởng, một ở tôn giáo. Ý nghĩ thống nhứt hoàn toàn nhơn loại trong một quan niệm mới của lòng Bác ái và Công bình, có thể sẽ cho thế giới một nền hòa bình lâu dài để thực hành điều thiện.
“Đạo Cao Đài hay Phật giáo canh tân có khuynh hướng kết tình huynh đệ với tất cả chủng tộc và thống nhứt các tâm hồn bằng cách thuyết giảng cho mọi người nghe về hòa bình và hòa hợp. Đó là những hàng chữ lớn trong Hiến pháp thiêng liêng (Pháp Chánh Truyền) của chúng tôi, đã được thi hành bởi các Chức sắc của Đạo.
“Kính thưa quí Bà quí Ông, quí huynh tỷ thân mến,
“Tôi xin chấm dứt bằng lòng tin và cầu chúc ơn huệ thiêng liêng ban cho quí vị và toàn cả nhơn loại.”
Tờ báo La Presse indochinoise ngày 25-5-1937, với một phóng sự khá dài trình bày chi tiết những giai đoạn quan trọng của cuộc lễ, chúng tôi chỉ trích ra vài nhận thức mới :
“Lễ Khánh thành Thánh Thất Cao Đài Nam Vang, đã cử hành từ ba ngày qua, đạt được thành công rực rỡ trong dân chúng của thủ đô Cao Miên và là dấu ấn của tính chất vĩ đại và long trọng.
“Hàng ngàn khán giả, hàng ngàn tín đồ, đến từ Nam Kỳ và các vùng hẻo lánh của Cao Miên, tràn ngập hoàn toàn ngôi đền thờ và phạm vi của nó trở nên quá hẹp để chứa đám đông không ngừng lớn thêm.
“Vì thiếu chỗ nên người đứng dày đặc dài theo lề đường và trên mặt đại lộ Đỗ Hữu Vị, cũng chứa đầy người bán hàng rong có dịp hốt bạc. Trong lúc đó, không có một biến cố đáng tiếc nào xảy ra trong suốt ba ngày lễ, ban trật tự được đảm bảo bởi các tín đồ Cao Đài làm cho dễ dàng ban trật tự của nhà nước. Với nụ cười trên môi và khá dễ mến, họ hướng dẫn các quan khách và những người hiếu kỳ.
Buổi chiều, quốc kỳ các nước, cờ hiệu, những tấm biểu ngữ, cờ phướn, đủ các màu sắc, tạo thành một trang trí lộng lẫy với ngôi đền thờ sáng rực và những khán đài kết hoa đẹp mắt, nơi đó để nghinh tiếp nhà cầm quyền Pháp và bản xứ, những đại diện báo chí và những quan khách.
Bên trong đền thờ, tại chánh điện có một vẻ trang nghiêm đặc biệt, không loại trừ vẻ đẹp giản dị. Bên phải và bên trái của chánh điện là hai bàn thờ : một thờ Đức Quan Thánh Đế Quân, một thờ Đức Quan Âm Bồ Tát.
Ở bên ngoài, có hai chữ Vạn lớn được chiếu sáng rực rỡ, bao quanh Thiên nhãn mà con ngươi là một bóng đèn điện màu xanh. Đối diện Thánh Thất có đắp lên một cái sân cao gọi là đàn “Bạch Vân”  trên đó có một bàn thờ lớn với chơn dung Victor Hugo ngồi chống khuỷu tay lên bàn, có hai hàng tín đồ mặc áo dài với ba màu : vàng, xanh, đỏ.
Trong một cái sân rộng ở khoảng giữa đàn Bạch Vân và đền thờ, có nhiều nhân vật Pháp, Cao miên, Việt Nam, Trung hoa, Ấn độ, tham dự nhiều trò giải trí khác nhau, đặc biệt là đốt pháo bông, múa lân và múa long mã theo điệu nhạc Tần, nhạc Pháp và Việt Nam, thi đua trổ tài tạo ra những tiếng ầm ĩ  điếc tai.
. . .  Tiếp theo bài diễn văn khai mạc là bài thuyết đạo có ý nghĩa cao siêu của Ngài Phạm Công Tắc, đọc bằng tiếng Việt Nam. Ngài hiện diện từ lúc đầu làm cho cuộc lễ thêm phần long trọng. Sau bài thuyết đạo mà các tín đồ lắng nghe là sự hoan hô rất lâu bởi những thính giả hâm mộ.
Thật vậy, lễ Khánh thành nầy đánh dấu một thành công tốt đẹp của những tín đồ Cao Đài tại Nam Vang, đã tận dụng hết sức mình để làm cho đền thờ, trước đây là ngôi nhà lá bình thường, thành một Thánh Thất xứng đáng và đáng kính phục.
Tờ báo La Dépêche (Tin điển) ngày 26-5-1937 cũng có bài tường thuật khá chi tiết mà chúng tôi chỉ thuật lại vài đoạn  chĩ  rõ những hình dạng mới của cuộc lễ :
“ Trên đại lộ Pierre Pasquier, trong khu phố mà một cộng sự viên của chúng tôi mới đây đặt tên là “Cư xá trên hồ của Nam Vang”, tại vị trí của một ngôi nhà thờ nhỏ bằng lá hiến làm đền thờ cho Phật giáo canh tân, những tín đồ Cao Đài tại Cao Miên xây dựng lên một Thánh Thất lộng lẫy mà kiểu vở giống một cách lạ lùng kiểu vở của Thánh đường Saint-Mexmes ở Chinon. “
Sau khi mô tả chi tiết Đền thờ, chúng ta đọc tiếp :
“ Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã rời Tòa Thánh Tây Ninh đến Nam Vang, ngụ tại một ngôi nhà cất trong phạm vi Thánh Thất, đến giờ hành lễ, Ngài đi đến Thánh Thất, mặc đại phục Hộ Pháp, được che dưới những cây tàn vàng, đi trước Ngài là một dàn nhạc và theo sau là đoàn tùy tùng đông đảo.
Tại cửa vào Thánh Thất, Đức Hộ Pháp được tiếp đón bởi vị Chủ trưởng của Hội Thánh Ngoại Giáo, bao quanh bởi các Chức sắc địa phương. Ngài được hướng dẫn đến một cái bụt danh dự  đặt sau cửa chánh, trên đó, Ngài đứng suốt buổi lễ cúng đàn, tay cầm cây Kim tiên làm cho bọn tà thần yêu quái sợ hãi  lánh xa nơi thờ phượng thiêng liêng.
Khói của các cây nhang cắm trong lư hương bay lên làm như tấm màn trước Quả Càn khôn và các Đấng thiêng liêng. Những Chức sắc mặc áo rộng đỏ, xanh, vàng; những tín đồ trong đạo phục trắng, quì trên những chiếc chiếu theo hàng dài, chiếm gian giữa và hai gian bên của Thánh Thất.
Những người xướng lễ cất cao giọng xướng lên những câu khác nhau trong buổi lễ cúng đàn.”
Khi lễ cúng đàn chấm dứt, Đức Hộ Pháp được đưa về nhà nghỉ với cùng một nghi thức như lúc rước.
Khi ấy, Ngài được nhựt báo La Dépêche mở một cuộc phỏng vấn nhanh :
“ Đức Hộ Pháp là một trí thức tinh anh, Ngài nói và viết tiếng Pháp một cách đáng khen. Ngài đọc nhựt báo La Dépêche khi chúng tôi được ông Khâm Trấn  đưa vào phòng khách. Tức thì Ngài đứng dậy bắt tay chúng tôi như một vị quí phái, và nụ cười trên môi, Ngài chỉ ghế mời chúng tôi ngồi.
E ngại vất vả phải chịu một cuộc phỏng vấn dài, Ngài khởi đầu nói cho chúng tôi biết Ngài là độc giả trung thành của tờ báo chúng tôi và Ngài đặc biệt chú ý đến lần xuất bản nói về Cao Miên, bởi vì trên đất Miên, có hơn 40 ngàn đồng đạo của Ngài.
Đối với Ngài, Đạo Cao Đài là một tôn giáo có năng lực hòa hợp và hòa bình xã hội. Sự tiếp đãi tử tế mà các tín đồ Cao Đài Việt Nam đã thấy được ở Cao Miên, làm cho Ngài cảm động sâu xa. Ngài hết lòng mong ước những động bào của Ngài biết bày tỏ lòng tri ân sâu xa đối với nhà cầm quyền bản xứ và tiếp tục làm việc nơi đây hay những nơi khác trong sự tôn trọng luật pháp và phong tục bản xứ.
Nhưng Ngài tỏ vẻ ngạc nhiên khi thấy rằng, những mệnh lệnh, do hiểu lầm, không nghi ngờ gì nữa, đã ban ra trong dịp các ngày lễ nầy, cấm thần dân của vua Miên Monivong không được tham dự  các trò giải  trí bình dân tổ chức trong chu vi Thánh Thất Cao Đài. . . .
Ông Thượng Chữ Thanh, Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo, trụ sở tại Nam Vang, mở lời trước để thông báo : Bà Lâm Ngọc Thanh, một Chức sắc cao cấp nữ phái của Đạo Cao Đài đã tắt hơi tại Vũng Liêm và yêu cầu những vị hiện diện  một phút mặc niệm. Kế đó Ngài ca tụng những vị sáng lập Đạo Cao Đài ở Nam Kỳ, đặc biệt là công đức của Cố Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung và của một Chức sắc khác rất thương tiếc  là Ngài Cao Quỳnh Cư.
Tiếp theo, Ngài kể lại lịch sử của nền Tân tôn giáo tại Cao Miên, rồi thông báo với cử tọa rằng, lễ Khánh Thành Thánh Thất Nam Vang trùng hợp với lễ Kỷ niệm ngày mất của Victor Hugo, Chưởng Đạo thiêng liêng của Hội Thánh Ngoại Giáo của Đạo Cao Đài.
Ba bài diễn văn đọc bằng tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu và tiếng Cao Miên, trình bày mô phỏng theo bài diễn văn của ông Thượng Chữ Thanh. . . . .
Buổi chiều, lúc 16 giờ 30 phút, lễ rước các Đấng thiêng liêng diễn ra trong châu vi Thánh Thất. Dẫn đầu đám rước là lân, tiếp theo là rồng, đi theo thứ tự  là cộ Đức Phật Di-Lạc mà tượng của Ngài với nụ cười cởi mở điềm nhiên nơi Cực Lạc Niết Bàn, bàn thờ Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, chơn dung của Victor Hugo, tượng Cô Jeanne d’Arc, chơn dung của Cao Quỳnh Cư, của Tôn Dật Tiên, người sáng lập nước Cộng hòa Trung hoa, và sau cùng là một cái cộ lớn có một ngọn núi thiêng, trên đó có tượng của nhà đại hiền Lý Thái Bạch ngự trên ngai, bên phải có Nữ Bồ Tát Quan Âm, và bên trái có tượng của vị anh hùng Quan Công. 
Dưới chân núi ấy là Cố Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung đang ban phép lành cho đám đông.
Đoàn cộ đi trước, theo sau là những dàn nhạc huyên náo, đi biểu diễn ba vòng chung quanh Thánh Thất, đi ngang qua khán đài, nơi đó có Đức Hộ Pháp, các nhân vật và các Chức sắc của Đạo.
Trong một phần của khán đài, chúng tôi để ý thấy nhiều phụ nữ Trung hoa mới nhập môn vào đạo mặc đạo phục trắng như những người Việt Nam, với những cổ pháp và phù hiệu theo phẩm tước.”
Ở bên Pháp tờ báo Le Fraterniste, ở Cao Miên  tờ báo La Vérité ngày 20-10-1937  đăng cảm tưởng tổng quát :
“ Những tranh ảnh của các báo, những ảnh in trên báo, dưới mắt tôi, chứng tỏ rằng cái vẻ huy hoàng hiếm có của các buổi lễ đã diễn ra dưới sự chủ tọa của Đức Hộ Pháp.
Hàng ngàn tín đồ lớp lớp từ các nơi đổ về : 15, 20, 25 ngàn người ?  Khó mà thẩm định có bao nhiều người trong đám đông Á châu như thế.
Những bài diễn văn đã được đọc và truyền trên đài phát thanh, như  của “ Charles ”, Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo, của “ François ”, người chủ chốt của phong trào. Các diễn văn nầy phản ánh một số tư  tưởng làm cho tôi chú ý để ghi lại.
Sự bảo hộ của Đấng Victor Hugo đủ để nhấn mạnh tính chất siêu phàm Thần linh học của Đạo Cao Đài mà người lãnh đạo cao cấp nhứt hiện nay là vị Chưởng quản của cơ quan  đồng tử   tại Tòa Thánh Tây Ninh (Nam Kỳ).
Sự liên kết tinh thần giữa các tôn giáo Đông phương và các tôn giáo Tây phương, xác nhận mỗi nơi mỗi lúc, bởi vì các Thánh Thất Cao Đài được mở ra để tôn thờ Đấng Christ, Đức Phật, Đức Lão Tử, Đức Khổng Tử, Giáo chủ Mahomet và tất cả những Thiên sứ của Thượng Đế khắp địa cầu, như những nhà Thần linh học (Victor Hugo, Camille Flammarion) hay những ân nhân của nhơn loại.
Vào lúc mà ít nhiều người đã vận động liên kết trên tất cả các mặt của cái nhãn hiệu bề ngoài để chia rẽ con người và gieo rắc hận thù, chúng ta nên khuyến khích phong trào nầy của sự hòa giải, thống nhứt toàn cầu. 
Vào lúc mà ít nhiều người lấy lại công thức độc đoán và các lời bài xích của thời trước :“Các người chỉ có thể được cứu vớt tại đây.” Dường như tốt đẹp để nhắc lại rằng, cả với người điếc, điều đó không bao giờ chấm dứt những trò đùa đáng thương hại của nghi thức : điều quan hệ duy nhứt không phải là tín điều, mà là hành động. Allan Kardec phát biểu một cách minh bạch : Ngoài phước đức, không có gì  cứu vớt.
Tinh thần hòa bình và chủ trương hòa bình của Đạo Cao Đài đáng được khen ngợi. Những tín đồ Cao Đài phản đối sự phân biệt các chủng tộc, các tôn giáo, các màu da,  muốn có sự hòa hợp các chính phủ và chấm dứt chiến tranh, điều đó luôn luôn được tuyên bố bởi các chính phủ.
Đối diện với Tây phương, tín đồ Cao Đài kêu lên : Chúng tôi vì hòa bình; tình huynh đệ giữa con người, tình thân hữu giữa các dân tộc, sự hợp tác giữa các chủng tộc. Chúng tôi tránh xa chánh trị tàn ác của các nước độc tài, của người ác đen, nâu hay đỏ, và những người liều mạng bị mua chuộc trong mỗi nước, tìm cách bắt chước bọn Badinguet mới.
Người ta thấy sự tổng hợp về tâm linh là đáng kính phục, nơi đó người không tín ngưỡng cũng tìm thấy thức ăn tinh thần, bởi vì trong một Thánh Thất Cao Đài, người ta có thể cầu xin các nguyên tắc hướng dẫn của triết gia Khổng Tử, hay hiền triết Lão Tử.
Thật vậy, Thánh Thất Cao Đài không thừa nhận những kho châu báu tâm linh. Chúng tôi xa lánh những người chuyên dán nhãn hiệu, những môn phái, những phe đảng nhỏ của các quan chức và phó quan chức lạc hậu, vô giá trị.”
Thời khắc biểu cho thấy sự quan trọng của ba ngày lễ :
Chương trình ngày 21-5-1937
BUỔI SÁNG :
5 giờ 15  : Chức sắc và tín đồ tập hợp nơi Thánh Thất.
5 giờ 30  : Rước Đức Hộ Pháp vào Thánh Thất.
6 giờ       : Cúng đại đàn  và trấn thần Quả Càn khôn.
9 giờ       : Rước Đức Hộ Pháp lên cái sân cao dành cho Chức sắc và giới thiệu Hội Thánh.
9 giờ 30  : Đồng nhi tụng kinh cầu nguyện.
                  Diễn văn khai mạc bằng tiếng Việt của Giáo Sư
                  Thượng Chữ Thanh, Chủ trưởng HT Ngoại Giáo.
                  Diễn văn bằng tiếng Trung hoa và tiếng Cao Miên.
11 giờ 30 : Cầu nguyện trên máy vi âm để cầu chúc hòa hiệp và hòa bình cho toàn thế giới.
Giữa trưa : Cúng đàn cầu nguyện những người quá vãng.
BUỔI CHIỀU :
16 giờ      : Chức sắc tập hợp tại cái sân cao phía trước.
16 giờ 30 : Rước chơn dung Victor Hugo đi quanh Thánh Thất
                   và sau đó đem đặt trên đàn Bạch Vân.
17 giờ 30 : Lễ cúng thời Dậu thường lệ, đồng nhi tụng kinh cầu nguyện.
                   - Thuyết đạo bằng tiếng Miên của Chánh Trị Sự
                      Phạm Văn Châu.
      - Thuyết đạo bằng tiếng Việt của Nữ Giáo Sư  Hương Phụng (Bà Trần Kim Phụng), Tiếp Đạo Cao Đức Trọng và Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.
    - Diễn văn bằng tiếng Pháp của Chủ Trưởng HTNG.
23 giờ   : Đại lễ kỷ niệm Victor Hugo : Chưởng Đạo HTNG.

Chương trình ngày 22 tháng 5
BUỔI SÁNG :
5 giờ   : Lễ cúng thời Mẹo thường lệ.
8 giờ   : Cầu nguyện cho sự an nghỉ các vong linh và cầu nguyện cho sự hòa hiệp và hòa bình thế giới.
11 giờ : Lễ cúng thời Ngọ thường lệ.
BUỔI CHIỀU :
16 giờ      : Các Chức sắc tập hợp tại đàn phía trước.
16 giờ 15 : Rước Đức Hộ Pháp đến tại đàn phía trước.
17 giờ      : Rước quan khách thuộc chánh quyền Pháp và bản
                   xứ, đại diện báo chí và những khách mời.
17 giờ 15 : Đồng nhi tụng kinh tôn vinh nền tôn giáo.
                   Diễn văn Khánh thành Thánh Thất do ông
                   Phó Chủ trưởng HTNG đọc trên máy vi âm.
18 giờ      : Quan khách viếng thăm Thánh Thất.
18 giờ 15 : Ký tên vào Sổ Vàng lưu niệm.
18 giờ 30 : Tiệc trà danh dự.
20 giờ      : Diễn văn của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
                  Thuyết đạo của Ngài Thượng Chữ Thanh.
                  Thuyết đạo của các Chức sắc khác.
23 giờ     : Lễ cúng thời Tý thường lệ.
Viết tắt :          HT : Hội Thánh.
                        HTNG : Hội Thánh Ngoại Giáo.
Chương trình ngày 23 tháng 5
BUỔI SÁNG :
5 giờ       : Lễ cúng thời Mẹo thường lệ.
6 giờ       : Tập hợp các cộ bông, bàn lễ, rồng, lân, dàn nhạc vv
                  trên đại lộ Pierre Pasquier, đối diện Thánh Thất.
6 giờ 45  : Khởi hành đám rước biểu diễn trong thành phố.
11 giờ     : Lễ cúng thời Ngọ thường lệ.
BUỔI CHIỀU :
16 giờ      : Tập hợp các Chức sắc tại sân cao phía trước.
16 giờ 30 : Phát thưởng cộ bông, rồng, lân, bàn lễ, dàn nhạc.
17 giờ      : Đồng nhi tụng kinh tôn vinh nền tôn giáo, có nhạc.
                   Lễ cúng thời Dậu thường lệ.
18 giờ      : Chức sắc thuyết đạo.
                   Diễn văn bế mạc của Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh.
22 giờ      : Đồng nhi tụng kinh cầu nguyện cho sự an nghỉ các
                  vong linh và cầu nguyện cho sự hòa hiệp và hòa bình thế giới.
23 giờ      : Đại lễ cúng đàn ngày 15 tháng 4 năm Đinh Sửu.
Ông Charles Bellan, cựu Thống sứ Pháp tại Cao Miên, từ Ba-lê gởi đến cho chúng tôi ngày 1-9-1937 cảm tưởng tổng quát của ông :
“ Tôi có đọc  một cách rất thích thú các tài liệu mà quí bạn đã gởi cho tôi, về lễ Khánh Thành Thánh Thất Cao Đài tại Nam Vang. Tôi có trao tài liệu ấy cho vài thân hữu và nhân sĩ, mà họ chú ý đến phong trào nầy với khuynh hướng thống nhứt các tôn giáo và tình huynh đệ đại đồng thế giới.
Trải qua nhiều thời gian, những sự chống đối của các tôn giáo khác nhau đã làm cho máu chảy thành sông, ước mong rằng các tôn giáo có một sự hiểu biết lẫn nhau cần thiết cho hạnh phúc của nhơn loại.
Sự tiến bộ của khoa học phế bỏ càng ngày càng nhiều các khoảng cách, nhưng nếu các dân tộc hiểu rõ nhau hơn thuở xưa, không ít sự thật mà họ thường bị lừa gạt bởi những lãnh tụ độc ác, nhưng than ôi ! vẫn còn tồn tại nhiều hiểu lầm giữa họ.
Nếu Đạo Cao Đài bành trướng, người ta hy vọng sẽ có một kỷ nguyên hòa bình và yên ổn, nếu không là hạnh phúc, vì hạnh phúc không có ở thế gian.
Cho nên, mỗi người cần phải làm việc theo chiều hướng đó. Về phần tôi, tôi thực sự rất sung sướng biết rằng sự ngược đãi đáng ghê tởm mà người tín đồ Cao Đài là nạn nhân, đã chấm dứt.
Như thế, sự cố gắng giúp đỡ của mỗi người, người ta không thể ngăn chận sự truyền bá một giáo lý mà như lời Phật dạy - không phải là hận thù, mà là tình thương yêu mới hiệp nhứt các trái tim - được ngự trị sự yên ổn trên mặt địa cầu còn quá loạn động nầy.
Tình thân ái huynh đệ. “(Ký tên: Charles Bellan)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét