CHƯƠNG I: CẢNH GIỚI CỦA TÂM THỨC
Trong phần đầu của hồi
ký này được trình bày trong tập sách “Các bậc chân sư Yogi Ấn Độ”, độc giả đã
thấy tôi từ bỏ giấc mộng tầm đạo trên Hy Mã Lạp Sơn như thế nào. Đức độ và năng
lực cảm hóa của sư phụ tôi đã khiến cho tôi phải hổ thẹn mà thấy rằng mình đã
hết sức viển vông khi nghĩ đến việc rời xa người để mong mỏi một sự chứng đạo
nơi những động đá vô tri trên núi Tuyết. Sau khi đã thấu triệt và từ bỏ hoàn
toàn mọi ý tưởng ra đi, tôi lại quay về dưới chân sư phụ Śrỵ Yukteswar.
– Bạch thầy, con đã về!
Sư phụ yên lặng nhìn
tôi với ánh mắt từ hòa khi tôi đến ra mắt người lúc vừa trở về đạo viện. Tuy
hết lòng hối tiếc về sự sai lầm đã cãi lời thầy, nhưng tôi thực sự yên lòng vì
mối giao cảm tôi đã có được trong đêm hôm trước với sư phụ nhờ sự giúp sức của
Ram Gopal. Tôi biết người đã sẵn lòng cảm thông và tha thứ cho tôi. Hơn thế
nữa, vẫn thương yêu che chở cho tôi như tự bao giờ.
– Con hãy xuống bếp xem
có còn món gì ăn hay không. Con có vẻ mỏi mệt sau mấy ngày đi đường.
Mối quan tâm nhỏ nhặt
của thầy làm tôi thật sự xúc động. Bây giờ thì tôi hiểu là mình không bao giờ
còn có thể rời xa thầy được nữa. Những động đá vô tri giác trên núi Tuyết kia
rõ ràng là không thể nào so sánh được với sư phụ đầy lòng thương yêu từ ái của tôi.
Tôi tự ý thức được sai
lầm của mình, và hình dung rõ thậm chí một người cha cũng không dễ tha thứ hoàn
toàn cho đứa con ngỗ nghịch dám cãi lời mình ra đi vì một ý tưởng sai trái. Vậy
mà sư phụ không một lời trách mắng, cũng không biểu lộ chút buồn giận nào đối
với tôi. Ngài quả thật là hiện thân vô cùng của lòng từ bi mà người thế gian
không sao có thể hiểu hết được.
Khi tôi mang việc này
ra hỏi sư phụ, người tươi cười nhìn tôi và nói:
– Mọi tình thương của
thế gian thật ra đều có mục đích. Người cha thương con nhưng cũng đặt nhiều kỳ
vọng ở con mình. Nếu đứa con không làm theo ý mình, người ấy sẽ thấy thất vọng,
buồn khổ và hờn giận... Còn ta, ta không hề đặt kỳ vọng nơi các con, không muốn
các con phải làm điều gì đó nhân danh ta, càng không hề lợi dụng các con vào
bất cứ mục đích vị kỷ nào khác. Vì thế, các con không thể làm cho ta thất vọng.
Ngược lại, chỉ có sự hạnh phúc chân thật mà các con đạt đến mới thật sự làm cho
ta vui sướng mà thôi.
° ° °
Cuộc sống của tôi ở tu
viện trở lại bình thường như trước. Nhưng giờ đây tôi cảm thấy đức tin của mình
vững chãi hơn nhiều. Hơn thế nữa, qua tiếp xúc với Ram Gopal tôi mới hiểu ra sư
phụ tôi hoàn toàn không phải một vị tôn sư bình thường như trước kia tôi vẫn
tưởng. Tôi biết rằng, ẩn giấu bên trong vẻ ngoài rất giản dị, bình thường của
người là một sự chứng ngộ sâu xa mà chỉ những hành giả đã đạt đạo mới có thể
nhìn thấy được. Tôi đã thấy rõ là Ram Gopal không hề che giấu sự kính trọng sâu
xa khi nhắc đến sư phụ tôi.
Tôi dành thời gian
nhiều hơn cho việc tham thiền và tiết giảm tối đa những câu chuyện phiếm không
cần thiết với những huynh đệ khác trong đạo viện. Tôi còn khám phá ra một điều
là thỉnh thoảng tôi có thể tập trung tư tưởng ngay cả khi đang đi dạo trong
vườn cây hoặc ven bờ sông chứ không chỉ trong những lúc ngồi yên thiền định.
Một hôm, tôi vừa bắt
đầu ngồi xuống tham thiền trong một góc vắng ở cuối hành lang, được một lúc thì
nghe có tiếng gọi của sư phụ từ xa:
– Mukunda, Mukunda!
Tôi cảm thấy không hài
lòng. Lẽ ra sư phụ không nên gọi tôi vì chắc chắn người đã biết là tôi đang
tham thiền. Một tâm trạng hờn giận khởi lên trong tôi, và tôi tự thấy mình
không sao tập trung tư tưởng được. Tôi cố gắng ngồi yên thêm một lúc nữa. Thầy
tôi lại gọi:
– Mukunda, Mukunda!
Tôi vẫn im lặng không
đáp lại và tiếp tục cố gắng tập trung tư tưởng nhưng gần như không sao làm
được. Một lúc lâu, tiếng gọi của thầy tôi lại vang lên:
– Mukunda, Mukunda!
Quá thất vọng, tôi giận
dỗi đứng lên và đi về phía người, vẫn không lên tiếng đáp lại. Khi đến bên
người, tôi nói với giọng trách móc:
– Bạch thầy, lẽ ra thầy
không nên gọi con trong lúc con đang cố gắng ngồi thiền.
Sư phụ thản nhiên như
đã hiểu hết mọi chuyện:
– Ta biết, và ta cũng
biết là con đang tham thiền với tâm trạng như thế nào nữa kìa.
Xấu hổ vì bị thầy đọc
thấu vào trong tư tưởng, sự hờn giận của tôi bỗng chốc tiêu tan và thay vào đó
là sự kính phục vô cùng. Tôi nói:
– Vâng, bạch thầy con
không sao tập trung tư tưởng được.
Sư phụ Śrỵ Yukteswar
khoan thai nhìn tôi và nói:
– Bởi vì con đã khởi sự
tham thiền với một mong cầu. Con tưởng rằng sự cố gắng của con sẽ giúp con đạt
được kinh nghiệm thiền định chân thật hay sao? Đã thế, con còn khởi tâm hờn
giận, con tưởng rằng việc tham thiền của con là quan trọng nhất trong cả vũ trụ
này hay sao?
Tôi lặng lẽ cúi đầu
nhận lỗi. Thầy tôi đã thấu suốt mọi suy nghĩ cũng như cảm xúc của tôi. Tôi
không thể biện bạch và cũng không muốn biện bạch gì nữa, chỉ yên lặng cúi đầu
chờ nghe lời thầy chỉ dạy.
– Con nên biết, việc
tham thiền chỉ là một phương tiện để giúp con tu tập. Nếu con cố chấp cho rằng
việc ngồi thiền là mục đích của sự tu tập, con sẽ không bao giờ thực sự đạt đến
thành công. Cả vũ trụ này không phải vạn vật đều biết ngồi thiền, nhưng vẫn
lặng lẽ chuyển hóa không phút giây ngừng nghỉ. Nếu con chưa nắm rõ được lẽ
nhiệm mầu ấy thì việc ngồi thiền của con chỉ hoàn toàn là một sợi dây trói buộc
mà thôi. Con người ta ai ai cũng đều sống được mà không cần phải ngồi thiền.
Tôi có phần nào choáng
váng trước những lời dạy này của sư phụ. Quả thật từ xưa nay tôi vẫn tưởng việc
ngồi thiền là mục đích của người tu tập. Nhất là trong thời gian gần đây, tôi
lại càng chú ý nhiều hơn đến việc ngồi thiền, xem đó là mục tiêu quan trọng
nhất của mình!
Thầy tôi chờ một chút
như để cho tôi kịp lấy lại tinh thần rồi mới thong thả nói tiếp:
– Thiền định là pháp
môn vô cùng quý giá để giúp người tu nhanh chóng đạt đến sự giải thoát. Nhưng
nếu người tu tập cố chấp vào phương tiện, lấy đó làm cứu cánh của mình, thì
thiền định lại trở thành một sợi dây trói buộc còn khó dứt bỏ hơn cả những hệ
lụy khác của thế tục, vì rất khó được nhận ra. Nếu hiểu được điều đó, con sẽ
thấy việc ngồi thiền dễ dàng hơn, và khi con không ngồi thiền cũng không phải
là không ở trong trạng thái giải thoát mọi hệ lụy.
Rồi sư phụ nhìn thẳng
vào mắt tôi và nói:
– Nếu con hiểu được
những lời ta nói, cuộc đời tu tập của con sẽ không uổng phí.
° ° °
Trở về phòng mình,
trong đầu tôi luôn ám ảnh những điều sư phụ vừa nói. Sau bữa cơm chiều, tôi
ngồi lặng lẽ trước hành lang bên ngoài phòng mình và suy nghĩ rất nhiều. Tôi mơ
hồ nhận ra có những điều từ xưa nay mình đã lầm lẫn không hiểu đúng trong việc
tu tập.
Buổi tối, tôi ngồi
thiền như thường lệ. Tuy nhiên, thay vì là bốn giờ đồng hồ như mọi hôm, đêm ấy
tôi đã ngồi suốt đêm không ngủ.
Trong lúc thiền quán,
tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả
thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời
gian cho việc tu tập thiền định. Thay vì vận dụng thiền định như một phương
tiện để đạt đến tâm trạng giải thoát và duy trì trạng thái giải thoát ấy trong
đời sống, tôi đã bám lấy những giây phút an vui ngắn ngủi trong thơi gian nhập
định mà cho đó là cứu cánh của đời mình. Càng suy nghĩ, tôi càng thấy hiểu rõ
hơn và như trút bỏ được gánh nặng cố công từ lâu nay. Tôi thấy tâm hồn trở nên
thanh thản, nhẹ nhàng.
Giờ đây, tôi thấy việc
ngồi thiền không còn là những giây phút khó nhọc căng thẳng đầy cố gắng, mà trở
thành những giây phút nghỉ ngơi thanh thản, tạo điều kiện dễ dàng cho tâm hồn
lắng dịu lại sau những nhộn nhịp hay căng thẳng trong đời sống. Từ nhận thức
này, những lúc không ngồi thiền cũng không phải là hoàn toàn bất ổn, mà người
tu tập vẫn có thể giữ gìn tâm yên lắng thanh tịnh như trình độ chứng ngộ tâm linh
đã đạt đến trong thời gian ngồi thiền.
Đến khoảng nửa đêm thì
một điều kỳ diệu đã xảy ra với tôi. Trong trạng thái tập trung tư tưởng gần như
hoàn toàn cao độ, tôi có cảm giác thân thể mình bất chợt nhẹ bỗng đi như không
còn chút trọng lượng nào. Một lúc sau, không gian quanh tôi sáng dần lên trong
một vùng ánh sáng ngày càng rực rỡ, và trong vùng sáng yên lặng ấy vạn vật dần
hiện ra thật rõ ràng theo đúng với bản chất của chúng.
Thoạt tiên là hàng cây
lớn chạy dài từ trước phòng tôi ra cổng tu viện. Trong trạng thái tinh thần
sảng khoái đến khó tả này, tôi nhìn thấy hàng cây hiện ra rõ hơn cả trong ánh
sáng ban ngày. Hơn thế nữa, tôi còn nhìn thấy được cả những rễ cây lớn nhỏ
chằng chịt trong lòng đất, và cả những dòng nhựa đang luân chuyển bên trong mỗi
thân cây.
Bên trên bầu trời,
những tinh tú cũng hiện rõ trong tầm mắt tôi như cả một thế giới kỳ diệu đang
chuyển động không ngừng mà mỗi mỗi đều tuân theo những quỹ đạo nhất định không
hề sai lệch. Điều kỳ lạ là ánh sáng tỏa ra từ các vì sao giờ đây như mờ nhạt
hẳn đi trong vùng ánh sáng linh diệu tỏa ra từ quanh tôi.
Càng về sau, tôi có cảm
giác như thân thể mình ngày càng trở nên rộng lớn mênh mông không giới hạn. Cảm
giác thanh thoát nhẹ nhàng lan rộng khắp châu thân và như len lỏi đến từng ngỏ
ngách khắp nơi trong vũ trụ. Trong giây phút ấy, tôi thấy mình đã hoàn toàn hòa
nhập cùng với cả vũ trụ bao la và với cả từng gốc cây ngọn cỏ vô tri giác cho
đến các loài côn trùng bé bỏng ẩn núp tận trong lòng đất sâu im lặng. Cảm giác
an lạc siêu thoát đó tồn tại rất lâu cho đến khi từ trong đêm tối vọng lên
những tiếng gà gáy sáng xa xa bên ngoài những bức tường bao quanh đạo viện. Và
tuy không còn giữ được trạng thái ấy cho đến sáng, nhưng tôi vẫn còn cảm thấy
nhẹ nhàng thư thái trong một tâm trạng mà từ trước đến nay tôi chưa từng có
được.
Sau bữa điểm tâm, tôi
tìm lên phòng sư phụ dự định sẽ trình bày với người kinh nghiệm tâm linh mà tôi
vừa trải qua. Nhưng khi vừa gặp người, bỗng dưng tôi chợt hiểu ra là điều ấy
hoàn toàn không cần thiết. Chỉ trong một thoáng, tôi bất chợt nhớ lại kinh nghiệm
đã trải qua với Ram Gopal lần trước và một tia sáng lóe lên trong trí tôi, tôi
hiểu chuyện gì đã xảy ra đêm qua: Chính sư phụ đã giúp tôi trải nghiệm qua một
thế giới tâm thức tuyệt vời, cảnh giới của một người đã chứng ngộ mà phải còn
lâu lắm tự thân tôi mới có thể đạt đến.
Tôi lặng lẽ đến trước
mặt sư phụ và chí thành lễ bái để tỏ lòng biết ơn sâu xa đối với những ân huệ
mà người đã dành cho tôi.
Sau lần ấy, tôi tự thấy
mình thay đổi rất nhiều. Tôi không còn cảm giác khó chịu, bực tức mỗi khi có
một công việc bất ngờ nào đó ngăn cản tôi không thể tham thiền vào giờ đã định.
Tôi cũng không còn cảm giác nôn nao, chờ đợi để đến lúc được ngồi yên tĩnh một
mình và dứt bỏ tất cả mọi vọng tưởng, tìm đến cảm giác an vui trong thiền
định... Ngược lại, tôi cũng dễ dàng tập trung tư tưởng hơn gần như bất cứ lúc
nào. Thời gian ngồi thiền mang lại cảm giác thư thái dễ chịu mà rất lâu sau khi
ra khỏi thiền định tôi vẫn còn giữ được. Một đôi khi, tôi còn có thể tập trung
tư tưởng và đạt được sự thư giãn hoàn toàn ngay trong khi đang làm một công
việc thường ngày nào đó, hoặc lúc đang theo hầu sau sư phụ.
Bây giờ, tôi hiểu ra
rằng việc ngồi thiền chỉ là một phương tiện, mà mục đích đạt đến cần phải vượt
thoát bên ngoài phương tiện ấy. Tôi cũng hiểu được vì sao sư phụ tôi không hề
xem giờ giấc thiền định của người là bất khả xâm phạm như một số các vị tôn sư
khác. Thực tế tôi đã thấy nhiều khi có khách đến viếng thăm và đàm đạo vào giờ
tham thiền, sư phụ vẫn vui vẻ tiếp chuyện, giải thích mọi thắc mắc cho họ mà
không tỏ vẻ khó chịu chút nào. Đối với người, gần như mọi thời khắc đều là sống
trong thiền định, nên người không cần phải cố chấp vào những giờ tĩnh tọa cố
định như chúng tôi.
Từ kinh nghiệm bản thân đã trải qua, tôi càng
vững tin hơn vào sự dắt dẫn của sư phụ, cho dù một đôi khi tôi quả thật vẫn
chưa hoàn toàn hiểu được hết hành trạng của người.
CHƯƠNG II: NHỮNG QUYỀN
NĂNG KỲ BÍ
Một ngày kia, tôi trịnh
trọng mang lên phòng sư phụ sáu cây bông cải do tôi trồng được ở khoảng vườn
phía sau đạo viện.
– Bạch thầy, chính tay
con đã chăm bón luống bông cải này, và đây là những cây tốt nhất con đã chọn ra
để thành kính dâng lên thầy.
Sư phụ nhìn tôi cười
hiền hòa:
– Ta cảm ơn thành ý của
con. Có lẽ bản thân ta cũng sẽ không dùng hết những cây bông cải này, nhưng ta
rất cần đến chúng trong vài ngày nữa để nấu một bữa cơm đãi khách. Vì thế, món
quà tặng này của con là vô cùng giá trị. Nhưng tạm thời con hãy thay ta cất giữ
cho đến lúc đó.
Tôi vâng lời sư phụ,
mang những cây bông cải về phòng và xếp kỹ lưỡng vào một góc, dùng một tấm bìa
cứng để che phía bên ngoài.
Sáng hôm sau, sau giờ
điểm tâm sư phụ gọi tất cả chúng tôi đến và nói:
– Hôm nay là một ngày
đẹp trời, ta muốn cùng tất cả các con đi dạo ra bờ sông. Trong không khí thoáng
mát ở đó, ta sẽ có một vài chuyện trao đổi cùng các con.
Theo thông lệ, chúng
tôi hiểu là sư phụ đang có ý định giảng giải với tất cả chúng tôi về một đề tài
quan trọng chung nào đó. Vì nếu không như thế, người thường chỉ dành thời gian
để chỉ dạy riêng cho mỗi người mà thôi. Vì thế, chúng tôi hối hả thu xếp và tập
trung đầy đủ ở cổng đạo viện chỉ trong chốc lát.
Sư phụ Śrỵ Yukteswar đi
trước, chúng tôi xếp thành hai hàng theo sau người. Chúng tôi cùng thong thả
tiến bước ra bờ sông.
Vừa được một quãng
ngắn, sư phụ bỗng dừng chân và đưa mắt tìm tôi. Người gọi:
– Mukunda!
Tôi đáp lời thầy và
bước ra khỏi hàng, tiến nhanh đến bên sư phụ. Thầy nhìn tôi nghiêm nghị:
– Dường như con đã quên
đóng cổng sau của đạo viện?
Tôi đáp ngay mà không
kịp suy nghĩ:
– Bạch thầy, con không
quên đâu ạ.
Sư phụ im lặng. Người
nhìn tôi một lúc nữa rồi nhoẻn cười và nói:
– Thật ra là con đã
quên. Này con, công phu thiền định không phải chỉ để tỉnh giác trong lúc ngồi
thiền, mà cho dù những chuyện nhỏ nhặt nhất trong cuộc sống con cũng không được
quyền xao lãng. Nhất là khi chuyện ấy thuộc về trách nhiệm mà tập thể đã giao
phó cho con.
Lúc này tôi mới chịu
suy nghĩ kỹ lại và thừa nhận thầy đã nói đúng. Sáng nay, vì quá vội vã đi ra
cho kịp với các huynh đệ, tôi đã quên mất việc ra đóng cổng sau của đạo viện.
Vì thế tôi im lặng cúi đầu.
Thầy tôi nói tiếp:
– Vì sự bất cẩn này là
do nơi con, nên sẽ chỉ một mình con gánh chịu mà thôi.
Rồi sư phụ tiếp tục đi.
Chúng tôi im lặng đi theo, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ về câu nói khó hiểu
cuối cùng của thầy.
Khu vực chúng tôi ở tuy
không mấy khi bị trộm cắp, nhưng thầy đã dạy chúng tôi phải hết sức cẩn thận đề
phòng. Thầy thường nói:
– Người tu hành chúng
ta không có tài sản riêng. Những gì chúng ta đang sở hữu thật ra chỉ là những
gì chúng ta được giao cho gìn giữ. Chúng ta không thể để cho xảy ra bất cứ một
sự mất mát nào do tính bất cẩn của mình. Hơn thế nữa, nếu chúng ta tạo điều
kiện cho kẻ trộm thực hiện được hành vi trộm cắp, đó là đã gián tiếp khiến cho
họ lún sâu vào tội lỗi.
Chính vì vậy, đạo viện
chúng tôi xưa nay chưa hề bị kẻ trộm viếng thăm, vì các cổng trước và sau luôn
được khóa cẩn thận. Tất cả chúng tôi không ai bảo ai đều lấy làm băn khoăn về
lời dự báo của thầy. Tuy chúng tôi không có những tài sản rất quý giá để gợi
lòng tham của kẻ trộm, nhưng ít ra thì những vật thực hay dụng cụ cá nhân của
mỗi người cũng không dễ được bọn trộm từ chối.
Buổi giảng pháp của
thầy vẫn được diễn ra bình thường trên bờ sông. Tuy vậy, riêng tôi không ghi
nhớ được bao nhiêu vì luôn ám ảnh bởi việc cổng sau của đạo viện đang bỏ ngõ,
mà tất cả huynh đệ thì chẳng còn ai ở nhà cả.
Chúng tôi trở về vào
lúc đã gần đến giờ cơm trưa. Khi còn cách đạo viện chừng hơn hai trăm thước, sư
phụ bỗng dừng lại, gọi chúng tôi và đưa tay chỉ về phía bên kia cánh đồng
trống. Một người đàn ông dáng đi xiêu vẹo đang lần bước theo một con đường mòn,
tay xách một cái túi lớn đu đưa theo từng bước chân của ông ta mà chúng tôi
không sao nhận rõ được. Sư phụ nói:
– Ông ta vừa vào đạo
viện và trở ra qua lối cổng sau. Vật mà ông ta lấy trộm là một tài sản thuộc về
Mukunda. Các con không cần đuổi theo để lấy lại, vì ta cũng có một phần quyền
hạn về tài sản ấy, nên ta đã quyết định vui lòng tặng cho ông ta.
Tất cả chúng tôi đều
ngơ ngác, không hiểu sư phụ đang nói đến món đồ gì, và càng không hiểu khi kẻ
trộm đang đi sờ sờ trước mắt chúng tôi nhưng thầy không cho chúng tôi đuổi bắt.
Về đến đạo viện, tôi
lập tức kiểm tra lại phòng mình. Mọi thứ đều nguyên vẹn, ngay cả món giá trị
nhất là chiếc đồng hồ trong phòng tôi cũng không bị mất.
Nhưng ... khi tôi nhìn
đến góc phòng thì mấy cây bông cải đã không cánh mà bay.
Giờ thì tôi hiểu ra vì
sao là tài sản của tôi nhưng sư phụ cũng có quyền quyết định. Bởi vì tôi đã
dâng tặng nó cho người. Sự bất cẩn của tôi đã bị trừng phạt vì món quà mà tôi
dâng cho sư phụ giờ đây vĩnh viễn không đến được tay người.
Lấy làm ân hận về việc
đó, tôi tìm lên phòng thầy để sám hối. Sau đó, tôi đánh bạo hỏi thầy:
– Bạch thầy, chúng con
thừa sức đuổi theo kịp tên trộm khi thầy chỉ cho chúng con. Vì sao thầy không
cho chúng con làm điều đó?
Sư phụ cười bao dung:
– Con tưởng đó là một
tên trộm bình thường hay sao? Thế tại sao hắn ta không lấy gì khác ngoài mấy
cây bông cải? Thế tại sao hắn ta lại chọn đi ăn trộm vào khoảng thời gian rất
dễ bị bắt gặp?
Tôi ngẩn người ra, suy
nghĩ lại và thấy mình quả thật đã ngốc nghếch khi không đặt ra những câu hỏi
này ngay từ đầu.
Sư phụ cười xòa và phá
tan mọi sự nghi ngờ của tôi:
– Thật ra người ấy
chẳng phải là một tên trộm. Đó là một người mất trí vẫn thường đi lang thang ở
làng kế bên. Thay vì một bữa cơm đãi khách, ta đã đổi ý và muốn tặng những cây
bông cải ấy cho ông ta để ông có được một bữa ăn thịnh soạn nhất từ sáu tháng
nay. Giờ này ông ta đã bán những cây bông cải ấy ở chợ và đang dùng cơm với số
tiền bán được. Chính ta đã thông báo cho ông ấy biết việc cổng sau đạo viện
không khóa và ông ta có thể đi thẳng vào phòng con để lấy mấy cây bông cải. Ta
mong rằng đây là một bài học có thể giúp con có cuộc sống tỉnh giác hơn nữa.
Tôi từ biệt sư phụ trở
về phòng. Quả thật, càng ngày tôi càng hiểu ra sư phụ là một bậc chứng ngộ đầy
quyền năng, nhưng người luôn thể hiện một cuộc sống bình thường như bao nhiêu
người khác. Không bao giờ sư phụ bộc lộ những năng lực siêu nhiên của mình mà
không vì một mục đích giáo hóa nhất định nào đó.
° ° °
Không bao lâu sau vụ
những cây bông cải bị mất, lại một chuyện khác xảy ra làm cho tôi hiểu thêm
nhiều hơn về sư phụ.
Một trong những cây đèn
dầu hỏa lớn của chúng tôi bị thất lạc. Không ai biết nó ở đâu. Vào thời đó, một
cây đèn dầu hỏa như thế là một tài sản rất giá trị, vì chỉ những nhà giàu có
mới mua nổi.
Sau chuyện những cây
bông cải, anh em chúng tôi không ai còn lo lắng về vụ mất mát này. Chúng tôi
cho rằng sư phụ thừa sức biết được cây đèn dầu hỏa này đang nằm ở đâu.
Sư phụ hiểu được ý nghĩ
đó của mọi người. Người tập trung anh em lại và tra hỏi kỹ lưỡng. Một người thú
nhận là đã dùng cây đèn dầu để soi đường đi ra giếng nước phía sau. Sư phụ liền
nói:
– Vậy thì các con hãy
chia nhau đi tìm chung quanh giếng.
Chúng tôi yên chí là sẽ
tìm thấy theo lời sư phụ. Nhưng hơn một giờ đồng hồ lục lọi khắp nơi vẫn không
ai tìm thấy gì. Khi ấy, một đệ tử khác bỗng nhớ ra, liền đến thưa với thầy:
– Bạch thầy, nhưng mới
tối hôm qua con còn dùng cây đèn ấy để soi đường đi lấy củi.
Sư phụ liền nói ngay:
– Vậy các con hãy đến
tìm chung quanh nhà để củi.
Và thêm một giờ đồng hồ
tìm kiếm vô ích nữa. Không ai tìm thấy cây đèn ở đâu cả.
Buổi tối, khi cùng ngồi
hóng mát với sư phụ trên sân thượng, tôi hỏi thầy:
– Bạch thầy, lẽ nào
thầy không biết cây đèn dầu hỏa ở đâu?
Sư phụ nhìn tôi cười
hóm hỉnh:
– Thế con nghĩ tại sao
thầy phải biết? Và biết để làm gì kia chứ?
Tôi chợt hiểu ra dụng ý
của sư phụ. Năng lực siêu nhiên của người không dùng vào những mục đích nhỏ
nhen vụn vặt!
° ° °
Ít lâu sau đó là một
ngày lễ hội tôn giáo. Cùng với các đạo viện khác trong vùng, chúng tôi cũng
tham gia bằng một cuộc diễu hành dự kiến sẽ đi băng qua thành phố, vòng ra theo
bờ sông và trở về đạo viện theo một lối khác.
Sư phụ ủy thác cho tôi
việc tổ chức cuộc diễu hành. Tôi sẽ phụ trách tất cả từ việc chuẩn bị cờ xí
trang hoàng để mang theo cho đến sắp xếp giờ giấc và hướng dẫn lộ trình cho các
anh em trong đoàn.
Sau khi đã hoàn tất mọi
việc, tôi lên phòng tìm gặp sư phụ:
– Bạch thầy, con còn
một điều chưa hiểu.
Sư phụ nhìn tôi với ánh
mắt từ hòa:
– Con cứ hỏi.
– Bạch thầy, theo ý
thầy thì trên lộ trình của đoàn diễu hành chúng con sẽ đi một đoạn khá dài trên
bãi cát ven sông. Nhưng sau khi băng ngang qua thành phố, chúng con sẽ đến đó
ít nhất cũng là gần trưa. Với nhiệt độ nóng bức của mùa này, bãi cát sẽ nóng
bỏng, mà theo lễ phục tu sĩ của chúng con thì mọi người đều đi chân trần. Như
vậy làm sao có thể chịu đựng qua khỏi bãi cát được?
Sư phụ đáp:
– Thầy đã có nghĩ đến
chuyện ấy rồi. Như vậy con có thể yên tâm.
Rồi thầy không nói gì
thêm nữa. Tôi không còn cách nào khác hơn là đặt niềm tin hoàn toàn vào lời
thầy.
Buổi sáng hôm khởi đầu
cuộc lễ, trời xanh ngắt không một chút mây. Nhưng khi vừa đi được khoảng một
nửa đường băng ngang thành phố, chúng tôi nhìn thấy xa xa phía bờ sông bắt đầu
nổi lên vài đám mây đen kịt. Khi chúng tôi ra đến bờ sông, không khí mát dịu và
mặt cát hãy còn sũng nước, rõ ràng là ở đây vừa có một cơn mưa. Hơn thế nữa,
những cụm mây trắng như còn đọng lại trên nền trời và là đà bay theo để thỉnh
thoảng lại che mát cho chúng tôi. Nhờ đó, đoàn diễu hành với những cờ xí trang
hoàng rườm rà đã đi suốt hết đoạn đường theo dự tính mà không mệt mỏi lắm.
Tôi không thể hiểu sự
việc theo cách nào khác hơn là chính thầy tôi bằng cách nào đó đã tạo ra được
cơn mưa và những đám mây bất ngờ che mát cho chúng tôi.
Khi tôi đem việc ấy nói
với sư phụ, người cười nhẹ và bảo tôi:
– Một ngày nào đó rồi
con sẽ hiểu được mọi việc. Khi ấy con sẽ thấy thật ra thì thiên nhiên và con
người không hề xa cách nhau như người ta vẫn tưởng.
° ° °
Cuộc diễu hành chỉ là
phần mở đầu cho cuộc lễ của chúng tôi, bởi vì buổi chiều hôm đó đạo viện còn
phải đón tiếp đến hàng trăm quan khách cũng như những môn đệ cũ của thầy tôi từ
khắp nơi quay về.
Tất cả anh em chúng tôi
đều bận rộn tíu tít để lo cho mọi việc được chu toàn. Tuy thức ăn cũng chỉ đơn
sơ với các món rau đậu và bánh hấp, nhưng vì số lượng rất đông nên việc phục vụ
không phải là nhẹ nhàng. Đến chiều tối, khi chén bát đã được dọn rửa và một số
anh em đang chia nhau quét dọn sân bãi, sư phụ cho gọi tôi đến và nói:
– Thầy rất hài lòng về
tinh thần làm việc cũng như những gì con đã thực sự làm được trong thời gian
chuẩn bị, và nhất là trong ngày hôm nay. Đêm nay con có thể ngủ lại cùng phòng
với thầy. Thầy có chút việc sẽ cần đến con.
Tôi vô cùng sung sướng
khi nghe sư phụ nói như vậy. Được ngủ lại phòng thầy cũng có nghĩa là sẽ có mấy
tiếng đồng hồ tọa thiền gần bên thầy, và đây là một kinh nghiệm mà không một
môn đồ nào lại không hết lòng ao ước. Nói cách khác, đây là một vinh dự mà
không mấy khi một vị tôn sư ban cho đệ tử của mình. Vì thế, mặc dù đã vô cùng
mệt mỏi vì sự gắng sức trong những ngày qua, nhưng tôi bỗng thấy hết sức phấn
chấn và bao nhiêu sự mệt nhọc bỗng chốc đều tiêu tan.
Tối hôm đó, sau giờ tọa
thiền, tôi ngả lưng nằm xuống vào khoảng đã gần nửa đêm. Tôi thấy thầy tôi lặng
lẽ đứng dậy và mặc áo dài, chuẩn bị đi ra ngoài.
Lấy làm ngạc nhiên, tôi
ngồi dậy thưa hỏi:
– Bạch thầy, con không
hiểu thầy phải đi đâu vào giờ này?
– Có một nhóm đệ tử bị
trễ tàu và lát nữa họ sẽ đến đây. Ta muốn chuẩn bị vài món thức ăn cho bọn họ.
Tôi lấy làm hoang mang,
có ai lại đến thăm đạo viện vào lúc đã gần một giờ sáng kia chứ? Dù tôi biết là
không nên nghi ngờ lời thầy, nhưng quả thật tôi cảm thấy khó mà tin được trong
trường hợp này. Vì vậy, tôi nhổm dậy và mặc áo đi theo. Sư phụ nói:
– Con có thể nghỉ ngơi.
Ta sẽ tự làm bếp. Hôm nay con đã làm quá nhiều việc và ta biết con đang rất
mệt.
Sư phụ đã hoàn toàn nói
đúng, nhưng có điều gì đó còn hơn cả sự nhọc mệt khiến cho tôi không thể nằm
yên trở lại. Đó là sự nôn nao muốn biết xem lần này có quả thật thầy đã dự báo
đúng hay chăng. Vì thế, tôi nói:
– Bạch thầy, con có thể
giúp thầy một tay cho nhanh hơn.
Chúng tôi cùng vào bếp,
và tôi lấy làm ngạc nhiên thấy rằng thầy tôi là một tay làm bếp hết sức nhanh
lẹ và vén khéo. Chỉ trong chốc lát, chúng tôi đã nấu xong cơm nóng, canh rau và
vài món đậu xào rất thơm ngon.
Sư phụ xoa đầu tôi và
nói:
– Đêm nay con đã vượt
qua được giới hạn của sự mệt mỏi và vui vẻ thực hiện một công việc bất ngờ. Từ
nay về sau thầy có thể yên tâm là con sẽ đủ sức chịu đựng mọi khó nhọc trên con
đường tu tập và hoằng pháp.
Khi thầy vừa nói dứt
câu này thì tôi nghe có tiếng chân người ngoài sân. Sư huynh trực đêm vừa mở
cổng đạo viện và đưa vào một nhóm môn đệ cũ của thầy!
Tôi xuống cầu thang và
tiếp đón những vị khách muộn màng này. Một người trong bọn nói:
– Sư huynh không cần
thông báo với sư phụ vào giờ khuya khoắt này. Chúng tôi quả thật lấy làm bối
rối đã quấy rầy quý huynh, nhưng chúng tôi bị trễ tàu và không đến kịp cuộc lễ
ngày hôm nay.
Tôi mỉm cười trấn an cả
nhóm:
– Các sư huynh không
cần lo lắng. Sư phụ đã biết trước việc trễ tàu của các vị và đã tự tay nấu mấy
món ăn để chờ sẵn.
Tất cả đều lộ vẻ ngạc
nhiên, nhưng họ không thể nghi ngờ chút nào nữa khi tôi đưa họ vào phòng ăn với
thức ăn nóng hổi rõ ràng là vừa mới được nấu xong.
Khi các vị khách đã
dùng cơm xong và được hướng dẫn đi nghỉ, tôi trở lại phòng sư phụ. Người nhìn
tôi, cười nhẹ và nói:
– Điều duy nhất hôm nay
thầy có thể chưa hoàn toàn hài lòng về con là con đã có chút nghi ngờ khi nghe
thầy thông báo một việc mà con cho là rất khó xảy ra.
Tôi lặng thinh cúi đầu
nhận lỗi. Thầy nói tiếp, giọng vui vẻ:
– Tuy nhiên, đó cũng là
việc rất bình thường. Một đệ tử thường chỉ đặt niềm tin hoàn toàn vào bậc thầy
khi họ đã đạt được sự chứng ngộ giống như thầy, tuy rằng như thế quả thật là có
phần muộn màng.
Tôi lặng thinh ghi nhớ
lời thầy và tự hứa sẽ không còn bao giờ dám nghi ngờ lời nói của thầy một lần
nữa.
CHƯƠNG III: NHỮNG LỜI
TIÊN TRI
Một hôm, sư phụ hỏi
tôi:
– Mukunda, tại sao con
không đeo một món linh phù hộ thân?
– Bạch thầy, vì con chỉ
tin vào nhân quả mà thôi.
Tôi nhớ lại món linh
phù mà mẹ tôi đã để lại cho tôi và sự biến mất kỳ lạ của nó vào lúc tôi gặp
được sư phụ Śrỵ Yukteswar. Quả thật, tôi chỉ thừa hưởng món linh phù ấy do mẹ
tôi trao lại, còn bản thân tôi chưa bao giờ nghĩ đến việc dùng một vật hộ thân
để làm thay đổi số mệnh của mình.
Sư phụ nói:
– Vấn đề không phải là
con có tin hay không. Thái độ đúng đắn nhất đối với một vấn đề là xác định xem
nó đúng hay không đúng, thay vì là tuyên bố tin hay không tin. Trước thời Newton, người ta không
phát biểu được định luật về trọng lượng, nhưng những trái táo vẫn tự biết phải
rơi như thế nào. Con người từ rất lâu xa trước đây đã nhận biết được nhiều
phương thức tác động tích cực vào cuộc sống. Điều đó không có nghĩa là đi ngược
lại luật nhân quả, nhưng nó có sự lý giải riêng của nó.
– Bạch thầy, nhưng có quá
nhiều những tay bói toán đã lạm dụng sự mê tín của con người.
– Đúng vậy. Và bọn họ
đã làm hoen ố đi những khoa học thật sự mà người xưa truyền lại. Chẳng hạn như
khoa chiêm tinh hoặc khoa tướng số... Trong thực tế, một nhà hiền triết chân
chính am hiểu khoa chiêm tinh có thể nhìn thấy trước số mạng của một người hoặc
nhiều người trong một chừng mực nào đó. Điều đó có nghĩa là ông ta căn cứ vào
những biểu hiện trong vũ trụ để đọc được quá khứ của một người, và biết được nó
sẽ dẫn đến một tương lai như thế nào, nhưng không có nghĩa là ông ta có quyền
năng làm cho sự việc sẽ xảy ra như thế nào hoặc ngăn cản được sự xảy ra của
chúng. Tuy vậy, có những phương thức tác động nhất định có thể tạo ảnh hưởng
thay đổi tích cực, và thông thường thì nguyên lý hoạt động của những phương
thức này chính là nhờ vào đức tin. Đứng từ một góc độ nào đó, sức mạnh của đức
tin cũng là một trong những nguyên nhân để tạo ra hoặc làm thay đổi nghiệp quả
của một con người. Xét cho cùng, nhân và quả của mỗi con người cũng là do chính
người ấy tạo ra chứ không ai khác. Vì vậy, thay đổi đức tin của anh ta theo một
chiều hướng nào đó có thể giúp làm chuyển biến tích cực những điều xảy đến cho
anh ta.
Tôi im lặng một lúc lâu
rồi mới đánh bạo thưa hỏi:
– Bạch thầy, con vẫn
chưa hiểu vì sao hôm nay thầy nói với con những điều ấy?
Sư phụ nhìn tôi với ánh
mắt cảm thông, vì người đọc thấu sự hoang mang của tôi lúc ấy:
– Này Mukunda, nếu con
chỉ là một tu sĩ bình thường đi tìm sự giải thoát ở một mức độ nào đó cho chính
bản thân mình, ta cũng không cần quan tâm nhiều đến con như thế. Nhưng đến hôm
nay ta có thể nói cho con biết rằng trách vụ của con lớn hơn thế rất nhiều. Con
sẽ là người thay ta đảm đương việc truyền giáo sang phương Tây, và điều đó buộc
con phải có một kiến thức rộng về đủ các bộ môn khoa học, nếu như con muốn rằng
tiếng nói của con được người ta lắng nghe.
– Bạch thầy, con sẽ cố
gắng.
– Ta biết con không tin
vào khoa chiêm tinh, và đã có lần con đốt bỏ lá số tử vi mà cha mẹ đã xin cho
con. Sự vững tin vào nhân quả là điều rất tốt, nhưng thái độ của con còn có
phần nào đó xuất phát từ sự thiếu hiểu biết về khoa học này.
Tôi hơi có phần ngạc
nhiên, nhưng rồi tự kiềm chế được. Quả thật không có chuyện gì thầy tôi không
biết được, ngay cả những việc xảy ra từ trong quá khứ mà chính tôi tưởng chừng
cũng đã lâu không nhớ đến.
Ngày tôi còn bé, cha mẹ
tôi có xin cho tôi một lá số tử vi. Trong đó có đoạn nói rằng tôi sẽ cưới vợ ba
lần và hai lần góa vợ. Từ khi tôi bắt đầu khôn lớn, tôi đã lấy làm khó chịu về
lời tiên tri đó, bởi vì ngay cả việc cưới vợ cũng đã không phải là điều tôi
nghĩ đến. Một hôm, tôi đốt lá số tử vi ấy đi, lấy tro bỏ vào một phong bì bằng
giấy và bên ngoài ghi lên dòng chữ rằng:
“Chỉ những hạt giống đã
gieo vào đất ẩm mới có thể nảy mầm và đơm hoa kết trái.”
Tôi đặt phong bì ấy trở
lại nơi cất lá số tử vi để mọi người đều biết việc làm của mình. Anh Ananta đã
chế nhạo tôi rằng: “Em không thể đốt cháy sự thật giống như lá số tử vi này.
Những gì đến sẽ đến.”
Thật ra, tôi không nghĩ
là bằng cách đốt cháy lá số tử vi tôi có thể làm thay đổi vận số, nhưng tôi tin
rằng những điều kiện tinh thần hôm nay chính là mảnh đất để những hạt giống của
quá khứ đâm chồi. Và nếu tôi cương quyết không tưới tắm, chăm sóc cho những hạt
giống ấy thì nó không thể dễ dàng nảy mầm lên được. Tôi nghĩ như vậy là vì tôi
đã cương quyết sẽ sống cuộc đời tu sĩ mà không lập gia đình như anh tôi. Nhưng
anh Ananta đã không có đủ hiểu biết để nhận ra ý nghĩa sâu xa trong lời thách
thức số mệnh của tôi.
Quả thật, cho đến khi
tôi bước vào tuổi trưởng thành, gia đình tôi trước sau đã ba lần tính chuyện
hôn nhân cho tôi, và bằng cách này hay cách khác tôi đều phản đối thành công
những kế hoạch ấy. Về sau, khi nghĩ đến khoa chiêm tinh và các lá số tử vi, tôi
không có mấy ấn tượng tốt đẹp ngoài việc cho rằng chỉ là những lời đe dọa vớ
vẩn dành cho những người thiếu hẳn đức tin.
– Bạch thầy, không phải
thầy đã dạy con rằng, người ta phải lãnh chịu những quả báo tốt hoặc xấu mà họ
đã tạo ra, và không có cách nào để tránh né hoặc trốn chạy? Như vậy thì những
lá số tử vi liệu có ích lợi gì? Và nói chung thì khoa chiêm tinh liệu có ích
lợi gì?
Thầy tôi cười bao dung:
– Sẽ có ngày con không
nghĩ như thế nữa, nếu như con hiểu biết nhiều hơn về khoa chiêm tinh. Những
người đi trước chúng ta đã đúc kết trí tuệ tinh hoa của nhiều đời để nhận biết
rằng có một mối tương quan nhất định giữa mỗi con người với toàn thể vũ trụ
này, và nói cụ thể hơn là với một số các vì tinh tú trên bầu trời, với vị trí
và sự chuyển vận của chúng. Những mối tương quan ấy được xác lập không do một ý
chí quyền năng nào, mà do chính nơi những nghiệp quả tốt hoặc xấu của mỗi
người. Nếu một người hiểu được và nhìn thấy rõ những mối tương quan ấy, người
đó cũng đồng thời có được những phản ứng tích cực hơn thay vì chỉ chờ đợi mọi
việc tuần tự xảy đến.
– Bạch thầy, như thế
không phải là chống lại luật nhân quả hay sao?
Thầy tôi bật cười:
– Liệu con có thể chỉ
ra được một cách rạch ròi rằng đâu là nhân, đâu là quả của một người trong một
sự việc hay không? Con nên nhớ rằng, một sự việc nếu được xem là quả của quá
khứ thì đồng thời cũng chính là nhân của tương lai. Thậm chí ngay trong mỗi một
sự việc, có những yếu tố được quyết định do nghiệp lực từ đời trước, nhưng cũng
có những yếu tố lại được quyết định ngay trong giây phút hiện tại. Sự đan xen
phức tạp, tinh vi ấy đã làm cho không một trí tuệ nào của người đời có thể thấy
rõ được tất cả mọi yếu tố nhân quả, mà chỉ có bậc đã giác ngộ hoàn toàn, đấng
Như Lai Chánh Đẳng Giác mới có thể thấy rõ và hiểu đúng được tất cả.
– Bạch thầy, xin cho
con một ví dụ.
– Như có một nhóm người
đang muốn đi Calcutta,
họ cùng ngồi trên một chiếc xe để chờ khởi hành. Khi xe sắp chạy thì một người
trong số đó nhìn thấy bên kia đường có một con chó, vì bới đống rác để tìm thức
ăn nên bị một cái thùng gỗ rơi xuống đè vào chân. Con chó không sao rút chân ra
được. Người ấy động lòng thương liền chạy sang để cứu con chó. Khi anh ta bẩy
cái thùng gỗ nặng nề lên và lôi được con chó ra thì chuyến xe đã khởi hành mất
rồi. Anh ta đành phải lấy làm tiếc mà ngồi đợi chuyến xe sau. Không ngờ chuyến
xe trước ấy vừa ra khỏi thành phố thì gặp tai nạn và lật nhào xuống ruộng, mọi
người không còn ai sống sót. Con có thể nhìn những điều ta nói qua sự việc này.
Cộng nghiệp sẽ xảy đến cho cả nhóm người này là họ phải chết trong vụ tai nạn
lật xe. Những điều ấy được quyết định từ ác nghiệp nào đó họ dã gây ra vào
những thời điểm khác nhau trong quá khứ. Nhưng ngay trong giây phút mà nghiệp
quả đã chín muồi, một người trong số họ đã phát khởi lòng thương với một sinh
vật. Hành vi này được quyết định ngay trong giây phút hiện tại, xuất phát từ
tâm lành của chính anh ta mà không phải do sự thúc đẩy của nghiệp lực. Chính
nhờ một quyết định đúng đắn, một việc lành được thực hiện đúng lúc, anh ta đã
thoát khỏi một cái chết thê thảm do nghiệp lực đưa đến.
– Bạch thầy, như vậy
con hiểu là trong mọi trường hợp, phát khởi thiện tâm bao giờ cũng là cách tốt
nhất để tác động tích cực vào nghiệp lực.
– Hoàn toàn chính xác.
Nhưng ngoài ra thì những tha lực hộ trì cũng có những tác động nhất định. Chẳng
hạn như hôm nay ta sẽ cho con một bài học về việc ấy.
– Bạch thầy, con xin
lắng nghe.
– Ta đã nghiệm cho con
một lá số tử vi ngay trong lúc này, và biết rằng trong một thời gian ngắn nữa
con sẽ mắc phải một căn bệnh rất khó chịu. Căn bệnh ấy sẽ kéo dài trong 6
tháng. Tuy nhiên, ta có một món linh phù mà chính ta đã làm phép chú nguyện
vào. Nếu con đeo nó vào người từ nay đến ngày đó, căn bệnh sẽ được rút ngắn còn
lại 24 ngày. Trong việc này, ta cho con hoàn toàn quyết định, con có thể nhận
đeo nó hoặc là không đeo.
Sư phụ nói rồi đưa cho
tôi một vật nhỏ có vẻ như được đúc bằng bạc và chì, có dây đeo. Tôi quyết định
đeo nó vào người ngay trước mắt sư phụ để tỏ cho người thấy tôi hoàn toàn tin
tưởng vào lời dạy của người, cho dù bản thân tôi quả thật chưa hiểu rõ. Kinh
nghiệm qua nhiều lần tỏ thái độ hoài nghi với sư phụ đã cho tôi thấy là bao giờ
cũng chỉ dẫn đến sự hối tiếc mà thôi.
Tuy vậy, trong thâm tâm
tôi lấy làm nôn nóng mà chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra, bởi vì sức khỏe tôi lúc
ấy đang rất tốt nên việc ngã bệnh có vẻ như phần nào thật khó tin.
Sau đó mấy hôm thì sư
phụ có việc đi Bénarès. Còn tôi thì cũng quên dần đi lời tiên tri của người.
Nhưng chưa được một
tuần lễ sau nữa thì tôi bắt đầu nghe đau nhói ở bên hông. Thầy thuốc địa phương
cho biết tôi bị đau gan nhưng ông không chắc lắm trong việc chữa trị vì không
có đủ thuốc men. Tôi quyết định đặt trọn niềm tin vào sư phụ.
Những ngày sau đó thật
là dài lê thê với những cơn đau hành hạ và tôi suy nhược nhanh chóng vì chẳng
ăn uống gì được bao nhiêu. Tôi dồn mọi nỗ lực vào công phu thiền định và nghĩ
đến món linh phù sư phụ đã cho tôi như một lá bùa hộ mệnh.
Hơn ba tuần sau, khi
tôi tưởng chừng như mình không còn đủ sức để chịu đựng lâu hơn nữa thì sư phụ
trở về như một cứu tinh.
Sư phụ vào phòng thăm
tôi ngay khi vừa trở về đạo viện. Thầy lấy tay xoa đầu và hỏi han bệnh tình của
tôi. Tôi ứa nước mắt vì cơn đau mà cũng vì vui mừng được gặp lại sư phụ trong
những giây phút nguy nan của đời mình:
– Bạch thầy, xin hãy
cứu con.
– Con quên lời ta đã
nói rồi sao? Nếu con thật sự tin tưởng ta thì chẳng có gì phải lo lắng cả.
Tôi nhẩm tính và chợt
nhận ra ngày hôm đó đúng là ngày thứ 24 kể từ hôm tôi phát bệnh. Sư phụ tự tay
pha cho tôi một ly nước nóng và đỡ tôi ngồi dậy trên giường bệnh. Tôi uống hết
ly nước và thầy bảo tôi hãy nằm yên để nghỉ ngơi.
Đêm hôm đó, tôi ngủ một
giấc rất say và giật mình thức giấc vào khoảng nửa đêm. Một cảm giác nóng ran
dễ chịu nơi món linh phù tôi đeo trên ngực, lan dần ra khắp vùng ngực và rồi
xuống đến vùng bị đau. Tôi có cảm giác nơi chỗ đau ngày càng nóng lên, ban đầu
rất dễ chịu, rồi sau đó nóng bỏng đến cực độ. Khoảng nửa giờ sau thì những cảm
giác ấy dần dần tan biến mất. Tôi đưa tay sờ vào chỗ bị đau và kinh ngạc khi
nhận ra đã không còn cảm giác gì nữa. Toàn thân tôi không còn nghe mỏi mệt rã
rời như suốt mấy tuần lễ qua, mà thay vào đó là một sự sảng khoái, thanh thản
mà đã lâu tôi không có được.
Ngày hôm sau, tôi hoàn
toàn bình phục trước sự ngạc nhiên của tất cả huynh đệ trong đạo viện. Tuy vẫn
còn gầy ốm nhưng tôi ăn uống trở lại bình thường và không còn bị cơn đau hành
hạ nữa. Và khoảng hai tuần sau thì tôi đã lấy lại được sức khỏe như trước.
Một buổi tối, sư phụ
gọi tôi lên phòng của người và nói:
– Thầy hy vọng là qua
lần này con đã hiểu ra được nhiều điều. Có những khoa học tuy không nên lấy đó
làm cứu cánh nhưng cũng không thể tùy tiện phủ nhận tính đúng thật của nó khi
chúng ta chưa có đủ hiểu biết. Trên đường hoằng hóa sau này, con còn phải dựa
rất nhiều vào đức tin và kiến thức bao quát của mình. Thầy mong rằng từ nay con
sẽ chín chắn hơn và sẵn sàng học hỏi những điểm mới thay vì là cố chấp vào
những gì đã biết.
Cuộc đời phiêu bạt đầy
sóng gió của tôi về sau đã chứng tỏ sự lo xa và những lời dạy dỗ của sư phụ là
hoàn toàn đúng đắn.
CHƯƠNG IV: NHỮNG TRƯỜNG
HỢP LẠ LÙNG
Một trong những người
bạn của tôi, anh Santosh, là con trai của một bác sĩ thú y, ông Chunder Roy.
Chunder Roy là một kiểu
người trí thức nửa mùa, hiểu biết thì nông cạn nhưng lòng tự cao tự đại thì rất
lớn. Ông chưa từng có thái độ tin tưởng vào bất cứ điều gì khác hơn là những
điều ông đã học được ở trường lớp.
Santosh là một người
giàu lòng tin, và chính anh đã khẩn khoản nhờ tôi nói với sư phụ Śrỵ Yukteswar
để người giúp đỡ trong việc cải hóa con người của cha anh.
Chúng tôi thành công
trong việc thuyết phục ông Roy
đến viếng thăm đạo viện một lần. Tuy nhận lời nhưng ông nói với giọng rất trịch
thượng:
– Tôi đã nghe lắm người
ca ngợi ông đạo này, nên cũng muốn đến thăm một lần xem sao.
Cuộc gặp gỡ hết sức tẻ
nhạt với vài ba câu chào hỏi xã giao và những khoảng im lặng kéo dài. Sư phụ
tôi có vẻ như không muốn chủ động đưa ra vấn đề gì cả.
Khi ông bác sĩ đã ra
về, sư phụ hỏi tôi:
– Con đưa một người sắp
chết đến đây làm gì?
Tôi lấy làm ngạc nhiên
về câu hỏi ấy:
– Bạch thầy, nhưng ông
ta là một người đang khỏe mạnh.
– Người ấy sắp chết đến
nơi rồi.
Tôi thật sự bàng hoàng,
vì tôi biết sư phụ không nói đùa và càng không nói sai sự thật:
– Bạch thầy, con trai
ông ấy vẫn nuôi hy vọng là thời gian sẽ giúp cải hóa ông ta. Nhưng nếu như thế
thì quả là tuyệt vọng. Cầu xin thầy hãy cứu vớt ông ta.
Sư phụ đáp:
– Điều quan trọng vẫn
là những quyết định cải hối từ phía ông ta. Nhưng theo lời khẩn cầu của con và
tấm lòng thành của người con trai, ta sẽ tạo cho ông ấy thêm một số cơ hội.
Dừng một lát, sư phụ
nói tiếp:
– Tuy ông ta là bác sĩ
thú y, nhưng ông đã không tự biết được là ông đang bị chứng tiểu đường rất
nặng. Khoảng một tuần nữa ông ta sẽ bắt đầu nằm liệt giường. Các y sĩ sẽ bó
tay, và ông ta sẽ chết trong vòng 5 tuần lễ kể từ hôm nay. Với sự giúp sức của
ta, nếu ông ấy chịu đeo một món linh phù đã được chú nguyện, ông sẽ khỏi bệnh
cũng vào ngày mà lẽ ra ông phải chết. Ta biết là ông sẽ phản đối dữ dội trước
khi chịu đeo món linh phù vào người.
Sư phụ lại im lặng. Một
lát, người đưa cho tôi món linh phù nhỏ bé và nói tiếp:
– Sau khi khỏi bệnh,
con hãy khuyên ông ta ăn chay, không được ăn thịt. Nếu ông ta không nghe lời
khuyên đó, ông ta sẽ chết trong vòng sáu tháng sau, đúng vào ngày mà ông ta
nghĩ rằng mình đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Ngày hôm sau, tôi mang
món linh phù đến tìm Santosh và chúng tôi cùng thuyết phục bác sĩ Roy đeo nó vào người. Ông
ta phản ứng dữ dội bằng những lời nặng nề và xúc phạm:
– Đừng hù dọa ta với
những lời tiên tri này nọ. Ta đang rất khỏe và sẽ không bệnh hoạn gì cả. Hãy
dẹp những món linh phù vớ vẩn ấy đi.
Nhưng một tuần sau thì
Santosh lại đến tìm tôi và thông báo là cha anh đã đồng ý đeo món linh phù. Ông
ta đang trong tâm trạng hốt hoảng vì quả thật ông đã ngã bệnh và bác sĩ điều
trị xác định đúng là bệnh tiểu đường như lời thầy tôi nói. Hơn thế nữa, bác sĩ
còn tuyên bố bệnh của ông đã đến giai đoạn mà y học lúc ấy hoàn toàn bó tay và
chỉ còn chờ ngày chết. Hết sức kinh ngạc trước những dự báo chính xác của thầy
tôi, ông lập tức bảo Santosh đến tìm tôi để xin được đeo món linh phù như một
tia hy vọng cuối cùng.
Khi chúng tôi đến chỗ
ông thì bác sĩ điều trị cũng vừa bước ra. Ông nói nhỏ với Santosh:
– Bệnh của cha em đã
nguy kịch đến mức không sao cứu chữa được nữa rồi.
Tôi nhìn ông ta, lắc
đầu và nói:
– Không, sư phụ tôi đã
nói là ông ta sẽ khỏi bệnh. Căn bệnh của ông ta chỉ kéo dài một tháng thôi.
Ông bác sĩ trố mắt nhìn
tôi như nhìn một người mất trí, rồi không buồn cãi lại, ông xếp y cụ ra về.
Một tháng sau, ông ta
tình cờ gặp tôi trên đường phố và đón tôi lại, nói với vẻ hết sức kinh ngạc:
– Này em, tôi không
biết sư phụ của em là ai, nhưng chắc chắn ông ta là một nhà tiên tri hoặc một
người chữa bệnh thần bí. Ông Roy đã hoàn toàn bình phục một cách rất đột ngột.
Trong đời thầy thuốc của tôi, tôi chưa gặp một trường hợp nào tương tự như vậy
trước đây cả.
Tôi liền ghé qua thăm
ông Roy và nói
cho ông biết là ông nên ăn chay nếu như muốn giữ gìn được sức khỏe và sinh mạng
của mình. Ông ta im lặng lắng nghe nhưng không có vẻ gì là tin nhận.
Sáu tháng sau, tôi lại
tình cờ gặp ông tại một cửa hiệu bán tạp hóa. Ông chào tôi và nói:
– Em hãy chuyển lời tôi
đến với sư phụ em rằng tôi đã hồi phục sức khỏe rất nhanh nhờ ăn nhiều thịt.
Lời khuyên phản lại khoa học dinh dưỡng của ông ta không gạt gẫm được tôi đâu.
Tôi nhìn ông ta, quả
thật ông rất mập mạnh và không còn chút dấu hiệu nào của bệnh tật.
Nhưng sáng hôm sau,
Santosh hốt hoảng chạy đến đạo viện tìm tôi và thông báo:
– Cha tôi đã bất ngờ
qua đời hồi sáng nay mà không có dấu hiệu gì báo trước cả.
Tôi lặng thinh. Lời
cảnh báo của sư phụ là hoàn toàn chính xác. Tiếc thay, ông ta đã không có đủ
phước duyên để nghe theo!
° ° °
Một trong những đặc ân
mà sư phụ dành cho tôi là được quyền đưa bạn bè của tôi về đạo viện để hội kiến
cùng sư phụ. Rất nhiều người trong số đó đã được sư phụ dắt dẫn vào con đường
tín ngưỡng.
Anh bạn Sasi của tôi
cũng là một người trong số đó. Từ khi được quen biết sư phụ tôi, anh thường
xuyên đến đây vào những ngày cuối tuần, lắng nghe những buổi giảng của sư phụ
một cách rất thích thú. Sư phụ tôi cũng tỏ ra rất mến anh.
Nhưng Sasi là một thanh
niên phóng đãng, ăn chơi vô độ. Một hôm sư phụ nhìn thẳng vào anh và nói rất
nghiêm nghị:
– Sasi, nếu con không
thay đổi cách sống, con sẽ mắc bệnh nặng, và đừng trách ta là đã không khuyên
can con trước.
Sasi cười và nói:
– Bạch thầy, con tin
lời thầy, nhưng có lẽ chỉ biết nhờ thầy cầu nguyện cho mà thôi. Con không đủ ý
chí để thay đổi lối sống từ lâu nay.
Sau đó tôi đã nhiều lần
gặp riêng Sasi để cố gắng thuyết phục anh thay đổi, vì tôi hiểu rất rõ tầm quan
trọng trong lời cảnh báo của sư phụ. Nhưng anh ta nói:
– Không phải tôi nghi
ngờ lời nói của thầy, nhưng quả thật tôi không thể nào thay đổi được cuộc sống
hiện nay.
Ít lâu sau Sasi không
còn ở gần chúng tôi nữa. Anh đến Bénarès và ở lại đó khá lâu.
Hơn một năm sau, một
hôm tôi đang cùng sư phụ uống trà thì sư huynh trực nhật vào báo là có khách.
Sư phụ nhìn tôi và nói:
– Sasi đến đấy. Nó đã
không nghe lời ta. Con hãy ra nói là ta không muốn gặp nó nữa.
Tôi bước ra sân đón
khách và thấy quả đúng là Sasi, vóc dáng hết sức tiều tụy. Tôi liền nói với anh
rằng sư phụ đã biết anh đến và người không muốn gặp anh. Sasi ứa nước mắt nói:
– Mukunda, tôi không
chỉ đến đây để viếng thăm. Tôi cần gặp người để cầu xin người cứu mạng tôi.
Vừa nói, anh vừa đẩy
tôi ra để đi thẳng vào phòng sư phụ. Khi tôi theo vào đến nơi, tôi nghe anh
đang nói với thầy qua tiếng khóc:
– Bạch thầy, bác sĩ
điều trị bảo rằng con đã mắc bệnh lao đến thời kỳ bất trị. Họ nói rằng con chỉ
sống được không quá ba tháng nữa. Con biết chỉ có thầy mới cứu được con vào lúc
này mà thôi. Con khẩn cầu thầy hãy từ bi cứu vớt lại cuộc sống cho con.
Sư phụ nhìn anh lắc
đầu:
– Đã quá muộn rồi con
ạ. Ta đã thấy trước ngày này từ lâu nhưng tiếc là con đã không nghe lời ta.
Sư phụ nói rồi yên lặng
nhắm mắt lại chìm sâu vào thiền định.
Sasi kiên nhẫn quỳ
trước mặt người như vậy trong khoảng hai giờ đồng hồ. Quả nhiên, cuối cùng
người cũng mở mắt ra. Tôi biết sư phụ chỉ muốn thử thách niềm tin của Sasi mà
thôi. Người nói:
– Thôi con hãy về đi.
Trong hai tuần nữa con sẽ khỏi bệnh. Và sau đó thì con hãy liệu mà cân nhắc lối
sống của mình.
Sasi mừng rỡ lộ ra nét
mặt:
– Bạch thầy, con có cần
phải uống thuốc không?
– Tùy con. Dù uống hay
không cũng chẳng có vấn đề gì. Dù sao thì con cũng sẽ không chết vì bệnh lao
đâu.
Tôi hơi băn khoăn vì
câu nói có vẻ hơi bí ẩn của sư phụ. Nhưng Sasi không hoài nghi gì. Sư phụ bỗng
nói thêm với giọng nghiêm nghị:
– Con về đi, đừng để có
khi ta lại đổi ý đấy.
Sasi hối hả từ biệt về
ngay.
Tôi lấy làm quan tâm
đến trường hợp của anh và vì thế thường ghé thăm anh trong những ngày sau đó.
Và tôi thật thất vọng khi thấy bệnh tình của anh ngày càng nguy kịch, không có
vẻ thuyên giảm chút nào. Vào ngày cuối cùng của tuần lễ thứ hai theo lời dự báo
của sư phụ, tôi đến thăm anh và anh không còn nói được nữa, chỉ nằm yên trên
giường đưa mắt nhìn tôi. Ánh mắt của anh như khẩn cầu tôi hãy thay anh mà van
xin cùng sư phụ. Ông bác sĩ điều trị nói với tôi:
– Anh ta không thể qua
khỏi đêm nay.
Tôi tức tốc trở về đạo
viện, tìm lên phòng sư phụ. Người nhìn tôi với ánh mắt lạnh lùng mà tôi chưa
thấy trước đó bao giờ:
– Sao con lại cuống lên
như thế? Ta chẳng đã nói là Sasi sẽ khỏi bệnh hay sao?
Không đợi tôi nói ra
lấy một lời, sư phụ đã bảo tôi như thế. Tôi không còn cách nào khác hơn là cúi
chào và lui ra.
Không ngủ được khi nghĩ
đến bạn mình đang hấp hối trên giường bệnh, tôi rời đạo viện và tìm đến nhà
Sasi ngay trong đêm.
Khi đến nơi, tôi vô
cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy Sasi đang ngồi uống sữa trên giường. Nhìn thấy
tôi, anh tươi cười nói:
– Mukunda! Thật là kỳ
diệu! Chỉ cách đây không đầy nửa giờ, tôi đột nhiên nhìn thấy sư phụ Śrỵ
Yukteswar hiện ra trong phòng này. Người đứng nơi cửa phòng nhìn tôi không nói
gì, nhưng ánh mắt ngài như có sức nóng truyền đến chỗ tôi. Kể từ lúc đó tôi
thấy cơn đau và sự mệt mỏi như tan biến dần. Chỉ một lúc sau thì sư phụ không
còn ở đó nữa. Tôi cảm thấy đói bụng cồn cào, liền ngồi dậy đòi uống sữa.
Tôi không còn biết nói gì, chỉ lặp lại lời
khuyên Sasi là sau khi hết bệnh hãy liệu mà tu tỉnh cuộc sống.
Chỉ hai tuần sau thì
Sasi hồi sức và lên cân rất nhanh trước sự kinh ngạc của bác sĩ điều trị cho
anh. Ông tuyên bố đây là một trường hợp chưa từng có và không thể nào giải
thích được bằng những kiến thức y học mà ông hiện có.
Nhưng tiếc thay đoạn
kết của câu chuyện này lại thật đáng buồn. Sasi vẫn chứng nào tật nấy, thậm chí
còn tránh né không lui tới nơi đạo viện như trước nữa. Có lần anh bảo tôi là vì
anh cảm thấy xấu hổ khi gặp mặt sư phụ.
Chỉ sáu tháng sau thì
anh ngã bệnh trở lại. Và lần này tôi đã vĩnh viễn mất anh.
° ° °
Một bạn học cùng lớp
của tôi, Dijen Babu, là người đang đứng giữa ngã ba đường về mặt tâm linh. Tôi
nói thế, vì anh ta một mặt muốn đặt niềm tin vào tín ngưỡng tôn giáo, một mặt
lại cũng hoài nghi về những giáo lý đôi khi rất trừu tượng và không dễ gì chứng
minh được bằng toán học.
Và vì thế, một ngày kia
tôi mời anh đến thăm đạo viện của chúng tôi.
Dijen theo tôi đến
viếng thăm đạo viện vào một buổi chiều và được tiếp chuyện cùng sư phụ Śrỵ
Yukteswar. Sau lần đó, anh thực sự quan tâm đến tín ngưỡng và thường xuyên lui
tới đạo viện ngày càng nhiều hơn. Tuy nhiên, những kiến thức khoa học của
trường đại học dường như đã làm cho anh không sao dứt sạch mối nghi ngờ về
những đạo lý trừu tượng mà người ta đòi hỏi anh phải tin nhận thay vì là lý
luận và chứng minh. Chẳng hạn, có lần anh thú nhận với tôi là vẫn không tin
được vì sao một điều tệ hại xảy ra cho chúng ta hôm nay lại dứt khoát phải là
hậu quả của một hành vi xấu trong quá khứ, khi mà chẳng ai có thể chỉ ra được
mối liên hệ đó cả!
Tôi thầm mong có một
dịp nào đó để Dijen hiểu ra rằng không phải mọi sự thật trong cuộc đời này đều
có thể được chứng minh bằng toán học.
Một ngày kia, sư phụ có
việc phải đi Calcutta
trong mấy hôm. Sư phụ để lại một mảnh giấy, bảo tôi và Dijen hãy ra ga đón
người trở về vào sáng thứ Tư, chuyến xe lửa 9 giờ sáng.
Nhưng vào khoảng 8 giờ
30 hôm thứ Tư, khi đã sắp sửa cùng Dijen ra ga đón thầy, tôi bất chợt có linh
cảm là thầy đang muốn nhắn gửi tôi điều gì đó. Tôi liền vào phòng và ngồi xuống
tập trung tư tưởng, giữ cho tâm hồn thật yên tĩnh. Trong trạng thái đó, một lúc
sau tôi nghe thấy tiếng sư phụ như vang lên trong thinh lặng: “Thầy còn một số
công việc chưa giải quyết kịp, nên sẽ không về vào chuyến xe lửa 9 giờ như đã
định. Các con không cần phải đi đón thầy.”
Tôi đi ra cổng, gọi
Dijen lại và cho anh biết rằng qua giao cảm tôi đã được sư phụ cho biết là
người sẽ không về kịp như đã định và vì thế không cần phải đi đón. Dijen nhìn
tôi với vẻ hoài nghi và nói:
– Thầy đã dặn lại chúng
ta bằng giấy mực hẳn hoi. Còn giờ đây anh chỉ dựa vào cái linh cảm trừu tượng
chẳng ai thấy được của anh để tuyên bố thay đổi, tôi làm sao có thể tin là anh
nói đúng được kia chứ?
Tôi không thể nói thêm
gì hơn, chỉ bày tỏ thái độ cương quyết là sẽ không đi. Dijen có vẻ bực tức, bỏ
ra cổng một mình. Anh ta không thể tin vào thông báo có tính cách đầy bí ẩn của
tôi.
Quay trở về phòng, tôi
bỗng thấy nhớ sư phụ lạ thường. Chỉ mấy ngày không gặp mà tôi thấy như đã xa
cách người quá lâu, không được nghe giọng nói ấm áp, không được nhìn dáng đi
khoan thai, ánh mắt hiền từ của người... tôi cảm thấy một sự trống vắng không
sao bù đắp được.
Tôi ngồi xuống tọa cụ
của mình, bắt đầu thư giãn và tĩnh tọa. Không khí yên tĩnh và tâm trạng thư
thái làm cho tôi thấy nhẹ nhõm đi bao nhiêu ý tưởng phiền toái. Tôi thấy đầu óc
mình trở nên minh mẫn lạ thường và một cảm giác lâng lâng sảng khoái như chưa
từng có được.
Trong trạng thái kỳ lạ
đó, bất chợt tôi hình dung thấy sư phụ như đang hiện ra trước mặt tôi. Không
phải ở Serampore, cũng không phải Calcutta, mà là trên một toa xe lửa, trong bộ
y phục màu vàng sậm thường ngày mà lúc này tôi có thể thấy rõ đến từng nếp
gấp... Cùng đi với người là một tiểu đồng ôm cái bình bằng bạc sáng chói đang
ngồi ở phía bên trái. Sư phụ quay lại nhìn và cười với tôi:
– Chắc con chưa quen
lắm với cách giao tiếp như thế này. Nhưng xem ra cũng tiện lợi đấy chứ.
Rồi thầy chỉ tay về
phía chú tiểu đồng:
– Con thấy đấy. Ta vừa
thu nhận thêm một đệ tử nhỏ. Và vì việc này mà ta phải chậm trễ một đôi chút.
Nhưng chuyến xe lửa ta đang đi đây sẽ đến ga vào lúc 10 giờ. Con có thể cùng
Dijen đến đón ta cũng vừa kịp đấy.
Những âm thanh, tiếng
nói ấy vang lên rõ ràng trong im lặng như thể tôi không nghe chúng bằng tai mà
bằng vào một thứ giác quan khác. Cũng vậy, những hình ảnh không đi vào trí óc
tôi bằng nhãn quan thông thường mà bằng một khả năng tiếp nhận hoàn toàn
khác...
Rồi trạng thái kỳ diệu
ấy tan biến dần đi. Tôi trở lại với tâm trạng bình thường khi nghe có tiếng
bước chân vang lên từ phía ngoài sân. Một cách mơ hồ, tôi biết đó là Dijen đã
trở lại từ nhà ga xe lửa.
Khi tôi mở cánh cửa
phòng khách để nhìn ra sân thì quả đúng là Dijen. Anh nhìn tôi có vẻ hơi bẽn lẽn
vì biết rằng mình đã sai khi không nghe lời tôi. Tuy vậy, anh không giấu được
sự ngạc nhiên về điều ấy:
– Mukunda! Tôi không
sao tin nổi là anh nói đúng, nhưng quả thật là vậy. Sư phụ đã không về trên
chuyến xe lửa lúc 9 giờ. Tôi đã chờ đến chuyến 9 giờ 30 và cũng không thấy.
Tôi mỉm cười với anh
ta:
– Nhưng thầy sẽ về trên
chuyến xe lửa lúc 10 giờ. Vì vậy tôi với anh phải đi ngay kẻo không kịp.
Dijen mở to mắt nhìn
tôi kinh ngạc và cuối cùng cũng miễn cưỡng đi theo tôi. Chúng tôi đến nhà ga
vừa lúc xe lửa đến. Dijen hỏi tôi:
– Anh biết chắc là sư
phụ sẽ về trên chuyến xe lửa này?
– Đúng vậy. Tôi đã tiếp
chuyện với thầy qua thần giao cách cảm. Tôi biết sư phụ có đưa về một tiểu
đồng, và cậu bé ấy ôm một cái bình bằng bạc đi cùng sư phụ. Người mặc bộ y phục
màu vàng sậm.
Khi tôi vừa nói dứt câu
ấy thì cũng vừa lúc Dijen nhìn thấy được sư phụ từ trong đám đông hành khách
vừa xuống tàu. Anh trố mắt nhìn thầy rồi quay sang nhìn tôi như đang quan sát
một hiện tượng kỳ lạ mà bộ óc của anh không sao lý giải được. Bởi vì quả thật
sư phụ mặc bộ y phục màu vàng sậm và đang cùng đi với một chú bé ôm cái bình
bằng bạc sáng chói!
Bản thân tôi cũng bàng
hoàng không ít. Lần đầu tiên trong đời tôi đã nhìn thấy được một cách hoàn toàn
chính xác những hình ảnh vượt qua không gian. Chính những hình ảnh của sư phụ
và chú bé ôm bình bạc này đã được tôi nhìn thấy lúc nãy, khi họ ngồi trên toa
xe lửa còn tôi thì đang ngồi trong phòng. Nhưng giờ đây thì thực tế chứng minh
rằng đó không phải là những ảo giác mà là những hình ảnh hoàn toàn có thật!
Sư phụ đã đi đến chỗ
chúng tôi khi mà cả hai đều còn chưa lấy lại được tâm trạng bình thường. Người
hiểu được điều đó và nói với cả hai:
– Các con không phải
suy nghĩ quá nhiều về những điều vốn vượt quá tầm hiểu biết của các con. Cách
tốt nhất là hãy thừa nhận những gì là sự thật, và chính kinh nghiệm bản thân sẽ
dần dần giúp các con hiểu rõ.
Trên đường về, tôi kể
cho Dijen nghe việc tôi đã nhìn thấy sư phụ khi người còn trên xe lửa. Lúc này,
anh đã hoàn toàn tin lời tôi và quay sang hỏi:
– Tôi không biết các
nhà khoa học sẽ nghĩ sao nếu họ cũng chứng kiến việc này như tôi và anh.
Tôi mỉm cười:
– Cách đây một thế kỷ,
anh cũng có thể đặt ra câu hỏi tương tự nếu có ai đó đã sử dụng đến vô tuyến
điện. Khoa học không phải đã hiểu hết những năng lực của con người cũng như
trong vũ trụ. Nhưng điều đáng mừng là có vẻ như dần dần rồi người ta cũng hiểu,
cho dù việc lý giải sự việc bao giờ cũng đi sau rất nhiều so với việc tiếp nhận
nó bằng trực giác. Biết đâu chừng trong khoảng một thế kỷ nữa, khoa học cũng có
thể làm được điều tương tự như chúng ta hôm nay nhờ vào một loại thiết bị nào
đó.[1]
Dijen có vẻ trầm ngâm
rất nhiều:
– Vâng, có lẽ anh nói
đúng. Chỉ có điều giờ đây tôi thấy không còn hứng thú để tiếp tục theo học ở
trường đại học nữa!CHƯƠNG V: MỘT CHUYẾN DU HÀNH
Mặc dù đã nhiều lần thất bại trong việc tìm lên
vùng núi Hy Mã Lạp Sơn, tôi vẫn không hoàn toàn từ bỏ giấc mơ đã ôm ấp từ thuở
bé. Tuy nhiên, Hy Mã Lạp Sơn lúc này đối với tôi là một nơi thắng cảnh thiên
nhiên với nhiều thánh tích đáng chiêm bái hơn là một nơi cần phải tìm đến để
thực hành công phu tu tập.
Cách đây hai năm, tôi đã xin với cha tôi mọi phí
tổn và cả vé xe lửa để đi Kashmir cùng với sư
phụ Śrỵ Yukteswar. Vào giờ chót, sư phụ đã từ chối không chịu đi và chuyến du
hành ấy đành phải hủy bỏ.
Trong dịp hè năm nay, tôi lại muốn thực hiện
chuyến đi một lần nữa. Và dĩ nhiên cha tôi vui vẻ giúp tôi trong phạm vi khả
năng của ông. Sau khi nghe tôi trình bày ý định, ông đã mang về cho tôi 6 vé xe
lửa hạng nhất đi Kashmir và một khoản tiền lộ
phí là 10 ru-pi.
Tôi mang tất cả đến đạo viện trình với sư phụ và
cố thuyết phục người cùng đi với chúng tôi một chuyến lên vùng Kashmir. Tôi dùng từ “chúng tôi” vì với những vé xe lửa
đã chuẩn bị, tôi dự định sẽ mời Kanai, Rajendra, Auddy và một người bạn nữa
cùng đi. Sư phụ mỉm cười trước sự phấn khởi của tôi về chuyến đi và trả lời
theo cách không chắc chắn:
– Thầy cũng muốn đi cùng các con, nhưng hãy đợi
đến lúc ấy xem sao.
“Lúc ấy” nghĩa là thời điểm lên đường mà tôi đã
định, tức là vào thứ Hai tuần sau đó. Tôi cũng khá bận rộn để chuẩn bị, vì thứ
Bảy và Chủ nhật tôi phải tham dự đám cưới của một người anh họ được tổ chức
ngay tại nhà tôi ở Calcutta.
Mặc dù vậy, sáng sớm thứ Hai tôi vẫn kịp có mặt tại đạo viện với tất cả những
hành lý cần thiết được chuẩn bị chu đáo.
Rajenda đón tôi ngoài cổng và thông báo:
– Sư phụ không muốn đi.
Tôi vào tìm gặp sư phụ để xác định lại lời từ
chối ấy. Sư phụ nhìn tôi một lúc lâu rồi nói:
– Tốt hơn là con không nên đi vào lúc này. Hơn
nữa, thầy không nghĩ là con có thể xoay xở được đủ điều kiện để thực hiện
chuyến đi.
Tôi hơi khó hiểu về nhận xét của sư phụ, nhưng
cảm thấy thất vọng tràn trề và lòng tự ái bị xúc phạm. Không có sư phụ, chắc
chắn là Kanai cũng sẽ không đi. Tôi có thể vẫn cứ thực hiện chuyến đi của mình,
nhưng cần phải tìm thêm một người giúp việc đi theo để coi sóc hành lý trong
chuyến đi vì chúng tôi quá ít người. Và tôi đã quyết định như vậy.
Tôi bảo Rajendra và Auddy chờ nơi đạo viện, trong
khi tôi đi tìm người. Trước tiên, tôi nghĩ đến Behari, một người giúp việc cũ
của gia đình tôi mà hiện đang làm cho một công chức ở Serampore này. Lần trước,
khi Behari nghe tôi sắp xếp đi Kashmir, anh
chàng đã rất muốn đi đến nỗi tình nguyện không nhận thù lao nếu được tôi cho
theo. Tiếc rằng chuyến đi ấy đã bị hủy bỏ. Lần này, tôi tin là anh ta sẽ nhảy
nhổm lên vì vui mừng khi bất ngờ được tôi gọi tham gia.
Tôi gặp Behari bên ngoài nhà người chủ mới của
anh. Anh rất vui mừng được gặp tôi và vẫn bày tỏ thái độ kính trọng như xưa.
Nhưng thật lạ lùng là khi tôi nói đến việc đi Kashmir
thì anh ta lạnh lùng từ chối và đi một mạch vào nhà, không thèm quan tâm đến
việc bỏ tôi lại một mình ngoài sân không ai tiếp chuyện. Đợi một lúc lâu, tôi
không còn đủ kiên nhẫn liền rung chuông gọi cửa. Người chủ nhà bước ra và cho
biết Behari đã đi chợ bằng ngõ sau.
Tôi hơi khó hiểu trước thái độ thay đổi đột ngột
đến kỳ lạ của Behari. Nhưng bây giờ tôi không có thời gian để suy nghĩ nhiều
thêm nữa. Tôi cần phải tìm một người khác. Tôi nghĩ đến người chú của tôi là
Sarada Ghosh đang làm luật sư tại tòa án Serampore. Ông có một người giúp việc
tháo vát tên là Lal Dhari. Hy vọng là ông có thể cho anh ta đi theo giúp tôi trong
chuyến đi này. Tôi liền đến thẳng pháp đình để tìm chú.
Ông vui vẻ đón tiếp tôi với phong cách trầm tĩnh,
điềm đạm cố hữu của mình. Tôi mở đầu ngay vấn đề:
– Cháu đang chuẩn bị cho một chuyến du ngoạn lên
vùng Kashmir để thăm thú vùng Hy Mã Lạp Sơn.
Chú tôi tỏ ra rất phấn khởi trước tin đó:
– Ồ, thật là thú vị. Chính chú đây cũng ao ước
được lên vùng ấy một lần nhưng chưa có dịp. Vậy cháu có cần chú giúp đỡ gì
trong việc này không?
Câu hỏi thật cởi mở và hoàn toàn thích hợp để tôi
đưa ra đề nghị của mình:
– Thưa chú, mọi thứ đều đã chuẩn bị xong. Tuy
nhiên, cháu cần một người đi theo để mang hành lý và phục vụ trong chuyến đi.
Không biết chú có thể vui lòng để cho Lal Dhari theo giúp cháu một thời gian
được chăng?
Ngay lập tức, ông thay đổi sắc mặt và thậm chí
đánh mất cả bản tính trầm tĩnh xưa nay của mình. Ông đứng bật dậy từ chỗ ngồi
và quát thét:
– Đồ ích kỷ! Mày muốn đưa người giúp việc của tao
đi chơi rông trong khi công việc nhà thì chú mày đây phải nai lưng ra làm chắc?
Tôi hối hả rút lui ngay không dám nói thêm lời
nào, và tự nhủ lại thêm một chuyện khó hiểu nữa trong ngày hôm nay. Tôi có cảm
giác như những chuyện này có liên quan đến lời nhận xét bí ẩn sáng nay của sư
phụ Śrỵ Yukteswar.
Cuối cùng thì có lẽ chúng tôi cũng vẫn ra đi, vì
các bạn tôi đã sẵn sàng trước cổng đạo viện để chờ tôi. Khi tôi vào chào sư
phụ, người trầm ngâm một lúc rồi nói:
– Mukunda, con hãy nán lại với thầy thêm một lúc
nữa. Hãy bảo các bạn con đi trước đến Calcutta
và chờ ở đó. Con sẽ bắt kịp họ và cùng đáp chuyến xe lửa chiều.
Tuy không hiểu gì, nhưng tôi vui vẻ vâng lời sư
phụ. Các bạn tôi chất hành lý lên một chiếc xe ngựa và đi trước đến Calcutta. Họ sẽ chờ tôi ở
ga xe lửa.
Chỉ ngay khi xe ngựa vừa đi khuất được một lát
thì tôi nghe quặn đau trong ruột. Cơn đau nổi lên từng chặp và chỉ trong một
lúc thì tôi đã toát cả mồ hôi ướt đẫm trên trán, ngã quỵ xuống tại chỗ và quặn
người lại tưởng như không sao chịu đựng nổi.
Sư phụ và Kanai khiêng tôi lên giường. Người nhìn
tôi với cặp mắt hiền từ thương xót nhưng rất bình tĩnh. Trong khi tôi rên xiết
vì đau đớn thì người quay sang nói với Kanai:
– Hãy để ta săn sóc cho Mukunda. Con đến tìm bác
sĩ và bảo ông ta mang theo đầy đủ dụng cụ để phẫu thuật ruột thừa tại chỗ.
Chúng ta không có đủ thời gian để đưa bạn con đến bệnh viện tại Calcutta đâu.
Khi Kanai đã rời đi, tôi tưởng chừng như ngất đi
liên tục vì những cơn đau. Sư phụ ngồi xuống cạnh tôi trên giường, đặt tay lên
chỗ đau và nói:
– Con hãy cố gắng chịu đựng. Thầy sẽ không giúp
được gì nhiều hơn là việc giữ lại mạng sống cho con. Nhưng sự đau đớn lần này
sẽ giúp con giũ bỏ được hết ác nghiệp trong quá khứ.
Những lời nói của sư phụ có tác dụng như một liều
thuốc an thần cực mạnh. Tuy cơn đau không hề thuyên giảm nhưng tôi nghe tinh
thần mình được trấn tĩnh lại, và tự nghĩ những công phu tu tập của mình rõ ràng
là cần phải được vận dụng vào lúc này.
Việc mổ ruột thừa tại chỗ là khá mạo hiểm vào lúc
ấy. Nhưng sau khi khám cho tôi xong, bác sĩ cũng hoàn toàn đồng ý đó là giải
pháp duy nhất phải làm. Ông cũng báo trước là tôi phải chịu đựng đau đớn nhiều
vì trong điều kiện ở đây ông không dám lạm dụng thuốc gây mê.
Những giờ đồng hồ sau đó đối với tôi là cả một
thế kỷ dài, nhưng cuối cùng rồi tôi cũng vượt qua được. Sư phụ bảo đưa tôi vào
nằm trong phòng của người để tự tay chăm sóc cho tôi. Với sức mạnh tinh thần có
được từ sự động viên trực tiếp của sư phụ, tôi cũng dần dần thấy khỏe lại.
Các bạn tôi phải một chuyến leo cây vào hôm đó.
Họ rất tức giận, nhưng khi trở về đạo viện và nghe kể lại mọi chuyện, họ đều
mừng thay cho tôi về chuyện này. Không biết sự việc sẽ ra sao nếu như mọi việc
đã suôn sẻ từ sáng sớm và tôi đang ngồi trên xe lửa vào lúc lên cơn đau ruột
thừa? Về phần tôi, tôi lại thêm một lần nữa biết được sự can thiệp hết sức khéo
léo của sư phụ trong việc bảo vệ và chăm sóc cho tôi.
° ° °
Hai tuần sau đó, sư phụ nói với tôi:
– Sức khỏe con hiện nay đã tạm ổn. Thầy sẽ cùng
đi với con lên Kashmir một chuyến để thỏa mãn
ước mơ của con.
Thông báo này của sư phụ như một món quà quá bất
ngờ và làm tôi sung sướng đến cực độ. Ngay lập tức, tôi chuẩn bị đầy đủ mọi thứ
và chuyến đi được khởi hành ngay trong ngày sau đó.
Nhóm chúng tôi cả thảy 6 người, đáp xe lửa đi
Kashmir và dừng chân trạm đầu tiên tại Simla, một thành phố nằm dưới chân dãy
Hy Mã Lạp Sơn. Chúng tôi dạo chơi trên những con đường dốc và chiêm ngưỡng cảnh
đẹp của vùng núi non hiểm trở.
Sau đó, chúng tôi rời Simla và cũng tiếp tục đi
bằng xe lửa đến Rawalpindi.
Từ đây, chúng tôi thuê một chiếc xe song mã để đi đến Srinagar,
thủ phủ của Kashmir. Chuyến đi bằng xe ngựa
này dự trù kéo dài trong bảy ngày. Trời nắng gắt nên khí hậu nóng bức. Tuy
nhiên, phong cảnh miền núi non xanh tươi xinh đẹp trải rộng mênh mông ở cả hai
bên đường đã làm cho chúng tôi không cảm thấy mệt nhọc lắm.
Auddy tỏ vẻ thích thú khi được nhìn ngắm phong
cảnh của vùng này, và điều đó làm tôi có phần tự hào vì đã khởi xướng ra chuyến
đi. Sư phụ biết được ý nghĩ ấy của tôi. Người kề tai tôi nói nhỏ vừa đủ để tôi
nghe:
– Thật ra Auddy đang nghĩ đến việc hút thuốc lá
nhiều hơn là ngắm cảnh.
Việc hút thuốc trước mặt sư phụ tất nhiên là
không thể được. Nhưng tôi thật không tin anh bạn Auddy của tôi lại là người
nghiện thuốc lá. Tôi biết anh ta khá lâu và chưa phát hiện ra điều ấy bao giờ.
Tôi liền nói với sư phụ ý nghĩ ấy. Sư phụ cười và nói:
– Được rồi, chỉ trong chặng đường sắp tới con sẽ
được biết sự thật.
Khi xe ngựa dừng ở trạm nghỉ để ngựa uống nước.
Tôi nghe Auddy lễ phép thưa với sư phụ:
– Bạch thầy, con muốn được ngồi ở phía trước với
người đánh xe để hóng gió mát.
Sư phụ gật đầu. Một lát, người quay sang nói với
tôi:
– Không phải gió, mà là thuốc lá đã lôi cuốn
Auddy ra ngồi phía trước.
Xe lại tiếp tục đi. Được một quãng xa, sư phụ vỗ
vai tôi và bảo:
– Giờ thì con có thể nhìn xem Auddy nó hóng gió
như thế nào rồi.
Tôi liền vén tấm rèm cửa sổ, thò đầu ra ngoài để
nhìn về phía trước. Quả thật, Auddy đang nhả khói mù mịt như ống khói xe lửa.
Có lẽ anh ta đã xin một điếu của người đánh xe, vì trong hành lý chúng tôi mang
theo không có thuốc lá.
Tôi nói với sư phụ:
– Sư phụ nói đúng. Nhưng từ lâu con không hề biết
là anh ta nghiện thuốc lá.
Trên suốt chặng đường, chúng tôi nghỉ ở những
quán trọ rất đơn sơ và tự nấu ăn với những món đã mang theo. Phong cảnh ngày
càng trở nên hùng vĩ hơn với những con suối, thác nước, thung lũng và vực thẳm
với những sườn núi cheo leo... Tất cả đều được bao phủ bởi màu xanh ngút ngàn
của rừng cây rậm rạp. Tôi cảm thấy quả thật không uổng công mình đã bao lâu ấp
ủ cuộc hành trình này.
Chúng tôi vào Srinagar theo một con đường nhỏ có hai hàng
cây cổ thụ chạy dài ven đường che mát và thuê phòng ở một nhà trọ nhỏ. Dân địa
phương cho chúng tôi biết là khí hậu của mùa hè năm nay có phần dễ chịu hơn mọi
năm vì ban ngày không quá nóng và ban đêm không quá lạnh.
Sư phụ đưa chúng tôi đến thăm viếng những ngôi
đền cổ và một số thánh tích ở nơi đây. Trong số đó có đạo viện Shankara mà về
sau tôi sẽ xây dựng đạo viện của mình ở Los
Angeles giống hệt theo như kiến trúc của nó.
Sau hai tuần lưu lại Kashmir,
tôi sắp xếp ra về để kịp chuẩn bị cho ngày tựu trường. Sư phụ còn muốn ở lại
với Kanai và Auddy thêm một thời gian nữa. Trước khi tôi về, sư phụ nói với tôi:
– Có lẽ thầy sắp ngã bệnh rất nặng ở đây.
Tôi trố mắt ngạc nhiên:
– Nhưng thầy đang rất khỏe?
– Đúng vậy, nhưng đó là chuyện của hôm nay. Còn
vài ba hôm nữa lại là chuyện khác.
Tôi biết sư phụ không nói đùa, nên bịn rịn không muốn
ra về. Sư phụ bảo tôi:
– Cho dù con có ở lại cũng chẳng làm được gì. Hãy
về đi và cứ yên tâm là dù bệnh nặng đến đâu thì ta cũng chưa bỏ con mà đi đâu
Biết tính sư phụ, tôi không dám nói gì thêm nữa.
Tôi hiểu rằng một khi người đã quyết định điều gì thì đều có những lý do chính
đáng mà chỉ sau khi mọi việc đã xảy ra chúng tôi mới có thể hiểu được.
Điều mà tôi có thể tự an ủi khi lên đường ra về
là niềm tin vào trí tuệ sáng suốt của sư phụ. Tôi tin là người có thể dự báo
trước mọi việc thì cũng có thể biết phải làm gì để những điều tồi tệ nhất không
thể xảy ra, vì không phải cho riêng người, mà còn là cho tất cả chúng tôi,
những môn đệ của người.
Khi về đến Serampore được hai ngày, tôi nhận được
điện tín của Auddy gửi về:
– Sư phụ bệnh rất nặng!
Tôi biết là thầy đã không nói đùa với tôi. Tôi
liền gửi một bức điện cho sư phụ theo địa chỉ nhà trọ:
– Xin thầy giữ lời đã hứa với con.
Tôi không biết Auddy và Kanai có hiểu gì không,
nhưng chắc chắn là sư phụ biết tôi muốn nói gì. Một tuần sau, Kanai gửi tiếp cho
tôi một bức điện, nội dung viết:
– Có lẽ sư phụ sẽ không qua khỏi.
Tôi hốt hoảng nhất thời, nhưng rồi bình tĩnh lại.
Tôi không tin là sư phụ lại không biết trước được sự ra đi của chính mình. Tôi
liền gửi cho Kanai và Auddy một bức điện khác:
– Hãy yên tâm, sư phụ không thể ra đi vào lúc này.
Năm ngày sau, tôi nhận điện của Auddy gửi về:
– Thầy đã khỏe và sẽ về trong tuần tới.
Tôi thở phào nhẹ nhõm. Cuối cùng thì tôi cũng đã
giữ vững được niềm tin vào sư phụ. Người đã không để tôi phải thất vọng bao giờ.
Sư phụ trở về gầy ốm hơn trước nhiều, nhưng đôi
mắt người vẫn không hề đánh mất sự tinh anh. Khi tôi hỏi về căn bệnh của sư
phụ, Kanai đã kể lại với tôi:
– Thật là khó hiểu. Sư phụ ngã bệnh rất đột ngột.
Người không ăn uống gì trong nhiều ngày. Cơ thể sốt rất cao nhưng người vẫn
luôn giữ được sự bình thản chịu đựng. Chỉ trong một tuần, sư phụ suy sụp một
cách khủng khiếp và một đêm kia người rơi hẳn vào trạng thái mê man không còn
chút dấu hiệu gì của sự sống ngoài hơi thở vẫn đều đều thật nhẹ. Chính vào hôm
đó tôi đã đánh điện khẩn cho anh vì nghĩ rằng sư phụ sẽ không qua khỏi. Chúng
tôi rất ngạc nhiên về bức điện trả lời của anh, nhưng quả thật nó làm chúng tôi
bớt lo lắng. Và qua hôm sau thì sư phụ bắt đầu khỏe lại. Chỉ trong vòng năm
ngày, người ăn uống bình thường và đề nghị chúng tôi sắp xếp việc đi về.
Tôi tin rằng mình tự hiểu được nguyên nhân sư phụ
ngã bệnh, cho dù người không nói ra bao giờ. Qua kinh nghiệm bản thân trong lần
đau ruột thừa và lời khuyên của sư phụ, tôi hiểu rằng bệnh khổ cũng là một
trong những hình thức mà người tu tập thọ lãnh các ác nghiệp của chính mình
trước đây. Sư phụ có thể đã chấp nhận một cơn bệnh khổ để giũ bỏ những ác nghiệp
từ lâu xa trong quá khứ, tạo điều kiện cho sự chín muồi của công phu tu tập
hành trì.
Với tâm từ bi thương xót tất cả sinh linh, những
vị chân sư đôi khi cũng phát nguyện tự mình gánh chịu những nghiệp quả xấu cho
người khác. Trong những trường hợp đó, các vị tự mang lấy bệnh khổ vào bản thân
mình, nhưng không hề bị ảnh hưởng về mặt tinh thần mà chỉ là những đau đớn về mặt
thể xác mà thôi!
Khi tôi mang ít trái cây cho sư phụ và bày tỏ
lòng lo lắng về sự gầy ốm của người, sư phụ bật cười vang và nói:
– Như thế lại hóa hay. Có mấy bộ quần áo đã quá
chật từ lâu ta không dùng đến. Bây giờ lại có thể dùng đến chúng được rồi.
CHƯƠNG VI: MỘT TRƯỜNG
HỢP CẢI HỐI
Người anh rể của tôi, chồng chị Roma, là một
người thiếu đức tin. Mặc dù chị Roma đã được tôi dạy cho cách ngồi thiền và vẫn
thường xuyên thực hành ở nhà, nhưng chị gặp trở ngại rất lớn với người chồng
của mình. Anh ta thường hay chế giễu việc ngồi thiền cũng như có thái độ thiếu
cởi mở đối với các vị tu sĩ. Trong mắt anh, chỉ có những gì đã được khoa học
chứng minh mới là đáng tin cậy. Điều đó có một phần lý do xuất phát từ nghề nghiệp
của anh: một kế toán viên luôn luôn phải làm việc với những con số khô khan và
chính xác.
Roma là chị cả của tôi. Từ khi mẹ tôi mất, chị
đảm nhiệm cả vai trò người mẹ trong việc chăm sóc cho anh em chúng tôi. Vì thế,
tôi đặc biệt có một cảm tình sâu đậm đối với chị. Tôi vẫn thường dành thời gian
ghé thăm nhà chị ở Calcutta
bất cứ khi nào có thể được.
Chị Roma nhiều lần tâm sự với tôi nỗi khổ tâm của
chị về người chồng. Thật ra anh cũng là người rất tử tế và tốt bụng, nhưng
những đức tin và đạo lý không có gì chứng minh đã không thuyết phục được anh.
Anh cho rằng việc ngồi thiền chẳng làm ra được của cải vật chất gì, và như thế
quả là lãng phí thời gian vô ích. Còn những tiến bộ về tâm linh gì gì đó thì chẳng
ai có thể chỉ ra cho anh thấy được cả...
Tuy không nói ra, nhưng chị Roma hy vọng là một
ngày nào đó tôi sẽ có thể giúp chị thuyết phục được người chồng, giúp anh ta
trở thành một người có đức tin. Bởi vì trong mắt chị thì tôi là một người có
đức tin rất sâu vững và cũng có nhiều năng lực đặc biệt hơn hẳn các anh em khác
trong gia đình.
Chính tôi cũng có ý định ấy, nhưng chưa gặp dịp
nào thuận tiện để thực hiện. Hơn thế nữa, tôi biết rằng đối với con người này,
những cuộc tranh luận sẽ không dễ dàng gì thuyết phục được anh ta. Anh luôn đòi
hỏi phải có một sự chứng minh cụ thể nào đó.
Gần đây, tình hình ngày càng trở nên tồi tệ hơn
cho chị Roma khi anh bắt đầu công khai phản đối việc chị ngồi thiền và dành
thời gian cho công phu tu tập tại nhà. Thậm chí thỉnh thoảng anh còn công kích
cả những tu sĩ mà anh cho là những “kẻ ăn bám xã hội”. Một đôi khi sự công kích
cũng hướng cả về tôi khi chị tôi đưa tôi ra như một tấm gương tu tập để mong thuyết
phục anh một cách vô vọng.
Chị Roma thông báo tình hình ấy cho tôi trong sự
tuyệt vọng. Tôi cũng rất lấy làm lo lắng cho chị nhưng quả thật chưa nghĩ ra
cách gì. Tôi âm thầm cầu nguyện, mong sao có một dịp thuận tiện nào đó để có
thể thuyết phục người anh rể mình.
Một hôm, tôi mang chuyện này ra thưa với sư phụ
Śrỵ Yukteswar. Sư phụ nhìn tôi cười và nói:
– Con đừng lo, chỉ trong vòng tuần tới con sẽ có
dịp để thực hiện điều đó. Thầy hy vọng là con sẽ có đủ khả năng để tự xoay xở
làm được.
Tôi vẫn chưa hiểu được ý sư phụ, nhưng tin là sư
phụ không nói đùa. Tuy nhiên, năm ngày sau đó trôi qua không có việc gì đáng
chú ý, và tôi gần như quên mất lời nói của thầy.
Vào cuối ngày thứ sáu, chị Roma hớt hãi đến tìm
tôi và nói:
– Anh của em nguy rồi. Lần này chắc không ai có
thể cứu được anh ấy nữa.
Tôi gặn hỏi nguyên nhân nhưng chị lắp bắp mãi
không nói được điều gì rõ ràng. Tôi liền vội vã theo chị đến nhà.
Anh Satish Chandra Bose, chồng chị Roma, đang
ngồi gật gù trước một chai rượu lớn, trên bàn vất đầy những mẩu thuốc lá. Mặt
anh ta đỏ bừng, dấu hiệu của những người xưa nay rất ít khi đụng đến rượu.
Tôi kéo ghế ngồi xuống cạnh anh ta và hỏi:
– Chuyện gì thế? Vì sao anh lại như thế này?
Satish nhìn tôi, thật ra anh vẫn còn rất tỉnh táo:
– Mukunda, lần này thì tôi không sao qua khỏi
được rồi.
Tôi cố gặng hỏi:
– Nhưng anh đã gặp chuyện gì thế?
Anh nói dằn từng tiếng một:
– Tôi sắp bị đuổi việc, và còn có thể vào tù nữa.
Phải vất vả lắm tôi mới hiểu được toàn bộ câu
chuyện, vì anh chỉ nói rời rạc từng đoạn ngắn. Nguyên là anh đã gặp rắc rối to
trong một báo cáo về tài chánh. Một trong những cộng sự dưới quyền anh đã vô
tình hay cố ý làm sai lệch một số tiền khá lớn. Lẽ ra anh phải là người phát
hiện, nhưng anh đã sơ sót không phát hiện ra và để nguyên sai sót ấy báo lên cấp
trên. Sự việc được phát hiện và người ta quy cho anh tội cố ý gian lận. Anh có
ba ngày để cứu vãn tình hình bằng cách tìm ra chỗ sai lệch trong các báo cáo
của cấp dưới. Trong trường hợp đó, anh chỉ phải chịu kỷ luật vì tội tắc trách,
thay vì là tội cố ý gian lận. Thêm nữa, nếu số tiền sai lệch đã bị tẩu tán và
anh không vạch rõ được thủ phạm, chính anh sẽ phải chịu đền bù hoặc bị kiện ra
tòa. Anh đã cố gắng trong hai ngày qua nhưng hoàn toàn vô ích. Trong những con
số phức tạp chằng chịt, với một tâm trạng rối bời, anh đã không tìm ra được sai
sót nằm ở nơi nào. Và ngày mai là hạn chót để anh giải trình với cấp trên.
Vấn đề không chỉ là chuyện mất việc, mà còn là sự
tổn thương danh dự nếu như anh không vạch trần được kẻ cố ý gian lận trong vụ
này.
Sau khi nghe xong câu chuyện, tôi nói với Satish:
– Hiện giờ chưa thể làm gì được cả. Nhưng chúng
ta vẫn còn một ngày mai. Nếu anh có một đức tin vững chắc, tôi tin là anh sẽ
vượt qua chuyện này.
Satish thở dài thật não nuột:
– Tôi không nghĩ là đức tin lại có thể làm được
gì trong chuyện này. Hơn nữa, xưa nay tôi vốn chưa từng có đức tin.
Tôi suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Tôi sẽ cố gắng giúp anh trong chuyện này, và
cũng để chứng tỏ cho anh thấy là đức tin có thể giúp con người làm nên mọi
việc, kể cả những việc khó làm nhất.
Đêm hôm đó, sau khi từ nhà chị Roma về, tôi suy
nghĩ và cảm thấy dường như đây chính là cơ hội mà sư phụ Śrỵ Yukteswar đã dự
báo trước. Vì thế, tôi quyết tâm sẽ làm được điều cực kỳ khó khăn này để chứng
tỏ cho Satish thấy là anh ta sẽ không thể sống tốt đẹp nếu như không có đức tin.
Sáng hôm sau, tôi đến nhà chị Roma thật sớm.
Satish đang ngồi trầm ngâm hút thuốc lá, khuôn mặt bơ phờ có vẻ như cả đêm qua
anh ta đã không ngủ được vì lo lắng.
Tôi dùng một tách trà do chị Roma mang đến rồi
nói với Satish:
– Về chuyện này, tôi không giỏi lắm. Tuy tôi đã
có học qua ít nhiều ở trường, nhưng chắc chắn không phải là một nhân viên
chuyên nghiệp như anh. Tuy nhiên, tôi cho rằng tôi có một đức tin chắc chắn và
tôi đã cầu nguyện để đạt được thành công trong việc này. Vì thế, tôi sẽ cố gắng
giúp anh vạch mặt kẻ xấu.
Satish nói:
– Mukunda, nói thật lòng là tôi không sao tin nổi
việc chú sẽ làm được. Nhưng nếu đức tin của chú có thể giúp chú làm được chuyện
này, tôi xin thề là rồi tôi cũng sẽ có một đức tin không kém gì chú hôm nay.
Tôi có cảm giác chính lời nói này của Satish là
mục tiêu tôi đang nhắm đến chứ không phải là đống giấy tờ sổ sách rối tung của
anh.
Không trả lời anh ta, tôi lặng lẽ bắt đầu ngồi
vào bàn giấy và tập trung toàn bộ tư tưởng của mình vào công việc. Bỗng dưng
tôi cảm thấy đầu óc mình hết sức sáng suốt, minh mẫn hơn bao giờ hết. Với sự
phụ giúp của Satish, tôi kiên nhẫn dò tìm trong đống sổ sách những chỗ đáng
nghi từng điểm một và đối chiếu tổng quát với nhau một cách thật khoa học.
Sau bữa cơm trưa, công việc lại tiếp tục chừng
một giờ đồng hồ thì tôi bắt đầu tìm ra manh mối. Satish mừng rỡ lộ rõ ra mặt.
Chúng tôi phăng dần ra và hai giờ sau nữa thì đã có thể giải thích rõ ràng về
khoản tiền chênh lệch.
Vấn đề xuất phát từ sự gian lận cố ý của một
người chịu trách nhiệm thu tiền cho công ty của anh ở các tỉnh miền Bắc. Người
này đã cố tình sửa đổi các số liệu một cách tinh vi và giữ lại số tiền tương
ứng thay vì nộp đủ cho công ty. Sự việc được tiến hành khéo léo và chia đều
trong các báo cáo nộp tiền của anh ta nên rất khó phát hiện.
Sau khi Satish giải trình rõ được sự việc với cấp
trên, kẻ gian lận đã bị vạch mặt và phải trả đủ số tiền cho công ty cùng với
một khoản bồi hoàn những thiệt hại do sự gian lận của anh ta gây ra và tất
nhiên là bị đuổi việc.
Do công ty đã thu hồi được số tiền gian lận, và
xét thấy anh hoàn toàn vô tội, Satish chỉ bị khiển trách nhẹ và không phải bị
buộc thôi việc. Tuy nhiên, chỉ riêng việc này có vẻ như cũng đã là một chuyện
ít khi xảy ra đối với một nhân viên kế toán cao cấp mắc sai phạm.
Satish không quên lời đã nói. Khoảng một tuần sau
thì chị Roma rất sung sướng đến thông báo mời tôi cùng tham gia một chuyến
viếng thăm điện thờ đức Quán Thế Âm ở Dakshineswar do chính Satish đề nghị. Tôi
vui vẻ nhận lời.
Chuyến đi kéo dài một ngày với bữa cơm chay vui
vẻ tại chùa. Satish đã dành khá nhiều thời gian để trao đổi và tìm hiểu về
những kinh nghiệm tâm linh mà tôi đã thực sự trải qua. Anh lấy làm hứng thú với
những câu chuyện kể của tôi và tự cho rằng mình quả thật rất dại dột vì đã bỏ
phí đi một thời gian dài không tìm hiểu về tín ngưỡng. Khi về đến nhà, anh đề
nghị tôi cho anh một cái hẹn và giới thiệu để anh được tiếp chuyện với sư phụ
Śrỵ Yukteswar.
Câu chuyện cải hối của người anh rể tôi kết thúc
tốt đẹp. Bởi vì nhiều năm sau, khi tôi từ xa trở về thăm lại gia đình anh chị,
anh đã trở thành một người sùng tín và thực hành thiền tọa tại nhà rất tinh
tấn.
CHƯƠNG VII: LỄ XUẤT GIA
Dù đã trải qua rất nhiều thử thách và đạt được những
thành quả nhất định trong tu tập, nhưng sư phụ vẫn nhiều lần từ chối không chịu
làm lễ xuất gia để tôi chính thức trở thành một tu sĩ. Nguyên nhân của việc này
chưa bao giờ được người nói ra, nhưng tôi đoán là người muốn cho tôi thanh toán
xong chương trình ở bậc đại học.
Và rồi ngày tôi học xong đại học cũng đã đến. Kỳ
thi tốt nghiệp cử nhân văn khoa của đại học Calcutta đã được định ngày, và tôi ráo riết
chuẩn bị cho kỳ thi bằng cách ... cầu nguyện.
Vâng, đó là sự thật. Vì qua chuyện kể của tôi,
hẳn bạn đọc cũng đã thấy rõ là tôi chẳng dành bao nhiêu thời gian cho việc học
tập ở nhà trường. Còn hơn thế nữa, những chương trình học cùng với bài vở luyện
tập chưa bao giờ lôi cuốn được sự chú ý của tôi theo bất cứ ý nghĩa nào. Tuy
nhiên, tận đáy lòng tôi vẫn mong sẽ thỏa mãn được ước nguyện của cha tôi là hoàn
tất chương trình đại học, và thêm vào đó, sư phụ Śrỵ Yukteswar cũng đã nói dứt
khoát là người muốn tôi tốt nghiệp đại học như một tiền đề cho sự nghiệp hoằng
hóa sau này. Giờ đây, giây phút quyết định đã gần kề. Tôi có thể nhận được mảnh
bằng cử nhân văn khoa của trường đại học hay không, điều đó hoàn toàn tùy thuộc
vào việc... lời cầu nguyện của tôi có được đáp ứng hay không, bởi vì tôi phải
thú thật là tôi đã không học hành nghiêm túc theo như chương trình quy định.
Kết quả kỳ thi hoàn toàn bất ngờ đối với chính
bản thân tôi. Tôi được điểm ưu môn triết học, và đủ điểm trung bình cho tất cả
các môn khác. Như vậy, tôi chính thức được công nhận trở thành một Cử nhân văn
chương.
Phải nói thật lòng là về sau tôi cũng rất ít khi
dùng đến danh hiệu cử nhân theo sau tên gọi như hầu hết các ông cử đều làm. Tôi
không xem đây là một kết quả học tập thật sự của mình, mà chỉ là một ân huệ
nhiệm mầu để giúp tôi được dễ dàng hơn trên con đường hoằng pháp mà thôi.
Sau khi tôi nhận bằng cử nhân, cha tôi đề nghị
tôi nhận một chức vụ trong công ty đường sắt, với hy vọng là tôi sẽ tiếp nối
những công việc của người. Tôi cương quyết từ chối và trình bày việc này với sư
phụ Śrỵ Yukteswar. Để kết luận, tôi nói:
– Bạch thầy, xin thầy hãy cho con được chính thức
xuất gia.
Trước sự ngạc nhiên của tôi, sư phụ đáp lại thản
nhiên như đã chuẩn bị từ trước:
– Được, nếu con đã quyết tâm, ngày mai chúng ta
sẽ tổ chức lễ xuất gia cho con.
Như vậy là ước mơ của tôi đã sắp trở thành hiện
thực. Sau khi đáp ứng tất cả những gì mà cha tôi yêu cầu, tôi nghĩ là người sẽ
không còn lý do gì để từ chối việc xuất gia của tôi. Và sự ưng thuận của cha
tôi quả thật đã được đưa ra ngay vào tối hôm đó. Cha tôi nói:
– Thế cũng tốt. Chính bản thân cha cũng mong muốn
có được cuộc sống xuất gia, nhưng không phải mọi người đều có thể thực hiện
được một ước mơ như thế. Cha hy vọng là con sẽ kiên trì theo đuổi con đường
xuất thế. Đó là niềm tự hào rất lớn cho gia đình ta.
° ° °
Lễ xuất gia của tôi được cử hành hết sức đơn
giản. Sư phụ đã lược bỏ hầu hết các lễ nghi phiền toái và chỉ giữ lại những gì
là cốt yếu. Thêm vào đó, người cho tôi một đặc ân mà không phải người đệ tử nào
cũng có được, đó là được quyền tự chọn lấy một pháp danh cho mình.
Tuy bất ngờ trước đề nghị này của sư phụ, tôi
cũng suy nghĩ trong một lát rồi đáp:
– Bạch thầy, con sẽ lấy pháp danh là Yognanda.
Pháp danh này kết hợp hai ý nghĩa, với từ Yoga
thể hiện pháp môn tu mà tôi đã chọn và từ nanda có ý nghĩa là niềm an lạc hạnh
phúc có được nhờ việc thực hành tu tập.
Sư phụ rất hài lòng với pháp danh mà tôi đã chọn.
Người trịnh trọng tuyên bố:
– Được. Kể từ nay con sẽ không còn là Mukunda Lal
Ghosh, mà sẽ là tu sĩ Yognanda thuộc hệ phái Swmi.
Hệ phái Swmi khởi đầu từ đức tổ sư Shankara, là
một hệ phái đã được truyền nối qua nhiều thế kỷ, với nhiều vị tăng sĩ đạo hạnh
cao thâm và nêu cao tôn chỉ sống cuộc sống thanh bần, thực hành hạnh bố thí.
Rất nhiều tu sĩ thuộc hệ phái Swmi đã thể hiện cụ
thể hạnh nguyện của mình qua việc tham gia các chương trình cứu tế hay giáo dục
trong xã hội. Đôi khi, họ mở rộng hoạt động ra cả ở nước ngoài. Người tu sĩ
thuộc hệ phái này luôn biết chia sẻ khó khăn với cộng đồng, thay vì chỉ mưu tìm
sự thanh thản cho riêng bản thân mình. Tuy vậy, ngay trong những hoạt động xã
hội bận rộn nhất, họ cũng không bao giờ xao lãng công phu tu tập hành trì.
Thật ra, hệ phái Swmi không phải là một dòng
thiền. Những tu sĩ thuộc hệ phái này có thể chọn tu theo nhiều pháp môn khác
nhau. Riêng sư phụ Śrỵ Yukteswar là một người đã chọn pháp môn thiền định và
đạt đến chỗ uyên áo thâm sâu. Chính gương sáng của người đã khiến cho tôi quyết
tâm chọn pháp môn thiền định để nối bước theo người. Và cũng phù hợp theo với hạnh
nguyện của người, cuộc đời tôi về sau đã trở thành một chiếc cầu nối để pháp
môn này được trực tiếp truyền từ Ấn Độ sang phương Tây.
° ° °
Sau khi tôi chính thức trở thành một tu sĩ, theo
đuổi đời sống xuất gia, đáng buồn thay, dự báo đầu tiên của tôi lại là một tin
chẳng tốt đẹp chút nào.
Một buổi sáng tinh mơ, khi tôi đang nhập định,
tôi bỗng mơ hồ cảm thấy có điều gì đó không hay đang sắp xảy đến cho gia đình
tôi. Quả thật, cho dù người ta đã chọn một đời sống xuất gia thì những quan hệ
máu huyết ruột thịt cũng vẫn không thay đổi.
Lần đầu tiên tiên trong đời, tôi bất ngờ có thể
định tâm để đọc được chính những dự cảm của mình. Tôi biết điều không hay sắp
tới đó chính là việc anh Ananta của tôi sắp qua đời một cách bất ngờ, cho dù
anh vẫn còn rất trẻ. Đây là một kinh nghiệm mà tôi đã nhiều lần chứng kiến ở sư
phụ Śrỵ Yukteswar, nhưng bản thân tôi thì chưa từng được nếm trải.
Mấy hôm sau, tôi liền trở về quê cũ ở Gorakhpur để thăm anh
Ananta đang ở đó. Ngay trong thời gian tôi ở thăm, anh bất ngờ ngã bệnh. Tôi đã
tận tình săn sóc anh bằng tất cả khả năng của mình, nhưng tôi biết anh sẽ không
sao qua khỏi.
Không muốn chứng kiến cảnh đau lòng này một cách
vô ích, tôi nhanh chóng thu xếp một chuyến đi đường biển sang Miến Điện và Nhật
Bản. Tôi đã lên tàu trong sự thất vọng của cha tôi vì người không sao hiểu được
là tôi đã thấy trước mọi việc.
Tôi lưu lại hải cảng Kobé mấy ngày rồi lại theo
đường biển trở về Ấn Độ. Thật là một chuyến đi không có mấy ích lợi, chỉ là vì
tôi không sao chịu nổi việc bất lực đứng nhìn anh mình hấp hối.
Khi tôi ghé lại Thượng Hải trên đường về, ông bác
sĩ đi theo tàu là Misra đã tháp tùng tôi cùng đi dạo trong thành phố. Chúng tôi
mua một số quà tặng để mang về cho thân nhân trong nước. Bất chợt, tôi buông
rơi một món quà đang cầm trên tay và kêu lên:
– Anh Ananta đã mất rồi!
Bác sĩ Misra nhìn tôi hoài nghi, nhưng ông cũng
nói theo cách an ủi
– Xin đại đức đừng quá bi quan. Còn phải đợi xem
có tin tức gì không đã.
Khi chúng tôi về đến Calcutta, em trai út của tôi là Bishnu đã đợi
tôi trên bến. Tôi và bác sĩ Misra cùng lên bờ một lượt. Và trước sự kinh ngạc đến
ngẩn người của ông bác sĩ, em tôi thông báo việc anh Ananta đã mất, đúng vào
ngày mà chúng tôi ghé lại Thượng Hải. Ông lắc đầu:
– Có lẽ tôi phải đề nghị thêm một năm học nữa về
thần giao cách cảm cho các sinh viên y khoa ở trường đại học.
Cha tôi đón tôi về nhà với thái độ thân tình mà
người rất hiếm khi bày tỏ. Ông ôm chầm lấy tôi, vỗ về trên lưng tôi và nói:
– Con đã về! Con đã về!
Bây giờ thì ông đã hiểu được lý do khiến tôi đột
ngột bỏ ra đi. Tôi ở lại nhà mấy hôm để an ủi cha trong lúc người đang hết sức
buồn đau vì cái chết của anh tôi.
Nhưng rồi không bao lâu sau đó, một tai họa khác
lại giáng xuống cho gia đình tôi. Có điều, lần này thì tôi đã không đến nỗi
hoàn toàn bất lực.
° ° °
Em gái tôi, Nalini, là một người gầy yếu từ thuở
nhỏ. Thật ra, cho đến thời niên thiếu thì tôi cũng chẳng mập mạp gì hơn em. Chỉ
đến khi gặp được sư phụ Śrỵ Yukteswar và được chữa khỏi chứng bệnh đau dạ dày
kinh niên thì tôi mới bắt đầu trở nên mập mạnh, thậm chí là lực lưỡng nữa. Nhưng
trường hợp của em gái tôi thì hoàn toàn khác. Nó không bị bệnh tật gì cả, chỉ
là từ bé đến lớn chưa bao giờ thấy nó lên cân hay mập mạp ra chút nào, cho dù
được ăn uống tẩm bổ bằng bất cứ thứ gì. Thân hình nó gầy ốm dưới mức trung
bình, như một bộ xương cao lêu nghêu và khô đét.
Khi đến tuổi trưởng thành, gia đình thu xếp
chuyện hôn nhân cho nó với một bác sĩ trẻ ở Calcutta. Anh chàng tên là Panchanon Bose,
chưa từng được nhìn mặt cô dâu lần nào trước ngày đám cưới.[2] Tuy nhiên, anh
chàng nhận được một món tiền hồi môn rất lớn để bù lại cho cô vợ... quá gầy.
Ngày đám cưới, tất cả gia đình và cả những người
thân trong gia tộc đều quy tụ đông đảo. Tôi làm quen với người em rể mới bằng
một nụ cười rất cởi mở đến nỗi anh chàng cho rằng tôi là người duy nhất để anh
ta dám “trút bầu tâm sự” trong lúc này. Anh mon men đến gần tôi vào một lúc
thuận tiện, rồi đưa mắt ra hiệu về phía Nalini, anh hỏi tôi:
– “Cái đó” là cái gì vậy?
Tôi trả lời anh chàng một cách hóm hỉnh:
– À, “cái đó” là một bộ xương để cho ông khám
nghiệm đấy, thưa bác sĩ!
Cả hai chúng tôi đều bật cười vang sau lời đùa
cợt ấy, và kể từ đó Bose xem tôi không chỉ là anh rể mà còn là người bạn thân
để anh ta có thể kể lể tâm tình. Nhiều lần, anh chàng nói với tôi:
– Anh ạ, vợ em quả là một trường hợp lạ thường.
Em đã thử đủ mọi phương cách, mọi thứ thuốc bổ dưỡng... nhưng hầu như là không
có lấy một chút tác dụng nào cả.
Và tôi biết điều đó đã phần nào làm cản trở hạnh
phúc trong cuộc sống hôn nhân của vợ chồng em tôi.
Một ngày kia, tôi đến thăm Bose và định ra về mà
không cho em gái tôi biết, nhưng khi tôi vừa ra đến cửa thì nó đã từ trên lầu
gọi xuống:
– Anh Mukunda, em có chuyện muốn nói với anh.
Tôi liền quay trở lại. Hóa ra, “chuyện muốn nói”
lại chính là sự gầy gò kinh niên bất trị của nó. Nalini nói với tôi qua làn
nước mắt:
– Nếu anh đã nhờ vào con đường tu tập mà có được
sức khỏe như hôm nay, tại sao anh không giúp em với? Em thật là đau khổ khi
phải mang thân hình gầy ốm xấu xí này suốt cả đời. Em không còn tin tưởng chút
nào vào thuốc men và sự tẩm bổ nữa.
Vừa nói, Nalini vừa mở nắp chai thuốc bổ và trút
cả vào giỏ rác nơi góc phòng.
Tôi im lặng cảm thông với đứa em tội nghiệp của
mình. Một lát, tôi bảo nó:
– Anh chỉ sợ là em không có đủ đức tin.
– Không, em sẽ làm được. Chỉ cần anh hướng dẫn
cho em phải làm những gì.
Tôi lặng lẽ ra về. Hai hôm sau, tôi đến thăm vợ
chồng Nalini và mang đến cho nó một giỏ rau tươi với mấy quả cà chua thật lớn.
Chỉ ngồi chơi một lát rồi ra về, tôi thậm chí không gặp Nalini vì lúc ấy em tôi
đang ở trên lầu.
Hai tháng sau, Bose gặp tôi trên đường phố và
mừng rỡ kéo tôi lại, thông báo với một vẻ rất bí mật:
– Em chưa dám nói cho ai biết, nhưng quả thật vợ
em đã lên được 2 kí-lô trong vòng 2 tháng qua. Thật kỳ lạ, từ hôm anh ghé chơi
đến nay nó từ chối dứt khoát không dùng thịt, cá, trứng... chỉ toàn ăn cơm với
các loại rau cải... thế mà lại lên cân mới quái chứ!
Tôi không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, chỉ đáp lại:
– Thế à!
Bose không hề biết rằng việc em gái tôi ăn chay
chính là đã hiểu được lời chỉ dạy của tôi. Chính tôi cũng đã cầu nguyện cho sức
khỏe và đức tin của nó. Ngoài việc nó lên cân, tôi tin rằng nó còn đạt được
nhiều điều khác nữa trong tinh thần.
Nửa năm sau thì Nalini đã có tầm vóc của một phụ
nữ bình thường. Sức khỏe cũng rất khả quan, không còn những lần ốm đau vặt vãnh
như trước đây. Nalini vẫn tiếp tục ăn chay.
Và vào thời điểm ấy thì tôi có việc phải sang
Nhật Bản ít lâu. Khi trở về, tôi được biết là Nalini đã ngã bệnh trong khi tôi
đi vắng. Tôi vội vã đến thăm và rất ngạc nhiên khi thấy chưa bao lâu mà nó đã
chỉ còn da bọc xương, nằm thoi thóp mê man trên giường bệnh. Bose mừng rỡ khi
thấy tôi đến:
– Anh đây rồi! Trong những ngày còn tỉnh táo,
Nalini luôn miệng gọi tên anh.
Hóa ra là Nalini mê man đã hai hôm nay rồi. Bose
và các bạn bác sĩ khác bạn anh đã xác định là Nalini mắc chứng thương hàn, kèm
theo bệnh kiết. Nhưng thuốc men của họ dường như đều vô hiệu.
Từ nhà em gái trở về, tôi âm thầm cầu nguyện cho
nó. Ngày hôm sau, trong lúc nhập định tôi dự cảm được là em tôi sẽ qua khỏi căn
bệnh này nhờ vào sự thành tâm chú nguyện của tôi, nhưng với định lực của mình
tôi vẫn không thể cứu thoát nó khỏi một sự thương tổn nặng nề nhất định nào đó.
Một tuần sau, trước sự kinh ngạc của tất cả các
bác sĩ người Anh và người Ấn tại Calcutta,
em gái tôi dần dần bình phục như một phép lạ. Tuy nhiên, điều họ không ngờ được
là đôi chân em đã không còn cử động được nữa. Sau khi xác định chúng đã bị
liệt, họ tuyên bố là Nalini xem như tàn tật suốt đời.
Tôi tìm gặp sư phụ Śrỵ Yukteswar với tâm trạng
tuyệt vọng trước sự mất mát quá lớn lao cho cuộc đời của em gái tôi. Sư phụ tỏ
vẻ hết sức cảm thông và bảo tôi:
– Nalini là một đứa con gái ngoan và có đức tin.
Con không cần phải lo cho nó. Đến cuối tháng này thì đôi chân của em con sẽ bắt
đầu cử động được thôi.
Tôi vui mừng vô hạn vì biết chắc lời nói của sư
phụ không hề sai lệch bao giờ. Tôi lễ bái tạ ơn sư phụ về lời chúc phúc tốt
lành đó. Khi tôi đã bước ra đến cửa, sư phụ gọi tôi trở vào và nói:
– Ta cần nói thêm điều này nữa. Các bác sĩ sẽ nói
với em con là nó không có khả năng sinh sản. Nhưng không cần thiết phải để cho
nó đau khổ vì việc đó. Con hãy nói cho nó biết là trong năm tới nó sẽ sinh một
đứa con gái, và ba năm sau là một đứa con gái khác nữa.
° ° °
Trường hợp của em gái tôi đã trở thành một thách
thức chưa từng có và đập tan hoàn toàn sự hoài nghi của các bác sĩ Tây y ở Calcutta. Bởi vì đúng như
dự báo của sư phụ Śrỵ Yukteswar, đôi chân của em tôi đã cử động bình thường trở
lại. Hơn thế nữa, kết luận về chứng vô sinh của Nalini đã hoàn toàn sai lầm khi
em gái tôi lần lượt hạ sinh hai bé gái đúng như lời sư phụ Śrỵ Yukteswar đã
tiên đoán.
Để đáp lại những phước lành ấy, vợ chồng Nalini
trở thành một trong những cặp vợ chồng sùng đạo nhất ở Calcutta. Hơn thế nữa, Nalini đã phát nguyện
ăn chay trường suốt cuộc đời mình. Về sau, một trong hai đứa con gái của em tôi
đã xuất gia trở thành nữ tu sĩ.
CHƯƠNG VIII: PHÁP MÔN
THIỀN ĐỊNH
Thiền định là một trong những pháp môn xuất hiện
và phát triển rất sớm ở Ấn Độ. Có nhiều vị tôn sư chuyên tu thiền định và đã
truyền dạy những kinh nghiệm tâm linh từ thế hệ này sang thế hệ khác một cách
trực tiếp thay vì là qua kinh điển, sách vở như những pháp môn khác.
Một trong những điều may mắn nhất đời tôi là đã
được theo học với một vị minh sư uyên thâm về pháp môn thiền định, được chân
truyền từ đức thầy Lahiri Mahsaya.
Thiền được truyền từ Ấn Độ sang khắp các nước
vùng Đông Nam Á qua nhiều con đường. Thậm chí có một số quốc gia đồng thời tiếp
nhận pháp môn này từ nhiều con đường khác nhau. Chẳng hạn như, thiền được
truyền sang Trung Hoa bởi các thiền sư Ấn Độ, rồi lại từ Trung Hoa truyền sang
Việt Nam, nhưng đồng thời các thiền sư Ấn Độ cũng theo những thuyền buôn đến
Việt Nam truyền dạy pháp môn này từ khoảng đầu công nguyên. Những nước khác như
Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện... cũng đều có sự hiện diện của thiền từ rất sớm.
Thiền cũng được truyền sang các nước phương Tây
và Hoa Kỳ vào những năm gần đây. Tuy nhiên, việc truyền bá trực tiếp pháp môn
này từ một vị chân sư Ấn Độ đã không được thực hiện cho đến khi sư phụ Śrỵ
Yukteswar chính thức giao cho tôi trọng trách này.
Rất nhiều người nhìn vào pháp môn thiền định như
một vùng đất đầy bí hiểm. Điều này xuất phát từ việc các vị chân sư trước đây
không bao giờ truyền dạy một cách bừa bãi những kinh nghiệm và hiểu biết của
mình. Người đệ tử phải qua nhiều thử thách để chứng tỏ được khả năng tiếp nhận
của mình trước khi có thể được thầy chỉ dạy về những điểm thâm sâu của thiền định,
vốn gắn liền với sự hành trì thực tế hơn là lý luận theo kinh điển.
Tuy nhiên, thiền không hẳn là một pháp môn hoàn
toàn bí hiểm như nhiều người vẫn tưởng. Một vị chân sư nắm vững hoàn toàn về
pháp môn thiền định có thể tùy nghi dắt dẫn bất cứ ai vào con đường tu tập pháp
môn này mà không nhất thiết phải có một sự chọn lựa quá nghiêm nhặt. Chỉ có điều,
hành giả chỉ có thể đạt được những kết quả tu tập tương ứng với năng lực nội
tại và sự nỗ lực của chính bản thân mình mà thôi. Việc ỷ lại, phụ thuộc hoàn
toàn vào thầy dạy là một điều tối kỵ trong tu tập thiền định. Người tu thiền dù
ở bất cứ trình độ nào cũng đều phải học cách đứng vững trên đôi chân của chính
mình.
Theo quan điểm của sư phụ Śrỵ Yukteswar, thiền
định không chỉ giới hạn trong giới tăng sĩ xuất gia. Trong thực tế, người đã
thu nhận rất nhiều các đệ tử tại gia. Người cho rằng, thiền là một phương pháp
rèn luyện, tu dưỡng tinh thần, và với ý nghĩa đó, pháp môn này có thể được áp
dụng cho tất cả mọi người.
Khác với nhiều bậc tôn sư thường tỏ ra khó hiểu
về những kinh nghiệm tâm linh mà mình đã đạt được, sư phụ Śrỵ Yukteswar bao giờ
cũng rất cởi mở. Người tìm mọi cách dễ hiểu nhất để giải thích cho các môn đệ
về hầu hết các hiện tượng lạ mà họ gặp trong thời gian tu tập, cho dù nỗ lực ấy
không phải bao giờ cũng đạt được thành công. Người thường nói: “Chỉ có sự giới
hạn trong tầm hiểu biết hiện tại của chúng ta, chứ không có giới hạn trong các
hiện tượng tự nhiên của tâm linh và vũ trụ.”
Trong những năm theo học với sư phụ Śrỵ
Yukteswar, tôi đã học được cách dắt dẫn của người đối với ngay cả những đệ tử
rất chậm hiểu hoặc những đệ tử còn nhỏ tuổi. Bao giờ người cũng tìm ra được một
phương cách linh hoạt nào đó để giúp người đệ tử hiểu được mình phải làm gì và
nỗ lực như thế nào. Vì thế, cho dù sự nhanh chậm có khác nhau, nhưng bất cứ ai
đã đến với người đều gặt hái được những thành quả nhất định trên con đường tu tập.
Pháp môn thiền định nhắm đến việc mang lại trí
tuệ giải thoát cho người tu tập thông qua những nỗ lực hành trì đúng hướng,
nhưng ngay cả khi chưa đạt đến sự giải thoát như mong đợi, hành giả vẫn được
đền bù xứng đáng cho những nỗ lực của mình bằng một cuộc sống tốt đẹp hơn về
mọi mặt. Một tâm hồn thanh thoát, nhẹ nhàng hơn; một trí tuệ minh mẫn, sáng
suốt hơn; một cung cách ứng xử bình tĩnh, điềm đạm hơn; một thân thể khỏe mạnh,
ít bệnh tật hơn; và một cuộc sống ít bị quấy nhiễu hơn bởi những điều vụn vặt.
Đó là những thành quả khiêm tốn nhất mà bất cứ ai cũng có thể đạt được khi tu
theo pháp môn thiền định.
Người chọn tu theo pháp môn thiền định không xem
trọng đời sống vật chất, của cải. Tiền bạc chỉ được xem như một phương tiện để
duy trì cuộc sống mà không bao giờ là mục tiêu nhắm đến. Tuy nhiên, một điều
rất thường xảy ra là những hành giả tu thiền lại thường có được một đời sống
vật chất dồi dào, dễ chịu hơn. Đó là trường hợp thực tế với rất nhiều đệ tử tại
gia của sư phụ Śrỵ Yukteswar. Chính sư phụ đã lý giải điều này như một hệ quả
tất nhiên, bởi vì với một trí tuệ minh mẫn hơn, sáng suốt hơn, tất nhiên người
ta dễ thành công hơn với bất cứ lãnh vực nào trong cuộc đời. Đôi khi, tôi nghĩ
đến cha tôi và thấy rằng chính ông cũng là một ví dụ rất rõ nét cho nhận xét
này. Mặc dù ông chẳng bao giờ mong cầu một cuộc sống vật chất dồi dào, nhưng
ông đã làm ra tiền bạc nhiều hơn bất cứ người đồng sự nào của ông trong công ty.
Về sau, khi tôi truyền dạy pháp môn này sang
phương Tây, tôi càng nhận thấy điều này rất phổ biến trong các đệ tử của chính
tôi.
Theo sự chỉ dạy của sư phụ Śrỵ Yukteswar, người
tu thiền nếu vẫn sống đời thế tục thì phải đặc biệt chú ý đến nề nếp sinh hoạt
hằng ngày, bởi vì điều đó quyết định việc hành giả có thể đạt được kết quả
trong tu tập hay không. Sự tiết độ trong ăn uống, tốt nhất là ăn chay, hoặc ít
ra cũng phải hạn chế sử dụng thịt cá trong chừng mức tối thiểu mà thôi. Ăn uống
những chất uế tạp hoặc ăn uống vô độ là những ngăn trở trực tiếp đối với sự
tiến bộ của tinh thần. Ngay cả việc sử dụng thuốc ngủ, thuốc kích thích, thuốc
gây nghiện, hoặc uống các loại rượu, bia... cũng đều bị sư phụ tôi nghiêm cấm
đối với tất cả các đệ tử.
Sinh hoạt tình dục thái quá trong đời sống vợ
chồng cũng là điều tối kỵ. Từ xa xưa, con người đã sớm nhận ra sự hao tổn khí
lực, tinh thần trong hoạt động tình dục. Nhiều bậc đế vương đã vì không kiềm
chế được sắc dục mà thân bại danh liệt. Còn đối với người tu pháp môn thiền
định thì đó là một liều thuốc độc càng tiết giảm càng tốt.
Khi đã nhận được những hướng dẫn đúng đắn từ một
bậc chân sư, việc tu tập thiền định trở nên rất đơn giản, không có gì phức tạp.
Nếu như cuộc sống của chúng ta mỗi một phút giây đều gắn liền với hơi thở ra
vào, thì chỉ cần biết chú ý đúng mức đến hơi thở là đã bắt đầu có thể bước vào
pháp môn thiền định.
Việc ngồi tĩnh tọa, tập trung và làm chủ được tư
tưởng của mình là mục tiêu tiếp theo của người tu thiền. Công phu hành trì này
tuy thoạt nghe có vẻ như đơn giản, nhưng đòi hỏi sự kiên trì, đều đặn và quyết
tâm rất cao.
Người tu tập càng tiến lên trình độ cao hơn thì
những trở ngại cũng tự nó càng phức tạp hơn, mãnh liệt hơn. Nhưng nói chung,
nếu có sự chỉ dẫn đúng đắn từ một bậc tôn sư đã có sự thực chứng, thì thời gian
rồi sẽ mang lại những kết quả khích lệ cho người tu tập.
Tuy rằng các thiền sư luôn nhắm đến việc đạt được
trí tuệ giải thoát hoàn toàn, nhưng điều đó cũng không ngăn cản việc pháp môn
thiền định trở thành một pháp môn phổ cập cho tất cả mọi người, mà yêu cầu đạt
được chỉ cần là một đời sống tốt đẹp, an vui và hạnh phúc nhiều hơn.
Trong những năm gần đây, pháp môn thiền định đã
phát triển rất mạnh mẽ theo hướng đó. Người đến với pháp môn này không còn thấy
đây là một pháp môn kỳ bí, quá sâu xa, khó hiểu... mà ngược lại họ luôn nếm
trải ngay được mùi vị của an lạc và hạnh phúc ngay chính trong cuộc sống trần
tục hằng ngày. Mức độ an lạc, hạnh phúc có thể đạt được đến đâu là tùy nơi sự
nỗ lực của mỗi người, nhưng quả thật việc phổ biến pháp môn thiền định đã mang
lại cơ hội đồng đều cho tất cả mọi người.
Chính việc phổ cập pháp môn thiền định đến tất cả
mọi người là một cuộc cách mạng vĩ đại mà sư phụ Śrỵ Yukteswar là người khởi
xướng. Và dưới sự dắt dẫn của người, tôi đã bắt tay thực hiện điều đó bằng cách
thành lập một trường học ở Ranchi, vừa dạy kiến thức phổ thông, vừa dạy cả pháp
môn thiền định cho tất cả học sinh.
CHƯƠNG IX: THIẾU SINH
HỌC ĐƯỜNG
Từ lâu tôi vẫn nuôi hoài bão gầy dựng một sự
nghiệp giáo dục cho lớp thanh thiếu niên trẻ tuổi. Cơ sở của hoài bão này chính
là vì tôi đã nhận ra sự khiếm khuyết của nền giáo dục vào thời bấy giờ. Ngoài
những kiến thức khoa học, xã hội, nền tảng đạo đức tâm linh của con người đã
không hề được đề cập đến trong suốt những năm học tập của các em.
Việc thực hiện một hoài bão như thế là quá sức to
lớn đối với một tu sĩ như tôi. Tuy nhiên, tôi có một dự cảm là bằng cách này
hay cách khác, rồi cũng có lúc tôi sẽ thực hiện thành công điều đó. Mặc dù vậy,
tôi không chấp nhận việc chờ đợi một cách thụ động, mà luôn nôn nóng bắt tay
thực hiện ước mơ của mình.
Với sự đồng ý của sư phụ Śrỵ Yukteswar, tôi thành
lập một lớp học nhỏ ở Dihika, một thành phố nhỏ thuộc tỉnh Bengale. Lớp học ban
đầu vỏn vẹn chỉ có 7 thiếu niên theo học, nhưng tôi đã bỏ công nghiên cứu, tự
đề ra và khởi sự áp dụng một chương trình giáo dục mà tôi thấy là có thể mang lại
cho các em những kiến thức toàn diện nhất.
Ngay trong năm sau, thật bất ngờ khi Quốc vương
Kasimbazar thân hành đến viếng thăm tôi, nghe tôi trình bày ý tưởng của mình,
và phát tâm hỗ trợ cho tôi trong việc thực hiện những ý tưởng ấy.
Nhờ sự hỗ trợ tích cực đó, tôi đã có thể đưa lớp
học của mình về tại Ranchi, một thành phố thuộc tỉnh Bihar, cách Calcutta chừng
200 dặm.
Đây là một thành phố có khí hậu rất tốt lành,
được xem là dễ chịu nhất trên toàn cõi Ấn Độ. Lớp học được phát triển thành một
trường học với quy mô tương đối lớn mà tôi đặt tên là Thiếu Sinh Học Đường. Mọi
phí tổn đều do Quốc vương Kasimbazar đài thọ.
Trường dạy đầy đủ các môn học phổ thông, nhưng
kèm theo đó học sinh được học thêm về thiền định và một môn thể dục hỗ trợ cho
phương pháp tu thiền gọi là Yogada, do chính tôi nghĩ ra vào hồi năm 1916.
Trường có khả năng chứa được khoảng 100 học sinh
nội trú, nhưng qua một năm học, số học sinh đăng ký đã vượt quá xa con số đó.
Vì thế, chúng tôi buộc phải mở thêm rất nhiều lớp ngoại trú.
Do quy mô của trường phát triển, tôi không thể
dành thời gian trực tiếp giảng dạy mà chỉ phụ trách việc tổ chức. Tuy vậy, tôi
vẫn đích thân lo việc chăm sóc cho các em học sinh nội trú.
Vì là một lãnh vực hoàn toàn mới mẻ, nên trong
thời gian đầu tôi đã vấp phải không ít những khó khăn. Một mặt là những vấn đề
về tổ chức, mặt khác là những tư tưởng đối nghịch khác trong xã hội. Bởi vì mọi
người không phải ai ai cũng đều dễ dàng chấp nhận tin vào những lý tưởng bất vụ
lợi của chúng tôi.
Tuy nhiên, tôi nhận được sự ủng hộ rất lớn từ sư
phụ Śrỵ Yukteswar và cha tôi.
Sư phụ Śrỵ Yukteswar đã tiên liệu trước được mọi
việc nên người có nói với tôi rằng:
– Khi con từ bỏ cuộc sống riêng tư để phụng sự
những lý tưởng cao quý chung cho toàn xã hội, đó chính là từ bỏ những lo âu
phiền lụy của một đời sống gia đình để nhận lấy phần trách nhiệm còn lớn lao to
tát hơn nhiều. Đó là trách nhiệm đối với tất cả mọi người. Như vậy, con sẽ
không sao tránh khỏi được sự hiểu lầm và đố kỵ của những kẻ nhỏ nhen. Nhưng bù
lại, con sẽ nhận được phần thưởng cao quý nhất là một sự an lạc, hạnh phúc
trong tâm hồn.
Cha tôi cũng đã đích thân đến thăm tôi tại trường
học. Trong một buổi đi dã ngoại với các học sinh của tôi, người nhìn thấy tôi
vui vẻ giữa những thiếu nhi vây quanh và đã nói:
– Tuy cha chỉ có 8 người con, nhưng cha có thể
hiểu được những gì con phải trải qua lúc này để lo cho bọn trẻ.
Trường học phát triển trên một khu đất rộng chừng
26 mẫu, với những cây cổ thụ che bóng mát và khung cảnh thiên nhiên rất thoáng
đãng, xinh đẹp. Dựa vào ưu điểm đó, tôi đã tổ chức cho hầu hết các lớp học đều
được học tập ngoài trời, ngay trong bầu không khí gần gũi với thiên nhiên rất
thú vị.
Mỗi ngày, các em được hướng dẫn có những giờ ngồi
thiền nhất định với sự chỉ dẫn cặn kẽ và kiểm tra thường xuyên. Ngoài ra, tôi
cũng mời nhiều vị tu sĩ đáng kính đến tiếp xúc với các em như một phương thức
để các em được trực tiếp học hỏi.
Một trong các tu sĩ ấy là Pranab, người ngày xưa
đã từng thực hiện phép phân thân ở Bénarès. Tôi còn nhớ, khi ấy ông đã có dự
báo về một cuộc gặp gỡ giữa ông với cha tôi và tôi. Không ngờ là cuộc gặp gỡ ấy
lại diễn ra tại Thiếu Sinh Học Đường.
Nhìn thấy các lớp học đã được tổ chức đi vào nề
nếp, Pranab nói với cha tôi:
– Thật không ngờ rằng lý tưởng giáo dục của đức
Lahiri Mahsaya ngày nay lại được thực hiện thành công bởi người con trai này
của anh.
Cha tôi có vẻ lấy làm tự hào về lời khen tặng ấy.
Nhưng chuyến viếng thăm của Pranab có ý nghĩa
nhiều hơn là một chuyến viếng thăm thông thường, bởi vì sau đó ít lâu thì chúng
tôi được biết là sẽ vĩnh viễn không bao giờ còn được nhìn thấy vị tu sĩ này nữa!
Mang theo một số hạt giống và các dụng cụ cần
thiết, Pranab đi lên một vùng hẻo lánh gần chân núi Hy Mã Lạp Sơn và thành lập
một đạo viện với những môn đồ tình nguyện đi theo ông. Một thời gian ngắn sau
khi đã tổ chức xong đạo viện, ông thản nhiên từ bỏ cõi đời trong một tình trạng
sức khỏe rất tốt, bất chấp việc ông đã khá lớn tuổi.
Người đệ tử lớn của ông là Sanandan thông báo
việc ông ra đi cho tôi biết trong vài tháng sau đó. Anh đã kể lại trường hợp
viên tịch của Pranab như tấm gương chói sáng của một bậc chân tu đã đạt đến sự
giác ngộ hoàn toàn trong tu tập.
° ° °
Trong khuôn viên trường, có một hồ nước mát. Một
hôm, tôi dẫn các em thiếu nhi đến đó chơi và dặn các em:
– Các em không được phép lội xuống nước. Nếu muốn
tắm, các em hãy dùng gáo múc nước lên trên bờ để tắm.
Sau một lúc đùa nghịch, có một vài em đã quên mất
lời dặn của tôi và nhảy xuống nước tắm. Tuy các em bơi rất giỏi, nhưng vấn đề
là dưới hồ có rất nhiều rắn nước. Khi phát hiện ra điều này, các em đã hốt
hoảng nhảy vọt lên bờ và lấy làm ân hận đã không nghe lời dặn trước của tôi.
Sau khi tắm xong, tôi đưa các em lên dạo chơi
trên một ngọn đồi và chúng tôi cùng ăn cơm trên một bãi cỏ. Sau đó, dưới bóng
mát của một cây cổ thụ, các em đua nhau đặt với tôi rất nhiều câu hỏi. Dưới mắt
các em, có vẻ như tôi là người biết hết tất cả mọi chuyện.
Trong số các em này, có một bé trai chừng 12 tuổi
tên là Kashi, khuôn mặt rất sáng sủa nhưng bản tính rụt rè. Sau khi đứng yên
một lúc lâu nhìn các bạn vây quanh hỏi tôi đủ mọi vấn đề, em mới rón rén lại
gần và hỏi:
– Bạch thầy, về sau này con có thể xuất gia như
thầy được chăng?
Một câu hỏi khá chín chắn làm tôi hơi giật mình.
Tôi lặng nhìn em một chút rồi buột miệng nói ra không tự kiềm chế được:
– Tiếc thay, em sẽ phải chết một ngày gần đây
thôi.
Vừa nói xong lời tiên tri ấy, tôi đã lấy làm hối
hận ngay. Quả thật, câu nói đã phá hỏng niềm vui của thời gian còn lại trong
ngày hôm ấy, vì tất cả các em đều lấy làm buồn rầu thay cho số phận của người
bạn mình.
Khi về trường, Kashi tìm đến phòng tôi. Trước sự
ngạc nhiên của tôi, em có vẻ rất bình tĩnh trước lời tiên tri chẳng lấy gì làm
tốt đẹp của tôi:
– Bạch thầy, sau khi con chết, có thể nào con sẽ
gặp lại thầy trong một kiếp sau để tiếp tục được thầy dẫn dắt hay không?
Tôi nhìn em một lúc rồi nói:
– Nếu chúng ta có đủ nhân duyên với nhau, thầy
hứa sẽ không bao giờ quên em.
Sau đó ít lâu, tôi có việc phải đi xa trong một
thời gian ngắn. Tôi gọi Kashi đến và dặn em không được rời khỏi trường trong
suốt thời gian tôi vắng mặt. Tôi có dự cảm rằng nếu em được nằm trong sự che
chở của tôi, rất có thể em sẽ vượt qua được số phận không may sắp tới.
Nhưng ngay sau khi tôi rời khỏi Ranchi,
cha của Kashi đến trường tìm em và thuyết phục em về thăm mẹ ở Calcutta. Kashi đã nhớ lời dặn của tôi và không
muốn đi, nhưng người cha sau đó đã dùng mọi cách cứng rắn để buộc em phải vâng
lời.
Khi trở về Ranchi
và nghe nói Kashi đã theo cha về thăm mẹ ở Calcutta,
tôi lập tức đáp xe lửa đi Calcutta
và đến tìm em tại nhà. Dự cảm của tôi đã hoàn toàn chính xác. Cậu bé mắc bệnh
thời khí ngay trong ngày thứ hai khi trở về nhà và đã không qua khỏi được.
Cái chết của Kashi đã ám ảnh tôi trong suốt một
thời gian dài. Tôi có cảm giác em và tôi có những mối quan hệ lâu xa nào đó mà
không sao giải thích được. Dự cảm chính xác về cái chết của em và nỗ lực ngăn
cản không thành công, cùng với lời đề nghị cuối cùng của em trước lúc chết đã
làm tôi suy nghĩ rất nhiều.
Về sau, cũng bằng vào sự dự cảm của mình, quả
thật tôi đã gặp lại được Kashi trong một căn phố nhỏ ở Calcutta. Cậu bé tái sinh này thật trùng hợp
là cũng được cha mẹ đặt cho tên gọi là Kashi và có khuôn mặt không khác biệt gì
lắm so với Kashi trước kia. Khi gặp tôi lần đầu, em đã quấn lấy tôi một cách
lưu luyến lạ kỳ. Và cha mẹ em đã đồng ý cho phép em rời khỏi gia đình để đi
theo học tập dưới sự dẫn dắt của tôi.
Cậu bé Kashi là một trong những trường hợp rất
hiếm có và là một kỷ niệm đẹp của tôi trong những ngày đầu tiên ở Thiếu Sinh
Học Đường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét