Nụ cười
vẫn thường lộ trên cặp môi đỏ tựa thoa son, anh Vân bỗng ủ dột, muốn như cỏ vẻ
chán đời.
Do lẽ
gì, cái thái độ trái ngược như vậy? Vì ông thân anh, một cụ phán thượng hạng đã
về hưu, hưu bổng hàng tháng rất to, với bà mẫu anh, một người mẹ đảm, đã một
tay tậu nổi mấy toà nhà lộng lẫy mà không để cho anh được tự do tiêu, phá
chăng? Vì ý trung nhân của anh, một cô gái tân thời óc chứa đầy những tình cảm
đã phụ anh chăng? Hay vì mảnh bằng tốt nghiệp của trường cao đẳng thương mại
chưa cho phép anh được chiếm một ghế ngồi trong một.công sở? Lạ! Con một nhà
giàu, lại sẽ, là chồng một mĩ nhân, địa vị như thế, tại sao anh Vân lại chán
đởi? Cái buồn của anh chàng này chắc có chứa sự bí mật gì đây...
Chiều
hôm ấy, anh Vân ghé vào tai tôi:
- Tôi đã
đỡ được nỗi chán đời vì đã tìm ra được cách mở két của ông cụ. Tôi mới có được
một mẻng rất đáng yêu cả tinh thần lẫn xác thịt nhưng phải cái hơi đáng giận là
có cái đức lớn trong sự tiêu tiền. Tôi rất lấy làm phàn nàn về điều đỏ, nhưng
biết làm thế nào? Phụ nữ bây giờ hầu hết thế cả! Tình thế này ép tôi phải
tính... Đáng lẽ tôi cũng không dùng đến kế này, vì nó bất lịch sự quá, nhưng
anh tính : ông cụ đưa tiền cho mình tiêu thì tỏ ý xót xa mà đến khi ngồi vào
đám bạc, hết trăm này đến chục khác chẳng lấy làm tiếc, anh bảo thế thì còn gì
ức cho mình hơn? Nói tới đó, anh ngắt câu chuyện, đưa ra cho tôi một lá thư còn
ngỏ.
Ngoài bì
đề:
Monsieur
Ấm B...
N...
Ruelle de poissions Hanoi (1)
Còn
trong thư:
Bắc
Ninh, le 26 février 1933 (2)
Thưa
ngài,
Cùng
nhau gắn bó đã bao nhiêu lần, tôi vẫn để ý mãi, nay thật đến lúc phải phiền
ngài rồi đây. Mong ngài xếp cho một người có vẻ ông tham, ông phán, đúng chiều
thứ bảy sang bên tôi có hàng. Chính ông thân tôi là mòng. Chắc chắn lắm! Còn
nhiều két khác nữa, nhưng tôi chưa dám cam đoan vội, vì chưa xếp xong. Chỉ cần
người chơi tổ tôm, tài bàn giỏi thôi, không dùng đến bát, đĩa gì ca. Đáng lẽ
tôi phải “thân hành” sang cầu cứu song bận thu xếp, phải dùng chữ thay người,
có điều đường đột, ngài cũng xá đi cho. Và xin báo trước bằng thơ, nói rõ hình
dạng người mà ngài phái sang, đễ chúng tôi ra ga đón cho tiện. Xin nhớ, chúng
tôi ở phố Tiền An, số nhà...
Kính thư
Vân
Xem
xong, bốn mắt gặp nhau, tôi cố nhịn cười:
- Anh
gọi bịp về bắt ông cụ đấy à? Gớm! Có hiếu nhỉ!
Anh Vân
chỉ mỉm cười một cách khoái chí rồi lấy hồ dán kín phong thư.
* * *
Hai hôm
sau. Trên con đường chạy ra ga Bắc Ninh với hai dãy cây um tùm đứng giàn hai
bên, một chiếc ô tô hàng đứng chờ, mấy cái xe cao su lượn nghênh ngang, lùng
khách. Anh Vân rảo bước đi bên tôi, cầm một lá thư lẩm nhẩm: “Đúng 6 giờ chiều,
ở ga xuống, người nào mặc ta, cầm máy ảnh, mặc cả xe đến phố Tiền An là đích
đấy...”
Đúng 6
giờ. Một hồi còi... Mười toa tàu lù lù đến sân ga, nhả ra độ mười hành khách.
Có người gọi vợ, gọi con, mặc cả xe om sòm, có người bị phu xe túm bâu lấy mà
chỉ biết kêu rối rít: “Không, không !...” Bỗng có một giọng dõng dạc, to hơn
hết, nổi lên trong đám khách ồn ào:
- Chủng
mày, thằng nào biết, mau kéo tao đến phố Tiền An nhà cụ...
- Đây
rồi !
- Phải,
đích người này rồi. áo gấm trong, áo sa tanh ngoài, giày ban (3), tay có cầm
máy ảnh. Răng vàng hé lộ mỗi khi cười lệch miệng, kính đồi mồi nằm trên sống
mũi dọc dừa nghiêm trang. Mặt láu lỉnh ra phết ăn người.
Ba chúng
tôi bắt tay nhau. Anh Vân pha trò mà giới thiệu:
- Đây là
chú nó... còn ngài này... “ân nhân” của tôi !
Ông ân
nhân của tôi ấy là ông đến giết bố nó để cứu con, mấy phút sau, được anh Vân
rước về nhà kêu rầm lên: “Thưa thầy, thưa đẻ, có bác tham (4) Ngọc vốn là bạn
cũ sang chơi với con” thì được cả nhà đón chào mừng rỡ. Nhất là lại được ông cụ
già đạo mạo tiếp đãi ân cần, tự đem thân ra đóng cái vai con chim mòng đậu vừa
đúng tầm súng cho kẻ đi săn.
Cuộc gặp
gỡ của chủ với khách bắt đầu gắn bó bằng một bữa cơm bề bộn những thịnh soạn.
Trong bữa tiệc kéo luôn hai tiếng đồng hồ, người ta nói đến những chuyện giời
nắng, giời mưa, nạn khủng hoảng (5), cuộc chiến tranh Trung - Nhật, việc nhà
nước thi hành chính sách tiết kiệm rút lương, thải bớt người làm. Ông “tham
Ngọc” của anh Vân ăn nói ôn tồn, đóng cái vai kịch của mình một cách thạo lắm.
Ông hết bàn luận về đạo nghị định ngày 6 Octobre 1931 (6) lại làm ra mặt học
rộng, đả động đến cả bộ “mặt trái” của hội Quốc Liên (7). Có khi ông tự giới
thiệu: chỉ ham đọc sách và gặp dịp nhàn thì chỉ du ngoạn những phong cảnh đẹp
chớ ít khi để ý đến sự chơi bời. Thấy con người giỏi mà nết na như vậy, cụ phán
khâm phục ông ra mặt, ngợi khen mãi ông là người hữu ích, chẳng lêu lổng như em
Vân. Rồi cụ cười khà khà:
- Dù bác
không chơi bời gì thì tổ tôm, tài bàn cũng phải biết chứ?
Nụ cười
vẫn giữ trên môi, ông “tham Ngọc” thong thả đáp lại:
- Bẩm
vâng! Ngoài sự đọc sách với chơi ảnh ra, con cũng chẳng còn cách gì giải trí
nữa. Đi hát ả đào hay rượu chè, hút xách thì tai hoạ, mà giai gái thì bẩm...
chúng con đã quá tuổi rồi! Vả lại tổ tôm, tài bàn là cái chơi thanh nhã, khác
nào như cuộc đấu trí. Con cho đó là một cách giải trí lịch sự mà người thượng
lưu cần phải biết.
Thiết
tưởng một phạm nhân can tội giết người mà được trạng sư (8) cãi cho trắng án
cũng vị tất đã có lòng kính phục, ngưỡng mộ, nhớ ơn ông thầy cãi của mình như
cụ phán của tôi kính phục, ngưỡng mộ, nhớ ơn ông “trạng sư của tài bàn, tổ tôm”
lúc ấy. Đánh trúng vào chỗ yếu của ông cụ rồi, tay bịp già đã thèm nhận những
lời ân cần mời mọc vào cuộc tài bàn ngay cho đâu!
- Bẩm
con định sang hầu cụ với thăm anh Vân con rồi nhân tiện đi chụp ít ảnh vì cảnh
những đồi Lim đẹp đã có tiếng... chứ không nghĩ đến sự sang đây lại được cụ ép
đánh tài bàn !
Cụ phán
cố phân trần cho ra lẽ:
- Nhưng
còn cả ngày mai thì bác ngại gì? Tôi chỉ sợ bác chả đem nổi vài vạn tấm kính
sáng mà chụp cho xuể thôi.
Thế là
thành cuộc. Bốn vai trò: ông “tham Ngọc” người đi săn, anh Vân người hướng đạo,
ông thân sinh ra anh, chim mòng, với tôi, một người tò mò, đi xem. Tôi rất lấy
làm lạ vì cứ thấy vai con chim mòng thắng trận, ù tràn đi mà nhà đi săn kia đã
phí gần hai mươi viên đạn. Chính anh Vân cũng hơi tái mặt, chỉ sợ người mình
lôi về chưa hẳn là thiện xạ, có bao nhiêu lại đến chui hết cả vào két của ông
cụ thì...
Làm ra
bộ thua cay, nóng tiết, đang đánh một, hai, ba đồng, ông “tham Ngọc” rủ đánh
gấp đôi.
- Thưa
cụ, đánh nhỏ con lại hay thua, có đánh to mới cao được.
Gặp hồi
đỏ, ông cụ hăng hái như đang say rượu nhận lời liền! Thể là từ lúc đánh hai,
bốn, sáu đồng, ông cụ năm thì mười hoạ mới được một ván ù suông. Ù tài bàn, sửu
bàn (9) chỉ riêng về ông “tham Ngọc”.
Thấy số
giấy bạc trước mặt, trong tủi mình cứ lần lượt chui ra rồi bay đi với gió, moi
ví mãi nóng tiết, ông già thỉnh thoảng lại làm ván ké một “rồng xanh” (10).
Nhưng bao nhiêu cũng đều “giá vũ đằng vân” đi đâu mất cả!
Cái ví
lép kẹp của ông già giục cả làng tan chầu, đứng lên:
- Thôi,
mời bác lên gác đi nghỉ với em. Bác đỏ và đánh cao quá, thật số bác hôm nay
phát tài. Tôi thua dễ đến hơn sáu chục !...
Ông cụ
“tuy không ăn ớt mà cay” nhưng vẫn vui vẻ như thường, vẫn thản nhiên, lộ cái vẻ
yêu con người đã lịch thiệp lại có biệt tài, đánh tài bàn cao.
Còn tôi,
tuy tò mò ngồi để ý mất cả buổi tôi, cũng không sao khám phá nổi những ngón bịp
! Vậy “mặt mũi” những ngón bịp thế nào?
* * *
Trên gác
riêng của anh Vân, giữa lúc chia tiền.
- Vốn
tôi đem sang: mười lăm đồng, vốn bác: năm đồng, mà đây tám mươi ba tất cả, thế
là cụ bị mất đút 63 đồng. Đáng lẽ ta chia ba, ông ấm B... ở Hà Nội với tôi hai,
còn bác một. Nghĩa là cả ba đạo binh cùng hưởng: đoàn hướng đạo, đoàn quân
thắng trận với bộ tham mưu. Nhưng mòng là cụ nhà bác thì bác cứ cầm bốn mươi
của. Anh em chúng tôi chỉ dùng 23 hòn đạn là đủ rồi.
Trước
cái thái độ nhã nhặn và biết điều này, anh Vân đáp bằng cái gật đầu, chìa tay
ra nhận và nói:
- Để lần
sau bác sang, tôi gọi cho mấy via (11) nữa đến, rồi ta lại sẽ có dịp được chia
hương hoả với nhau. Nhưng tôi muốn bác cho xem qua các ngón để sau này mà
tránh...
Nhà đi
săn cười. Một cuộc phấn đẩu chốc lát trong óc anh chàng: bí mật nhà nghề, cỏ
nên? Hay không?
Sau một
lúc lưỡng lự, “ông tham” có ý lấy chúng tôi làm chỗ đồng chí, cũng chẳng phải
ngại gì. Chúng tôi ngồi nghe như hai cậu học trò trước một giáo sư dạy khoa quỷ
thuật.
- Có ba
lối tài bàn. Thứ nhất: lối đánh kiệu hay là nhị cập nhất, hai người thông lưng
nhau hại một người bằng những luật nhất định như để tay vào đùi, vào gối, ống
chân, bàn chân tuỳ theo quân chờ về hàng văn, hàng sách, hàng vạn... Muốn ăn
quân gì hoặc chờ quân gì, cứ việc ra hiệu để bên kia để ý đánh cho mà ăn hoặc
hạ ù. Nhưng đó chỉ là phương pháp của các bịp non, dễ lộ tẩy, nếu người ta nghi
hoặc, khám bài thấy rõ sự đánh tầm bậy, gian lận thì nguy. Lối ấy không xứng
đáng, tôi không thèm dùng.
Thứ nhì:
hụt nọc. Lối chơi này cần mĩ thuật lắm, người đánh phải có cả tài lẫn gan. Bắt
cái xong, mình phải cầm lấy bài nọc vờ chang đi mấy lớp. Thế là vài ba quân đã
theo cái chang chui lọt, nằm gọn trong tay áo mình rồi. Đến lúc lên bài, phải
xoay đi cho phu nào vào phu ấy, lưng nào vào lưng ấy. Thừa quân thì dễ ù lắm.
Nếu ù... hạ bài xong cử để mặc làng khám cho kĩ. Xong đâu đấy, gạt cả ra một
góc chiếu cho người chia bài... là mấy quân bài “trốn thẻ” trong tay áo đã thừa
cơ chui tọt ra, theo cái lúc “hỗn quân hỗn quan”, hợp với bọn lính thắng trận
về cổng khải hoàn. Muốn đề phòng sự làng nghi ngờ, thấy mình ù nhiều mà điểm
lại bài nọc, bài rìa, thì có hai cách cản. Một là thấy mình hạ xong ông “bạn
đồng chí” cầm ngay lấy phần nọc vờ tìm quân ông ta đang chờ, phàn nàn rầm lên,
“gọi chó” rầm lên, ồ ạt xoá đi cho người kia không kịp điểm nữa. Hai là rút ở
nọc lên mà ù. Quần bài chờ ấy lẽ tất nhiên là quân mình thụt được ở nọc từ
trước đã giấu sẵn trong tay. Lúc xoa tay xuống nọc vờ rút nó lên thì trong lòng
bàn tay phải có sẵn cả những quân mình đã hụt, trả vào nọc, chỉ “xách cổ” lên
một quân chờ ù. Đến thế thì ván nào mình ù, làng có điểm bài cũng không ngại gì
nữa.
Lắm khi
chơi với bọn thạo, không hụt nổi ở nọc thì mình phải dùng đến chước thứ ba,
nghĩa là hụt vào phần bài của ông “bạn đồng chí” với mình. Bắt cái xong, cầm
phần bài mình trong tay rồi, mình lại phải vớ lấy “phần bài tòng phạm” liệng
trả ông bạn. Trong cái liệng rất ý tứ mà ít ai để ý ấy, ngón tay cái với ngón
tay trỏ của mình đã “họp đảng” với nhau giữ lại vài quân, trập phắt vào phần
mình. Thế là ông bạn cầm phần bài thiếu phải đánh bậy bạ cho qua cuộc, cốt sao
“che mắt thế gian”.
Ấy, chỉ
có thế thôi, bịp tài bàn cũng vậy hay tổ tôm cũng vậy..Cốt nhất phải có bộ mặt
tài tử đóng kịch, nghiễm nhiên, bệ vệ, cũng cốt nhất là ngồi vào một chỗ không
ai ám nổi, tránh cho xa những bác chầu rìa. Trong cuộc giảng bài này, ông
“tham” cho chúng tôi rõ cả phần thực hành lẫn phần lí thuyết. Nhanh như chớp,
ông giở ngón có bảo trước cho biết mà chúng tôi chịu, không sao vớ được cái
“thiên biến vạn hoá” của nhà quỷ thuật đại tài.
Bữa tiệc
nào cũng phải có đồ nước nên nhà bạc bịp thuật thêm một câu chuyện ngắn nữa để
làm món đét-xe ( tráng miệng).
- Một
lần, ngồi vào cuộc với hai ông khách lạ mà tôi tưởng là quých, tôi vờ chang bài
nọc, hụt xong, để xuống đĩa thì bỗng phải giật mình lo sợ vì chỉ cuỗm có bốn
quân mà sao phần nọc có lẽ thiếu nhiều? Đang mải ngẫm nghĩ thì một ông khách lạ
nắm chặt lấy tay tôi. Cuống quá, đã tái cả mặt nhưng nhanh trí khôn, tôi cũng
vội liều nắm chặt cổ tay ông ta làm cái “trả miếng”. Rồi chúng tôi cùng buông
nhau ra để cười sằng sặc, gập đôi người lại mà cười. Tôi hụt bốn quân bài thì
ông khách ấy cũng hụt ba quân cộng với một quân. Ông ta chia thừa cho phần bài
của ông mà tôi thì hụt nọc! Chúng tôi gọi buổi ấy là ngày “anh hùng tương ngộ”,
cũng là “bịp lũa” cả mà bên nọ còn tưởng bên kia là mòng. Trước mặt anh chàng
dắt khách lấy hồ hòng chuyện nọ kia, mặt tiu nghỉu như chó bị thiến, chúng tôi
vỗ vai nhau, bắt tay nhau một cách ân cần, gọi nhau là “tri kỉ”.
------------------------
Chú
thích:
1- Ông
Ấm B. số... phố Hàng Cá. Hà Nội.
2- Bắc
Ninh. ngày 26 tháng 2 năm 1933.
3- Giày
da mềm dùng những khi nhảy đầm.
4- Tham
tán là nhân viên hành chính trung cấp của các cơ quan của Pháp.
5- Kinh
tế khủng hoảng, nói tắt.
6- Mồng
6 tháng 10 năm 1931.
7- Hội
các nước trên thế giới năm 1920, đến 1946 đổi thành tên Liên Hiệp Quốc.
8- Luật
sư.
9- Ù tài
bàn là ăn một ván bài to nhất, sỉu bàn là to thử hai.
10- Giấy
bạc hai mươi đồng.
11- Nói
theo tiếng Pháp: vieux nghĩa là ông già.
Chương 2 - Ông quân sư của bạc bịp
- Ông
nên biết rằng: quá nửa đởi người, tôi đã sổng bằng nghề cờ bạc. Muốn sống về
nghề cờ bạc, phải có cách trừ khử những cái đáng nơm nớp lo ngại là cái đỏ cái
đen... Hiện nay anh em tôn tôi là... trùm đảng bạc bịp. Trước khi lên được địa
vị này, tôi cũng đã lắm phen phải đóng những vai trò mòng với quých cho một lũ
bạc bịp tiền bối họ móc xé ruột gan đấy, ông ạ. Những lúc thất cơ lỡ vận trước
là vốn buôn cho tôi được hưởng cái lãi là cái địa vị... bây giờ.
Người
đang kể tiểu sử của mình ra cho tôi với anh Vân nghe chính là ông ấm B... ở ngõ
Hàng Cá. Trong gian phòng gác mà cách bày biện đủ tỏ rằng chủ nhân cũng là hạng
người thiệp đời, lịch sự, chúng tôi đã được ông trùm tiếp một cách nhã nhặn mà
lại được cả dịp đón nhặt tài liệu cho cuộc phỏng vấn ngẫu nhiên đây.
Những
người chỉ nghe danh mà không biết mặt ắt phải tưởng tượng rằng đến hạng người
đáo để này thì từ nét mặt, giọng nói, dáng đi cho đến tà áo, gấu quần, tất
nhiên cái gì cũng phải có vẻ bịp cả! Trái lại, ông ta là người trông đẫy đà, bệ
vệ như một ông hậu bổ hoặc một viên tri châu (1) nào. Hai con mắt rất sắc sảo,
có đủ vẻ đối địch với đời, tiểu nhân cũng được mà quân tử cũng được. Miệng nói
có duyên một cách lạ, thường hay mỉm cười để “giá trị” cho câu chuyện: nhất là
những lúc gọi đến thằng nhỏ thì tiếng đồng sang sảng, thật là có giọng quan!
Chúng
tôi họp mặt nhau mới độ một giờ mà trong câu chuyện đã thấy ngay cái không khí
nồng nàn, tri kỉ. Được dễ thân như thế là vì có anh Vân, người cùng đi với tôi
để thăm ông ấm, trước nay đã làm “chim mồi” cho ông để săn các bạn già cụ phán
bên tỉnh Bắc cùng những tín đồ của “đổ bác giáo” bao nhiêu lần rồi.
Vì vậy,
ông ấm mới chẳng ngại kể lể tâm sự và nói rõ cả những bí mật nhà nghề đáng giấu
kín cho chúng tôi nghe. Nhưng trước khi cho biết những cái “vành ngoài vành
trong”, ông hãy làm trạng sư cho ông, cho địa vị xã hội của ông, và cho cái
nghề không có môn bài của ông đã.
- Tại
sao tôi, dòng dõi gia thế, lại làm đến cái nghề... bất nhã này? Thưa ông, nếu
tôi có thật không ra gì thì cái đó cũng chẳng phải lỗi tự tôi, tôi đã bị hại về
hoàn cảnh xấu của xã hội. Nhưng tôi chỉ tự trách mình và vẫn nên tự trách xã
hội. Sống ở cái xã hội cờ bạc, tôi chỉ biết rằng tôi đã là kẻ rong chơi bài bạc
tự lúc thiểu thời. Tôi đã thua vì đỏ đen, tôi lại còn thua vì bịp nữa! Tôi đã
phải xa gia đình vì phá tan cơ nghiệp, tôi đã khốn khổ, ê trệ - ê trệ nhiều
phen lắm, hai ông ạ - cho nên chính ngày nay là ngày tôi đang trả thù cái bọn
đã làm tôi hư hỏng, đã ngăn rào mọi đường công danh tiến thủ của tôi. Đó có là
công lí không? Tôi tưởng: làm việc thiện dể đền ơn việc thiện, lấy việc ác để
trả nghĩa việc ác, thế mới là biết sống ở đời... Nói cho cùng, tôi cũng vui vì
đã làm, đang làm, sau này nữa cũng vẫn cứ làm cái nghề bất lương, cái nghề tôi
cho là phải. Tôi chỉ buồn có một nỗi: không theo đuổi nổi sự nghiệp của ông cụ
nhà tôi...
Đến đây,
ông ấm ngừng lại, có vẻ buồn rầu. Ông có ý chờ một câu phê phán. Tôi vội phải
lộ sự tôi hiểu ý một cách kín đáo là đưa mắt nhìn cái ảnh lớn trong một khung
vàng chói một ông cụ đi hia, mặc áo rồng, đội mũ cánh chuồn từ một chỗ trịnh
trọng giữa bàn thờ nhìn một cách nghiêm khắc xuống lũ chúng tôi. Cử chỉ ấy có
lẽ khiến ông ấm được một vài phút tự kiêu, nên lại vui lòng:
- Vậy
các ông coi cờ bạc là hạng thế nào? Tâm lí họ ra sao? Họ khôn hay họ dại đấy...
Hai chủ khôn với dại trong sự bài bạc không có nghĩa nhất định. Nếu ông thua để
vợ con phải nheo nhóc, thiên hạ sẽ đua nhau chê ông là dại thật dấy, nhưng nếu
ông được tiền nghìn bạc vạn để tậu nhà tậu ruộng, thiên hạ họ lại xô nhau vỗ
tay, ca tụng ông là khôn! Những anh cờ bạc toàn là những anh - xin lỗi các ông
- những anh... “khôn sặc máu mồm” ra cả dấy, chứ các ông bảo họ dại cái nỗi gì?
Tôi đây, tôi đã là một thằng dại mãi rồi mà tôi lại cứ muốn cầu cái khôn trong
cái dại, nên mới phải tìm một cách “bảo hiểm” cho sự khôn!
Ông ấm
cả cười. Chúng tôi cũng cười. Sau ông tiếp nốt (từ đây trở đi, tài hùng biện
của ông mỗi lúc một tăng):
- Thế
các ông coi cái nghề của tôi bằng con mắt thản nhiên hay bằng con mắt khinh bỉ?
Các ông nên biết : tuy là bịp, tôi vẫn không làm một việc nhỏ mọn gì là bất
nghĩa cả. Trong đám bạc, người đời đã chỉ những muốn ăn thịt lẫn nhau cả, thì
dù có bất nghĩa, tôi cũng chỉ bất nghĩa với một bọn bất nghĩa, chứ những người
hiền lành không tham lam, không muốn ăn thịt ai cả, có khi nào đến nỗi bị chúng
tôi hại đâu?
Xem ý
anh Vân lại được hài lòng, vui sướng hơn cả ông ấm B... vì “bài cãi” ấy. Rồi
anh nối lời thuyết mãi, thuyết mãi... về cái nghĩa chính danh của sự bất nghĩa
ở thời buổi vật chất, kim tiền này.
Buổi nói
chuyện kéo đến lượt hò đun nước thứ ba. Chúng tôi phải đứng lên, xin cáo từ.
Lời nói cuối cùng của ông ấm B... là một câu phàn nàn về nạn kinh tế, về nỗi
mòng, két mỗi ngày một hiếm, không được mùa săn. Ông ta dặn chúng tôi nên rất
để ý vào sự tìm đất để làm tiền.
Lời dặn
ấy làm cho tôi phải nghĩ ngợi mãi? Vì sao? Vì nếu đối với ông ta, tôi không có
mòng, sẽ bị coi là đồ vô tích sự, và sẽ mất dịp đi lại với ông về sau. Thành
thử ở vào trường hợp ấy, tôi rất thèm thuồng ham muốn địa vị của anh Vân. Anh
Vân tuy chưa cỏ gan dắt bịp đến bắt các anh em bạn thân, song anh ta cũng còn
may vì có được một ông thân sinh ham mê bài bạc. Và mấy ông tóc bạc, bạn của
ông cụ ấy nữa. Chỗ để đào tiền đã có sẵn, anh ta lại sẵn cả chỗ để ném tiền đi:
những mẻng! Còn tôi, tuy cỏ nhiều bạn thân ham mê bài bạc thật, nhưng không nỡ
dắt bịp đến bắt, lại không có nổi lấy một ông bố có máu mê ấy nên không biết
liệu phải đối phó với ông ấm B... bằng cách nào...
Tưởng
chỉ còn cái kế cuối cùng là sự hẹn lần vậy. Có khi mình hẹn lần vì bất đắc dĩ
mà người ta lại nhầm mình là hạng người cẩn thận, kín đáo, chắc chắn cũng không
biết chừng. Vả lại, trước khi nhúng tay vào một việc có thể phạm tới danh dự
của mình chút ít, dễ thường cứ bắt người ta nhắm mắt mà làm liều, không cho có
ngày được rõ diện mạo, tímh tình nhân cách và mọi cử chỉ của từng viên chức
trong “bộ tham mưu” ư?
Cái ngày
mà tôi được rõ mọi việc cũng không xa. May quá, nó đến trước khi tôi phải hẹn
lần.
* * *
Cái lịch
trên tường phô ra hai con số: 30. Gian phòng gác ở phố Hàng Cá vào những ngày
cuối tháng như ngày này, có cái vẻ nhộn nhịp của một toà tham mưu giữa lúc hai
bên quân đương giao chiến với nhau thật kịch liệt. Vừa phần vì lẽ “năng tới coi
thường”, vừa phần hai bên đã coi nhau là thân mật, ông ấm để mặc chúng tôi mỗi
anh ngồi chầu một chén nước nóng còn mình thì một tay đỡ lấy trán, tay kia bấm
đốt, tỉnh lẩm bẩm như một thầy bói lấy số tử vi: “... Hai đám xì, một đám bất,
một đám xóc đĩa và một đám tổ tôm. Đám xì ở Hàng Kèn đã có Ba Mỹ Ký với Bập
đánh giác... đám xì đường Cột Cờ đã có tay Bỉnh, tay Sính đánh đòn Vân Nam ...
Còn đám bất phố Hàng Bông đã cỏ lão Cường hoặc đánh lớp, hoặc đánh mẫu tử. Xong
đứt ba đám... Còn đám tổ tôm không biết nên tính thế nào? Chỗ chơi là chỗ đài
các phong lưu mà phái Cửu Sần đi thì sợ lộ !... Ác quá, có cụ Ngọc là người
trông có mẽ một chút thì lại mắc xuống Nam . Cẩu thật!... Còn mấy.anh lái nâu
động mả, giữa lúc giời đất này cũng về khua xóc đĩa nữa, đã nằm chờ sẵn như lợn
cả kia thì biết cắt ai đi chọc tiết bây giờ?... Chỉ có mình, mình là tay khả dĩ
đối thủ được với chúng thôi, thì mình lại phải cái tội đã lõa lồ quá.
Mấy
tiếng gót giày khẽ nện vào bậc thang gác báo trước cho một người còn trẻ tuổi,
ăn mặc ra một tay trong phái bồi, bếp, rón rén bước lên. Thấy chúng tôi lạ mặt,
người ấy có vẻ ngần ngại, chỉ đưa mắt hỏi ông ấm chứ không nói gì. Ông này làm
ngay một câu:
- Thế
nào?... Được, cứ tự nhiên, chỗ anh em cả.
Người
trẻ tuổi kia lộ ngay cái vẻ sung sướng ra như đang có một gánh nặng trên vai mà
đến lúc vừa hạ được nó xuống đất. Nhưng đôi lông mày vẫn cau:
- Hỏng
mất cụ ạ!...
- Thế
nào mà đến nỗi hỏng? Thu xếp thế mà lại hỏng thì hỏng thế nào?
- Tôi đã
dò lão ta rất kĩ lưỡng. Thằng cha ấy nó biết rõ lối đánh giác từ bao giờ ấy mất
rồi. Tôi gợi chuyện thì nó đã nói toạc móng heo ra, những là nó biết hết tất cả
các lối giác mùi hay giác bóng cũng vậy, và chỉ có những đồ mù thì mới không
biết cách khám thấy dấu, chứ cứ để nghiêng quân bài dưới ánh sáng đèn một tí
thì anh nào đến thong manh dở cũng phải biết ngay! Lại còn nỗi khó khăn này:
muốn bắt lão ta, phải đến tận nhà thằng cháu lão ta, chứ lão nhất định không đi
chơi chỗ nào lạ. Tôi phải tìm cách “bỏ nhỏ” với thằng cháu lão và việc ấy cũng
ổn rồi. Vậy thì cụ xếp cho một người cản nữa để tôi đánh Vân Nam vậy.
Ông ấm
ngần ngại:
- Khốn
nỗi anh mà đánh đòn Vân Nam thì tôi không lấy gì làm chắc lắm. Có được anh Ba
Mỹ Ký thì lại trót hẹn mất với đám ở Hàng Kèn rồi. Hay là tối hôm nay, ta hãy
đánh siệng, làng xoàng độ năm hào một cho qua buổi để mơn lão ấy đến trưa mai
hoặc tối mai, tôi cho gọi Ba Mỹ Ký đi với anh đến thì thật là cứ “nhét đất thó
vào lỗ mũi nó mà lấy tiền...” !
- Không
được ! Lão ấy nó đang cao hứng, nếu để đến tận trưa mai hoặc tối mai thì từ
buổi sáng sớm nó đã có thể dậy để đi cân sâm cho con nó rồi, mình còn hòng bắt
nó lấy cái gì nữa?
- Thế
đích xác là nó có độ bao nhiêu?
- Độ
chừng sáu công (2) tất cả. Cụ phải tính ngay cho chứ mà...
- Thôi
được, cứ về đi rồi độ sáu giờ chiều lại đây lấy nốt người cản. Để tôi có thời
giờ, nghĩ thật kỹ xem sao.
Người
trẻ tuổi ấy trước khi quay gót bước xuống thang còn liếc mắt nhìn trộm chủng
tôi lần cuối cùng, dáng dấp vẫn lộ vẻ ngượng. Đến bây giờ, ông ấm mới giới
thiệu:
- Đấy,
một đàn em của tôi đẩy. Trước làm thầy kí cho hiệu buôn lớn, chữ nghĩa kể cũng
khá, sau vì kinh tế nên bị loại, nay phải tạm sinh nhai về nghề này. Vì phải
giao thiệp với hạng trếch để săn mòng, két trong đám bồi, bếp nên tôi bắt anh
ta ăn mặc đúng lối trếch. Nếu hắn diện Âu phục vào thì các ông phải biết... Nói
tiếng Tây làu làu. Chỉ trông mặt mà bắt hình dong thì nhầm to.
Anh Vân
khen:
-
Phải... gớm mưu trí của ngài kể cũng đáng sợ thật. Mà thế thì ra đàn em của ông
toàn là những tay đáo để, ra phết cả, “chơi được” cả...
- Thì đã
hẳn !... Vào nghề này mà hiền lành thì làm ăn ra sao? Hai ông nên biết rằng
không kể một số khá đông người, nửa là đồng nghiệp, nửa là đàn em của tôi, tôi
còn dưới quyền sai phái độ mươi tay nữa, vào hạng nào cũng có, một người ít ra
cũng sở trường về một vài ngón bịp và anh nào cũng có đặc sắc riêng. Nhất là về
những cách thay hình, đổi dạng của chúng tôi... tôi cam đoan rằng chúng tôi
không thua những nhân viên của sở Liêm phóng (3). Thí dụ: ông là quých chẳng
hạn. Ông là một nhà buôn, ông sẽ gặp một người trông thật là chủ hiệu ngồi hầu
bài. Ông là một công tử nhà giàu, tôi sẽ để ông ngồi với một chàng trông thật
ra lối con nhà phá của.... và chưa chắc đã không có một vài cô gái mới ngồi cản
đâu? Còn nếu ông là một viên chánh tổng, lí trưởng nào, tôi sẽ dắt cho một thầy
ngăm ngăm da trâu, trông rõ “Đình Dù đặc”. Hoặc nếu ông là một chú trếch sộp,
tất nhiên phải có một bác tài răng vàng, đội cái cát-két hay một ông còn nguyên
búi tóc lại mặc áo cánh cổ cứng ngồi hầu ông chứ... biết làm thế nào?
Ba chúng
tôi vừa bật cười ầm lên, bỗng phải hãm ngay luồng điện khoái lạc ấy lập tức.
Lại một hồi gót giày nện rõ mạnh vào thang. Chỉ nghe tiếng động mạnh gớm mạnh
ghê như thế, ai cũng phải đoán: người sắp lên ấy sẽ là một người Pháp. Nhưng
không phải, chỉ là một người Nhật, vì người đang tiến đến chúng tôi để giơ hai
tay ra bắt rất ân cần ấy đã có cả cái thân thể một ông khổng lồ lẫn bộ quần áo
Tây phương, lại đèo thêm bộ mặt một dân Nhật Bản. Giá ông ta thay cái mũ
cát-két da hổ ấy đi để chụp vào đầu một cái mũ lưỡi trai có cái vòng lon kim
tuyến chẳng hạn thì, sẵn có cái áo tơi bằng da màu cánh gián đã ngắn cộc lại
thêm đai nịt rõ chặt chẽ ấy, đi nghênh ngang ngoài đường, ông ta có thể bắt
nhiều người nhầm mình là một phi hành gia. Nước da còn hồng hào với một ít râu
để lối Hoa Kỳ (4) của ông tỏ ra rằng ông chưa quá 40 tuổi.
Sau khi
chủ, khách đã phân vị đâu đấy cả, ông ấm B... quay lại nói ngay:
- Xin
giới thiệu để hai ông được biết: ông này quý danh là ông Cả Ủn, người giữ cái
két lớn nhất cho làng b... chúng ta.
Ông Ủn
cả cười và thêm:
- Nhưng
phải cái két thủng đáy, hai ông ạ.
Lời giới
thiệu sỗ sàng của ông ấm B... đã đánh tan mọi sự giữ gìn của những người mới
gặp nhau lần thứ nhất.
Cho nên
mới có những câu hỏi, đáp tự do sau đây:
- Ngọc
đi bao giờ mới về?
- Chưa
biết đích xác được.
- Cỏ
phải chính bác sai hắn đến lấy thiếc đằng tôi không?
-
Phải... nhưng tôi chỉ mới bảo hắn đến lần này là lần đầu.
- Thế mà
hắn đến lần này là lần thứ hai!
- Lần
thứ hai?
- Phải
!... Hay lần trước là hắn bịa chuyện ra chứ không do bác bảo?
- Thế
lấy bao nhiêu?
- Bốn
chục.
- Trả
chưa?
- Rồi.
- Thế là
hẳn lấy để đi “ăn mảnh” đấy chứ không phải do tôi bảo đâu. Thế hôm vừa rồi đưa
hắn bao nhiêu, bác thử hỏi xem có đúng sổ tiền mà tôi bảo hắn đến chạy đằng bác
không nào...
- Hình
như nhà tôi đưa hắn 50 của thì phải. Lần sau trở đi, chính bác nên thân hành
lại mà lấy hoặc không tiện đến, bác cho mấy chữ lại vậy... chứ tôi không tin
các “ông tướng” ấy đâu. Thế có phải đúng bác bảo hắn lấy 50 của để đi Nam
không?
- Phải
rồi... Được, lần sau có chữ tôi gửi lại, bác hãy đưa tiền. Và dặn cả bác gái
như thế hộ tôi một thể.
---------------
Chú
thích
1- Hậu
bổ: chức quan sắp được bổ làm tri huyện. Tri châu: quan cai trị một châu ở miền
núi, tương đương một huyện ở miền xuôi.
2- Tờ
bạc năm đồng in hình một con công.
3-
Thường gọi là Sở mật thám.
4- Tức
là hàng ria con kiến.
Chương 3 - Đố anh nào bịt mắt được tôi
Trên
tường bên kia, cái bàn thờ Thổ công có một chiếc cốc pha lê đã rạn thay bằng
bát nhang với hai cái đài mà nước sơn đã lở làm bưng mảnh ván choèn choèn kê
lên hai cái xích đông gỗ tạp. Dưới bàn thờ là một bức tranh về xứ Pháp, phô
hình một viên tướng cười ngựa bạch trên một chỏm núi, cầm viễn kính chiếu xuống
đồng bằng, một cảnh đồng bằng có hàng bao nhiêu binh mã, như một đàn kiến lửa
chen chúc nhau trong những lúc tranh nhau đi tha mồi. Bức tranh lồng trong một
cái khung sơn kim nhũ trông đã hơi cổ và đã có chỗ bị sứt, để lộ cả thớ gỗ.
Giáp ngay với bàn thờ, có một bó chừng sáu xóc tôm khô treo ngay bên cạnh một
bộ quần áo bi-da-ma kiểu cuối cùng của hãng Lafayette (1). Lại cách bức tranh
và bàn thờ, có thể lấy tay với ngay được, lù lù một tấm ghế ngựa mà dưới gầm có
một đôi giày da láng mũi liền, kiểu Richelieu (2), rộng như hai chiếc thuyền
thúng bỏ quăng bên cạnh một chiếc chổi xể cùn!
Gian
phòng tuy chật hẹp mà ních đầy đồ đạc, cái sang cái hèn lẫn lộn một cách chướng
mắt vô cùng này là gian phòng của một người trong làng trếch.
- Xin
mời ông xơi tạm chén nước.
- Vâng,
xin phép ông.
Người
trân trọng lấy hai tay bưng chén nước mời tôi uổng, bác bồi An, chủ nhân gian
phòng có cái bài trí kì lạ kể trên, thân thể tuy trông đẫy đà nhưng không đến
nỗi thô cho lắm vì được ẩn trong bộ quần áo bảnh bao. Đôi lông mày rậm rạp nằm
trên cặp mắt như hai chiếc đòn khiêng. Hai hàm răng trắng nõn như ngà. Bác đã
cung kính trao cho tôi cái chén Nhật Bản to bằng cái bát ăn cơm, đầy nước chè
Tàu mà tôi chỉ cầm lên, đặt xuống. Cái chén ấy hầu như chưa được ông chủ tắm
cho lần nào, dễ đến mấy tháng nay...
- Kìa,
mời ông xơi nước kẻo nguội.
Câu mời
thứ hai này chẳng đủ phá nổi cái im lặng rất khó chịu, vì ngoài sự chào hỏi ra,
chúng tôi chẳng còn biết nói với nhau chuyện gì. Rõ ngộ!
Tôi sở
dĩ gặp chuyện này là vì đã nể lời ông ấm B... khi ông nhờ tôi đi hộ vệ đòn Vân
Nam cho đàn em của ông, tại phố Hàng Giò.
Độc giả
chắc còn nhớ đến người trẻ tuổi ăn mặc ra phái bồi bếp đến toà nhà ở phố Hàng
Cá xin “quân sư” phái cho một người cản, mới trưa hôm nay người ấy định bắt
mòng trong một canh xì bằng lối đánh giác, nhưng vì mòng của anh ta chưa đến
nỗi quých lắm, đã biết cả lối giác mùi lẫn giác bóng nên anh ta mới phải cầu
cứu đến cái đòn Vân Nam là kế cuối cùng.
Dưới
quyền ông ấm B... không còn một tay sai nào nghỉ việc vào ngày 30 tháng ấy. Anh
Ba Mỹ Ký đã được phái đi đánh ở phố Hàng Kèn, ông quân sư mới phải cho phép đàn
em hãy còn “non tay” của ông giở đến ngón đòn hiểm độc hơn cả. Thiểu người ngồi
cản nhưng may lại vớ được chúng tôi sẵn đấy, sau khi ông Cả Ủn đi rồi, ông ấm
bèn tiện việc, ngỏ ỷ tức khắc muốn nhờ một người, hoặc tôi hoặc anh Vân. Anh
Vân vì có buổi hẹn với mẻng của anh đúng 6 giờ chiều hôm ẩy, đã từ chối, tôi
mới phải nhận lởi. Vì một sự tình cờ, bắt đầu từ ngày hôm nay, tôi đã thành một
tay thợ tập sự trong một xưởng máy của nền “kĩ nghệ bạc bịp”!
Xin
thuật lại những câu hỏi, đáp, dặn bảo nó đã ngẫu nhiên khiến ông ấm B... vô
tình giảng ngay cho tôi bài học thứ nhất, quên hẳn nền nếp của pho “Bịp Kinh”,
chưa kịp: “Dạy rằng con lạy mẹ đây” mà đã vội “Này con thuộc lấy làm lòng...”
- Thế có
thật là ông biết đánh xì không?
- Nếu
không thì đời nào nhận lời giúp cụ.
- Thế
thì may lắm, ông đi hộ vệ hắn giúp tôi là tôi được vững tâm rồi. Trông ông có
vẻ thực thà và sang trọng thế này, không còn ai dám ngờ vực gì nữa. Ông sẽ đi
với nhà cậu đến xin người cản lúc nãy, tên hắn là Vũ, để hắn đánh đòn Vân Nam .
Nguyên con mòng kia đã biết cái lối giác mất rồi thì ta phải đánh đến cái
“miếng ngoại quốc” cho nó mất đỡ... Đánh giác có nghĩa là đánh tráo bài có dấu.
Còn đánh đòn Vân Nam là đánh tráo bài. Nói thế ông đừng tưởng là lại tráo một
cỗ bài có dấu sẵn khác vào bàn đâu. Vũ hắn sẽ có một vài cỗ bài đã xếp sẵn cho
thành nước để trong túi, không có một tí ti dấu vết gì cả. Ngồi vào cuộc, ông
nên nghe hắn đưa mắt bảo nên ngồi đâu để cản trở cho dễ, cái đó còn tuỳ... Mới
vào đầu hãy cử đánh siệng, nghĩa là đánh thật thà đã. Ông rất nên để ý vào lúc
hắn khịt mũi hoặc uống ngụm nước súc miệng là lúc sắp đánh tráo bài. Hắn tuy
vẫn ngồi xếp bằng tròn, nhưng bàn chân gấp vào dưới đầu gối vẫn có mẩy ngón cặp
lấy cỗ bài đã chuồn ở trong túi ra từ lúc nào không biết, phục sẵn... chờ khi khịt
mũi xong, tay cầm cỗ bài ở đĩa lên chang đi chang lại thật kĩ rồi, hắn uốn mình
chống cái tay có cỗ bài ra đằng sau đùi để khạc, nhổ một cái rồi ngồi quay ngay
lại để chia cho làng, là ông phải tìm cách vơ ngay cỗ bài dưới đầu gối hắn cho
nhanh để giấu vào địa phận của ông vì... hắn đã đánh tráo rồi đấy! Nhưng khi
hắn chưa kịp tráo, nghĩa là giữa lúc hắn quay lại đằng sau định nhổ, khạc thì
muốn cho cả làng không ai để ý, không ai trông thấy, ông phải bò nhoài ra trước
mặt hắn để với lấy hoặc bao diêm, hoặc cái điếu ở bên kia đi, phía trước mặt
ông. Thế là hắn đã đánh xong cái đòn Vân Nam mà ông cũng trọn bổn phận tên lính
cản. Đây này, tôi ra hiệu cho ông thấy rõ... thế này đã hiểu chưa?
- Vâng,
hiểu lắm rồi.
- Phải,
có gì mà chả hiểu !... Đây, ông cầm lấy thiếc, ấy chết, khỉ quá! Tôi cứ nhầm
ông là “bịp lũa” rồi.
- Thế
“thiếc”, là cái gì?
Ông ấm
móc ví đưa cho tôi ba cái giấy bạc năm đồng, cười mà rằng:
- Thiếc
là cái này!
- Sao
gọi là thiếc?
- Vì nó
là cái “mô tách ních” (3) của làng b... Thể tôi thử hỏi ông: người thợ có sẵn
lò, sẵn mỏ hàn, sẵn axit đấy nhưng không có nổi mẩu thiếc thì còn hàn nổi đồ
đạc gì cho ai?
“Thiếc”,
chữ ấy ngoài những nghĩa đã có của nó, còn là tiền lưng vốn của bọn cờ bạc bịp,
- tôi xin các nhà học giả nước ta để ý đến chữ ấy để chua thêm nghĩa cho nó,
trong bộ Việt Nam tự điển sẽ xuất bản đủ bộ sau nay.
- Xin
mời ngài xơi thuốc.
Tôi đã
ngồi cùng xe với bác kí Vũ - hay là bác bồi Vũ - đến toà nhà Tây ở phố Hàng
Giò, rón rén bước qua cái sân rộng rồi lẻn vào ngồi trong căn phòng của người
bồi ông chủ toà nhà ấy.
Bác kí
Vũ đã giới thiệu tôi là quan tham với bác bồi An, chủ cái phòng này, trước mặt
một ông đã đứng tuổi, nửa tỉnh nửa quê, chú họ bác bồi An, rồi bác lôi ngay con
mòng ấy đi xe lên tận Hàng Ngang mua một cỗ xì mới.
Lúc tôi
để chân vào căn phòng này, cái đồng hồ trên bàn phô ra đôi kim kéo một vạch
thẳng từ trên trời xuống đất. Đến lúc bác bồi An mời tôi xơi thuốc, trước sau
đã được nửa giờ. Trong nửa giờ, ngoài sự mời nước, mời thuốc, chúng tôi chỉ
mong vào tiếng tí tách của cái đồng hồ phá hộ cái không khí im lặng, khó chịu,
nặng nề mà không thấy ăn thua.
Vả lại
ích gì mà chuyện. Đã “biết rõ” nhau như chúng tôi rồi, tưởng chẳng cần nói gì
là hơn. Tôi đến đây, ngoài việc đánh bạc còn có việc gì, bác bồi An đã thừa
biết. Mà sao tình của bác đối với ông chú họ bác nó ra sao, nhờ kí Vũ, tôi cũng
đã rõ cả rồi. “Tri kỉ” gặp nhau, không cần nói, cũng đủ hiểu nhau...
Kim đồng
hồ cứ việc chạy với thời gian.
Sau
cùng, đó là bác An phải tự phá cái vẻ ngượng kín đáo, im lặng giữa hai chủng
tôi:
- Gớm!
Từ đây lên phổ Hàng Ngang mà các ông ấy đi lâu thế! Thưa ông, thế chốc nữa ngồi
vào cuộc, hai ông sẽ làm ăn như thế nào?
- Thế
ông Vũ chưa dặn ông ư?
- Mới
dặn qua loa thôi! Dặn rằng tôi cử việc ngồi đánh như thường, đừng có tò mò để ý
đến bác ta quá mà ông cụ biết thì lộ. Với lại, xem ý lúc nào bác Vũ khai chiến
nặng dùi với ông cụ thì tôi nên bỏ dở, mặc cho hai người họ tố với nhau.
- Thế là
đủ rồi
- Tôi
không cần... thi thố gì nữa?
- Cái
thi thố, ông cứ để mặc về phần chúng tôi. Nhưng ông cụ ấy đã là tay thạo trong
làng chơi chưa thì ông cho tôi biết rõ.
- Cái
thạo thì chắc cũng có thạo vì ông cụ ấy đã... bán mất ngót chục mẫu ruộng vì
đánh bạc rồi. Ông cụ ấy là một ông chú họ tôi, trước kia được nhờ vả thầy tôi
nhiều lắm, từ khi khá giả lại vô ơn, đã không cưu mang lại còn rỉa cả đến cháu
thì... ông ấy đã muốn chết cho ông ấy chết chứ... tôi cần gì.
- Thế
ông cụ có sộp không?
- Trong
lưng giắt đến ba, bốn chục bạc từ Phủ Lý ra đây định cân sâm cho con giai đang
ốm thập tử nhất sinh đấy... Đi cân thuốc cho con mà thế đấy! Nằm chờ ăn chực đã
ba hôm ở đây để đợi đánh xì ! Ông bảo thế không thịt thì có dại không? Mình
không xơi thì cũng đến lượt chán vạn những thằng khác chúng nỏ cũng xơi !...
Chỉ nghe
cái giọng ấy, tôi đủ lượng nổi lòng bác An căm tức ông chú họ đến thế nào rồi.
Nếu
những lởi bác An vừa nói mà đúng sự thực thì lòng căm hờn kia cũng chính đáng
lắm. Chúng tôi gặp được bác An ở gian phòng này cũng như là những đạo binh của
Nhật hoàng sang Mãn Châu mà gặp được phế đế Phổ Nghi (4). Có “nội công”, hẳn là
chúng tôi dễ thành việc.
* * *
- Đây là
cỗ bài mới do chủng tôi vừa mới đi mua ở phố Hàng Ngang về. Bài mới nguyên, các
ngài không sợ dấu vết gì nữa!
Người
nói câu ấy không là con chim mồi Vũ, nhưng lại chính là con mòng, ông chú họ
bác An.
Ông ta
nói xong liền xé lần giấy bóng bọc cỗ bài, để cỗ bài vào đĩa. Ông cầm đĩa giơ
vào giữa mặt mọi người phân bua một lần nữa, rồi, chẳng nén nổi những sự thâu
lượm được trong khi lăn lóc ở trường đổ bác, ông lại còn dạy chúng tôi, “làm
phúc” cho chúng tôi biết được những lối đánh xì gian lận giác bóng và giác mùi.
- Đây
này, các ông trông những đường hoa xanh thẫm in trên lưng quân bài màu xanh
nhợt. Những tay cờ bạc bịp, muốn đánh dấu bài, họ sẽ dùng một cái bút chì xanh
tô cho nhữg đường hoa đạm nét thêm một ít, tuỳ theo những quân: tây, đầm,
trếch, hoặc sập, cẩu, bạt, thất, xì... Mỗi hàng có dấu riêng, hoặc vào góc quân
bài, hoặc vào giữa, hoặc xế xế vào một bên, hoặc một vết dài dọc, hoặc một vết
ngắn ngang, hoặc đám rêu vuông, hoặc đám rêu hình mặt trăng lưỡi liềm! Tô chì
xong, họ lại lấy phấn trắng mà xoa lên trên quân bài cho dấu nhạt đi để khỏi có
người nhận thấy. Họ làm như thế có nghĩa là giác mùi. Còn lối giác bóng nữa,
lối này mới thật nguy hiểm hơn. Đáng lẽ dùng bút chì, họ lại dùng lòng trắng
trứng gà pha với phèn chua kia! Họ lấy bút ta mới, chấm vào thứ nước hoá học ấy
rồi tô vào lưng quân bài. Dưới ánh sáng đèn, lưng quân bài sẽ để ta hơi thấy
những chấm sáng bóng. Ác nhất là khi tay bịp rút thì chỉ tay bịp mới thấy bóng,
chứ xoay đĩa đi thì làng đố người nào mà nhận được ra! Muốn khám phá cho ra,
thì phải để nghiêng quân bài, chứ để thẳng vào mắt mình thì vạn kiếp mình cũng
không biết được. Nhưng đối với tôi thì đừng ông nào giở ngón này nọ... Tôi đã
thạo quá đi mất rồi! Đố anh nào bịt mắt được tôi!
Ông nửa
quê nửa tỉnh nói đến đấy, vênh vênh cái mặt, ra vẻ khinh đời. Kí Vũ, bồi An và
tôi, cả ba đã phải đóng những vai kịch dớ dẩn.
Rồi
chúng tôi ngồi vào cuộc, nào láng, nào tố, nào cằn tố, đánh với cái vẻ “ngậm
miệng ăn tiền” của bồi An, đánh với cái “thực thà ngạt mũi” của kí Vũ, đánh với
cái “thực thà sang trọng” của tôi, đánh với cái “thạo ra phết” của con mòng.
Trong một giờ đồng hồ thua thua được được bất phân thắng bại. Tôi mong mãi đến
lúc kí Vũ uống nước, chống tay quay ra sau lưng súc miệng, nhổ xuống thềm. Tôi
thong thả bò nhoài ra:
- Bác
An, đưa giùm tôi cái... điếu.
Rồi tôi
vơ lấy cỗ bài đã thấy ở sau đùi kí Vũ, tay cầm sẵn gói thuốc, làm như bỏ nó vào
túi, khoan thai quệt diêm kéo điếu thuốc lào. Cỗ bài đã chang thật kĩ trước khi
mình nhổ nước rồi, quay lại, kí Vũ chỉ việc chia tự nhiên. Lớp đầu, tôi được
quân trếch, bồi An quân đầm, kí Vũ quân tây với ông “thạo” quân xì. Dện quân
sau lớp tây, tôi với bác An bỏ dở, mặc cho hai bên cắn tố với nhau.
Trống
ngực tôi thấy rung lên thình thình.
Mòng có
bao nhiêu tiền đã quăng ra tố hết! Lát đến quân tây, ông kia được ba xì, nhưng
kí Vũ được những bốn tây! Kí Vũ ung dung vơ đống bạc giấy tới ngót bốn mươi
đồng.
Lần này
thì đến lượt bác bồi An ngẫu nhiên bò nhoài ra:
- “Ông
tham”, ném giùm tôi cái điếu.
* * *
Buổi
sáng hôm sau, qua phố Hàng Lọng, tôi gặp bác An tiễn chân ông chú của bác ra
tàu. Ông chú bác An rũ rượi người ra như con chim bị đạn. Tôi đi bên này đường
nên không ai trông thấy, chờ đến khi bác ta từ ga trở xuống, tôi mới lại gần...
- Kìa,
ông tham!
- Vâng,
tôi đang tìm ông, đưa ông chỗ này cho phải đạo.
Tôi đưa
ra chục bạc. Bác An mừng cuống quít, vồ lẩy tập giấy bạc mà rằng:
- Rõ
khổ! Sáng hôm nay tôi chạy long cả tóc gáy mới vay nổi đồng bạc cho ông lão về
tàu. Xin cảm ơn ông.
- Ông
lão sau có nói gì không?
- Chả
nói gì cả. Ông ấy gặp cảnh cay như thế là sự rất thường !
- Thế
còn con giai ông ta?
- “Ốm no
thì bò dậy” vậy... Thôi, chẳng qua là số nó chết, nó có vô phúc thì mới sinh
vào làm con lão ta !...
Một hồi
còi tàu rúc lên vang giời, xen lẫn với nhừng tiếng ánh xe nghiến trên đường sắt
tưởng như lay chuyển cả phố Hàng Cỏ.
Tôi bắt
tay bác An rồi gọi xe quay đi.
Nhân dịp
này, tôi tình cờ được chục bạc “bổng”.
Nhưng
khi nghĩ đến người con giai ốm kia phải có con sâm mới mong qua khỏi, khi nghĩ
đến ông bố vô lương tâm đang ngồi ở một toa trong chuyến tàu vừa mở máy ấy, tôi
không khỏi thấy trong mình khó chịu, hình như cũng bốc hoả lên vậy, dù chẳng
giống với toa xe phun khói lúc rời sân ga...
--------------
Chú
thích
1- Hãng
bán quần áo nổi tiếng ở Paris .
2- Giày
gót thấp, có dây buộc.
3- Tiếng
Pháp, mot technique nghĩa là từ chuyên môn, ngày nay gọi là thuật ngữ.
4- Hoàng
đế cuối cùng của nhà Mãn Thanh, bị Cách mạng Tân Hợi (1911) đánh đỗ về sau được
Nhật dùng làm vua bù nhìn Mãn Châu quốc do Nhật dựng lên ở đông bắc Trung Quốc.
Chương 4 - Ba nhân vật
Tôi đang
nằm nghĩ vớ vẩn về sự dùng mười đồng bạc vừa hưởng được trong khi làm cái phận
sự ngồi cản ở phố Hàng Giò. Chưa biết rằng nên để số tiền ấy tiêu vào việc gì!
Để thù tạc mấy anh em trong làng b... cho sự giao thiệp được rộng thêm hay là
nhờ một người bạn thân của mình lấy số tiền này làm vốn để đóng thêm một vài
mòng cho mình khỏi mang tiếng với ông ấm B... là đồ vô tích sự? Giữa lúc ấy,
bác Vũ đẩy cửa bước vào. Tối hôm nay, bác đã cất kĩ cái áo tây vàng và đóng một
bộ quần áo chú rể: khăn nhiễu, áo đoạn (1), giày ban. Cách trang sức ấy đã
chuộc được cho bác ta cái vẻ một dân thầy và gây cho tôi cái cảm tưởng như
không phải mình gặp gỡ một tay bịp nữa. Ngồi chửa được hai phút, bác đã ân cần
mời tôi đến chơi nhà bác ta. Tôi nhận lời, cùng bác ra đi, lên xe.
Lần này,
tôi đã khỏi bận tâm trong khi lại ngồi chung xe với bác Vũ, không còn lo đến sự
bất thình lình gặp phải một vài người quen, họ sẽ gật đầu đáp cái chào của mình
rồi nhìn theo mình bằng con mắt soi mói như lần thứ nhất đến phố Hàng Giò. Lần
ấy, tôi không hiểu rằng mấy người kia đã làm lạ là vì tại họ thấy tôi, một
người không hề tạp giao mà lại đi ngồi chung với một cánh “trếch”, hay là tại
bác Vũ, một tay bịp lũa đến nỗi đã nhiều người rõ mặt, thuộc tên.
- Anh
ngồi lùi về đằng sau cho họ kéo được dễ.
Mới hôm
qua, lúc ông ấm B... ghép chúng tôi làm “đồng chí”, thoạt đầu nói với tôi, kí
Vũ còn ra vẻ kính cẩn, thỉnh thoảng lại “thưa ông...” với “bẩm ngài...”. Sau
lúc đã xúm vào cùng nhau “làm gỏi” ông lão chú họ bồi An trở đi, kí Vũ đã gọi tôi:
“Này bác !...”. Đến hôm nay bác ta hạ ngay tôi xuống bực nữa là anh rồi!
Tôi đã
ngoạm phải chục bạc rồi, còn ai cần giữ gìn với tôi?
Kể ra,
gọi thế cũng tiện, sự xưng hô đó chẳng những không làm tôi phật ý mà còn cho
tôi được dịp biết thêm rằng : những người đã cùng nhau tham mưu chung một việc
gì thì dễ thân nhau lắm. Nhất là khi nào mưu tính những việc có tính cách...
phi pháp như chúng tôi đây, bọn đồng nghiệp lại càng được thể dễ suồng sã với
nhau.
* * *
- Ông
nào đến chơi thế con?
Sau lời
chào kính cẩn của tôi, bà cụ đầu tóc rũ rượi nằm cạnh một bát thuốc ở trong màn
với tay vén màn ra, gượng cười mà chào lại tôi rồi quay sang hỏi anh Vũ thế.
Anh ta vội ra hiệu cho tôi đừng nói gì cả, rồi đáp lại mẹ rằng:
- Thưa
đẻ, đây là ông kí làm cùng buồng giấy với con. Chính ông đã cho con vay tiền để
mua cao cho đẻ đấy.
Trước sự
bất ngờ đến bậc này, tôi chỉ biết đứng im như tượng gỗ, không còn biết nói năng
sao. Bà cụ giở một cái gối để ngay đầu giường, lẩy bánh cao ra ngắm nghía, rồi
vừa thở vừa nói rằng:
- Xin
cảm ơn ông lắm! Rõ quý hoá bụng ông quá, em nó thật tốt số lắm mới gặp được
ông. Thôi thì ông nên hết sức trông nom che chở cho em nó hộ tôi để chúng tôi
chịu ơn ông một thể...
Tôi đành
phải lựa lời nói dối bà cụ:
- Được
ạ, bác ấy đã vào làm với con thì cụ cứ yên lòng.
- Mời
bác ra ngồi chơi với em... Đặt ấm nước đi con !
Chúng
tôi kéo nhau ra ngồi tận đầu phòng đằng kia để bà cụ được tĩnh. Anh Vũ đăm đăm
đôi mắt nhìn tôi một cách cảm động rồi kể lể cái đoạn đời “chẳng ra gì” của
anh.
Đó là
một người trong số nghìn vạn người bị kinh tế làm thành ra thất nghiệp.
Có một
khối óc minh mẫn, có hai cánh tay ưa hoạt động, anh ta nay lâm phải cảnh mà ở
trong đó, anh mới tỉnh ngộ ra rằng những câu luân lí: “Sinh ra làm người, ai
cũng cỏ bổn phận làm việc”, đối với cuộc đời đã thành ra rất vô nghĩa lí, đến
nỗi không có lấy một chút giá trị tương đương. Giữa lúc “ưu nhàn bất đắc dĩ”,
giữa lúc phải lo tiền thuốc cho mẹ ngoài các việc phải chạy gạo từng bữa nữa,
anh ta may gặp được ông ấm B... truyền ngón cho để mưu sự sống tạm. Nay, gần
thuộc nghề, đã có thể chạy được cả tiền mua cao cho mẹ, anh ta chỉ còn phải lo
sao cho mẹ được vững dạ rằng con “đã có việc làm”.
Cái lòng
hiếu của anh ta đã làm cho anh ta hoá ra mạo hiểm? Đây, anh nói:
- Tôi
còn mẹ già mà anh thấy đó. Mẹ tôi chỉ có một mình tôi, goá chồng từ khi tôi còn
bú, mà ở vậy được nuôi tôi, không phải là ít công ít của! Nhưng tôi chưa làm
nổi một việc gì để báo đáp... Tôi đã nghĩ thiên phương bách kế mà không tính
được nước gì nên cùng đồ, phải muối mặt theo nghề này... Tuy vậy, tôi cũng còn
may chỉ phải cờ gian bạc lận thôi, chứ giá phải trộm, cướp, giết người mới có
cách nuôi sống mẹ tôi, có lẽ tôi cũng đến phải làm cả! Anh tưởng hễ là con bạc
bịp thì không ai có mẹ nữa à?
Đến đây
anh Vũ mới chuyển cái giọng căm khổ sang một giọng khác:
- Hôm
nay tôi đã khoan khoái một chút. Sự ứng đối có ý thức của anh lúc nãy đã có
thể... cứu sống được mẹ tôi. Còn việc tôi đã làm cho anh phải ép lòng đóng kịch
trong giây lát, xin anh tha lỗi vậy...
Rồi anh
cười vui.
Nghĩ cái
đời anh rõ đáng phàn nàn và cũng đáng thương!
Những
phương tiện của anh Vũ trong nghề cờ gian bạc lận tôi đã nói rõ, tôi chỉ còn
muốn biết quan niệm của anh ta về Cả Ủn với ấm B... Tôi phiền anh ta cho biết
tường tận cuộc đời kì lạ với những thủ đoạn của hai người này...
Nghĩ một
lúc, anh Vũ nói:
- Ta hãy
tưởng tượng đến cái thời mà bọn Ba Sống, Hai Tôm...
* * *
Vào thời
ấy Ba Sống, Hai Tôm là hai nhân vật quan trọng của xã hội. Ngoài việc làm cho
“đồng tiền được lưu thông trong xứ”, họ còn làm cho bọn tổng lí “đánh mất” tiền
thuế bị cách, đám viên chức thụt két bị tù... Ấy là chưa kể rằng những việc của
những người trên này còn đẻ sinh đôi, sinh ba ra bao nhiêu công việc cho nhiều
người khác nữa.
Một ông
trùm trong hai ông này cũng đã có dưới quyền sai phái đến non trăm tên tạ với
hai bác tài. Bác tài nghĩa là... bác tài. Còn tạ là những anh đầu trâu, mặt
ngựa, chuyên môn đi đón khách cho sòng, hạng người hai, ba lá mặt, đang mời
chào ân cần đấy mà có thể giở giọng thô bỉ ngay đấy, vừa đóng những vai đầy tớ
dễ bảo lại vừa là du côn. Chúng vẫn cúi đầu mở cửa xe hơi cho bọn khách cờ bạc
mà chủ chúng đã đi lôi kéo ở các tỉnh xa về Hà Thành hoặc vẫn vây quanh lấy
những xe tay đón mọi người vào trong “lưới nhện” của chúng.
Có đứa
chỉ dắt khách để cho khách gỡ lấy cái chết rồi bằng vào số tiền của khách thua
mà ăn phần; cũng có đứa ăn lương ngày, lương tháng nữa. Chúng đã giúp hai ông
trùm để làm cho xã hội “có việc” nghĩa là giúp trùm ngày ngày phá đổ một toà
nhà này để xây dựng toà nhà kia.
Trong
bọn tạ của Ba Sống, Hai Tôm có một chú Tàu lai trông người rất phúc hậu. Vì lấy
vợ An Nam và không bao giờ nói nửa câu tiếng Tàu, đồng bào ta tưởng chú cũng là
đồng bào. Có một mụ hàng cơm ở xế cửa nhà cũ vẫn gọi tâng chú là ông phán. “Ông
phán” này cả ngày chỉ ngồi đếm ô mai cho vợ trong một cửa hiệu bán đồ vặt rộng
không hơn cái lỗ mũi ở phố Cầu Gỗ chứ không từng sớm vác ô đi, tối vác về bao
giờ. Nếu mụ hàng cơm thấy trong đám khách nhà mình có kẻ nào có máu mặt một tí
là mụ đem ngay mồi đỏ đen ra dử, bảo khách: “Các ông tiêu khiển một lúc cho qua
thì giờ” và bảo thằng nhỏ: “Mày sang trước cửa mời “ông phán” sang chơi”. Từ
cuộc cò con đến cuộc đi gỡ sòng, đối với hạng khéo mơn, không có gì là khó
Hai
người chỉ có việc thế mà tháng tháng nhận được hàng cọc tiền lớn của Ba Sống và
Hai Tôm.
Hai năm
sau, chú Tàu lai có một nóc nhà. Năm sau nữa, chú có hai nóc nhà. Bây giờ, con
trai chú vẫn cưỡi xe đạp luých sơn màu cánh gián đi học “lít-xê”. Vợ chú thì
đậm đà ra, trông như một bà lớn mà chú cũng thành một ông phú hộ Việt Nam
Chú tên
là Cả Ủn.
Lúc
“người giữ cái két lớn nhất của làng b...” còn là một anh tạ, có một cậu ấm
sống sót bằng sự đã tìm nổi cách trừ khử những “cái đáng nơm nớp lo ngại là cái
đỏ, cái đen trong sự bạc bài”. Cậu ấm vẫn tìm một con đường tự lập mà mãi không
xong vì chẳng mấy khi có thiếc. Vì thế, cậu phải chạy đến nhà Cả Ủn vay lãi
hoặc đem mòng đến đó bắt cho tiện. Nhưng cậu tuy mất công xông pha trên trận
tiền mà thường chỉ được nhận có một phần tư số tiền của bọn quých thua. Vì Cả
Ủn ngồi vào cản đỡ mất một phần, rồi lại con hắn đứng hầu quanh đám bạc, rót
nước, chia lại bài cũng hưởng một phần thứ ba nữa. Công lao của cậu ấm kia thực
là công cốc!
Cậu ấm
tuy có cái tật tiêu tiền như phá nhưng cũng có đức khác: thấy trong bọn anh em
có ai túng bấn là lôi ngay vào bàn làm tạ để có một cớ giúp anh em. Trong sự
đánh bạc, vì mải để người khác hưởng, cậu chẳng ăn thua gì, dù vẫn nổi danh là
tay “thánh”. Nổi danh là gì thì đáng mừng chứ nổi danh là cờ bạc bịp thì chỉ có
chết, cậu ấm đến lúc lên cái địa vị có người gọi là ông hoặc là cụ, thành thử
phải ngồi bó tay một chỗ, đành giữ cái chức cố vấn nhường cho bọn đồ đệ chiến
trường. Sau nửa đời người hết cách xoay, đến nay, vẫn chỉ xơ như nhộng.
Cậu ấm
đó bây giờ là ông ấm B...
Cả Ủn
với ấm B... hai người “cầm cân nảy mực” cho đảng bạc bịp ở Hà Thành, đối với
người ngoại cuộc tuy được coi như hai cánh tay cùng một thân thể thật nhưng một
kẻ trở nên giàu, một anh vẫn kiết xác, thì chỉ một lẽ xưa kia hai bên đã cùng
nhau chia bùi sẻ ngọt, lăn lóc trong một nghề, chẳng đủ lấp nổi cái hố giữa hai
bên.
Chung
quy, hai ngọn núi cao vẫn cách bức nhau bằng một vực thẳm.
* * *
- Con
ơi, con cắt thêm cho đẻ mấy miếng cao !
Lời bà
cụ truyền ra, anh Vũ cũng vừa xong câu chuyện. Anh đã thuật chuyện người khác,
thế đối với tôi đã là đủ, anh chẳng cần phải nói thêm về chuyện anh.
Hôm nay,
tôi được biết ba người. Ba người có thể tiêu biểu cho cái tinh thần của làng
bịp.
Tôi rất
vui lòng khi thấy anh Vũ cầm một đĩa cao đầy dâng mẹ, nhưng cũng không khỏi
ngẫm nghĩ đến nỗi không có thuốc của người con giai lão già thua bạc ở nhà bồi
An. Muốn dò hỏi đến tận đáy lòng một người tri kỉ mai sau của tôi, tôi đánh bạo
hỏi Vũ câu này:
- Anh có
hối hận vì chúng mình đã cướp tiền thuốc của con giai người, đem về tiêu xa xỉ
và săn sóc cho người nhà mình không?
Thì ra
anh Vũ đã hiểu được tôi rồi. Vì anh không tỏ ý giận chút nào, chỉ thản nhiên
vặn lại tôi:
- Thế
ngộ chúng mình đã thua nó?
-------------------------------
Chú
thích
1- Một
thứ hàng tơ mặc óng ánh khá đẹp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét