XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014

TƠ ĐỒNG RỎ MÁU (Chương 21-40)



Chương 21: NHÀ HỌ MỄ
Sau này tìm ra hài cốt của Nghê Phượng Anh, chưa quyết định được địa điểm an táng thì vợ chồng Nghê Bồi Trung đã đột ngột ra đi. Tin tức về việc tìm ra hài cốt Nghê Phượng Anh tuy được giữ kín, ngay tờ tctg cũng chỉ lượm được chút ít thông tin, nhưng Đổng Bội Luân vẫn biết, vì từng bị Mễ Trị Văn làm hại nên chị rất quan tâm đến vụ án “ngón tay khăn máu”, gần như đọc hết các tư liệu bài viết vế loạt vụ án này. Ba mươi năm trước rất ít người đổi họ tên đương sự khi viết bài đưa tin về trị an, cho nên sau khi sảy ra thảm án vế vợ chồng Nghê Bồi Trung chị liền nghĩ ngay đến Nghê Phượng Anh. Cảnh sát có thể bảo mật tin tức nhưng nhân gian thì không như thế. Đổng Bội Luân chẳng mất nhiều công sức đã tìm gặp được hai người con trai của vợ chồng Nghê Bồi Trung khi họ đến lo liệu đám tang, và nghe được tin động trời rằng đã tìm thấy hài cốt Nghê Phượng Anh!
Trong nghĩa trang vq, Đổng Bội Luân khẽ giải thích với Na Lan, “Đoàn thể Tiếng Lòng đứng ra trang trải toàn bộ phí tổn an táng, chúng tôi cũng đã hứa với cảnh sát và họ hàng nhà họ Nghê là sẽ giữ kín danh phận của Nghê Phượng Anh. Trước khi tìm ra hung thủ, bia mộ của cô ấy cứ đề là vô danh, và né tránh giới truyền thông. Hứa như thế thật không dễ, vì đoàn thể mới thành lập, chúng tôi rất cần quảng bà mọi hoạt động, cần giới truyền thông mở rộng tầm ảnh hưởng và tiếng nói của mình.
Na Lan khâm phục bản lĩnh của Đổng Bội Luân và Chu Tưởng Lộ. Nghĩa trang vq thường đóng cửa lúc 6 giờ chiều, tối nay họ đặc cách dành thêm chút thời gian cho tl.
Cô hỏi, “Đã tổ chức lễ truy điệu cho Nghê Phượng Anh, sao còn phải giữ bí mật về danh phận cô ấy?”
Đổng Bội Luân úp mở, “Ngoài khắc bia vô danh ra, lát nữa ông Chu phát biểu… thì em sẽ biết.”
Na Lan nhìn quanh một lượt, hơn một trăm thành viên của Tiếng Lòngtoàn là phụ nữ, chỉ có Chu Tưởng Lộ, Trần Ngọc Đống là hai nam giới. Na Lan thấy bất ngờ vì sự có mặt của Trần Ngọc Đống. Về sau cô mới biết là do Chu Tưởng Lộ mời. Có thể nói Trần Ngọc Đống, Đổng Bội Luân và Chu Tưởng Lộ là người quen cũ, khi xưa Mễ Trị Văn xâm hại Đổng Bội Luân rồi bị bắt, lão lập tức bị thẩm vấn coi như nghi phạm của vụ án “ngón tay khăn máu” thì Trần Ngọc Đống cũng tham gia điều tra, đã gặp nói chuyện với Đổng Bội Luân, cũng từng tiếp xúc với Trần Ngọc Đống. Về sau chính Trần Ngọc Đống lại hỗ trợ Đổng Bội Luân tìm hiểu vụ án “ngón tay khăn máu”. Cách đây mấy hôm Na Lan gặp nạn, Trần Ngọc Đống xuất hiện ở phòng cấp cứu cũng gặp Chu Tưởng Lộ.
Các vụ án bạo lực làm cho xã hội thu gọn lại.
Tay mọi người đều cầm cốc thủy tinh bên trong đặt một cây nến, những ngọn lửa nhỏ vàng hoe chập chờn lay động. Có tiếng nói, “Quý vị yên lặng! Giám đốc Chu sẽ phát biểu về hoạt động hôm nay.”
Chu Tưởng Lộ nói, “Tối nay chúng ta có mặt ở đây vì một nạn nhân và cũng vì cả chúng ta, những người may mắn còn sống. Tôi sẽ không nói nhiều, không dài dòng chỉ xin mở đầu vài câu, mong quý vị phát biểu cởi mở nỗi lòng và những cảm nhận của mình.” Giọng ông không vang nhưng thu hút được sự chú ý của đám đông. “Cô gái nằm dưới tấm bia này, ngày trước cũng như rất nhiều người chúng ta, đã từng bị ngược đãi tàn nhẫn, rồi lại bị giết hại một cách dã man. Cuộc sống và cái chết của cô đều phản ánh một khía cạnh hết sức xấu xa của nhân tính, thấp kém hơn cả động vật. Khi còn sống và khi chết, cô đều là một nạn nhân.”
Na Lan bỗng cảm thấy bất an, tại sao Tiếng Lònglại biết Nghê Phượng Anh khi còn sống cũng là một nạn nhân của bạo lực gia đình?
Hình như đoán ra sự nghi hoặc của Na Lan, Đổng Bội Luân khẽ bấm vào tay cô rồi trỏ một bóng người đứng xa xa trong ánh sáng của những ngọn nến. mln!
Chu Tưởng Lộ nói tiếp, “Chúng ta ít nhiều cũng từng là người bị hại. Chị gái tôi là một phụ nữ luôn có nụ cười tươi vui, rồi đi lấy chồng – một kẻ luôn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với vợ bất cứ lúc nào, chị ấy nhẫn nhịn. Cho rằng anh ta thô bạo chỉ là tạm thời mất kiểm soát, rồi anh ta sẽ khá lên. Khi tôi hỏi chị về các vết thương khắp người, chị chỉ lắc đầu nói là mình lỡ bị va đập. Chị tôi nhẫn nhịn một, hai, ba năm… cuối cùng chị tôi biến mất, người chồng cũng biến mất. Khi chị biến mất, và không bao giờ tôi gặp chị nữa, tôi mới được hàng xóm của chị cho biết, chị thường xuyên bị đánh đập, trước khi mất tích, hai vợ chồng có lớn tiếng cãi cọ tranh chấp, nhưng quen nghe tiếng khóc lóc của chị nên chẳng ai lấy làm lạ nữa.” Chu Tưởng Lộ nghẹn ngào. “Khắp nhà bê bết máu chị tôi, cảnh sát lập tức ra lệnh truy nã nghi phạm chính, là chồng chị, nhưng bao năm nay không tìm thấy hắn. Xác chị tôi vẫn bặt tăm.” Chu Tưởng Lộ nói trong tiếng khóc nấc cố nén. Na Lan nhận ra ông không hề dùng từ “anh rể tôi” để gọi người chồng của chị mình – kẻ đã giết chị.
“Người nằm dưới bia mộ này hôm nay là một cô gái chúng ta không hề quen biết, cô ấy mất tích ngay trước mắt bạn bè người thân, rồi nhiều năm sau mới tìm thấy hài cốt. Chúng ta không biết chi tiết vụ việc nhưng có thể khẳng định một điều, cô ấy bị giết hại rất tàn khốc. Hài cốt cô ấy xuất hiện, nhắc nhở chúng ta rằng bạo lực đối với phụ nữ xảy ra hết năm này sang năm khác, bạo lực gia đình, bạo lực tình dục, gây thương tích, sát hại… vẫn ngang nhiên tồn tại trong thời đại gọi là văn minh tiến hóa của chúng ta. Hình như hài cốt của cô ấy đang hỏi chúng ta câu này, đối mặt với bạo lực không ngớt như thế, phụ nữ chúng ta nên làm gì? Tiếp tục im lặng ráng chịu, dung túng cho cái ác hay là phải tranh đấu? Bao năm qua tôi thường nghĩ, dù tôi gắng làm một bác sĩ tài giỏi, làm việc quên mình thì cũng không thể chữa trị tất cả thương tổn cho mọi người bị hại. Chỉ có phụ nữ tự đứng lên liên kết hỗ trợ động viên nhau thì mới có cơ hội chống lại những thế lực tàn bạo đè nén phụ nữ. Chị tôi bị hại đến giờ vẫn chưa tìm thấy xác, hồi đó nhà chúng tôi nghèo nên chỉ có thể làm theo tập quán của dân thôn núi Huệ Sơn, đắp một nấm mồ tượng trưng chôn vài thứ mũ áo của chị trong một cái hang trên núi. Chúng ta có thể hình dung còn vô số phụ nữ bị hại, câu chuyện của họ bị chìm trong lịch sử và biến động xã hội, bị cuộc sống vất vả bận rộn lãng quên. Hôm nay chúng ta làm lễ truy điệu cô gái này, cũng nhằm nói với toàn xã hội rằng chúng ta quyết không khuất phục trước cái ác, chúng ta như một gia đình cùng chia sẽ nỗi đắng cay đau khổ của nạn nhân. Nhất định sẽ có ngày sức mạnh của tiếng nói và tình đoàn kết một lòng của chúng ta sẽ đè bẹp mọi tội ác.”
Không vỗ tay, vỗ tay lúc này là thừa và giả tạo. Chỉ có tiếng khóc thút thít, và gật đầu tin tưởng.
Một số phụ nữ lần lượt phát biểu. Nỗi bi phẫn lan tỏa trong khu nghĩa trang dưới màn đêm.
Kết thúc nghi lễ, Na Lan nói với ông Chu Tưởng Lộ, “Cháu đã hiểu tại sao chú với cô Đổng Bội Luân lại cùng bảo lãnh cho Mễ Trị Văn được ra ngoài điều trị.”
Ông nhìn sang Đổng Bội Luân, nói, “Từ lâu tôi có nghe nói cháu rất tinh ý thấu hiểu lòng người.”
“Đâu có? Nghe chú phát biểu cháu mới hiểu ra, chú cũng như cô Đổng Bội Luân đều đoán rằng Mễ Trị Văn có thể liên quan đến vụ án ‘ngón tay khăn máu’, và muốn thông qua lão để tìm ra sự thật đằng sau việc các cô gái mất tích hoặc bị hại.”
Chu Tưởng Lộ gật đầu, “Cháu đoán đúng. Tôi nói thật, khi nghe nói thông qua Mễ Trị Văn mà tìm được xác nạn nhân vụ án ‘ngón tay khăn máu’, người tôi bủn rủn kinh hãi.”
Na Lan hiều cả, cô cũng gật đầu.
Chu Tưởng Lộ tiếp tục, “Các chuyện khác tôi không có quyền phát ngôn, nhưng tôi biết tình trạng của Mễ Trị Văn… Có thể là vài tháng, thậm chí chỉ vài tuần nữa thì lão phải xuống địa ngục trình diện. Về lịch sử phạm tội, lão chưa gây án nhiều lần, nếu lão chỉ biết về vụ án ‘ngón tay khăn máu’, tức là hung thủ đích thực vẫn đang nấp ở đâu đó cười khẩy nhìn chúng ta và chở cơ hội để lại gây án. Chúng ta phải ngăn chặn để không có ai bị hại nữa. Muốn làm được thế, chúng ta đành trông chờ vào sự hợp tác của lão thì thực tế hơn.”
Na Lan lại gật đầu, rồi quay sang chỗ Đổng Bội Luân, cúi xuống nói rất khẽ, “Chắc cảm giác của cô rất mâu thuẫn. Cô mong sao Mễ Trị Văn đúng là hung thủ tội ác đầy mình, như thế đơn giản hơn. Đồng thời thâm tâm cô lại không cho lão là hung thủ. Mễ Trị Văn cô từng yêu mến năm nào, tuy hơi bí hiểm nhưng lại rất trang nhã lịch sự, tài hoa ấy không thể là kẻ gây ra các vụ án ‘ngón tay khăn máu’ kinh khủng như vậy.”
Dẫu trời đang tối, ánh nến chỉ lờ mờ, nhưng vẫn có thể thấy rõ sắc mặt Đổng Bội Luân bỗng thay đổi hẳn. Không phải vẻ mặt mơ hồ khó hiểu, mà là vẻ mặt của người bị đi guốc vào bụng.
“Em giàu trí tưởng tượng đấy!” Đổng Bội Luân cố đưa ra một câu không đến nỗi nóng nảy.
“Những nạn nhân bị lão xâm hại, kể cả cô, đều thuộc mẫu người ưa nghệ thuật, theo đuổi tình cảm, coi trọng tinh thần. Mễ Trị Văn tuy chưa được coi là hạng điển trai sáng ngời nhưng lại có biệt tài về nghệ thuật, dù hơi có tuổi thì vẫn khiến cho các cô gái cảm thấy tin cậy. Giống như tình yêu đối với một bậc thầy. Nhưng khi phụ nữ thể hiện rõ tình cảm thân thiết thì lão lại để lộ chân tướng gớm ghiếc của lão. Có điều, lão…” Na Lan lúng túng chưa biết nói sao để không đến nỗi làm cho Đổng Bội Luân bị tổn thương nặng nề. Cô định nói, Mễ Trị Văn gây án đều không làm đến cùng, luôn ở mức “bất thành”, Đổng Bội Luân chỉ là nạn nhân bị trọng thương mà thôi.
Đổng Bội Luân “đỡ lời” Na Lan, “Em định nói là hình như lão gây án đều không thành công lắm, đều chưa đẩy chúng tôi vào chỗ chết chứ gì?”
“So với các vụ ‘ngón tay khăn máu’ thì hơi khác.” Na Lan khẽ thở dài.
Đổng Bội Luân lạnh lùng hỏi, “Em còn nhớ lần trước hỏi tôi ‘Mễ Trị Văn có thể là hung thủ các vụ án ‘ngón tay khăn máu’ không’, tôi đã trả lời ra sao chứ?”
“Nếu có cơ hội thoát khỏi sự trừng phạt của bệnh tật, trốn khỏi nhà tù, thì việc đầu tiên Mễ Trị Văn làm là tìm đến cô, để tiếp tục làm cái chuyện lão chưa hoàn tất trong đêm hôm đó…”
“Cảm ơn em vẫn nhớ được. Nếu hôm nay em hỏi lại, tôi vẫn trả lời như vậy.”
Na Lan bỗng rùng mình.
Tuy các suy đoán không được Đổng Bội Luân khẳng định rực tiếp, Na Lan vẫn cho rằng mình dang đi đúng hướng. Từ miêu tả về quá khứ của Mễ Trị Văn cho đến hồi tưởng của bà mẹ Vu Ninh, rồi vẻ mặt kinh ngạc của Đổng Bội Luân, một phác họa đang dần hiện rõ, các cô gái yêu thích âm nhạc cổ truyền bị hấp dẫn bởi tài lẻ của Mễ Trị Văn và bộc lội tình cảm mến mộ, sau đó bị Mễ Trị Văn làm hại. Lão là một cô hồn không thân thích không bè bạn, biển người thì mênh mông, các cô gái bị lão cưỡng bức là số rất ít người tiếp cận lão. Diếu này lại chứng tỏ lão vốn dĩ sợ tiếp xúc thân mật, nhất là tiếp cận về tình cảm.
Vì những người ngày xưa gần gũi lão về tình cảm đều làm hại lão.
Nếu là một kẻ quá đau đớn thất tình, rối trả thù người khác giới, thì hành vi của họ không khó dự đoán, họ thường gạ gẫm để được việc rồi phủi tay, chiếm đoạt thân xác người ta xong rồi vứt bỏ, chứ không hay tiến hóa thành bạo lực xâm hại như kiểu Mễ Trị Văn. Nếu Na Lan suy đoán đúng, thì việc Mễ Trị Văn bị hại từ sớm là rất nặng nề, đến nỗi nửa đêm là phải lủi ra hố sâu để hành hạ động vật cho hả dạ, và nhiều năm sau tiếp tục trả đũa các cô gái tiếp cận lão.
Cái từ then chốt là sớm.
Sớm bị tổn thương, thường thấm thía nhớ lâu.
Sớm bị người thân cận bạo hành làm hại, lớn lên sẽ bạo hành với người thân cận.
Diều này có thể giúp lý giải các vụ cưỡng bức dâm bất thành. Nhưng giải thích ra sao về các vụ “ngón tay khăn máu” ?
Với nhiều vụ án cưỡng dâm xong xuôi, nhiều vụ án bắt cóc giết người, thì sẽ giải thích ra sao ?
Bắt đầu từ sự suy đoán bên trên, rồi đi sâu hơn. Giả sử suy đoán này là đúng, thì Mễ Trị Văn hồi niên thiếu đã bị người thân làm hại, anh ta phải đục thủng tường, trốn ra ngoài ngôi nhà ngục tù ấy nhưng lại không thể bỏ đi hẳn. Thế thì, kẻ gây nên tội ban đâu chỉ có thể là người nhà.
Cha mẹ Mễ Trị Văn.
Hôm nay, ngày cuối tuần trong một mùa xuân uể oải, sau mấy ngày sương mù khủng bố, mặt trời đã hiện ra, dân chúng liền hớn hở nhẹ nhõm, thậm chí không buồn tháo khẩu trang, cứ thế ào ra khỏi nhà đi chơi, đi mua sắm. Đại học Giang Kinh cũng không ngoại lệ, từ sáng sớm, các đôi nam nữ, các chàng trai cô gái ăn mặc sặc sỡ đã tràn ra kín khu Văn Viên rộng đến 12 héc ta, chưa đến 12 giờ trưa họ đã đi khắc thành phố tô điểm cho sắc xuân vừa quay trở lại.
Na Lan ngưỡng mộ ngắm nhìn phong cảnh bên ngoài và những bóng người vui vẻ dưới nắng xuân, khẽ thở dài, cầm di động lên định gọi cho Sở Hoài Sơn thì nhận ra hai tin nhắn của anh ta gửi đến.
Là hai cái tên. Mth, Mễ Dũng Liên.
Cô nhắn lại: Là người vốn ở thôn Mễ Gia?
Sở Hoài Sơn: Đúng.
Na Lan: Tìm họ như thế nào? Địa chỉ?
Sở Hoài Sơn nhanh chóng nhắn hai địa chỉ đến.
Bỗng có người gõ cửa ký túc xá.
“Tôi, Trần Ngọc Đống đây!”
Na Lan mở cửa, ngạc nhiên nhìn người đàn ông. Trần Ngọc Đống không định bước vào, nên nói luôn, “Nào, chúng ta đi tìm một người.”
“Ai ạ?”
“Dọc đường tôi sẽ nói.” Ông đã quay người bước đi.
Na Lan hào hứng, “Vừa khéo, cháu cũng đang định đi tìm người. Có lẽ hai chú cháu cùng đường cũng nên.”
Trần Ngọc Đống mở sổ tay. Quả nhiên, địa chỉ ông ghi cũng trùng với địa chỉ trong mẩu tin nhắn. Đó là nơi ở của một ông già tên là Mễ Dũng Liên.
Trên xe buýt, Na Lan hỏi Trần Ngọc Đống, “Sở Hoài Sơn liên lạc với chú à?”
“Không. Sao nào?”
“Khéo quá! Chú và anh ta thần giao cách cảm thì phải? Sau khi xác định được Mễ Trị Văn là sản vật của thôn Mễ Lung thì chú và anh ấy cùng đi tìm người cũ của thôn, và cùng tìm đến ông Mễ Dũng Liên này.” Na Lan giải thích.
Trần Ngọc Đống “Thế à?” Rồi nói, “Không chỉ một người, tôi còn tìm thấy một người nữa tên là mth.”
“Sở Hoài Sơn cũng nhắc đến. Có cần đi gặp người này không?”
“Cứ gặp Mễ Dũng Liên trước đã. Mth kém Mễ Trị Văn hai tuổi, họ cùng trang lứa, chắc ông ta không nhớ nhiều về thôn Mễ Lung và cha mẹ của Mễ Trị Văn. Mễ Dũng Liên là thế hệ trên Mễ Trị Văn, năm nay đã 80 tuổi, hẳn ông ta hiểu rõ các chuyện ở thôn Mễ Lung.”
Na Lan hỏi, “Sao chú tìm ra họ?” Cô đoán Sở Hoài Sơn không ra khỏi nhà nhưng anh ta hay tìm trên mạng, thư viện... cộng với các chiêu lạ của mình, còn Trần Ngọc Đống thì dùng cách truyền thống.
“Quả là không dễ. Thoạt đầu tôi nghĩ họ Mễ ở Giang Kinh và vùng lân cận không nhiều, bèn nhờ một học trò đang làm ở Phòng Hộ tịch thành phố tìm giúp. Cô ta lọc ra hơn bốn mươi người. Tiếp tục sàng sẩy, lựa những người phù hợp, tức là độ tuổi trên 50, được 16 người. Sau đó tôi nảy ra sáng kiến, đến Phòng Hồ sơ, tra cứu danh sách dân chúng di dời sau khi dốc Mễ Lung trở thành di tích khảo cổ trọng điểm.”
Na Lan đã hiểu ra, mỉm cười, “Xem ra, thôn Mễ Lung có di nhưng không dời!” Cái thôn bỏ hoang ấy không có tiềm lực khai thác thành nhà ở để bán, nên nó đã thoát khỏi vận hạn bị giải phóng mặt bằng. “Nghe nói dân chúng đều chuyển vào thành phố Giang Kinh.”
“Đúng thế. Và họ dời đến thành một cụm tập trung, 19 hộ họ Mễ chuyển đến ba tòa nhà lớn ở khu Tân Giang, thuộc khu tập thể Sở Dân chính, Sở Y tế và Sở Thủy điện. Sau hơn ba mươi năm, già nửa số hộ họ Mễ đã chuyển đi, một số người cao tuổi đã qua đời. Xem xét các hộ ở ba tòa nhà và đối chiếu hộ tịch, chứng minh thư phù hợp với Mễ Trị Văn, thì chỉ còn hai người là Mễ Dũng Liên và mth.”
“Gia đình Mễ Trị Văn thì sao ?”
Trần Ngọc Đống lắc đầu, “Không có bất kỳ ghi chép nào về Mễ Trị Văn. Quản lý hộ tịch ngày xuu7a chưa có máy tính, nên cũng thường thất lạc tài liệu. Chứng minh thư lúc bị bắt của Mễ Trị Văn là đồ giả.”
Na Lan kinh ngạc, “Thế thì... rất có thể lão không phải là Mễ Trị Văn?!”
“Có thể.” Trần Ngọc Đống cười nhạt. “Chứng minh thư giả, họ tên cũng có thể là giả, nhưng hồ sơ bệnh án thì là thật, cháu cũng nhìn thấy rồi. Lão vào nhà đá nhiều lần, song vào bệnh viện còn nhiều hơn, cho nên hồ sơ y tế rất đầy đủ. Nếu là tên giả, thì cũng tức là mấy chục năm qua lão đều dùng tên giả này.”
Nhà Mễ Dũng Liên ở gần khu tập thể cũ của Sở Y tế, gồm hai gian liền kề rộng chừng 60 mét vuông. Trần Ngọc Đống bước vào và nói rõ mục đích thăm viếng, câu đầu tiên Mễ Dũng Liên bật ra là, “Ngần ấy năm rồi, sao bây giờ các vị mới tìm đến tôi?”
Trần Ngọc Đống hỏi thăm tuổi, ông già nói mình đã 83. Vóc người ông gầy mảnh, lại chịu khó tập dưỡng sinh nên trông chỉ như gần 70 tuổi. Nhà ông nuôi đủ thứ chi cảnh, cá vàng… trên bàn trải tấm giấy với hình vẽ dang dở, thoáng nhìn hình như là vẽ con ngỗng béo. Ông cho biết bà vợ sang câu lạc bộ người cao tuổi chơi mạt chược, và định pha trà mời khách.
Trần Ngọc Đống nói, “Bác đừng bày vẽ. Chúng tôi chỉ nói ít phút rồi đi ngay. Bác định liên lạc với công an từ khi nào?”
“Khoảng 13 năm trước.” Ông Mễ Dũng Liên nghiêng đầu nghĩ ngợi, “Có lẽ cách đây 12 hoặc 13 năm. Già rồi, năm này năm nọ không nhớ rõ được nữa. Nhưng đó là một lần Mễ Trị Văn giở trò lưu manh rồi bị bắt.” Xem ra, ông biết Mễ Trị Văn là kẻ phạm tội nhiều lần.
Trần Ngọc Đống hỏi, “Sao hồi đó bác không tìm chúng tôi?”
“Đến gặp các anh thì tôi biết nói gì nhỉ? Tôi quen thằng nhãi lưu manh ấy, đúng là ‘húc ba đời!’” Ông ngồi xuống cái ghế mây.
Na Lan mỉm cười, “Chắc lần trước gặp nhau, Mễ Trị Văn mới chỉ là một đứa trẻ con, nên ông vẫn quen gọi là thằng nhãi lưu manh! Bây giờ Mễ Trị Văn gần 60 rồi.”
Ông già hơi kinh ngạc, “Phải đấy! Đúng, đúng là đã rất nhiều năm. Thực ra tôi vẫn đợi các vị đến tìm, tôi sẽ kể cho các vị nghe… thằng nhãi ấy đến nông nỗi như ngày nay, không ai ngờ và cũng không ai lấy làm lạ cả.”
Na Lan biết, một tội phạm cưỡng dâm chưa “xong việc” nhu Mễ Trị Văn thì công an chưa cần đi sâu tìm hiểu kỹ làm gì. Nếu Mễ Trị Văn không ngỏ ý muốn gặp cô, không chủ động nói là có liên quan đến vụ án “ngón tay khăn máu” thì quá khứ quái dị thời niên thiếu của lão không khui ra.
Trần Ngọc Đống nhắc, “Mong bác gợi mở cho chúng tôi.”
“Tại sao nói không ai ngờ hắn lại biến thành như ngày nay? Nói thật lòng, con người đi ra từ thôn Mễ Gia không nên biến thành như thế! Mễ Gia ở nơi khác tôi không biết nhưng Mễ Gia ở Giang Kinh chúng tôi tuy chỉ làm nghề nông và cũng buôn bán nhỏ nhưng tự cổ chí kim việc dạy dỗ con cháu luôn rất chú ý cả đức lẫn tài. Cha Mễ Trị Văn là Mễ Trị Huân, thầy giáo trường trung học của xã, hiểu biết và đạo đức, cầm kỳ thi họa đều giỏi. Mẹ hắn là Hoàng Tuệ Trân , sắc nước hương trời, hạt nhân văn nghệ từ xã lên đến huyện, hát hay múa đẹp, có tài diễn kịch nói.”
Cây bút vô hình trong óc Na Lan bắt đầu đặc tả, Mễ Trị Văn kế thừa năng khiếu văn nghệ của cha mẹ, ham học sách, những biểu hiện gần đây khi nằm trên giường bệnh giống như một diễn viên non nớt nhưng muốn bước vào cánh cửa lớn của khoa Biểu diễn Học viện Kịch nghệ và Học viện Điện ảnh Trung Quốc.
Ông già Mễ Dũng Liên nói, “Tại sao lại nói không lấy làm lạ? Ai cũng phải trầm trồ ngưỡng mộ gia đình Mễ Trị Văn. Tôi kém cha hắn 2 tuổi, dịp Tết một năm nọ tôi nhìn thấy cả nhà họ ba người đứng ở cổng nhà chụp ảnh, như cô em tôi thường nói thì, tôi thèm rỏ dãi ra! Nhưng gia đình họ có chút vấn đề, Mễ Trị Huân là ông giáo trường trung học xã, trường cách thôn mười mấy cây số, ông ta đạp xe đi về, đôi khi muộn quá ngủ luôn ở trường không về nhà nữa. Hoàng Tuệ Trân thi thoảng phải lên xã thậm chí lên huyện vào buổi tối để tập tiết mục văn nghệ, nên phải đem theo cả Mễ Trị Văn. Thành thử sinh hoạt nhà ấy khá lộn xộn. Có lần tôi đã khuyên nên chuyển hẳn lên thị trấn mà ở, vừa gần trường vừa gần nơi tập văn nghệ… nhưng hộ khẩu khó làm, kinh tế cũng bí, nên ruốt cuộc họ cũng không thể đi khỏi cái thôn Mễ Lung.” Ông già thở dài.
Hai vị khách không nói gì, biết rằng câu chuyện vẫn còn tiếp tục.
“Mễ Trị Văn giống bà mẹ, trông rất trắng trẻo tuấn tú nhưng thể lực không tốt, gầy nhẳng da bọc xương, lại mắc bệnh co giật, thinh thoảng ngã lăn ra sùi bọt mép ngất xỉu. Chắc là vì thế mà hồi bé nó rất ít nói, ít cùng bọn trẻ nô đùa hay chạy như điên trên dốc. Nhưng nghe nói ở trường nó học rất giỏi.”
Na Lan chợt hỏi, “Thể lực kém, không hòa nhập, liệu có phải cậu ta bị bọn trẻ bắt nạt không?”
Ông già đăm chiêu, “Điều này thì không nghe nói đến. Thôn chúng tôi nhỏ, cùng với ba thôn khác, có chung một trường tiểu học, lũ trẻ đều quen nhau cả. Hồi đó con người thuần phác, không nghe nói có ai bắt nạt nó.”
Chứng tỏ tính cách hung bạo của Mễ Trị Văn là do gia đình không hài hòa tạo nên, phải thế không? Dù cha mẹ loạc choạc tách biệt, đâu đến nỗi tạo thành tổn thương nghiêm trọng cho con cái?
“Đại khái là khi Mễ Trị Văn hiểu biết sự việc thì mâu thuẫn giữa cha mẹ trở nên gay gắt, hai vợ chồng cứ lủng củng với nahu mãi, rồi đến một hôm Hoàng Tuệ Trân ra đi, bỏ lại chồng con, đi hẳn.”
Tất cả im lặng, chỉ còn tiếng con oanh vàng trong lồng chích chích mấy tiếng.
Na Lan lặp lại, “Đi? Chủ động bỏ đi?”
Mễ Dũng Liên nói, “Hoàng Tuệ Trân bắt rể ở chốn văn nghệ, dù chỉ là đoàn văn công huyện, nhưng hình như cũng dính chuyện dan díu nam nữ, cô ấy có nhan sắc, dù đã có con nhưng vẫn xinh tươi như gái 18, hẳn phải có khối kẻ thèm rỏ dãi, đoán rằng họ đều là những kẻ có nanh có mỏ ở huyện. trước khi cô ta bỏ đi, từng có chiếc xe Jeep đưa cô ta về thôn, nghe nói là một xếp trên huyện. Thấy không, cái chuyện mèo mả gà đồng có từ năm sáu chục năm trước! Các vị nói xem, một phụ nữ như thế lại bỏ chồng con, bỏ quê cha đất tổ, thì có kỳ lạ không? Cho nên, tất nhiên là chủ động ra đi, đem theo cái xắc du lịch và một số áo quần và đồ trang sức. Thời đó rất hiếm chuyện bắt cóc giết người!”
“Bà ấy đi đâu?” Na Lan hỏi. Gia đình không tình thương, cha mẹ bất hòa, đêm khuya trốn ra ngoài, cái hố sâu, sát hại động vật, xả giận…
“Chịu không biết, không ai biết. Dân thôn chgu1ng tôi đều đoán chắc là có vị xếp to bố trí cho cô ấy ra thành phố lớn. Cha của Mễ Trị Văn từng lồng lên đi tìm một thời gian, dân thôn cũng giúp nghe ngóng khắp nơi, nhưng sau khi ông ta chết thì không ai để ý đến cái chuyện đó nữa.”
Trần Ngọc Đống xen vào, “Mễ Trị Huân chết? Chết như thế nào?”
“Sau khi vợ bỏ đi, ông ta phải đạp xe về nhà hằng ngày để chăm sóc Mễ Trị Văn. Rồi một tối đang trên đường đi thì bị chiếc xe vận tải khí tài quân sự đâm chết.”
Na Lan lẩm bẩm, “Thế là Mễ Trị Văn thành trẻ mồ côi.”
Ông già nhận xét, “Một gia đình đang yên lành rồi thành ra tan tác, con cái tốt đẹp sao được?”
Trần Ngọc Đống nói, “Hồi đó nếu cha mẹ đều mất, lại không có ông bà họ hàng nuôi nấng, thì trẻ con phải vào trại mồ côi.”
Ông già lại thở dài, “Trên huyện không có trại mồ côi, hồi đó chỉ thành phố Giang Kinh mới có. Cho nên Mễ Trị Văn là người đầu tiên ở thôn Mễ Lung được về thành phố.”
Chương 22: KÝ SỰ LƯU LẠC
Nhà phúc lợi nhi đồng thành phố Giang Kinh có tên cũ là Cô nhi viện Giang Kinh, thời xa xưa nó là Cô nhi viện Đức Bà do giáo hội tổ chức ra,  nằm ở tô giới Pháp cũ, thuộc khu Văn Viên, cách Đại học Giang Kinh không xa, hơi chếch bên kia là nhà thờ lớn của Thiên chúa giáo. Vào ngày cuối tuần, nhà phúc lợi tấp nập khác thường, nhiều nam nữ thanh niên tình nguyện, có vẻ như sinh viên, nhân ngày nghỉ đến làm từ thiện thì phải.
Để ông Trần Ngọc Đống tạm đứng chờ, Na Lan bước đến cổng nhà phúc lợi. Một sinh viên đeo kính trắng tươi cười hỏi, “Em là tình nguyện viên của trường nào? Đánh dấu vào tờ danh sách này đi!”
Thì ra mình vẫn bị đàn em nhìn nhầm là sinh viên lớp dưới, cô hơi đắc ý. Nhưng chợt nhớ ra mấy năm nay sinh viên Đại học Giang Kinh toàn gọi các bạn gái như thế, dù hơn hay kém tuổi, cô bèn mỉm cười, “Anh có quen những người làm ở nhà phúc lợi không?”
Anh ta nói, “Tôi ở hội sinh viên Đại học Y Giang Kinh, đã tổ chức hoạt động tình nguyện ở đây ba năm, rất quen biết nhà phúc lợi.”
“Anh có biết ai là nhân viên lâu năm ở đó không?”
“Sao lại hỏi… cô làm công tác gì?”
Na Lan khẽ nói, “Tôi ở Sở Công an.”
Anh sinh viên lắp bắp, “Chà… tôi không… không nhận ra.”
“Tôi nghe đây.”
Anh ta nghĩ ngợi rồi nói, “Nhân viên thâm niên nhất ở đó có lẽ là chị Triệu.”
Na Lan cau mày, “Chị Triệu?”
“Đúng mọi người đều gọi bà ấy như thế… à tôi quên chưa nói, gọi là chị Triệu nhưng thật ra là một bà già đã ngoài 80.”
“Thì ra là vậy.” Na Lan hơi thất vọng. “Tức là đã nghỉ hưu, đi đâu tìm bà ấy đây?”
Anh ta cười, “Ở ngay nhà phúc lợi. Bà ấy là cựu giám đốc, về hưu vẫn ở lại. Nghe nói bà ấy vốn là trẻ mồ côi được các xơ ở Cô nhi viện Thiên chúa giáo nuôi dạy. Không có nhà riêng. Cô nhi viện là nhà của bà ấy.”
Vừa gặp ông Mễ Dũng Liên ngoài 80 tuổi, giờ lại đi gặp chị Triệu ngoài 80 tuổi, Na Lan cảm thấy hôm nay là ngày của các cụ già thì phải! Nghe sinh viên kia kể, sau khi nghỉ hưu bà Triệu vẫn ở lại nhà phúc lợi cũng vì bà không thể xa đám trẻ mồ côi. Nhà phúc lợi chăm sóc bà chu đáo, để bà tiếp tục sử dụng căn buồng xép đã ở mấy chục năm.
Căn buồng bé tẹo, kê cái giường và vộ bàn ghế, ngoài ra chỉ còn chỗ cho ba người vừa khéo chứa được thêm Na Lan va Trần Ngọc Đống. Khuôn mặt bà Triệu đầy nếp nhăn của một người già đã trải bao phong sương suốt tám mươi năm, nhung bà vẫn tỉnh táo xởi lởi, nói năng rành mạch. Lưng hơi còng nhưng động tác cử chỉ vẫn gọn ngàng dứt khoát, xem chừng là người rất tháo vát. Miệng nói, tay thi thoảng mân mê cây thánh giá trước ngực. Bà dẫn cả hai ra sân, vừa đi vừa nói chuyện.
Trần Ngọc Đống nói ý định của mình.
Bà Triệu băn khoăn, “Ngày trước không biết quản lý hồ sơ một cách khoa học, nên tư liệu về bọn trẻ mồ côi hơi lộn xộn, lại trải qua mấy lần biến động... tư liệu cách đây năm mươi năm chắc chắn là không còn nữa.”
Na Lan đưa ra bức họa khuôn mặt Mễ Trị Văn của Sở Công an làm. “Bà còn nhớ người này không?” Cô đành thử vận may, dù biết rằng bà đã từng thu nhận nuôi dưỡng vô số trẻ mồ côi.
Bà Triệu mỉm cười, “Tôi vẫn nhớ những đứa trẻ đã từng ở cô nhi viện này.” Bà cầm bức họa, rồi sờ túi áo lấy cặp kính lão ra nhìn một lúc, nét cười trên mặt phai dần. Na Lan hỏi, “Bà nhận ra người này à?”
“Mễ Trị Văn.” Bà thở dài. “Mấy năm trước nghe nói nó phạm tội, hình như là cưỡng dâm giết người.”
“Nhưng chưa thành” Na Lan bổ sung một chi tiết khách quan. “Xem ra, ảnh máy tính tái tạo khá chính xác. Trí nhớ của bà cũng rất tốt nữa.”
“Có những đứa trẻ có đặc điểm gì đó, nên càng dễ nhớ. Mễ Trị Văn... nó rất gầy, nhưng không phải vì ăn uống thiếu chất. Hình như hoàn cảnh gia đình nó không hay mấy. Không hiểu sao lại gầy như thế. Và, cậu bé này rất tài hoa, nó biết kéo đàn nhị.”
“Tài thật!” Na Lan khẽ nói. Xem ra thập bát ban nhạc cụ cổ truyền, Mễ Trị Văn đều tinh thông.
“Thật ra không chỉ đàn nhị, nó còn biết chơi cổ cầm, đàn tranh, thổi sáo. Nhưng hồi đó cô nhi viện chỉ có đàn phong cầm phương Tây và một cây đàn nhĩ cũ kỹ đứt dây. Nó không biết chơi phong cầm, bèn đem sửa cây đàn nhị, thinh thoảng đem ra chơi vào dịp Nguyên đán, Trung thu hoặc Tết thiếu nhi 1-6, hễ cô nhi viện tổ chức liên hoan văn nghệ thì Mễ Trị Văn đều lên sân khấu biểu diễn. Nó chơi bản nhạc Nhị tuyển ánh nguyệt rất hay... Về sau tự nó mày mò rồi cũng chơi được đàn phong cầm, cho nên mỗi khi các cháu tập hát hợp xướng đều không cần mời nhạc công bên ngoài vào đệm đàn nữa.”
Trần Ngọc Đống hỏi, “Có lẽ các thầy cô giáo đều rất mến Mễ Trị Văn?”
“Đương nhiên nó được coi trọng, nhưng tính tình nó rất kỳ quặc, không bao giờ nói chuyện hoặc chơi cùng các bạn. Thể dục buổi sáng hoặc các giờ rèn luyện thân thể, nó đều tách riêng một chỗ, ngồi nghệt ra. Mắng nó, phạt nó vô số lần cũng không ăn thua. Vì ở ký túc xá nó không bao giờ hé răng nên bị các bạn đặt cho biệt hiệu ‘thằng câm’, và không tránh khỏi đôi khi bị bắt nạt.”
Na Lan thầm cảm thán, lại một vết thương thời niên thiếu, và lại thêm một lý do để xả giận. Cô hỏi, “Mễ Trị Văn ở cô nhi viện bao lâu, sau đó được người ta nhận nuôi hay trưởng thành trong cô nhi viện rồi vào đời tự kiếm sống?”
“Nó mất tích.”
Na Lan kinh ngạc.
Bà Triệu dừng bước, hơi ngẩng đầu, nghĩ ngợi một lát rồi lại nói, “Khi vào cô nhi viện, nó khoảng 10, 11 hay 12 tuổi gì đó, ở chỗ chúng tôi bốn đến năm năm. Tức là vào năm 15 hoặc 16 tuổi, một hôm bỗng không thấy nó đâu nữa. Mấy món đồ dùng cá nhân lèo tèo của nó cũng biến mất.”
“Tức là bỏ đi, có kế hoạch hẳn hoi. Trước đó các bác không nhận ra dấu hiệu gì à?” Trần Ngọc Đống hỏi.
“Một đứa trẻ quanh năm không nói một câu như thế, ai biết nó nghĩ gì, hay định làm gì.”
Trần Ngọc Đống lại hỏi, “Mễ Trị Văn có thể đi đâu, các bác cho là thế nào? Đến nhà họ hàng chẳng hạn...”
Bà Triệu lắc đầu, “Chúng tôi đã đến thôn Mễ Lung tìm hiểu, không đả đụng tời vụ mất tích, chỉ đến xem sao. Không thấy nó đâu, cũng không bỏ công sức đi tìm thêm nữa. Những năm tháng ấy... là một thời kỳ rất đặc biệt. Chắc cô gái này không thể ngờ, bấy giờ cách mạng văn hóa mới bắt đầu chưa lâu, trẻ con mười mấy tuổi đầu đã ngồi tàu hỏa đi khắp đất nước, lên rừng xuống biển, liên kết móc nối nhau làm bừa. Sau khi giám đốc cô nhi viện bị đánh đổ thì nơi này như rắn mất đầu, bọn trẻ con đứng ra chỉ mặt đấu tố giáo viên chúng tôi, hỗn loạn hết mức! Cho nên chẳng ai bận tâm cũng chẳng ai đào sâu xem xét vụ mất tích của Mễ Trị Văn nữa.”
Na Lan hỏi, “Mấy năm trước nghe tin Mễ Trị Văn biến thành tội phạm cưỡng dâm, bà cảm thấy thế nào?”
Bà Triệu trầm ngâm. Rồi lặp lại câu nói lúc nãy, “Nó là thằng bé rất kỳ quặc.”
Na Lan và Trần Ngọc Đống ra khỏi nhà phúc lợi, cả hai đều thấy nặng nề vì chuyến đi gần như vô ích.
“Các vị chờ đã!” Bà Triệu bước ra cổng nhà phúc lợi gọi họ. “Tôi vừa nhớ ra một chuyện có lẽ sẽ hữu dụng với hai vị. Hồi mới vào cô nhi viện, Mễ Trị Văn mang theo chiếc radio của nhà, cứ cách một ngày nó lại mở ra nghe một lúc. Về sau tôi để ý thấy rằng nó nghe một vở kịch nói. Hồi ấy người ta thường xuyên phát đi phát lại vở kịch này, về sau không phát nữa thì nó cũng thôi.”
Kịch nói! Na Lan thầm nghĩ, Mễ Trị Văn nghe giọng nói của bà mẹ.
“Đó là vở kịch nói của Tào Ngu, tên là Nhà, chuyển thể từ tiểu thuyết của Ba Kim.” Sở Hoài Sơn nói qua điện thoại. Anh ta xem kho dữ liệu kỹ thuật số về báo chí-điện ảnh, tìm thấy bảng kê tiết mục của Đài Phát thanh Nhân dân Giang Kinh những năm 1964-1965, thứ Bảy hàng tuần có chương trình “Cửa sổ văn nghệ” phát từ 7 đến 8 giờ tối. Thời đó họ đã nhiều lần phát băng ghi âm vở kịch nói Nhà. Nhà ra đời từ những năm 40 của thế kỷ trước, đã có vô số đoàn kịch đưa lên sân khấu. Băng ghi âm vở diễn phát trên Đài Phát thanh Nhân dân Giang Kinh dạo ấy, là do đoàn kịch thành phố kết hợp với các hạt nhân văn nghệ cơ sở biểu diễn năm 1960.
Na Lan nói, “Chắc chắn Hoàng Tuệ Trân có tham gia biểu diễn.”
“ Chỗ tôi có bảng diễn viên đây. Hoàng Tuệ Trân sắm vai Minh Phượng.”
Hồi trung học Na Lan từng đọc các tác phẩm Nhà, Xuân, Thu, còn nhớ Minh Phượng là một nhân vật bi kịch trong đó.
“Có thể lý giải được hành vi của Mễ Trị Văn. Mẹ bỏ nhà ra đi, cậu con trai lên mười chắc chắn rất nhớ mẹ. Minh Phượng trong vở kích nói có lẽ là kỷ niệm duy nhất Hoàng Tuệ Trân để lại, vì thế cậu ta mới nghe đi nghe lại qua radio.” Na Lan lẩm bẩm nói ra cảm nhận của mình. Rồi lại hỏi, “Có cách gì kiếm được bản ghi âm đó không?”
Sở Hoài Sơn nói, “Tôi đã thử gọi điện hỏi thư viện, phòng hồ sơ, đài phát thanh, nhà hát kịch, đều không được. Cô cần bản ghi âm làm gì?”
“Chỉ tò mò thôi. Tôi muốn nghe giọng bà ấy, nếu được gặp người thì càng hay.”
Di động bỗng “tinh tang”. Một tấm ảnh đã được gửi đến. Tấm ảnh đen trắng cũ, một cô gái xinh tươi trong sáng, trang điểm kiểu thời Dân quốc. Na Lan hỏi, “Bà ấy… là mẹ Mễ Trị Văn?” Đã biết còn hỏi. Cô chăm chú nhìn khóe miệng của Hoàng Tuệ Trân, rõ ràng là có nét cười nhưng mép không nhích lên mà lại hơi trễ xuống, chi tiết này thể hiện vẻ ai oán.
“Là áp phích quảng cáo cho vở Nhà, họa báo Giang Kinh năm 1962.”
Na Lan lộ vẻ tư lự, “Nếu Hoàng Tuệ Trân mất tích thật, chúng ta có thể đi tìm bà ấy, chưa biết chừng sẽ khiến Mễ Trị Văn phải nói thật.”
Sở Hoài Sơn im lặng rất lâu.
“Sao thế?”
“Ngây thơ!” Sở Hoài Sơn đáp.
Na Lan thở dài, “Cảm ơn anh nhận xét. À, cái chữ kia… có manh mối gì chưa?” Cô biết mình hỏi thừa, nếu Sở Hoài Sơn khám phá ra thì anh ta đã nói cho cô biết trước tiên.
Sở Hoài Sơn im lặng một lát, rồi nói, “Tôi lại muốn hỏi cô. Vì Mễ Trị Văn bảo chỉ cô mới giải mã được.”
Na Lan toang kháng nghị, thì anh cũng phải giúp tôi chứ! Nhưng chính cô không chịu động não thì Sở Hoài Sơn giúp thế nào được?
Tại sao lại là cô?
Con chữ đang đặt trên bàn, những nét cong cong như con sâu. Na Lan nhìn nó rất lâu, hình như con sâu sắp bò vào mắt cô. Cô hỏi, “Là chữ tượng hình phải không?”
“Trước khi rút khỏi vụ này, Ba Du Sinh đã thỉnh giáo một lô chuyên gia văn tự học, được một lô kết luận nhưng đều vô ích. Đa số các vị ấy cho là chữ tượng hình, ý kiến na ná nhau, phần trên giống chữ Thi hoặc giống chữ Trãi... đều là động vật.”
“Điều này ngay trẻ con cũng nhận ra. Thi là lợn, còn Trãi là con gì?”
“Nếu là Trãi thì hóc búa rồi. Thời cổ, chữ Trãi chỉ nhiều loài động vật, về sau thì những con vật không chân, di chuyển bằng cách trườn như sâu, giun...”
“Hơi thú vị đấy! Và gì nữa?” Na Lan nhớ đến những con vật bị mất xương ngón chân nằm dưới cái hố.
“Hết rồi. Còn lại nhờ cô.”
“Tôi? Tôi chưa bao giờ nuôi lợn, và cũng không thích sưu tầm giun.”
Mình đã làm gì? Để rồi Mễ Trị Văn cứ không buông tha mình? Na Lan cảm thấy một ý nghĩ đang dần hình thành...
Nhưng nó rất mờ mịt, mơ hồ, chập chờn, cô không sao nắm bắt được.
Mình từng làm những việc gì? Suýt bỏ mạng trong vụ án “năm xác chết” ở hồ Chiêu Dương, tình cảm tưởng như được rồi lại mất. Suýt chết trong núi tuyết Trường Bạch, người xưa trở về với mình rồi lại ra đi. Cách đây ba hôm trong cái hố sâu ở dốc Mễ Lung cũng suýt mất mạng bên đám xương động vật xác xơ và cuốn sách Không dũ tùy đàm.
Mễ Trị Văn đã đoán được rằng cô sẽ đến thôn Mễ Lung điều tra các chuyện thời niên thiếu của lão. Việc cô cứ loay hoay trong vụ án vô vọng này đến nay, có phải là một quá trình tất nhiên thậm chí là quá trình bắt buộc nếu muốn giải mã con chữ quái quỷ ấy không?
Rơi vào cái hố, thu hoạch lớn nhất của Na Lan là phát hiện ra mặt tối tăm của Mễ Trị Văn thời niên thiếu và cuốn sách Không dũ tùy đàm.
Cô nhớ lại cuốn sách lem nhem đã lật xem ấy, bên trong có nhiều chỗ đánh dấu và ghi chú. Cô gọi điện cho Kim Thạc.
Có thể coi cuốn Không dũ tùy đàm “khai quật” được ở cái hố là đồ cổ thực sự. Các kỹ thuật viên ở Sở Công an đã nhờ hai chuyên gia về sách cổ giám định, cho biết là bản in năm Quang Tự thứ 3 (tức năm 1878), có thể nói là cuốn truyện ký gần như duy nhất còn sót lại. Chứng tỏ thời đó số bản in chỉ lèo tèo.
Na Lan hỏi Kim Thạc đã đọc kỹ chưa, anh vừa ngạc nhiên vừa nghiêm túc nhìn cô, hình như ngờ rằng đầu óc cô có vấn đề, “Cô có muốn xem thời gian biểu công tác của tôi và các cán bộ khác ở Sở không? Ai có thì giờ mà đọc!” Anh chỉ món “đồ cổ” đặt trên bàn. “Chữ phồn thể, in dọc, quá cũ kỹ, nét tỏ nét mờ, lại là cổ văn, ai đọc thì đầu cũng chỉ chực vỡ tung!”
Na Lan mỉm cười, “Không đến nỗi thế! Chỉ là có thêm những ghi chép chú thích khi đọc. Rất có thể sẽ cho ta manh mối gì đó.”
“Tôi đã đọc những chỗ chú thích, chẳng có gì ahy ho. Cô muốn xem cũng được nhưng phải đến đây mà đọc, hôm nay đọc chưa hết mai đọc tiếp.”
“Được!” Cô nghĩ ngợi, rồi nói với giọng nài nỉ, “Tôi muốn phiền anh một việc nữa, có thể tìm băng ghi âm trích đoạn vở kịch nói Nhà của Tào Ngu, ghi âm năm 1964 hay 1965 gì đó không?”
Kim Thạc ngạc nhiên, “Nhà, là của Ba Kim viết kia mà?”
Na Lan, “Tào Ngu đã đem chuyển thể kịch nói, nhà hát kịch Giang Kinh diễn, Đài Phát thanh Nhân dân Giang Kinh phát đi phát lại suốt hai năm.”
Kim Thạc hỏi, “Có liên quan đến vụ án không?”
“Rất liên quan! Bà mẹ Mễ Trị Văn sắm một vai trong đó, tôi muốn nghe giọng nói của bà ấy.”
“Giọng bà mẹ có liên quan đến vụ án hay sao?”
Na Lan khẽ thở dài. “Bà ấy bỏ đi từ khi Mễ Trị Văn còn rất nhỏ, có người nói bà đã bí mật lấy một nhân vật cỡ bự nào đó. Nếu chúng ta tìm thấy bà ấy, nhờ bà khuyên Mễ đại sư hợp tác với ta, thì sẽ đỡ tốn bao công sức.”
Kim Thạc bật cười. Na Lan cau mày, “Sao?”
“Tôi định bình luận cô bằng hai chữ.”
Na Lan lắc đầu, “Ngây thơ, chứ gì?”
Kim Thạc sửng sốt, “Sao cô biết?” Nhưng anh bỗng hiểu ra. “À, cô chuyên về Tâm lý học.” Anh tủm tỉm nhìn Na Lan hồi lâu, khiến cô mất tự nhiên. “Được, tôi sẽ thử hỏi. Băng ghi âm cổ lỗ sĩ, e rằng rất ít hy vọng.” Nói rồi anh bước ra khỏi phòng làm việc.
Lại thêm một lần mắc nợ, sắp phải đi thủ đô với anh ta cũng nên.
Na Lan nhớ đến Ba Du Sinh, không rõ hiện giờ anh đang bận rộn ở đâu, mấy lần đến sở đều không thấy anh.
Lẽ nào Ba Du Sinh buông tay khỏi vụ án này thật?
Mở cuốn Không dũ tùy đàm ra, nhìn chữ phồn thể in dọc ra quả là hơi chóng mặt. Nhưng Na Lan không cần đọc kỹ nội dung bản cổ văn này, cô chỉ chú ý đến những chỗ Mễ Trị Văn đánh dấu hoặc ghi chú bằng bút lông. Các chuyên gia bút tích học đã xác định đây là chữ của Mễ Trị Văn, chữ hồi đó tất nhiên non nớt, nhưng vẫn nhận ra trình độ thư pháp rất khá.
Phần lớn các ghi chú của Mễ Trị Văn viết ở góc trang sách, chủ yếu là trầm trồ, khen ngợi, bình luận. Na Lan cũng nhận ra yếu tố trẻ con trong những câu chữ này. Nhưng đây đó lại vương vất một thứ tà khí không trẻ con chút nào. Ví dụ, sau mẩu chuyện về cái chết li kỳ dữ dội của một nhân vật, Mễ Trị Văn viết, “Sống đời tầm thường, thà chết cho xong” ; một mẩu chuyện khác miêu tả hai nhà thơ vừa uống rượu vừa thi làm thơ, rốt cuộc một ông chết đuối một ông ngộ độc rượu rồi bại não, thì Mễ Trị Văn viết hơn trăm chữ bình luận, trong đó có câu “văn nhân dè bỉu nhau vốn đã đáng chết, chết như thế này là tất nhiên”.
Ngoài những câu chữ châm biếm và chế nhạo ra, có một số đoạn văn hoạc từ ngữ được đánh dấu khuyên đỏ, tức là những chổ khiến Mễ Trị Văn phấn khích nhất. Giở đến một bài ở giữa cuốn sách, Na Lan sửng sốt, cô lại nhìn cách đánh dấu sách bằng dây đàn, trang này là một chuyện ngắn viết về vụ án, tiêu đề được Mễ Trị Văn dùng bút đỏ khuyên rất đậm, Lã công thất tiết1.
Khúc đệm
Năm thứ 3 Thiên Khải, đời vua Minh Hy Tông2.
Trước khi thoái ngũ ở Đông Xưởng3, Lã Diệp Hàn rất hiểu cái nơi mà mình phục vụ này, cái nơi nổi tiếng từ triều đình đến giang hồ đến dân chúng này, là một tổ chức cực kỳ thối nát. Ông là một thám tử cao thủ được tuyển chọn kỹ càng, là một dịch tướng đeo kim bài ai ai cũng phải kính sợ, ông đã từng nổi danh tận tâm báo quốc, đã từng can dự những cấu kết đáng xấu hổ với trời đất, cho nên, hành động có vẻ như can đảm dừng bước của ông là một sự an ủi tâm trạng bất an, là một cách chuộc tội cho nhân cách đang xuống dốc của mình.
1. Ông họ Lã đánh mất khí tiết, vi phạm đạo đức.
2. Năm 1623.
3. Là cơ quan mật vụ trấn áp đắc lực, trực thuộc triều đình.
Ông  mừng vì đã lựa chọn ra khỏi Đông Xưởng, làm một tay bổ khoái giúp dân trong các vụ án thường gặp, để tích chút âm đức dương đức, hi vọng mai kia hưởng trọn tuổi trời thì không đến nỗi bị xuống địa ngục A Tỳ.
Đương nhiên rất ít bộ khoái xuất sắc được hưởng trọn tuổi trời, vụ án rơi vào tay Lã Diệp Hàn không phải là vụ án bình thường.
Các văn nhân sau này viết truyện hoặc ký sự về vụ án đều gọi nó là vụ án ‘ngón tay khăn máu’. Nạn nhân đều là các cô gái trẻ, sau khi bị hành hạ lăng nhục rồi giết hại, đều bị chặt một ngón tay.
Hơn hai mươi nạn nhân đều có hoàn cảnh rất khác nhau, tiểu thư khuê các, con gái nhà lành, gái quê lam lũ, gái làng chơi ở chốn thêu hoa... đủ cả. Hung thủ chỉ có mục đích khát máu là giết các cô gái vô tội chứ không có thâm ý gì rõ rệt.
Theo kinh nghiệm của Lã Diệp Hàn, kẻ ác như thế chỉ có thể khái quát bằng hai chữ “tà ma”.
Không chỉ tà ma, hắn còn rất mưu trí tinh khôn, giỏi giấu mặt và có võ công siêu việt.
Trước khi Lã Diệp Hàn nhận làm vụ án này, đã có ba bộ khoái dày dạn phải gục ngã bởi tay hung thủ, hai chết một bị thương, lại bị thương nặng ở não đến nỗi quên cả họ tên mình, quên cả người nhà, chẳng khác gì thẳng thằng điên, lúc cười lúc khóc, không thể tự kiểm soát bài tiết, sống mà khổ hơn chết. Lã Diệp Hàn thảm cảnh của đồng nghiệp, ông thề với mình sẽ báo thù rử hận cho họ, giành lại vị thế cho bộ khoái, trừ hại cho dân chúng.
Nhưng đã sáu năm tròn, kẻ ác ma chặt ngón tay vẫn bí mật tồn tại giữa chốn giang hồ ở phủ Giang Kinh, Lã Diệp Hàn biết tên khốn ấy đang sống ở địa bàn này nhưng hy vọng lôi hắn ra trước pháp luật dường như ngày càng mong manh.
Khi còn ở Đông Xưởng, Lã Diệp Hàn là một thám tử hàng đầu, ông không lần theo các manh mối không liên quan. Ông hiểu rằng cách điều tra khám phá hiệu quả nhất là phân tích tổng hợp, suy luận ra con người, tính cách, quy luật hành vi của hung thủ. Ông sưu tầm đầy đủ các tư liệu về vụ án “ngón tay khăn máu”, địa điểm gây án, khoảng thời gian giãn cách giữa các vụ án, đặc điểm của nạn nhân, thủ đoạn gây án... sau đó ông nghiền ngẫm suy đoán thấu đáo, suy ra lần gây án tiếp theo của hung thủ, hy vọng bắt được y trong lần gây án sắp đến.
Hai năm sau, Lã Diệp Hàn không thể không thừa nhận, đối thủ của ông vẫn lì lợm ẩn mình trong bóng tồi, y hơn hẳn những tên ác ôn nông nổi ngu xuẩn thô bỉ, y là tên tà ma đầy mưu mô toan tính và ngông cuồng đến cùng cực.
Rõ ràng Tà ma cũng biết rõ về Lã Diệp Hàn cao thủ mới nhậm chức tổng bộ khoái phủ Giang Kinh này từng làm ở trung tâm mật vụ tối cao Đông Xưởng của triều đình Đại Minh, từng khám phá ra nhiều vụ án kinh thiên động địa. Và thế là Tà ma bỗng nổi cơn hưng phấn gây án. Y cố tình để lại những manh mối mà phải rất đau đầu suy ngẫm mới nhận ra, để cho Lã Diệp Hàn từng bước tiếp cận y. Nhưng hết lần này đến lần khác y vẫn thoát hiểm trong gang tấc.
Mỗi lần y thoát hiểm thì một cô gái vô tội phải bỏ mạng thê thảm.
Một cái khăn tay dính máu, một bài thơ Đường, một con nhện đỏ sẫm, một thanh kiếm gãy, một con thuyền nan thủng đáy... là nhũng manh mối mà Tà ma để lại cho Lã Diệp Hàn. Y đều bố trí rất có dụng ý, hư hư thực thực, mờ ảo khó lường, chỉ có cao thủ phá án như Lã Diệp Hàn mới hiểu nổi và có đủ tư cách để chơi trò mèo vờn chuột với y. Có điều, trong trò chơi này ai là mèo ai là chuột, thì thực khó nói. Có thế mới thú vị! Hẳn là Tà ma đã sống sáu năm trời khoái trá nhất trong đời y.
Còn Lã Diệp Hàn, sự nhẫn lại của ông dần bị bào mòn. Cảm giác thất bại gặm nhấm từng chút một lòng tự trọng của ông. Trong sáu năm trời, Giang Kinh ba lần thay tri phủ, đám quan lại khó tránh khỏi bàn tán, thậm trí nghi ngờ vị tổng bộ khoái ì trệ không thể phá án này đã “ăn ở hai lòng”.
Một phó bộ khoái được điều từ kinh thành đến, tên là  Mạc Tông Trạch, có lẽ tri phủ sẽ để anh ta thay chỗ Lã Diệp Hàn.  Mạc Tông Trạch tuổi trẻ tài ba, rất nổi tiếng vì đã từng phá nhiều vụ án lớn ở kinh thành, được điều về Giang Kinh để hiệp trợ phá vụ án “ngón tay khăn máu”. Rõ ràng chuyện này thể hiện quan trên đã thất vọng với Lã Diệp Hàn. Lã Diệp Hàn thua kém thì đã rõ, tuổi ngoại tứ tuần, trông già nua với khôn mặt đã có không ít nếp nhăn, còn  Mạc Tông Trạch là chàng trai tắng trẻo, môi hồng, mày dài, mắt sáng. Lã Diệp Hàn lưng đã hơi còng,  Mạc Tông Trạch đẹp trai cao lớn ; Lã Diệp Hàn ít được gặp quan trên,  Mạc Tông Trạch ngồi nâng cốc với tri phủ, tổng binh là thường. Lã Diệp Hàn đến giờ vẫn độc thân,  Mạc Tông Trạch thì đã sớm lấy vợ đẹp ở kinh thành là tiểu thư con nhà thế gia võ quan khai quốc, nghe nói võ công của cô chẳng kém gì  Mạc Tông Trạch.
Nhưng, điều mà  Mạc Tông Trạch không có là sự tôn kính với bề trên và đồng nghiệp. Vừa đến Giang Kinh anh ta đã trỉ chích cả hệ thống trinh thám phá án của Lã Diệp Hàn. Ví dụ, tại sao Tà ma vẫn nhơn nhơn sát hại các cô gái vô tội? Tại sao lại chặt ngón tay? Lã Diệp Hàn nói, hung thủ muốn chứng minh rằng y tài giỏi hơn cả các cao thủ ở nha môn, ngón tay là chiến lợi phẩm, là vật kỷ niệm của y, y rất kiêu căng.  Mạc Tông Trạch thì cho rằng đó là hung thủ tự bù đắp cho mình, bù đắp nỗi cô đơn, kém cỏi, sự nghiệp thất bại, thậm chí cho “của quý” bất lực, “ngón tay” đại diện cho “của quý” của y chứ còn gì nữa?! Lập luận kỳ quái của anh ta lại được tri phủ nhiều lần tán thưởng!
Lã Diệp Hàn càng rơi vào trạng thái bức xúc nặng nề.
Bấy giờ đang độ giữa thu, lúc chiều muộn khói mây mịt mờ, những ngôi nhà nhỏ bên sông Thanh An dường như ngùn ngụt âm khí. Lã Diệp Hàn đang ẩn thân dưới cái hố, ông nhìn qua khe nắp hô quan sát ô cửa sổ hé mở trên tầng hai của một ngôi nhà. Lưng giắt be rượu mạnh Nhất Giang Thu đặc sản địa phương, ông cầm lên tợp một ngụm lớn. Đã mấy đêm không ngủ. Vị cay xè thấm vào ruột gan của người đang sầu muộn chẳng giúp được ông thêm hưng phấn, nhưng nó như một liều thuốc tê khiến ông có thể tạm gác lại vấn đề tự trọng và thành kiến, tạm quên đi chuyện thế tục “tam thập1 công danh”, ông bất giác nhớ đến Đông Xưởng với bức họa danh tướng Nhạc Phi treo ở đại đường, nhớ đến bức hoành “Vạn thế lưu phương2” treo ở cửa vào... Giờ đây ông thấy “Vạn thế lưu phương” như một sự chế những hành vi đi ngược đạo lý của Đông Xưởng, và cũng đang giễu cợt chính ông – kẻ bất lực trước một vụ án lớn.
1. Mượn ý câu nói của Không Tử, “(Ngô) tam thập nhi lập” = (Ta) 30 tuổi đã lập thân (tự lập, thành công...)
2. Để lại tiếng thơm cho muôn đời.
Nhưng dù sao những năm tháng làm ở Đông Xưởng cũng dạy cho ông điều này, muốn đạt được mục đích thì phải dùng bất cứ thủ đoạn nào.
Đây là ưu thế lớn nhất của ông để chiến thắng Tà ma.
Hung thủ của vụ án “ngón tay khăn máu” đã trải nhiều năm “thành công”, có lẽ y đã coi thường một điều quan trọng, không phải chỉ có mình y biết sắp đặt.
Trong ngôi nhà gác nhỏ kia, cách đây bốn tháng có một phụ nữ độc thân, một bà già giúp việc và một a hoàn đến ở. Đó là một thiếu phụ mới góa chồng, nhan sắc tuyệt trần, từ trang phục cho đến bài trí trong nhà đều cực kỳ sang trọng, nàng lại rất sàng vẽ hoa. Sự xuất hiện cảu nàng bỗng khiến cho các nhân vật phong lưu ở Giang Kinh xao động. Kẻ đã có vợ, người chưa vợ và người sắp lấy vợ đều như đàn ong phát cuồng đua nhau tìm đến thăm hỏi, nàng cung kính tiếp đãi, tươi cười đón nhận những tình ý nồng nànđang tràn đến như thủy triều, nhưng nàng không lơi lả buông tuồng, nàng chỉ để cho những người tự cho mình là phong lưu ấy có được chút tưởng tượng và kỳ vọng vừa đủ nhưng không thể vượt quá giới hạn.
Chỉ cần các nhân sĩ hơi nghe ngóng một chút sẽ biết ngay, Thích phu nhân tuổi mới 20, xuất thân danh gia vọng tộc ở Nam Kinh. Nhà họ Thích rất phồn thịnh đông đúc, con cháu dù làm quan hay là thương nhânđều thành công hiển hách. Nếu nói chuyện với bất cứ ai trong số họ sẽ biết ngay, trước khi đi lấy chồng, Thích phu nhân đã nổi tiếng là người đẹp vô song ở đất Kim Lăng, khiến vô số sĩ tử, anh hùng hào kiệt phải chết mê chết mệt. Nhưng số phận oái oăm, nàng lại chọn một tài tử Trương Hữu Linh làm chồng. Tài tử bạc mệnh, sau hai năm chung sống chàng đã qua đời. Thích phu nhân đau đớn vô cùng, nàng không muốn ở lại cái chốn phồn hoa, nên nàng đã chọn đô thị lớn Giang Kinh cư trú.
Thích phu nhân là then chốt trong kế hoạch thú vị của Lã Diệp Hàn.
Dúng là có Thích phu nhân và các chuyện liên quan nhưng chỉ có những người trong nhà họ Thích mới biết rõ sự thật, Thích phu nhân thực sự thì đã bí mật cắt tóc đi tu, bên ngọn đèn xanh và dưới chân bàn thờ Phật, tâm hồn bị tổn thương của nàng sẽ được an ủi. Còn mỹ nhân đang ở ngôi nhà nhỏ bên sông chẳng qua chỉ là một ca kỹ mới nổi danh trên sông Tân Hoài. “Thích phu nhân giả” này cũng có nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành và biệt tài cầm kỳ thi họa. Lã Diệp Hàn đã dùng vốn liếng dành dụm bao năm qua của mình để thuê ngôi nhà này cho cô ta, thuê người giúp việc, a hoàn, và chu cấp đủ mọi phí tổn sinh hoạt.
Còn về con cháu nhà họ Thích? Họ vui lòng nói dối giúp Lã Diệp Hàn, cũng vì muốn báo đáp ân nghĩa rất lớn năm xưa ông đã giúp họ. Đó là vụ án cuối cùng ông làm trước khi rời Đông Xưởng, vụ án “Kim Lăng di lão”. Vào thời Minh, cụ tổ nhà họ Thích từng giúp sức đưa Kiến Văn Đế lên ngôi ở Kim Lăng, sau khi Kiến Văn Đế bị Thành Tổ phế truất thì nhà họ Thích bị liên lụy, luôn là đối tượng bị Đông Xưởng giám sát. Cách đây độ mười năm có người tố các với Đông Xưởng rằng người nhà họ Thích cấu kết với một số “người do Kiến Văn Đế để lại”, Lã Diệp Hàn được cử đi điều tra. Vừa nghe đến cái “nhiệm vụ” này ông đã cười ngao ngán, vụ án Kiến Văn trôi qua đã 200 năm, dù những “người để lại” là có thật thì họ còn làm nổi trò trống gì? Họ đoạt lại quyền bính sao được? Đây chẳng qua là do một số kẻ trong triều cố tình bài xích nhà họ Thích mà thôi. Theo phong cách thà xử oan còn hơn bỏ sót của Đông Xưởng, dù là chuyện vu vơ thì nhà họ Thích cũng không thể không bị liên đới, phãi hành hạ khiến họ tan cửa nát nhà mới xong. Âu khí số nhà họ Thích đã tận. Lã Diệp Hàn chán ghét cái thói ngang ngược trấn áp người ta, sau khi xác định nhà họ Thích trong sáng vô tội, ông chỉ viện cớ họ “không tử tế với bà con” phạt họ nộp bạc, rồi cho cả nhả được an toàn. Cho nên, vào lúc hệ trọng hiện giờ, nhà họ Thích sẵn sàng giúp Lã Diệp Hàn giăng bẫy.
Đúng lúc hệ trọng, là thời khắc rất hệ trọng trong sự nghiệp và trong cuộc đời Lã Diệp Hàn.
Ong đã phân tích, cách thức Tà ma gây án chặt ngón tay có vẻ như tùy hứng, nhưng ông cũng nhận ra vài nét có tính quy luật. Thoạt đầu, chắc là vì Tà ma chưa đủ lông đủ cách nên y chỉ chọn những phụ nữ bình thường để sát hại, vợ giận chồng bỏ về nhà mẹ đẻ, con gái lén lút hẹn hò với tình nhân, a hoàn đi vào những lối tắt ngõ tối, kỹ nữ lầu xanh hạng bét nhan sắc đã tàn phai... giết những người này khá dễ, quan phủ cũng không mấy quan tâm. Ít lâu sau Tà ma dần có kinh nghiệm, y chọn đối tượng “khó làm” hơn, là tiểu thư khuê các, đào hát đã có danh tiếng, nữ đạo sĩ công phu cao cường, nạn nhân của vụ gần đây nhất là một tiểu thiếp của tổng bình phủ Giang Kinh, cứ đà này thì sẽ đến lượt con gái cưng của tổng binh cũng nên.
Cho nên  Mạc Tông Trạch được “mời” đến gấp, vì lửa đã bén đến cổng nha môn quan phủ rồi.
Lã Diệp Hàn suy luận rằng, Tà ma nhiều lần đã gây án thành công, đối phó với quan phủ cũng thành công, thì y sẽ càng to gan và càng muốn gây ra vụ án chấn động hơn nữa, có thế y mới thực sự thỏa mãn.
Và đó cũng là pháp bảo để Lã Diệp Hàn chiến thắng Tà ma, ông gần như đã hiểu thấu tâm can y, cảm nhận được nhu cầu của y nên sẽ giúp y lựa chọn mục tiêu tiếp theo.
Ong có kế hoạch cài Thích phu nhân giả từ trước khi tiểu thiếp của tổng binh bị giết hại, bấy giờ quy luật hoạt động của Tà ma đã hình thành, vụ án tiểu thiếp tổng binh chỉ chứng minh thêm suy luận của Lã Diệp Hàn. Tà ma càng thèm khát gây trọng án  càng hay, y chưa thỏa mãn với việc sát hại dân thường. Cho nên, “Thích phu nhân” dòng dõi cao sang danh giá lại đang nổi tiếng trong chốn xã giao Giang Kinh, sẽ là cơ hội trời cho, Tà ma không thể không mò đến.
Mấy tháng nay hầu như đêm nào Lã Diệp Hàn cũng đến mai phục bên ngoài ngôi nhà nhỏ của Thích phu nhân. Tà ma thường gây án vào ban đêm, cho nên chưa có ai nhìn thấy mặt mũi y ra sao, các bộ khoái biết mặt y thì đều đã bị giết chết hoặc mất trí nhớ. Đôi khi Thích phu nhân cũng tiếp khách buổi tối, đèn thắp sáng trưng, văng vẳng tiếng đàn tranh vọng ra, những lúc đó Lã Diệp Hàn có thể ngủ gật chốc lát. Khi khách ra về, căn nhà nhỏ tắt đèn tối om, thì ông phải tỉnh táo căng mắt ra. Canh gác kiểu này quả là thử thách lớn đối với thể xác và ý chí, cũng may Lã Diệp Hàn là người có nội công thâm hậu nên mới trụ vững ngần này tháng trời.  Mạc Tông Trạch cũng được Lã Diệp Hàn gọi đi cùng theo dõi, đây cũng là dịp để một bộ khoái trẻ tuổi thể ghiệm nỗi gian nan khi điều tra phá án.
 Mạc Tông Trạch coi thường hành động “gác đêm” này của Lã Diệp Hàn, đường đường tổng bộ khoái của phủ Giang Kinh lại phải nấp dưới căn nhà của đàn bà, cứ như sắp sửa xông vào để bắt trai trên gái dưới, đây gọi là khám phá vụ án hay sao? Nhưng là cấp phó thì anh ta phải tuyệt đối phục tùng cấp trên.
Lã Diệp Hàn linh cảm rằng đêm nay ông sẽ có thu hoạch sau bao ngày vất vả. Từ sáng sớm, bà già giúp việc bỗng đau ngực dữ dội, thầy lang chạy vào chạy ra, bà là người địa phương nên con trai đến đón về nhà chữa trị. Sau đó không hiểu sao Thích phu nhân lớn tiếng mắng mỏ a hoàn, nó bưng mặt khóc rồi chạy ra ngoài, lủi đi đâu không biết. Trong nhà chỉ còn một mình Thích phu nhân.
 Mạc Tông Trạch được Lã Diệp Hàn phân công mai phục ở một bên của ngôi nhà, có thể thấy rõ mọi động tĩnh trên cửa sổ phía tầng hai và cửa sau. Anh ta đã được dặn dò cấm tự ý hành động, khi nào nhìn thấy mũi tiêu lửa bắn lên trời thì mới được xông vào nhà. Cả hai sẽ đánh kẹp từ hai phía trước sau, Tà ma dẫu mọc cánh cũng không thể chạy thoát.  Mạc Tông Trạch cố nhịn cười, nói, vâng, tôi sẽ căng mắt ra, nếu hung thủ vào nhà thì tôi xin chờ lệnh ông.
Chữ “nếu” đầy vẻ nghi ngờ, tại sao ông biết tối nay hung thủ sẽ xuất hiện?
Lã Diệp Hàn không đần, tất nhiên nhận ra ẩn ý của thuộc hạ nhưng ông không tỏ thái độ. Tối nay bắt được Tà ma, mới là bài học tốt nhất cho gã trẻ tuổi kiêu ngạo này.
Đã quá nửa đêm, trên gác vẫn không có động tĩnh gì. Trong kế hoạch của Lã Diệp Hàn, “động tĩnh” là then chốt. Ông cho rằng Tà ma sẽ không khệnh khạng đi vào ngôi nhà, cho nên rất cần chú ý quan sát, rất có thể mình sẽ sơ suất không nhận ra y. Vì thế trước khi đưa Thích phu nhân giả vào ở, ông đã bí mật lắp một cái ống sắt từ buồng ngủ luồn ra ngoài chạy xuống nơi ông đêm đêm ẩn nấp, như thế hễ nghe thấy tiếng động lạ trên đó ông sẽ kịp thời có phản ứng. Tốt nhất là vẫn kịp cứu cô gái đáng thương rồi sẽ bắt sống hung thủ. Còn không thì, bắt được Tà ma từng tàn sát bao sinh linh thì dù phải hy sinh một ca kỹ cũng bõ.
Gió lạnh bên sông bủa vây, hàn khí như thấm vào tim. Lã Diệp Hàn lại nhấp một ngụm rượu.
Có tiếng kêu thét truyền qua ống sắt đến tai ông.
Đúng, không nằm ngoài dự đoán!
Lã Diệp Hàn nhảy vọt lên, cái nắp bùn và cỏ trên đầu vỡ vụn. Sau đêm nay cũng hoàn thành sứ mệnh. Lúc tung mình lên không trung, ông phóng một mũi tiêu lửa như đã hẹn, đầu mũi tiêu nhúng bột diêm tiêu lưu huỳnh, khẽ mài vào đá là cháy, một đường cung đỏ lửa rạch xéo màn đêm.
Lúc này, dù Tà ma trong nhà phát hiện ra có mai phục, nhưng bị hai bộ khoái thượng thặng cùng đánh kẹp lại thì y thoát sao nổi?
Sau vài lần lăng không, Lã Diệp Hàn đã lên đến cửa sổ tầng hai và nhảy vào luôn.
Đây là buồng ngủ của Thích phu nhân, gió thổi màn trướng đung đưa, những cái vòng đeo kêu tinh tang, ngoài ra không có bất cứ âm thanh nào khác.
Đêm đen tràn vào căn buồng không một bóng người!
Nhưng Lã Diệp Hàn cảm thấy có người đang lặng lẽ tiếp cận mình. Chắc chắn là tên hung thủ với võ công cao siêu mới có thể gây tội ác hàng chục năm mà vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật.
Sát khí xuyên qua rèm tràn vào từ cửa lớn. Lã Diệp Hàn cảnh giác nghe ngóng, tay cầm thanh kiếm không hề run, mặc dù bàn tay đang nhớp mồ hôi.
Rèm cửa hơi động đậy, kiếm ảnh tung hoành.
Ông không nhớ nổi đời mình đã gặp phải đối thủ nào có kiếm pháp siêu việt như thế này. Các vị công công trong đại nội Đông Xưởng đều biết kiếm pháp của Lã Diệp Hàn là đệ nhất trong đám cao thủ như mây của Đông Xưởng, cho nên nếu chịu nổi mười chiêu của ông mà chưa gục, thậm chí dám đánh đến cùng, thì đã được coi là tuyệt đỉnh.
Khi cao thủ quyết đấu, “đánh đến cùng” cũng tức là một mất một còn.
Lã Diệp Hàn vã mồ hôi trán. Liệu mình có thể sống sót không?
Tuy nhiên tay ông cầm kiếm không hề run.
Vì kiếm trong tay đối phương cũng không hề run, mũi kiếm của y đang chĩa thẳng vào cổ ông.
 May sao, mũi kiếm của ông cũng đang chĩa thẳng vào cổ y.
“Lã đại nhân!” Đối phương kêu lên rồi lập tức thu kiếm. Đó là  Mạc Tông Trạch.
Lã Diệp Hàn cũng thu kiếm lại, thở phào. Nhưng ông lập tức băn khoăn, hai bộ khoái, một xông vào từ cửa sổ phía tây một xông vào từ cửa sổ phía nam, rốt cuộc đối mặt với căn buồng trống, Thích phu nhân giả biến mất!
Cả hai rất hiểu ý nhau cần phải làm gì. Lã Diệp Hàn lại từ cửa sổ bay xuống sân, đạp tung cửa ra vào, lục soát khắp tầng dưới.  Mạc Tông Trạch ở lại kiểm tra buồng ngủ và cả tầng hai.
Không thấy bóng Thích phu nhân đâu.
Cả hai tập hợp.  Mạc Tông Trạch nhìn khuôn mặt già nua của Lã Diệp Hàn, an ủi, “Lã bộ khoái đừng quá buồn, chúng ta lập tức bắn hỏa tiễn thông báo cho các bộ khoái đang mai phục quanh đây, có lẽ vẫn kịp chặn bắt hung phạm.”
Lã Diệp Hàn sửng sốt, bộ khoái nào mai phục quanh đây?
 Mạc Tông Trạch lúng túng nói, “Bì chức biết đại nhân tin tưởng lần này sẽ thành công, nên đã tự ý huy động các bộ khoái mai phục khắp một dặm quanh đây...”
“Làm bừa rồi! Làm bừa rồi!” Lã Diệp Hàn hét lên. “Dù huy động hết các bộ khoái thì vẫn không đủ. Chưa kể, càng huy động đông người thì kế hoạch đêm nay càng dễ bị lộ, nếu các anh em phải đơn độc đối mặt với hung thủ thì chỉ bỏ mạng vô ích mà thôi!”
 Mạc Tông Trạch ngớ ra, xịu mặt xuống, rồi lạnh lùng nói, “Chẳng lẽ Thích phu nhân giả bỏ mạng vô ích hay sao?! Khi sắp đặt kế hoạch này, đại nhân có nghĩ cho cô ta không?”
Lã Diệp Hàn tức quá trợn tròn đôi mắt, chỉ vào mặt  Mạc Tông Trạch, “To gan! Thì ra... ta... ta đã...” Ông bỗng thấy ngực đau kinh khủng. Nỗi đau thất bại không sao chịu đựng nổi, rượu mạnh và trạng thái căng thẳng do thức đêm cùng lúc dâng lên khiến ông quay cuồng đầu óc, trước mắt hiện lên nét cười nhăn nhở đắc ý của Tà ma. Ông nhắm nghiền mắt trong cơn đau đớn.
Khi tỉnh lại, Lã Diệp Hàn thấy mình đang nằm trên phản gỗ ở nhà, dầu không ấm áp thì vẫn là thân thiết.
Đã xảy ra chuyện gì vậy?
“Lã đại nhân đã thấy khá hơn chưa?” Người hỏi là ông thầy lang quen vẫn giao thiệp với các bộ khoái. Sao ông ta lại ở đây?
Dưới ánh đèn lại là khuôn mặt của  Mạc Tông Trạch, “Vừa nãy đại nhân vừa bị ngất ở hiện trường, bi chức vực đại nhân lên ngựa chở về nhà. Thầy lang nói ngài thiếu ngủ lâu ngày, khí huyết suy kiệt... Thứ cho bi chức lắm lời, đại nhân là trụ cột của anh em bộ khoái phủ Giang Kinh, cần phải giữ gìn, không thể gục ngã...”
Lã Diệp Hàn thấy ấm lòng. Xem ra lâu nay mình có phần hà khắc với  Mạc Tông Trạch.
Thầy thuốc cáo lui, nói là về bốc thuốc, lát nữa sẽ cho người cầm đến.
“Mạc bộ khoái cũng nên về nghỉ đi, trời sắp sáng rồi đấy.”
 Mạc Tông Trạch lại ngồi xuống đầu giường, “Bây giờ về cũng không ngủ được, tôi ở lại với đại nhân.”
“Tôi đã quen ở một mình, không sao đâu. Mạc bộ khoái còn có gia đình, đừng để phu nhân phải sốt ruột ngóng đợi.”
 Mạc Tông Trạch mỉm cười, “Nhà tôi đã quen rồi. Cô ấy hạ cố đến làm vợ một anh bộ khoái, thì phải có những đêm phải ở nhà một mình chăn đơn gối chiếc...”
Không hiểu sao Lã Diệp Hàn bỗng có cảm giác bất an. “Đã thế, chúng ta sẽ bàn các bước tiếp theo vậy...”
“Bây giờ đại nhân phải nghỉ ngơi! Đợi đại nhân khỏe lại đã chúng ta sẽ lại bàn công việc.”
“Không! Chuyện này rất quan trọng. Vụ việc Thích phu nhân xảy ra hôm nay chỉ cách vụ sát hại tam phu nhân của tổng binh chưa đầy một tháng, chứng tỏ hung thủ gây án ngày càng dày, vụ tiếp theo có thể sẽ cận ngày hơn. Tôi đoán, mục tiêu sẽ là một phụ nữ còn đình đám hơn, khó gây án hơn cả Thích phu nhân và tam phu nhân của tổng binh... chúng ta nên sớm lường trước.” Lã Diệp Hàn do dự, có nên nói ra nỗi lo rất lớn của ông hay không?
 Mạc Tông Trạch không hổ danh là nhân vật tài ba xuất chúng, lập tức đoán ra ý nghĩ của Lã Diệp Hàn, “Ý Lã đại nhân là... vợ tôi...”
“Thứ lỗi cho tôi...”
 Mạc Tông Trạch bật dậy tung người chạy ngay đến cửa. Lã Diệp Hàn rất hiểu  Mạc Tông Trạch thương yêu vợ đến nhường nào! Nhưng anh ta lại lưỡng lự, lắc đầu nói, “Nhà tôi võ công và mưu trí không hề thua kém tôi. Huống chi trong nhà có đủ các thiết bị phòng vệ, hung thủ muốn làm càn thì chỉ có cách lên trời mà hỏi. Gặp lúc nguy nan cô ấy còn có một thứ ám khí tuyệt mật, có thể tự giải cứu vào lúc gay go nhất.”
“Thế ư?”
“Ngón đeo nhẫn của cô ấy đeo chiếc nhẫn ngọc đen, trông rất bình thường nhưng bên trong lại chứa chất dịch độc, kể cả khi bị bắt trói, cô ấy  chỉ cần kẹp ngón giữa và ngón út lại thì chất độc sẽ phun ra... Tôi nói điều này hơi xấu hổ, chỉ ngoại trừ lúc hai chúng tôi ở bên nhau trong khuê phòng thì cô ấy mới tháo nhẫn ra...”
Lã Diệp Hàn ngập ngừng, “Vậy thì, chỉ khi nào cô ấy lỡ mất cảnh giác...” Ông bỗng cảm thấy lần nói chuyện như thế này với  Mạc Tông Trạch hình như đã từng xảy ra. Ông cố nhớ lại, hình như một lần ở nha phủ... Ông không nhớ ra nữa.
 Mạc Tông Trạch rất cảm kích sự quan tâm của Lã Diệp Hàn, vội cáo từ rồi ra về. Chỉ còn lại một mình Lã Diệp Hàn, như hôm qua, hôm kia, và vô số ngày trước đó. Ông khẽ nhắm mắt lại, nhưng trước mắt ông không phải là một khoảng trống yên ả mà là vô số cái bóng không ngừng biến ảo. Đi theo những cái bóng này, hình như ông bước vào một thế giới khác. Điếu đáng buồn là thế giới này cũng như thế giới ông đang sống, vẫn cô độc, vẫn là ngôi nhà gác nhỏ bên sông gió lạnh hắt hiu, vẫn có bao kiếm ảnh quay cuồng, vẫn là cô gái mong manh như cánh hoa rơi, vẫn là những ngón tay nhợt nhạt.
Người đầm đìa mồ hôi, ông ra khỏi giường. Trời chưa sáng, đèn nến đã tắt ngấm. Mười năm sống một mình, ông thuộc căn nhà này như thuộc lòng bàn tay.
Trong bóng tối, ông đưa tay lên lất bức tranh Nhạc Phi treo trên tường, rối nhấc một viên gạch ra.
Trong hốc tường đó có một cái hộp vuông mỗi bề chừng gang tay.
Hộp bốc ra một mùi kinh khủng.
Ánh mắt ông đờ đẫn khác hẳn mọi ngày. Có lẽ vì vẫn ốm dở, vì thiếu ngủ lâu ngày, nên tay ông cũng cứng đơ và hơi run run. Ánh mắt ông nhìn vào một vốc xương khô trong hộp. Những mẩu xương thon nhỏ, và ngắn, có mẩu rất ngắn. Nếu tỉ mỉ chắp ba mẩu làm một thì nó sẽ có độ dài bằng một ngón tay.
Cuối cùng ông chăm chú nhìn vào một vật trong hộp, không phải xương.
Là một ngón tay chưa bị phân hủy!
Thậm chí có thể nói ngón tay này vẫn còn hơi ấm, vì nó vừa mới bị cắt ra cách đây chưa đầy hai canh giờ. Ngón tay đang đeo một chiếc nhẫn ngọc đen.
Là... là chuyện gì thế này? Tay ông run run cầm cái ngón tay lên, chăm chú nhìn cái nhẫn ngọc đen. Thế này là sao?
Tiếng cười như điên. Ai đang cười như điên?
Cười nhạo cái gọi là “ám khí tuyệt mật”.
Hồi trẻ luyện kiếm, thường hay chơi trò lia kiếm chém đứt đầu con ruồi đang bay. Nay đã có tuổi, mắt không còn tinh như xưa, nhưng nhẫn ngọc đen không khó nhận biết như cái đầu con ruồi. Nhẫn đen, đeo trên ngón búp măng trắng nõn, đủ để kiếm khách nhận biết và lia một nhát đứt ngay.
Người con gái đáng thương ấy đã phí hoài cả tuyệt kỹ võ công gia truyền, chưa kịp thi triển tài nghệ đã phải gục ngã dưới lưỡi kiếm của hắn. Chất kịch độc chứa trong nhẫn ngọc đen chưa kịp phun thì đã phải đi theo ngón tay đeo nó đến nằm trong cái hộp này!
Lã Diệp Hàn run bắn người. Cái chứng phong ma đáng ghét. Nếu ngươi rơi vào lưỡi kiếm của ta, ta sẽ vận dụng hết bản lĩnh chó săn của Đông Xưởng để tra tấn ngươi bằng cực hình.
Cười như điên. Hung thủ vẫn đang cười như điên?
Vang ngay bên tai Lã Diệp Hàn.
Lã Diệp Hàn đưa tay ra rờ thanh kiếm. Kiếm của mình đâu rồi? Chắc nó đã được  Mạc Tông Trạch đặt bên giường. Ta đã đi quá xa rồi.
Ta đã đi quá xa. Bèn quay lại, nhưng liền đối mặt với mũi kiếm nhọn. Mũi kiếm ấy, sau một thoáng do dự khó bế nhận ra, đã thọc ngay vào tim Lã Diệp Hàn.
Lã Diệp Hàn gục xuống. Thấy không còn giãy giụa phản ứng gì nữa,  Mạc Tông Trạch mới rút kiếm ra. Anh ta không nhìn thanh kiếm đang rỏ máu, anh ta nhìn chăm chăm vào ngón tay văng ra từ tay Lã Diệp Hàn. Ngón tay của người vợ yêu quý. Cái nhẫn ngọc đen. Anh đưa tay về phía cái nah64n, chỉ cần khẽ bóp nó thì sẽ có một tia đen đen phun ra, chất kịch độc dính da là chết ngay tức khắc.
Anh không thiết sống nữa.  Mạc Tông Trạch hối hận muốn chết. Anh hối hận vì tự đắc nghĩ mình tài cao, rốt cuộc lại là kẻ phi thực tế, anh đã phân tích thấu đáo về Lã Diệp Hàn – cô độc, suy sụp, sự nghiệp bất như ý, tất cả đều phù hợp với Lã Diệp Hàn! Khi  Mạc Tông Trạch đến lầu xanh thăm dò còn nghe bọn họ xì xào, cái của kia của Lã bộ khoái không hoạt động, người xuất thân từ đại nội có khác!
 Mạc Tông Trạch ở kinh thành cũng từng nghe đồn đại, Lã Diệp Hàn rời Đông Xưởng không phải vì võ công chưa giỏi, thủ đoạn chưa đủ tàn độc, mà là vì ông ta có biểu hiện của chứng “phẫn uất” và “cuồng điên”, về danh nghia là từ chức nhưng thật ra là bị cách chức. Về Giang Kinh làm bộ khoái, các chứng bệnh kia không thể tự tiêu tan.  Mạc Tông Trạch hối hận vì đã không sớm khẳng định một giả thiết, Lã Diệp Hàn chính là tên Tà ma giấu mặt vô cùng kín đáo! Giờ đây nghĩ lại, thấy có không ít dấu hiệu chứng tỏ điều này.
Có tên sát nhân nào võ công cao cường đến mức hạ sát hoặc đánh trọng thương một loạt cao thủ của nha môn? Có tên sát nhân nào đủ trí khôn nhận biết thậm chí lợi dụng ngay những cái bẫy do chính Lã Diệp Hàn bố trí?
Chỉ có Lã Diệp Hàn mà thôi.
Lã Diệp Hàn là Tà ma đồng thời cũng là người đã tổn hao tâm trí và công sức để lùng bắt Tà ma.
Một Lã Diệp Hàn làm tổng bộ khoái của Giang Kinh đầy chính nghĩa, và một Lã Diệp Hàn là hung thủ của các vụ án “ngón tay khăn máu”. Nếu kẻ thứ nhất bắt được kẻ thứ hai thì có thể chứng minh giá trị của Lã Diệp Hàn, sẽ để cho Đông Xưởng thấy hắn dù bị tống đi xa hắn vẫn phá được vụ án lớn. Nếu kẻ thứ hai tiếp tục xỏ mũi kẻ thứ nhất thì vẫn có thể chứng minh rằng, dù hắn có rớt xuống làm kẻ đồi bại thì hắn vẫn khiến cao thủ hàng đầu của Đông Xưởng phải bó tay.
Một thân xác ngày càng già đi lại chứa hai tên Lã Diệp Hàn khác nhau, khiến  Mạc Tông Trạch không sao ngờ được.
Thích phu nhân giả, là một diệu kế.  Mạc Tông Trạch càng không ngờ thừa lúc anh canh chừng ngoài ngôi nhà nhỏ thì Lã Diệp Hàn đã lẻn đến Mạc phủ của anh. Mạc phu nhân đáng thương, thấy tổng bộ khoái Giang Kinh đồng nghiệp của chồng đến, cứ ngỡ là chồng mình gặp nạn khi làm nhiệm vụ, ben mở của ra thì bị đâm luôn, thiết bị, ám khí và võ công tuyệt kỹ đều bất lực. Khi  Mạc Tông Trạch chạy về nàh, nhìn thấy xác vợ, mới hiểu ra tất cả, mới vỡ lẽ tại sao Lã Diệp Hàn lại nói coi chừng vợ anh là nạn nhân tiếp theo.
Vì đây vốn là mưu toan của Lã Diệp Hàn! Một kế hoạch rất tinh vi. Chẳng qua, Lã Diệp Hàn chính trực và Lã Diệp Hàn tà ma dùng chung một cái đầu và một tâm trí, lúc hoang mang lú lẫn đã nói ra “thiên cơ”.
Nhìn cái nhẫn ngọc đen,  Mạc Tông Trạch nước mắt như mưa, nhưng rồi anh vẫn không bóp cái nhẫn để kết liễu đời mình. Anh biết, Lã Diệp Hàn toi đời thì vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ chấm dứt, anh còn trẻ, sự nghiệp của anh đã lên đến đỉnh cao. Nay mai anh sẽ trở thành một tổng bộ khoái trẻ nhất của Đại Minh, tuy đã phải trả giá nặng nề.
Còn Thích phu nhân giả? Khỏi nói cũng biết chắc chắn cô gái ấy đã chết bởi tay hung thủ Lã Diệp Hàn. Ít lâu nữa sẽ phát hiện ra xác cô và chắc chắn cái xác đã mất một ngón tay.
Một tháng sau,  Mạc Tông Trạch chính thức nhậm chức tổng bộ khoái phủ Giang Kinh. Tổng binh đích thân mở tiệc, toàn thể bộ khoái của địa phương đều đến nâng cốc chúc mừng, cáo biệt cựu tồng bộ khoái trầm uất nát rượu, nghênh đón tân tổng bộ khoái trẻ trung mạnh mẽ. Các đồng nghiệp cảm thấy nhẹ nhõm hẳn đi. Việc Lã Diệp Hàn là hung thủ vụ án “ngón tay khăn máu” đã trở thành một bí mật. Tri phủ, tổng binh và cả  Mạc Tông Trạch đều không muốn người đời biết rõ sự thật vì như thế sẽ càng chứng tỏ sự bất lực của đám quan lại ở Giang Kinh, càng khiến cho dân chúng ngán ngẩm bọn quan phụ mẫu chỉ giỏi vơ vét cho đầy túi tham, và cũng khó ăn khó nói với gia đình nhạc phụ  Mạc Tông Trạch ở kinh thành xa xôi. Cho nên họ loan tin Lã Diệp Hàn tử trận khi đấu kiếm với Tà ma, Mạc phu nhân cùng chồng kề vai chiến đấu, nàng cũng bất hạnh hy sinh, cuối cùng  Mạc Tông Trạch giết được Tà ma, ném xác y xuống sông. Cuộc chiến ấy vô cùng ác liệt, nhanh chóng trở thành câu chuyện ly kì trong dân gian.
Sự thật, chỉ có  Mạc Tông Trạch, tri phủ và tổng binh biết.
Ít ra là  Mạc Tông Trạch cho là thế.
Cho đến tối hôm nay.
Trên bữa tiệc tối nay,  Mạc Tông Trạch uống hơi nhiều. Sau khi vợ chết,  Mạc Tông Trạch bắt đầu kết duyên với rượu, bắt đầu trải nghiệm cảm giác bên mình luôn giắt be rượu như Lã Diệp Hàn. Các ca kỹ xinh đẹp yêu kiều bồi tửu luo6nm liếc mắt đưa tình, nói năng khiêu gợi, da thịt đụng chạm nhưng  Mạc Tông Trạch chẳng hề hứng thú, anh chỉ muốn uống cho thật say.
Dang lúc tửu hứng dâng trào, một tên hầu của phủ tổng binh tay bưng một cái hộp vội vã bước đến bên  Mạc Tông Trạch, thưa, “Mạc đại nhân, vừa nãy có người cầm đến hộp lễ vật, nói rằng phải đưa đến để đại nhân tự tay mở ra.”
 Mạc Tông Trạch cười nhạt, “Ai mà chu đáo thế? Nếu là tri phủ hoặc tổng binh dặn dò thì ta vâng lời ngay, nếu là ai khác nói, thì tạm đặt nó sang bên, ta đem về, lúc nào rỗi sẽ xem.”
Tên hầu lại thưa,  “Người đưa lễ vật nói, nếu đại hân không mở ra xem ngay, e rằng sẽ gặp đại họa mất mạng.”
Lúc này tổng binh cũng đã nhìn vào cái hộp quà.
“Làm gì có chuyện đó!”  Mạc Tông Trạch tức giận. “Ngươi câm mồm đi! Xin tổng binh bỏ quá cho, tôi đã nặng lời với gia đinh nhà đại nhân, nhưng nghe đấy... hắn...”
Tổng binh nói, “Kẻ hầu của ta quá thất lễ... nhưng thiết nghĩ cứ mở xem thì cũng chẳng sao. Không vì câu nói dọa dẫm của người đưa quà thì cũng giải tỏa lòng tò mò...”
 Mạc Tông Trạch khó mà từ chối, đành “Vâng” rồi cầm lấy cái hộp. Bên trên không ghi họ tên người gửi. Lạ thật! Anh đặt hộp lên bàn, bảo mọi người tránh ra, rồi đập một trưởng vào cái hộp.
Mảnh lụa bọc ngoài bung ra, hộp gỗ mỏng bật nắp, bên trong chỉ có một cái hộp nhỏ làm bằng trúc. Không có ám khí, không có thuốc nổ. Mọi người đều thở phào. Nhưng  Mạc Tông Trạch lại cau mày. Anh đã từng nhìn thấy cái hộp này hoặc một cái hộp tương tự, đựng ngón tay của vợ anh.
Trong hộp trúc cũng có một ngón tay.
Tất cả mọi người rú lên kinh hãi.
Nhìn kỹ ngón tay một lúc,  Mạc Tông Trạch lẳng lặng sải bước ra khỏi đại sảnh. Vài bộ khoái già dặn hiểu ý cũng nhanh chân đi theo  Mạc Tông Trạch. Trong ngôi nhà gác nhỏ bên sông, xác “Thích phu nhân” đặt trên giường trải đệm thêu, đã bị băm nát nhừ, không ai nỡ nhìn. Pháp y nhìn xác đoán rằng cô ta bị giết chỉ cách đây hai canh giờ.
Mất ngón tay trỏ.  Mạc Tông Trạch choáng cả người, suy đoán của anh trước đây là sai!
“Tà ma” thực sự, không phải là Lã Diệp Hàn!
 Mạc Tông Trạch bỗng hiểu ra, Lã Diệp Hàn trải nhiều năm truy nã Tà ma, ông ta đã thâm nhập quá sâu, tìm hiểu Tà ma quá tỉ mỉ, thuộc lòng nhất cử nhất động của Tà ma, rốt cuộc đã vô tình mô phỏng Tà ma rồi bắt đầu tự thực hiện vụ án “chặt ngón tay”. Đêm hôm đó Lã Diệp Hàn lén đi giết Mạc phu nhân, còn hung thủ thực sự thì nhân lúc Lã Diệp Hàn vắng mặt đã xông vào đoạt Thi1chc phu nhân đem đi cho đến hôm nay, chờ khi  Mạc Tông Trạch vừa được thăng chức thì y gửi “hậu lễ” đến tặng!
Chẳng khác gì tuyên bố, Lã Diệp Hàn đã thất bại thảm hại, từ nay là cuộc quyết đấu giữa Tà ma và  Mạc Tông Trạch.
Sau khi tạm nguôi cơn cuồng nộ,  Mạc Tông Trạch cười khẩy, được lắm, cuộc chiến này bắt đầu từ hôm nay. Ta sẽ tiếp ngươi đến cùng.
Đọc xong câu chuyện Na Lan hít vào một hơi lạnh.
Trong ngôi nhà nhỏ cách Sở Công an không xa, có một người cũng vừa đạoc xong câu chuyện này, rồi thở dài gấp cuốn Không dũ tùy đàm lại. Đây là cuốn sách tập hợp các truyện ký thời Minh-Thanh, trong đó có đủ thứ chuyện xảy ra ở vùng Giang Kinh. Người ấy lấy làm lạ tại sao trước đây mình không biết về cuốn sách này, chỉ vì nghe nói Na Lan tìm thấy cuốn sách trong cái hố mà Mễ Trị Văn hồi nhỏ đã đào, nên mới nhờ người đi tìm ở thị trường sách cũ, bỏ ra hơn tám ngàn đồng để mua được bản in năm thứ 3 đời vua Quang Tự. Người ấy rất mê đọc cổ văn, đọc cổ văn nhanh như đọc văn hiện đại, cho nên đã đọc xong ngay câu chuyện Lã công thất tiết hết sức li kỳ và cuốn hút này. Đọc đi đọc lại mấy lần, mỗi lần đọc lại, dường như lại có thêm điều tâm đắc.
Tiếc rằng, rốt cuộc nó vẫn là tiểu thuyết... Hay cải biên từ sự kiện có thật, ai mà biết được? Chưa chừng chuyện này có thật cũng nên. Tàn bạo sát ahi5 phụ nũ, rối chặt ngón tay, bây giờ vẫn đang xảy ra đấy thôi? Xảy ra ngay tại thành phố Giang Kinh.
Điều này, mình biết rất rõ.
Chương 23: KHẢO CỔ, VẠ LÂY
Khi Na Lan đến bệnh viện pn thì đã là nửa đêm. Ngồi trong taxi cô hơi do dự, định chạy lên gác hỏi Mễ Trị Văn xem tại sao lão lại đặc biệt để ý đến cái truyện ký này? Có phải nó là nguyên mẫu của vụ án “ntkm”? Ông đã từng chia sẻ mẩu chuyện trong đám giấy cũ này với ai? Tất nhiên lão sẽ không trả lời.
Phải mau chóng giải mã con chữ kia.
Chỉ mình mới có thể giải mã.
Cô nói với anh lái xe, “Anh lại trở tôi về Đại học Giang Kinh vậy!” Rồi cô mở di động bật WeChat.
“Vào thời nhà Minh từng có vụ án ‘ntkm’, cũng ở Giang Kinh.”
Sở Hoài Sơn đang trên mạng, anh hỏi : Ở mục nào, tôi sẽ đọc ngay.
Na Lan : Cũng có thứ anh chưa đọc kia à?
Sở Hoài Sơn : Tại tôi mải chơi, cô giáo phê bình đúng quá.
Na Lan : Sách Không dũ tùy đàm, cực hiếm thì phải? Trong đó có truyện Lã ông thất tiết. Thật ra, đọc hay không không thành vấn đề nhưng chắc chắn vụ án “ntkm” được gợi ý từ câu chuyện này.
Sở Hoài Sơn : Sao nói là không thành vấn đề?
Na Lan : Tiểu thuyết không mấy liên quan đến việc giải mã chữ. Đại sư Thương Hiệt phê bình tôi chỉ hay lan man, chính tôi cũng cảm thấy mình càng lúc càng rời xa cái chữ ấy.
Sở Hoài Sơn : Tôi đang xem đây.
Na Lan sắp xếp lại ý tưởng ban nãy rồi nhấn bàn phím : Đã nói là chỉ tôi mới lần ra thì vẫn là liên quan đến những trải nghiệm của tôi.
Sở Hoài Sơn : Trải nghiệm của cô quá nhiều.
Thục nữ chính cống Na Lan tủm tỉm cười : Liệu Mễ Trị Văn có muốn tôi giải chữ đó không?
Sở Hoài Sơn : Đương nhiên rồi.
Na Lan : Cho nên lão mới gợi ý tôi bằng mẩu chuyện ngụ ngôn con khỉ vứt bắp ngô để nhặt quả dưa hấu, hình như muốn nói rằng thứ mà tôi cần, điều kiện để giải được chữ, rất có thể đã có rồi. Nếu tôi cứ theo đuổi các manh mối khác thì sẽ chẳng lên cơm cháo gì.
Sở Hoài Sơn : Có thể lắm.
Na Lan : Lão nói những điều này sau ngày tôi ngã xuống cái hố kia.
Sở Hoài Sơn : Tức là chữ này liên quan đến cái hố?
Na Lan : Nếu không, tại sao lão phải sốt ruột? Nếu không phải cái hố thì là những chuyện tôi từng trải qua. Ví dụ việc tôi tìm đến thôn Mễ Lung.
Taxi đã chạy đến cổng Đại học Giang Kinh, anh lái xe hỏi, “Rẽ vào đâu?”
Na Lan chỉ về phía ký túc xá của nghiên cứu sinh.
Sở Hoài Sơn tiếp tục trả lời : Suy đoán của cô rất mạnh dạn, rất mù quáng, nhưng cũng rất có lý. Chỉ nhà nghề tâm lý học như cô mới nắm bắt được ý nghĩ của Mễ Trị Văn.
Na Lan : Chưa chắc! Tôi còn phải xem lại con chữ ấy đã.
Xe dừng dưới sân khu ký túc xá, cô trả tiền xe rồi chạy ào lên phòng mình. Mảnh giấy viết cái chữ ấy vẫn nằm trên bàn.
Na Lan tiếp tục WeChat : Nhìn mãi vẫn thấy nó là chữ tượng hình.
Sở Hoài Sơn : Đúng là chữ tượng hình.
Chữ tượng hình là loại chữ cổ xưa nhất, dùng khi văn minh nhân loại mới chớm bắt đầu.
Sở Hoài Sơn : Hình như tôi đã nhận ra hướng suy nghĩ của cô.
Tức là cái hố sâu ở dốc Mễ Lung!
Sở Hoài Sơn : Dốc Mễ Lung là một trong các di chỉ về nền văn minh xa xưa, từ hơn ba mươi năm nay đã trở thành điểm khảo cổ quan trọng của nhà nước.
Con chữ này liên quan đến dốc Mễ Lung và công tác khảo cổ ở đây!
Chủ nhật là ngày được phép ngủ bù vô tư, nhưng từ sớm Na Lan đã đến gõ cửa ngôi nhà nhỏ trong khu tập thể trường trung học trực thuộc Học viện Âm nhạc. Vẫn là dì Tư của Sở Hoài Sơn ra mở cửa, không đợi tỏ mặt khách đã đi ngay vào bếp.
Sở Hoài Sơn mắc chứng sợ đám đông rất nặng, xưa nay chưa từng bước ra khỏi nhà. Sau lần đầu gặp anh, Na Lan đã nghĩ xem có khả năng chữa khỏi hay không. Tiếc rằng cô không phải bác sĩ khoa thần kinh, không thể bắt tay vào điều trị. Điều duy nhất cô có thể làm là thử dùng liệu pháp hành vi, bước đầu phải đi ra khỏi nhà đã. Hôm qua trao đổi qua WeChat, Na Lan đã phải rất kiên trì mới thuyết phục được anh cùng cô đi đến Phòng Khảo cổ học Đại học Giang Kinh, cô cũng rất ngạc nhiên vì anh lại đồng ý. Nào ngờ, nhận lời lúc chót uống quá chén nên hôm nay anh lại đổi sang hối hận.
Dù hối hận nhưng anh cũng không thể hiện ra, chỉ là sắc mặt có phần hoang mang, đôi chân căng thẳng hơi mất tự nhiên đứng ở cửa, nhưng nhìn chung anh vẫn rất chấn tĩnh. Người anh dong dỏng, mặc bộ vét màu ghi sáng trông khá chũng chạc, chân đi đôi giày xuồng mỏng nhẹ, bước ra cửa rồi lại chợt như không biết nên đi hướng nào.
Na Lan khẽ hỏi, “Anh phải chào dì Tư đã chứ?” Lúc cả hai bước ra cửa vẫn không thấy mặt dì Tư đâu.
“Có nói, nói rồi.” Ra khỏi nhà, cái tật nói lắp vẫn tái hiện.
Na Lan tiếp tục giúp anh rẽ sang đề tài khác, “Người đẹp khảo cổ hôm nay ta đến gặp, nói thật nhé, tôi chưa gặp bao giờ.”
“Là Dương... Phán Phán? Tôi đã tra cứu rồi... đã đăng hai bài... chắc đang là nghiên cứu sinh, cách đây không lâu.” Ngồi vào xe taxi đã chờ sẵn ngoài nhà, Sở Hoài Sơn dần bình tĩnh trở lại.
“Còn anh khóa trên tôi...”
“ Cung Tấn!” Nói đến hai chữ này, Sở Hoài Sơn dường như sôi nổi hơn. “Là người có tài. Hiện nay những người, thông minh như thế, đều đi kinh doanh, đi kiếm tiền.”
 Cung Tấn là nghiên cứu sinh tiến sĩ khoa văn Đại học Giang Kinh, khi xưa từng mải miết theo đuổi Na Lan nhưng không được, cũng từ đó hai người trở thành bạn thân.
Na Lan cười, “Anh ấy đúng là con người rất hay, là một tài tử, khó khăn lắm mới theo đuổi được Dương Phán Phán.” Cô nói với Sở Hoài Sơn đủ chuyện linh tinh về trường đại học để anh thấy nhẹ nhõm, giảm bớt nỗi sợ hãi đối với không gian bên mở ngoài.
“Nói thật, tôi đôi khi cũng rất thích cuộc sống ở đại học, hẳng là rất thú vị.” Sở Hoài Sơn trầm trồ.
Na Lan nói, “Cũng chưa có gì là muộn cả, tôi có thể giúp anh.”
Sở Hoài Sơn ngượng cười, “Đã có khối người từng giúp tôi... nhưng tôi rất gàn dở, từ bé đã thế, không thể cứu vãn.”
“Nếu anh không ngại thì cứ nói xem hồi nhỏ đã xảy ra chuyện gì với anh, được không?” Na Lan nhớ đến bức tranh vẽ bà mẹ Sở Hoài Sơn. Xinh đẹp. U buồn. Liệu có liên quan gì đến tính cách của anh ta không?
Cơ mặt hơi gầy của Sở Hoài Sơn chỉ hơi nhích nhích, anh không muốn, không thiết ngoái lại quá khứ, chỉ nói, “Đa số các vấn đề thần kinh, và tâm lý, đều hình thành từ thời thơ ấu. Mễ Trị Văn, là một ví dụ tiêu biểu.”
Na Lan biết anh muốn né tránh, định cố hỏi tiếp nhưng lại thôi. Hôm nay anh đã đồng ý đi cùng là quá tốt rồi, không nên kết hợp “điều trị” kẻo sẽ là sôi hỏng bỏng không. Cô bèn nói, “Tôi cũng chỉ định hỏi vậy thôi.”
“Chúng ta coi như đồng bệnh... cô mất cha, tôi mất mẹ.”
“Vậy cha anh đâu?” Chắc đây là một câu chuyện khó nói nhưng rất có thể còn dễ chịu đựng hơn chuyện “mất mẹ”.
Đúng thế, Sở Hoài Sơn tỏ ra rất bình tĩnh, “Tôi chưa từng gặp mặt.”
Na Lan định hỏi ông giờ ở đâu, nhưng dường như câu trả lời sẽ không có quá nhiều kỳ lạ, nếu vẫn còn sống thì rõ ràng là ông ta đã bỏ nhà cửa vợ con, câu chuyện sẽ rất dài. Có vẻ như Sở Hoài Sơn cũng không muốn nói thêm.
“Anh bị nói lắp từ khi nào?”
Sở Hoài Sơn trầm ngâm, “Từ khi bắt đầu có trí nhớ, không cha không mẹ, thì không mấy tự tin. Tôi nhớ rằng cô nói là Mễ Trị Văn sống ở cô nhi viện, có biệt hiệu là ‘thằng câm’, thử đoán xem tôi hồi bé có biệt hiệu gì?”
Na Lan, “Cà lăm?” Na Lan biết trí tưởng tượng của trẻ em có thể phong phú lạ thường, cũng có thể quá ư nghèo nàn.
Sở Hoài Sơn gật đầu.
Các chuyện tiếp theo đó khỏi cần hỏi cũng đoán ra gần đúng, đứa trẻ không cha không mẹ, thiếu tự tin, nói lắp, là một chuyện nhân quả tất yếu. Không phải mọi đứa trẻ cùng lứa tuổi đều có lòng thương cảm, nhất là những đứa trẻ chậm phát triể tri giác, chúng sẽ không nương tay với Sở Hoài Sơn. Sở Hoài Sơn đương nhiên là đứa trẻ có lòng tự tôn rất cao, thà ngồi thu mình trong nhà chứ không muốn chuốc lấy sự ê chề, dần dà hình thành một căn bệnh về tâm lý.
Na Lan an ủi, “Tất cả rồi sẽ trở nên tốt đẹp!”
“Đây không phải một chữ.” Cung Tấn dời mắt khỏi tờ giấy, nhìn Na Lan từ đầu đến chân, cứ như vừa phát hiện ra một Na Lan tẩu hỏa nhập ma! Từ khi hai người không thể phát triển thành tìnnh yêu đôi lứa, giữa họ lại hình thành một thỏa thuận ngầm rằng cả hai có thể trêu chọc nhau thoải mái. “Ngày trước mà em đến với anh, thì không đến nỗi lớ ngớ chẳng ra sao như ngày nay!”
“Tất  nhiên là không phải một chữ. Đây là một sơ đồ chỉ dẫn em nên đi đâu để tìm thấy một bộ hài cốt.”
Cung Tấn cau mày, lặp lại câu nói của Na Lan, “Đi đâu để tìm thấy một bộ hài cốt? Na Lan em ơi, anh không biết em bị sốc tình cảm ra sao....” Cung Tấn nhìn Sở Hoài Sơn vẫn câm như hến và đang cầm khăn giấy thấm mồ hôi trán. “Nhưng anh có thể khẳng định một điều, thật ra em không cần phải đi tìm bộ hài cốt để...”
“Em không còn tâm trí nào để nói đùa với anh đâu! Anh vẫn khoe khoang là thuộc lòng và có thể đọc ngược cuốn Thuyết văn giải tự, thì anh động não hộ em đi?”
Cung Tấn cũng nhận ra Na Lan không muốn nói tếu, bèn nhìn lại con chữ ấy, “Phần trên hơi giống con lợn, một con lợn kỳ quái...” Anh lại xua tay. “Nhưng nghiệp vụ của anh là văn học Ngụy Tấn thời Nam Bắc Triều chứ không phải văn tự cổ lỗ sĩ! các kỹ thuật viên của Sở Công an đi vắng hết à?”
Sở Hoài Sơn nói, “Đã hỏi... rất nhiều chuyên gia văn tự học, đều không giải mã được.”
Cung Tấn nhìn Sở Hoài Sơn bằng ánh mắt “thì ra anh cũng biết nói cơ đấy”, rồi anh bật ra tên của một bậc thầy văn tự học, “Dư Hoán Hy thì sao?”
“Hỏi rồi.”
“Lý  Học Cần?”
Sở Hoài Sơn gật đầu.
“Vương Uẩn Trí?”
“Anh không cần nêu tên từng người nữa. Đã hỏi các chuyên gia đầu ngành rồi!” Na Lan đỡ lời.
“Thế thì em còn hỏi anh làm gì? Lãng phí tuổi trẻ cũng được, nhưng lạng phí thời gian thì không khôn ngoan đâu!”
Na Lan giật lại tờ giấy, “Cảm ơn thời gian quý báu của anh, kính chào vậy!”
“Kìa, đừng đi vội. Anh tuy lớ ngớ về văn tự cổ nhưng vẫn cảm thấy con lợn này rất quen...”
Na Lan tủm  tỉm, cố nén nhịn nhưng rồi vẫn phải nói, “Em vẫn có cảm giác như lần đầu gặp anh, thật ra hôm nay đến không phải để gặp anh.”
“Gặp nhà khảo cổ bạn gái của anh chắc?” Cung Tấn đã hiểu ra ý định thực sự của Na Lan, anh mỉm cười nhưng lại tặc lưỡi, “Tiếc rằng gần đây bọn anh đang chiến tranh lạnh, vì cô ấy không muốn dẫn người yêu anh đây đi Lâu Lan1. Em vừa nói, khiến anh nhớ ra hình như đã từng nhìn thấy hình vẽ này ở chỗ cô ấy thật.”
1. Tên một nước thời cổ ở Tây Vực ; một địa điểm khảo cổ.
“Thế thì sao  anh còn đứng ì ra đây? Hãy mượn cớ thỉnh giáo để hâm nóng mối quan hệ giữa hai người, có phải là rất tự nhiên không?”
Dương Phán Phán chỉ nhìn thoáng con chữ độ một giây, rồi đưa đôi mắt phượng nhìn Cung Tấn, “Anh nói lại xem có đúng là anh không nhớ ra cái hình vẽ này  phải không?”
Cung Tấn lúng túng như cậu học trò không thuộc bài. Na Lan nói, “Thật ra anh ấy có nhớ nhớ nhưng chưa cụ  thể...”
“Thế  tức là không nhớ rồi!” Dương Phán Phán gí ngón tay vào trán Cung Tấn. Rõ ràng là huy động nguuời đẹp đến cứu viện  không những không giúp được gì mà còn như lửa đổ thêm dầu. “Anh  quên à, chúng ta gặp nhau lần đầu là khi bọn em vừa kết thúc đợt 3 khai quật dốc Mễ Lung...”
Cung Tấn lập tức kêu lên, “Nhớ ra rồi! Đó là hoa văn trên cái vò gốm màu, trong đó có hình vẽ này!”
Na Lan vẫn chưa hiểu ra sao. Dương Phán Phán giải thích, “Khai quật đợt 3 dốc Mễ Lung kết thúc cách đây hai tháng, các văn vật tìm thấy đang giám định. Một khi chính thức công bố các văn vật này, thì dốc Mễ Lung sẽ có giá trị ở tầm sánh ngang với văn hóa thôn Bán Pha và văn hóa Ngưỡng Thiều trong lịch sử Trung Quốc. Chữ này thoạt nhìn có vẻ giống chữ ‘Thi’, nhưng thật ra đó là chữa ‘Mã’ cách đây năm nghìn năm, được vẽ trên cái voò gốm tìm thấy ở ô số 9. Mai kia chính thức công bố, rất có thể chữ nàyy sẽ thành biểu tượng đại diện cho văn hóa Mễ Lung.”
“Chưa công bố nhưng đã có người ngoài ngành khảo cổ biết đến chữ này, tại sao lại thế?” Na Lan không tin Mễ Trị Văn có thể thần thông cái gì cũng biết.
“Chưa công khai, nhưng không đến mức phải bảo mật. Nhà bảo tàng của tỉnh đã tổ chức một cuộc triển lãm nho nhỏ, các lãnh đạo tỉnh và nhiều chuyên gia học  giả đều đã nhìn thấy. Rất có thể nó đã có mặt trên weibo rồi.” Dương Phán Phán hờ hững nhìn Cung Tấn. “Nếu không , anh chàng tài tử này nhìn thấy sao được?”
Na Lan và Sở Hoài Sơn luôn miệng nói cảm ơn rồi ra về, để cho tài tử giai nhân tự giải tỏa ân oán.
Gần trưa thì cả hai về đến cửa nhà Sở Hoài Sơn. Na Lan nói, “Hôm nay rất thành công, anh rất có bản lĩnh đấy!”
Sở Hoài Sơn gượng cười, “Đứa trẻ lên mười cũng làm được. Tôi, mà gọi là có bản lĩnh à?”
“Chớ coi thường đứa trẻ lên mười.”
Sở Hoài Sơn chợt hiểu ra ngụ ý của Na Lan, Mễ Trị Văn khi mười tuổi đã dám giải phẫu rút xương những con vật kia, đâu phải ai cũng làm được. Anh nói, “Không dám!”
Cửa mở, dì Tư lại biến mất như một làn khói.
“Hay là ăn cơm trưa đã, rồi hãy về? Đơn giản thôi, chỉ là bát mì...”
“Không làm phiền anh nữa.” Na Lan đã có chương trình dành cho buổi trưa.
“Lại định đến cốc Mễ Lung à?” Sở Hoài Sơn hỏi. Anh ta thật tinh tường.
“Đi để cầu may.”
“Thế thì, sao cô phải tiễn tôi về tận nhà?” Giọng anh tha thiết. “Tôi sẽ đi cùng. Tôi sẽ đứng ngoài. Tôi chẳng sắc sảo gì hết, nhưng ít ra cũng có thêm người, hỗ trợ nhau.”
Na Lan rất mừng, nhưng cô biết hôm nay anh đi cùng đến Đại học Giang Kinh là đã tốt lắm rồi, nếu lại đến vùng hoang vu kia nữa thì quá khó cho anh. “Cảm ơn thiện chí của anh, thật ra cũng không đến nỗi, vì đang ban nagỳ và tôi sẽ không bị rơi xuống hố nữa đâu.”
Sở Hoài Sơn giơ tay xem đồng hồ, “Nếu 6 giờ chiều không thấy ti cô, tôi sẽ báo công an.
Chương 24: xxx

Chương 25: MINH PHƯỢNG

Na Lan nói, “Em vẫn phải gặp Mễ Trị Văn.”
“Trước mắt, cô tạm thời không gặp lão được.”
“Giám đốc Chu nói thể lực của em không vấn đề gì…”
“Không phải vì thế. Mà là chiều nay Mễ Trị Văn bỗng bị ngất, vừa nãy anh đã tạt sang đó lão vẫn chưa tỉnh. Giám đốc Chu đã bố trí người quan sát, hiện giờ lão mới tạm ổn.”
Na Lan hậm hực nói, “Biết chọn đúng lúc để ngất thật!” Đồng htời cô cũng nghĩ, mMễ Trị Văn có thể từ giã cõi đời bất cứ lúc nào, nếu sự việc còn đúng như lão nói “vụ a1n ngón tay khăn máu sẽ còn tiếp diễn”, nếu lão chết thì sẽ là mất hết mọi manh mối? Hoặc là, lão vẫn đang bỡn cợt người ta, chính lão là hung thủ, vậy nên mong lão chết sớm hay nên mong lão được kéo dài sự sống?
Ba Du Sinh trầm ngâm. Na Lan ngẩng nhìn anh, biết anh đang do dự định nói gì đó. Bèn hỏi, “Lẽ nào… lão đã đoán trước hôm nay em tìm thấy hài cốt của Quan Tinh?”
“Chắc thế. Cho nên trước khi ngất, lão đã để lại cho cô một chữ mới.”
Na Lan thấy toàn thân ớn lạnh, đầu lại ngâm ngẩm.
Một chữ mới. Tức là một bộ hài cốt.
Chỉ cô mới có thể tìm thấy.
Cô lẩm bẩm, “Bao giờ lão mới chịu thôi?” Cô nhìn Ba Du Sinh, “Anh đưa cho em xem đi!”
Ba Du Sinh lắc đầu, “Đừng nói cô chưa khỏe, mà dù đã khỏe trở lại thì anh cũng không muốn cô sa lầy vào vụ án vô tận này nữa. Anh đã đề nghị cấp trên đưa anh trở lại tham gia khám  phá, với tư cách hỗ trợ cũng được, cậu Kim Thạc vẫn là chỉ huy.”
Ba Du Sinh sẽ chỉ là nhân viên của Kim Thạc. Na Lan nói, “Chỉ em mới giải được cái chữ kia.”
Ba Du Sinh, “Anh cũng phải có trách nhiệm với sự an toàn và sức khỏe của cô.”
“Vụ án này kết thúc thì em mới an toàn và khỏe mạnh được. Anh nghĩ mà xem, dù có phaải Mễ Trị Văn làm hay không, nhưng nếu lại xảy ra án mạng thì áp lực sẽ ra sao? Em có thể yên tâm được không?”
Ba Du Sinh im lặng rất lâu, rồi mới nói, “Anh nhận ra một điều, kể từ khi gặp Mễ Trị Văn, có cảm giác…” Anh lựa chọn từ ngữ.
Nhưng Na Lan dứt khoát nói, “Từ sau khi gặp lão, đúng là tâm trạng của em không ổn định, sự thật là thế.”
“Có biết nguyên nhân không?”
“Em thấy sợ. Tuy chấp nhận làm việc này nhưng đúng là em sợ tiếp cận tội phạm. Và em cũng quá nhạy cảm nữa, em hay nghĩ về các nạn nhân.” Cô đã rất nhiều lần nghhĩ đến vấn đề này.
“Cô khiến anh nhớ đến một cậu thanh niên quen mấy năm trước trong một vụ án lớn, cậu ấy có chút khả năng đặc biệt, có thể cảm  nhận ra nỗi đau của người khác, không phải nỗi đau tinh thần mà là cảm giác đau đớn thể xác thực sự.”
Na Lan ngượng cười, “Em chưa đạt đến trình độ ấy, em chỉ cảm nhận một cách trìu tượng mà thôi.”
“Cho nên, những người như cô…” Anh lại thấy bí từ ngữ, “… sẽ có sự nhạy cảm đặc biệt hơn người, sẽ là chuyên gia tâm lý xuất sắc, sẽ trợ giúp rất lớn cho bọn anh phá án nhưng  cô sẽ rất đau khổ.”
Ông Chu Trường Lộ bước vào  phòng, Ba Du Sinh khẽ nói với ông mấy câu, chắc là hỏi về thể chất của Na Lan. Rồi anh trở lại bên giường cô, nói, “Được! Nhưng cô phải chịu khó tĩnh dưỡng đến ngày mai. Mai mà phải lên lớp thì cứ lên, còn được nghỉ thì cũng phải hoàn thành bài vở của tổ nghiên cứu sinh đã rồi hãy đến Sở. Chúng ta sẽ cùng tấn công giải mã  cái chữ mới ấy.”
Na Lan hỏi, “Mễ Trị Văn trước khi hôn mê đã đưa ra chữ này, và phải nói vài câu gì đó nữa , đúng không?”
Ba Du Sinh hơi ngạc nhiên, “Nói gì?”
“Chắc chắn lão sẽ nói Na Lan làm việc quá chậm, sẽ không kịp mất! Sắp xảy ra vụ án ‘ngón tay khăn máu’… đại loại như thế.”
Ba Du Sinh hỏi, “Sao cô biết?”
“Cho nên anh mới đề nghị được trở lại điều tra…”
“Thực ra tôi chưa từng cắt đứt với vụ án này.”
“Nhưng lần này anh đề nghị  được chính thức trở lại tham gia điều tra, dù làm cấp dưới cũng được. Đủ thấy anh đã càng coi trọng vụ việc. Anh vừa nói hai chữ ‘tấn công’ thì là cấp bách rồi!”
Ba Du Sinh ngượng cười, “Cô ngày càng đáng sợ!” Anh đứng lên, mỉm cười. “Anh thăm đến đây thôi, còn phải nhường lượt cho sếp Kim Thạc.”
Lần này thì đến lượt Na Lan cười nhăn nhó.
Kim Thạc đến, cầm theo một bó hoa. Na Lan nhẩm rất nhanh, có nên học tập đại sư Thương Hiệt giả vờ đã ngủ? Nhưng không kịp nữa. Mà cũng không  nên tưởng tượng xa xôi quá. Mang theo hoa vào thăm bệnh nhân cũng đúng phép lịch sự thôi mà. Ba Du Sinh bắt tay Kim Thạc, cả hai  chào hỏi mấy câu, rồi anh bước ra luôn. Kim Thạc ngồi xuống cái ghế bên cạnh giường nói, “Rốt cuộc tôi đã hiểu tại sao Sở Công an và anh Ba Du Sinh luôn muốn cô tham gia. Cô đúng là rất khác thường.”
“Chứ còn gì! Tôi là người luôn gặp vận đen chí mạng, luôn bị rắc rối bám theo. Công an sinh ra để giải quyết các rắc rối cho nên mới dùng tôi để nhử rắc rối ló mặt ra.”
Kim Thạc bật cười, khi không cố làm bộ giữ kẽ thì anh vẫn là một chàng trai đáng mến. Anh nói, “Tôi cầm đến cho cô một thứ rất hay.”
Na Lan mới chỉ thấy bó hoa chứ không thấy gì khác.
“Còn nhớ hôm qua nhờ tôi tìm băng ghi âm vở kịch nói Nhà chứ?”
Na Lan mừng rỡ, “Anh đã tìm được à?”
“Không.”
“Lại trêu nhau rồi!” Na Lan trách khéo.
Kim Thạc cười đắc ý, “Không tìm được trích đoạn băng ghi âm, nhưng tôi tìm được băng ghi âm của vở kịch đó!”
Na Lan mỉm cười, “Sồng ở thủ đô có khác, ăn nói lắt léo!”
“Nhưng nếu chưa từng sống ở thủ đô thì không thể kiếm nổi băng ghi âm này. Tôi đã nhờ các đồng nghiệp tìm ở đài phát thanh, đài truyền hình, thư viện, phòng hồ sơ… Giang Kinh, đều không có. Sau đó nhờ người quen ở Bộ Công an tìm tư liệu về kịch nghệ Trung Quốc, từ đó lần ra Viện Kịch nghệ Trung ương, họ có ccả một kho băng ghi âm đáng tin cậy và hoàn chỉnh nhất!”
“Có lý!”
“Viện Kịch nghệ Trung ương có nhiều bản Nhà khác nhau, nhưng không có bản ghi âm do đoàn kịch nói Giang Kinh biểu diễn những năm 60.”
Na Lan thầm nghĩ, gã điển trai này đừng vòng vo tam quốc nữa thì tốt. Cô nói, “Cũng không đáng ngạc nhiên, vì nó chưa phải cuốn băng tiêu biểu đặc sắc gì.”
“Sau đó một giáo sư già ở khoa Biểu diễn Viện kịch nghệ Trung Quốc mách nước cho, nơi có nhiều khả năng lưu trữ băng ghi âm của đoàn kịch Giang Kinh chính là một đồng nghiệp của cô…”
“Càng nghe càng thấy khó hiểu quá.”
“Đại học Giang Kinh có Học viện Nghệ thuật Biểu diễn đúng không?”
“Có! Tiền thân của nó là Trường Hí kịch Giang Kinh. Sau khi sáp nhập vào Đại học Giang Kinh thì nó biến thành một học viện.”
“Trong khoa Biểu diễn của Học viện có một giảng viên là dân Giang Kinh chính cống, cũng laà nhân vật kỳ cựu trong giới văn nghệ Giang Kinh, thường say mê sưu tầm tư liệu. Tôi bèn gọi điện hỏi, quả nhiên bà ấy có! Nhưng bà ấy không thể đưa cho vì nó là báu vật của bà, ở dạng băng cổ lõ sĩ, nếu muốn nghe tại nhà bà thì được. Bà nói là không ngại gì, vì chính bà thỉnh thoảng vẫn mở các băng cũ ra nghe.”
“Cũng vừa khéo tôi đang muốn hỏi vài điều về vở kịch đó, anh giúp tôi nói với bà ấy được không?”
“Định bao giờ đến chỗ bà ấy?”
“Tối nay.”
Chỉ còn hai giờ nữa là đến “tối nay”.
Chu Trường Lộ xem lại các chỉ số về thể trạng Na Lan rồi đồng ý cho cô rời buồng hồi sức cấp cứu. Nếu biết ngay sau đây Na Lan lại đi điều tra các tình tiết vụ án, chắc ông sẽ giữ cô lại đến sáng mai luôn.
Na Lan biết mình không thể chờ nổi nữa.
Sau khi phát hiện ra hài cốt của Quan Tinh, và Mễ Trị Văn lại tung ra một chữ mới, Na Lan có cảm giác gấp gáp rõ rệt. Trò chơi này còn kéo dài đến đâu? Lẽ nào vụ “ngón tay khăn máu” sẽ tiếp diễn thật? Cô chưa biết cuốn băng ghi âm bà mẹ Mễ Trị Văn biểu diễn kịch nói có đem lại bước đột phá cho công tác chinh sát hình sự không, nhưng cô có cảm giác đây sẽ là một khâu quan trọng để tìm hiểu Mễ Trị Văn và tìm hiểu vụ án “ngón tay khăn máu”.
Học viện Nghệ thuật Biểu diễn trực thuộc Đại học Giang Kinh, vốn là trường Hí kịch Giang Kinh, sau khi sáp nhập nó vẫn ở địa chỉ cũ phía tây khu Văn Viên, cách Đại học Giang Kinh hai mươi phút đi bộ. Gần đay Na Lan sinh hoạt chẳng theo quy luật gì, đi bơi cũng không có thời gian, lại vừa bị ngất… lúc này cô vẫn rất đuối sức bèn đi tàu điện ngầm cho đỡ mệt.
Cửa tòa nhà văn phòng khoa Biểu diễn đóng im im, cô đang do dự thì một bà già chợt mở cửa bước ra. “Cháu là Na Lan à?”
“Chào cô Nhiếp!”
“Vào đi!” Bà Nhiếp Dương giảng viên khoa Biểu diễn dẫn Na Lan vào, cửa khu nhà tự động đóng  lại. Đèn hành lang sáng sủa, có thể thấy rõ chiếc áo khoác len của bà rất đẹp và trang nhã, lưng bà vẫn thẳng, bước chân vẫn nhanh nhẹn gọn gàng. “Xin lỗi nhé, bắt cháu phải đến tận đây. Nhưng cuốn băng đã quá cũ, đem đi đem lại tôi không yên tâm, nhất là cho chạy bằng máy lạ e sẽ gây ra hậu quả.”
Ấn tượng đầu tiên của Na Lan là bà rất thẳng thắn. Bước vào phòng làm việc của bà, Na Lan bỗng sủng sốt, không nghĩ gì thêm về bà nữa.
Trên tường treo kín ảnh lớn nhỏ, chụp sân khấu kịch, chụp các diễn viên, áp phích quảng cáo truyền hình hoặc kịch nói. Trong đó đều có bà và Nhiếp Dương cùng với rất nhiều diễn viên sáng giá như Bốc Tồn Hân, Phan Hồng, Lý Mặc Nhiên, Phùng Viễn Chinh, có một số ảnh cũ bà Nhiếp Dương chụp với các diễn viên mà Na Lan chịu không biết là ai. 
Bà chỉ vào một bức ảnh đen trắng, nói,  “Tôi chụp với thầy Tào Ngu.” Bức ảnh in lại thì phải, bản  gốc chắc chắn đã cất lại vào album.
“Ông ấy chuyển thể Nhà của Ba Kim rồi đưa lên sân khấu.”
Bà Nhiếp Dương nói, “Bảo là chuyển thể, nhưng tôi cho rằng nói là sáng tác thì cũng không quá lời.”
Lúc này Na Lan đã nhìn thấy chính diện bà Nhiếp Dương. Tuổi đã cao nhưng bà vẫn rất trẻ, đôi mắt boồ câu của cô gái tuổi hai mươi với khuôn mặt luôn tươi cười. Na Lan nói, “Phần  lớnảnh và quảng cáo các cô gái chàng trai ở đây cháu không biết là những ai.”
“Không biết là phải, vì họ đều là các văn nghệ sĩ Giang Kinh và có nhiều người không mấy tên tuổi, ai có tê tuổi thì lại là lớp người quá xa xưa.” Bà chỉ một tờ quảng cáo cỡ lớn, in đen trắng, “Ví dụ đây là Trang Điệp, thập kỷ 30-40 nổi tiếng khắp nam bắc Trường Giang, là người Giang Kinh, nhưng nay chẳng ai nhắc nữa.”
Cả hai ngồi xuống đi văng. Na Lan nói, “Cháu rất muốn biết cô dùng máy gì để chạy lại băng ghhi âm cổ điển?”
Nhiếp Dương cười dí dỏm, cầm chiếc laptop lại, nói, “Cáo này.”
Na Lan ngạc nhiên, “Thì ra cô có bản điện tử, sao cô không gửi cho Sở Công an, và cháu cũng không phải lặn lội đến làm phiền cô buổi tối.”
“Vì cô muốn làm quen với cháu.”
Na Lan lại ngạc nhiên, “Cháu… rất vinh dự nhưng quả là…”
Nhiếp Dương thẳng thắn hơn Na Lan tưởng. “Cháu là cô gái được bàn tán nhiều nhất của Đại học Giang Kinh, nên không ai không tò mò về cháu. Có cơ hội gặp thì không thể bỏ qua.”
Na Lan ngượng cười, “Cô nói thế thì cháu hết cơ hội để xấu hổ rồi.”
Nhiếp Dương cười ha ha hệt như nam giới. “Trăm nghe không bằng một thấy là thế! Nói thật nhé, cô rất muốn làm quen với cháu để thỏa trí tò mò. Cô, có lẽ mắc bệnh nghề nghiệp – cái nghề chuyên mô phỏng bắt chước – nên rất hay suy ngẫm về người khác, gặp những người thú vị, cô thường phân tích về tính cách, ngôn từ, cử chỉ của họ ra sao, cho nên cô dạy học thì được chứ không thể ra biểu diễn thật, kẻo sẽ mắc chứng đa nhân cách như chơi!”
“Ở Giang Kinh chúng ta có một vụ án điển hình…”
“Uông Lan San!” Nhiếp Dương nói luôn, và chỉ về phía góc tường. “Có tranh có ảnh đủ cả. Nghe nói bà  ấy có đến mấy chục nhân cách, diễn xuất quá  nhập vai, rốt cuộc bị đa nhân cách, chỉ còn nước vào viện tâm thần, nhà dưỡng lão mà ở!”
Na Lan nhìn bức ảnh chụp chung treo trên tường đúng là Nhiếp Dương với suối tóc bạc lóng lánh như tơ và một bà già tóc xám rối bù, họ ăn mặc trang điểm rất khác nhau, trông uls già hơn một hai chục tuổi nhưng thần thái cả hai đều tươi roi rói, vẻ rất thân thiết.
Na Lan lại hỏi, “Cô và bà uls đều rất mê mô phỏng, hẳn phải tuyệt vời siêu hạng?”
“Mô phỏng là kỹ năng cơ bản của biểu diễn, cô và bà ấy có nổi trội một chút nhưng chưa đạt đến trình độ cao siêu như các diễn viên thượng hạng. Cháu gọi là tẩu hỏa nhập ma cũng được.”
Trên đời này sao có lắm người tẩu hỏa nhập ma thế nhỉ?
“Chắc cô biết quá rõ về những chuyện ngớ ngẩn đáng buồn của cháu. Nhưng lần này cháu đến đây không phải vì bản thân cháu.”
“Vì ai trong vở kịch Nhà?” Bà thật thông minh.
“Minh Phượng.”
“Hoàng Tuệ Trân?” Nhiếp Dương nghĩ ngợi. “Tiếc rằng cô không biết gì về bà ấy, bà ấy thuộc lớp trước, lại không sắm vai chính nên chẳng mấy ai tìm hiểu nhiều. Diễn xuất của bà trong vở kịch này cũng khá, tuy hơi non nhưng vẫn là có nghề, có thể coi là một điểm sáng của vở kịch. Dàn diễn viên nói chung là bình thường, do diễn viên hạng nhì của đoàn kịch nói phối hợp với một số diễn viên quần chúng ở cơ sở dựng vở nhân dịp liên hoan sân khấu, khá nhất là Minh Phượng do  sắm vai. Chắc cháu biết rồi, Hoàng Tuệ Trân sẵn có nét u buồn, Minh Phượng vốn là một a hoàn,  a hoàn yêu cậu Ba con trai ông chủ nhưng không môn đăng hộ đối nên cậu ba không cưới được, về sau coô ta bị đưa đi làm thiếp, thất tình nhảy xuống hồ tự tử. Đó là một vai rất bi kịch.” Nhiếp Dương lại nhìn lên bức ảnh. “Hoàng Tuệ Trân có liên quan gì đến vụ án của các cháu à?”
“Bà ấy về sau mất tích, con trai bà ấy là một phạm nhân. Cháu hy vọng tìm thấy bà ấy, thì rất có thể bà sẽ… thuyết phục người con trai hợp tác với bọn cháu.”
“À, ra thế. Lát nữa chúng ta cùng nghe, cháu sẽ thấy giọng của Hoàng Tuệ Trân rất đặc biệt, chất giọng êm dịu, du dương mềm mại  như con gái Giang Nam. ‘Đã yêu ai thì mình rải lối đi bằng phẳng cho người ấy chứ đừng biến thành một gánh nặng của người ta…’” Nhiếp Dương bỗng cao hứng cất giọng buồn buồn “nhại” một câu thoại của mp trong vở kịch Nhà. Na Lan bàng hoàng, khi Nhiếp Dương bắt trước giọng của mp, cô thấy dường như bà đã biến thành một người khác!

Chương 26: xxx

Chương 27: TẨU HỎA NHẬP MA

Đem khuya, đất xốp rơi xuống rào rào, người xúc đất rất thạo việc, rất khỏe, làm rất nhanh chỉ sau vài phút một nửa cái hố đã ngập đất.
Sự sống của cô cũng chỉ còn một nửa.
“Em van anh, anh cảnh sát...” Cô nài xin, giọng tắc nghẹn bởi cái khăn nhét trong miệng, chỉ nghe âm thanh ú ớ trong cổ họng.
“Xùy...” Cái xẻng trong tay kẻ kia vẫn không dừng lại, hình như hắn muốn kết thúc thật nhanh tội ác này.
“Annh ơi, anh tha cho em, rồi bắt em làm gì cũng được. Em cam đoan sẽ không nói ra.” Cô tiếp tục cầu xin, tiếp tục ú ớ không thành tiếng. Những câu này cô đã nói từ trước khi bị chôn, đã nói khi ngón tay trỏ của cô bị chặt đứt, nhưng cứ như nói với một kẻ điếc ung điếc đặc.
Kẻ đang chôn cô bắt đầu mở miệng, nói nhỏ, như lẩm bẩm với mình, và rõ ràng là khhông nhằm trả lời cô, “Như thế này, tốc độ lấp đất sẽ chậm hơn, không bịt mồm, vẫn có thể tiếp tục nói chuyện với nạn nhân… cảm giác sẽ là gì? Có thể mủi lòng không?” Hắn dừng lại, ngồi thụp xuống, thò cái xẻng xuống hố, lưỡi xẻng ghí sát vào mồm nạn nhân, hình như đang ghĩ xem có nên moi cái khăn mặt ra khỏi mồm cô ta không.
“Nếu nạn nhân cứ van xin khóc lóc mãi, hung thủ sẽ có cảm giác gì?” Hắn tự hỏi rồi tự trả lời, “Hắn sẽ càng khoái trá thưởng thức, thấy mình là nhân vật đầy bản lĩnh, đầy sức mạnh. Đây chẳng phải khát vọng ban đầu của hắn sao? Nhưng nếu không trải nghiệm thì làm sao biết được?”
Hắn khều cái khăn mặt ở miệng nạn nhân ra, khănn rơi xuống hố. Cô ta khhóc ré lên nhưu đứa trẻ sơ sinh đói bụng đòi ăn, tiếng thét lay động màn đêm. Không thấy thỏa mãn, hắn nhìn quanh rồi quát. “Câm mồm!” Và tiếp tục lấp nốt cái hố, đất hắt xuống ngập miệng cô, chặn ngay tiếng khóc.
Lúc Na Lan tỉnh lại, thì thấy ngón tay ai đó nhấc ra khỏi huyệt nhân ttrung của mình. Cảm giác đầu tiên của cô là sau gáy đau nhức kiinh khủng, câu đầu tiên cô nói là, “Tại sao ông biết họ bị chôn sống?”
Rồi cô nhận ra mình đang nằm trên chiếc giường cá nhân, tay chân đều bị trói chặt bằng thừng nilon. Người ấn huyệt nhân trung của cô là Trần Ngọc Đống. Dưới ánh đèn yếu ớt trong căn nhà chật chội, mặt ông ta tối sầm.
“Chôn sống cái gì?” Giọng Trần Ngọc Đống đầy kinh ngạc.
“Tại sao ông biết các nạn nhân trong vụ án ‘ngón tay khăn máu’ bị chôn sống? Rồi chính ông mô phỏng hung thủ! Ông đã chôn một nạn nhân ở bồn hoa ngoài cửa sổ, đúng không?” Na Lan quên cả phản đốiviệc mình bị trói.
Trần Ngọc Đống lắc đầu, “Cô đang nói lăng nhăng gì thế? Tôi đang muốn hỏi cô, ai cho phép cô đột nhập nhà riêng của tôi? Cô đang định làm gì? Cô đi phá án hay là cô có quan hệ gì với hung thủ, cô đến để phá hoại điều tra?”
“Phá hoại?” Na Lan cười nhạt. “Tôi đến để khuyên ông đối diện với quá khứ của mình, đối diện với con người thực của mình, khuyên ông đi đầu thú, vẫn còn kịp.”
“Tôi biết cô làm về Tâm lý nhưng hình như cô quá trớn rồi. Tôi làm sao mà phải đi đầu thú, tôi có gì mà phải đối diện?”
Na Lan nhớ đến Lã Diệp Hàn trong cuốn Không dũ tùy đàm, vì quá đi sâu nghiên cứu hành vi của hung thủ, rồi chính mình bị đa nhân cách, nhân cách vốn có của ông ta lại không nhận ra sự tồn tại của nhân cách tà ác. Na Lan hít sâu một hơi, rồi nói, “Có lẽ chính ông không nhận ra rằng có hai con người đang tồn tại trong mình.”
“Cô càng nói càng kỳ quặc. Cô lén vào nhà tôi để làm gì?”
“Ông đã bao giờ nghĩ chưa, tại sao kết quả suy diễn tâm lý tội phạm đều phù hợp với La Cường? Vì hắn có khả năng rất lớn để gây án, các chứng cứ cũng đáng tin, nhưng khi xử lý hắn rồi thì các vụ án ‘ngón tay khăn máu’ vẫn xảy ra? Liệu có phải La Cường đúng là hung thủ gây ra mấy vụ án trước đó, và hắn đã bị xử tử, còn các vụ án xảy ra sau này là do một hung thủ khác gây ra. Người đi sâu nghiền ngẫm vụ án đã đắm chìm trong đó, đến nỗi biến dạng nhân cách rồi cũng làm theo? Đây là hiện tượng Tâm lý học bệnh trạng thường gặp. Tiếp xúc với những chuyện ghê rợn quá lâu, dù bản thân cực kỳ căm ghét thì vẫn có thể bị biến đổi, chính người ấy nhập vào bộ não mình quá nhiều chhuyện ghhê rợn, hoặc vì có quá nhiều câu hỏi, chỉ còn cách chính mình trải nghệm thì mới giaải đáp được. Ông là người nghiên cứu vụ ‘ngón tay khăn máu’ chuyên sâu nhất, vì suốt đêm ngày ông nghĩ về nó, đến nỗi bị nó lây nhiễm, có thể như thế không?”
Trần Ngọc Đống bàng hoàng trước lời này của Na Lan. Ông ta đờ ra một lúc, rồi nói, “Ý cô là từ năm 1990 trở đi tôi luôn gây án, các vụ án ‘ngón tay khăn máu’ xảy ra sau khi xử tử La Cường là do tôi làm? Còn chính tôi thì không biết gì?”
“Những ý nghĩ tà ác, những nghi vaấn về tà ác, đều dần dần tích tụ và thấm vào tiềm thức của ông, vì ông đi sâu suy nghĩ về chúng quá lâu ngày. Con người bình thường của ông không thể kiểm soát con người tội phạm tiềm thức, thậm chí ông hoàn toàn không hay biết nữa.”
“Rốt cuộc cô có chứng cứ gì?”
“Chứng cứ không nhiều, nhưng về cơ bản tồi có thể khẳng định bên dưới cửa sổ nhà ông có chôn một xác người bị hại…”
Trần Ngọc Đống bỗng ngoảnh sang quát lớn, “Cô cho rằng mình học về tâm lý thì có thể bỡn cợt tôi như đứa trẻ con hay sao? Cô vừa nói tàon những chuyện điên rồ, thật ra cô có mục đích gì?”
Một tiếng động lớn, cửa bỗng bị bật tung kèm theo tiếng hô, “Giơ tay lên! Cấm nhúc nhích!”
Phán đoán của Na Lan rất chính xác, hoặc nói là, Mễ Trị Văn đưa ra câu đố chữ đã “chỉ điểm” rất chính xác. Dưới bồn hoa ngoài cửa sổ nhà Trần Ngọc Đống, đào được bộ hài cốt nạn nhân Phạm Tiểu Lâm bị giết năm 1997.
Cảnh sát kịp thời đến nơi là nhờ có Sở Hoài Sơn báo tin. Na Lan trước đó đã cho anh biết suy luận của mình về bốn chữ số 3, 7, 2, 5. Vì cô bị Trần Ngọc Đống đánh ngất, shhs không liên lạc được, bèn báo ngay cho Ba Du Sinh.
Lần đầu tiên trong đời, Trần Ngọc Đống từ người đi bắt biến thành kẻ bị bắt.
Lần thứ hai Na Lan đến trình diện ở phòng cấp cứu, may mà Chu Trường Lộ không phụ trách trực ban, nếu có mặt, ông sẽ làm đúng trách nhiệm của thầy thuốc đối với bệnh nhân, cấm Na Lan xuất viện. Cô bị kiểm tra và xét nghiệm một lô một lốc, tạm loại trừ khả năng chấn thương sọ não cấp tính. Cô liền gọi cho Ba Du Sinh, “Bao giờ các anh thẩm vấn Trần Ngọc Đống?”
Ba Du Sinh hơi do dự: “Rất nhanh thôi. Ngay lập tức!”
“Em muốn có mặt ở đó. Đứng ngoài cửa sổ nhìn cũng được.”
Ba Du Sinh lại do dự. “Sếp Kim Thạc phụ trách thẩm vấn, tôi phải cách li theo quy định.”
Na Lan than vãn, “Lại thế rồi…”
“Đúng thế đấy! Vụ trọng án đầu tiên tôi làm trong nghề công an, chính là hợp tác với Trần Ngọc Đống. Hai chúng tôi xưa nay vẫn tử tế thân thiết, anh em trong Sở đều biết cả.”
“Thế thì hay nhỉ? Không thhể phà lệ cho em à?”
Tiếng Kim Thạc lọt vào di động của Ba Du Sinh, “Ai thế? Na Lan định đến à? Anh cứ từ chối đi!”
Lại một lúc chần chừ. Rồi Ba Du Sinh nói, “Ừ thì cô đến!”
Lần này đến lượt Na Lan do dự, “Như thế… e không hay?”
Ba Du Sinh, “Có vấn đề gì thì tôi gánh chịu!”
Gặp Na Lan, Kim Thạc cười tươi như hoa, cứ như cái giọng văng vẳng cô nghe trong điện thoại lúc trước chhỉ là giả bộ nguyên tắc cứng nhắc. Khi Ba Du Sinh bước vào phòng, Kim Thạc lại tỏ ra rất nghiêm chỉnh, “Na Lan chỉ được đứng ngoài nhìn, cấm không được tự ý hành động.”
Na Lan nói ngay, “Được đứng ngoài xem, là thỏa mãn rồi.”
Bên trong ô cửa sổ là phòng thẩm vấn chật chội, ngột ngạt. Ngồi trước cái bàn kê chính giữa, là Trần Ngọc Đống bỗng nhhư già đi cả chục tuổi chỉ sau một đêm. Từ một cảnh sát kỳ cựu tràn đầy nhuệ khí vừa về hưu kkhông lâu, nay biến thành một ông già suuy sụp cả thể xác lẫn tinh thần, hai tay bị còng, run run đặt trên bàn.
Kim Thạc đẩy cửa bước vào, nói giọng sòng phẳng, đậm chất công việc, “Anh Đống, bình thường thì tôi sẽ bắt tay anh, nhưng lần này đành thất lễ vậy.” Rồi anh ngồi xuống, không chờ Trần Ngọc Đống mở miệng, anh hỏi luôn, “Anh có thể giải thích về bộ hài cốt không?” Chiến thuật tấn công nhanh.
Trần Ngọc Đống sửng sốt, “Hài cốt nào?” Bị cảnh sát ập vào nhà rồi giải đi, sau đó hai cốt của Phạm Tiểu Lâm mới bị khai quật, nên ông ta sửng sốt là phải.
Tiền đề là nếu ông ta thực sự không biết.
Kim Thạc rất giàu kinh nghiệm thẩm vấn, không giải thích nhiều, anh hỏi tiếp, “Trong chuỗi vụ án ‘ngón tay khăn máu’, anh làm mấy lần?”
Trần Ngọc Đống chống hai tay lên bàn, đứng dậy, “Cậu hỏi cái câu khốn khiếp gì thế này?”
“Anh là người có kinh nghiệm phỏng vấn, mong anh sẽ hợp tác.” Kim Thạc không hề tức giận.
“Tôi là người điều tra vụ ‘ngón tay khăn máu’, cho đến nay tôi chưa từng rời xa vụ án này.”
“Trong tâm lý học tội phạm, có nói về hiện tượng tâm lý biến dạng, người phá án nhập vai trở thành hung thủ, các ví dụ như thế không hiếm đâu.” Kim Thạc vẫn bình tĩnh. “Anh có chặt ngón tay và giết các cô gái trẻ không?”
Lần này thì Trần Ngọc Đống bình tĩnh trả lời, “Không.”
“Anh có đem cái xác nào về chôn dưới khóm hoa khu tập thể không?”
Trần Ngọc Đống hoảng sợ, “Thế này thì… Na Lan nói là đúng à? Dưới khóm hoa ngoaải cửa sổ nhà tôi có xác chết thật hay sao?”
Kim Thạc không trả lời.
Trần Ngọc Đống hiểu, sự im lặng đó là sự xác nhận, ông ta nghĩ một lúc rồi hỏi, “Kỹ thuận viên khám nghiệm hiện trường nói gì? Xác đã bị chôn ở đó bao lâu?”
“Họ đang phân tích. Anh cũng biết rồi, không ai có thể vừa nhìn thấy đã kết luận ngay được.” Kim Thạc ghi nốt câu cuối cùng vào sổ biên bản, rồi đứng lên, kết thúc cuộc thẩm vấn.
Tìm thấy xác Phạm Tiểu Lâm là một bước đột phá lớn, đồng thời cũng là một ngõ cụt.
Lúc Na Lan thức dậy, trời ngoài kia âm âm, không giúp cô nhận ra giờ giấc. Đồng hồ để bàn chỉ hơn 10 giờ sáng, cô đã ngủ hơn năm tiếng đồng hồ. Nửa đầu phía sau vẫn nhưng nhức, nhuuưng sự lo lắng bồn chồn vẫn choán hết tâm trí cô.
Có phải tất cả là do một mình Mễ Trị Văn đạo diễn không? Không! Lão bị bệnh tật trói chặt trên giường trong buồng bệnh nặng. Hung thủ thực sự thì đang chờ thời cơ gây án, hung thủ là ai? Cô gái bất hạnh nào sẽ là nạn nhân tiếp theo?
Không hiểu sao những câu nói cũa Trần Ngọc Đống trong phòng thẩm vấn vẫn đeo bám cô. Tại sao cần đưa ngón tay cho chuyên gia trinh sát hình sự quốc tế kiểm nghiệm? Để tìm những chi tiết mà mắt thường khó nhận ra. Hung thủ vụ “ngón tay khăn máu” dù là Mễ Trị Văn hay ai khác, dù không để lại cho công an nhiều manh mối nhưng không có nghĩa là không có manh mối gì.
Tại sao lại là các cô gái ấy? Hoàn toàn do lựa chọn ngẫu nhiên.
Các vụ án giết người hàng loạt đúng là có tính chất ngẫu nhiên, ví dụ giữa các nạn nhân không có mối liên quan gì, giữa các nạn nhân và hung thủ cũng có thể chỉ là ngẫu nhiên, nhưng thường là phải có một quy luật nhất định. Ví dụ một số vụ án giất người hàng loạt “nổi tiếng” trong lịch sử, vụ Jack the Ripper ở Anh quốc giết người hàng loạt cuối thế kỷ 19 hoặc vụ Ted Bundy ở Mỹ giết người hàng loạt từ 1973 đến 1978, các nữ nạn nhân có hoàn cảnh và quá trình sống tương tự nhau.
Các nạn nhân đều là nữ.
Tên của nữ giới nghe mong manh yếu đuối. Na Lan vốn rất ghét cái lối nói vơ đũa cả nắm, cô thậm chí cho rằng đa số tên của nữ giới là mạnh mẽ. Nhưng cô cũng công nhận rằng về thể lực thì nữ giới tthuộc “phái yế”, cho nên mới dễ trở thành đối tượng trong các vụ án mạng.
Nạn nhân trong vụ “ngón tay khăn máu” cũng không ngoại lệ. Na Lan nhớ đến các tấm ảnh cô đã xem, cô nào cũng có khuôn mặt dịu hiền và thân hình dong dỏng, mềm mại.
Cô chợt nghĩ, phải chăng đây là một quy luật chung, các cô gái này đều có khí chất nhu mì và ánh mắt hơi có nét u buồn.
Cô mở sổ tay, ghi họ tên các nạn nhân, Nghê Phượng Anh, Mã Vân, Tiết Hồng Yến, Quan Tinh, Điền Tú Cúc, Lý Vĩ Phần, Phạm Tiểu Lâm, Lư Bình, Dương Vi, Chu Kế Lôi, Đường Tĩnh Phương, Trương Lợi.
Na Lan đờ ra trước những ác tên.
Chẳng ro bao lâu sau, di động bỗng reo chuông. Một giọng khàn khàn, “Na Lan, tôi muốn nói chuyện với cô.”
Là Trần Ngọc Đống. Na Lan tỉnh táo trở lại, nói, “Vừa khéo, cháu cũng đang định gặp chú.”
Trần Ngọc Đống qua đêm ở Sở Công an, sáng nay sau một loạt xét hỏi kiểm tra ông ta được thả về, việc đầu tiên muốn làm là nói chuyện với Na Lan. Hai người vào một quán mỳ gần Sở, họ ngồi đối diện nhau.
Na Lan nói, “Chú ạ, cháu đã hiểu lầm chú, cháu xin lỗi. Cháu mới là người bị tẩu hỏa nhập ma.”
Vẻ mặt Trần Ngọc Đống đầy mệt mỏi, nhưng đôi mắt có thần, sắc sảo hơn hẳn lúc bắt đầu bị thẩm vấn tối qua, hình như sống một đêm “tù nhân dự bị” đã cho ông thêm năng lượng. Ông lắc đầu nói, “Đừng sớm kết luận vội. Chính tôi cũng chưa loại trừ khả năng mình là nghi phạm... tuy nhiên sự việc xảy ra khiến tôi hiểu rõ một điều.”
“Chắc hung thủ không phải là Mễ Trị Văn?”
“Điều này không ai dám lọau trừ, các kỹ thuật viên còn chư xác định cái xác ấy được chôn ở bồn hoa đó bao lâu. Rất có thể trườc khi bị vào tù lão đã bố trí cài bẫy tôi.”
“Là gì?”
“Vì tôi đã bắt nhầm người, bắt nhầm La Cường.”
Na Lan cau mày không hhiểu. Điều này đã kết luận từ lâu rồi mà? Nhưng cô lập tức hiểu ý Trần Ngọc Đống, các vụ án “ngón tay khăn máu” xảy ra sau khi xử tử La Cường vô tội, tội của hắn không đến mức phải tử hình. Na Lan gật đầu, cô hiểu tâm trạng của người cảnh sát kỳ cựu. Phải có lòng can đảm cộn với thời gian thì mới dám thừa nhận sơ xuất của mình. Nhưng cô vẫn hỏi, “Công an vẫn chưa có đủ chứng cứ kết luận rằng La Cường không liên quan đến vụ án mạng trước đó cơ mà?”
“Trái lại chứ! Khi xưa quy tội La Cường đã có không ít chứng cứ, nhưng lần này chúng ta biết xác của Phạm Tiểu Lâm bấy lâu bị chôn ở ngoài cửa sổ nhà tôi, đó là hung thủ chế giiễu tôi, là sự trừng phạt tôi vì tôi đã mắc sai lầm.”
“Có lý! Chú phân tích tâm lý rất chuyên nghiệp.”
“Tôi tiếp tục suy nghĩ, nhận ra điều này rồi thì có gì gợi mở ccho việc phá án không.”
“Chúng ta hiểu quá ít về hung thủ, chưa thể suy diễn về động cơ gây án, cách thu71c chọn đối tượng cảu y.”
“Cũng là một quan điểm.”
Na Lan hỏi, “Vậy cháu nên làm gì?”
Trần Ngọc Đống nghĩ ngợi, rồi nói, “Cháu nói trước xem. Cháu cũng đang muốn gặp tôi kia mà? Chắc không chỉ vì để xin lỗi?”
“Lúc đầu được anh Ba Du Sinh bố trí nhiệm vụ, cháu đã đọc toàn bộ hồ sơ về vụ án và hồ sơ về các cô gái nạn nhân, cháu quy nạp ra một nét chung, họ đều là thiếu nữ có nhan sắc.”
“Điều này phù hợp với quy luật phạm tội của bọn lưu manh. Khi xưa tôi từng đoán là tội phạm tình dục thậm chí ngờ rằng vết máu trên miếng vải là gái trinh bị cưỡng bức hoặc phụ nữ bị cưỡng bức thô bạo nên chảy máu. Nhưng về sau kết quả xét nghiệm cho thấy đó không phải máu có lẫn chất acid ở cơ quan sinh dục mà chỉ là máu bình thường, là máu ở ngón tay bị chặt.”
“Bấy lâu nay mệt mỏi vì câu đố của Mễ Trị Văn, cháu quên không nghĩ đến một số khâu quan trọng, ví dụ đặc điểm chung của các nạn nhân...”
“Tôi cũnng đã từng xem xét, phân tích về hoàn cảnh gia đình, tính cách của nạn nhân, họ rất khác nhau.”
Na Lan lấy cuốn sổ tay ra, chỉ vào một lô tên các nạn nhân, nói, “Chú nhìn xem có đặc điểm gì?”
“Đều là nạn nhân của vụ ‘ngón tay khăn máu’ à?”
“Ý cháu là, các tên này có đặc điểm gì chung?”
Trần Ngọc Đống đeo kính, nhìn thật kỹ một lúc, vẻ mặt có nét kinh hãi, ông lẩm bẩm, “Thì ra... trước kia tôi chưa từng đặt các họ tên này bên cạnh nhau để xem xét.”
“Chú nhận ra quy luật chứ?”
Ngón tay ông run run chỉ vào các chữ Hán. “Trong các chữ ghi tên đều có bộ Thảo! Này… sao cháu lại nghĩ ra được?”
“Theo tổng kết các vụ án xưa nay, bọn tội phaạm giết người hàng loạt đều có quy luật chung, dường như chúng bị gò theo một khuynh hướng. Trong chuỗi vụ án ‘ngón tay khăn máu’, ngoài các hiện tượng trực quan ra liệu có ẩn chứa một quy luật gì không? Giang Kinh có vô số phụ nữ, tại sao hung thủ lại chọn những cô gái này?”
“Vì tên bọn họ có bộ Thảo à?” Trần Ngọc Đống bỏ kính xuống, tay day hai bên thái dương. Từ nãy ông vẫn chưa cầm đũa, có lẽ bát mì đã quánh lại cả rồi.
Na Lan nói, “Tập hợp một số manh mối lại, chhúng ta có thể sơ bộ nhận ra đôi điều, trong các nạn nhân, chúng ta đã biết Nghê Phượng Anh thường bị vợ chồng người anh đánh mắng, Tiết Hồng Yến từng là bạn gái của La Cường và cũng từng bị hắn đánh đập. Ít ra hai cô gái này đều là nạn nhân của bạo lực gia đình. Bộ Thảo cũng có ngụ ý ẻo lả yếu ớt, cho nên chúng ta có thể đoán rằng mục tiêu mà hung thủ lựa chọn là các cô gái yếu ớt dễ bị bắt nạt.”
Trần Ngọc Đống lấm tấm mồ hôi, ông lẩm bẩm, “Xem ra trước kia điều tra đã bỏ qua một hướng đi rất quan trọng.”
“Đúng! Chúng ta nỗ lực khai thác rất kỹ về con người, trạng thái tinh thần của hung thủ nhưng lại chưa quan sát khung cảnh đằng sau các khía cạnh trực quan vế nạn nhân. Tìm hiểu nạn nhân, rất có thể là phương cách để biết rõ hung thủ.”
Trần Ngọc Đống gật đầu, “Tôi sẽ nói chuyện kỹ với Ba Du Sinh để thu thập thêm tư liệu về các nạn nhân, nhất là những ai đã từng bị ngược đãi.”
Na Lan nói, “Cháu sẽ tiếp tục nghiên cứu Mễ Trị Văn, giờ đây cháu càng thêm nghi ngờ lão có đồng bọn. Nếu đúng là thế thì giữa bọn họ phải có cách liên lạc đặc biệt gì đó. Các tiếp xúc trực tiếp trong tù đều bị ghi lại, còn lên mạng thì lại rất không tiện.”
Lúc này Trần Ngọc Đống mới đụng đến bát mỳ, ông nhận ra Na Lan vẫn ngồi yên, chưa có ý định đứng lên, cũng không gọi thêm món ăn.
“Còn vấn đề gì nữa à?”
“Đội trưởng Ba Du Sinh bị cách li khỏi vụ án này, cháu đã hơi đoán ra, và muốn hỏi thêm chú cho rõ.”
“Cháu đoán đúng đấy, nó liên quan đến vụ án bạn gái cậu ấy mất tích khi đang thực tập ở Giang Kinh. Nếu không vì chuyện này thì cậu ấy đã không học ngành cảnh sát và cũng không nằng nặc đề nghị được phân công về Giang Kinh. Cậu ấy cũng như tôi, luôn rất quan tâm đến vụ ‘ngón tay khăn máu’. Đây cũng là một nguyên nhân quan trọng. Có điềum, bạn gái cậu ấy không chính thức được coi là nạn nhân của vụ ‘ngón tay khăn máu’, vì xưa nay chưa có ai nhận được ngón tay của cô ấy bao giờ.”
“Còn gì nữa ạ?”
Trần Ngọc Đống hít vào, “Bạn gái cậu ấy tên là Văn Nhược Phi.”
Chương 28: MỸ NHÂN TRONG SÁCH
Trại giam phường Giang Thành chuyên giam giữ các tội phạm hình sự nghiêm trọng. Cách đây hai năm Na Lan làm luận văn tốt nghiệp, nội dung chủ yếu là đến đây phỏng vấn tìm hiểu các tội phạm hình sự, sau đó quy nạp các đặc điểm chung về tâm lý tội phạm hình sự. Cô không ngờ hai năm sau số phận xô đẩy cô trở lại chốn ma quỷ này.
Sau khi Na Lan báo cáo với Sở Công an những phân tích của mình về các nạn nhân trong vụ án “ngón tay khăn máu”, Kim Thạc miễn cưỡng cử người đi điều tra về hoàn cảnh các nạn nhân ấy, đặc biệt là những cô có dấu hiệu bị bạo lực gia đình. Na Lan lại gạ xin được Kim Thạc cấp cho tờ giấy giới thiệu với chữ ký cấp trưởng phòng Bộ Công an hẳn hoi. Nó là quân át chủ bài giúp cô vào trại giam phường Giang Thành “mái nhà xưa” của Mễ Trị Văn.
Mễ Trị Văn vẫn là mục tiêu mà Na Lan tuyệt đối không thể gác sang một bên.
Giả sử lão chỉ là cái loa truyền thanh của hung thủ vụ án “ngón tay khăn máu”, giả sử đúng như lão nói vụ án sẽ còn tiếp diễn, thì kẻ gây án vẫn đang sống nhởn nhơ. Vấn đề là hung thủ liên lạc với Mễ Trị Văn bằng cách nào? Sau khi lão được ra bệnh viện dân sự điều trị, buồng bệnh luôn có công an giám sát, việc tiếp xúc giữa lão và các bác sĩ y tá đều được theo dõi cẩn thận, khó mà hình dung hung thủ có thể giao lưu với lão trong buồng bệnh. Vậy thì mọi liên lạc đều xảy ra trước khi lão được ra ngoài điều trị, tức là xảy ra trong nhà tù.
Có hay không, một kẻ “bên ngoài” đã thông tin liên lạc với Mễ Trị Văn?
Khi lão bắt đầu mở miệng nói đến vụ “ngón tay khăn máu”, Ba Du Sinh đã lọc lấy hết các ghi chép về những cuộc viếng thăm Mễ Trị Văn trong nhà tù.
Không có ai. Lão là một cô hồn không thân thích không bạn bè. Không có người ngoài nào tiếp xúx cả.
Hay là, có kẻ trong nhà tù?
Một phạm nhân cùng bị giam với Mễ Trị Văn chăảng hạn, bị bắt vvì một tội danh khác, và chẳng ai ngờ đó lại là hung thủ vụ án “ngón tay khăn máu” kéo dài ba mươi năm chấn động Giang Kinh. Và trước khi được thả, ông bạn này đã cùng Mễ Trị Văn thiết kế ra trò chơi bệnh hoạn táng tận lương tâm.
Rất có khả năng đó.
Tronng tù kẻ gần gũi nhất với Mễ Trị Văn chì có thể là phạm nhân ở cùng buồng giam, tkq, cũng laà tội phạm cưỡng dâm. Đội Trinh sát Hình sự kkhi đến điều tra Mễ Trị Văn và vụ “ngón tay khăn máu” đã thẩm vấn tên Quân, nhưng hắn không đưa ra một manh mối nào có giá trị. Mễ Trị Văn ốm yếu, nằm ở khu giám sát số 4 dành chho cácc phạm nhân lâu ngày, tkq cũng vậy, cũng mắc bệnh tiểu đường như Mễ Trị Văn.
Hình như vừa được giải ra từ gian nhà xưởng, nên tkkq vẫn còn mặc nguyên đồ bảo hộ lao động, tay vẫn dính dầu máy. Nhìn thấy Na Lan, hắn sững sờ, rồi cười nói với cán bộ quản giáo đi phía sau, “Một em xinh thế này đến chơi thì các vị nên bố trí ‘phòng thăm đặc biệt’ chứ? Tôi chưa từng đuoợc hưởng vinh dự đó.”
Viên quản giáo cười nhạt, “Đừng viển vông nữa! Vào ‘phòng thăm đặc biệt’ thì người nhà phải trả phí tổn, mày có người nhà không?”
Tkqq chỉ Na Lan, “Cô ấy không phải người nhà hay sao?” Hắn trạc ba mươi tuổi, vóc người tầm thước, mặt dài, mắt nhỏ. Có lẽ vì ác cảm sẵn có nên Na Lan thấy điệu cười của hắn rất khốn kiếp..
Cô nói, “Lát nữa sẽ nói đến chuyện người nhà.”
Hắn lại sửng sốt, ngoảnh nhìn viên quản giáo và đắc ý nói, “Nghe thấy chưa?” Rồi hắn hỏi Na Lan, “Cô em đem vào cho anh món gì?”
“Mễ Trị Văn!” Na Lan nói.
Mặt tkq lập tức chảy dài. “Lão già bệnh hoạn ấy... chưa chết à?”
Na Lan đáp, “Lão vẫn sống nhăn răng, có liên quan đến một vụ án khác. Tôi muốn gặp anh để hỏi vài vấn đề.”
Tkq lại cười, “Nếu cô cùng tôi vào phòng thăm đặc biệt để tận hưởng không khí gia đình đầm ấm, tôi sẽ nói cho cô biết tất.”
Viên quản giáo quát to, “Này, mày muốn bị ghi lỗi phải không?”
“Tôi nên gọi cô là gì?” tkq hỏi Na Lan.
“Tôi là Na Lan.”
Hắn bỗng mở to mắt, nghệt mặt ra một lúc, rồi nói, “Tôi có nghe bọn họ nhắc đến cô, ngày trước cô từng vào đây điều tra đúng không? Họ nói cô rất xinh, quả là không sai.”
“tkq!” Viên quản giáo lại quát.
Na Lan nói, “Sở Công an cử tôi đến hỏi vài câu, mong anh sẽ hợp tác.”
“Có được giảm án tù không?”
Trước đó Na Lan đã điều tra, tkq nhiều lần phạm tội cưỡng dâm và “được việc” chứ không như Mễ Trị Văn. Hắn bị kết án tù chung thân cho nên khả năng được trả tự do gần như bằng không. Cô nói, “Tôi quyết định sao được? E rằng điều này rất khó.”
Tkq cười nhạt, “Thật ra tôi biết rất ít về Mễ Trị Văn, lão mắc bệnh tâm thần, nói năng lẩm cẩm, nên tôi chẳng để ý làm gì.”
Na Lan nhận ra ẩn ý của hắn, nếu không hứa sẽ giảm án thì hắn không hợp tác. Điều này cô đã lường trước rồi. Bèn cười nói, “Mễ Trị Văn chỉ còn thoi thóp, so với lão, anh vẫn sướng hơn nhiều.”
“Nếu được tha sớm mấy năm, tôi sẽ sướng hơn nữa.” Hắn liếc nhìn Na Lan. “Giá được sống đầm ấm với người đẹp như cô thì tôi quá hạnh phúc!”
Na Lan đâm ra ghê tởm, nỗi căm phẫn giống lần đâàu gặp Mễ Trị Văn lại dâng lên trong cô, nhưng cô phải nhanh chóng chế ngự để tỏ ra “chuyên nghiệp” một chút. Cô bình thản nói, “Anh sướng hơn lão vì anh còn có gia đình và người thân, chứ lão ta thực sự là kẻ đơn độc.”
Sắc mặt tkq hơi biến đổi, hắn nín lặng.
“Tôi được biết anh vẫn còn ba mẹ, một chị gái, đứa con chị ấy rất mến anh. Đúng là rất sướng.” Na Lan tiếp tục quan sát vẻ mặt càng lúc càng mất tự nhiên của hắn. “Chắc là anh được nhiều người vào thăm?”
Tkq buột miệng, “Đương nhiên...” Nhưng nhận ra ngay là mình bị hớ, mặt hắn càng nhăn nhó.
“Tôi đã xe sổ ghi chép, đúng là có rất nhiều... nhiều lần không có ai!” Na Lan cố nói thật tự nhiên, không pha ý châm biếm.
“Chuyện vặt! Vậy cô muốn gì?” Hắn đứng thẳng lưng lên, mặt đỏ gay.
Na Lan nói, “Trong hai năm qua đã năm lần anh đề nghị cho người nhà vào thăm, anh cũng liên lạc với người nhà nhưng họ không vào. Chắc anh thừa hiểu mình không phải một thành viên đáng tự hào của gia đình, đủ để bà mẹ già và đứa cháu phải đi qua mấy lần cửa sắt vào thăm một gã trọc đầu. Hoặc là họ chưa đủ lòng nhân từ.”
Tkq nhoài người tới trước định túm cổ áo Na Lan, nhưng lập tức bị viên quản giáo kéo giật lại.
Na Lan vẫn ngồi, ngồi đàng hoàng, nhẹ nhàng nói, “Nhưng họ vẫn thương anh.”
Ánh mắt hắn bỗng nhạt nhòa. “Cô nói gì? Cô đã biết những gì?”
“Tôi bbiết họ vẫn thương anh. Bà mẹ, đứa cháu, đều rất nhớ anh.” Na Lan đưa ra cái phong bì. “Thư của mẹ anh. Tranh vẽ của cháu anh. Ảnh chụp chung cả nhà, ảnh của cháu aanh nữa.”
“Cô chặn thư riêng của tôi là vi phạm pháp luật!” Vẫn bị viên quản giáo ghìm chặt hai cánh tay, tkq thở hồng hộc.
Na Lan giơ phong bì trước mặt hắn, “Nhìn đi phong bì trắng trơn, không gửi cho anh, mà là tôi đòi cầm vào cho anh... Họ vẫn muốn làm nhưng không đủu can đảm. Tôi chỉ làm giúp họ và giúp anh thôi. Và tôi cũng có thể sẽ cầm về trả lại họ.”
“Cô ép buộc tôi hả?”
Na Lan thản nhiên, “Nếu anh có ý hợp tác ngay từ đầu thì tôi đã đưa cho anh rồi, đâu cần phải thế này?”
Tkq ngồi rũ trên ghế, vùi đầu vào cánh tay. Hồi lâu mới nói, “Được, cô hỏi đi!”
“Khi ở trong tù, Mễ Trị Văn có thân với ai không?”
“Có.”
“Ai?”
“Còn ai nữa? Chỉ có thể là tôi! Hai chúng tôi ở cùng buồng giam tối tăm, thân đến nnỗi quen cả mùi hôi của nhau.”
Na Lan thở dài, “Tôi muốn hỏi là lão hay trao đổi trò chuyện cùng ai nhất?”
“Trao đổi? Cô nói lão là kẻ độc thân đấy thôi? Lão già tâm thân suốt ngày nói năng bát nháo, hễ gặp ai là túm lấy họ để nói chuyện học thuật, tự xưng mình là Thương Hiệt tạo chữ, sẽ phát minh ra một hệ thống văn tự làm thay đổi cả văn hóa Trung Quốc. Ai thèm bắt chuyện với lão làm gì!”
“Anh thử nghĩ xem con người lão có gì kỳ lạ, khiến anh phải chú ý không?”
“Con người lão? Là bộ xương khô, có cái quái gì đáng chú ý? Tôi đâu phải gay...”
Na Lan đập vào cái phong bì. “Nên nghiêm chỉnh đi, hãy nhớ lại xem có hành vi, lời nói hoặc bất cứ điểm gì của lão ta đáng ngờ?”
Tkq nhìn cái phong bì, nghiêng đầu nghĩ ngợi một lúc rồi nói, “Lão thích đọc sách.”
“Tiếp tục!”
“Tôi nhớ đến một điều đáng ngờ. Khi tôi vào đây thì lão đã có một số cuốn sách, về sau tôi thấy sách của lão ngày càng nhiều lên. Không ai vào thăm, không quản giáo nào chuyển cho lão bưu phẩm hay chuyển phát nhanh, thhì sách ở đâu ra?”
Na Lan cảm thấy manh mối này của tkqq có giá trị, cô hỏi, “Anh quan sát thấy gì?”
“Mễ Trị Văn là con bệnh, cứ cách ít hôm lại ra trạm xá xin khám bệnh, lúc đi tay không, lúc về thì cầm vài cuốn sách.”
“Là những sách gì?”
“Cổ văn, như Sơn hải kinh, hoặc sách nhạc cổ...”
Na Lan nhớ đến chồng sách của Mễ Trị Văn đặt trên cái tủ đầu giường bệnh. Cô hỏi, “Lão có cả thảy bao nhiêu cuốn sách?”
Tkq ngẫm nghĩ. “Rất nhiều, khoảng gần trăm cuốn cả giày lẫn mỏng.”
“Đang để ở đâu?”
“Trên giường của lão. Xưa nay vẫn chất ở đó. Người lão còm nhom, ngủ chung với sách càng ấm!”
Na Lan bật cười. Cô hỏi viên quản giáo, “Phiền anh nhét đống sách ấy vào thhùng cac tông, cho tôi mượn cầm về phòng Chứng cứ, được chứ?”
Tiếp đó, Na Lan đến bệnh viện trung tâm của Sở Quản lý Nhà tù, ở khá gần trại giam phường Giang Thành, đi bộ hơn mười phút là đến nơi. Trước cửa khám bệnh tấp nập chẳng kém gì bệnh viện ở các nơi khác, có một số xe chuyên dụng của nhà tù ở các địa phương lân cận đỗ bên cạnh. Na Lan chờ một lúc, chho đến khi thấy một chiếc xe cua3 trại giam nữ phạm nhân thành phố Du Xuân chạy vào cổng viện.
Bốn cảnh sát áp giải hơn chục nữ phạm nhân mặc quần áo tù xuống xe, họ đi khám bệnh tập thể. Na Lan bước theo đoàn người, cô quan sát khung cảnh xum quanh. Họ đăng ký xong thì chia làm ba nhóm, một cảnh sát phụ trách chung.
Các nhân viên y tế tiếp tục đi qua đi lại, ngoài phạm nhân còn có một số cảnh sát cũng đến khám bệnh. Na Lan hình dung, giả sử lúc này có ai đó dúi cho phạm nhân cuốn sách, chưa chắc cảnh sát áp giải đã phát hiện ra. Nếu có người để lại cuốn sách trên ghế ngồi chờ khám bệnh, sau đó Mễ Trị Văn cầm lên nhét vào áo, cảnh sát cũng không biết.
Còn cả việc tiếp xúc với bác sĩ, y tá... Nếu trong số họ có kẻ đồng mưu thì kẻ đó hoàn toàn có thể đưa sách cho Mễ Trị Văn.
Có lẽ đứng đâu đây để tìm xem sách của Mễ Trị Văn ở đâu ra, thì cchẳng khác gì mò kim đáy biển hoặc chí ít, cũng khó có khả năng lần tìm cho nhanh được việc.
Không nán lại ở bệnh viện nội bộ này nữa, Na Lan lên xe trở về Sở Công an.
Đống “tàng thư” của Mễ Trị Văn được đưa về phòng Chứng cứ của Sở. Lúc Na Lan đến nơi thì Kim Thạc đang đứng bên bàn nhìn ba thùng chất đầy sách.
“Những thứ bát nháo gì thế này? Sao lại chở về phòng Chứng cứ?” Kim Thạc hỏi Na Lan.
“Đều là sách của Mễ Trị Văn. Tôi nghĩ, nên coi đồ vật của lão là chứng cứ.”
“Chứng cứ thì phải để kiểm tra kiểm nghiệm, chứ hàng trăm cuốn sách thì tiến hành kiểu gì?”
Na Lan cười, “Cứ giao cho tôi!”
Kim Thạc hỏi, “Nên đọc như thế nào, cô dạy tôi đi, tôi sẽ làm phhụ tá cho?”
Na Lan thầm thở dài, lúc này mà aanh ta vẫn… Cô đành nói, “Thật ra cũng chẳng thành hhệ thống gì, ta chỉ xem xem có ký hiệu nào đáng ngờ hoặc có ghi chú gì không.” Cô bỗng cảm thấy lạ, Kim Thạc là cao thủ có chục năm kinh nghiệm về hình sự, hình như anh ta đang giả bộ ngớ ngẩn.
Kim Thạc bắt đầu giở xem, Na Lan cảm thấy mất tự nhiên nhưng vẫn chăm chú vào đống sách. May sao di động đổ chuông, Kim Thạc “nuối tiếc” đi ra ngoài để nghe máy.
Na Lan lập tức tăng tốc.
Tàng thư của Mễ Trị Văn già nua cũng na ná như kho sách dưới hố sâu của Mễ Trị Văn hồi trẻ, thoạt nhìn thấy hoa cả mắt, thật ra chủ yếu là sách về nghệ thuật, gần như không có tiểu thuyết. Có những cuốn nhạc cổ, sách tham khhảo về văn tự cổ, còn lại là rất nhiều sách về âm nhạc, mỹ thuật, văn hóa cổ… Na Lan chú ý xem mấy cuốn bút ký văn học có rất nhiều câu chú thích, nhận ra những dòng chữu li ti này là bút tích của Mễ Trị Văn, nét chữ mảnh mai nhẹ nhõm thậm chí bay bướm. Cô thử đọc vài đoạn, toàn là những câu trầm trồ tán dương văn chương và đánh giá về tác giả.
Na Lan xem, chủ yếu muốn tìm bút tích của một “kẻ khác”, tìm những câu chữ khả nghi, thể hiện “người đưa sách” và Mễ Trị Văn giao lưu với nhau. Tiếc rằng giả thiết của cô không được chứng minh, ba giờ đồng hồ trôi qua, trời sắp tối đến nơi mà cô không tìm thấy một điều gì khác thường.
Bụng đói đang o o réo sôi. Na Lan đứng lên nhìn ra ngoài cửa sổ âm u rồi quay lại nhìn ba cái thùng đã moi hết sách ra. Hai cuốn dày nhất là hai tập của bộ từ điển Từ nguyên do Thương vụ Ẩn thư quán tái bản năm 2009, đóng bìa rất đẹp.
Chắc đây là vũ khí sắc bén để “đại sư Thương Hiệt” tạo ra chữ mới! Từ nguyên và Thuyết văn giải tự là hai bộ sách tham khảo rất đầy đủ viết về cách thức tạo chữ Hán, nhất là tập I Từ nguyên, tuy là bản in mới nhưng các dấu vết cho thấy chủ nhân đã 3 nhân đã mở đọc vô số lần, có vài trang hơi quanh góc.
Na Lan đặt ngón tay vào lề trang từ điển, tưởng tượng xem Mễ Trị Văn giở sách như thế nào, tìm những chỗ lão thường tra cứu. Ngón tay cô dường như cảm nhận ra vài chỗ hơi lõm của tệp giấy, chắc đây là vùng thường xuyên bị mở ra xem. Cô tỳ ngón tay vào đó và lật mở.
Chỉ là một trang bình thường với các mục từ, không có gì cài ở trang này. Cô khẽ thở dài ngán ngẩm, miết ngón tay lên trang sách như muốn cảm nhận ra thứ đang ẩn giấu bên trong.
Một động tác gần như hết hy vọng, ý nghĩ này quá xa vời.
Nhưng đầu ngón tay cảm thấy là lạ!
Có gì đó cưng cứng gợn lên ở chính giữa trang sách. Trang này thì rất bình thường, Na Lan giở thêm hai ba trang sau. Đến trang thứ tư thì thấy một tấm ảnh màu nho nhỏ đặt trên trang sách in đầy chữ Hán kkhô khan. Ảnh một người đẹp tuyệt trần. Đổng Bội Luân!
Là nạn nhân bị Mễ Trị Văn xâm hại tình dục, là cô gái bất cẩn trót yêu kẻ ác ma!
Nhìn kỹ, thấy ô giấy in chữ bên dưới tấm ảnh đã bị rạch bỏ, tấm ảnh như được “gắn chìm” vào tờ giấy. Tức là Mễ Trị Văn lo rằng nếu chỉ kẹp vào thôi thì ảnh rất dễ bị rơi ra thất laạc.
Lão không muố quên con người bị lão làm hại.
Na Lan nhớ đến câu nói của Đổng Bội Luân, nếu Mễ Trị Văn có cơ hội được tự do thì việc đầu tiên lão làm là tìm Đổng Bội Luân để hoàn tất phần việc dang dở.
Xâm hại tình dục, tàn sát.
Không chỉ có một cô gái bị lão xâm hại.
Na Lan gấp cuốn Từ nguyên lại, rồi lại tì ngón tay vào chỗ hơi lõm lúc nãy ở mép tập sách, phía dưới một chút và lại thấy một dấu hiệu tương tự. Cô giở chỗ đó ra, cũng là một trang sách bình thường nhưng gắn tấm ảnh của một cô gái khác.
Na Lan không biết cô gái trẻ này là ai, nhưng nhìn kiểu tóc và trang phục, đoán rằng tấm ảnh này chụp vào những năm 90 của thế kỷ trước.
Tiếp tục giở sách, lại thấy ảnh của một cô gái xa lạ. Tờ phía sau là một cô gái đang đứng trước khóm hoa cẩm chướng, xa xa phía sau bồn hoa là cổng một trường học, treo tấm biển Đại học Kinh tế Tài chính Giang Kinh.
Có thể đoán ra đây là Vu Ninh. Vu Ninh từng học Đại học Kinh tế tài chính Giang Kinh.
Tấm ảnh tiếp theo nữa cũng là một thiếu nữ xa lạ.
Giở đến tấm ảnh cuối cùng, thì Na Lan giật mình!
Chương 29: DÌ TƯ
Tấm ảnh đen trắng, cô gái mặc bộ váy trắng, vừa e lệ vừa có nét u buồn đang nhhìn xa xa. Trông quen quen! Na Lan nhìn kỹ và nghĩ ngợi. Trông có vài nét hao hao cô gái trong bức tranh sơn dầu treo ở thư phòng của Sở Hoài Sơn, cũng tức là hao hao mẹ anh.
Vì người này là em gái của mẹ Sở Hoài Sơn.
Là dì tư của anh!
Na Lan bấm chuông cửa nhà họ Sở, lúc này đã quá 8 giờ rưỡi tối. Đứng dưới mái hiên che những hạt mưa phùn lắc rắc rơi, Na Lan nghe thấy rất rõ tiếng bước chân vội vã xuống cầu thang chứ không chầm chậm như trước đây. Chắc chắn không phải dì Tư.
Sở Hoài Sơn ra mở cửa cho cô. Ánh sáng trong nhà hơi yếu nhưng vẫn soi tỏ vẻ mặt lo lắng của anh. Câu đầu tiên Na Lan hỏi là, “Anh có biết chơi cổ cầm không?”
“Cổ cầm?” Sở Hoài Sơn ngớ ra, nét mặt lo âu bỗng chuyển thành e thẹn. “Cô đừng hiểu lầm. Tôi chỉ biết chơi cello, kèn cor, kèn clarinet, không biết chơi cổ cầm. Nhưng đặt nó ở thư phòng, cũng không phải vì, bày cho sang…”
“Dì tư của anh biết chơi cổ cầm, đúng không?”
Sở Hoài Sơn ngạc nhiên, “Sao... cô biết?”
Na Lan hỏi, “Dì Tư đâu? Dì ấy đang ở đâu?”
Sắc mặt Sở Hoài Sơn lại trở nên lo lắng, Na Lan hiểu ra ngay. “Chắc chắn là đi đâu đó?”
Sở Hoài Sơn gật đầu, “Lạ thật đấy! Mọi ngày dì ấy hay ra ngoài nhưng buổi tối thì rất hiếm. Hôm nay đi đến giờ vẫn chưa về.”
Cô biết anh mắc chứng sợ đám đông, không dám ra ngoài. Những người như anh ở nhà quanh năm, thường có tâm lý dựa dẫm vào người thân vẫn chăm sóc mình, hễ vắng họ thì sẽ vô cùng lo lắng bất an. 8 giờ 30 tối, với những ai ưa sống về đêm thì chỉ như lúc bình minh, nhưng với Sở Hoài Sơn thì đã khuya lắm rồi.
“Anh đừng lo lắng.” Na Lan an ủi. “Chúng ta sẽ nghĩ cách.”
“Gọi điện, thì không nghe máy.” Trán lấm tấm mồ hôi, anh liên tục đi đi lại lại ở hành lang.
Thử thăm dò xem Sở Hoài Sơn lệ thuộc vào dì Tư đến mức nào, Na Lan hỏi, “Dì Tư chăm sóc anh bao lâu rồi?”
“Kể từ khi mẹ tôi qua đời, đến nay... ba mươi năm rồi.” Anh nhìn Na Lan, thấy khó hiểu, hỏi câu này thì liên quan gì đến việc đi tìm dì Tư?
“Dì ấy họ tên là gì?” Na Lan đang cố nhớ lại những tiền sự về Mễ Trị Văn.
“Sở Hoan.”
Trong các hồ sơ bệnh án của lão dù ghi tên người thì đều là đã thay tên khác. Tiền sự phạm tội lại càng không có tên sh.
“Dì ấy chăm sóc anh suốt, thì nguồn kinh tế là gì?”
“Ngày trước ông ngoại tôi để lại tài sản, nhuận bút, lợi nhuận phát sinh từ tác phẩm, dì Tư trước kia đi làm cũng có ttích lũy, ít thôi... hồi đó dì ấy làm y tá.”
Hình như có trận cuồng phong tạt vào đầu óc Na Lan, cô bỗng hiểu ra rất nhiều điều.
“Có lẽ tôi biết dì ấy đang ở đâu.” Na Lan xoay người bước ra cửa, nhưng lại ngoảnh lại nói, “Anh đi cùng tôi được không?”
Sở Hoài Sơn bước theo cô ngay lập tức, “Không có dì Tư thì không có tôi. Cô nghĩ mà xem…”
Trong một gian ở khu buồng bệnh nặng, nhân viên y tế đi lại như con thoi, họ đang cấp cứu cho một bệnh nhân. Nhìn cảnh tượng này Na Lan thấy lòng trĩu xuống, lẽ nào Mễ Trị Văn đang mấp mé ở bờ vực? Cô bỗng thấy hẫng hụt như “nuối tiếc”, còn quá nhiều vấn đề lão già cổ quái này chưa chịu hé răng, mà đã triệt để ngậm miệng hay sao?
Sở Hoài Sơn run rẩy khi nhìn thấy đám đông. Na Lan dăn anh chờ ở phòng làm việc của y tá.
Một cảnh sát mặc thường phục bước lại nói với Na Lan, “Đừng lo. Không phải Mễ Trị Văn. Hai hôm naay lão vẫn hôn mê nhưng chưa phải là sắp tiêu đời đâu! Là một bệnh nhân khác, có lẽ không thể qua nổi đêm nay.”
Na Lan vẫn không thấy tâm trạng nhẹ nhõm hơn, cô đẩy cửa buồng bước vào.
Một mé buồng buông tấm rèm xanh, bên trong vọng ra tiếng nói cố nén và tiếng lách cách của thiết bị, họ đang cấp cứu. Căn buồng còn có hai giường nữa, im ắng, âm âm tối. Bên cạnh giường Mễ Trị Văn kê chính giữa, có một nữ y tá đang đứng, áo blue trắng như nhòa vào mảng tường trắng phía sau đầu giường, đứng xa nhìn chhỉ thấy một cái bóng lờ mờ như bóng ma hoặc như làn khói.
Như các đêm bình thường, sẽ chẳnng ai chú ý đến cô y tá đứng đó, đêm nay đang có ca cấp cứu thì lại càng không ai để ý.
Na Lan bước đến phía sau cô ta, cô ta đang chăm chú nhìn bệnh nhân héo khô nằm trên giường, không hề biết Na Lan bước lại gần.
“Những cuốn sách kia bà đưa cho ông ta như thế nào? Tự mình đem vào bệnh viện nhà tù gửi cho ông ta hay là nhờ bạn bà là y tá? Có lẽ người ấy cũng đang làm việc trong bệnh viện nhà tù?”
Cô y tá sửng sốt quay đầu lại,, mặt đeo khẩu trang. Tuy đứng ở chỗ ít ánh sáng, Na Lan vẫn nhận ra đó là dì Tư.
“Đưa như thế nào? Thì có vấn đề gì? Cô yên tâm, bên trong không có âm mưu, không hướng dẫn vượt ngục cũng không có ‘ngón tay khăn máu’.” Dì Tư lạnh lùng nói.
“Hình như bà không hề kinh ngạc vì bí mật nho nhỏ của mình đã bị bóc trần?”
Dì Tư “hừ” một tiếng khinh thường, “Có cần tôi cất cao giọng tán dương cô thông minh không? Cô và Sở Hoài Sơn đều là hạng ngớ ngẩn nhưng hai cái đầu xúm lại thì sớm muộn gì cũng biết đôi điều về quá khứ của tôi.”
“Bà cũng là người bị Mễ Trị Văn xâm hại, lẽ nào bà không hận lão?”
“Chỉ những ai không hiểu ông ấy thì mới hận ông ấy!” Dì Tư cố nén để không nói to. “Nếu cô hiểu ông ấy hồi nhỏ đã phải trải qua những gì thì hận ông ấy sao được?”
Na Lan lắc đầu, “Tôi nghĩ mình đã biết rất nhiều về hồi ông ta còn nhỏ, ông ta không có lý do gì để tàn hại phụ nữ cả!”
“Cô không hiểu thật hay là cô không chịu tin? Moỗi khi được phụ nữ để mắt đến thì ông ấy lại tỏ ra xấu xa bẩn thỉu để xua hhọ đi. Cô không nhận ra à? Ông ấy biết cái ác trong con người mình có thể bùng phát bất cứ lúc nào và sẽ làm tổn thương các cô gái đó! Người hiểu, như tôi chẳng hạn, tôi sẽ bỏ đi, tránh xa, và thầm nhớ về ông ấy. Ai ngoan cố không hiểu, như bà giám đốc kia và cô gái ngày trước tự sát... thì họ cứ lao vào, hậu quả là bị tổn thương! Cô thích nghiên cứu tội phạm thì cô hãy nghĩ kỹ xem, cô đã nghe nói về các vụ cưỡng dâm ‘bất thành’ rồi chứ? Một con người như thế này mà lại trở thành hung thủ của các vụ bắt cóc giết người ư?”
Na Lan bỗng thấy bí, không biết nói sao.
Dì Tư nói không phải không có lý.
Có llẽ dì Tư là người duy nhất nhìn nhận mọi sự việc từ căn nguyên sự tàn độc của Mễ Trị Văn.
“Ý bà là, Mễ Trị Văn kkhông phải hung thủ của các vụ ‘ngón tay khăn máu’?” Na Lan khẽ hỏi, dù đã biết câu trả lời. “Nhưng tại sao ông ta lại biết những nơi chôn xác họ?”
Dì Tư đáp, “Tất nhiên là người khác nói với ông ấy. Ví dụ, trong nhà tù phường Giang Thành. Nhà tù là nơi cải tạo con người nhưng đôi khi cũng là nơi hại người.”
Na Lan lắc đầu, “Đó là nơi chuyên giam giữ bọn tội phạm hình sự nghiêm trọng, đã vào rồi thì hiếm có người được ra. Những ai được phóng thích trong mấy năm qua đều đã được loại trừ khỏi diện tình nghi. Vậy tại sao Mễ Trị Văn lại nói vụ án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp diễn?”
“Tìm hiểu, hiểu rõ, thoông cảm với ông ấy không có nghĩa là câu gì ông ấy nói ra cũng đều đáng tin.”
“Dì Tư!” Phía sau hai người bỗng có tiếng gọi.
Chắc là Sở Hoài Sơn chờ ở phòng y tá quá sốt ruột bèn chạy vào, nhưng anh gần như sắp ngã quỵ.
Dì Tư tức giận nhìn Na Lan, rồi chạy đến đỡ Sở Hoài Sơn, “Kìa Hoài Sơn!” Dì Tư lại lườm Na Lan, “Cô không biết tình trạng của nó hay sao? Tại sao muộn thế này rồi còn dẫn nó ra? Kể từ lần đầu cô đến nhà, tôi biết cô sẽ hủy hoại đời nó! Cô laà hạng người chỉ cần đạt được mục đích và bất chấp sự hy sinh của người khác!”
Sở Hoài Sơn thở dốc, “Tại cháu, muốn đến, chứ không phải tại cô ấy.”
Na Lan nói, “Mấy hôm trước, chính bà đã bám theo tôi! Hai lần tôi bị ngất và gặp nguy hiểm, bà đều ở đằng sau nhìn thấy rồi báo cho Sở Hoài Sơn biết! Khi tôi bị ngất bên bờ sông Thanh An, bà đã đặt tôi đầu chúi xuống chân dốc lên, để cho máu dễ lưu thông đến não bộ! Vì là y tá nên bà có kinh nghiệm...”
Dì Tư lạnh lùng, “Khỏi cần cảm ơn! Chỉ là thói quen của tôi thôi. Vẫn nên tính công cô đã đưa Hoài Sơn đến Đại học Giang Kinh chứ gì? Có biết không, suốt bao năm qua, đó là lần đầu tiên nó xa tôi, theo người khác ra ngoài!” Dì Tư lại nhìn Sở Hoài Sơn đang tái nhợt.
Một ham muốn chiếm hữu như gà mẹ che chở gà con, tuyệt chiêu mẹ chồng đối với nàng dâu, không ngờ lại nảy ra tronng hoàn cảnh này!
Na Lan cố gắng trấn tĩnh, nhẹ nhàng nói, “Không ai có thể thay thế được bà về măặt tận tình chu đáo chăm sóc anh Hoài Sơn. Tôi chỉ vì nghiệp vụ, muốn thử động viên anh ấy ra ngoài tiếp xúc với xã hội, làm dịu bớt tâm trạng sợ hãi đối với môi trường. Có lẽ tôi đã hơi hấp tấp. Nên từ từ thử làm lại thì hơn.”
“Miễn cho đi!” Dì Tư liên tục xua tay. “Đừng có thử lại nữa! Cô có nghĩ rằng cô tự cho mình là hay ho, để nó tiếp xúc với bên ngoài sẽ khiến cuộc sống yên tĩnh của nó bị phá vỡ không?”
Na Lan im lặng.
“Kìa dì Tư!” Sở Hoài Sơn tức giận ra mặt. “Dì nói thế, là khhông tốt!”
Sở Hoài Sơn nặng lời nhất, cũng chỉ nói “không tốt” là cùng.
Dì Tư mở to mắt nhìn Sở Hoài Sơn, hình như không tin rằng anh ta lại ăn nói như thế. “Sao... cháu lại nói năng với dì kiểu này? Đã mọc cánh bay xa được rồi chắc? Tự cho rằng mình có thể đi khỏi nhà và tách khỏi dì hay sao?”
Sở Hoài Sơn ấm ức nói, “Tại sao, lại không thể?” Anh bỗng quay người sải bước ra khỏi buồng bệnh.
Cô bất giác ngoảnh nhìn khu buồng bệnh cao ngất. Không rõ có phải mắt đang gioở chứng, cô nhìn thấy ở ô cửa sổ trên tầng 11 có một bóng người gầy khô, cứ như Mễ Trị Văn đang đứng đó lạnh lùng nhìn xuống cái sân ôn ào này? Không thể! Lão bị hôn mê từ hai ngày trước kia mà? Và, căn buồng bệnh ấy làm gì có cửa sổ? Na Lan rùng mình, quay ngườii trở lại khu buồng bệnh.
Buồng bệnh mà Mễ Trị Văn nằm có cửa sổ, nhưng người vừa nãy đứng ở cửa sổ không phải là lão. Hoặc có lẽ không hề có ai đứng bên cửa sổ cả. Na Lan không có ấn tượng gì về cửa sổ ở đây vì mọi lần vào đều là buổi tối, các tấm mành mành đều thả xuống sát mặt sàn che khuất cửa kính. Lúc này việc cấp cứu người bệnh kia đã gần đến “phút chót”, ca1c y tá đang hội ý để lập biên bản tử vong, thông báo cho người nhà lo liệu hậu sự.
Na Lan bước đến bên giờng Mễ Trị Văn, lão vẫn hôn mê.
Cô quan sát kỹ, xem có dấu hiệu gì chứng tỏ lúc nãy lão tỉnh lại không. Không. Lão như đã chết rồi.
Cô lại nhìn lão, gò má nhô cao hai má hóp, chẳng khác gì cái đấu lâu được tùy tiện phủ lớp da cho xong chuyện để mà làm người. Có cần thông cảm với lão không?
Cô không bao giờ quên câu nói của Đổng Bội Luân. Nếu có cơ hội thì lão sẽ làm gì?
Bàn tay cô buông thõng bên giường bỗng bị tóm chặt. Mễ Trị Văn đang nằm bỗng nhỗm dậy nắm lấy tay cô.
Cô kinh hãi quên cả kêu lên!
Cổ họng lão ú ớ có âm thanh, hình như định nói gì đó nhưng bị chất dịch ở họng chặn mất.
“Ông định làm gì?” Cô dằnn giọng hỏi.
Mễ Trị Văn cố nói nhưng không thành tiếng.
Na Lan bước sát lại, “Ông nói gì?”
Cô cố đoán và nghe được, “Không... kịp... mất... rồi...”
Cô định hỏi cái gì không kịp, nhưng lão đã buông tay rồi nằm thẳng xuống, đầu đập xuống gối tiếp tục lịm đi. Góc này của buồng bệnh lại yên tĩnh, hình như cử động vừa rồi của lão chỉ là một động tác bản năng trong cơn ác mộng.
Hoặc, thật ra chỉ là ảo giác của Na Lan.
Nhưng cổ tay cô vẫn còn hơi đau, mấy vết hằn đỏ hhiển hiện như một thứ bùa yểm mà ác quỷ để lại.
Không kịp nữa?!
Vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ tiếp diễn.
Chỉ cô mới có thể chấm dứt cơn ác mộng này!
Nhưng không kịp nữa rồi!
Những hạt mưa phũ phàng tạt vào mặt Na Lan, dính bết cả mái tóc mới cắt. Nhưng lúc này cô chhẳng bận tâm, cô chỉ muốn được hít thở thật mạnh, muốn mũi và miệng được hứng không khí nhiều hơn.
Xin xô.
Hãy cứu tôi!
Cuối cùng, tiếng chuông di động Khúc nhạc buồn của Chopin đã đánh thức Na Lan. Đồng hồ trên tủ đầu giường chỉ 4 giờ 12 phút sáng. Ba Du Sinh gọi, không thể không nghe.
Không kịp nữa!
Cảm giác chẳng lành dồn dập tràn đến khiến đầu muốn vỡ tung, nhưng cô vẫn cầm di đô5ng lên nghe. Đâu có lựa chọn nào khác?
“Thầy Ba Du Sinh?”
“Anh do dự rất lâu, có nên cho cô biết tin và có nên để cô lại bị cuốn vào hay không.” Giọng Ba Du Sinh cẩn trọng, nặng nề. “Nhưng đành vậy... vụ ‘ngón tay khăn máu’ lại xảy ra, chúng ta đã có một nạn nhân mới!”
Na Lan cảm thấy trời đất xoay chuyển, đầu lại bắt đầu nhức, cô đang nghĩ có nên dùng di động khác gọi cho giám đốc Chu Trường Lộ cầu cứu không. Nhưng cô cố trấn tĩnh, “Lâu nay em đã bị cuốn vào rồi, và chưa tùng ra khỏi nó...” Giống như Trần Ngọc Đống, giống như Ba Du Sinh, lẽ nào chắc chắn mình cũng có kết cục như họ?
“Ý tôi nói là tham gia công tác phá một vụ án mới. Cô gái làm ở hiệu thời trang gần xưởng Đằng Long, tên là Hàn Tây...”
“Chữ Tây nào?”
Ba Du Sinh hơi chững lại, “Hình như là chữ tây trong đông tây, nhưng bên trên có bộ Thảo.”
Đúng với quy luật. Đây không phải vụ mất tích hoặc giết người bình thường hoặc vụ mô phỏng vụng về, đây chính xác là vụ ‘ngón tay khăn máu’.
“Tối qua hết giờ làm, cô ấy đi đâu không rõ, di động tắt máy, bạn trai sống chung đã hỏi khắp lượt bạn bè mà không có tin tức gì. Vào khoảng trước 12 giờ đêm, cậu ta thấy ở cửa nhà mình treo cái túi xách của Hàn Tây, tuuởng là cô ấy đã về nhưng trong nhà vắng tanh, rồi cậu ta lục cái túi xách, thì tìm thấy một thứ... chắc cô đã đoán ra rồi.”
Na Lan nói giọng cực nặng nề, ,“Khăn dính máu, và một ngón tay.”
“Mảnh vải quần bò màu trắng dính máu, bọc một ngón tay của Hàn Tây! Cậu bạn trai quá sợ. Cậu ta từng dính tiền sự, lại làm ăn không mấy sạch sẽ, nên nghĩ rằng mình có hiềm khích với bọn xã hội đen rồi liên lụy đến Hàn Tây. Cứ thế suốt hai tiếng đồng hồ kkhông dám báo công an. Về sau càng nghĩ càng thấy sợ, sợ mình cũng mất mạng, nên mới gọi 110.”
“Mễ Trị Văn! Lão đã... đã biết vụ ‘ngón tay khăn máu’ sẽ xảy ra. Mau đến tìm lão, dù lão giả vờ hôn mê thì cũng kéo lão ngồi dậy thẩm vấn lão. Các anh dùng cách gì thì cũng phải...”
“Lão... cũng mất tích rồi!”
Chương 30: Ác ma dai dẳng
Lão thường nghĩ ngợi, nếu mình đi khỏi buồng bệnh yên ổn cả, thì cảnh sát sẽ kết luận là gì? Là bỏ trốn hay là mất tích? Lão là phạm nhân, nếu biến mất thì tức là bỏ trốn. Nhưng ai có thể nói một người chỉ còn thoi thóp như lão mà lại có thể co cẳng bỏ trốn? Huống chi, lão đã được ra ngoài chữa bệnh tức là đã có được chút tự do. Tất nhiên cảnh sát sẽ không nhìn nhận như thế. Trong phòng của y tá trực ban luôn luôn có một cảnh sát phụ trách giám sát lão.
Thật ra, bỏ trốn chẳng là gì đáng sợ, lão rất tự tin, việc bỏ trốn của lão cũng vang rền như Cuộc chạy trốn đại thắng [1].
[1] Tên một bộ phim, kể về một trận bóng đá giữa đội các tù nhân quân đồng minh trong Chiến tranh Thế giới thứ 2 và đội của Đức quốc xã; các tù nhân định nhân đây bỏ trốn, nhưng rồi họ đã quyết đấu để giành chiến thắng chứ không bỏ trốn nữa. Nhấn mạnh chiến thắng tinh thần.
Na Lan và Sở Hoan, niềm vui mới và tình yêu cũ của lão, đã rời buồng bệnh một lúc rồi. Lão đã nghe hết cuộc nói chuyện của hai con người dại dột. Có lúc lão cảm động đến mức muốn trào nước mắt cá sấu, nhưng lão không còn là gã thanh niên bồng bột ngày xưa nữa, lão đã từ biệt cái lối mất kiểm soát ấy rồi. Cách đây không lâu Na Lan khơi lại chuyện cũ của lão, lão có điên tiết thật, nhưng yếu tố diễn kịch vẫn nhiều hơn.
Việc cấp cứu cho bệnh nhân giường bên đã hoàn tất, không cần hỏi cũng biết kết quả là gì. Mười người vào đây nằm thì bảy tám người đứt! Cho nên phải “liên hoan” với đám y bác sĩ trước đã, sau đó đi gặp thượng đế, lên thiên đàng sẽ đỡ cô quạnh.
Chỉ có lão khăng khăng muốn đi địa ngục, lão cho rằng ở địa ngục rất ấm áp.
Đám nhân viên cấp cứu đã ra hết, trong căn buồng chỉ còn tiếng xè xè khe khẽ của vài thứ thiết bị, tất cả im ắng như nhà xác. Nói là nhà xác thì hơi châm biếm quá? Ngoài hành lang vang lên vô số tiếng bước chân, lão biết đã đến lúc. Lão nhắm tịt mắt nằm trên giường, bất động. Với bệnh trạng và sức vóc như ngọn nến trước gió của lão, thì nằm bất động là một khâu dễ làm nhất trong toàn bộ kế hoạch.
Cửa buồng mở, lại có tiếng bước chân tiến lại bên giường lão. Sau đó thấy tiếng sột soạt đóng mở hồ sơ bệnh án, rồi tiếng cô y tá, “Bác sĩ Trương đã ký, người nhà bệnh nhân cũng ký rồi.” Hừ, đã đứt rồi mà vẫn gọi là “bệnh nhân”?! Con bé y tá đầu đất, nên nói người nhà của “người chết” đã ký mới đúng chứ!
Một giọng nam, “Bye-bye đại huynh!” Lão biết câu này là dành cho lão.
Bác sĩ ký, người nhà ký, coi như mình đã chính thức chết rồi.
Cái giường của lão bắt đầu dịch chuyển. Lão đã để ý từ lâu, giường dành cho các bệnh nhân nặng thì bốn chân giường lắp bánh xe, vì các con bệnh này thường nằm liệt giường, lại hay phải đẩy ra đẩy vào để thăm khám và điều trị, giường lắp bánh xe rất tiện cho công việc, kể cả đẩy xuống nhà xác là nơi đa số khách trọ ở đây sẽ phải đến. Đây là điều thú vị của bệnh viện Phổ Nhân, đẩy thẳng giường bệnh đến nhà xác, cho vào tủ lạnh, rồi lại kéo cái giường trở ra, bớt vô số phiền hà, hiệu suất cao!
Cái giường dừng lại. “Keng” một tiếng, là thang máy. Vào thang máy. Người đẩy giường chào hỏi ai đó. “Ai đó” đương nhiên là nữ y tá. Dù nằm dưới miếng vải lão vẫn ngửi ra mùi hương của phụ nữ.
“Lại một người đứt à?” Hơi thở của cô ta sao mà thơm tho!
Cái mùi hương đê mê ngây ngất khiến lão chộn rộn, người lão cũng có phản ứng, chân lão tê tê. Mảnh vải phủ người lão cũng rung rung!
May sao, chính cái thang máy cũng rung rung nhất là lúc dừng lại, vì thế lão không bị lộ. Cô y tá đẩy cái giường ra, lão thầm thở phào.
Năm phút sau, lão được hai người nhấc lên nhét vào ô tủ lạnh. Lão đã biết từ lâu, tủ ướp xác hiện nay có hai loại, một loại giống tủ lạnh gia dụng, đóng cửa vào là khít luôn, loại thứ hai sau khi đóng cửa thì phải kéo tay nắm, dìm xuống, cửa sẽ đóng chặt, thường để ướp thời gian khá dài.
May sao, bệnh viện Phổ Nhân và phần lớn các bệnh viện toàn dùng tủ ướp xác loại thứ nhất.
Lại sau năm phút nữa, cửa tủ lạnh mở ra từ bên trong, lão tủm tỉm bước ra, bắt đầu một cuộc đời mới.
Tất cả đã được thực hiện đúng kế hoạch.
“Các anh luôn có người giám sát kia mà?” Na Lan không tin cảnh sát hình sự của Sở Công an mà lại mắc sai lầm tầm thường như thế.
“Có! Người của chúng tôi không hề lơ là tắc trách… nhưng lão ta… chúng tôi đã đánh giá thấp Mễ Trị Văn, nhất là khả năng hành động của lão. Có một bệnh nhân cùng buồng vừa qua đời, lão đánh đổi vị trí giường của lão và giường người chết, đổi luôn cả biển số giường và tờ bìa bệnh án treo ở đuôi giường. Nhân viên nhà xác căn cứ vào số hiệu để tìm đúng giường, không ngờ nằm đó lại là người sống, cũng không gọi y tá đến đối chiếu, cứ thế đẩy ra khỏi buồng bệnh rồi đưa vào nhà ướp lạnh. Khi bác sĩ trực ban phát hiện ra người mới chết đang nằm trên giường của Mễ Trị Văn thì lão đã tráo thây và biến mất không rõ đi đâu. Chúng tôi đã sục sạo khắp bệnh viện không tìm thấy lão.”
“Chuyện xảy ra trước khi Hàn Tây mất tích à?”
“Đúng thế!” Ba Du Sinh thở dài, hết sức buồn bã.
“Em sẽ đến ngay.” Na Lan nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời vẫn tối sầm, mưa phùn lắc rắc.
“Tạm thời chưa cần cô đến cho vất vả… trừ phi… cô định đi đâu? Có ý tưởng gì không?”
“Em đến bệnh viện, ở đó rất có thể để lại dấu vết của lão. Em có cảm giác trò chơi giữa lão và em chưa kết thúc, lão sẽ không lặng lẽ biến mất không thấy tăm hơi.”
Sau khi người chết thật được chuyển đi, căn buồng bệnh nặng này trở nên vắng lặng. Vì Mễ Trị Văn vừa mới bỏ trốn nên tạm thời chưa xếp bệnh nhân mới vào đây.
Na Lan nhanh chóng thu lượm tệp giấy và mấy cuốn sách Mễ Trị Văn bỏ lại. Cô muốn “nhanh chóng”, nhưng thật ra cô giở từng tờ giấy để xem. Anh cảnh sát đứng ngoài cửa nhìn vào, thấy hình như cô đang đọc rất chậm những điều viết trên các tờ giấy.
Trên giấy, là các văn tự do đại sư Thương Hiệt tạo ra. Na Lan nhìn rất lâu. Chữ trông rất gớm ghiếc, không sao hiểu nổi ý nghĩa, không thể nhận ra manh mối gì. Mưa tạt vào kính cửa sổ, lắc rắc, nghe như lời thì thào của một kẻ rỗi hơi vô duyên khiến người ta nẫu ruột.
Không một manh mối. Chỉ thấy đầu đau nhức. Những muốn châm lửa đốt luôn mấy cái ký hiệu chết tiệt này đi! Na Lan thầm nhắc nhở mình chớ hấp tấp nóng nảy.
Cô mở ngăn kéo tủ đầu giường, chỉ thấy lèo tèo vài thứ, Một cuốn Tống từ[2] do Hồ Vân Dực biên soạn, hình như là bản in rất cổ xưa, không rõ có phải là quà tặng trang nhã của dì Tư không. Một cuốn sổ tay nhỏ, bên trong cũng đặc kín chữ, vô cùng khó hiểu.
[2] Từ là một thể loại văn học thịnh hành vào đời Tống, có các câu dài ngắn khắc nhau, hiệp vận theo quy luật.
Và một tấm ảnh.
Na Lan lập tức gọi điện cho Ba Du Sinh, “Chắc chắn lão đang đi tìm Đổng Bội Luân!” Mình thật đáng trách, sao lại quên câu nói của Đổng Bội Luân, nếu được tự do, việc đầu tiên Mễ Trị Văn làm là tìm đến tôi, để tiếp tục làm cái chuyện lão chưa hoàn tất trong đêm hôm đó.
Vụ Hàn Tây mất tích chỉ để đánh lạc hướng cảnh sát, mục tiêu thực sự của Mễ Trị Văn là Đổng Bội Luân!
Hơn mười phút sau Ba Du Sinh gọi điện, “Đổng Bội Luân đã nhận được thông tin, cô ấy vẫn ổn. Hiện đã bố trí cảnh sát ở khu nhà cô ấy. Các bảo vệ của công ty cũng có mặt. Tin rằng cô ấy sẽ an toàn.”
Na Lan cũng thở phào, “Ở đây lão ta có một cuốn sách kẹp ảnh Đổng Bội Luân, cho nên em nghĩ rằng nếu có dịp lão sẽ hại chị ấy.”
“Nhưng cũng có thể Mễ Trị Văn chỉ tung hỏa mù để chúng ta tập trung chú ý vào Đổng Bội Luân, còn lão sẽ đi tấn công các cô gái khác.”
“Tiền đề phải là, nếu lão đúng là hung thủ của vụ 'ngón tay khăn máu'.”
“Lão đã bỏ trốn, mà cô vẫn chưa thật tin lão là hung thủ?”
“Lão hung ác, bệnh hoạn, giảo hoạt, háu gái, phù hợp với các dấu hiệu của hung thủ. Suy diễn tâm lý tội phạm về lão cũng cho thấy lão có năng lực gây án, nhưng em vẫn chưa thực sự bị thuyết phục, vẫn còn thiếu một vài yếu tố…” Mấy câu nói của dì Tư vẫn văng vẳng bên tai Na Lan. Cô nói tiếp, “Bệnh của lão, thể lực của lão quá ọp ẹp, coi như kiệt sức, không có vẻ giả vờ ốm yếu. Sức đâu vừa mới trốn khỏi bệnh viện đã đi bắt cóc ai được?”
Ba Du Sinh nói, “Cô nói đều đúng cả, nhưng tôi cũng tin rằng sự lì lợm của lão thừa sức bịt mắt bịt tai chúng ta. Riêng chuyện lão trốn khỏi bệnh viện chứng tỏ chúng ta hiểu về lão còn quá ít.”
Na Lan thầm nghĩ e rằng cả chục năm nữa cũng không cách gì hiểu hết về lão. Giọng cô trầm xuống, “Chẳng riêng gì chúng ta. Lão chưa đi tìm Đổng Bội Luân, chứng tỏ ngay cô ấy cũng chưa hiểu nổi con người lão…” Có lẽ ngay dì Tư tự cho rằng mình là “tri âm” chưa chắc đã hoàn toàn hiểu về lão.
“Ý cô là gì?” Ba Du Sinh chưa hiểu.
Na Lan tư lự, “Đổng Bội Luân là người thông minh, không thể vô cớ mà nói ra cái câu ấy!”
“Câu gì?” Ba Du Sinh vẫn chưa hiểu nhưng Na Lan đã tắt máy, cô chạy ào ra ngoài buồng bệnh, rồi xuống sân, tiếp tục chạy đi dưới trời mưa mau hạt.
Bệnh viện Phổ Nhân được xây dựng vào những năm 30 của thế kỷ trước, đã tu sửa nhiều lần, chỉ riêng vườn hoa phía sau khu buồng bệnh thì vẫn giữ được phong cách vốn có. Ở đây có hai ngôi nhà tây, một đình hóng mát, một hồ sen nho nhỏ xung quanh trồng hoa hồng, hải đường, mẫu đơn, bố trí rất khéo, có thể coi là một điển hình thành công về kết hợp kiến trúc đông tây. Lúc này chưa đến mùa hoa nở khoe sắc hương, nhưng những hạt mưa đã tắm gội cho lá và nụ hoa mơn mởn tươi xanh lạ thường.
Na Lan tìm thấy Mễ Trị Văn trên chiếc ghế dài ở vườn hoa. Từ khi lão mất tích đến giờ là hơn tám tiếng đồng hồ.
Cho ma quỷ tám tiếng đồng hồ, ma quỷ sẽ làm được những việc tử tế gì nhỉ?
“Tôi cứ lo cô không tìm thấy tôi, nhưng xem ra tôi đã lo hão. Tuy nhiên, lại bắt đầu nảy ra một mối lo mới.” Toàn thân ướt sũng nước mưa, lão chẳng quay lại nhìn, hình như chỉ nghe tiếng bước chân đã biết là Na Lan đến gần. Ánh mắt lão dõi thẳng ra đằng trước. Đằng trước là một cây mai già, nếu không nhìn thấy lộc non mới nhú thì sẽ ngỡ nó được bê từ bức tranh treo tường trong văn phòng của Đổng Bội Luân đem ra đây trồng.
Đổng Bội Luân nói đúng, nếu được tự do, lão sẽ đi tìm để tiếp tục làm hại. Lão chưa đi tìm chứng tỏ lão chưa được tự do. Sao lão phải nghiền ngẫm tìm cách thoát khỏi sự giám sát của cảnh sát rồi lại không cao chạy xa bay? Đơn giản thôi, lão biết tình trạng thể lực của mình không thể đi xa, cảnh sát chỉ cần phong tỏa mọi ngả đường quanh đây thì sẽ lại tóm được lão.
Hoặc là, một cách nghĩ méo mó của lão, sau khi thoát khỏi cảnh sát, lão bị vây trong bệnh viện nhưng vẫn coi như “đã được tự do”, ít ra là tự do tạm thời về tâm lý. Lão cũng đi tìm Đổng Bội Luân, và đã tìm thấy một cách trừu tượng, ngắm cây hoa, tựa như đã nhìn thấy Đổng Bội Luân. Lúc này Na Lan không dám đắc ý rằng mình đã phân tích tâm lý Mễ Trị Văn thành công, dẫu ở trong tù nhưng ta có thiên lý nhãn, ta biết Đổng Bội Luân có bức tranh Băng tư sảnh ảnh đồ. Tất nhiên lão còn biết cả văn vật mới tìm thấy ở dốc Mễ Lung! Na Lan mím môi, lạnh lùng nói, “Không đi tìm chị ấy, ông cũng tỏ ra biết điều đấy!”
“Rất muốn, nhưng…” Lão hơi đưa tay lên, như muốn đụng vào cây mai ở không xa trước mặt. “…chắc cô chưa biết tôi còn một cái hộp để ở trong tù, trong đó có một tờ giấy liệt kê nơi cư ngụ của hơn 900 bức tranh nổi tiếng. Cô sẽ tìm thấy tên của Đổng Bội Luân. Trước khi trở thành Thương Hiệt tôi đã từng thử đổi nghề. Mạng Internet quả là rất hay… Chắc cô đã biết ở trong tù vẫn có thể lên mạng chứ?”
“Đại sư Thương Hiệt có thể cho tôi biết tung tích của Hàn Tây không?” Na Lan nhớ đến những ngày chạy như đèn cù vừa qua để đi tìm những bộ hài cốt từ thời xa vắng, chỉ vì một niềm hy vọng mờ mịt mong manh, có thể ngăn chặn vụ “ngón tay khăn máu” tiếp diễn. Sau khi xảy ra vụ Hàn Tây thì sự kiên nhẫn của cô đã cạn kiệt.
Mễ Trị Văn nói, “Đây là mối lo mới của tôi. Lo cô sẽ không kịp.”
Na Lan biết Ba Du Sinh và Kim Thạc đang trên đường đến đây, và cũng biết mình hoàn toàn không phải chuyên gia thẩm vấn nhà nghề nhưng cô vẫn hỏi, “Ông đã giết cô ấy đúng không? Và đang chờ tôi phát hiện ra xác cô ấy? Tất cả đều là trò chơi của ông, đồ bệnh hoạn! Ông muốn thỏa mãn cái ham muốn huênh hoang vô lối đồng thời hủy hoại tinh thần của tôi, khiến tôi cũng biến thành kẻ loạn óc như ông.”
“Vui một mình sao bằng mọi người cùng vui? Và, cũng tại cô có tư chất.”
“Thật ra ông không hề tâm thần phân liệt, ông là tên lừa đảo và diễn viên kịch cao tay!”
“Chớ quên tôi còn là yêu râu xanh nữa!” Mễ Trị Văn tủm tỉm, chắc lão cho rằng mình rất hài hước.
“Nói đi, Hàn Tây đâu?”
Lão từ từ quay người lại, “Tôi tưởng cô đã nhìn thấy rồi?”
“Nhìn thấy cái gì? Lại là chữ nghĩa giẻ rách của ông chắc?”
“Cô đã can đảm khinh bỉ phát minh của tôi thì dù cô gọi nó là bùa ma tôi cũng không bảo sao. Tôi cứ tưởng cô đã nhìn ra cái chữ ấy và manh mối để giải mã?”
“Ở đâu? Ở tờ giấy nào?”
Mễ Trị Văn thở dài, “Sao cô không động não xem, từ đêm qua đến giờ tôi phải chạy rồ người lên để thoát thân, còn thì giờ đâu mà cầm bút? Đã biết rồi chứ? Mau đi đi kẻo muộn là không kịp, thật đấy!”
Na Lan biết lão đã cho mình manh mối. Nhưng, đi đâu?
Từ đêm qua đến giờ lão phải lo bôn ba, không có cơ hội để mà viết lách.
Tại sao cảnh sát lại không tìm thấy lão trong bệnh viện? Hay là lão đã từng ra khỏi bệnh viện, hoặc trà trộn trong đám đông bệnh nhân, ví dụ ở phòng cấp cứu luôn ồn ào? Lão cho rằng cô có thể tìm thấy “chữ” mới, thì chắc nó phải ở chỗ cô biết.
Nhưng cô chỉ biết lão giở ngón “Li miêu đánh tráo thái tử”, lão sắm vai người chết rồi được đưa ra khỏi buồng bệnh.
Chẳng lẽ…
Nếu đúng là thế thì muộn thật rồi, không kịp mất rồi.
Cô chạy thật nhanh về phía cổng chính của bệnh viện, đồng thời gọi điện cho Ba Du Sinh.
“… anh bảo họ dừng ngay! Dù đã bắt đầu thì cũng dừng ngay lập tức!” Na Lan dường như nhìn thấy Mễ Trị Văn đứng phía sau mỉm cười quái dị.
Chương 31: Thi từ dẫn lỗi
Mễ Trị Văn đã kịch tính hóa vấn đề, nhưng lão không khoa trương.
Đúng là không kịp thật.
Bắt đầu từ bốn năm trước, bệnh viện Phổ Nhân đã giao cho một công ty giặt tẩy khử độc thầu xử lý vệ sinh gối, chăn, đệm trải giường, khăn bông… Hằng ngày cứ 11 giờ đêm họ đưa xe tải đến bệnh viện chở các đồ cần làm vệ sinh ra, hôm sau cũng giờ ấy đem trả và nhận tiếp đồ dùng khác chở về xử lý.
Họ nhận làm cho vài bệnh viện ở Giang Kinh, hằng ngày 6 giờ 30 bắt đầu chạy máy giặt. Na Lan nói “bảo họ dừng lại” tức là ngừng giặt giũ.
Năm cảnh sát của khu công an Văn Viên chạy vào công ty giặt là, yêu cầu chuyển các đồ vải cần giặt của bệnh viện Phổ Nhân lên phòng họp, rồi kiểm tra từng thứ. Còn Na Lan thì đứng ở cổng bệnh viện chờ công an đến giải Mễ Trị Văn đi, sau đó cô lên taxi đến công ty giặt là gần như đồng thời với cảnh sát khu Văn Viên. Sau gần nửa giờ, một anh cảnh sát trong nhóm đã tìm thấy cái “chữ” rất quan trọng kia.
Trên tấm vải trắng lúc trước đắp trên người Mễ Trị Văn, có một “chữ đỏ” rất bắt mắt, chất mực vẫn còn dinh dính. Na Lan cảm thấy hình như được viết bằng son môi, rõ ràng là Mễ Trị Văn viết sau khi bò ra khỏi nhà xác.
Lão cũng không hề khiêm tốn, con chữ này gọi là “bùa ma” thì chuẩn hơn. Hai chữ ban đầu có vẻ là chữ Hán, chữ thứ ba là các ký hiệu được sắp xếp có ý đồ, nhưng con chữ trước mắt họ đây, chỉ có thể nói là nguệch ngoạc.
Mễ Trị Văn! Mong sao đây là cửa ải cuối cùng trong trò chơi của ông.
Trên cái bàn dài kê trong phòng họp của công ty giặt là, Na Lan, Ba Du Sinh và một kỹ thuật viên công an chăm chú nhìn vào con “chữ” nọ. Cả ba im lặng hồi lâu, ngẫm nghĩ vô số điều nhưng rốt cuộc vẫn không thể chỉ ra một phương hướng gì. Rút kinh nghiệm lần trước, lần này Ba Du Sinh không mời các chuyên gia nữa, bấm máy để bàn gọi điện cho Sở Hoài Sơn. Na Lan đã gửi hình chụp chữ qua WeChat cho anh rồi.
Sau một lúc trầm ngâm, Sở Hoài Sơn nói, “Chữ này sẽ rất khó, nhưng Mễ Trị Văn, vẫn hy vọng chúng ta, sẽ nhanh chóng giải mã được.”
Na Lan cũng cho là thế, nếu không, trò chơi sẽ chẳng thú vị gì nữa.
Nếu đúng là cần gấp rút lên, thì có nghĩa là tính mạng của Hàn Tây vẫn còn?
Nhưng, cảm giác này chỉ khiến mọi người lo lắng mà vẫn không tìm ra manh mối.
Mấy tiếng đồng hồ nhanh chóng trôi qua. Na Lan nói, “Có lẽ nên nghỉ đã, cho bớt căng.” Cô muốn nghỉ vì đầu đang nhức như búa bổ. Mấy ngày liền căng thẳng và thiếu ngủ, nhức đầu là phải.
Sở Hoài Sơn nói qua điện thoại, “Ta bàn một chút. Hình như càng ngày càng, kỳ quái… vai trò của Mễ Trị Văn, trong vụ án này, là gì?”
“Lão ngày càng giống cái loa truyền thanh, hung thủ thì ở bên ngoài gây án.” Cô lắc đầu. “Vẫn không thể loại trừ lão là nghi phạm, vì khoảng thời gian lão biến mất trùng với thời gian Hàn Tây bị bắt cóc và xuất hiện ngón tay bị chặt. Vấn đề mấu chốt là lão có đủ sức để đi xa như thế và gây ra bạo lực hay không.” Cô bất giác nhìn xuống chỗ cổ tay bị Mễ Trị Văn tóm chặt tối qua xem có còn đau không; tự nghiệm xem mình có đang thở hít bình thường không, vì hôm nọ từng bị lão bóp cổ?!
Ba Du Sinh nói, “Chúng tôi đã lấy mẫu đất dính ở đế giày Mễ Trị Văn để xét nghiệm phân tích xem lão có ra nơi đáng ngờ nào bên ngoài bệnh viện không.”
Cửa bỗng bật ra, Kim Thạc chẳng thiết gõ cửa xộc vào luôn. Ba Du Sinh nói, “Đúng lúc quá! Nhờ trưởng phòng Kim Thạc cho biết các kết quả điều tra gần đây về quan hệ xã hội, về các bạn tù… của Mễ Trị Văn.”
Kim Thạc hờ hững, “Có cần tôi nói không? Đã có Na Lan đi hỏi bọn họ rồi, tôi cấp giấy giới thiệu mà!”
Na Lan nói, “Tôi chỉ hỏi có một người…”
Kim Thạc mỉm cười, “Tôi nói đùa thôi! Nhưng đúng là chúng tôi đã điều tra ra khối thứ có giá trị, có vài người đã mãn hạn trở về hòa nhập xã hội, thời gian ở tù từng tiếp xúc với Mễ Trị Văn, chúng tôi đã gặp họ. Nhìn chung họ rất 'sạch sẽ', đêm qua cư trú ở đâu đều được xác định rõ ràng, không thấy dấu hiệu họ liên quan đến vụ Hàn Tây mất tích. Cô cũng biết rồi, thật ra những năm tháng qua Mễ Trị Văn cũng đơn giản chỉ là vào tù, vào viện tâm thần, vào vài căn hộ ở thuê, không có bạn bè thân thích nào. Khi ở tù hoặc vào bệnh viện, chắc chắn lão đã tiếp xúc với nhiều người, nếu đi điều tra tất cả thì diện điều tra sẽ quá rộng, khó mà tìm ra điểm then chốt.”
Nghe Kim Thạc nói, Na Lan nhớ đến dì Tư, và thầm nghĩ, không có bạn thân, e không đúng, chẳng qua các anh chưa điều tra ra. Cô nghĩ đến dì Tư vốn là y tá, chứng tỏ Mễ Trị Văn quen dì Tư từ trong bệnh viện, bèn hỏi, “Mễ Trị Văn là bệnh nhân mắc đủ thứ bệnh, ngoài bệnh viện tâm thần ra, lão còn nằm nhiều bệnh viện lớn khác, tôi đã đọc hồ sơ bệnh án của lão, thấy chưa hoàn chỉnh, chủ yếu chỉ có hồ sơ gần mười năm nay ở bệnh viện Phổ Nhân. Nếu thu nhập được đầy đủ hồ sơ thì tốt.”
Kim Thạc cau mày, “Lúc này mà cô vẫn còn tâm trạng để đọc hết hồ sơ bệnh án à?”
Ba Du Sinh giải thích, “Cô ấy muốn tìm hiểu xem lão mắc bệnh nặng đến đâu, có thì giờ đi hãm hại Hàn Tây không. Nếu tìm lại được thì rất tốt.” Thật ra Na Lan muốn xem xem Mễ Trị Văn đã quen với những nữ nhân viên y tế nào.
Kim Thạc thở dài, “Lúc này mọi người đều quá bận với vụ Hàn Tây…”
Na Lan cố thuyết phục, “Vụ án Mễ Trị Văn cũng chính là vụ án Hàn Tây. Thậm chí, có thể lão chính là hung thủ.”
Kim Thạc lắc đầu, bước ra ngoài.
Na Lan cúi nhìn “chữ” mới. Mắt di chuyển từ những đường vòng lộn xộn, đến ba hình ô van, cuối cùng là hình tám cạnh kỳ cục.
Đầu cô trống rỗng.
Căn phòng họp tiếp tục im lặng.
Di động của Ba Du Sinh có tín hiệu.
Anh đặt di động ở chế độ rung, đã có vài cú phôn gọi đến, anh nhìn vào máy nhưng không nghe. Sau khi Hàn Tây mất tích, các cảnh sát chỉ tâm niệm một nguyên lý kiểu toán học là phần lớn các nạn nhân mất tích sẽ bị giết trong vòng ba giờ sau đó, mất tích càng lâu thì khả năng sống sót càng thấp. Giải mã con chữ có thể là hy vọng duy nhất để tìm thấy Hàn Tây.
Nhưng lần này thì Ba Du Sinh nghe máy. Anh “Vâng, được…” mấy lần, gật đầu, tắt máy, rồi nói với Na Lan, “Mễ Trị Văn lại hôn mê.”
Na Lan nói, “Em muốn đến xem sao, cũng là để thay đổi đầu óc.”
Na Lan đến buồng bệnh nhân. Thấy bác sĩ điều trị là bác sĩ Đường và giám đốc Chu Trường Lộ lần lượt rảo bước vào. Chu Trường Lộ cho cô biết, lần trước Mễ Trị Văn cũng lên cơn điên rồi hôn mê. Thông thường, lên cơn điên thì không dẫn đến hôn mê, nhưng Mễ Trị Văn đồng thời có lắm bệnh nhất là bệnh tiểu đường và tim mạch rất nặng, có khả năng là cơn điên phát sinh gián tiếp kích thích mạch máu não co thắt nên dẫn đến hôn mê, kết quả chụp cộng hưởng từ chứng minh nhận định của ông là đúng.
Đúng lúc ấy thì Sở Hoài Sơn gọi điện cho cô, không vì chuyện giải mã chữ mà ngược lại, anh nói, “Tôi vẫn chưa nhìn ra vấn đề. Gọi cho cô… tôi định nói là…”
Thấy anh thở mạnh, Na Lan đoán ra anh định nói gì. Cô bèn nói, “Châm ngôn của đại sư Thương Hiệt là 'chỉ tôi mới giải được chữ ấy', tiếc rằng đại sư vừa lên cơn điên, rồi hôn mê. Nếu tin lão thì anh nên bái lão làm sư phụ, anh và lão đều là dân nghệ sĩ mà!”
Sở Hoài Sơn gượng cười, “Thôi được, ngày mai, tôi sẽ gặp, dì Tư, nói khéo để nhờ, xem sao.”
“Thật ra anh nhắc rất kịp thời, quả là tôi đang bí, nghĩ mãi rồi, đúng là không có chút liên quan nào đến tôi cả.”
Sở Hoài Sơn, “Tôi chưa suy luận, được gì thật, nhưng tôi có, một ý này… cô có ảnh chữ, ở đó, không?”
Na Lan lục túi lấy bức ảnh được in ra giấy. “Anh Ba Du Sinh đã đưa tôi đây.”
“Tôi nhận ra nó vẫn chứa đựng một quy luật. Cô nhìn cái hình ngôi sao có nhiều cảnh ấy… có thấy quen không?”
Na Lan chăm chú nhìn rồi lắc đầu, nhưng nhận ra Sở Hoài Sơn không thể nhìn thấy mình lắc đầu, cô bèn nói, “Tôi không nhận ra.”
“Có giống ngôi sao 6 cánh trên quốc kỳ Israel không?”
“Điểm khác duy nhất là ngôi sao này 8 cánh. Sao 6 cánh do hai hình tam giác ghép lại, sao 8 cánh do hai hình tứ giác ghép lại.” Na Lan cúi sát hơn. “Nói cho đúng, thì nó ít hơn hình bát giác một nét, lại nhiều hơn hình thất giác một nét.”
Sở Hoài Sơn gợi ý, “Nhiều hơn 7, ít hơn 8.”
“Già 7 non 8?” Na Lan cảm thấy chua chát, ở một xó xỉnh nào đó tại Giang Kinh, nếu tim của Hàn Tây vẫn đang đập mà dùng cách nói này để hình dung[1] thì quá bình thường, không đúng.
[1] Già bảy non tám, là một thành ngữ, có nghĩa là “bồn chồn, bất an”.
Sở Hoài Sơn tiếp tục, “Cô lại nhìn ba cái vòng xem, có cảm thấy ba vòng này, 'già 7 non 8', và hình ngôi sao… có điểm chung nào không?”
Hai trong ba cái vòng là hình ô van hoàn chỉnh, vòng còn lại không khép kín, chỉ là một nét cong. Na Lan gật đầu, “Đây không phải 3 vòng tròn, mà chỉ là 2 cộng với một nửa, tức là 2,5 vòng.”
“Rất có thể đây là điểm then chốt trong câu đố của Mễ Trị Văn, và lại liên quan đến các chữ số.”
Giọng Na Lan lắng xuống, “Chắc không phải? Vì Mễ Trị Văn sẽ không liên tiếp đưa ra hai câu đố liên quan đến chữ số. Có lẽ đây là trò chơi văn tự, là thành ngữ, không phải 7 chẳng phải 8, không phải 2 chẳng phải 3?”
“Hoặc, vừa là 7 lại vừa là 8, vừa là 2 lại vừa là 3.” Sở Hoài Sơn cũng đề xuất.
Dòng suy nghĩ tạm đứt đoạn, cả hai lại trầm ngâm. Rồi Na Lan nói, “Tôi biết anh đang nghĩ gì. Anh khỏi cần nhắc, tôi biết chỉ tôi mới có thể nghĩ ra, nhưng đúng là tôi đã nghĩ nát óc, chẳng đâu vào đâu cả, không thể tìm ra một thứ láo nháo gì đó.”
“Thế thì chỉ còn cách điểm lại xem… đại sư Mễ Trị Văn nhắc cô điều gì nữa?”
Lần này thì cô nhớ ra một câu nói của lão, tôi cứ tưởng cô đã nhìn ra manh mối để giải mã! Cô đáp, “Hình như lão cho rằng tôi đã nhận ra một gợi ý của lão, tôi đã xem hết các 'di vật' của lão ở giường nằm, chỉ thấy một xấp giấy lộn và cuốn sổ tay.” À, còn cuốn Tống từ nữa.
Chắc cô đã nhìn thấy manh mối thật, nhưng lại không nhận ra.
Tống từ, không phải 7 chẳng phải 8, không phải 2 chẳng phải 3.
Hình ngôi sao, hình ô van.
Tống từ…
Na Lan đọc thành tiếng, “Bảy tám ngôi sao ngoài trời… Hai ba hạt mưa trước núi.”
Giọng Sở Hoài Sơn run run, “Lẽ nào đúng là…”
“'Bảy tám ngôi sao ngoài trời, hai ba hạt mưa trước núi', đây là hàm nghĩa của ký hiệu ngôi sao và hình ô-van! Số cánh sao, giữa 7 và 8, hình ô van đại diện cho hạt mưa, giữa số 2 và số 3!” Tim Na Lan bắt đầu đập nhanh. Đó là cảm giác sắp đi đến gần sự thật, dù cô chưa nhận ra hai câu thuộc bài từ của Tân Khí Tật có ngụ ý gì trong vụ việc này.
Sở Hoài Sơn khẽ đọc, “Bảy tám ngôi sao ngoài trời, hai ba hạt mưa rơi trước núi. Bảy tám, hai ba… Hay là lão muốn nói về các chữ số quan trọng của cô?”
Na Lan bỗng cảm thấy đầu óc sáng hẳn ra, ngoài 7-8 tức là số 9, trước 2-3 là số 1. Là 9-1. Cô lẩm bẩm, “Là 9 và 1 hay là 91? Chắc không phải lại là số nhà gì đó chứ?”
Cô bỗng thấy lòng nặng trĩu.
Chỉ mình mới giải được, chỉ có mình mới chịu đựng nổi sự thật này.
Sở Hoài Sơn hỏi, “Sao thế?”
Na Lan im lặng, cố nén cảm giác bi thương căm phẫn đang dâng lên. Giọng cô lắng xuống, “Ngày 1 tháng Chín. Lão muốn nói là ngày 1 tháng Chín.”
“Ngay 1 tháng Chín làm sao?”
“Ngày cha tôi mất, ngày cha tôi bị hại.” Đôi mắt cô bỗng nhức căng, trào lệ.
“Cô đừng buồn.” Sở Hoài Sơn khẽ thở dài. “Nhưng… ngày mất của bác ấy… liên quan gì đến một cô gái bị bắt cóc?”
Buồn thương. Nhưng cô cũng đang nghĩ, ừ nhỉ, có liên quan gì?
Na Lan kể lại ngắn gọn sự việc tối hôm đó, “Tối hôm cha tôi bị hại, hình như thời tiết ở khu mỏ na ná như hai câu thơ này diễn tả, khu văn phòng và khu nhà tập thể lác đác vài hạt mưa, còn khu khai thác thì vẫn khô ráo.”
Sau đó, dưới bầu trời sao, kho vật liệu của khu khai thác xảy ra vụ nổ lớn. “Vụ nổ ngày 1 tháng Chín” cũng là một vụ án cũ, bế tắc. Cha Na Lan là trưởng ca trực đêm hôm đó ở khu khai thác, ông đang có mặt ở nhà kho nên đã thiệt mạng. Đã có nhiều lập luận về vụ nổ và cũng có một số căn cứ, có kẻ phóng hỏa, hoặc chỉ là do sự cố, thậm chí có người cho rằng đó là tự sát… nhưng Na Lan biết, giả thiết gần với sự thật hơn cả là bị sát hại.
Trên thi thể cha cô có vết dao đâm, là vết dao cắt động mạch đùi.
Cho đến nay hung thủ vẫn nằm trong bóng tối.
Na Lan nói tiếp, “Tối hôm đó, ở nhà kho vật liệu, tạnh ráo, đã xảy ra vụ nổ. Kho ấy thường chứa thuốc nổ dùng trong khai thác mỏ, được bảo vệ rất cẩn thận. Nhưng nếu bị phóng hỏa thì tất nhiên sẽ nổ. Anh cứ google thì biết 'vụ nổ 1-9' có tiếng vang đấy!”
Sở Hoài Sơn lẩm bẩm, “Vụ nổ 1-9… vụ nổ và vụ bắt cóc, thì có gì liên quan?”
“Điều cấp thiết bây giờ là tìm được chỗ Hàn Tây. Đương nhiên không thể ở tận nhà kho của khu mỏ sắt xa tít tắp quê tôi.”
Sở Hoài Sơn đề xuất, “Nhưng có khả năng… là một nơi liên quan đến cháy nổ.”
Nơi nào? Không biết. Vì chưa giải mã được con “chữ” này.
Tôi cứ tưởng cô đã nhận ra manh mối để giải cái chữ ấy.
Cô bỗng nảy ra một ý, “Nửa trên của bài từ của Tân Khí Tật là gì?”
Sở Hoài Sơn đọc, “Trăng sáng, cành lìa cây, chim hãi. Gió nhẹ nửa đêm, ve nỉ non. Hoa lúa ngát hương, năm được mùa, tiếng ếch kêu rộn rã.” Sở Hoài Sơn đọc từ còn lưu loát hơn cả khi nói.
Trăng sáng, chim kinh hãi, ve kêu, hoa lúa, ếch kêu rộn rã. Có ý nào là manh mối không?
“Hai câu sau là…?”
“Quán tranh ngày xưa, bên rừng. Lối rẽ cầu bắc ngang suối. Chợt thấy…” Sở Hoài Sơn lập tức đọc ra luôn.
“Quán tranh là quán như thế nào? Quán rượu hay quán cơm?”
“Có thể là cả hai. Quán ở nông thôn… có thể là quán ăn… thậm chí là quán trọ.”
Na Lan sửng sốt, vội nói, “Anh khoan đã. Tôi cần gọi điện cho đội trưởng Ba Du Sinh.”
Nghe Na Lan thuật lại kết quả phân tích của cô và Sở Hoài Sơn, Ba Du Sinh trầm ngâm một lúc như hồi tưởng, lại như đang suy ngẫm mấy từ then chốt, vụ nổ, lối rẽ cầu ngang qua suối, quán trọ… Rồi anh nói, “Tôi hiểu rồi, cảm ơn hai người đã phân tích thấu đáo.”
Na Lan nóng ruột, “Ở đâu? Em cũng muốn đi.”
Chương 32: Vô số thây ma
Na Lan và Sở Hoài Sơn vắt óc suy nghĩ tìm ra mấy manh mối, giúp Ba Du Sinh dễ dàng chốt lại địa chỉ cũ của Công ty Lữ hành Thông Giang. Cách đây chừng mười năm, vụ nổ chấn động nhất Giang Kinh xảy ra ở khu vực này. Tiền thân của nhà nghỉ Thông Giang là hệ thống hầm phòng không quân dụng dân dụng vào thập kỷ 1950 – 1960, có thể nói nó là một mê cung siêu hạng trong lòng đất, những người am hiểu còn nói nó xứng đáng để coi là di tích lịch sử quan trọng cần bảo vệ. Nhưng nhiều năm trước kinh tế bắt đầu hồi phục, dân chúng đổ xô về thành phố Giang Kinh, vì những người quản lý chưa có tầm nhìn xa nên hệ thống hầm hào này bị biến thành nhà khách hầm giá rẻ nhất Giang Kinh, là nơi tập trung đông người nhất gần con sông Thanh An.
Cách đây chín năm, một băng nhóm tội phạm đã phá hoại hệ thống sưởi ấm của khu nhà nghỉ (vốn dĩ lắp đặt sai quy định) nhằm giết người diệt khẩu bịt hết mọi dấu vết. Chúng cho nổ tung hệ thống ngầm của nhà nghỉ, dẫn đến hỏa hoạn ở đây, gây ra rất nhiều thương vong[1].
[1] Xem tiểu thuyết Đau thương đến chết – Luân hồi của cùng tác giả.
Kể từ ngày xảy ra vụ nổ, suốt chín năm qua, hệ thống hầm phòng không đổ nát ở địa chỉ cũ của Công ty Lữ hành Thông Giang vẫn bỏ không. Mấy năm nay ngành nhà đất rục rịch trỗi dậy, rất nhiều doanh nghiệp để mắt đến khu vực này nhưng vì vụ nổ ghê rợn năm xưa đã biến nơi đây thành đất dữ, tạo nên một đặc trưng phong thủy xấu, khiến họ ngại ngần lui bước, chưa kể dân chúng hô hào bảo vệ di tích lịch sử, còn Ban Quản lý Nhà đất khu Tân Giang và thành phố Giang Kinh thì giữ thái độ tiêu cực sống chết mặc bay.
Cái nơi mà số đông cho là đất dữ rất có thể lại là mảnh đất vàng trong con mắt của một số người.
Trời đã sâm sẩm tối, Na Lan đi taxi ra ngoại thành phía nam, xe rẽ khỏi đường cao tốc rồi chạy men theo sông Thanh An, chưa đến địa chỉ cũ của Công ty Lữ hành Thông Giang thì nhìn thấy một cái ao to bên đường, chắc là hồ nhân tạo dẫn nước từ sông Thanh An vào. Đã gần tối nhưng vẫn nhìn rõ lác đác lá sen mới mọc. Tất nhiên, vào mùa hạ thì sẽ nghe được cả “tiếng ếch kêu rộn rã”. Na Lan WeChat cho Sở Hoài Sơn câu cuối cùng, “Đã đến nơi!”
Taxi bỗng phanh lại, anh lái xe lầm bầm, “Chết dở!” Rồi anh ta kêu lên, “Sao người đẹp không nói trước, tại sao lại thành ra thế này?”
Phía trước đèn bật sáng trưng, hơn chục xe cảnh sát và xe cứu thương đỗ kín mặt đường, những dải băng “cấm vào” màu vàng căng khắp chốn. Na Lan nói, “Đúng là đây. Xin lỗi nhé, bắt anh phải lái xe không quay về.” Cô trả tiền xe rồi đi thẳng vào hiện trường.
Đúng như cô nghĩ, các cảnh sát đã chạy ra chặn cô lại. Cô nhắc đến tên Ba Du Sinh, họ cũng chưa đồng ý ngay, mà lần lượt thông báo cho nhau, rồi đến tai Ba Du Sinh. Anh phải đích thân ra đón cô vào.
Khung cảnh này cho thấy chắc chắn họ đã có những phát hiện quan trọng.
Ban chỉ huy lâm thời xử lý hiện trường đặt tại quầy tiếp tân của nhà khách Thông Giang năm xưa, cũng tức là cửa vào của toàn bộ hệ thống hầm phòng không. Trước khi vụ nổ xảy ra, ở đây có một gian phòng nhỏ treo biển “Công ty Lữ hành Thông Giang”. Giờ đây là khoảng trống, có hai xe hòm in chữ “Công an Giang Kinh” đỗ ở cửa ra vào, bật đèn công suất lớn sáng trưng.
Trong đêm tối, hiệu quả của đèn điện chỉ có thể là sáng chói nhưng không đủ sáng khắp chốn.
Nếu không có những dải băng màu vàng đánh dấu thì khó mà nhìn thấy cửa vào hầm phòng không. Ba Du Sinh nói, “Sau vụ nổ năm xưa, gian tiếp tân và một phần của hệ thống ngầm bị tàn phá nặng, bị sập, ảnh hưởng đến toàn bộ kết cấu của nó. Thoạt đầu dường như không thể đi xuống dưới nữa. Cảnh sát và những người tình nguyện đã cố đào một lối thông xuống để cứu nạn nhân, rồi khôi phục được một phần của hầm phòng không.”
Na Lan nhìn anh, “Như thế cũng là vô tình tạo điều kiện cho hung thủ?”
Ba Du Sinh chỉ im lặng, hơi cúi đầu, lặng lẽ dẫn cô vào. Anh đi nhanh nhưng bước chân nặng nề. Kim Thạc đến gần đưa cho Na Lan một tập giấy tờ, nói, “Đây là toàn bộ hồ sơ bệnh án của Mễ Trị Văn chúng tôi vừa sưu tầm gấp, chưa chắc đã đủ 100%, cô cứ cầm mà xem.”
“Đã phát hiện ra những gì rồi?” Na Lan cầm tệp giấy. “Hàn Tây có trong kia không?”
Ba Du Sinh lắc đầu. Lòng Na Lan trĩu nặng.
“Không. Và cũng chưa tìm thấy xác cô ấy.” Ba Du Sinh nói. Na Lan thấy nhẹ nhõm hơn, nhưng Ba Du Sinh ngừng bước, rồi “Nhưng…” ngụ ý một tin xấu.
Cô hỏi luôn, “Nhưng thế nào?”
“Tôi có thể nói rằng, cô không nhất thiết phải nhìn tận mắt hiện trường.”
Na Lan lắc đầu, “Nói là nói vậy, nhưng em nhất định phải xem, em không muốn bỏ qua bất cứ manh mối nào có thể có ở hiện trường. Nhìn khung cảnh này, đoán rằng các anh đã tìm thấy xác?”
“Không chỉ có một,” Ba Du Sinh buông thõng.
Dù đã được cảnh báo, Na Lan vẫn chưa chuẩn bị đủ tinh thần để đối mặt với tất cả.
Từ sâu bên trong hệ thống hầm, các bộ hài cốt lần lượt được phát hiện.
Na Lan nhìn thấy sáu bộ đều đang ở nguyên vị trí cũ, chưa chuyển ra. Những người vào đầu tiên cho biết, đi được vài bước đã thấy dấu vết đào bới mới trên nền xi măng và chỗ tường sập vì vụ nổ, họ bèn đào những chỗ đất xốp ấy lên xem sao, thì thấy lần lượt từng bộ hài cốt.
Bước đầu phán đoán rằng số hài cốt này mới được “bổ sung” vào đây.
Để kết luận rõ các nạn nhân này là ai, còn phải chờ giám định, nhưng sơ bộ phán đoán không mấy khó khăn, vì bên cạnh các bộ hài cốt đều có vài dấu hiệu chỉ dẫn như ảnh, chứng minh thư, thẻ ngân hàng. Đó là Lư Bình, Tiết Hồng Yến, Lý Vĩ Phần… nạn nhân trong các vụ án “ngón tay khăn máu”.
Họ qua đời khi tuổi xanh đang trào nhựa sống, bị chôn dưới đất không rõ phương hướng, rồi chuyển vào nhà mồ của cùng một vụ huyết án.
Na Lan dán mắt nhìn vào bộ xương vừa đào lên, Đường Tĩnh Phương, bộ xương khô nhỏ, đầu Na Lan bỗng hiện lên hình ảnh giãy giụa tuyệt vọng trong cơn ác mộng. Thì ra sự sống mong manh làm sao!
Mình cứng cỏi.
Mình là người may mắn sống sót.
Mình không có cách gì để cứu họ.
Mình bất lực.
Rồi mình cũng sẽ như họ, trở về với cát bụi.
Na Lan bỗng thấy chóng mặt, đầu nhức kinh khủng.
Ba Du Sinh biết gần đây Na Lan nhiều lần bị tổn thương thể xác và tinh thần, anh đưa tay đỡ cô rồi gọi một nữ cảnh sát đang đứng gần, “Đỡ cô ấy ra ngoài cho thoáng khí.”
Na Lan ngăn lại, “Không cần đâu!”
Mễ Trị Văn thật đáng ghét, cũng như mấy cửa ải trò chơi lần trước, lão chỉ dẫn tung tích các nạn nhân của vụ “ngón tay khăn máu”, nhưng lại không cho biết địa điểm hiện tại của Hàn Tây.
Ba Du Sinh ra hiệu cho nữ cảnh sát cứ đưa Na Lan ra. Cô đã không đứng nổi nữa, gan lì cũng vô ích, đành để cho người phụ nữ to vâm ấy dìu lên mặt đất.
Ba Du Sinh thở dài nhìn theo họ đi khỏi chỗ ngoặt.
“Báo cáo đội trưởng, lại một bộ xương nữa!” Ba Du Sinh lập tức tập trung chú ý trở lại công việc.
Mã Vân, Chu Kế Lôi.
Liên tiếp đào thấy hai bộ hài cốt.
Cả Sở Công an thành phố công nhận rằng Ba Du Sinh thuộc nhóm cảnh sát rắn nhất, đã trải qua vô số hiện trường ghê rợn, nhưng chưa lần nào anh cảm thấy kinh khủng như lần này.
Việc đào bới diễn ra nhanh chóng nhưng anh cảm thấy thời gian dường như ngừng trôi.
Sau hơn một giờ nữa lại tìm thấy hai bộ hài cốt!
Thời gian trôi đi chẳng biết lâu hay chóng, Kim Thạc bước lại nói, “Các anh em đã đào cạn kiệt, kết thúc được rồi.”
Ba Du Sinh ngạc nhiên, “Thế nào là cạn kiệt?”
“Đào đến đáy. Nếu đào tiếp thì sẽ là nền xi măng. Toàn đội và các tổ đã xem xét kỹ, không còn chỗ nào đáng ngờ là có chôn xác nữa. Tường xi măng bên cạnh cũng là nhà khách cũ bỏ hoang, bị hư hại nhẹ trong vụ nổ năm xưa, tôi nghĩ ít có khả năng là nơi chôn người. Vì cho đến giờ chúng ta đã đào thấy bằng hết các nạn nhân của vụ 'ngón tay khăn máu', ngoại trừ Hàn Tây.” Kim Thạc lặng lẽ nhìn Ba Du Sinh. Rồi lại nói, “Anh có cần cho đào thêm ở bên đó không?”
Ba Du Sinh như choàng tỉnh, anh định thần nghĩ ngợi. Cả khu nhà nghỉ cũ đổ nát rộng chừng 2 hecta, cảnh sát đào bới chưa được một nửa đã khui ra toàn bộ nạn nhân của một vụ án, liệu nửa kia có thể chôn vùi bao nhiêu bộ hài cốt chưa từng được lập hồ sơ? Liệu có hài cốt của Văn Nhược Phi trong đó không? Lý trí đã thắng. Anh nói, “Tạm thời chưa cần.” Rồi anh quay sang nói với các kỹ thuật viên, “Tiếp tục lấy mẫu xét nghiệm.” Anh lại nói với Kim Thạc, “Hai chúng ta sẽ xem lại thật kỹ hiện trường khai quật, gắng không bỏ sót một manh mối nào.”
Không ai có thể hiểu tâm trạng bề bộn của Ba Du Sinh lúc này.
Hiện trường thê thảm, rùng rợn.
May sao không có dấu vết của Văn Nhược Phi.
“May sao”, e là không đúng, quá lạnh lùng. Nhưng Ba Du Sinh cũng được chút an ủi.
Và cũng càng hoang mang.
Dường như Văn Nhược Phi rất phù hợp với các đặc điểm của vụ “ngón tay khăn máu”, xinh đẹp, tên cũng có bộ Thảo, gia cảnh cũng bất hạnh… Sau khi Văn Nhược Phi mất tích, Ba Du Sinh mới dần biết thêm, cô không quản ngại đến tận Giang Kinh xa xôi, vì cô muốn đi khỏi gia đình càng xa càng tốt.
Không ai nhận được ngón tay của Văn Nhược Phi, đây là điểm khác căn bản với vụ “ngón tay khăn máu”.
Những phát hiện hôm nay lại chứng minh thêm rằng Văn Nhược Phi không nằm trong diện nạn nhân của vụ án này.
Vậy cô đang ở đâu?
Dòng suy nghĩ của Ba Du Sinh lại bị gián đoạn bởi tín hiệu của máy bộ đàm. Cảnh sát thông tin của ban chỉ huy trên mặt đất thông báo Trần Ngọc Đống cần nói chuyện với anh ngay.
“Chuyển tín hiệu sang cho tôi!” Ba Du Sinh nói.
“Mau đi tìm Na Lan!” Giọng Trần Ngọc Đống vô cùng lo lắng.
Ba Du Sinh thấy hơi lạ, anh nói, “Cô ấy và tôi đang ở… cùng một hiện trường, vừa nãy vẫn trông thấy cô ấy… Anh gọi di động không thấy à?” Nhưng Ba Du Sinh cũng cảm thấy không ổn, “vừa nãy” tức là cách đây hơn một giờ. Một giờ, 60 phút, quá đủ để xảy ra nhiều chuyện!
“Di động của cô ấy không liên lạc được.”
Linh cảm chẳng lành. “Có lẽ ở đây lắm tiếng ồn, cô ấy không nghe thấy… tôi sẽ đi tìm. Có việc gì à?”
“Dặn cô ấy phải cẩn thận, anh cũng thế.” Trần Ngọc Đống hơi ngắc ngứ như có điều khó nói, nhưng rồi ông cũng nói luôn, “Nạn nhân tiếp theo của vụ 'ngón tay khăn máu' chính là Na Lan!”
Ba Du Sinh lập tức gọi bộ đàm cho cảnh sát thông tin của Ban chỉ huy, bảo họ gọi ngay Na Lan để nói chuyện. Hai phút trôi đi sao mà lâu, anh ta báo cáo rằng không tìm thấy Na Lan, Ba Du Sinh nghĩ bụng “Gay rồi!”. Anh cùng Kim Thạc đi ra khỏi khu hầm phòng không.
Kim Thạc ra lệnh cho mọi người trên mặt đất ngừng công việc, dốc sức đi tìm Na Lan.
Na Lan biến mất.
Ba Du Sinh thử gọi vào di động của cô, cũng không thấy gì.
Anh lập tức gọi cho Trần Ngọc Đống. “Anh ạ, tại sao anh lại nói là Na Lan?”
“Lúc nãy tôi đang bàn với cô ấy về các tình tiết vụ án, nửa chừng tôi dừng lại để tra tài liệu, khi tôi gọi lại… vào di động của cô ấy thì không thấy gì nữa.” Tâm trạng Trần Ngọc Đống dường như cũng rối bời, nói năng không gãy gọn. “Nhắc lại vậy, lúc nãy chúng tôi đang đoán rằng tên đồng bọn của Mễ Trị Văn…”
Điện thoại của Trần Ngọc Đống gián đoạn.
Ba Du Sinh lại thầm kêu lên “gay rồi”.
Chương 33: Hương lan đâu còn
Na Lan được nữ cảnh sát dìu lên chỗ ban chỉ huy trên mặt đất. Gió xuân nhè nhẹ khiến đầu cô bớt nhức, nhưng trong bụng cứ như có một con rắn đang sục sạo, chị cảnh sát đưa cho chai nước khoáng, Na Lan uống một ngụm nhưng lại nôn ra ngay.
Đầu óc cô ngổn ngang toàn là hình ảnh Ba Du Sinh và đồng đội đang lần lượt đưa từng bộ hài cốt ra ngoài trời. Sẽ còn có nhiều bộ hài cốt được tìm thấy. Mọi người đã đến quá muộn.
Để tâm trí nguôi ngoai, cô tìm một chỗ tương đối sáng bên cạnh chiếc xe hòm của cảnh sát, tựa lưng vào đó, thử mở đọc tập hồ sơ bệnh án của Mễ Trị Văn mà Kim Thạc đưa cho lúc nãy.
Nếu tập hợp đầy đủ tư liệu do các bệnh viện bình thường và bệnh viện tâm thần cung cấp, thì sẽ dày bằng cuốn tiểu thuyết tầm cỡ sử thi. Bệnh án sớm nhất là năm 1979, cách đây 30 năm, khi vụ án “ngón tay khăn máu” đầu tiên xảy ra. Có phải chỉ là trùng hợp không?
Theo bà già “chị Triệu” ở nhà phúc lợi nhớ lại, thì cuối năm 1960 cậu bé Mễ Trị Văn tự ý bỏ đi khỏi cô nhi viện, cho đến năm 1979 là khi bắt đầu có hồ sơ bệnh án của bệnh viện Nhân Dân số 3 Giang Kinh này, thì “truyện ký” về Mễ Trị Văn bỏ trống ít ra là mười năm. Na Lan tiếp tục giở xem, các kết luận khám bệnh, ghi chép phòng khám, ghi chép nhập viện, ghi chép kiểm tra khi nằm viện… vô số các thông tin có vẻ như chẳng liên quan gì.
Chuông di động reo vang, Trần Ngọc Đống gọi.
“Nghe nói công an Sở và Khu đang huy động phần lớn lực lượng, tôi gọi điện cho Ba Du Sinh mãi mà không được, tại sao thế?” Trần Ngọc Đống không vòng vo, hỏi thẳng luôn. Cũng không có gì là lạ, tuy đã cởi mũ giáp về quê, ông vẫn còn vô số “tai mắt” trong hàng ngũ công an.
Na Lan đáp, “Anh ấy đang ở dưới lòng đất, di động mất sóng. Chú cứ gọi vào ban chỉ huy rồi họ sẽ liên lạc bằng bộ đàm.”
“Ban chỉ huy nào? Cháu cho tôi biết sơ qua tình hình được không?”
Na Lan vắn tắt, “Phát hiện rất nhiều hài cốt ở nhà khách của Lữ hành Thông Giang.” Không thể nói kỹ hơn.
Trần Ngọc Đống thở dài thườn thượt. Lát sau ông nói, “Chúng ta còn cách hung thủ bao xa?”
“Cảm giác là đã rất gần. Ít ra Mễ Trị Văn không thể là người vô tội. Mấy hôm nay cháu đọc tư liệu về một số thanh thiếu niên quen hành hạ ngược đãi động vật, sau này lớn lên nếu không mắc chứng thần kinh thì phần lớn sẽ biến thành hung thủ tàn độc.” Na Lan trấn tĩnh, tự nhủ phải suy nghĩ cho mạch lạc. “Mễ Trị Văn đồng thời cũng là người rất thông minh… Vụ 'ngón tay khăn máu' trải dài ba mươi năm mà vẫn kín như bưng, phải là do kẻ vô cùng thông minh đạo diễn và rất có khả năng không phải chỉ do một kẻ thông minh gây ra. Giả sử Mễ Trị Văn có đồng bọn, và duy trì liên lạc suốt nhiều năm như vậy thì nhất định chúng phải có quan hệ giao lưu trong đời sống.”
Trần Ngọc Đống hỏi, “Cảnh sát điều tra về quan hệ xã hội của lão, kết quả ra sao?”
“Chẳng có gì cả. Không chút tiến triển. Đời lão gắn liền với nhà tù, bệnh viện, tiếp xúc xã hội gần như bằng không. Thời gian ở bệnh viện chiếm phần lớn cuộc đời Mễ Trị Văn, cho nên cháu đang đọc toàn bộ tư liệu về bệnh tật của lão.”
“Cháu định tìm kiếm thứ gì trong đó?”
“Quy luật. Nhưng là quy luật gì, cháu đã đọc sơ sơ mà chưa nhận ra. Đành đọc lại vậy.” Nói rồi cô mở bệnh án sớm nhất của Mễ Trị Văn, năm 1979.
Trần Ngọc Đống kết thúc, “Không làm phiền nữa. Cháu cứ đọc đi. Ta duy trì liên lạc nhé!”
Đúng lúc ấy Na Lan nhìn thấy một cái tên quen thuộc trong số ghi tuần phòng của bệnh viện.
Năm 1979, Mễ Trị Văn nằm viện vì viêm phổi, co thắt phế quản, bác sĩ điều trị đóng dấu khắc chữ kiểu Tống thể[1] tên là Bạch Kính Phủ. Các ghi chép kiểm tra do Bạch Kính Phủ, bác sĩ nội trú Ngô Tường hoặc các bác sĩ thực tập viết. Một trong ba bác sĩ thực tập tên là Chu Trường Lộ.
[1] Lối viết chữ Hán thịnh hành đời Tống, nét sổ đậm, nét ngang gầy.
Na Lan sửng sốt, nhiều ý nghĩ lướt qua trong đầu cô.
Trần Ngọc Đống nghe thấy di động của Na Lan vẫn “tu tu” chưa tắt máy, bèn hỏi, “Na Lan? Cháu vẫn nghe à? Sao thế?”
“Cháu cho chú biết một cái tên, là Chu Trường Lộ.”
Trần Ngọc Đống ngạc nhiên, “Giám đốc bệnh viện?”
Na Lan nhanh tay giở tiếp, càng giở càng phát hoảng.
“Năm 1979 Chu Trường Lộ bấy giờ còn là bác sĩ thực tập, đã từng tiếp xúc với Mễ Trị Văn. Năm 1982 Mễ Trị Văn nằm Bệnh viện Số 2 trực thuộc Đại học Giang Kinh, Chu Trường Lộ cũng điều trị cho lão. Trong một lần khám bệnh ở Bệnh viện Số 2 năm 1984, bác sĩ nội trú Chu Trường Lộ khám và kê đơn cho lão. Năm 1988 Chu Trường Lộ là bác sĩ điều trị cho Mễ Trị Văn ở Bệnh viện Số 2. Năm 1993 Mễ Trị Văn đến bệnh viện Kim Hoa tuyến cơ sở khám bệnh, bác sĩ phó chủ nhiệm Chu Trường Lộ tiếp lão ta. Năm 1995 Mễ Trị Văn nằm bệnh viện Kim Hoa, Chu Trường Lộ là bác sĩ trưởng khoa Nội. Từ sau năm 1999, Mễ Trị Văn hoặc vào tù hoặc nằm viện tâm thần, hoặc đi khám và nằm viện ở bệnh viện Phổ Nhân. Chúng ta có thể nhanh chóng tra ra, cuối thập kỷ 1990 Chu Trường Lộ có được điều động làm chủ nhiệm khoa Nội bệnh viện Phổ Nhân hay không.”
Trần Ngọc Đống nói, “Tôi lên mạng tra luôn.” Nửa phút sau ông xác nhận, “Đúng thế, trang web của Phổ Nhân giới thiệu về Chu Trường Lộ, từ năm 1988 được điều từ bệnh viện Kim Hoa sang bệnh viện Phổ Nhân! Một quy luật rất rõ ràng!”
Na Lan bổ sung, “Còn một quy luật nữa, Chu Trường Lộ thời niên thiếu mất người thân, Mễ Trị Văn thời niên thiếu cũng mất bà mẹ!” Na Lan bỗng nghĩ đến một điều. “Phiền chú tra hộ, trên mạng có bài viết về Chu Trường Lộ không? Ông ta từng được nhận nhiều giải thưởng, đăng nhiều nghiên cứu y học thì chắc phải có nhiều bài đưa tin.”
Trần Ngọc Đống tra cứu một lúc, rồi trả lời, “Đúng là có một số manh mối. Ví dụ, bài này nội dung rất chung chung nhưng cũng có một câu thú vị. Chu Trường Lộ sinh ở vùng núi Huệ Sơn, cha mẹ mắc bệnh rồi lần lượt qua đời, nỗi đau khiến cậu bé quyết tâm học hành trở thành một thầy thuốc giỏi để cứu giúp người bệnh.”
Na Lan chực nhảy dựng dậy, “Cha mẹ chết sớm… tức là ông ta trở thành trẻ mồ côi.”
“Cô nhi viện! Lại một quy luật nữa.”
Trần Ngọc Đống nói, “Cháu chờ nhé, tôi sẽ gọi ngay cho chị Triệu ở nhà phúc lợi. Nếu đúng Chu Trường Lộ từng ở cô nhi viện thì rất có thể hồi đó đã quen Mễ Trị Văn.”
Trần Ngọc Đống nói chuyện nhanh với chị Triệu, ba phút sau ông gọi lại cho Na Lan nhưng không được nữa.
Kinh nghiệm ba mươi lăm năm trực tiếp làm trinh sát hình sự khiến Trần Ngọc Đống hình dung được, hiện trường vụ trọng án rất ồn ào, đông người qua lại trao đổi ý kiến, các loại thiết bị thông tin, sóng vô tuyến điện chồng chéo… cho nên Na Lan tạm không nghe thấy thì cũng không có gì là lạ. Rất có thể cô đang tìm Ba Du Sinh để báo cáo về phát hiện mới của mình, tuy chưa phải là chứng cứ xác đáng nhưng Ba Du Sinh vẫn nên cử người đi “triệu tập” ngay Chu Trường Lộ và tạm giam lại đã.
Trần Ngọc Đống chăm chú nhìn ảnh Chu Trường Lộ trên mạng, vô số ý nghĩ trỗi dậy. Nên cảm ơn khoa học kỹ thuật tiến bộ đã trợ giúp công tác hình sự. Mình tuy già nhưng không lạc hậu, sớm nhận ra những thành tựu khoa học đại chúng như mạng Internet sẽ làm thay đổi xã hội nên đã tự xóa mù máy tính từ nhiều năm nay. Quan hệ giữa Chu Trường Lộ và Mễ Trị Văn trông qua sơ sài nhưng thực chất có thể rất sâu sắc và đáng sợ, bề ngoài sơ sài ấy lại được che giấu kín kẽ ngay trước mắt cảnh sát!”
Điều rất khó hiểu là, vụ án “ngón tay khăn máu” ba mươi năm bế tắc, tiến triển chậm rì, tại sao Mễ Trị Văn bỗng dưng ló mặt ra, tìm Na Lan rủ chơi ú tim chữ nghĩa, và gần như đầu thú? Đã có ai nghe nói kẻ máu lạnh giết người hàng loạt lại đầu thú chưa? Thật ra trò chơi của chúng là gì?
Tấm ảnh trên mạng, Chu Trường Lộ đang mỉm cười, nụ cười trong sáng hiền hòa và cũng giản đơn như khung cảnh phòng làm việc trong tấm ảnh, không bố trí màu mè rườm rà. Vật duy nhất có vẻ dùng với mục đích trang trí là một bức tranh thủy mặc treo trên tường.
Trần Ngọc Đống bỗng ớn lạnh.
Ông phóng to bức ảnh, phóng to nữa, rồi cúi sát màn hình. Đó là bức tranh vẽ khóm hoa lan dịu êm thanh nhã, nở giữa hai mỏm đá hình thù kỳ dị tự nhiên, không nhìn rõ dòng lạc khoản[2] nhưng ghi bốn chữ to, phồn thể, đặt tên bức tranh là “Không cốc u lan”.
[2] Dòng ghi tên tác giả, ngày tháng sáng tác…
Không cốc u lan[3].
[3] Lan trong thung vắng.
Chữ Lan trùng tên Na Lan.
Chữ Lan phồn thể có bộ Thảo bên trên.
Ông lập tức hiểu ra, mục tiêu tiếp theo, nạn nhân của Chu Trường Lộ và Mễ Trị Văn chính là Na Lan!
Trần Ngọc Đống lại gọi vào di động của Na Lan, vẫn im lặng.
Dấu hiệu chẳng lành!
Ông đeo cái ba lô “tình trạng khẩn cấp” rồi bước ra cửa, vừa chạy xuống gác vừa gọi điện cho Ba Du Sinh, cũng không được, nhưng máy hiện ra câu gợi ý “gọi vào ban chỉ huy hiện trường”. Ông làm theo.
Trần Ngọc Đống lại định mượn chiếc Satana của ông bạn cựu lái xe, nhưng ra khỏi khu nhà được mấy bước thì trông thấy một chiếc taxi đang từ từ chạy ra ngoài. Quá tốt, sẽ tranh thủ được thời gian. Ông lên taxi.
Đã liên lạc được với ban chỉ huy hiện trường, Trần Ngọc Đống nói muốn gặp Ba Du Sinh về việc liên quan đến vụ án “ngón tay khăn máu”. Viên cảnh sát thông tin ngờ ngợ, nhưng vẫn chuyển máy đến Ba Du Sinh.
Anh lái xe hỏi, “Bác định đi đâu?”
“Chờ lát nữa tôi sẽ bảo cậu.” Trần Ngọc Đống đáp, định sẽ cho Ba Du Sinh biết phỏng đoán của mình, hỏi anh địa chỉ của Chu Trường Lộ và đến thẳng nhà ông ta. Ông biết Na Lan vừa biến mất, nếu Chu Trường Lộ đúng là hung thủ thì ông ta sẽ không có nhà, nhưng trong nhà ông ta có thể có Hàn Tây chưa kịp “xử lý”.
Sau khi hỏi và xác nhận đúng là Na Lan mất tích ở ngay hiện trường, Trần Ngọc Đống vốn dân hình sự già đời mà không khỏi hoang mang. Ông nói với Ba Du Sinh, “Lúc nãy chúng tôi đang đoán rằng tên đồng bọn của Mễ Trị Văn…”
Đây là câu nói cuối cùng của Trần Ngọc Đống trước khi ông bị đánh ngất lịm.
Nghe xong tin Trần Ngọc Đống gọi điện cho chị Triệu ở nhà phúc lợi, Na Lan đờ đẫn mất mấy giây. Tại sao lại là Chu Trường Lộ? Tại sao ông ta lại gây ra vụ án “ngón tay khăn máu”? Na Lan nhận ra mình còn biết quá ít về Chu Trường Lộ, cô không biết nên suy diễn tâm lý học từ đâu nữa. Đầu óc cô thoáng chớp lên những hình ảnh rời rạc, lễ thắp nến kỷ niệm ở nghĩa trang Vạn Quốc, mắt rớm lệ khi phát biểu, bà chị bị ngược đãi rồi chết, ngôi mộ tượng trưng trong hang núi Huệ Sơn, tổ chức Tiếng Lòng… Cô bừng tỉnh, lập tức nhìn quanh tìm viên cảnh sát phụ trách thông tin nhờ gọi Ba Du Sinh để nói với anh về phỏng đoán của mình đối với Chu Trường Lộ. Di động bỗng réo vang. Na Lan ngỡ là Trần Ngọc Đống gọi, chắc là vì chưa ông tìm thấy chị Triệu. Cô nhìn di động, một số máy lạ, và có một đoạn video nhấp nháy trên màn hình.
Hình ảnh không nét, khung cảnh mờ nhòe, hẳn là quay bằng di động ở một nơi thiếu ánh sáng, nhưng Na Lan nhận ra cô gái trong đó là Hàn Tây! Cô đã được xem ảnh Hàn Tây, vẫn nhớ Hàn Tây mặc chiếc áo thụng tơ tằm màu lam, quần bò màu trắng. Cô gái trong video này phù hợp. Hàn Tây ngồi trên ghế đẩu, hai tay bị trói ngoặt ra sau, mồm bị nhét giẻ, đang rên rỉ yếu ớt, “Cứu tôi với… xin ông thả tôi ra…”
Mắt nhòa lệ.
Tiếp theo là cảnh khác, một thanh niên gầy gò ngồi trên ghế đẩu, mặc sơ mi vải bông màu xanh, hai tay cũng bị trói, đầu cúi xuống im lặng.
Dù anh ta không ngẩng đầu, Na Lan cũng vẫn nhận ra, đó là Sở Hoài Sơn.
Cuối cùng là mẩu tin nhắn nặc danh: Muốn tìm thấy Hàn Tây và Sở Hoài Sơn thì phải làm theo chỉ dẫn, cấm nói với bất cứ ai, nếu không cả hai đứa sẽ chết ngay! Bắt đầu, ra khỏi hiện trường, rẽ phải vào đường Hoa Sơn, đi 300 mét, tiếp tục nghe chỉ dẫn.
Na Lan lại nhìn xung quanh, có kẻ nhìn thấy mình đang đứng đây chắc? Nếu mình làm trái, hắn biết được hay sao? Tất nhiên nếu cảnh sát xuất hiện thì hung thủ sẽ giết người rồi chuồn. Nhưng nếu mình cứ nghe theo thì kết quả sẽ ra sao? Sẽ sa cơ, nhưng chí ít mình cũng có thể làm chút việc gì đó.
Những ngày qua hợp tác với Sở Hoài Sơn, động viên anh ra khỏi căn nhà nhỏ, hai lần được anh ứng cứu, Sở Hoài Sơn trong lòng Na Lan không chỉ là người hợp tác mà còn là một người bạn khiến cô sẵn lòng trợ giúp. Chấp nhận yêu cầu của kẻ nặc danh cũng tức là dấn thân vào vòng nguy hiểm, nhưng hung thủ đang nắm giữ hai mạng người, cô không thể không mạo hiểm vì họ.
Hình như đọc thấy tâm trạng do dự của Na Lan, tin nhắn lại bắn đến: Từng hành vi của cô đều trong tầm mắt tôi. Di động của cô, tôi đã kiểm soát được. Chớ nghĩ gì khác nữa.
Trước đây Na Lan có nghe nói về phần mềm vi rút kiểm soát di động của người khác từ xa, không ngờ hôm nay cô lại hân hạnh thực mục sở thị thế này. Có đúng kẻ kia nhìn thấy cô thật không? Bằng ống nhòm chuyện dụng, hay chỉ là trò hư trương thanh thế? Tính mệnh của Hàn Tây… không cho phép cô có lựa chọn nào khác, cô ra khỏi hiện trường, đến đầu đường Hoa Sơn, rẽ vào.
Cảnh sát ở hiện trường đều đang tất bật, không ai để ý Na Lan đã đi ra ngoài.
Đi dọc đường Hoa Sơn hơn 200 mét, ngang qua khu vực bỏ hoang của nhà khách Thông Giang, hai bên đường có một số hàng quán nhưng hầu hết đã đóng cửa, trên đường chỉ lác đác vài bóng người nhìn ngó về phía hiện trường tìm kiếm cứu nạn.
Lại một tin nhắn nữa: Rẽ phải vào ngõ Kỳ An, đi tiếp chừng 35 mét.
Đúng là trước mặt có ngõ Kỳ An. Na Lan rẽ vào, chưa rõ chừng nào là 35 mét, cô đi được độ mười bước thì lại có tin nhắn: Rẽ phải phố Giang Bình, đi khoảng 80 mét.
Na Lan rẽ tiếp vào phố Giang Bình. Đi thế này giống kiểu ngoặt trở lại gần khu vực bỏ hoang nhà khách Thông Giang.
Đúng thế, đi hết phố Giang Bình thì gặp khu vực bỏ hoang ấy, diện tích rộng đến 2 hecta, gian tiếp tân cũ nằm ở góc đông bắc, cảnh sát mới chỉ khám xét đào bới được non nửa. Chỗ này cách chỗ đào bới và cách ban chỉ huy hiện trường rất xa, lại có hàng rào dây thép gai ngáng trở, tưởng như nằm trong tầm mắt của cảnh sát nhưng thật ra rất độc lập chơ vơ.
Lại có tin nhắn: Dây thép gai bên lề phải phố Giang Bình có chỗ đã bị cắt, nhấc sang bên rồi đi vào.
Cô bước sang phải, chú ý quan sát dây thép gai, quả nhiên nhìn thấy chỗ bị cắt nhưng được gá tạm vào rất khéo, không dễ nhận ra. Cô kéo dây thép gai, bước qua, đi tiếp vào bãi hoang đổ nát, để nguyên “cái cửa” chứ không khớp lại như trước.
Tin nhắn: Hãy gắn dây thép gai trở lại như cũ.
Na Lan bất giác ngoảnh nhìn xung quanh, trời tối đen, tất nhiên không nhìn thấy ai. Hay là có kẻ luôn bám theo phía sau mình? Cô đành xếp lại “cửa vào” dây thép gai. Rồi lại nhìn di động. Có tin nhắn mới: Đi tiếp khoảng 30 mét, bên trái có tấm bê tông vuông nhô lên.
Na Lan bước đi, giẫm lên rất nhiều mảnh bê tông vỡ, đá vụn, rồi nhìn thấy một tấm bê tông vuông vức cao hơn mặt đất chừng hai gang tay, phủ đầy cỏ dại đất cát, phía dưới nó là cửa chui xuống đất.
Lại một tin nhắn: Dọn hết gạch trước cửa.
Trước cái cửa là một đống gạch vỡ. Na Lan nhét di động vào túi quần bò rồi cúi xuống dọn đám gạch vỡ sang bên. Năm phút sau lại có tin nhắn: Đẩy cửa chui xuống.
Cánh cửa dày nặng, Na Lan vận hết sức lực đẩy nó sang bên. Phía dưới là một cầu thang. Thì ra đây là một lối ra của khu hầm phòng không ngày trước.
Lại có tin nhắn: Đi xuống. Có tìm thấy hay không, tùy vào vận may của cô. Xin chào!
Đi xuống, là không còn sóng di động nữa.
Na Lan biết, bây giờ trò chơi mới thực sự bắt đầu.
Cô lấy đèn pin trong túi ra soi. Đây là một cầu thang xi măng khá hoàn chỉnh. Cô bước dần xuống. Hết bậc cuối cùng, gặp một cánh cửa sắt không nặng lắm, không khóa, đẩy ra dễ dàng. Sau cửa là một hành lang chạy dài, hai bên hành lang là các căn phòng nhỏ đánh số 462, 463, 464… cứ thế đi tiếp, thì gặp một hành lang cắt ngang. Bây giờ là lúc cần lựa chọn nên rẽ bên nào.
Chiếu đèn pin về phía trước, thấy bằng phẳng. Chiếu sang phải, thấp thoáng có cầu thang dẫn xuống, tức là xuống “tầng dưới”, sẽ càng gần địa ngục hơn.
Na Lan nhớ đến cái hố sâu Mễ Trị Văn đào hồi nhỏ, cô bèn rẽ phải.
Đành trông chờ ở vận may của mình vậy.
Đúng là có cầu thang đi xuống, hết cầu thang tới một cánh cửa. Đẩy cửa, lại bước vào một hành lang tối om.
Chơi vơi đi trong hành lang trống trải ngột ngạt, hơi lạnh và bóng tối vô tận vây quanh, Na Lan rùng mình, bất giác ngoái đầu lại suốt.
Có âm thanh… âm thanh gì đó?
Là tiếng bước chân? Tiếng thở hít? Hay chỉ là tiếng bước chân của chính mình?
Cô lia đèn khắp xung quanh. Đúng là ở đây chỉ có mình cô, cô đang chơi cái trò quái dị, một trò chơi mà cô sẽ thua là cái chắc! Không có thời gian để nghĩ nhiều nữa. Nếu tìm thấy Hàn Tây… cô ta còn sống không? Có phải hung thủ vẫn kè kè bên cô ta và chờ Na Lan, để cô chứng kiến hắn giết chóc?
Na Lan lại từ từ tiến tới.
Âm thanh kia lại vang lên, xen lẫn tiếng bước chân của cô. Là tiếng hít thở? Hay tiếng nói chuyện?
“Ai đấy?” Na Lan gọi to. Tiếng gọi “ai đấy…” đồng thời từ bốn bề dội lại, làm cô run rẩy.
Có lẽ đây là cái đích thực sự của trò chơi.
Có lẽ mình nên quay ra.
Cô mở di động. Không có sóng.
Chỉ còn cách liều lĩnh dấn bước.
Đã nhìn thấy vài dấu hiệu hư hại, một số vết nứt xi măng, những mảnh tường lở lói lộ cả cốt thép.
Âm thanh nọ dần dần nổi rõ, là tiếng khóc, nài xin, cứu tôi với… mọi người hãy cứu tôi…
“Hàn Tây!” Na Lan gọi to. Nhưng cô lập tức nhận ra mình sai lầm, tiếng vọng dồn dập dội lại khiến cô không thể định hướng tiếng kêu kia.
Cô chờ đợi trong bóng tối. Tiếng kêu cứu lại vọng đến, từ tầng sâu hơn nữa.
Nơi càng gần với địa ngục.
Cô bước về hướng phát ra âm thanh, càng lúc càng gần.
Cuối cùng, cô xác định được tiếng khóc phát ra từ một căn buồng nhỏ. Không nhìn thấy người, chỉ nhìn thấy một cái hố.
Chắc chắn căn buồng này là một phần của nhà khách Thông Giang ngày trước, bên trong vẫn còn một cái tủ áo xiêu vẹo, một cái ghế nhựa dập gãy. Nền sát tường trong cùng thì lõm xuống, xung quanh đắp đất lồi lõm nhấp nhô, một cái hố tối đen.
“Hàn Tây?” Na Lan gọi. Cô đứng trên miệng cái hố sâu nhìn xuống, một cô gái bị trói vào cái ghế, mái tóc ướt dính bết che hẳn nửa khuôn mặt. Hình như cô ta đã kiệt sức, không thể ngẩng đầu lên, chỉ khóc lóc rên rỉ, thỉnh thoảng nói, “Cứu tôi với…” Cô ta đã bị đày ải thế này bao lâu rồi? Trên nền đất gần đó cắm vài mẩu nến cháy tàn, cũng cạn kiệt như hy vọng của cô gái.
“Cố chịu đựng nhé, tôi đến cứu cô đây!”
Hàn Tây cố ngẩng đầu. Na Lan biết, đang trong bóng tối thì cô ta không thể nhìn thấy mình, cô đành quay ngược đèn pin soi vào mình, nói, “Cô nhìn thấy tôi không?”
Hàn Tây gật đầu. Hy vọng sống sót đã nhen nhóm, cô khóc to, “Xin cô mau cứu tôi ra, kẻo hắn…” Nhưng giọng cô bỗng nghẹn lại. Mãi về sau này Na Lan vẫn không thể quên vẻ mặt sợ hãi tột cùng của Hàn Tây, vẻ mặt khiến cô ngạt thở.
Na Lan lập tức hiểu lý do, nhưng đã quá muộn.
Hàn Tây đã nhìn thấy một bộ mặt gớm ghiếc lặng lẽ xuất hiện phía sau Na Lan. Na Lan định ngoảnh lại nhưng không kịp. Chỉ cảm thấy đầu mình bị một vật nặng giáng vào. Cô vốn đang cúi người, cú đòn này vừa khéo đẩy cô về trước, ngã nhào xuống hố.
Rơi xuống hố sâu.
Chìm trong hôn mê.
Chương 34:
Chương 35: Huyết án triền miên
Na Lan vẫn băn khoăn mấy điều, ai đã gửi vào di động của cô đoạn video Hàn Tây và Sở Hoài Sơn bị giam? Ai đã lần lượt nhắn tin buộc cô phải đi đến cửa sau của khu hầm phòng không, và ai đã đánh cô chết ngất?
Vấn đề then chốt là ai biết cô vội vã chạy suốt đêm đến địa điểm cũ của Công ty Lữ hành Thông Giang. Ngoài cảnh sát biết, và biết cách gửi video cho cô thì chỉ còn Sở Hoài Sơn. Lúc này anh ta không bị giam cầm ở cái hố này, vì anh ta vốn đang tự do chăng?
Cô còn nhớ Chu Trường Lộ từng nói mình rất dốt máy tính và mạng Internet, hoạt động của hội Tiếng Lòng trên trang web và weibo đều do Đổng Bội Luân phụ trách. Nếu lão nói đúng, thì rất ít khả năng là do lão trực tiếp gửi, mặc dù việc quay phim và gửi đi chẳng phải kỹ thuật gì cao siêu.
Nhất là, lão đồng thời lại phải bắt cóc Trần Ngọc Đống.
Khả năng duy nhất chỉ có thể là Sở Hoài Sơn.
Anh ta đã dụ cô đi sang đầu bên kia của khu đất hoang rộng 2 hecta, tiếp đó đánh cô chết ngất rồi vận chuyển cô và Hàn Tây đến đây.
Như thế, Chu Trường Lộ có thể ung dung ra tay với Trần Ngọc Đống.
Kế hoạch hợp tác hoàn hảo, kết quả hoàn hảo.
Na Lan băn khoăn, “Chỉ hiềm, tôi không hiểu tại sao anh ta lại làm thế?”
Trần Ngọc Đống đang “gần đất xa trời” vì đã bị chôn nửa người, bỗng lên tiếng, “Tại tôi.”
Chu Trường Lộ cười nhạt, “Ngươi đánh giá mình quá cao!” Một xẻng đất hắt xuống, rồi dừng lại, hình như lão đang do dự.
Trần Ngọc Đống nói, “Có khả năng Sở Hoài Sơn là con trai của La Cường.”
Na Lan kinh ngạc. Còn Chu Trường Lộ đứng trên kia vẫn do dự, không tỏ ra ngạc nhiên cũng không lộ vẻ khinh thường phỏng đoán nghe chừng hoang tưởng này.
“Tôi vốn rất tò mò về cộng tác viên tài ba này, tôi mắc tật xấu của dân hình sự là hay nghe ngóng. Về hưu rồi, rồi là triệu phú thời gian. May sao, trường trung học trực thuộc Học viện Âm nhạc không lớn, những người già trong khu tập thể của trường đều biết về nhà họ Sở, ông ngoại của Sở Hoài Sơn là Sở Tu Viễn, từng là hiệu trưởng trường trung học này, là chuyên gia về lý luận âm nhạc và giáo dục âm nhạc nổi tiếng toàn quốc. Nổi tiếng hơn nữa là ông có bốn cô con gái, được gọi là 'tứ tiên nữ'. Hai cô lớn là chị em sinh đôi, một cô lấy tư lệnh quân khu Tứ Xuyên, một cô về Bắc Kinh làm dâu một gia đình quan chức ở Bộ Ngoại giao. Còn hai cô con gái nữa, tuy hồi nhỏ không chịu khổ sở gì, nhưng trong thời cách mạng văn hóa vợ chồng Sở Tu Viễn bị đưa đi 'tẩy não', nên hai cô này không được học hành tử tế, chỉ ra ngoài lêu lổng. Nhất là cô Ba tên Sở Dung, rất thiếu nghị lực, quen sống buông thả, cho nên sau khi cách mạng văn hóa chấm dứt cô ta vẫn không có nghề nghiệp nghiêm chỉnh, chỉ nhờ nhan sắc xinh đẹp mà được nhiều tạp chí và hãng thời trang mời chụp ảnh quảng cáo, cô ta trở thành một trong những người mẫu thế hệ đầu tiên. Tìm hiểu đến đây tôi mới bắt đầu liên hệ với La Cường.”
La Cường mở một hiệu ảnh, hắn còn là một gã lưu manh có sở thích chụp ảnh người đẹp, mà là chụp trộm.
Trần Ngọc Đống nói tiếp, “Những ai biết về nhà họ Sở đều không trực tiếp nhắc đến La Cường. Họ chỉ biết vào giữa thập kỷ 1980, tức là sau khi kẻ đầu tiên liên can đến vụ 'ngón tay khăn máu' bị xử tử, mấy năm liền Sở Dung bặt tăm, hàng xóm thậm chí cho rằng ông hiệu trưởng họ Sở không chịu nổi đứa con gái quái dị bướng bỉnh bèn đưa con ra nước ngoài, hoặc nhờ một người chị nào đó dạy bảo giúp. Mãi về sau người ta mới nghe thấy trong ngôi nhà gác nho nhỏ ấy có tiếng trẻ sơ sinh khóc oe oe. Thời buổi ấy chưa chồng mà mang bầu là một chuyện tày đình, lại rơi ngay vào nhà thầy hiệu trưởng, cho nên thiên hạ không ngớt xì xào bàn tán. Người ngoài nhìn vào thì thấy dạo trước các bạn trai ở Sở Dung chạy qua chạy lại như đèn kéo quân, cho nên không thể xác định ai là cha đứa trẻ. Sở Dung sinh con rồi, vẫn trang điểm và hay đi chụp ảnh, nhưng cô như đã biến thành người khác, suốt ngày buồn bã âm thầm, không còn những nụ cười lả lơi, cũng không còn đám bạn trai mặc quần ống loe, đi giày mũi nhọn, tóc uốn xoăn tít bâu xâu xung quanh nữa. Chưa đầy hai năm sau, Sở Dung ốm rồi qua đời, hình như mắc bệnh ung thư máu. Vợ chồng hiệu trưởng Sở Tu Viễn bị sốc nặng, cũng lần lượt qua đời chưa đầy hai năm sau đó. Việc chăm sóc cậu con trai của Sở Dung do cô con gái thứ tư nhà hiệu trưởng đảm nhận. Thời kỳ đầu điều tra về La Cường, chúng tôi không hề nghe nhắc đến Sở Dung, chứng tỏ, nếu tôi đoán không nhầm, thì họ giữ rất kín mối quan hệ này. Khi nghe hàng xóm bàn tán về thời gian chửa đẻ của Sở Dung, về vụ tử hình La Cường, tôi có ngờ ngợ nhưng không xâu chuỗi được hai sự việc với nhau. Nay nghĩ lại, thấy rằng, nếu trở về Phòng Hồ sơ của Sở xem các tấm ảnh năm xưa được ở hiệu ảnh La Cường thì nhất định phải có Sở Dung.”
Nói xong, Trần Ngọc Đống ngẩng nhìn Chu Trường Lộ trên miệng hố, ông hơi ngạc nhiên, tại sao lão lại dừng tay khi đang ra sức lấp đất? Có phải vì lão cũng muốn lắng nghe câu chuyện phỏng đoán li kỳ của ông?
“Nói hết chưa?” Chu Trường Lộ hỏi. “Nếu không bận cầm xẻng thì ta phải vỗ tay hoan hô ngươi! Ngươi là gã thầy bói vuốt đuôi có tài, đúng không? Có những chuyện chẳng cần moi từ miệng hàng xóm cũng phải suy đoán được vài phần… Đồ cảnh sát đầu đất, bộ óc còn không bằng con bé Na Lan!”
Trần Ngọc Đống cười nhạt, “Lúc này ta thực sự là đồ cảnh sát đầu đất rồi. Đúng là nên cảm ơn ngươi.”
Chu Trường Lộ nói, “Ta biết ngươi luôn cắn rứt vì bắt nhầm giết nhầm La Cường, đúng không? Trước khi La Cường bị bắt thì Sở Dung đã trở về nhà bố mẹ, vì La Cường đánh đập cô ta rất khiếp, thương tích đầy mình, suýt nữa sẩy thai. Nhưng Sở Dung vẫn nhớ La Cường đến tận khi hắn bị xử tử, nhớ da diết ấy. Con người là loài động vật rất kỳ quái phải không? Có bao người bị ngược đãi nhưng vẫn không thể xa rời những kẻ khốn nạn đã đánh đập mình! Bởi vậy sinh con xong, Sở Dung mắc chứng trầm cảm nghiêm trọng. Có nhiều người mắc chứng trầm cảm sau khi sinh con, cảnh ngộ của Sở Dung càng dễ bị trầm cảm. Sau đó cô ta qua đời, thấy nói là vì ung thư máu… nhưng chắc cũng vì nhu cầu của gia đình ấy mà thôi.”
Na Lan giật mình, “Bà ta tự sát à?”
“Ta tiếc cho mày đang tới lúc tận số rồi, không còn cơ hội gặp Sở Hoan mà kiểm chứng sự thật nữa. Nhưng chẳng sao, đến giờ chắc mày cũng tin lời ta rồi. Ta từng quan tâm đến Sở Dung, muốn cô ta trở thành đối tượng của vụ 'ngón tay khăn máu', ta thậm chí đã từng tham gia cấp cứu cho cô ta.” Chu Trường Lộ hết sức đắc ý.
Na Lan thấy toàn thân ớn lạnh, “Ông không ngừng để mắt đến nhà họ Sở, chờ khi Sở Hoài Sơn trưởng thành sẽ dẫn dụ anh ta trở thành sát thủ!”
“Cuồng sát là do bẩm sinh, không ai dẫn dụ được. Vì đang nghiên cứu Suy diễn tâm lý học tội phạm, mày nên biết, kẻ giết người hàng loạt có những chỗ tương đồng. Ví dụ chỉ số IQ cao, giỏi che đậy, từ nhỏ tính tình khép kín, cô độc, thích ngược đãi động vật… Nhìn từ khía cạnh này thì có thể coi La Cường là đồng hành với bọn ta, Sở Hoài Sơn lại càng phù hợp hơn nữa, nó đâu cần ta phải dẫn dụ? Từ nhiều năm trước ta đã quan sát được những sở thích của nó, ta hiểu rằng nguyên lý cơ bản của di truyền học lại được kiểm chứng rất chính xác.” Chu Trường Lộ tự đắc ra mặt.
Tức là Sở Hoài Sơn cũng có sở thích ngược đãi động vật? Và, bệnh “sợ đám đông” chỉ là một trò lừa bịp thành công?
Hình như nhận ra mối nghi hoặc của Na Lan, Chu Trường Lộ nói, “Đúng là hắn mắc chứng sợ đám đông, nhưng đã được ta điều trị khỏi từ lâu, điều này ta chẳng cần khiêm tốn làm gì.”
Na Lan thở dài, “Tiếc rằng ông đã quên một điểm, Sở Hoài Sơn chắc chắn sẽ là một kẻ kế nhiệm kém cỏi.”
Chu Trường Lộ cười, “Đòn tâm lý chiến khá đấy, nhưng ta sẽ buộc mày phải hạ cờ.” Một xẻng đất hắt xuống trước chân Na Lan.
“Ông thấy chợn, vì tôi nhận xét rất có lý. Huống chi, tôi còn chưa trả lời câu hỏi của ông.” Na Lan vẫn tin vào lý luận “kẻ giết người hàng loạt rất thích thực hiện một nghi thức”.
“Đã lâu hơn 20 giây, mày không trả lời nổi thì phải chết.” Lại một xẻng đất nữa hắt xuống. “Nhận xét của mày chẳng có lý gì hết, Hoài Sơn và bọn ta rất đồng cảm, rất ăn ý, mày đã được lĩnh giáo rồi, nó còn thông minh hơn hẳn ta và Mễ Trị Văn, lần này chúng ta phối hợp với nhau không chút sơ hở, mày thấy rồi đấy!”
Na Lan nói, “Ông đừng nên tự dối mình và dối người, anh ta và các người căn bản khác nhau, con người ông và Mễ Trị Văn chỉ có hận thù, còn lòng anh ấy có tình yêu thương.”
Chu Trường Lộ im lặng, cái xẻng bắt đầu tăng tốc, đất đá hắt xuống đúng chân Na Lan, chỉ chốc lát đã ngập đến mắt cá chân.
Na Lan tiếp tục nói, “Tất nhiên anh ta cũng có nhiều mối hận, hận La Cường ngược đãi mẹ anh ta, hận vì La Cường bị giết nhầm khiến anh ta sớm mồ côi cha me, hận vì mình bị nói nhát gừng, hận những chốn đông người, nhưng được ông bà ngoại chăm sóc, được dì Tư là Sở Hoan nuôi nấng từ nhỏ đến lớn, đó là tình thương yêu gần như vô bờ bến.” Na Lan ngừng lời, lắc đầu hất những vụn đất dính bên khóe miệng, nói tiếp, “Anh ta thậm chí có năng lực để yêu!”
Mễ Trị Văn luôn trăn trở liệu mình có năng lực để “yêu” hay không, mỗi khi được phụ nữ say mê, phản ứng bản năng của lão là ấn định tình yêu thương hồi ấu thơ là thứ ác độc, cho nên lão mới gây ra nhiều vụ án cưỡng dâm nhưng bất thành.
Còn Chu Trường Lộ cười nhạt, “Mới vài lần thư tín qua lại, mà tưởng nó yêu mày hay sao? Thì ra mày cũng chỉ là hạng tầm thường mèo khen mèo dài đuôi, khiến ta thất vọng đấy!”
“Lời bình mèo khen mèo dài đuôi cũng có thể dành cho ông, thật ra Sở Hoài Sơn tìm đến nhập bọn với ông chỉ vì muốn tìm một kênh nhằm xả hận, xả giận tích tụ bao năm trời, điều này hoàn toàn có thể hiểu được. Nhưng liệu anh ta có tán thưởng những hành động ba mươi năm qua của ông và Mễ Trị Văn hay không? Anh ta đã trực tiếp làm hại ai chưa? Ranh giới giữa con người và ác quỷ chỉ cách nhau một sợi tóc, chỉ cần không vượt quá giới hạn đó, thì anh ta có thể quay đầu trở về bờ. Huống chi, nguồn cơn của mối hận của anh ta, lẽ nào ông không biết? Nếu thập kỷ 1980 ông không gây ra ba vụ án 'ngón tay khăn máu', nếu ông không lôi cái quần bảo hộ lao động của La Cường ra bôi máu vào, gán tội cho hắn thì hắn đâu có thể bị xử tử nhầm? Nếu La Cường không bị giết nhầm thì có lẽ Sở Dung sẽ không mắc chứng trầm cảm rồi tự sát, Sở Hoài Sơn sẽ không mất cha mẹ. Cho nên, kẻ đáng để anh ta hận nhất chính là ông, lẽ nào không phải thế?”
“Đủ rồi đấy!”
Đôi mắt Na Lan bỗng tối sầm, cả một đống đất đá ập xuống khiến cô không thể mở mắt không thể há miệng, nhưng vẫn nghe thấy tiếng thét giận dữ của Sở Hoài Sơn!
Chu Trường Lộ cười vang, “Đó là câu trả lời thỏa đáng nhất dành cho mày.”
Sở Hoài Sơn nói, “Na Lan cô, là người thông minh, cái tật lớn nhất, của người thông minh, là tự nghĩ, mình luôn luôn đúng, tự nghĩ, mình luôn hiểu người khác.”
Na Lan thầm nghĩ, ít ra tật nói lắp của anh ta cũng không phải là giả vờ.
“Cô, không thể hình dung, nổi tôi hận đến đâu. Tôi hận những kẻ, chuyên hà hiếp kẻ yếu, hận những kẻ, thích chỉ trò xì xào sau lưng người khác, hận, những kẻ không chịu trách nhiệm về những, hành vi của mình, kể cả La Cường, và mẹ tôi!” Sở Hoài Sơn khi đùng đùng tức giận cũng gạt bỏ cả phong cách từ tốn nhã nhặn.
Chu Trường Lộ nói, “Na Lan! Ta nói mày tự nghĩ mình thông minh, không oan cho mày chứ? Mày nên nhớ ta và Hoài Sơn đều không ngu, đều không đần độn như những kẻ trước kia mày đã gặp. Ta nhận ra những câu gan ruột mày vừa nói là để cho Sở Hoài Sơn nghe, nhằm mê hoặc nó, muốn nó làm những việc trái với lòng mình! Thực chất là gì? Là mày dẫn dụ nó thể hiện sự yếu ớt. Quay đầu trở về bờ nghĩa là sao? Nghĩa là mềm yếu! Mày chớ quên bao năm qua Hoài Sơn đang gắng khắc phục sự mềm yếu. Nó đã can đảm khắc phục chứng sợ đám đông, dần dần rời ngôi nhà nhỏ để thích ứng với việc ra ngoài một mình, thì đương nhiên sẽ không vì mấy câu nói của mày để rồi quay lại với quá khứ mềm yếu…”
“Ối…” Hàn Tây bỗng kêu lên kinh hãi,
Chu Trường Lộ vừa nói xong thì người lão đã ở dưới hố.
Một người lạ nằm đè lên lão. Hình như cả hai đều ngất lịm khi bị rơi xuống, sau một lúc lâu họ mới bắt đầu vật lộn đánh nhau. Cả hai cùng tuổi cao, bị ngã đau, nên động tác chậm nhưng rất kiên quyết.
Sở Hoài Sơn đứng trên miệng hố gọi to, “Dì Tư!”
Sở Hoan vừa bóp cổ lão vừa lớn tiếng, “Thì ra là tên khốn nạn này đã hủy hoại tuổi thơ của Hoài Sơn, nay ngươi lại định làm nát tan đời nó!”
Na Lan nghĩ đến Sở Hoan bao năm chăm sóc Sở Hoài Sơn, không lấy chồng. Loạt vụ án “ngón tay khăn máu” của Chu Trường Lộ và Mễ Trị Văn cũng giết luôn cả những năm tháng quan trọng nhất đời bà. Sở Hoan đã đi theo đến đây bao lâu rồi? Na Lan bỗng hiểu ra rằng Sở Hoan không chỉ thạo theo dõi cô. Sở Hoài Sơn dần bứt ra khỏi chứng sợ đám đông, dần thích ứng với xã hội bên ngoài là một quá trình lâu dài, anh ta phải lợi dụng những lúc Sở Hoan ra ngoài nhà để tự mình tập luyện. Chắc chắn dì Tư vốn chu đáo đã nhận ra những thay đổi của đứa cháu mình từ lâu.
Nếu bà sớm cho Na Lan biết, thì mọi việc có thể khác hẳn!
Chắc hẳn đêm nay Sở Hoài Sơn đã thiết kế để Sở Hoan phải ra khỏi nhà, ví dụ báo tin Mễ Trị Văn sắp nguy ngập… nhưng Sở Hoan vốn đã ngờ ngợ nên lại tương kế tựu kế rồi đi theo đến tận đây. Có nghĩa là Sở Hoan liên tục bám theo Sở Hoài Sơn. Chắc Sở Hoài Sơn tự lái xe, Sở Hoan đi taxi theo sau đến khu đất hoang của Công ty Lữ hành Thông Giang. Sở Hoài Sơn đã loanh quanh ở khu vực này bao lâu? Ít ra là một giờ? Hay nửa giờ? Lái xe taxi sẽ chẳng bằng lòng đứng chờ Sở Hoan lâu như thế. Cho nên bà đã xuống xe, nấp ở chỗ tối, nhìn thấy Sở Hoài Sơn kéo Na Lan và Hàn Tây lên xe. Sau đó thì sao? Sở Hoan lại gọi taxi chở mình đến đây.
Nếu Sở Hoan sớm báo cảnh sát thì tình hình đã rất khác.
Sở Hoan coi Sở Hoài Sơn như con, nên khả năng bà báo cảnh sát là không cao.
Sở Hoài Sơn tiếp tục kêu lên, “Dì Tư, hai người… Thôi đi!”
Sở Hoan lớn tiếng, “Cháu ơi, mau cứu Na Lan và họ đi!”
“Không, cháu không thể!” Giọng nói như kiệt sức.
Sở Hoan nổi giận, “Sao lại không thể? Không hiểu thế nào là lẽ phải ư?”
Chu Trường Lộ đã vùng ra khỏi Sở Hoan, lão gọi to, “Hoài Sơn, nghĩ lại xem bao năm qua tốt xấu hay dở ra sao, có nói rõ được không? Trần Ngọc Đống giết nhầm cha cháu, hắn tốt ư? Con bé Na Lan lợi dụng cháu, cám dỗ cháu, là tốt ư? Cháu đừng quên sứ mệnh của mình là thông qua sự hy sinh của chúng ta để giúp tất cả những ai yếu đuối trở nên mạnh mẽ!”
“Các người im mồm đi!” Sở Hoài Sơn bỗng cầm lấy cái xẻng.
Chu Trường Lộ giơ hai tay lên, “Đúng rồi! Kéo ta lên đi!”
“Không! Ông cũng thế, cũng là kẻ yếu hèn, năm xưa ông, không dám phản kháng, cha ông ngược đãi, nay ông giết phụ nữ, tức là ông kế thừa cái ác!”
Một xẻng đất hắt trúng đầu Chu Trường Lộ.
“Các người đều đừng hòng sống nữa làm gì cho khổ.”
Vô số đất hắt xuống tới tấp.
Na Lan vội kêu lên, “Tôi đã hiểu vì sao dép lê của anh thêu con chim rồi!”
Sở Hoài Sơn bỗng dừng tay, ngẩn người, “Thử nói nghe xem sao?”
“Cha anh họ La, thiên la địa võng, La nghĩ là cái lưới, lưới để bẫy chim. Anh cảm thấy đời mình từ bé đến giờ như con chim bị bủa vây, chỉ còn cách gây ra vụ án động trời thì mới thực sự là mình làm chủ số phận, mới được giải thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng. Theo tôi lúc này đang là cơ hội để anh được giải thoát! Bản chất anh rất tốt, anh nên nghĩ đi, hãy cứu chúng tôi, sau đó giao Chu Trường Lộ cho công an, anh sẽ không vấn đề gì, anh được hoàn toàn giải thoát.”
“Tôi không mù pháp luật, cô đừng lừa phỉnh tôi nữa.”
Đất rơi xuống nhiều hơn.
Con người ta khi điên lên thì sức mạnh tiềm ẩn sẽ tuôn trào. Đám đất có được do đào cái hố sâu mất đến hàng tháng trời, cái xẻng liên tiếp hắt xuống thì chỉ lát sau đất đã vơi đi đáng kể, ít ra cũng đã chôn đến ngang lưng mọi người.
Na Lan vẫn vừa nghĩ vừa tiếp tục khuyên giải. Cô cố nói cho rành rọt nhưng bị những tiếng kêu tiếng khóc tiếng chửi rủa xung quanh lấn át. Rồi cô cũng kêu khóc cũng chửi rủa. Đã bắt đầu thấy khó thở. Lát sau đất đã ngập lên đến mồm đến mũi.
Điều duy nhất cô có thể làm là ngạt thở.
 Chương 36: Rừng sâu tìm mộ.
Một cảnh sát hình sự của ban chỉ huy báo cáo với Ba Du Sinh, lúc nãy thấy Na Lan đứng dựa vào ô tô đọc một tập tài liệu khá dày. Ba Du Sinh lập tức nghĩ đến tập tài liệu photo hồ sơ bệnh án của Mễ Trị Văn do Kim Thạc đưa cho Na Lan từ trước, anh bảo cảnh sát dân sự ở hiện trường thử đi tìm tập tài liệu đó. Quả nhiên họ đã tìm thấy nó trên một đống đổ nát gần đường Hoa Sơn.
Chắc là Na Lan quá vội, và bị uy hiếp phải đi khỏi hiện trường đang được khám nghiệm này, nếu không sẽ không phải ném đám tài liệu này đi.
Lòng anh như thắt lại.
Dù biết rằng có lẽ đã quá muộn nhưng anh vẫn điều động toàn bộ lực lượng cảnh sát đang có mặt phong tỏa toàn bộ khu vực và các ngả đường lân cận. Máy in của ban chỉ huy lâm thời in ra hơn ba mươi tấm ảnh Na Lan, các chiến sĩ cầm ảnh rồi đi đến các khu dân cư và khu thương mại quanh đây, hỏi xem có ai nhìn thấy cô gái trong ảnh không.
Ba Du Sinh nhận được điện thoại của cảnh sát giám sát Mễ Trị Văn, nói rằng lão vẫn nằm trên giường bệnh, ngủ say.
Ba Du Sinh hơi yên tâm, anh dặn dò đồng nghiệp nỗ lực tìm kiếm, sao đó lên xe phóng về khu tập thể của Trần Ngọc Đống.
Căn hộ của Trần Ngọc Đống chưa thể gọi là gọn gàng sạch sẽ nhưng không lộn xộn và không hề có dấu vết vật lộn. Anh nhận ra máy tính của Trần Ngọc Đống đang ở trạng thái tạm nghỉ, bèn nhấp một phím đánh thức.
Trên màn hình hiện lên tấm ảnh phóng to, mũi tên đang chỉ vào chữ “Lan” phồn thể trên bức tranh thủy mặc hoa lan treo trong phòng làm việc của Chu Trường Lộ.
Lẽ nào Chu Trường Lộ là hung thủ đích thực của vụ “ngón tay khăn máu”?
Và Na Lan cũng là mục tiêu cần xử lý?
Ba Du Sinh gọi điện cho Kim Thạc vẫn đang có mặt ở hiện trường nhà khách Thông Giang cũ. Kim Thạc nghe xong lập tức điều động hai nhóm hành động, một nhóm chạy về văn phòng giám đốc bệnh viện Phổ Nhân, một nhóm chạy đến nhà Chu Trường Lộ, tuy cả hai anh đều biết rằng nếu Chu Trường Lộ đúng là hung thủ, nếu Na Lan đã bị lão bắt cóc thì lão không thể ngồi nhà chờ chịu trói.
Ba Du Sinh lại tiếp tục suy ngẫm. Anh tin rằng nếu Trần Ngọc Đống gặp bất trắc thì không xảy ra ở nhà. Trần Ngọc Đống đã bàn bạc với Na Lan về khả năng Chu Trường Lộ là hung thủ, thì bước tiếp theo họ sẽ làm gì? Anh từng cộng tác với Trần Ngọc Đống, biết rõ Trần Ngọc Đống thuộc mẫu người hành động nhanh nhẹn dứt khoát, rất có thể đã tự đi tìm Chu Trường Lộ rồi.
Ba Du Sinh bèn nói với đồng nghiệp cùng đi, “Bây giờ chúng ta đi xem băng camera giám sát của khu tập thể!”
Trong băng, Ba Du Sinh nhìn thấy chiếc taxi chạy ra khỏi cổng khu tập thể vào khoảng thời gian di động của Trần Ngọc Đống liên lạc với ban chỉ huy khám nghiệm hiện trường khu hầm phòng không bỏ hoang.
Anh cảnh sát ghi lại biển số xe rồi lập tức liên hệ với công ty taxi.
Đúng như Ba Du Sinh dự đoán, công ty taxi không có chiếc xe đó.
Biển số giả, ai khéo tay có thể làm lấy, ai vụng về thì ra chợ đen mua với giá ngàn đồng trở lại.
Chiếc xe ấy đã chạy đi đâu?
Nếu người lái xe là Chu Trường Lộ thì ai bắt cóc Na Lan? Ba Du Sinh thấy rất khó hiểu, Trần Ngọc Đống và Na Lan gần như đồng thời biến mất, Chu Trường Lộ chỉ đi chiếc xe cà tàng, dù khứ hồi chạy như điên thì cũng không thể bắt cả hai con mồi.
Kẻ tòng phạm với Chu Trường Lộ là ai?
Ba Du Sinh lại gọi điện cho cảnh sát đang giám sát Mễ Trị Văn ở bệnh viện Phổ Nhân, anh ta báo cáo, đã vào tận giường kiểm tra, lão vẫn đang ngủ say.
Anh cảnh sát đi cùng cầm máy tính bảng đến, kết nối với ghi chép về các cuộc gọi qua lại trên di động của Na Lan, của Chu Trường Lộ và của Trần Ngọc Đống.
Ba Du Sinh xem ghi chép liên lạc của Na Lan, kinh ngạc nhận ra liên lạc cuối cùng của cô không phải với Trần Ngọc Đống mà là những tin nhắn, Ba Du Sinh yêu cầu tra cứu số máy nhắn đến, dù anh biết sẽ không thể cho kết quả.
Lúc ở hiện trường Na Lan đàm thoại với Trần Ngọc Đống hai lần, trước đó là điện thoại với Sở Hoài Sơn, trước đó nữa là điện thoại với Ba Du Sinh cho biết phán đoán của cô về công ty Thông Giang, và sớm hơn nữa là đàm thoại rất lâu với Sở Hoài Sơn.
Sở Hoài Sơn! Sao mình lại quên mất cao nhân này? Nếu cho anh ta biết tình hình thì rất có thể anh ta sẽ có chiêu lạ.
Gần đây Ba Du Sinh đã nghe không ít phản hồi về Sở Hoài Sơn, Na Lan quá đỗi khâm phục, Trần Ngọc Đống cũng hết lời khen ngợi. Nếu là ngày thường thì anh không gọi cho Sở Hoài Sơn vào lúc tờ mờ sáng như thế này, nhưng hiện này là lúc rất bất thường, đành xin lỗi vậy. Anh gọi vào di động của Sở Hoài Sơn.
Không có hồi âm.
Anh lại gọi vào máy để bàn của nhà họ Sở, cũng không ai nhấc máy.
Hay là chính Sở Hoài Sơn cũng đã gặp bất trắc?
Anh biết dì Tư của nhà ấy luôn theo sát anh chàng mắc chứng sợ đám đông này, và không thể đi ra ngoài vào lúc tờ mờ sáng. Anh gọi điện cho cảnh sát khu Văn Viên đề nghị đến tận nhà họ xem sao.
Mười phút sau các đồng nghiệp ở khu Văn Viên cho anh biết tin mà anh đang rất lo, nhà họ Sở không một bóng người. Sau mười phút nữa, cảnh sát Văn Viên lại gọi điện nói rằng, ở khu vực này không có camera giám sát an ninh nhưng bảo vệ ở cổng có nhìn thấy Sở Hoài Sơn ra khỏi khu chung cư vào lúc 9 giờ tối qua. Ba Du Sinh ngạc nhiên, “Đi một mình à?”
“Một mình. Nhưng kỳ lạ là sau đó ít nhất thì dì Tư của anh ta cũng ra rồi lên taxi đi đâu đó.”
Một sợi chỉ tách đôi, hai người mất tích.
Không thể là ngẫu nhiên!
Trán Ba Du Sinh lấm tấm mồ hôi. Anh lại xem ghi chép điện thoại của Chu Trường Lộ, mục tiêu đã rõ, kẻ liên lạc với Chu Trường Lộ nhiều nhất rất có thể là đồng bọn của lão.
Anh nhanh chóng nhận ra một số máy thường xuyên liên lạc với Chu Trường Lộ, bèn đưa cho kỹ thuật viên, nhanh chóng tìm ra chủ nhân của số máy đó là Đổng Bội Luân!
Nhưng Ba Du Sinh biết, manh mối này chẳng có mấy ý nghĩa, vì Đổng Bội Luân và Chu Trường Lộ cùng khởi xướng và tổ chức ra đoàn thể Tiếng Lòng chống lại bạo lực gia đình, tất nhiên họ hay liên lạc điện thoại với nhau.
Nhưng anh vẫn gọi cho Đổng Bội Luân, một công đôi việc, anh sẽ nhắc Đổng Bội Luân chú ý an toàn, mặt khác hỏi xem chị ta có biết rõ Chu Trường Lộ không. Rất áy náy vì gọi điện làm phiền người khác vào giờ này, nhưng chẳng còn lựa chọn nào khác.
Chuông reo. Giọng Đổng Bội Luân, “Xin chào.”
Ba Du Sinh hơi ngạc nhiên vì giọng Đổng Bội Luân rất tỉnh táo, không có vẻ ngái ngủ vì bị đánh thức, thậm chí giống như đang chở điện thoại gọi đến.
“Tôi là Ba Du Sinh ở Sở Công an, rất xin lỗi vì khiến cô thức giấc.”
Đổng Bội Luân đáp, “Không sao, tôi đã dậy, tôi khuyên ngủ sớm dậy sớm, cũng vì cần chăm sóc làn da.”
“Tôi gọi điện sớm thế này, vì mong cô sẽ chú ý an toàn, và muốn tìm hiểu một chút về Chu Trường Lộ.”
“Thế ư?” Giọng Đổng Bội Luân có ý dè dặt đề phòng.
Ba Du Sinh nói, “Chúng tôi đang muốn tìm giám đốc Chu Trường Lộ nhưng ông ấy cứ như mất tích, không sao tìm được. Cô và ông ta cùng làm các hoạt động, chắc đã tiếp xúc nhiều, tôi muốn hỏi rằng ngoài chỗ ở và bệnh viện ra ông ta thường hay đến nơi nào nữa?”
“Sao lại nói 'cứ như mất tích'?” Đổng Bội Luân càng thêm nghi ngờ.
“Chúng tôi có lý do để cho rằng ông ấy không mất tích thật, mà chỉ là không về nhà, không ở bệnh viện, và có thể đã đi đến một nơi nào đó ít người biết.
Đổng Bội Luân nghĩ ngợi, rồi nói, “Tôi rất ít khi nghe ông kể mình đi đâu. Ông ấy gây ra chuyện gì vậy?”
Ba Du Sinh thầm khâm phục sự nhạy bén của Đổng Bội Luân, anh đành nói quấy quá, “Chúng tôi muốn tìm ông ấy để hỏi vài điều liên quan đến vụ án… À, tiện đây xin hỏi, cô tác động để Mễ Trị Văn được ra ngoài chữa bệnh có vì một lý do đặc biệt nào không, hay là Chu Trường Lộ khuyên cô làm thế?”
Đổng Bội Luân im lặng một lúc, chắc là câu này không dễ trả lời. Rồi mới nói, “Lẽ nào các vị ngờ rằng ông ấy và Mễ Trị Văn…” Ngập ngừng giây lát, Đổng Bội Luân lựa chọn từ ngữ. “Các vị ngờ rằng giữa hai người có quan hệ gì khác thường à?”
Ba Du Sinh thấy hơi sốt ruột, đang định hỏi thì Đổng Bội Luân đã nói trước, “Tôi có thể nói cho anh biết ý đồ thực sự của tôi nhưng mong anh đừng cười. Tôi bảo lãnh cho Mễ Trị Văn ra ngoài điều trị, vì hy vọng rằng vào những ngày cuối cuộc đời tệ hại và bất hạnh, ông ta có thể đóng góp phần nào cho xã hội, ít ra là về mặt y học. Bây giờ tôi trả lời anh câu hỏi kia, đúng là Chu Trường Lộ có nói với tôi về tính đặc thù của con bệnh Mễ Trị Văn, về tầm quan trọng đối với nghiên cứu y học. Nghe thế tôi hiểu ngay, thật ra ông ta có thể trực tiếp bảo lãnh cho Mễ Trị Văn nhằm phục vụ nghiên cứu, nhưng ông ta là phó giám đốc bệnh viện, nên e sẽ có người nói là ông ta mở lối thoát cho tội phạm cưỡng dâm, nên ông ta gợi ý tôi đứng ra, thuần túy chỉ vì muốn giữ ý… nhưng nay có vẻ như sự việc không hề đơn giản?”
Rất không đơn giản đâu!
Ba Du Sinh đáp, “Cảm ơn cô! Nếu cô nhớ ra điều gì khác thì cứ liên lạc với chúng tôi.” Anh bổ sung một câu, “Cô hãy chú ý an toàn.” Rồi tắt máy.
Gần như ngay sau đó Kim Thạc gọi cho anh, đúng như dự đoán, Chu Trường Lộ không có nhà và cũng không ở bệnh viện.
Lão đang ở đâu? Na Lan và Trần Ngọc Đống đang ở đâu?
Tại sao Sở Hoài Sơn và dì Tư của anh ta cũng ra khỏi lô cốt an toàn của mình?
Ba Du Sinh hiếm khi thấy hoang mang, đó là phẩm chất tốt của một cảnh sát hình sự có năng lực, nhưng lúc này anh thấy chơi vơi hẫng hụt và thấp thoáng cảm giác tuyệt vọng. Từng phút từng giây trôi đi, khả năng sống sót của những người bị hại cũng từng phút từng giây mất dần. Anh biết, trong các thi thể của vụ án “ngón tay khăn máu” khai quật được đêm nay không có Văn Nhược Phi, khiến tâm trạng anh bồn chồn không yên, anh cần trấn tĩnh trở lại để suy nghĩ cho mạch lạc.
Suy nghĩ cho thật kỹ.
Một điều rất khó hiểu, Na Lan bị bắt cóc ngay gần ban chỉ huy khai quật hiện trường mà không ai biết. Vậy chỉ có thể đoán rằng cô đã chủ động rời khu vực.
Cũng có thể suy luận thêm rằng, người thôi thúc cô rời đi phải là người mà cô tin cậy, hoặc có kẻ đã điều khiển từ xa ép cô phải đi.
Những mẩu tin nhắn lạ lùng!
Tập hồ sơ bệnh án bỏ lại bên đường!
Na Lan tự chui đầu vào rọ. Chuyện này nghe quen quen?
Ba Du Sinh dần nhớ lại vụ hai vợ chồng Nghê Bồi Trung cùng chết một cách khó hiểu. Trước đó có kẻ gọi điện cho họ.
Bất cứ ai bằng lòng đi vào chốn hiểm nguy, ngoài cố ý tìm đến cái chết ra, chỉ còn một khả năng nữa là họ đã bị uy hiếp. Lúc này không thể xác định nội dung của các tin nhắn gửi đến Na Lan nhưng có thể đoán gần đúng, chúng đe dọa buộc cô phải đi vào chốn hiểm nguy.
Tại sao Na Lan không nói với cảnh sát ở hiện trường về tình thế nguy hiểm của mình, hoặc tại sao cô ấy không chuyển phát những mẩu tin ấy cho anh? Phải có lý do. Cũng tức là sự uy hiếp kia rất dữ dội. Tuy nhiên, anh đã hiểu về Na Lan, dù phải đi vào chốn hiểm nguy thì cô vẫn để lại dấu vết.
Cô đã để lại dấu vết gì?
Anh quay sang hỏi đồng nghiệp, “Tập hồ sơ bệnh án lúc nãy nhặt được ở hiện trường nào?”
Anh bắt đầu lật giở tập giấy photo hồ sơ bệnh án của Mễ Trị Văn. Và nhanh chóng nhận ra một khoanh tròn bằng bút bi đỏ, đóng khung con dấu họ tên “Chu Trường Lộ”.
Anh tiếp tục lật giở phía sau, có rất nhiều khoanh tròn tương tự quanh ba chữ “Chu Trường Lộ”.
Bên ngoài một trong những khoanh tròn đỏ ấy, có hai chữ “Huệ Sơn” viết nhanh.
Bút tích của Na Lan.
Họ bị bắt cóc đưa đi Huệ Sơn chăng?
Nhưng Huệ Sơn là vùng núi rộng mênh mông, có hai đường quốc lộ chạy từ Giang Kinh vào, nên đi đường nào để tìm?
Chu Trường Lộ. Huệ Sơn.
Ba Du Sinh bảo, “Cậu mau tra cứu quê quán, nơi sinh của Chu Trường Lộ. Tra xem quan hệ của ông ta với Huệ Sơn ra sao. Và liên lạc với các công ty taxi lớn của Giang Kinh, hỏi về điểm đến của các xe taxi đêm qua chở khách, hỏi xem có ai đi Huệ Sơn không, có ai chở khách đi từ khu tập thể trường trung học trực thuộc Học viện Âm nhạc không.”
Ba Du Sinh lại gọi cho cảnh sát giám sát Mễ Trị Văn ở khu buồng bệnh nhân nặng. Anh ta đến tận giường Mễ Trị Văn xem xét rồi trả lời, lão vẫn đang ngủ li bì.
Vừa nghe xong thì di động của anh lại rung lên. Anh nhìn vào máy, một số điện thoại quen thuộc. Đổng Bội Luân nói, “Tôi nhớ ra một điều… một địa điểm Chu Trường Lộ có thể đến. Khi chúng tôi hợp tác tổ chức đoàn thể, ông ấy thường nói về xuất phát điểm của tổ chức là để ngăn chặn bạo lực xâm hại phụ nữ, vì chị gái ông ta từng bị chồng đánh đập đến chết, còn kể ngày xưa nhà ông ấy nghèo khổ, cha mẹ mất sớm, sau khi chị gái chết, ông ấy không có tiền tang ma đành làm theo tập quán của dân nghèo thôn Huệ Sơn là đem chôn trong hang núi và đặt một tấm bia không chữ.”


 

Chương 36: Rừng sâu tìm mộ.
Một cảnh sát hình sự của ban chỉ huy báo cáo với Ba Du Sinh, lúc nãy thấy Na Lan đứng dựa vào ô tô đọc một tập tài liệu khá dày. Ba Du Sinh lập tức nghĩ đến tập tài liệu photo hồ sơ bệnh án của Mễ Trị Văn do Kim Thạc đưa cho Na Lan từ trước, anh bảo cảnh sát dân sự ở hiện trường thử đi tìm tập tài liệu đó. Quả nhiên họ đã tìm thấy nó trên một đống đổ nát gần đường Hoa Sơn.
Chắc là Na Lan quá vội, và bị uy hiếp phải đi khỏi hiện trường đang được khám nghiệm này, nếu không sẽ không phải ném đám tài liệu này đi.
Lòng anh như thắt lại.
Dù biết rằng có lẽ đã quá muộn nhưng anh vẫn điều động toàn bộ lực lượng cảnh sát đang có mặt phong tỏa toàn bộ khu vực và các ngả đường lân cận. Máy in của ban chỉ huy lâm thời in ra hơn ba mươi tấm ảnh Na Lan, các chiến sĩ cầm ảnh rồi đi đến các khu dân cư và khu thương mại quanh đây, hỏi xem có ai nhìn thấy cô gái trong ảnh không.
Ba Du Sinh nhận được điện thoại của cảnh sát giám sát Mễ Trị Văn, nói rằng lão vẫn nằm trên giường bệnh, ngủ say.
Ba Du Sinh hơi yên tâm, anh dặn dò đồng nghiệp nỗ lực tìm kiếm, sao đó lên xe phóng về khu tập thể của Trần Ngọc Đống.
Căn hộ của Trần Ngọc Đống chưa thể gọi là gọn gàng sạch sẽ nhưng không lộn xộn và không hề có dấu vết vật lộn. Anh nhận ra máy tính của Trần Ngọc Đống đang ở trạng thái tạm nghỉ, bèn nhấp một phím đánh thức.
Trên màn hình hiện lên tấm ảnh phóng to, mũi tên đang chỉ vào chữ “Lan” phồn thể trên bức tranh thủy mặc hoa lan treo trong phòng làm việc của Chu Trường Lộ.
Lẽ nào Chu Trường Lộ là hung thủ đích thực của vụ “ngón tay khăn máu”?
Và Na Lan cũng là mục tiêu cần xử lý?
Ba Du Sinh gọi điện cho Kim Thạc vẫn đang có mặt ở hiện trường nhà khách Thông Giang cũ. Kim Thạc nghe xong lập tức điều động hai nhóm hành động, một nhóm chạy về văn phòng giám đốc bệnh viện Phổ Nhân, một nhóm chạy đến nhà Chu Trường Lộ, tuy cả hai anh đều biết rằng nếu Chu Trường Lộ đúng là hung thủ, nếu Na Lan đã bị lão bắt cóc thì lão không thể ngồi nhà chờ chịu trói.
Ba Du Sinh lại tiếp tục suy ngẫm. Anh tin rằng nếu Trần Ngọc Đống gặp bất trắc thì không xảy ra ở nhà. Trần Ngọc Đống đã bàn bạc với Na Lan về khả năng Chu Trường Lộ là hung thủ, thì bước tiếp theo họ sẽ làm gì? Anh từng cộng tác với Trần Ngọc Đống, biết rõ Trần Ngọc Đống thuộc mẫu người hành động nhanh nhẹn dứt khoát, rất có thể đã tự đi tìm Chu Trường Lộ rồi.
Ba Du Sinh bèn nói với đồng nghiệp cùng đi, “Bây giờ chúng ta đi xem băng camera giám sát của khu tập thể!”
Trong băng, Ba Du Sinh nhìn thấy chiếc taxi chạy ra khỏi cổng khu tập thể vào khoảng thời gian di động của Trần Ngọc Đống liên lạc với ban chỉ huy khám nghiệm hiện trường khu hầm phòng không bỏ hoang.
Anh cảnh sát ghi lại biển số xe rồi lập tức liên hệ với công ty taxi.
Đúng như Ba Du Sinh dự đoán, công ty taxi không có chiếc xe đó.
Biển số giả, ai khéo tay có thể làm lấy, ai vụng về thì ra chợ đen mua với giá ngàn đồng trở lại.
Chiếc xe ấy đã chạy đi đâu?
Nếu người lái xe là Chu Trường Lộ thì ai bắt cóc Na Lan? Ba Du Sinh thấy rất khó hiểu, Trần Ngọc Đống và Na Lan gần như đồng thời biến mất, Chu Trường Lộ chỉ đi chiếc xe cà tàng, dù khứ hồi chạy như điên thì cũng không thể bắt cả hai con mồi.
Kẻ tòng phạm với Chu Trường Lộ là ai?
Ba Du Sinh lại gọi điện cho cảnh sát đang giám sát Mễ Trị Văn ở bệnh viện Phổ Nhân, anh ta báo cáo, đã vào tận giường kiểm tra, lão vẫn đang ngủ say.
Anh cảnh sát đi cùng cầm máy tính bảng đến, kết nối với ghi chép về các cuộc gọi qua lại trên di động của Na Lan, của Chu Trường Lộ và của Trần Ngọc Đống.
Ba Du Sinh xem ghi chép liên lạc của Na Lan, kinh ngạc nhận ra liên lạc cuối cùng của cô không phải với Trần Ngọc Đống mà là những tin nhắn, Ba Du Sinh yêu cầu tra cứu số máy nhắn đến, dù anh biết sẽ không thể cho kết quả.
Lúc ở hiện trường Na Lan đàm thoại với Trần Ngọc Đống hai lần, trước đó là điện thoại với Sở Hoài Sơn, trước đó nữa là điện thoại với Ba Du Sinh cho biết phán đoán của cô về công ty Thông Giang, và sớm hơn nữa là đàm thoại rất lâu với Sở Hoài Sơn.
Sở Hoài Sơn! Sao mình lại quên mất cao nhân này? Nếu cho anh ta biết tình hình thì rất có thể anh ta sẽ có chiêu lạ.
Gần đây Ba Du Sinh đã nghe không ít phản hồi về Sở Hoài Sơn, Na Lan quá đỗi khâm phục, Trần Ngọc Đống cũng hết lời khen ngợi. Nếu là ngày thường thì anh không gọi cho Sở Hoài Sơn vào lúc tờ mờ sáng như thế này, nhưng hiện này là lúc rất bất thường, đành xin lỗi vậy. Anh gọi vào di động của Sở Hoài Sơn.
Không có hồi âm.
Anh lại gọi vào máy để bàn của nhà họ Sở, cũng không ai nhấc máy.
Hay là chính Sở Hoài Sơn cũng đã gặp bất trắc?
Anh biết dì Tư của nhà ấy luôn theo sát anh chàng mắc chứng sợ đám đông này, và không thể đi ra ngoài vào lúc tờ mờ sáng. Anh gọi điện cho cảnh sát khu Văn Viên đề nghị đến tận nhà họ xem sao.
Mười phút sau các đồng nghiệp ở khu Văn Viên cho anh biết tin mà anh đang rất lo, nhà họ Sở không một bóng người. Sau mười phút nữa, cảnh sát Văn Viên lại gọi điện nói rằng, ở khu vực này không có camera giám sát an ninh nhưng bảo vệ ở cổng có nhìn thấy Sở Hoài Sơn ra khỏi khu chung cư vào lúc 9 giờ tối qua. Ba Du Sinh ngạc nhiên, “Đi một mình à?”
“Một mình. Nhưng kỳ lạ là sau đó ít nhất thì dì Tư của anh ta cũng ra rồi lên taxi đi đâu đó.”
Một sợi chỉ tách đôi, hai người mất tích.
Không thể là ngẫu nhiên!
Trán Ba Du Sinh lấm tấm mồ hôi. Anh lại xem ghi chép điện thoại của Chu Trường Lộ, mục tiêu đã rõ, kẻ liên lạc với Chu Trường Lộ nhiều nhất rất có thể là đồng bọn của lão.
Anh nhanh chóng nhận ra một số máy thường xuyên liên lạc với Chu Trường Lộ, bèn đưa cho kỹ thuật viên, nhanh chóng tìm ra chủ nhân của số máy đó là Đổng Bội Luân!
Nhưng Ba Du Sinh biết, manh mối này chẳng có mấy ý nghĩa, vì Đổng Bội Luân và Chu Trường Lộ cùng khởi xướng và tổ chức ra đoàn thể Tiếng Lòng chống lại bạo lực gia đình, tất nhiên họ hay liên lạc điện thoại với nhau.
Nhưng anh vẫn gọi cho Đổng Bội Luân, một công đôi việc, anh sẽ nhắc Đổng Bội Luân chú ý an toàn, mặt khác hỏi xem chị ta có biết rõ Chu Trường Lộ không. Rất áy náy vì gọi điện làm phiền người khác vào giờ này, nhưng chẳng còn lựa chọn nào khác.
Chuông reo. Giọng Đổng Bội Luân, “Xin chào.”
Ba Du Sinh hơi ngạc nhiên vì giọng Đổng Bội Luân rất tỉnh táo, không có vẻ ngái ngủ vì bị đánh thức, thậm chí giống như đang chở điện thoại gọi đến.
“Tôi là Ba Du Sinh ở Sở Công an, rất xin lỗi vì khiến cô thức giấc.”
Đổng Bội Luân đáp, “Không sao, tôi đã dậy, tôi khuyên ngủ sớm dậy sớm, cũng vì cần chăm sóc làn da.”
“Tôi gọi điện sớm thế này, vì mong cô sẽ chú ý an toàn, và muốn tìm hiểu một chút về Chu Trường Lộ.”
“Thế ư?” Giọng Đổng Bội Luân có ý dè dặt đề phòng.
Ba Du Sinh nói, “Chúng tôi đang muốn tìm giám đốc Chu Trường Lộ nhưng ông ấy cứ như mất tích, không sao tìm được. Cô và ông ta cùng làm các hoạt động, chắc đã tiếp xúc nhiều, tôi muốn hỏi rằng ngoài chỗ ở và bệnh viện ra ông ta thường hay đến nơi nào nữa?”
“Sao lại nói 'cứ như mất tích'?” Đổng Bội Luân càng thêm nghi ngờ.
“Chúng tôi có lý do để cho rằng ông ấy không mất tích thật, mà chỉ là không về nhà, không ở bệnh viện, và có thể đã đi đến một nơi nào đó ít người biết.
Đổng Bội Luân nghĩ ngợi, rồi nói, “Tôi rất ít khi nghe ông kể mình đi đâu. Ông ấy gây ra chuyện gì vậy?”
Ba Du Sinh thầm khâm phục sự nhạy bén của Đổng Bội Luân, anh đành nói quấy quá, “Chúng tôi muốn tìm ông ấy để hỏi vài điều liên quan đến vụ án… À, tiện đây xin hỏi, cô tác động để Mễ Trị Văn được ra ngoài chữa bệnh có vì một lý do đặc biệt nào không, hay là Chu Trường Lộ khuyên cô làm thế?”
Đổng Bội Luân im lặng một lúc, chắc là câu này không dễ trả lời. Rồi mới nói, “Lẽ nào các vị ngờ rằng ông ấy và Mễ Trị Văn…” Ngập ngừng giây lát, Đổng Bội Luân lựa chọn từ ngữ. “Các vị ngờ rằng giữa hai người có quan hệ gì khác thường à?”
Ba Du Sinh thấy hơi sốt ruột, đang định hỏi thì Đổng Bội Luân đã nói trước, “Tôi có thể nói cho anh biết ý đồ thực sự của tôi nhưng mong anh đừng cười. Tôi bảo lãnh cho Mễ Trị Văn ra ngoài điều trị, vì hy vọng rằng vào những ngày cuối cuộc đời tệ hại và bất hạnh, ông ta có thể đóng góp phần nào cho xã hội, ít ra là về mặt y học. Bây giờ tôi trả lời anh câu hỏi kia, đúng là Chu Trường Lộ có nói với tôi về tính đặc thù của con bệnh Mễ Trị Văn, về tầm quan trọng đối với nghiên cứu y học. Nghe thế tôi hiểu ngay, thật ra ông ta có thể trực tiếp bảo lãnh cho Mễ Trị Văn nhằm phục vụ nghiên cứu, nhưng ông ta là phó giám đốc bệnh viện, nên e sẽ có người nói là ông ta mở lối thoát cho tội phạm cưỡng dâm, nên ông ta gợi ý tôi đứng ra, thuần túy chỉ vì muốn giữ ý… nhưng nay có vẻ như sự việc không hề đơn giản?”
Rất không đơn giản đâu!
Ba Du Sinh đáp, “Cảm ơn cô! Nếu cô nhớ ra điều gì khác thì cứ liên lạc với chúng tôi.” Anh bổ sung một câu, “Cô hãy chú ý an toàn.” Rồi tắt máy.
Gần như ngay sau đó Kim Thạc gọi cho anh, đúng như dự đoán, Chu Trường Lộ không có nhà và cũng không ở bệnh viện.
Lão đang ở đâu? Na Lan và Trần Ngọc Đống đang ở đâu?
Tại sao Sở Hoài Sơn và dì Tư của anh ta cũng ra khỏi lô cốt an toàn của mình?
Ba Du Sinh hiếm khi thấy hoang mang, đó là phẩm chất tốt của một cảnh sát hình sự có năng lực, nhưng lúc này anh thấy chơi vơi hẫng hụt và thấp thoáng cảm giác tuyệt vọng. Từng phút từng giây trôi đi, khả năng sống sót của những người bị hại cũng từng phút từng giây mất dần. Anh biết, trong các thi thể của vụ án “ngón tay khăn máu” khai quật được đêm nay không có Văn Nhược Phi, khiến tâm trạng anh bồn chồn không yên, anh cần trấn tĩnh trở lại để suy nghĩ cho mạch lạc.
Suy nghĩ cho thật kỹ.
Một điều rất khó hiểu, Na Lan bị bắt cóc ngay gần ban chỉ huy khai quật hiện trường mà không ai biết. Vậy chỉ có thể đoán rằng cô đã chủ động rời khu vực.
Cũng có thể suy luận thêm rằng, người thôi thúc cô rời đi phải là người mà cô tin cậy, hoặc có kẻ đã điều khiển từ xa ép cô phải đi.
Những mẩu tin nhắn lạ lùng!
Tập hồ sơ bệnh án bỏ lại bên đường!
Na Lan tự chui đầu vào rọ. Chuyện này nghe quen quen?
Ba Du Sinh dần nhớ lại vụ hai vợ chồng Nghê Bồi Trung cùng chết một cách khó hiểu. Trước đó có kẻ gọi điện cho họ.
Bất cứ ai bằng lòng đi vào chốn hiểm nguy, ngoài cố ý tìm đến cái chết ra, chỉ còn một khả năng nữa là họ đã bị uy hiếp. Lúc này không thể xác định nội dung của các tin nhắn gửi đến Na Lan nhưng có thể đoán gần đúng, chúng đe dọa buộc cô phải đi vào chốn hiểm nguy.
Tại sao Na Lan không nói với cảnh sát ở hiện trường về tình thế nguy hiểm của mình, hoặc tại sao cô ấy không chuyển phát những mẩu tin ấy cho anh? Phải có lý do. Cũng tức là sự uy hiếp kia rất dữ dội. Tuy nhiên, anh đã hiểu về Na Lan, dù phải đi vào chốn hiểm nguy thì cô vẫn để lại dấu vết.
Cô đã để lại dấu vết gì?
Anh quay sang hỏi đồng nghiệp, “Tập hồ sơ bệnh án lúc nãy nhặt được ở hiện trường nào?”
Anh bắt đầu lật giở tập giấy photo hồ sơ bệnh án của Mễ Trị Văn. Và nhanh chóng nhận ra một khoanh tròn bằng bút bi đỏ, đóng khung con dấu họ tên “Chu Trường Lộ”.
Anh tiếp tục lật giở phía sau, có rất nhiều khoanh tròn tương tự quanh ba chữ “Chu Trường Lộ”.
Bên ngoài một trong những khoanh tròn đỏ ấy, có hai chữ “Huệ Sơn” viết nhanh.
Bút tích của Na Lan.
Họ bị bắt cóc đưa đi Huệ Sơn chăng?
Nhưng Huệ Sơn là vùng núi rộng mênh mông, có hai đường quốc lộ chạy từ Giang Kinh vào, nên đi đường nào để tìm?
Chu Trường Lộ. Huệ Sơn.
Ba Du Sinh bảo, “Cậu mau tra cứu quê quán, nơi sinh của Chu Trường Lộ. Tra xem quan hệ của ông ta với Huệ Sơn ra sao. Và liên lạc với các công ty taxi lớn của Giang Kinh, hỏi về điểm đến của các xe taxi đêm qua chở khách, hỏi xem có ai đi Huệ Sơn không, có ai chở khách đi từ khu tập thể trường trung học trực thuộc Học viện Âm nhạc không.”
Ba Du Sinh lại gọi cho cảnh sát giám sát Mễ Trị Văn ở khu buồng bệnh nhân nặng. Anh ta đến tận giường Mễ Trị Văn xem xét rồi trả lời, lão vẫn đang ngủ li bì.
Vừa nghe xong thì di động của anh lại rung lên. Anh nhìn vào máy, một số điện thoại quen thuộc. Đổng Bội Luân nói, “Tôi nhớ ra một điều… một địa điểm Chu Trường Lộ có thể đến. Khi chúng tôi hợp tác tổ chức đoàn thể, ông ấy thường nói về xuất phát điểm của tổ chức là để ngăn chặn bạo lực xâm hại phụ nữ, vì chị gái ông ta từng bị chồng đánh đập đến chết, còn kể ngày xưa nhà ông ấy nghèo khổ, cha mẹ mất sớm, sau khi chị gái chết, ông ấy không có tiền tang ma đành làm theo tập quán của dân nghèo thôn Huệ Sơn là đem chôn trong hang núi và đặt một tấm bia không chữ.”


Chương 37: Tuyệt vọng hồi sinh
Trước bình minh là lúc tăm tối nhất, nhưng rồi bóng tối cũng tan nhanh.
Đó là cảm giác của Sở Hoài Sơn lúc này.
Lúc hắt xẻng đất đầu tiên xuống, anh ta vô cùng sợ hãi, nhưng rồi những tiếng van xin, khóc lóc, khuyên nhủ khiến anh ta quá bực mình, động tác trở nên rất nhanh, không xúc đất mà là đẩy đất, huy động cả tay lẫn chân, mong sao công việc sớm kết thúc.
Đất rơi xuống hố dần dần dày lên, động tác giãy giụa cũng dần dần ngớt đi, tiếng ồn dần dần bớt hẳn, nỗi tuyệt vọng của họ dường như có thể xuyên qua đất thấm lên trên. Lúc này anh ta thấy nhẹ hẳn người, thậm chí bắt đầu hưởng thụ cái cảm giác từ nhỏ hằng khao khát: khống chế số phận!
Trước đây, có thể nói đối với anh, thế giới bất công này quá kinh khủng, cha là một tên du côn thông minh bị xử bắn trước khi anh chào đời, mẹ tự kết liễu cuộc đời khi anh còn nhỏ, anh bẩm sinh có tật nói nhát gừng, anh xấu hổ và lập dị từ bé.
Nhưng lúc này anh là thượng đế, là chúa tể tất cả.
Na Lan đoán không nhầm, đây là lần đầu tiên anh ta giết người, đây là “đơn đăng ký” để bắt đầu kế thừa vụ án “ngón tay khăn máu”. Nhưng không hẳn là anh ta lần đầu giết người, trước đó anh ta đã gián tiếp giết người bằng trò chơi tâm lý, một cú phôn đến nhà Nghê Bồi Trung. Nghê Bồi Trung nhìn thấy hài cốt cô em gái thì đã sốc ghê gớm, sẽ nhớ về những hành xử tồi tệ của mình ngày trước thậm chí nghĩ rằng mình là nguyên nhân chính dẫn đến cái chết của Nghê Phượng Anh. Cú phôn nặc danh của Sở Hoài Sơn gọi đến rất có hiệu quả, nhất là anh ta tuyên bố nếu không làm theo ý anh ta thì cả hai vợ chồng sẽ nhận được một ngón tay của đứa cháu gái!
Khi anh ta kể rõ đứa cháu gái của vợ chồng Nghê Bồi Trung học trường gì lớp nào, hôm nay đi học mặc quần áo gì, đeo cặp sách màu gì… khác nào tuyên án tử hình cho bé gái ấy.
Vậy thì Nghê Bồi Trung muốn tiếp tục giữ lấy mạng hai vợ chồng già, hay muốn để cho thế hệ thứ ba là đứa cháu gái xinh xắn được sống? Điều này không khó lựa chọn. Sở Hoài Sơn không nghe thấy tiếng búa đập vỡ sọ Hồ Thanh, cũng không nhìn thấy bóng Nghê Bồi Trung chấp chới rơi xuống khi nhảy lầu, là những thời khắc cuối cùng của hai con người chẳng mấy tử tế này, nhưng nếu Sở Hoài Sơn vừa khéo có mặt ở hiện trường thì anh ta có được cảm nhận giống như lúc này không?
Đất dưới hố đã ngập đến đỉnh đầu ngần ấy con người, cùng với sự ngạt thở của họ, Sở Hoài Sơn cảm thấy hồn mình thoát xác. Anh ta bỗng nhận ra mình cô đơn tuyệt đối, ngay dì Tư rất mực yêu thương mình cũng bị chôn vùi dưới địa ngục, con người rất cảm thông với mình là Chu Trường Lộ cũng xuống địa ngục, người thiếu nữ duy nhất khiến mình rung động cũng xuống địa ngục, vậy mình còn có ai nữa?
Anh ta ngẩng đầu hú dài, nửa khóc nửa cười, hình như anh ta đang trong cơn lột xác từ người biến thành dã thú.
Tiếng hú của anh ta bỗng chìm trong tiếng động cơ nổ ầm ầm trên đầu.
Toàn thân như đông cứng, Sở Hoài Sơn ngây đờ như cây cột đá lạnh buốt dựng trong hang động tối om.
Trong tư liệu nhân sự của bệnh viện, trong các diễn thuyết của Chu Trường Lộ về phòng chống bạo lực gia đình, cảnh sát tìm thấy nơi sinh của Chu Trường Lộ, một thôn nhỏ tên là Long Cố ở dãy núi Huệ Sơn. Họ cũng đã liên lạc được với công ty taxi đã điều chiếc xe tốc hành đến vùng sâu trong núi Huệ Sơn.
Anh lái xe nói khách là một phụ nữ đứng tuổi, lên xe gần địa chỉ của nhà khách Thông Giang cũ ở khu Tân Giang phía nam thành phố, bà ta cần bám theo một chiếc xe tư nhân, cả hai xe đi lên đường cao tốc Giang Tuệ, qua cầu sông Thanh An, chạy vào núi Huệ Sơn. Sau đó chạy đến thôn Long Cố. Khi chiếc xe tư nhân đằng trước rẽ vào đường núi gập ghềnh thì lái xe taxi đằng sau từ chối đi tiếp, bà khách có vẻ cũng đã bằng lòng, bèn trả tiền xe và bảo anh ta cứ đợi, nói là chỉ đi một lát sẽ ra ngay, rồi tự đi vào núi. Anh lái xe đương nhiên quay đầu xe trở về luôn, hành động y như các lái xe khác trong tình huống tương tự.
Anh ta kể lại diễn biến này khi đang ngồi trên trực thăng. Ba Du Sinh cũng trên trực thăng. Lát sau, lái xe chỉ xuống con đường nhỏ đã hiện rõ dưới ban mai, “Là chỗ kia kìa!”
Ba Du Sinh đã nghe thấy qua tai nghe, anh nói vào micrô, “Chuẩn bị hành động! Không bỏ qua bất cứ hốc đá nào chứa vừa người. Phạm nhân có thể có hung khí. Bảo đảm an toàn cho các con tin.”
Sở Hoài Sơn ngây đờ một lát rồi bỗng cười sằng sặc, cười chảy nước mắt nước mũi.
Các người đến muộn rồi!
Anh ta bỗng nhớ ra mình là truyền nhân của vụ “ngón tay khăn máu”, mình còn ba bốn chục năm thậm chí năm chục năm để hành động, nửa thế kỷ khống chế khiến cảnh sát hoa mắt ù tai, khiến giới truyền thông phát điên, khiến dân chúng ăn ngủ không yên, mình không thể bị hủy diệt trong chốc lát vì chần chừ do dự.
Anh ta nhìn lần cuối cái huyệt mộ đã không còn sinh khí, đúng lúc chuẩn bị bước đi thì toàn thân anh ta bỗng cứng đơ.
Vì nhìn thấy trên mặt đám đất kín đặc dưới kia có một bài tay đang thò lên.
Nơi ngón tay bị sợi dây đàn xiết đứt vẫn còn vết máu đỏ sẫm.
Mình đã làm gì thế này?
Sở Hoài Sơn bỗng cảm thấy cả cái hang đá trống trải này đang nhanh chóng co lại, vách hang gớm ghiếc đang ép quanh người, dường như lần đầu tiên anh ta ý thức được rằng kể từ nay mình thực sự bơ vơ. Mình sẽ đơn độc đi vào thế giới đầy ắp người xô đẩy, đi vào thế giới đầy nguy hiểm, trải nghiệm sự đời muôn vàn nỗi ghẻ lạnh.
Mình đã làm gì thế này?
Mình đã chôn sống dì Tư luôn coi mình như con đẻ, chôn sống Na Lan luôn muốn giúp mình thoát khỏi bế tắc. Mình điên rồi sao?
Sở Hoài Sơn nhảy ào xuống cái hố đã ngập đất, hai tay cào đất như điên.
Vài luồng ánh sáng đèn pin chiếu xuống. Có tiếng người hô lên, “Lôi anh ta ra! Mau bới đi!”
Lại có tiếng người nói vào máy vô tuyến điện, “Cấp cứu y tế và thiết bị xuống ngay! Chuẩn bị hồi sức cấp cứu, kể cả tiêm thuốc kích thích tim!”
Rất nhanh, họ bới được năm cái xác.
Nói là xác, vì cả năm người đều đã ngừng thở, tim cũng ngừng đập.
Nhân viên y tế không lãng phí một chút, nhưng họ cần làm lần lượt, ai được đào lên trước thì cấp cứu trước.
Xác đào được gần chỗ Sở Hoài Sơn đứng, là một phụ nữ tuổi ngoài năm mươi và cũng là nạn nhân đầu tiên được máy kích thích tim cứu sống.
Gần như đồng thời, ở vị trí Sở Hoài Sơn đang đào bới, cảnh sát cũng kéo được Na Lan lên.
Na Lan bị chôn chưa lâu, lại sẵn có hai lá phổi phát triển do nhiều năm rèn luyện bơi lội, cho nên trong năm người bị chôn thì cô là người cách xa cái chết hơn cả. Họ chỉ làm hô hấp nhân tạo mấy phút, cô đã tỉnh lại.
Trần Ngọc Đống và Hàn Tây thì không được may mắn như thế, tuy đã được cấp cứu thoát cơn nguy hiểm nhưng họ vẫn hôn mê. Đa số trường hợp bị ngạt thở lâu, thiếu ô xi đưa lên não sẽ dẫn đến việc não bộ bị tổn thương.
Duy có Chu Trường Lộ thì không thể trở về từ địa ngục, lão chẳng nên trách ông trời không công bằng.
Na Lan tỉnh lại, trước mắt chỉ thấy một vùng mờ ảo, ý thức cũng mơ hồ, không biết mình đang ở đâu, không nhận ra những cặp mắt quan tâm nhìn mình là của những ai. Cô mấp máy môi định thử nói, nhưng hình như não bộ vừa phục hồi chưa kịp điều khiển thần kinh phát âm.
“Cô cứ nghỉ ngơi, chờ bình phục đã, có chuyện gì để sau hãy hay.” Giọng đầm ấm của Ba Du Sinh.
Na Lan cựa mình, gắng vận sức, hít thở thật sâu, cuối cùng cũng bật ra được hai chữ, “Hàn Tây.” Đó là nguyên nhân khiến cô gặp nguy hiểm. Cô không quên lời hứa với Hàn Tây.
Tôi đến để cứu cô! Nghe hơi buồn cười nhưng đúng là xuất phát tự đáy lòng.
Ba Du Sinh cho biết, “Hàn Tây vẫn đang hôn mê.”
“Em còn muốn… hỏi cô ấy một điều.” Na Lan cố nói được một câu hoàn chỉnh, nhưng cô lại nhắm mắt, cố chống đỡ cơn nhức đầu kéo đến.
“Cứ nghỉ đi! Yên tâm… Chu Trường Lộ tiêu rồi, lão không thể gây tội ác được nữa.” Ba Du Sinh nói.
Chẳng rõ sau bao lâu, mười phút, nửa tiếng, hay chỉ mười giây… có người báo, “Hàn Tây tỉnh rồi!”
Na Lan lập tức mở mắt, cựa quậy, nhổm dậy. Ba Du Sinh vội gọi nhân viên y tế cáng Hàn Tây lại. Na Lan nhìn Hàn Tây vẫn đang hoang mang. “Hàn Tây, tôi đây mà! Chúng ta đã được cứu rồi!”
Hàn Tây mở to mắt, hình như đã hiểu ra tất cả, mắt cô trào lệ.
Na Lan nói, “Tôi muốn hỏi cô một điều rất quan trọng, lúc này có trả lời được không?”
Hàn Tây gật đầu.
“Kẻ bắt cóc cô tối hôm qua, là Chu Trường Lộ phải không?”
Hàn Tây lắc đầu. Na Lan giật mình.
“Hay là gã thanh niên đeo kính xúc đất hắt xuống? Hắn tên là Hoài Sơn?”
Hàn Tây lại lắc đầu. Na Lan thầm nghĩ “gay rồi”. Cô đưa tay lần túi sau quần bò, toàn thân đau ê ẩm. Cô lấy ra mảnh giấy gấp làm tư, mở ra trước mặt Hàn Tây, “Còn người này…”
Đáp án đã rõ ràng trên khuôn mặt Hàn Tây, “Chính là lão!”
Na Lan giật mình, “Cô… nói là…”
“Tối hôm kia… tôi gặp lão… và còn nói chuyện mấy câu.” Hàn Tây hít thở rất vất vả. “Bỗng nhiên lão chụp một cái khăn bông vào mặt tôi, sau đó tôi không biết gì nữa. Tôi tỉnh lại vì người đau nhức… thì nhìn thấy lão, lão đã trói tôi rất chặt, rồi dùng một sợi dây thép nhỏ tí xiết đứt ngón tay tôi…” Kinh hãi vì nhớ lại cơn ác mộng, Hàn Tây khóc rưng rức.
Kẻ trong tấm ảnh là Mễ Trị Văn!
Ba Du Sinh cũng phát hoảng. Anh định nói “Đừng sợ, chúng tôi vẫn đang giám sát lão, cảnh sát ở buồng bệnh đang tiếp tục theo dõi tình hình lão”, nhưng anh lập tức nhớ ra, kể từ lúc bố trí tìm kiếm cứu nạn ở Huệ Sơn đến lúc này đã nửa giờ rồi chưa liên lạc lại với viên cảnh sát giám thị buồng bệnh. Anh vừa định gọi điện về thì trong tai nghe vọng ra giọng nói đầy lo lắng của Kim Thạc, “Một y tá ở bệnh viện Phổ Nhân vừa gọi điện nói rằng Mễ Trị Văn đã trốn mất!”
Na Lan cảm thấy thị lực của mình đã phục hồi tương đối, cô mau chóng nhận ra vẻ nặng nề bất an trên khuôn mặt Ba Du Sinh. Cô giục, “Đổng Bội Luân! Mau lên…”
Di động của Đổng Bội Luân không có ai nghe.


Chương 38-Điên rồi
Tuy đã quen bị lệ thuộc vào xe lăn nhưng Đổng Bội Luân vẫn chưa bao giờ từ bỏ hy vọng đứng lên đi lại như xưa. Cô biết mình còn trẻ, tế bào và các cơ quan chức năng vẫn có thể phát triển tái tạo. Cho nên ngày nào cô cũng diều trị phục hồi thể lực, trong mọi thời tiết.

Cuộc nói chuyện với Ba Du Sinh cách đây mấy giờ vẫn ám ảnh cô. Chu Trường Lộ có vấn đề thật ư? Là vấn đề gì? Là hung thủ thực sự của vụ án “ngón tay khăn máu”? Ý nghĩ nực cười, hoang tưởng! Năm xưa cô bị Mễ Trị Văn làm hại, Chu Trường Lộ ở bệnh viện Phổ Nhân phụ trách điều trị cho cô, nói rằng ông ta chữa trị cho cô rất mực tận tình chu đáo thì vẫn chưa diễn tả hết. Ông ta còn cống hiến rất nhiều cho đoàn thể Tiếng Lòng, vô cùng nhiệt tình, không hề giả tạo. Nếu nói ông ta là tên ác ma sát nhân suốt ba mươi năm qua thì chắc chắn sẽ là…

Tuyệt đối không thể!

Tuy nhiên cô vẫn chân thành cảm kích sự quan tâm của Ba Du Sinh. Cô quen biết Chu Trường Lộ đã lâu, không tin ông ta có thể làm hại cô, nếu nuôi dã tâm độc ác thì bao nhiêu năm qua chẳng thiếu cơ hội để xuống tay. Cô cũng không lo về Mễ Trị Văn, người đang oặt ẹo như thế, có trốn thoát cũng đi được bao lâu? Đêm hôm kia lão giở ngón khôn vặt chuồn ra khỏi buồng bệnh, rồi sao nữa? Vẫn chỉ là nhìn “tự do” mà thở dài!

Xe dừng lại, cô bảo anh lái xe cứ trở về công ty vì cô phải vào tập luyện nửa giờ. Cô điều khiển xe lăn vào phòng tập.

Trung tâm Phục hồi Chức năng Tiểu Bạch gồm một dãy phòng làm việc do chuyên gia chăm sóc sức khỏe danh tiếng Bạch Manh thuê của Viện Điều dưỡng Vĩnh Khang, hai bên sử dụng chung một hệ thống thiết bị tập vận động, kể cả bể bơi và sân gôn mini. Đổng Bội Luân là khách thường xuyên, cứ việc ra vào tự nhiên. Cô bố trí giờ tập vào sáng sớm để khỏi ảnh hưởng thời gian làm việc trong ngày và cũng vì cô thích sự yên tĩnh của buổi sớm mai.

Không thấy Bạch Manh trong phòng làm việc, chắc là đang ở gian điều trị phía sau.

Cánh cửa sau lưng bỗng sập lại, khóa trái. Tim Đổng Bội Luân bỗng thắt lại.

Một con dao dài nhằm vào mặt cô. “Hãy ngoan ngoãn, chớ kêu chớ động đậy, nếu không sẽ bất lợi cho cả cô lẫn tôi!” Con dao, lời nói, đều hệt như cách đây ba năm.

Đổng Bội Luân không kêu lên, cô chỉ khẽ nói, “Ba năm trước ông không ăn nhằm gì, ba năm sau ông đã gần hơn với nấm mồ, không rõ niềm tin của ông ở đâu ra?”

“Cô đã cho tôi niềm tin.” Mễ Trị Văn mỉm cười. “Vì cô không muốn tôi chết, cô muốn bệnh tật hành hạ tôi lâu hơn nữa, nên cô bảo lãnh cho tôi ra ngoài điều trị. Nhưng cô nghĩ rằng tôi sẽ cảm tạ ân đức của cô thật sao?”

Di động của Đổng Bội Luân rung lên trong túi xách treo bên xe lăn. Mễ Trị Văn nói, “Giờ tập luyện, dù ai gọi đến cũng phải để cho họ chờ.”

“Lý do tôi bảo lãnh cho ông ra ngoài điều trị, ông đoán sao được? Đầu óc ông quá nông cạn, xem ra ông không hiểu gì về tôi. Sao ông lại trốn ra được?” Nhìn lão mặc bộ trang phục công an, Đổng Bội Luân đã có thể đoán ra phần nào. Cổ tay lão bé tẹo khẳng khiu thò ra ngoài ống tay áo, nhưng Đổng Bội Luân đã từng biết công lực của cánh tay lão rồi.

“Cô nên hỏi tôi đã trốn ra lần thứ hai như thế nào mới đúng.” Lão không trả lời thẳng, lão không cần kể tỉ mỉ công trạng của Chu Trường Lộ làm gì, trong đó có ba ống thuốc tiêm gây mê nhét dưới đệm của lão.

Cho đến giờ lão mới dùng hai ống. Tay cớm giám thị cứ 20 phút lại vào giường nhìn xem lão còn sống hay đã chết, xem lão có còn là Mễ Trị Văn không. Bọn cớm bị hớ lần trước đã khôn hơn, hiểu rằng hiện tượng bề ngoài có thể ẩn chứa cú lừa ngoạn mục. Cho nên khi tay cớm bước đến sát giường thì lão bất ngờ vùng dậy tiêm ngay ống thuốc mê vào gáy hắn. Lão không thể không đắc ý vì hành động chính xác, thật bõ công khổ luyện trong tù.

Lựa chọn lúc bình minh để hành động, không phải ngẫu nhiên hay tùy hứng. Từ hồi còn bé lão đã biết, bất cứ việc gì muốn làm thành công thì không thể tùy hứng mà phải có kế hoạch tỉ mỉ. Bỏ trốn lúc bình minh, có thể kịp đến chỗ Đổng Bội Luân tập phục hồi chức năng, mặc khác, lúc đó gã cớm trực đêm đã mệt mỏi, sẽ rất sơ ý, phản ứng chậm chạp. Cả mấy đứa y tá trực ban cũng vất vả chống đỡ cơn buồn ngủ, chúng sẽ không vào buồng bệnh làm phiền, và con bé y tá kia lớ ngớ bước vào bị gí luôn một mũi thuốc mê ngất xỉu, thì mấy đứa còn lại cũng không chú ý đến.

Cho nên lão có đủ thời gian để mặc bộ cảnh phục rồi ung dung đi qua phòng y tá, rời khỏi buồng bệnh, ra khỏi bệnh viện, thoát li cuộc sống bị giam cầm, sau đó mò đến viện điều dưỡng, bước vào phòng phục hồi chức năng, một lần nữa xâm nhập cuộc sống của Đổng Bội Luân. Tất nhiên, bộ cảnh phục cũng đã giúp lão đánh bác sĩ Bạch Manh chết mất.

Lúc này lão bỗng nghĩ xem có nên chọc mũi thuốc mê cho cô gái mà lão hằng nhớ nhung đang ngồi ngay trước mặt không. Nếu làm thế thì sẽ xóa bỏ cái giai thoại xâm hại bất thành một cách rất tự nhiên và đơn giản, lão sẽ thỏa nguyện, còn cô gái này vẫn sống nhưng còn khổ hơn chết.

Nhưng làm thế thì quá nhạt nhẽo buồn tẻ, phí hoài cả ba năm chờ đợi. Lão đã bao lần hồi tưởng và ngóng chờ Đổng Bội Luân giãy giụa, chửi mắng lão, giống những con mèo con chuột chống cự lão trong cái hố sâu ngày xưa. Trò chơi này thú vị ở chỗ cần có cả quá trình, nếu không, thực tế thời nay chỉ cần bỏ ra một tệp tiền thì sẽ có ngay một đêm hưởng lạc thỏa thuê, nhưng đó là thứ khoái cảm thấp kém.

Lão đưa tay nâng cằm Đổng Bội Luân lên. Vẫn là khuôn mặt sáng trong hoàn mỹ, chỉ hơi xanh xao khiến lão thấy xót thương.

Không hiểu sao lão bỗng nhớ đến Na Lan, con bé ấy rất giống một bản sao của Đổng Bội Luân, con bé khiến lão rung động. Tiếc thay lúc này nó đã ở dưới hố thậm chí đất đã ngập đến cổ rồi. Thôi đành, Na Lan là trò chơi của Chu Trường Lộ, là con mồi của hắn. Có phân công rõ ràng, là dấu hiệu của xã hội tiến bộ. Nghĩ mà xem, trong ba mươi năm thành công của vụ “ngón tay khăn máu”, lão chỉ trực tiếp tham gia sáu vụ.

Mễ Trị Văn nói, “Chúng ta bắt đầu đi! Tin rằng không có ai làm phiền chúng ta.” Mũi dao khẽ gạt, cổ áo sơ mi cô tông màu tím của Đổng Bội Luân trễ sang bên vai, để lộ làn da nõn nà. Mễ Trị Văn sáp lại, thở dài. “Ba năm rồi, chắc cô khát khao tôi nhiều lắm? Không được tình yêu chăm chút, nên làn da mịn màng ngày nào đã có phần héo khô. Đừng lo, hôm nay tôi sẽ bù đắp cho.”

Đổng Bội Luân lắc đầu, nói, “Thật ra ông không cần phải thế này, ông đã thuyết phục được tôi rồi, tôi đã nhìn nhầm người. Nếu lúc trước tôi trót bất cẩn gửi gắm trái tim tôi cho ông, thì sau ba năm trời, đã có đủ thời gian để tôi thu lại rồi.”

Mễ Trị Văn cười, “Đoán xem Na Lan gọi tôi là gì? Anh già văn nghệ. Cô là nữ thanh niên văn nghệ, số phận đã ấn định chúng ta ở bên nhau.”

“Nhưng tại sao ông cứ muốn chứng minh mình là một ác ma tái thế? Ông đã thành công hàng loạt vụ án 'ngón tay khăn máu' thì còn gì mà ông không làm nổi?!”

“Vấn đề chính là ở chỗ này!” Mễ Trị Văn bỗng nói như rắn thè lưỡi định phun nọc độc, “Vụ án 'ngón tay khăn máu' không phải mình tôi thực hiện, nhưng tôi thừa sức để làm một mình!”

Đổng Bội Luân cười nhạt, “Thì ra giữa ác ma với nhau cũng có cạnh tranh, cũng muốn lên ngôi đầu bảng!”

Mễ Trị Văn sờ túi lấy ra một sợi dây đàn. “Thử chìa ngón tay ra!”

Đổng Bội Luân hiểu ngay, thì ra ngón tay đứt là kiệt tác của một sợi dây đàn? Cô bỗng thấy ruột gan nhộn nhạo, chỉ chực nôn ọe.

“Khi xưa cô gần tôi quá, ấy là tự cô nên tôi phải chiều ý cô. Nhưng lần trước không hiểu tại sao bộ mặt đen tối của tôi lại trỗi dậy, thế là hỏng việc. Hôm nay sẽ không lặp lại sai lầm ấy.”

“Tôi nghĩ ông nên nhanh chóng đi khỏi đây, công an đã biết ông trốn khỏi bệnh viện thì họ sẽ tìm đến đây bất cứ lúc nào…”

Mễ Trị Văn cười ha hả rất ngông nghênh. “Lại thương anh rồi, phải không? Thực chất, anh trốn ra ngoài không vì điều gì khác, mà chỉ nhằm được gặp lại em. Công an đến, anh sợ gì nhỉ? Trên đời này anh còn mấy ngả đường để đi nữa? Được, tạm gác chuyện ngón tay lại. Ta nên vui vẻ thì hơn.” Nói rồi lão lại đưa mũi dao xuống dưới vài phân, cắt đứt dải treo áo lót của Đổng Bội Luân.

Lúc này trong phòng chợt vang lên tiếng chuông điện thoại.

Đó là chiếc điện thoại đầu rời kiểu mới, bệ máy và đầu cầm tay màu trắng, cài đặt tiếng chuông kêu theo kiểu cũ “tinh… tang tang…” như rót vào tai người ta lúc sớm mai.

“Vẫn cứ có kẻ làm mất hứng.” Mễ Trị Văn hầm hầm nhìn máy điện thoại, ánh mắt như muốn chặn đứng tiếng chuông.

Chuông lại reo một chập nữa, sau đó máy tự chuyển sang chế độ lưu tin nhắn.

Một giọng nữ nói, “Văn ơi…” Giọng có ý do dự, bùi ngùi.

Con dao trong tay Mễ Trị Văn dừng lại, lão nhìn máy điện thoại. Một đốm đèn đỏ nhấp nháy, tức là vẫn đang ghi âm.

Một chuỗi tạp âm xè xè vang lên, hình như là một cái máy chạy băng cổ lỗ sĩ đang chỉnh kênh.

Giọng nữ lại nói, “Cậu Ba! Liệu sau này cậu còn nhớ em nữa không?”

Thân xác khô gầy của Mễ Trị Văn run rẩy.

Vẫn đang ghi tin nhắn.
Sau giọng nữ là một giọng nam hơi khàn, “Sao lại không nhớ? Sao em lại hỏi anh như thế?” Thì ra đây là cậu Ba, người được Minh Phượng yêu, chàng cũng có tình cảm với Minh Phượng.

Mễ Trị Văn có thể đọc thuộc lòng mọi lời thoại của Minh Phượng.

Minh Phượng nói, “Em rất sợ cậu sẽ quên em.”

Cậu Ba, “Anh không bao giờ quên em, mãi mãi không quên! Em tin chứ?”

Minh Phượng, “Em tin.” Giọng mơ màng.

Cậu Ba, “Còn em thì sao?”

Minh Phượng, “Em sẽ nhớ cậu, sẽ nhớ… nhớ đến khi em chết. Chết rồi em vẫn nhớ cậu.”

Mễ Trị Văn bỗng kêu lên, “Mẹ! Mẹ ơi!” Con dao trong tay lão rơi xuống đất. Lão nhào đến chiếc điện thoại, sững sờ, ôm chặt nó vào lòng, dây điện thoại và dây cắm điện nguồn thõng xuống đất.

Trong điện thoại vẫn là giọng cậu Ba, “Không! Anh muốn em sống luôn nhớ đến anh, chứ chết rồi thì đừng nhớ.”

Mễ Trị Văn thầm nghĩ, đến lượt mẹ ta nói.

Minh Phượng, “Đã yêu ai đó thì mình phải rải lối đi bằng phẳng cho người ấy chứ đừng biến thành một gánh nặng cho người ấy.”

Một giọng nữ lạ, “Cô nói thế à?”[1]

[1] “Lời thoại của vợ cậu Ba.”

“Không! Mợ ơi! Cậu Ba muốn có một người con gái chân thành yêu cậu, người ấy không muốn cậu bị rắc rối hay buồn phiền một phút nào. Người ấy thực lòng mong cậu sẽ sống cuộc đời thật vui, sống như cậu vẫn nói là, can đảm, vươn lên và thành công!”[2]

[2] “Lời thoại của Minh Phượng.”

Cậu Ba, “Hôm nay em lắm lời quá!”

Mễ Trị Văn thầm nghĩ, cậu Ba khốn kiếp, dám chê mẹ ta lắm lời?

“Cậu từng nói là có một loài chim hễ cất tiếng hót thì sẽ hót suốt đêm, hót bật cả máu ở miệng ra.”

“Đúng! Loài chim đó đem lại niềm vui cho con người.”

Rồi đến những tiếng ồn, hình như có cả tiếng sấm vọng đến từ xa.

Minh Phượng, “Cậu Ba ơi, em cứ muốn nói thế này suốt đêm cho cậu nghe!

Tiếp đó là tiếng Hoàng Tuệ Trân tấm tức khóc. “Mẹ thực sự… cảm thấy mình sống vẫn chưa đủ… Văn ơi!”

Mễ Trị Văn ôm cái máy điện thoại, hai tay run bắn, cái máy sắp rơi tuột xuống đất. Nhưng không, lão không để nó bị rơi. Đây là báu vật, là sinh mệnh của lão. Bốn mươi năm trước, cái máy ghi âm của mình đã bị mấy tay công nhân cướp mất rồi đập nát nhân cơn hăng say vì đấu tố, đây là lần đầu tiên lão lại được ôm ấp những hồi ức và hoài nhớ của thời thơ ấu, được nâng niu giọng nói của mẹ.

Đó là giọng của mẹ trong vở kịch nói Nhà của Tào Ngu, bà sắm vai một a hoàn, vai bi kịch. A hoàn đã yêu cậu Ba lẽ ra không nên yêu, kết cục chỉ có thể là cái chết.

Mẹ cậu bé Mễ Trị Văn là một diễn viên, đã yêu một người không nên yêu là Mễ Dũng Hằng, rồi lại nổi tiếng mà lẽ ra không nên nổi, khiến cho Mễ Dũng Hằng thô kệch tầm thường ghen lồng ghen lộn, kết cục cũng là cái chết.

Vừa rồi bà nói gì nhỉ? Nói là sống vẫn chưa đủ!

Lão bỗng điên cuồng ấn nút trên máy điện thoại, rồi cũng bật được loa ngoài của máy cái.

“Mẹ ơi!”

“Văn ơi, mẹ rét quá, đau quá! Con đưa mẹ đi viện!” Bà mẹ nài nỉ.

Toàn thân Mễ Trị Văn run bần bật, hình như chính lão đang bị rét bị đau.

“Nhưng, bố… không cho… nếu ông ấy biết… ông ấy sẽ đánh chết con.”

Lão cũng bắt đầu khóc nấc lên.

“Thế thì… con đừng lo cho mẹ nữa… con đi ngay đi, đi khỏi nhà… kẻo sẽ có ngày ông ấy đánh con chết mất.”

“Mẹ ơi…” Mễ Trị Văn thốt lên trong tiếng nức nở, chẳng khác gì tiếng kêu của một con thú bị thương. Tay lão vẫn rất run.

“Văn à, con đang làm gì thế?” Giọng Hoàng Tuệ Trân trong máy điện thoại, yếu ớt bất lực.

“Mẹ… đừng trách con!” Mễ Trị Văn đặt máy điện thoại xuống, hai tay lão khua trên khoảng không.

Giọng Hoàng Tuệ Trân hơi nghèn nghẹn hình như rất khó phát âm, sau khi nói mấy câu nghe không rõ thì bắt đầu ho dữ dội. “Văn à, con đừng… con định chôn mẹ hay sao?”

“Mẹ đừng trách con, chôn sắp xong, sắp xong ngay thôi, rồi mẹ sẽ được giải thoát khỏi bể khổ.” Hai tay Mễ Trị Văn khua lên như điên.

“Con… nếu con gặp lại… con sẽ… giết ông ta ư?” Giọng Hoàng Tuệ Trân thấp dần.

“Tất nhiên con sẽ làm, con sẽ làm thế! Xin mẹ… đừng trách con.” Lúc này Mễ Trị Văn vô cùng đau buồn và cuồng nộ, lão đập tay xuống bàn rầm rầm.

Phía sau lão, Đổng Bội Luân lặng lẽ nhặt con dao lên.


Chương 39: Trót gặp ma quỷ


Ba Du Sinh và Na Lan từ trực thăng nhảy xuống, rồi chạy như bay vào Trung tâm Phục hồi Chức năng Tiểu Bạch. Trước đó công an của khu đã đến và đang canh giữ hiện trường. Đổng Bội Luân ngồi lặng lẽ, sắc mặt xanh xao, mình mặc chiếc áo blu trắng, có lẽ là áo của bác sĩ Bạch Manh, trông cô vẫn bình thường.

“Cô không sao chứ?” Na Lan cầm tay Đổng Bội Luân, bàn tay lạnh ngắt.

Đổng Bội Luân nhìn khuôn mặt Na Lan “bụi bặm lấm lem như ma”, gượng cười, “So với em thì có lẽ tôi khá hơn. May mà có cuộc điện thoại kia gọi đến, nếu muộn chút nữa thì có lẽ tôi chỉ còn là cái xác.”

Na Lan hiểu ý Đổng Bội Luân, đã sẵn sàng để chết chứ không để Mễ Trị Văn giở trò càn rỡ.

Ba Du Sinh cùng các chiến sĩ công an khu bố trí nhân lực tổ chức truy bắt.

Đổng Bội Luân nói, “Tôi không hiểu nổi…”

Na Lan biết Đổng Bội Luân muốn hỏi về cú phôn kỳ lạ có giọng của bà mẹ Mễ Trị Văn, bèn nói, “Mọi người gọi vào di động của cô, không thấy động tĩnh gì, bèn tìm hiểu giờ giấc cô tập khôi phục chức năng, đoán rằng Mễ Trị Văn đã mò đến nơi này. Vì Chu Trường Lộ biết rõ quy luật luyện tập của cô thì Mễ Trị Văn cũng nắm được, hắn bèn đến đây tấn công. Lúc đó dù cử công an đến hay thông báo cho Trung tâm thì vẫn không kịp, và sẽ đẩy cô vào tình thế bị bắt làm con tin, cho nên em mới nảy ra ý tưởng này. Khi trước điều tra về Mễ Trị Văn, em đã được nghe băng ghi âm cũ của vở kịch nói mà Hoàng Tuệ Trân sắm vai. Một bà cao tuổi làm ở cô nhi viện nhớ lại rằng Mễ Trị Văn hồi nhỏ rất hay nghe radio phát những đoạn kịch nói mà bà mẹ sắm vai, cho nên mọi người đoán rằng, nếu cho lão nghe lại đoạn băng đó thì thần kinh và tâm trí lão sẽ rối loạn.”

Đổng Bội Luân nhận xét, “Em đã thành công. Lúc đó lão như hóa điên.”

Na Lan nói, “Lão bị chẩn đoán là mắc chứng tâm thần phân liệt đứt quãng, chứ không phải lão giả vờ.”

“Cho nên em mới kích thích để lão lên cơn?”

Na Lan gật đầu.

“Đoạn băng ghi âm ấy ở đâu ra thì dễ hiểu rồi, nhưng còn những câu đối thoại giữa bà mẹ và Mễ Trị Văn hồi nhỏ?”

“Ở khoa biểu diễn của Học viện Nghệ thuật Biểu diễn trực thuộc Đại học Giang Kinh, có giáo sư Nhiếp Dương, bà cũng là một nhà sưu tập băng ghi âm kịch nói. Bà đã cho nghe bản ghi âm ấy, cũng biết rõ lần công diễn vở Nhà của Tào Ngu mà Hoàng Tuệ Trân sắm vai. Bà có biệt tài bắt chước giọng của các vai diễn, mô phỏng giọng Minh Phượng do Hoàng Tuệ Trân sắm vai hết sức tuyệt vời, em đã đề nghị bà tiếp tục luyện giọng… Thật không ngờ hôm nay lại rất được việc.”

Đổng Bội Luân chăm chú nhìn vào mắt Na Lan. “Em vẫn quá khiêm tốn đấy, em nhờ chuyên gia biểu diễn mô phỏng giọng nói của Hoàng Tuệ Trân, nhằm phục vụ thẩm vấn Mễ Trị Văn. Đúng không?”
Na Lan khen, “Cô quá thông minh!”

“Những câu nói qua điện thoại ấy không thể là nguyên văn ban đầu? Ngoài Mễ Trị Văn ra, không ai có thể biết đối thoại thực sự của họ ngày xưa!”

“Vâng, đều là kết quả của suy đoán. Các phản ứng của Mễ Trị Văn cho thấy suy đoán đã gần đúng. Thật ra Hoàng Tuệ Trân bị chồng giết do ghen tuông cực độ, người chồng ấy cũng là kẻ bạo hành vợ con. Chắc chắn ông ta đã nghi ngờ vợ mình đi diễn kịch rồi dan díu với một lãnh đạo huyện, bèn đánh đập vợ tàn bạo, khi vợ chỉ còn thoi thóp thì ông ta đào một cái huyệt. Nếu em đoán không nhầm, thì chính Mễ Trị Văn đã chôn bà mẹ. Vì bị cha ép buộc, mặt khác, cậu ta cũng muốn bà mẹ sớm chấm dứt đau khổ. Nhưng cậu ta không đủ can đảm để tố cáo tội ác của cha, để rồi về sau cậu ta biến thành một trong những hung thủ của vụ 'ngón tay khăn máu'. Có phải người cha Mễ Dũng Hằng chết vì bị ô tô quân dụng đi đêm va phải không? Em đoán rằng Mễ Trị Văn đã ám sát cha nhằm bảo vệ mình và nhằm trả thù cho mẹ, sau đó cậu ta kéo chiếc xe đạp của cha ra lòng đường, bố trí hiện trường giả là bị ô tô đâm phải.”

Đổng Bội Luân hỏi, “Tôi không hiểu tại sao em lại có thể đoán ra?”

Na Lan định nói, dựa vào suy diễn tâm lý tội phạm. Nhưng cô dùng cách nói khác dễ hiểu hơn, “Tuyến phát triển của Mễ Trị Văn và Chu Trường Lộ tương tự nhau, các nét chính cùng bổ sung tương hỗ, vì thế em đoán ra nguồn cơn của tội ác của họ là những bi kịch phải nếm trải khi còn thơ ấu.”

Ba Du Sinh bước lại, tay anh vẫn cầm tập biên bản do các cảnh sát ghi chép. Anh hỏi Đổng Bội Luân, “Nghe nói, khi Mễ Trị Văn nghe bản ghi âm điện thoại ấy, lão đã phát điên, cô thừa cơ nhặt con dao lên?” Anh ngừng lại nhìn Đổng Bội Luân.”… nhưng cô không tấn công lão?”

Đổng Bội Luân gượng cười, “Tôi cầm dao để tự vệ. Tôi đâu có võ công như Lệnh Hồ Xung, ngồi một chỗ vẫn có thể đánh đông dẹp bắc?”

Cho nên Đổng Bội Luân đành ngồi mà nhìn Mễ Trị Văn chạy sang phòng tập, nhảy qua cửa sổ trốn thoát. Từ đầu đến cuối, lão vẫn ôm chiếc điện thoại để bàn có băng ghi âm tin nhắn kìa.

Ba Du Sinh nói, “Trước khi đến đây, chắc lão đã khảo sát rất kỹ đường đi lối lại ở trung tâm này. Có thể là hắn nhờ Chu Trường Lộ hoặc Sở Hoài Sơn cung cấp tư liệu. Có người nhìn thấy lão đi vào một nhà phụ ba tầng trong khu điều dưỡng cao cấp ở đây, cởi bộ cảnh phục vứt trong toa lét. Đoán chừng lão chạy ra vườn hoa phía sau khu điều dưỡng cao cấp rồi lủi mất. Ở đó có một cái hồ nhân tạo, chắc lão đã đi qua hồ nước.”

Na Lan lập tức nhớ ra, “Hồ nhân tạo ấy cũng tiếp giáp công viên Kim Sơn!” Cô nhớ hồi sinh viên năm thứ nhất thứ hai, cô thường cùng các bạn bơi thuyền trên hồ đó. Nếu đã bố trí sân thuyền nhỏ tiếp ứng thì Mễ Trị Văn có thể nhanh chóng bơi qua hồ, chạy vào công viên trà trộn trong đám đông người già đang tập thể dục buổi sáng.

Ba Du Sinh nói cảnh sát đã phong tỏa công viên Kim Sơn. Giọng anh có nét băn khoăn, vì hồ nước tiếp giáp với công viên Kim Sơn và vài khu biệt thự cao cấp xung quanh. Mễ Trị Văn có thể trốn vào một nhà nào đó, nếu Chu Trường Lộ đã thuê sẵn cho lão một căn hộ, thì việc truy tìm lão chẳng khác nào mò kim đáy biển.

Lúc này, lái xe của Đổng Bội Luân cùng vài lãnh đạo công ty chạy vào thăm hỏi. Sau khi được biết cảnh sát tạm thời chưa cần trao đổi gì thêm với Đổng Bội Luân, lái xe bèn đẩy xe lăn của nữ chủ nhân ra ngoài. Đổng Bội Luân bình thản nói, “Anh định đẩy tôi đi đâu? Bác sĩ Bạch đã ra rồi mà? Chúng tôi sẽ bắt đầu tập luyện.”

Na Lan nhìn anh lái xe đang ngạc nhiên, cô thầm nghĩ, anh chưa hiểu hết về sếp của mình. Cô chào tạm biệt Đổng Bội Luân. Đổng Bội Luân bỗng nắm chặt cánh tay Na Lan kéo cô lại gần, nói thầm, “Trước lúc bỏ trốn, lão nói với tôi rằng từ nay lão sẽ có hai người để ngày đêm nhớ nhung.”

Cơn giá lạnh mùa xuân chết tiệt này bao giờ mới kết thúc đây?


Chương 40: Hoa nhuộm màu máu

Có một người vừa xuống máy bay, lên ngay ô tô đi về hướng Khu Công nghệ cao Thanh Giang. Trên đường, người ấy gọi hai cuộc điện thoại. Sau khi đi qua cầu sông Tân Giang một quãng, thì thấy mấy ngả đường đều đang bị phong tỏa, chăng những sợi dây đai màu vàng của công an.

Rồi nhìn thấy Na Lan.

Vẻ mệt mỏi, áo quần nhàu nhĩ nhưng vẫn rất xinh tươi thậm chí càng mơn mởn sức xuân. Một nữ cảnh sát đưa Na Lan lên chiếc SUV của công an Giang Kinh.

Lại có chuyện gì thế?

Sau đó vài hôm, người ấy đương nhiên sẽ nghe tin vụ “ngón tay khăn máu” đã bị triệt phá.

Người ấy bảo lái xe đi vòng đường khác.

Rồi chạy đến tầng hầm để xe của tòa nhà cao ốc Hâm Khoa. Anh lái xe giảm tốc độ xuống dưới 10km/h, cho đến lúc nhìn thấy chiếc xe BMW X6 đang đỗ ở vị trí chuyên dành cho nó thì dừng xe lại. Người ấy xuống xe, rồi mở cánh cửa hàng ghế thứ hai bên phải chiếc xe X6, ngồi vào.

Trên xe X6 đã có một người đang ngồi, tuổi ngoài ba mươi nhưng mái tóc đã hơi thưa. Khách vừa vào xe nói, “Sếp Lý nên biết, tôi rất muốn sếp sang xe tôi để nói chuyện.”

Chỗ đỉnh đầu không tóc của sếp Lý lấm tấm mồ hôi, sếp Lý nói, “Lần sau… nhất định sẽ…”

“Đừng lo lắng.” Khách thân mật vỗ vai sếp Lý. “Cách đây nửa giờ tôi đã cho người quét xe của anh rồi, rất sạch sẽ, anh chăm sóc xe mình tốt lắm.” Nói vậy tức là trong xe này không có hung khí, không gắn máy ghi âm, hôm nay họ nói chuyện với nhau là an toàn.

Sếp Lý cười ngượng nghịu, “Đương nhiên là phải sạch sẽ chứ! Thứ mà ông cần, tôi đã cầm đến đây.” Anh ta đưa cho khách một tập giấy. “Đây là toàn bộ danh mục các cuộc điện thoại của Na Lan trong ba tháng qua.”

“Xem ra, vẫn không thể bố trí nghe trộm?”

Sếp Lý nói, “Cách đây hơn một năm, sau chuyến nghỉ dưỡng ở núi Trường Bạch trở về, cô ấy trở nên thận trọng, cứ cách vài ba hôm lại nhờ cảnh sát ở Sở Công an đến phòng ký túc xá rà soát xem có bị gắn máy nghe trộm hoặc camera không, cho đến giờ vẫn thế, cho nên khả năng này không lớn. Tôi ngờ rằng đúng là Giản Tự Viễn trước khi chết đã nói gì đó với cô ta.”

Ông khách có vẻ băn khoăn, vấn đề này đã bàn rất nhiều lần rồi không còn gì để bàn thêm nữa. Dù Giản Tự Viễn trước khi chết không nói gì, thì kể từ sau trận bão tuyết ấy Na Lan cũng không tin rằng xung quanh mình luôn luôn an toàn nữa.

Gã Giản Tự Viễn gần như là một thám tử tư, chỉ hiềm hắn hay can dự vào những chuyện mờ ám. Cách đây hơn một năm, có người nhờ hắn thâm nhập vào một tốp người gồm người nhà cộng với bạn bè, rủ nhau đi nghỉ dưỡng và trượt tuyết ở núi Trường Bạch, mục đích là tiếp cận Na Lan để nghe ngóng về tung tích của một kho báu. Tương truyền kho báu ấy là của một tể tướng thời Nguyên tên là Bá Nhan đã vơ vét, tham ô mà gom được. Na Lan cùng một nhóm thanh niên say mê bơi lặn đã vô tình phát hiện ra kho báu ấy ở hang động dưới đáy hồ Chiêu Dương, khi đi thông báo cho cảnh sát thì lại có “chim sẻ” lén rình phía sau cướp mất đám báu vật ấy[1].

[1] Xem tiểu thuyết Hồ tuyệt mệnh và Tuyết đoạt hồn, cùng một tác giả.

Đương nhiên đó chỉ là Na Lan tự nói thế.

Rất có thể chính Na Lan đã bày mưu từ trước, khi cô ta đi thông báo với cảnh sát thì “bạn hợp tác” thực sự của cô ta lên đến nẫng luôn tất cả đem đi.

Lẽ ra nó phải thuộc về ta đây mới đúng!
Con người ta sống trên đời này chỉ vì ba chữ Danh, Lợi, Tình. Ta tự cảm thấy mình không hề tham lam, danh vọng chỉ là phù vân; còn về tình, thời nay Tình đã bị trộn lẫn với Sắc rồi, đương nhiên cũng không thể coi trọng nữa. Ta luôn hết lòng quan tâm đến từng bước đi của Lan muội, nếu nói ta vô cùng tận tình thì cũng không có gì là quá lời.

Lợi. Lợi mới là thực tế nhất.

Người khách mở cách ghi chép điện thoại của Na Lan mà sếp Lý vừa đưa, vẻ ngán ngẩm, “Anh quá trịnh trọng hẹn tôi đến gặp… vừa xuống máy bay tôi đã phải đến đây luôn, chắc không chỉ vì đưa tôi mấy tờ giấy này?”

Sếp Lý nói rất đắc ý, “Đương nhiên không thể để ông đến vô ích. Tất nhiên là có phát hiện mới rất quan trọng.”

“Nói cụ thể đi?” Ông khách biết có thể có tin bom tấn nhưng vẫn tỏ ra điềm tĩnh. Những người như sếp Lý kính nể bái phục ông ta cũng vì điểm này.

“Chúng tôi có một đoạn video, khi rỗi ông có thể xem.” Sếp Lý đưa cho khách một ổ USB. “Trong này có tin tức về người cha của Na Lan.”

Trong phòng nghiên cứu, Na Lan đã viết xong báo cáo nhưng vẫn chưa biết nên định danh vấn đề tâm lý của Sở Hoài Sơn thuộc loại nào. Cô đã hỏi chuyên gia thần kinh học của Đại học Giang Kinh là Du Thư Lượng về tình hình chẩn đoán bệnh cho Sở Hoài Sơn, hiện giờ cũng chưa có kết luận cuối cùng. Mấy ngày nay Ba Du Sinh và đồng nghiệp vẫn thay nhau thẩm vấn, nói chuyện với Sở Hoài Sơn, chắc phải sau nhiều ngày nữa mới xong, liệu Ba Du Sinh sẽ nói gì?

Nếu Chu Trường Lộ còn sống, lão sẽ nói gì?

Chu Trường Lộ sẽ nói, tại sao không ai nhắc đến rất nhiều sự kiện xấu xa xảy ra trong gia đình? Tại sao các nạn nhân của bạo lực đều giữ im lặng chấp nhận bị hành hạ lâu dài… cho đến khi tôi phải dùng phương thức rất cực đoan để chỉ ra họ là nạn nhân? Có phải chỉ còn cách chôn sống họ để họ thoát khỏi đau khổ ở nhân gian, thoát khỏi những tổn thương mà người thân gây ra cho họ?

Đằng sau động cơ phạm tội là quá trình phạm tội, đó là hai bộ phận mà tâm lý học tội phạm không thể tách rời.

Một kẻ phạm tội vài ba lần mà không bị sa lưới, thì sẽ thế nào? Sẽ trở thành kẻ giết người hàng loạt như một thói quen; phạm tội sẽ trở thành sự thèm khát, trở thành sở thích suốt đời.

Còn Mễ Trị Văn? Trước đây kết luận lão đang rất nguy kịch, là quá sớm. Tuy mang đủ thứ bệnh trong người thật nhưng khả năng hành động của lão vẫn cao hơn hẳn chúng ta nghĩ. Đúng là lão có vấn đề về thần kinh, có tâm lý đen tối biến dạng đến cùng cực nhưng lão lại là bệnh nhân tâm thần phân liệt, sẵn có kiến thức sâu rộng, và là một diễn viên thiên tài không khó để với tới giải Oscar!

Na Lan gấp các tư liệu “Hồ sơ tội ác” lại, nhấp màn hình máy di động, mở weibo của mình ra viết vào một câu, “Đã viết xong báo cáo, mệt quá. Buổi tối xem đĩa DVD.”

Cô pha xong một cốc trà sữa rồi quay trở lại nhìn, đã thấy có ba bình luận, một là của cô bạn chí thân cùng phòng là Đào Tử lúc này đang ngồi ở phòng làm việc bên cạnh. Đào Tử viết, “Mình cũng mệt, và cũng đang xem.”

Hai là của Cung Tấn. Chẳng rõ có phải do đại sư Thương Hiệt “gợi mở” không, anh ta lấy bút danh có vẻ sâu sắc ra trò, “Nhảy múa cùng Rồng”, tức là tách chữ (họ) Cung ra được hai chữ Rồng (long) và chữ Cùng (cộng), bút danh này hơi ngông nghênh. Cung Tấn bình luận rằng, “Chiến tranh lạnh đã kết thúc, các vị cứ làm việc của mình, chúng tôi làm việc của chúng tôi.” Ngụ ý rằng anh đã giảng hòa với người đẹp khảo cổ học Dương Phán Phán ổn rồi.

Thứ ba là… tay Na Lan bỗng run lên, cốc trà sữa đổ xuống bàn.

Bút danh “Thương Hiệt”. Không viết một chữ nào. Chỉ đưa ra một bông hoa hồng.

Đỏ thắm như máu.
Mục lục

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét