Tên Sách: TƠ ĐỒNG RỎ MÁU
Tác Giả: Quỷ Cổ NữBộ Sách: Hồ Sơ Tội Ác (tập 3)
Thể Loại: Kinh Dị, Ma Quái, Trinh Thám
Dịch giả: Trần Hữu Nùng
Khổ: 15 x 24
Số trang: 394
Giá bán: 105.000 đồng
Thời gian phát hành:
Tại Hà Nội ngày 28/1/2014
Tại Sài Gòn 10/2/2014.
Nguồn: chunikun.wordpress.com
Đọc Online tại: e-thuvienonline.blogspot.com
Hồ Sơ Tội Ác 3 - Tơ Đồng Rỏ Máu - Quỷ Cổ Nữ |
Tơ Đồng Rỏ Máu là tập thứ ba trong series Hồ sơ tội ác, Tơ Đồng Rỏ Máu là một cao trào, một cục diện mới khẳng định bút lực hùng hậu của Quỷ Cổ Nữ. Trong tập này, người bí hiểm luôn theo dõi Na Lan từ Hồ tuyệt mệnh sang Tuyết đoạt hồn đã được hé lộ một phần trước bạn đọc. Nhưng bên cạnh người đó, còn ít nhất ba người bí hiểm nữa cũng tham gia vào trò theo dõi dai dẳng không thể chịu nổi ấy, phủ thêm lớp sương ngầu đục lên đất Giang Kinh vốn vẫn ẩn chứa vô vàn truyền thuyết và bão tố của lòng người này.
Trăng sáng nơi đầu núi
Cành lìa cây rụng rơi
Chim hãi hùng im tiếng,
Bên cầu dấu xương phơi…
Lúa ngát hương mùa mới
Át đi mùi thây trôi
Ếch kêu đêm rộn rã
Không xua được chơi vơi.
Hung thủ vẫn thoát. Con mồi bị giết. Bộ khoái nhất thời phẫn uất, ngất lịm đi. Khi tỉnh lại, như bị quỷ ám, ông ta lê bước đến hốc nhà, lôi ra một cái tráp vẫn giấu kín, mở ra. Giữa mùi mốc hôi lưu cữu nhiều năm, lẫn vào mùi thịt đang bắt đầu phân hủy. Giữa những khúc xương ngón tay đã trắng khô, là một ngón tay gần đây mới chặt.
Năm trăm năm sau, Giang Kinh lại nổi lên vụ án giết người hàng loạt có tên “ngón tay khăn máu”. Nhiều cô gái đáng thương bị mất tích, gia đình họ thoạt tiên nhận được bưu kiện, bên trong nhúm ngón tay đã bị chặt của họ. Nhưng vài năm, thậm chí vài chục năm trôi đi, vẫn chưa phát hiện hoặc thấy xác họ bị trả lại. Một nghi phạm bị bắt. Lão khẳng định vụ án sẽ vẫn tiếp diễn, nhưng không cho biết chi tiết, chỉ khăng khăng đòi gặp Na Lan. Và khi cô đến, lão đưa ra các câu đố khác nhau. Phải giải được loạt câu đố này, cô mới mong chặn được vụ án, tìm được xác những người bị hại bao nhiêu năm qua. Na Lan mù mờ đi theo chỉ dẫn, mỗi khám phá lại đẩy cô lên một mức độ bấn loạn và hiểm nguy mới, nhưng không bấn loạn và hiểm nguy nào sánh được với kết cục chờ cô phía cuối chặng đường.
Đôi nét về tác giả
Quỷ Cổ Nữ là bút danh chung của một cặp vợ chồng người Trung Quốc đang sống ở Mỹ. Vợ là Dư Dương kỹ sư thâm niên về phần mềm máy tính. Chồng là Dị Minh chuyên gia y học nổi danh. Mùa xuân năm 2004, hai người dùng tên thật, cùng xuất bản cuốn tiểu thuyết dài Mùa xuân trên dòng sông băng, được giới chuyên môn đánh giá cao. Giữa năm 2004, bằng bút danh Quỷ Cổ Nữ, hai vợ chồng tung lên mạng một tiểu thuyết kinh dị nhan đề Kỳ án ánh trăng. Tác phẩm gây chấn động không ngờ, lôi cuốn hàng triệu độc giả chỉ trong vòng vài ba tháng, đăng tải nửa chừng thì nhận được lời đề nghị xuất bản từ Nhà xuất bản Nhân Dân Thượng Hải. Mồng 1 Tết âm lịch năm 2005, cuốn sách Kỳ án ánh trăng ra mắt bạn đọc, và Quỷ Cổ Nữ lập tức bật lên thành ngôi sao sáng trên văn đàn, thành tác giả tiêu biểu nhất của dòng tiểu thuyết kinh dị Trung Quốc.
Chương 1: Hắc Mộng
Văn Nhược Phi vừa tan ca
khỏi cục Công nghiệp nhẹ. Mới có 7 rưỡi tối, nhưng thời tiết mùa đông đã lạnh
thì chớ, ngày lại còn ngắn cũn, cô lấy xe đạp ra khỏi nhà để xe thì trời đã
hoàn toàn tối mịt. Thực ra cô không tích cực đến nỗi tình nguyện làm về muộn
thế này đâu, chỉ vì lãnh đạo tỉnh tự nhiên yêu cầu kiểm tra đột xuất, thành
phần thực tập sinh như cô là phải bận bù đầu cho đến phút chót. Giờ đây, nhìn
lên bầu trời đen kịt cùng ánh đèn đường mờ mịt, thật sự cô không muốn một thân
một mình tìm đến Giang Kinh này đâu, thà rằng cứ ở lại Thành Đô tìm bừa 1 cơ
hội thực tập nào đó còn tốt hơn, ít nhất thì ngày nào cũng được gặp anh bạn
trai Ba Du Sinh của mình. Với tình trạng đặc thù như ngày hôm nay, chỉ
cần 1 cuộc điện thoại thôi, thế nào Ba Du Sinh cũng đến đón cô ngay lập tức cho
mà xem.
Là vậy, hồi đầu, vừa nghe
nói ở Giang Kinh có 1 đơn vị tuyển thực tập sinh là cô chạy ngay đến đây đăng
ký, như thể muốn chạy trốn khỏi Thành Đô vậy.
Chỉ có một mình cô biết rằng
cô thật sự muốn trốn khỏi Thành Đô, ngay đến Ba Du Sinh cũng không hề biết bí
mật này.
Văn Nhược Phi sống tại ký
túc của cục Công nghiệp nhẹ, thời gian đi lại đến toà nhà văn phòng cục khoảng
12 phút. Bực một nỗi, mới đạp xe được mấy vòng thì tuyết bắt đầu đổ xuống ào
ào, mặt đường trơn ướt khiến cô suýt ngã mấy lần.
Có lẽ vì quá để tâm đến mặt
đường càng lúc càng xấu mà Văn Nhược Phi không để mắt đến người đi lại phía
trước trên cùng con đường này.
Xe đổ, người ngã.
Có tiếng rên rỉ xuýt xoa
văng vẳng đâu đó quanh đây. Văn Nhược Phi tạm thời bỏ mặc cái chân đau của
mình, lồm cồm bò dậy đi về phía có tiếng rên phát ra – cô biết mình đã đâm ngã
người ta, giờ chỉ mong hậu quả gây ra không quá nghiêm trọng thôi.
Nhưng hậu quả lại nghiêm
trọng ngoài sức tưởng tượng của cô. Con đường này không rộng, trước nay cũng
không đông người qua kẻ lại cho lắm, ánh đèn đường xa xăm dù có muốn xuyên qua
màn tuyết cũng đành bất lực, xung quanh vắng hoe không một bóng người. Cô có
thể lờ mờ nhận ra có một đống đen xì không rõ rệt nằm lù lù trên mặt đường,
nhìn cứ như không phải là hình người. Cô tiến lại gần hơn một chút, trên mặt
đất đã bị tuyết phủ trắng, hình như có một vũng máu đang lan rộng ra.
Cô giật thót tim, dường như
rất muốn hét lên: Chỉ bị xe đạp đâm vào thôi, sao có thể chảy nhiều máu thế được!
Dưới ánh đèn tậm tịt, cuối
cùng cô cũng thấy rõ, trên mặt đất là 1 xác chết không đầu!
Không thể, xác chết làm sao
phát ra tiếng rên rỉ được?
Cô há hốc miệng định kêu
cứu, nhưng đã muộn. Có 1 bàn tay đeo găng bất chợt thò từ phía sau ra, bịt chặt
miệng cô lại.
Văn Nhược Phi tỉnh lại trong
cơn đau đớn dữ dội. Đây là đâu?
Cô không thể nhận ra đây là
nơi nào, chỉ biết là một địa điểm công cộng không được quang minh chính đại.
Từng cơn gió lạnh buốt thi nhau thổi tới, một luồng ánh sáng yếu ớt chiếu thẳng
vào căn nguyên của cơn đau tột cùng mà cô đang chịu đựng.
Bàn tay của cô.
Hoặc là đang mơ, hoặc là
đang tưởng tượng, cô lờ mờ nhớ ra ánh sáng sắc lạnh của một lưỡi dao.
Máu chảy.
Ngón trỏ trên bàn tay phải
của cô đã bị cắt đứt. Văn Nhược Phi hét lên một tiếng xé lòng, nhưng tiếng kêu
lập tức bị chẹn lại bởi một cục vải nhét kín trong miệng cô, nên chỉ phát ra
được những tiếng ư ưm từ cổ họng. Hai tay cô bị trói chặt, hai chân cũng không
sao cử động nổi – cô cúi đầu nhìn xuống, cổ họng cô lại oà tới một tràng tiếng
kêu kinh hoàng nữa: Hai chân của cô, đã bị chôn trong đất!
Một bãi đất sét lớn rơi từ
trên cao rơi xuống, đổ phịch tới xung quanh chân cô.
Có tiếng cười kỳ quái, dường
như được phát ra từ sâu dưới lòng đất, hệt như vô vàn mũi kim nhọn hoắt lăn qua
lăn lại trên làn da mềm mại trơn nhẵn của cô, hệt như một con mãng xà cuộn tròn
quanh người cô quyết không buông ra.
“Tại sao cô muốn đi khỏi
Thành Đô?” Sau khi tiếng cười dừng lại là những câu hỏi tỏ ra rất quan tâm của
đối phương: “Tại sao mới nghe tin có một đơn vị thực tập phù hợp ở Giang Kinh
ngàn dặm xa xôi này cô đã vội vội vàng vàng đến nộp đơn xin vào? Tại sao ngay
đến người bạn trai cô định trao thân gửi phận cả đời cũng không khuyên nổi cô?”
Văn Nhược Phi muốn nói: Anh
không thể hiểu được đâu, không ai hiểu được đâu, ngay cả Ba Du Sinh cũng không
thể hiểu. Nhưng cô nói làm sao được, không chỉ vì miệng đang bị bịt kín bởi
chiếc khăn tay, mà hơn hết, ngực cô đang hết sức ngột ngạt, không thể phát được
bất kỳ âm thanh nào ra nữa – - không biết từ bao giờ mà đống đất sét tanh ngòm
dội từ trên xuống đã lấp đầy đến ngực cô.
Một bàn tay đeo găng màu đen
thò xuống, giật phăng chiếc khăn bịt miệng cô ra. Cô gào lên một tiếng thảm
thiết theo bản năng, cuối cùng cô đã hét ra được! Tiếng la hét thảm thương hoà
lẫn với tiếng cười còn rợn người hơn, tạo ra thứ âm thanh hỗn tạp như ma quỷ
đang say sưa chơi đùa.
Nếu không có tiếng điện
thoại đột ngột đổ chuông giữa đêm hôm khuya khoắt thì không biết cơn ác mộng
khủng khiếp nửa thật nửa hoang đường này còn diễn tiến đến đâu. Bạn gái anh mất
tích đã là chuyện của 13 năm trước, nhưng trong lòng anh hiểu rõ tại sao gần
đây cơn ác mộng này lại thường xuyên xuất hiện như vậy.
Chủ nhân của giấc mơ vừa rồi
chính là Ba Du Sinh. Anh thò tay lên với lấy chiếc điện thoại trên nóc tủ ở đầu
giường, lòng bàn tay vẫn ướt đẫm mồ hôi do giấc mơ đó gây ra. Thời gian hiển
thị trên điện thoại là 4:06 sáng. Chỉ có đại đội trưởng đội điều tra hình sự
kiêm tổ trưởng tổ trọng án Ba Du Sinh mới để chuông điện thoại ở mức to nhất
trong khi ngủ; và cũng chỉ có Ba Du Sinh mới không thấy bực bội tức tối vì bị
làm phiền lúc nửa đêm nửa hôm đang yên giấc thế này.
Thoát được khỏi giấc mơ đó,
cũng tốt.
Anh nhấc điên thoại lên, đáp
một tiếng, lẳng lặng nghe người bên kia trình bày xong, mồ hôi trên trán anh
túa ra còn nhiều hơn.
Chuyện anh lo lắng nhất đã
xảy ra.
Viên cảnh sát trực ban của
đội điều tra hình sự vừa báo cáo một vụ án được chuyển lên từ phân cục, một cô
gái 23 tuổi tên Hàn Tây, sau khi thu dọn xong cửa hàng thời trang cao cấp, đến
giờ vẫn chưa thấy về nhà và mất liên lạc với người bạn trai sống cùng tên Thẩm
Đại Hổ.
“Lần cuối cùng liên lạc được
với cô ấy là mấy giờ?” Giọng điệu Ba Du Sinh lại hoàn toàn không giống như đang
toát mồ hôi chút nào.
“Là 1 tin nhắn cuối cùng
giữa họ, khoảng 5 tiếng trước, sau đó không còn liên lạc được với Hàn Tây nữa.”
Ba Du Sinh thừa biết, 1
người mới mất liên lạc trong 5 tiếng là chưa đủ điều kiện cấu thành một vụ án
mất tích, anh liền hỏi: “Nói như vậy thì là, đã có chứng cứ?”
Ban đầu Thẩm Đại Hổ không lo
lắng lắm khi Hàn Tây không về nhà đúng giờ, không chỉ vì những tin nhắn yêu
đương qua lại giữa hai người vẫn còn nóng hổi trong điện thoại, mà anh cũng
biết rõ, tình yêu của Hàn Tây đối với mình nhiều tầng nhiều lớp thế nào, không
bao giờ có chuyện cô bỏ đi mà không nói lời từ biệt. Chắc chắn là khi sắp đến
giờ đóng cửa cửa hàng thì có khách đến xem hàng nên phải nấn ná lại một lúc.
Mặc dù bình thường khi đi làm Hàn Tây có trang điểm rất tỉ mẩn, nhưng đó là yêu
cầu của công việc, chứ chắc chắn cô không thể, và cũng không có gan đi chơi bời
với giai khác.
Nhưng, 2 tiếng đồng hồ trôi
qua rất nhanh, Thẩm Đại Hổ bắt đầu thấy có chút sốt ruột, anh bắt đầu nhắn tin
liên tục cho Hàn Tây, nhưng không thấy trả lời lại, gọi điện thì tắt máy. Anh
ra khỏi căn phòng nhỏ mà hai người sống chung, đi qua đi lại trước cổng tiểu
khu. Chuyến xe buýt cách chuyến cuối cùng 1 tiếng đã đi khỏi. Hút hết 2 điếu
thuốc, ba năm chiếc xe buýt đỗ lại rồi bỏ đi, vẫn chưa thấy bóng Hàn Tây đâu.
Anh biết, có chuyện bất thường đã xảy ra.
Anh quay về nhà, nhớ là Hàn
Tây có 1 quyển danh bạ điện thoại, trên đó có số liên lạc của ông chủ và mấy
chị em bạn bè của cô ấy, anh định gọi hỏi từng người một. Nếu không có tin tức
gì ra hồn, anh sẽ phóng xe máy đến cửa hàng nơi cô ấy làm việc tìm xem sao. Nếu
cửa hàng đã đóng cửa thì phải làm gì tiếp đây? Anh nghĩ, vậy thì sẽ là vận đen
của 2 người: Hàn Tây và tên khốn nạn nào đó đã cướp Hàn Tây khỏi anh. Thẩm Đại
Hổ si tình thế nào, chắc chắn Hàn Tây thừa hiểu.
Vừa lôi được chìa khoá ra để
mở cửa thì Thẩm Đại Hổ phát hiện có một chiếc túi xách phụ nữ nhỏ treo trên nắm
cửa của cánh cửa sắt, một chiếc Hermes nhái, chính là quà sinh nhật năm ngoái
anh tặng Hàn Tây. Thẩm Đại Hổ hơi mỉm cười: Biết là cô ấy sẽ không làm chuyện
ngu ngốc đó đâu mà. Nhưng ngay sau đó anh lại thấy hết sức kinh ngạc, tại sao
lại treo túi trên cửa thế này?
Anh gỡ chiếc túi xuống, mở
khoá cửa, ấn công tắc bật đèn, cất tiếng gọi dịu dàng nhất có thể: “Tây Tây!
Sao về muộn thế em, còn không nói với anh một tiếng nữa? Nửa đêm rồi, có biết
anh lo lắng thế nào không?”
Không có tiếng trả lời.
“Tây Tây!” Giọng điệu anh
bắt đầu có chút cáu giận: “Đừng giở trò này ra với anh, em định lấy im lặng là
vàng à? Không có giá trị với anh đâu!”
Vẫn không có tiếng đáp lại.
Căn hộ bé nhỏ này không phải
nơi thích hợp để chơi trò trốn tìm, Thẩm Đại Hổ nhanh chóng xác định Hàn Tây
hoàn toàn không có trong nhà! Nhưng tại sao túi xách của cô ấy lại xuất hiện
ngoài cửa?
Anh thẫn thờ, lẽ nào, cuối
cùng vẫn là cô ấy muốn bỏ mình? Để đoạn tuyệt hoàn toàn, trước khi đi còn
trả lại món quà “quý giá” mình đã tặng cô ấy? Đầu óc anh bắt đầu bốc lửa phừng
phừng, nắm tay ngứa ngáy vô cùng, chỉ muốn đấm người ngay lúc này, chỉ muốn
nghe thấy tiếng mũi vỡ, răng rụng tả tơi, nhưng trong căn phòng trống hoắc này,
anh chỉ có thể điên tiết mà ném chiếc túi xuống đất không thương tiếc thôi.
Khoá của chiếc túi bị bung
ra, đồ đạc bên trong tung toé khắp sàn nhà, bao gồm chiếc Iphone nhái anh tặng
cô nữa. Thẩm Đại Hổ lại bắt đầu hoài nghi: Thật khó tưởng tượng Hàn Tây lại có
thể từ bỏ chiếc điện thoại cô ấy vốn hết sức nâng niu, nếu bỏ trốn theo zai mà
không mang theo điện thoại thì có phải là rất bất tiện không. Anh nhặt chiếc
điện thoại lên, hi vọng có thể tìm kiếm được manh mối gì đó qua lịch sử cuộc
gọi – - Gần như ngày nào anh cũng kiểm tra điện thoại của Hàn Tây, ngoài mấy
tin nhắc rác quảng cáo lừa đảo ra, chưa bao giờ anh phát hiện ra bất kỳ số điện
thoại khả nghi nào, nếu Hàn Tây có người khác bên ngoài thật thì rõ ràng trình
độ che giấu của cô ấy rất chuyên nghiệp. Lần này cũng không phải ngoại lệ, qua
mấy tiếng đồng hồ, chỉ có mấy tin nhắn do chính anh gửi đến thôi.
Một chiếc hộp nhỏ màu xanh
da trời nằm bên cạnh chiếc điện thoại nhanh chóng thu hút ánh mắt của anh:
“Durex”, “Bao cao su làm từ mủ cao su tự nhiên”. Anh run rẩy nhặt chiếc hộp đó
lên, mẹ nó chứ, cái hộp đắt tiền thế này, trông có vẻ không phải hàng nhái đâu!
Thẩm Đại Hổ bất chợt cảm
thấy chiếc hộp chứa BCS này có vẻ nặng hơn so với tưởng tượn g của anh, anh tạm
thời gác trái tim bị cháy xém vì thù hận sang một bên, kéo cái nắp đậy bên trên
của chiếc hộp ra, trước tiên là rút ra một cục vải trắng to bằng nắm tay,
chất liệu tương đối chắc chắn, kiểu giống như vải bò. Anh chợt nhớ ra,
hình như hôm nay Hàn Tây mặc một chiếc quần bò bó sát màu trắng đi làm.
Anh tò mò nhìn chằm chằm vào
nắm vải bò màu trắng này, hình thù không ra đâu vào đâu, như thể bị cắt ra rất
vội vã. Lật tấm vải lại, anh sững sờ: trên nền vài trắng ghê sợ đó, có một vết
máu đỏ thẫm.
Dường như chiếc hộp “Durex”
này còn nặng hơn vừa rồi, anh thò tay vào trong đó 1 lần nữa, nhưng lập tức co
rụt lại như vừa chạm vào nguồn điện, chiếc hộp bị vứt xuống, rơi lăn lóc trên
sàn nhà, một ngón tay người trắng bệch thòi ra.
“Là ngón tay của Hàn Tây
phải không?” Ba Du Sinh đã khoác xong áo gió lên người.
“Người của phòng kỹ thuật và
phòng thí nghiệm đang bắt tay vào xác minh, nhưng Thẩm Đại Hổ quả quyết đó là
của Hàn Tây, bởi vì kiểu hoa văn sơn móng tay hình hoa cúc trống tâm trên nền
đỏ tím của ngón tay đứt đó chính là kiểu Hàn Tây mới đánh cuối tuần trước.
“Mễ Trị Văn! Hắn đã tỉnh
chưa?”
Đầu điện thoại bên kia có
chút ngập ngừng, Ba Du Sinh lập tức cảm thấy có điềm chẳng lành. Khi cảm giác
này xuất hiện, kết quả khiến người ta rất khó chịu đựng.
Anh lặng nghe đối phương trả
lời xong câu hỏi. Mồ hôi trên trán đã nhỏ giọt xuống khoé mắt, cay xè. Mễ Trị
Văn, một kẻ tình nghi quan trọng đang bị giám sát chặt chẽ đã biến mất
khỏi tầm mắt của cảnh sát.
Nếu một người bạn hay thân
nhân nào đó của Ba Du Sinh xuất hiện trước mặt anh vào lúc này, chắc chắn sẽ
bắt gặp một Ba Du Sinh hoàn toàn không giống với vẻ bình lặng thường ngày, hoặc
có thể nói, là gặp một người hoàn toàn khác – anh ta có tướng mạo giống hệt Ba
Du Sinh nhưng có thần thái của một người xa lạ, mệt mỏi, thậm chí là già nua.
“Đội trưởng Ba?” Cậu cảnh
sát trực ban cũng không quen với việc đội trưởng của mình im lặng quá lâu.
“Các cậu lập tức truyền đạt
lệnh động viên đến các phân cục, lực lượng cảnh sát toàn thành phố cùng hiệp
đồng điều tra. Tôi sẽ đến ngay lập tức.” Ba Du Sinh cố gắng lấy lại trạng thái
bình thường. Anh cúp máy, nhanh chóng mặc đồng phục cảnh sát lên, nhưng rồi bất
giác lại mở điện thoại ra, nhìn một cái tên trong danh bạ. Anh bắt đầu thấy
tiếc nuối, không nên để cô ấy dính líu vào vụ án này.
Nhưng mà cho tới giờ phút
này, cảm giác của anh lại mãnh liệt hơn bất cứ khi nào: Có thể, thật sự chỉ có
cô ấy, mới có thể khiến bi kịch này kết thúc nhanh nhất.
Hoặc là, khiến bi kịch này
trở nên tang thương hơn.
Nhưng anh không còn lựa chọn
nào khác. Anh ấn nút gọi đi, chuông đổ được 3 tiếng, giọng ngái ngủ của
cô ấy đã cất lên: “Thầy Ba ạ?”
“Na Lan, tôi đã lưỡng lự rất
lâu, không biết nên nói với em thế nào, lại phải kéo em vào vụ án, nhưng mà,
không có cách nào khác….Án ngón tay đứt lại xảy ra rồi, chúng ta vừa có một nạn
nhân nữa!”
Chương 2: Viếng Thăm Ma Quỷ
Mười ba hôm trước.
Qua khe mành mành cửa sổ,
anh thoáng nhìn đã nhận ra Na Lan, đang băng qua làn mưa bụi giăng giăng.
Trên con đường rộng rãi
trước khu điều trị nội trú, người qua lại như mắc cửi, rất đông bác sĩ, y tá và
người nhà vào thăm bệnh nhân, ai nấy giương ô màu đen, màu ghi, màu xanh… nhưng
anh nhận ra Na Lan ngay!
Với mỹ nữ, khuôn mặt và vóc
dáng chỉ là hình ảnh hai chiều, chính phong độ và khí chất mới là nét đặc sắc
khiến họ trở thành báu vật lập thể đa chiều.
Nhờ nhạy cảm với khí chất
của Na Lan, bên Ba Du Sinh đỡ được bao nhiêu mệt mỏi vất vả trong việc tìm cô
giữa đám đông. Thiếu nữ thời nay cho rằng mình mặc áo mỏng hai dây, hơ trên hở
dưới hở lưng thì sẽ rất bắt mắt; đúng thế thật, không ai nghi ngờ gì, nó rất
bắt mắt đàn ông nhưng đó chỉ là sức hút ở tầm thấp mang tính bản năng động vật,
sự hấp dẫn mong manh ấy sẽ chỉ thoáng qua rồi tan nhanh.
Trình độ và hiểu biết của Ba
Du Sinh đã vượt trên mặt bằng thẩm mỹ của “số đông”. Cũng đừng hiểu lầm ánh mắt
ngưỡng mộ của anh khi nhìn Na Lan là sự thèm khát trỗi dậy. Không còn bồng hột
như thời trai trẻ nữa, anh đang đầy mình bệnh tật và chẳng biết lúc nào sẽ bị
ông trời “gọi đi”; anh chỉ muốn hoàn thành tâm nguyện sau cùng, biểu diễn một
lần cuối, để lại ấn tượng sâu sắc cho thế giới này.
Sau đó, hạ màn, rời sân
khấu.
Cho nên lần trình diễn này
anh không được phép đọc nhầm một lời thoại hay làm nhầm một động tác nào. Cũng
may vì Ba Du Sinh xưa nay luôn theo đuổi sự hoàn mỹ cho nên sự tự tin của anh
là có căn cứ, anh dường như đã nghe thấy tiếng vỗ tay nhiệt liệt của khán giả.
Đúng giờ, Na Lan bước vào
khu buồng bệnh. Tất cả đều diễn ra như sắp đặt của anh.
Bệnh viện Phổ Nhân nằm ngay
trung tâm thành phố, là một trong những bệnh viện hàng đầu trực thuộc Đại học Y
khoa Số 2 Giang Kinh, khu buồng bệnh vừa được trùng tu năm kia, có mái vòm cong
cong, thảm sàn và giấy dán tường dùng màu ấm áp, giúp bệnh nhân giảm bớt cảm
giác nặng nề. Bên ngoài khu nhà, cuộc chiến giữa gió lạnh và khí ấm chưa phân
thắng bại; nhưng trong nhà, nhớ hệ thống sưởi nên mùa xuân nhân tạo vẫn đang
ngự trị..
Thế mà khi bước vào khu
buồng bệnh, Na Lan vẫn hơi rùng mình.
Có phải do tác động tâm lý
không?
Na Lan là nghiên cứu sinh
Khoa Tâm lý Đại học Giang Kinh, chính cô đã trải nghiệm và khám phá ra vụ án
“năm xác chết”, vụ hung sát bằng ma túy trong khu nhà tuyết miền đông
bắc[1] , cô đã vận dụng hết mọi khả năng mà mình có, sau đó nhà trường và cảnh
sát cùng ép cô chấp nhận mấy lần phỏng vấn. Nhà trường muốn xây dựng hình ảnh
một trí thức trẻ tiêu biểu, cảnh sát thì muốn xây dựng hình ảnh một công dân
tốt dũng cảm cộng tác với cảnh sát. Na Lan đã trả lời phóng viên nhiều lần,
rằng tôi không phải đóa hồng bằng thép hay không biết sợ là gì; trái lại, cô
rất sợ xem phim kinh dị, cô cực ghét ra đường một mình ban đêm.
[1] Đã được miêu tả lần lượt
trong Hồ tuyệt mệnh và Tuyết đoạt hồn.
Lần đầu Na Lan tiếp xúc với
tội ác là bảy năm về trước, khi cha cô bị hại. Kể từ lúc tận mắt nhìn thấy thi
thể của cha, cảm giác sợ hãi luôn ám ảnh thậm chí bám riết lấy cô. Nhưng cảm
giác sợ hãi cũng rèn luyện bồi đắp cho cô khả năng quan sát nhạy cảm đối với sự
vật và con người.
Hôm nay cô lại nắm tay nỗi
sợ hãi, nắm tay “người bạn cũ” vẫn sáng chiều đeo bám ấy.
Nguồn cơn của nỗi sợ hãi nằm
ngay trong khu buồng bệnh đang cố trở nên đầm ấm này.
Hiện đang là lúc vào thăm
bệnh nhân tấp nập nhất, thang máy khá chật, có ba y tá hộ lý và năm sáu người
nhà bệnh nhân mà vẻ mặt của họ nặng nề hơn cả trời mưa gió; đứng trước bệnh
tật, họ phãi chịu đựng tổn thất về sức khỏe, thời giơ, tiền bạc thậm chí cả người
thân của mình.
Na Lan hiểu hơn ai hết cảm
giác bị mất người thân. Người cha thân yêu của cô sớm ra đi ở tuối tráng niên,
bạn trai mối tình đầu của cô vùi thây trong núi tuyết. Vết thương lòng của cô
không những không lành mà ngày càng nhức nhối không biết khi nào mới nguôi.
Cửa thang máy mở, tầng thứ
11. Trong vòng mấy phút mà như đã trải đủ mấy mùa nóng lạnh, Na Lan nhanh chóng
gạt bỏ những ý nghĩ rối bời, mỉm cười, đưa tay chào Ba Du Sinh đang đứng ờ hành
lang đón cô.
“Áy náy quá, hôm qua anh
giao cho cô cả đống bài tập.” Ba Du Sinh nói. “Cô luôn là học trò giỏi, chắc cô
đã xem hết rồi?”
Ba Du Sinh thông minh, từng
trải, nhiều chất thư sinh hơn là viên chức cảnh sát, là một trong những nguyên
nhân khiến cô thích giao thiệp với anh. Cô mỉm cười, “Bài tập ở tổ trọng án của
thầy Ba Du Sinh, em đâu dám lơ là? Nhưng em vẫn còn mấy vấn đề nhỏ muốn hỏi
thêm.” Ba Du Sinh là một trong những người hướng dẫn luận văn tốt nghiệp cho Na
Lan, mỗi lần gặp anh, cô cũng hay gọi là “thầy”.
Không hiểu tại sao hôm nay
vẻ mặt anh nặng nề khác hẳn mọi ngày, thậm chí nét lo âu hiện lên rất rõ. Anh
gật đầu nói, “Ta cứ vào gặp lão đã. Có vấn đề gì cô để đấy hỏi anh sau.”
Cả hai dừng chân trước căn
phòng thuộc khu vực theo dõi bệnh nhân nặng. Tuy dành riêng cho bệnh nhân không
còn khả năng chữa trị nữa nhưng cơ sở vật chất vẫn y hệt như các khu vực khác,
vẫn giữ gam màu ấm, sáng sủa, tường dán giấy màu xanh da trời, treo những bức
tranh sơn thủy êm đềm nhẹ nhõm, ánh sáng đầy đủ mà không chói mắt.
Ba Du Sinh nhìn qua cửa
kính, nói, “Lão ấy kìa, giường giữa.”
Trên cái giường trắng là một
ông già vóc người khô héo đang nằm, cái chụp thở ô xi gắn vào mũi là sợ dây
cuối cùng duy trì sự sống của ông ta.
Na Lan nói nhỏ, “Thoáng
nhìn, em đã có được câu trả lời đầu tiên.”
“Thế à?”
“Em vốn định đến để các định
bệnh nặng đến mức nào và có đủ tiêu chuẩn để được ra bệnh viện dân sự điều trị
không, nhưng dù không có chuyên môn y khoa em cũng nhận ra rằng bệnh tình của
ông ta đã rất nguy kịch.” Na Lan nói.
Ba Du Sinh, “U não, bệnh
động mạch vành khá nặng, tắc nghẽn động mạch phổi, bệnh liệt rung Pac-kin-sơn,
tiểu đường… đủ cả…”
“Và tâm thần phân liệt nặng
nữa.”
“Ừ nhỉ, trước mặt cô, anh
không dám múa rìu qua mắt thợ, suýt nữa quên béng điều đó! Bị ngần ấy bệnh
nặng, xét đến vấn đề nhân quyền và nhân đạo, đều nên được đưa ra điều trị ở
bệnh viện dân sự…”
“… dù rằng phạm tội cưỡng
dâm và giết người bất thành!” Na Lan thở dồn khi nhìn cẳng tay gầy đét như que
củi thò ra ngoài chăn. “Có điều, với tội phạm nguy hiểm, hình như pháp luật
kiểm soát rất chặt việc điều trị dân sự.”
Ba Du Sinh gật đầu, “Nhưng
lão ốm quá nặng, bệnh viện nhà tù không đủ điều kiện chữa chạy thì lão phải
được chuyển ra ngoài. Để đảm bảo, bên anh đã xin phép tòa án, đồng thời tổ chức
giám sát lão một cách thỏa đáng. Tình trạng như lúc này, lão rất ít có khả năng
gây ra mối nguy gì. Các bác sĩ cũng đều nhận định rằng sự sống của lão chỉ có
thể tính từng ngày.”
“Bệnh nặng như vậy mà còn
hứng thú chuyện phiếm với em à!” Na Lan hiếm khi dùng giọng châm biếm thế này,
nhất là trước mặt Ba Du Sinh. Nhưng chẳng biết hôm nay cô bị rơi vào từ trường
kỳ quái nào mà không giữ được khả năng tự kiểm soát. Hay là, phạm nhân đang nằm
chờ bảo lãnh kia chính là một nguyên nhân?
“Lão nằng nặc đòi gặp cô.”
“Vì liên quan đến vụ án
‘ngón tay khăn máu’?” Na Lan bỗng cảm thấy nói ra mấy chữ “ngón tay khăn máu”
nghe thật cải lương, mà cũng thật ghê rợn.
Ba Du Sinh hơn do dự, gật
đầu, “Ít ra thì… chính lão đã gọi như thế.”
Chương 3: Ngón Tay Khăn Máu
Ông già nằm trên giường bệnh
là một bệnh nhân tâm thần phân liệt phạm tội hiếp dâm, đòi gặp đích danh Na
Lan, nói là muốn tiết lộ một bí mật gây chấn động Giang Kinh thậm chí toàn
quốc.
Sự thật này chắc chắn sẽ trở
thành một dòng status được lan truyền rộng khắp trên weibo[1].
Sự thật về vụ án “Ngón tay
khăn máu”!
Trong ba mươi năm qua, ở
Giang Kinh đã xảy ra một loạt vụ án phụ nữ mất tích, các vụ việc cách nhau một
hai năm hoặc vài năm. Tính đến nay, đã có ít nhất mười phụ nữ là nạn nhân của
dạng vụ án này. Giang Kinh là thành phố lớn, dân số cả chục triệu người, không
hiếm các vụ mất tích, nhưng loạt vụ án mất tích này có chung một đặc điểm.
Đặc điểm khủng khiếp.
Một ngày mùa xuân năm 1980,
có một công chức bình thường đang sốt ruốt sốt gan vì chờ đợi, mong mỏi một
điều thần kỳ rằng cô em gái Nghê Phượng Anh đã mất tích một tuần sẽ trở về nhà.
Nhưng chỉ thấy xuất hiện một chiếc xe đạp đưa thư cùng một bưu kiện nhỏ. Bao bì
không ghi họ tên địa chỉ người gửi. Bên trong là một hộp giấy, trong hộp giấy
là một chiếc khăn tay màu trắng, góc khăn có ghi tên Nghê Phượng Anh do chính
cô thêu.
Giữa khăn là một vết đỏ
thắm.
Mở khăn ra, một ngón tay
trắng nhợt!
Không lâu sau đó, công an
xác định rằng vết đỏ ở khăn là máu của Nghê Phượng Anh, ngón tay ấy cũng là của
cô.
Những người cư trú lâu năm
tại Giang Kinh vẫn nhớ, trong những năm tháng yên bình ấy, vụ án Nghê Phượng
Anh mất tích đã khiến bao người xót xa, đã trở thành đề tài bàn tán ở khắp nơi.
Có một thời gian các cô gái trẻ không dám ra khỏi nhà buổi tối. Bấy giờ, một tờ
báo chuyên viết về đời thường tên là Tin chiều Tân Giang liên tiếp đăng tin bài
về vụ án này, cộng thêm các phim kinh dị, trinh thám chiếu rạp cùng thời như Vụ
mưu sát số 405 hay Mây mù trên đỉnh Thần Nữ, khiến âm thanh rùng rợn của cái ác
như thấm qua mặt báo mà tác động vào thần kinh của mọi người.
Hung thủ có thể là ai? Hồi
đó người ta đoán già đoán non, có thể là bọn đặc vụ Mỹ-Tưởng vẫn nằm vùng ở đại
lục từ ba mươi năm qua, có thể là tay chân của “bè lũ bốn tên” hoặc bọn xã hội
đen Hồng Kông… Một suy đoán có vẻ thực tế hơn là, một gã trai trẻ nào đó cùng làm
ở xưởng dệt với Nghê Phượng Anh đã yêu cô nhưng bị cô từ chối.
Nhưng dù hung thủ là ai, là
nam hay nữ, thì cũng đã ẩn thân rất giỏi, vì hắn vẫn là một câu đố không lời
đáp, tung tích Nghê Phượng Anh vẫn mịt mùng.
Truyền thông và dân chúng
đều chỉ có trí nhớ ngắn hạn, nhất là trong thời đại xã hội đang phát triển rầm
rộ, ai cũng tất bật với vô vàn thay đổi từng ngày. Vài ba năm sau, họ đã dần
quên khuôn mặt xinh xắn hiền hòa của Nghê Phượng Anh.
Thế rồi ba năm sau, một buổi
tối mùa hè, Mã Vân bỗng nhiên mất tích.
Mã Vân là cô giáo iểu học
mới vào nghề một năm. Vào buổi tối mùa hè bất hạnh ấy, khi Giang Kinh đang phải
chịu cái nóng ghê gớm chưa từng thấy suốt nhiều năm qua, Mã Vân và mấy cô bạn
ra bờ sông Thanh Anh hóng mát, nghịch nước… giống hàng trăm người dân khác của
thành phố. Đùa nghịch mãi, rồi nóng bức, Mã Vân xung phong lên đê mua kem về
cho mọi người, nào ngờ cô ra đi không bao giờ trở lại.
Người đầu tiên liên hệ hai
vụ Nghê Phượng Anh và Mã Vân với nhau là Trần Ngọc Đống, một công an ở khu Văn
Viên. Anh công an trẻ tuổi thường được gọi là “chú em” này trước đó đã từng
tham gia điều tra vụ Nghê Phượng Anh. Khi phần lớn đồng nghiệp cho rằng Mã Vân
là vụ án riêng rẽ thì Trần Ngọc Đống đã lờ mờ nhận ra sự liên quan giữa hai vụ
mất tích cách nhau ba năm này, anh bèn báo cáo lãnh đạo về sự suy đoán mạnh dạn
của mình, nhưng lại phải nghe một cuộc “trao đổi” sâu sắc và tình cảm, “Vụ Nghê
Phượng Anh chưa phá được không phải là lỗi của chú em. Trước giờ thời nào chẳng
có những vụ bế tắc không thể đóng hồ sơ, chú khỏi cần canh cánh bên lòng hay
ngờ vực nhiều như thế. Huống chi, vụ Mã Vân do công an Tân Giang phụ trách,
chúng ta chỉ phối hợp tìm hiếm, thu thập tin tức do quần chúng báo lên, còn
việc trinh sát cụ thể thì Văn Viên chúng ta không thể nhúng tay vào.” Đúng là
thế, Mã Vân cư trú ở Tân Giang, Trần Ngọc Đống không có cơ hội tham gia vào vụ
này. Về đến ký túc xá, anh mở cuốn sổ “Ghi chép công tác” ra viết một câu,
“Mình có linh cảm rằng chẳng mấy chốc dự đoán của mình sẽ được chứng minh là
đúng.”
Thật không may, linh cảm của
Trần Ngọc Đống hoàn toàn chính xác. Mã Vân mất tích đến ngày thứ năm thì một
bưu kiện được gửi về gia đình đang nóng lòng như lửa đốt của cô.
Đó là một cái hộp giấy, bên
ngoài chỉ ghi họ tên địa chỉ người nhận, không ghi bất cứ thông tin gì về người
gửi.
Dù cảnh sát đã dặn tình hình
thế nào cũng phải trình báo ngay, cha Mã Vân vẫn quên bẵng, ông hấp tấp mở luôn
cái hộp, kêu to một tiếng rồi ngã lăn ra.
Mẹ Mã Vân đi chợ vắng, một
bác hàng xóm đã về hưu nghe tiếng kêu bèn chạy vội sang đỡ ông dậy. Ông Mã chưa
bất tỉnh, mà chỉ bị sốc do huyết áp cao, ông nắm tay bác hàng xóm nói, “Mau báo
cảnh sát… cái hộp kia… bác đừng nhìn nó… và đừng kể cho nhà tôi biết…”
Bác hàng xóm bèn gọi người,
rồi tìm tổ trưởng dân phố, cảnh sát khu vực… tuy nhiên bác vẫn không quên nhìn
trộm vào cái hộp bí ẩn kia. Loài người là loài động vật tiến hóa không ngừng
nhờ biết tò mò, dù rằng trong đại đa số trường hợp tò mò xong họ đều hối hận.
Bác già vừa tốt bụng lại vừa
tò mò ấy nhìn vào hộp giấy. Chỉ nhìn một tích tắc mà ác mộng đeo bám bác suốt
hơn hai mươi năm, đến tận khi bác qua đời.
Một cái khăn tay màu lục
nhạt.
Một vết đỏ sẫm trên cái
khăn.
Bên cạnh nó là một ngón tay
trắng nhợt.
Công an thành phố thành lập
tổ chuyên án, do một trong các phó giám đốc sở trực tiếp chỉ huy. Họ tổ chức
trinh sát, phục kích suốt ngày đêm. Trần Ngọc Đống, vì có chút ít kinh nghiệm
và bài học từ vụ Nghê Phượng Anh, nên được công an Văn Viên đề cử tham gia tổ.
Tổ chuyên án tìm kiếm kiểu cuốn chiếu, rà soát gần như từng mét vuông suốt dải
bờ sông hiện trường, nhưng không tìm thấy bất cứ manh mối nào về Mã Vân.
Cô có còn trên đời này
không, hay đã biến thành một cái xác?
Tại sao hung thủ phải gửi về
nhà chiếc khăn tay của người bị hại? Tại sao hắn lại chặt một ngón tay của cô?
Hai vụ án có do cùng một
hung thủ gây ra không?
Hung thủ không để lại dù là
một vết tích. Hắn là sát thủ “chuyên nghiệp” trong truyền thuyết chăng? Nghe
chừng là chuyện chỉ xuất hiện trong phim xã hội đen do các lò sản xuất băng đĩa
chui làm ra, chứ ở Giang Kinh thì chưa từng nghe nói đến. Tại sao lại giở thủ
đoạn gây án chuyên nghiệp với hai cô gái rất bình thường? Hung thủ và nạn nhân
có quan hệ gì? Hắn là một kẻ tâm thần cuồng sát ngẫu nhiên, hay là kẻ gây án có
chủ đích có mục tiêu?
Những câu hỏi đại loại như
thế đều được ghi trong cuốn sổ tay của Trần Ngọc Đống, anh viết kín đặc bốn
trang giấy. Và vẫn còn rất nhiều câu hỏi anh chưa viết vào đây.
Cảnh sát thành phố Giang
Kinh đã dốc toàn bộ lực lượng và tâm trí nhưng kết quả vẫn như vụ án Nghê
Phượng Anh, không thể đóng hồ sơ. Mã Vân cũng như Nghê Phượng Anh đã biến mất
khỏi thế giới này.
Trần Ngọc Đống vừa ngao ngán
vừa phẫn nộ, mất ngủ liền mấy đêm, anh viết vào sổ tay, “Vụ án còn lâu mới dừng
ở đây được. Tôi sẽ dốc hết sức lực đời mình để lôi tên hung thủ ác ma ra trước
ánh sáng công lý.”
Thật không may, một lần nữa
dự đoán của Trần Ngọc Đống lại đúng.
Chưa đầy hai năm sau, mùa
xuân năm 1985, một cô gái tên là Tiết Hồng Yến mất tích. Lại cái hộp giấy, một
khăn tay dính máu, và một ngọn tay trắng nhợt khiến người ta khiếp đảm.
Vụ án lại làm chấn động
Giang Kinh, lại đẩy ảnh hưởng của tờ Tin chiều Tân Giang lên một tầm cao mới,
và lại khiến mạch máu của Trần Ngọc Đống căng phồng. Sở Công an tai1p lập tổi
chuyên án, Bộ Công an cũng cử chuyên gia xuống, cảnh sát toàn thành phổ tiếp
tục lao vào trinh sát khám phá. Lần này Sở hạ quyết tâm chặn đứng tội ác, vụ án
tàn bạo này mà không phá được thì sẽ gây cho người dân ấn tượng rất xấu, rằng
công an chẳng hề tài ba như người ta tưởng, và sẽ kích thích làn sóng phạm tội
đang dần nổi lên trong xã hội. Cho nên khẩu hiệu của tổ chuyên án là, Nhân dân
tất thắng! Công an nhân dân tất thắng!
Năm ngoái ngoài tờ Tin chiều
Tân Giang ra, còn có vài tờ nguyệt san về pháp chế cũng ăn theo, họ đặt cho
loạt vụ án nói trên cái tên rất “văn học đại chúng” là “Vụ án ngón tay khăn
máu”. Sau khi miêu tả sinh động hai trường hợp Nghê Phượng Anh và Mã Vân, họ
còn tung ra những phỏng đoán sạc mùi tiểu thuyết về sự mất tích của Tiết Hồng
Yến. Trong quá trình “sáng tác” này, những tình tiết thực hư về đời tư và gia
đình của cả ba cô gái bị khai thác triệt để.
Chẳng nói cũng biết, khi Bộ
Công an và Sở Công an tuyên bố rằng, nhờ nỗ lực phối hợp của cảnh sát toàn
thành phố, vụ án “ngón tay khăn máu” đã được phơi bày, hung thủ bị đưa ra xét
xử… thì tở Tin chiều Tân Giang và mấy trang tạp chí pháp chế kia phấn khích đến
nhường nào!
Càng không khó để hình dung
rằng mọi tình tiết về đời tư, gia đình… của hung thủ sẽ không thể bị bỏ sót.
[1] Mạng xã hội phổ biến ở
Trung Quốc
Chương 4: “Ngón tay khăn máu” Tái Xuất
Hung thủ là La Cường, 29
tuổi. Theo ảnh đăng trên tờ Tin chiều Tân Giang, hắn có khuôn mặt dài hình tam
giác ngược, trán rộng má vát cằm nhọn, hai mắt cách xa nhau đầy vẻ tàn bạo, mũi
sư tử, đôi tai vểnh, càng tăng thêm nét hung ác. Nếu cho hắn đứng chung với
chục thanh niên bất kỳ, rồi bảo anh “chọn” ra một tội phạm giết người, tin rằng
anh sẽ không do dự chỉ vào mặt La Cường nói, “Là thằng này!”
Chắc chắn anh không chọn
nhầm, vì anh còn chưa biết một điều rất có sức thuyết phục, hắn từng có tiền sự
về tội lưu manh.
Không chỉ La Cường có tiền
sự lưu manh, mà La Dực Vũ cho hắn cũng có tiền sự lưu manh.
“Cha yêng hùng con hảo lớn”,
không cần học về gen anh cũng biết đã không bắt nhầm người.
Trần Ngọc Đống đã là tổ phó
tổ chuyên án, là người có công lớn bắt được La Cường đưa về xử lý. Trong cuộc
họp biểu dương các tấm gương tiên tiến, người ta được biết Trần Ngọc Đống đã
từng thức trắng sáu đêm liền để phá vụ án này. Sau hai phen “trắng tay” khi
trước, Trần Ngọc Đống hiểu ra rằng càn quét kiểu cuốn chiếu hoặc huy động “toàn
dân tham gia” khó có thể có kết quả. Nếu không vận dụng kỳ binh, không phát huy
mở rộng tư duy thì khó mà phá giải được vụ án hết sức mơ hồ này.
Số lượng người bị hại đã
cung cấp điều kiện có lợi cho việc tổng kết và quy nạp, ba cô gái này có những
điểm chung gì?
Trước tiên là địa điểm mất
tích, đều ở khu Tân Giang, chứng tỏ hung thủ tương đối quen và cảm thấy gây án
ở vùng này sẽ an toàn. Cho đến giờ hắn vẫn chưa để lộ mảy may dấu vết, chứng tỏ
hắn tính toán kín kẽ, hành động cẩn thận. Một kẻ như hắn sẽ không ra tay ở địa
điểm lạ, không mù quáng tùy tiện trong việc chọn nạn nhân, cũng không phải là
bột phát gây án mà đã có toan tính rất kỹ, cho nên mới không hề để lại dấu vết
giằng co vật lộn. Những điều này đồng thời cho thấy, một là, hung thủ có thể đã
được đi học ở mức độ nào đó, hai là rất có thể hắn và ba cô gái này ít nhiều có
tiếp xúc với nhau.
Mặt khác, sử dụng thủ đoạn
tàn nhẫn như thế, lại liên tiếp gây án vài lần, chứng tỏ hắn không phải lần đầu
phạm tội. Các chuyên gia của Bộ, của công an tỉnh và công an thành phố đã giúp
tổ chuyên án phân tích rằng, hành vi phạm tội của hung thủ trọng án thường nâng
cao dần, và đều có những đặc trưng trước khi phạm tội, vì dụ, bọn cướp đường
sông đều bắt đầu từ những kẻ từ bé đã trộm cắp vặt, những kẻ sát nhân tàn độc
đều bắt đầu từ đánh nhau ẩu đả…
La Cường có đầy đủ những đặc
trưng này.
Cha hắn là La Dực Vũ, trước
1949, khoảng 17-18 tuổi đã trở thành tên du côn khét tiếng ở vùng Tân Giang,
chỉ huy hơn trăm tên đàn em. Không phải y có sức khỏe đặc biệt hay là con nhà
nòi xã hội đen, mà vì y có cái đầu tinh quái hơn người cùng khả năng nắm bắt
thời cơ. La Cường “thừa kế” bộ óc ấy của La Dực Vũ, hắn học rất nhanh nghề sửa
chữa đồ điện gia dụng và mánh khóe buôn bán, mở cùng lúc một cửa hàng thời trang
và một ảnh viện, mau chóng kiếm được tiền, lại bắt tay mở hàng ẩm thực và bách
hóa nho nhỏ, ngầm chiêu binh mãi mã rồi làm một tên trùm giữa vùng giáp gianh
hai khu Tân Giang và Văn Viên. Không ai ngờ rằng hắn còn dư sức tự ôn rồi dự
thi đại học dành cho người lớn tuổi, rồi lấy được bằng tốt nghiệp. Tấm bằng đại
học cao đẳng vào những năm ấy gần như một huyền thoại, nó “có giá” hơn cả cử
nhân chính quy thậm chí thạc sĩ tiến sĩ ngày nay.
Vốn có câu “thỏ khôn có ba
hang”, với hiệu thời trang, ảnh viện, hiệu ăn, bách hóa cơ khí… La Cường có đến
100 hang!
Ngay từ khi điều tra vụ án
Nghê Phượng Anh, Trần Ngọc Đống đã để mắt đến La Cường. Hắn không chỉ là bạn
cùng học lớp ban đêm với Nghê Phượng Anh mà còn từng cặp kè với cô ở sân trượt
băng nhân tạo. Về sau nghe nói cô có bạn trai là một cảnh sát vũ trang nhân dân
thì hắn không bám riết nữa. Khi trước Trần Ngọc Đống không có thêm chứng cứ gì
để nghi ngờ La Cường nên anh gác lại cho qua.
Ba năm sau, một cô bạn của
Mã Vân kể lại, trong buổi tối mùa hè mà Mã Vân mất tích ở bờ sông, La Cường
cùng mấy gã bạn có đi qua và đề nghị mua nước ngọt cho mấy cô gái, nhưng các cô
đã khéo léo từ chối. Tương tự lần trước, Trần Ngọc Đống không có chứng cứ gì để
nghi ngờ La Cường liên quan đến sự việc Mã Vân mất tích. Các bạn của hắn đều
quả quyết khai rằng cả tối hôm đó La Cường chỉ đi chơi cùng họ.
Tiết Hồng Yến đã từng làm
nhân viên bán hàng ở tiệm thời trang của La Cường. La Cường có cả bầy gái gú,
và tật háu gái của hắn chẳng phải bí mật với ai. Không có gì đảm bảo rằng họ không
dan díu, nhưng dẫu sao đây cũng chỉ là phỏng đoán.
Sau khi ba cô gái mất tích,
La Cường không có biểu hiện gì khác thường, cuộc sống giang hồ vẫn tiếp tục.
Nhưng khi việc điều tra vụ Tiết Hồng Yến tưởng chừng bế tắc thì cảnh sát khẳng
định La Cường là hung thủ.
Về lý thuyết, La Cường phù
hợp là hung thủ nhưng cảnh sát không thể dùng “lý thuyết” để còng tay hắn.
“Lý thuyết” thôi thúc Trần
Ngọc Đống thuyết phục được một gã lâu la của La Cường, điều động hắn theo sát
La Cường và thu thập mọi chứng cứ liên quan đến vụ án “ngón tay khăn máu”, hễ
có được thì báo cáo, chưa có thì thôi.
La Cường vốn ham chụp ảnh,
ảnh viện là một trong những nền tảng để hắn làm nên cơ nghiệp. Chân rết của
Trần Ngọc Đống đã tìm thấy trong buồng tối của ảnh viện ba tấm ảnh của Mã Vân!
Và cả vài tấm ảnh của Tiết
Hồng Yến nữa!
Nhìn góc chụp và vẻ mặt hai
cô gái trong ảnh, có thể kết luận đây là những tấm ảnh chụp lén. Tin được báo
ngay cho Trần Ngọc Đống. Sau đó, vào lúc chập tối yên tĩnh, hơn hai mươi chiến
sĩ cảnh sát chia nhóm xông vào nhà La Cường bắt tên nhà giàu đã lộ rõ bản chất
lưu manh này, vài cảnh sát khác xông vào buồng tối của ảnh viện.
Họ phát hiện rất nhiều ảnh
thiếu nữ, đều là ảnh chụp lén từ cự li xa.
Kể cả ảnh của Nghê Phượng
Anh năm năm về trước.
Chứng cứ đã rõ ràng, La
Cường “vừa khéo” khớp với những nạn nhân của vụ án “ngón tay khăn máu”, tất
nhiên có thể suy luận là hắn đang đi tìm con mồi mới. Những tấm ảnh này như sổ
tay ghi chép của hắn. Hắn không phủ nhận các tấm ảnh, và lý sự rằng mình thích
chụp ảnh các cô gái xinh, xuất phát từ đam mê cái đẹp, ai chẳng thích cái đẹp?
Làm thế là phạm pháp hay sao?
Thẩm vấn liên tục mà không
thắng được ý chí rắn đanh của La Cường, hắn gan lì đến cùng, quyết không nhận
tội. Cảnh sát mở r6on5g và di sâu thẩm vấn, mấy tên đàn em ngày trước nói La
Cường đi chơi cả đêm với chúng, nay thấy tình thế nguy ngập bèn “khai lại”
không cam đoan như thế nữa. Thực ra những buổi tối xảy ra các vụ mất tích, La
Cường đi đâu không ai biết. Có lẽ hắn đang rửa ảnh trong buồng tối, hoặc hắn
đang ở với một trong các cô bạn gái khác, hoặc hắn đang gây án “ngón tay khăn
máu” cũng nên. Có vô số khả năng, và chính hắn cũng không thể chứng minh mình
không hề dính líu.
La Cường một mực cãi phăng,
vẫn rất bình tĩnh. Không thể chứng minh mình vô tội, không có nghĩa là thừa
nhận mình có tội.
Khi cả cảnh sát lẫn La Cường
đang ở thế giằng co thì người ta đã tìm thấy trong hang ổ của La Cường mộ chứng
cứ đầy sức nặng.
ở khu Văn Viên gần Đại học
Công nghiệp Giang Kinh có một cửa hàng kim khí do một trợ thủ của La Cường kinh
doanh, cảnh sát tìm thấy trong thùng rác đặt ở con hẻm bên cạnh có chiếc quần
bảo hộ lao động cũ kỹ. Cảnh sát hình sự tìm thấy vết máu dính ở cái quần này.
Vết máu đó đã rung tiếng chuông báo tử cho La Cường.
Các sợi tóc, các tế bào
da... chứng minh quần này là của La Cường. Kết quả xét nghiệm vết máu, chứng
minh đó là máu của Tiết Hồng Yến.
Chứng cứ tuy đanh thép nhưng
La Cường vẫn phủ nhận. Máu của Tiết Hồng Yến mà có thể dính vào quần hắn! Hắn
cười khẩy nói Tiết Hồng Yến là bồ của hắn, cô ra rất quái đản, nên phải tẩn cho
một trận để cô ta biết điều, chỉ chảy máu xước da thì chết sao được?
Hắn đã phủ nhận hành vi gây
án, tất nhiên càng không thể nói gì về tung tích của ba nạn nhân.
Cho đến ngày bị đưa ra
trường bắn, hắn vẫn không hề tỏ ra hối cãi.
Tung tích của ba cô gái cũng
tan biến cùng tiếng súng xử tử.
Sau năm mùa nóng lạnh, vụ án
“ngón tay khăn máu” đã trở thành lịch sử. Thỉnh thoảng cũng có vài cô gái mất
tích, có cô giận gia đình nên bỏ nhà ra đi, có cô trốn theo người tình, có cô
bị lừa bán về vùng nông thôn hẻo lánh làm vợ người ta… nhưng đều không có tình
tiết “ngón tay khăn máu”. Theo đà phát triển kinh tế, người dân Giang Kinh bận
bịu với đời sống đã dần quên lãng vụ trọng án từng gây xôn xao một thời.
Nhưng vào mùa hè năm 1990,
vụ án “ngón tay khăn máu” lại tái diễn.
Một nữ sinh đại học tên là
Quan Tinh mất tích. Hai tuần sau, một gói bưu phẩm gửi đến nhà, lại là chiếc
khăn tay dính máu và một ngón tay trắng nhợt.
Giang Kinh thêm một phen
kinh hãi.
Hay là La Cường không phải
hung thủ của vụ chặt ngón tay, hắn đã bị xử oan sai? Tờ Tin chiều Tân Giang nêu
câu hỏi này, lãnh đạo Bộ Công an, Sở Công an và cả Trần Ngọc Đống cũng ngờ ngợ.
Anh tự hỏi phán đoán của
mình ngày trước có nhầm lẫn gì về trình tự trinh sát hình sự không? Rõ ràng là các
chứng cứ rất xác đáng, La Cường là hung thủ của vụ án. Được lãnh đạo công an
quận và công an thành phố khuyến khích, anh nhận lời phỏng vấn của tờ Tin chiều
Tân Giang, đối mặt với những câu hỏi sắc sảo của phóng viên.
“Theo đánh giá của anh, có
bao nhiêu phần trăm khả năng công an đã giết nhầm La Cường?”
“Không phần trăm.” Trần Ngọc
Đống bình tĩnh đáp, khiến phóng viên cảm thấy bất ngờ.
“Vậy thì nên giải thích thế
nào về vụ án ‘ngón tay khăn máu’ mới xuất hiện?”
“Là mô phỏng.”
“Mô phỏng?”
“Trong và ngoài nước xưa nay
không thiếu những vụ việc tương tự, hung thủ bắt chước các vụ án ‘nổi tiếng’ để
thỏa mãn mục đích của mình là hành hung, tạo ra ‘vụ án lớn’ khiến dư luận chú
ý. Chục năm về trước vụ án ‘ngón tay khăn máu’ chấn động Giang Kinh thậm chí
toàn quốc, rất ‘nổi tiếng’, vì thế có kẻ mô phỏng thì cũng không có gì là lạ.”
Lập luận “mô phỏng” của cảnh
sát không phải là vô căn cứ. Ba ngón tay trong ba vụ án trước kia được phòng kỹ
thuật xác định là dùng dao sắc chặt đứt, còn ngón tay của Quan Tinh thì có nét
khác biệt về vết cắt, hung thủ đã dùng một sợi thép nhỏ và cứng thít cho đứt
ngón tay! Xét từ đặc điểm này, thấy rằng không chỉ là mô phỏng mà còn nâng cấp
sự tàn nhẫn.
Cũng không ai có thể ngờ,
trong 19 năm sau thời La Cường, cái lối mô phỏng này đã gây ra 9 vụ án “ngón
tay khăn máu”, 9 cô gái mất tích, 9 ngón tay cắt rời, 9 gia đình tan nát với
bao đau thương vô tận. Tính cho đến nay cả thảy có 12 vụ án rất giống nhau, vụ
cuối cùng xảy ra năm 2009.
Cảnh sát cảm thấy bối rối,
vì trong 9 ngón tay kia có 3 ngón tay bị dao cắt, 6 ngón tay bị sợi dây thép
thít đứt. Có vẻ là hung thủ khác nhau thì dấu ấn để lại cũng khác nhau.
Gần đây các cô gái không
mang khăn mùi xoa theo người nữa thì người nhà lại nhận được ngón tay gói trong
khăn quàng hoặc áo lót, và vẫn dính một vệt máu đỏ khiến người ta kinh hãi.
Người nhà nạn nhân và cảnh
sát đều rất đau đầu bởi trạng thái mù mờ không biết nạn nhân còn sống hay đã
chết. Na Lan đoán rằng sau nhiều năm vẫn còn một số người thân của nạn nhân
đang mong ngóng con cháu mình trở về. Nhưng những người làm nghiệp vụ liên quan
đến tội ác và trừng phạt đều biết, nhiều khả năng là các cô gái đó đã bị sát
hại cả rồi.
Có rất nhiều vụ án bạo lực,
nhưng không mấy vụ hơn được “ngón tay khăn máu” về độ tàn nhẫn và ghê rợn.
Bóng đen của hung thủ, đến
giờ vẫn còn nhơn nhơn ngoài vòng pháp luật.
Ba Du Sinh đã chuyển hết
những tư liệu này cho Na Lan qua hòm thư bảo mật, cô cũng đọc ngay trong đêm.
Trong số đó có rất nhiều tư liệu là sổ tay công tác của người cảnh sát gì Trần
Ngọc Đống. Khi về hưu, ông đã trao các tư liệu liên quan cho Sở Công an Giang
Kinh. Các tổ viên Tổ trọng ánh của Đội Cảnh sát Hình sự ở Sở đều biết, loạt vụ
án nghiêm trọng kéo dài ba mươi năm gần như “không manh mối”, gần như hết hy
vọng rồi, nhưng Ba Du Sinh tổ trưởng của họ vẫn quyết không gạt sang một bên.
Đó là nét đặc sắc, là thế
mạnh khiến Ba Du Sinh trở thành một cảnh sát hình sự xuất sắc, nhưng có lẽ nó
cũng là trở ngại khiến anh không thể thăng tiến - đôi khi anh rất cố chấp, nhất
định không đổi ý. Mấy năm gần đây dân số thành phố tăng nhanh, cơ cấu xã hội
không ổn định, các vụ án lớn chấn động Giang Kinh cũng nhiều lên, nhiệm vụ “dập
lửa” của công an các cấp càng thêm nặng nề, họ đặt trọng tâm vào những vụ việc
gay cấn mới phát sinh và những sự kiện cần xử lý gấp. Ngoài thời gian thực hiện
nhiệm vụ khẩn cấp, Ba Du Sinh không dành nhiều thời gian và sức lực để giao lưu
với các nhân vật quan trọng nhằm chuẩn bị cho bước thăng tiến tiếp theo, mà chỉ
mải mê với các vụ án cũ bế tắc, rồi chìm sâu vào đó không thể dứt ra. Lập luận
của anh là, phá được các vụ án tồn đọng là thử thách đỉnh cao đối với nghị lực
và trí lực của trinh sát hình sự và cũng là tiêu chí quan trọng để đánh giá tác
phong của cảnh sát hình sự.
Vụ án “ngón tay khăn máu” đã
thành lịch sử, nhưng vụ cuối cùng trong loạt vụ án này chỉ cách đây bốn năm,
chưa thể gọi là cũ, Ba Du Sinh tất nhiên không bỏ qua.
Dù rằng trong bốn năm đó
không hế có một manh mối nào.
Mãi cho đến hôm qua.
Lão già phạm tội hiếp dâm
khét tiếng đang nằm chờ chết ở buồng bệnh nặng này bỗng nói với cảnh sát rằng,
lão biết tung tích của các nạn nhân trong vụ án “ngón tay khăn máu”.
Khi cảnh sát tiến hành thẩm
vấn ngay tại giường bệnh, lão không nói 12 cô gái kia sống chết ra sao, cũng
không nói ai là hung thủ của hàng loạt vụ án man rợ ấy, lão chỉ nói mình biết
tung tích của các nạn nhân.
Và, chỉ muốn kể cho một mình
Na Lan biết.
Chương 5: Thương Hiệt
Lúc này, qua cửa kính, Na
Lan đang quan sát khuôn mặt không còn chút sinh khí nào của Mễ Trị Văn. Sau một
lúc im lặng, cô thấy mình đã bình tĩnh trở lại, bèn nói, “Các anh loại trừ Mễ
Trị Văn à? Hình như sau khi ông ta bị bắt thì loạt vụ án ‘ngón tay khăn máu’
cũng chấm dứt...”
Ba năm trước, hồi bắt lão,
cảnh sát đã từng coi lão là nghi phạm số 1 và tiến hành thẩm vấn rất vất vả.
Nhưng lão một mực phủ nhận, cảnh sát cũng không tìm ra chứng cứ gì. Ví dụ đơn
giản thế này, theo lý luận và kinh nghiệm thực tiễn thì kẻ giết người hàng
loạt, nhất là những kẻ bệnh hoạn gây án kiểu ‘ngón tay khăn máu’, rất hay nổi
tính điên rồ thu thập ‘chiến lợi phẩm’ của mình, tức là kiểu gì cũng có chứng
cứ...”
“Ví dụ lưu trữ ảnh các cô
gái giống như La Cường năm xưa ấy à?” Na Lan đã đọc hết các tư liệu về vụ án
nhưng cô vẫn hoài nghi một điều, La Cường có phải là sát thủ các vụ án “ngón
tay khăn máu” ngày trước thật không? Nếu đúng là hắn đã giết ba cô gái kia...
thì những hung thủ sau này là kẻ “mô phỏng”? Đã mô phỏng gần như y hết, và còn
cao siêu hơn nữa, suốt gần 20 năm vẫn không để lộ một dấu vết nào. Nếu La Cường
vốn dĩ không phải là hung thủ thì hóa ra địa ngục lại có thêm một oan hồn hay
sao?
Ba Du Sinh khẽ thở dài, “Đại
khái là thế này... La Cường có lén chụp ảnh các cô gái nhưng không thuộc dạng
‘chiến lợi phẩm’, mà chỉ giống như một thứ sở thích đồi bại... Về phương diện
này thì Mễ Trị Văn lại rất ‘sạch sẽ’. Lão thuê một căn hộ chung cư bé tẹo, đồ
đạc chẳng có mà bụi bặm cũng không, cứ như nơi tọa thiền của nhà tu khổ hạnh.
Ngoài ra, nếu nói lão can tội ‘cưỡng dâm’ thì cũng chưa thật chuẩn, vì mọi lần
cưỡng bức đều ‘chưa thành’; cách đây bốn năm lão mới có hành vi xâm hại. So với
hung thủ của vụ án ‘ngón tay khăn máu’ thì hình như... lão còn thua xa.” Ý anh
nói là về mức độ tàn ác. “Cho nên, dù bọn anh có cả ngàn lý do để nghi ngờ lão
là hung thủ vụ án ‘ngón tay khăn máu’ thì vẫn không có một chứng cứ nào để kết
tội cả.”
“Huống chi hiện giờ lão được
bảo hộ nhờ nhãn mác bệnh thần kinh!” Na Lan cảm thấy ngữ điệu châm chọc pha lẫn
căm giận lại xuất hiện trong câu nói của mình, nhất thời quên bẵng hết mọi “tu
dưỡng” về tâm lý tội phạm học và thần kinh học, nghe giọng rất oán hờn.
Ba Du Sinh không chỉ trích
gì cô. Anh nói, “Lão có tiền sử bệnh tâm thần phân liệt từ hơn 25 năm trước,
chứ không phải sau khi bị bắt mới ‘ngẫu nhiên mắc bệnh’. Các bác sĩ cũng xác
nhận là đúng. Nhưng tại sao vào lúc này lão lại muốn nói về vụ ‘ngón tay khăn
máu’? Bọn anh thấy khó hiểu và cũng có ý cầu may...”
“Con quạ sắp chết, tiếng kêu
cũng bi ai chăng[1]?” Na Lan nói “quạ” ám chỉ cảnh ngộ của Mễ Trị Văn. “Có thể,
lão chính là hung thủ, sắp chết đến nơi nên muốn sám hối phần nào.”
[1] Nhại một câu cổ ngữ:
Người sắp chết, tiếng kêu thật buồn thương.
Hình như Ba Du Sinh cũng hơi
nhếch mép. “Đã nhiều lần gặp lão rồi, nên bọn anh chẳng trông mong gì nhiều.
Nói đến trạng thái của lão hiện giờ, anh ví von hơi khó nghe nhưng cũng rất
sát, lợn đã bị chọc tiết thì chẳng sợ nước sôi! Lão biết mình sắp toi đến nơi,
cảnh sát thì không thể gây thêm sức ép bắt lão cung khai, lão luôn luôn kháng
cự mọi cuộc thẩm vấn của cảnh sát.”
“Vậy thì khi vào, việc đầu
tiên em nên làm là cảm ơn lão đã chiếu cố!” Na Lan bỗng không nhận ra mình nữa,
cô đã biến thành chua ngoa tự lúc nào thế này.
Ba Du Sinh cảm thấy nặng nề,
“Anh cho rằng... khỏi cần anh nói em cũng thừa hiểu, tiếp xúc với lão chẳng vui
vẻ gì, thậm chí còn mắc bẫy của lão. Cho nên... em hãy cẩn thận, không rõ lão
có ý đồ gì mà cứ đòi gặp em...”
“Em đã chuẩn bị rồi.” Na Lan
bước đến cửa buồng bệnh.
Ba Du Sinh, “Nhớ là, đừng
gọi lão là Mễ Trị Văn.”
“Chào ông... Thương Hiệt!
Ông Thương Hiệt?” Na Lan bước đến bên giường, khẽ gọi. Cô đã đọc bản tổng kết
về bệnh sử của Thương Hiệt, đúng như Ba Du Sinh nói, đã 26 năm mắc bệnh tâm
thần phân liệt, trước khi bị bắt lão là khách quen của bệnh viện tâm thần. Cảnh
sát nhà tù báo cáo rằng nửa năm nay sức khỏe của lão xuống dốc, thường xuyên
phải nằm, phát rồ phát dại mỗi ngày một nhiều. Cũng từ nửa năm nay, Mễ Trị Văn
nằm giường miệt mài nghiền ngẫm chữ cổ, lão có thể không ăn không ngủ mấy ngày
liền, nhưng hôm nào cũng vùi đầu vào đống giấy cũ kỹ. Dần dần, lão khó chịu với
ba chữ “Mễ Trị Văn”, lão chỉ cho phép người khác gọi lão là Thương Hiệt.
Cứ như là Mễ Trị Văn đã
chết, còn Thương Hiệt thì tái thế[2].
[2] Tương truyền rằng Thương
Hiệt là người nghiên cứu và sáng tạo ra chữ hán.
“Thương Hiệt” nằm trên
giường, mắt nhắm tịt như đang ngủ say.
Có phải, ma quỷ đang ngủ
cũng yếu ớt, nhất là hạng ma quỷ sắp tàn đời như nắm tro than leo lét? Na Lan
nhìn cái chụp ô xi gắn ở mũi lão, kim truyền dung dịch cắm ở tay lão, lại nhìn
bình ô xi, rồi nhìn tập giấy và mấy cuốn sách đặt trên cái tủ đầu giường, sách
cổ văn, thơ, từ và một cuốn sách nhạc cổ mà sau này Na Lan sẽ được xem ở cơ
quan cảnh sát, trong đó chi chít những ký hiệu kỳ quái lạ hoắc, là kiểu ghi nốt
thường gặp trong các bản nhạc dành cho nhạc cụ cổ điển.
Trong buồng chỉ có cô và ba
bệnh nhân sắp “đứt” đến nơi nằm trên ba cái giường.
“Cô định rút bỏ ống thở ô xi
và ống truyền dịch của tôi, đúng không?” Thương Hiệt đang nhắm mắt bỗng mở
miệng. Na Lan phát hoảng, nỗi sợ hãi lúc nãy lại trở lại với cô, cô bất giác
giật lui mấy bước.
“Sao thế?” Na Lan tự nhắc
nhở mình, lão là tên tội phạm cưỡng dâm, chưa bị coi là hung thủ thực sự của vụ
án “ngón tay khăn máu”, có lẽ mình không cần phải sợ. Nhưng bản chất tà ác ma
quỷ của con người ta đâu có thể cho là nặng hay là nhẹ?
“Cô định rút bỏ ống thở ô xi
và ống truyền dịch của tôi.” Thương Hiệt nhắc lại. Na Lan nhanh chóng thầm chẩn
đoán, đây là biểu hiện chứng hoang tưởng bị hại - một trong những triệu chứng
điển hình của bệnh tâm thần phân liệt.
“Tôi không có quyền làm
thế.” Giọng Na Lan rất bình tĩnh.
“Nhưng cô định làm thế. Không
phải là có quyền hay không. Tôi biết... cô đã đoán tôi là ca tâm thần phân liệt
điển hình, luôn hoang tưởng mình bị bức hại. May mà cô chỉ làm về tâm lý, nếu
cô là bác sĩ thần kinh thì cô đã kê đơn cho tôi rồi...” Lão hơi rướn lên, ra
hiệu cho Na Lan đặt cái gối vào lưng lão.
Na Lan kinh ngạc hít vào một
hơi thật sâu. Cô làm theo ý lão. Rổi khẽ nói, “Tôi khâm phục trí tưởng tượng
của ông.”
“Không phải tưởng tượng, mà
là sự thật! Ánh mắt cô thể hiện điều đó. Cô đã nhìn những cái ống này rất lâu,
hệt như đứa trẻ con lần đầu vào xem bệnh viện. Tay
cô đang run, như thể sẵn sáng chìa ra làm những động tác kiến các y tá phải
phẫn nộ... cô quá biết mình định làm gì.”
Lúc này Na Lan mới nhận ra
những “bài tập” mà Ba Du Sinh đưa cho cô vẫn chưa đủ. Tình trạng thật của Mễ
Trị Văn lúc này là gì? Bệnh nhân tâm thần phân liệt? Diễn viên siêu hạng? Bậc
thầy tâm lý nghiệp dư? Hay một Sherloch Holmes hạng bét?
Điều duy nhất cô có thể làm
là giữ im lặng.
Nhưng Mễ Trị Văn đang có
hứng nói chuyện, “Tất nhiên cô đã kiềm chế được ý muốn tệ hại, cô không dại đến
nỗi ấy! Gã Ba Du Sinh đứng ngoài kia đang chăm chú quan sát chúng ta... cho
nên, điểm khác biệt giữa những người gọi là bình thường như các vị với những kẻ
bị gọi là bệnh nhân tâm thần như chúng tôi là, các vị giỏi tính toán hơn, giỏi
che giấu hơn, giỏi kiểm soát tâm trạng nôn nóng của mình...” Thương Hiệt ngước
đôi mắt đỏ vằn những tia máu chằm chằm nhìn Na Lan.
Trước ánh mắt quái dị, phản
ứng bình thường của mọi người là đỏ mặt, nhưng Na Lan vẫn lạnh như băng.
Im lặng.
Chỉ tiếc im lặng chẵng thể
là bùa phép át được nỗi sợ hãi.
“Ông nói là muốn kể với tôi
về chuyện vụ án ‘ngón tay khăn máu’, tôi sẵn sàng nghe đây.” Na Lan mở túi lấy
ra cuốn sổ tay và bút bi.
“Một cô gái xinh đẹp siêu
phàm thoát tục như vô mà nói ra mấy chữ này... e hơi tục thì phải? Cứ như là
bông hoa nhài mọc trên bãi... bãi rác.”
“Nếu ông có danh từ nào sát
hơn, trang nhã hơn... tôi cũng sẵn sàng nghe.” Kiên nhẫn và giỏi chịu đựng là
tố chất cơ bản của chuyên gia tâm lý.
“Thử nói xem, tại sao cô làm
nghề này?”
“Sao?” Na Lan chưa chuẩn bị
để trả lời những vấn đề riêng tư nếu lão ta hỏi.
“Năm xưa cô thi Đại học Khoa
học Xã hội, đỗ thứ 3 toàn tỉnh, thừa sức chọn khoa Ngoại thương, Tài chính...
cho dễ kiếm sống, nhưng cô lại chọn khoa Tâm lý và nghiên cứu chuyên sâu về Tâm
lý học tội phạm, rất mệt và không ăn nhằm gì, tại sao? Để tôi nghĩ xem nào...
chắc là vì hồi cô học cấp III cha cô bỗng nhiên bị hại, vụ án mạng ấy đến nay
vẫn chưa khám phá ra, nó là cú sốc tác động đến cô và gia đình cô...”
“Gì cơ?” Đây là chuyện riêng
tư đau đớn nhất của Na Lan.
“Hôm nay là Ngày máy trợ
thính thế giới hay sao? Cô có cần tôi nhắc lại không?” Đôi mắt vằn đỏ nhìn
thẳng vào Na Lan.
Đã vượt quá giới hạn, tất
nhiên phải phản kích. Cô gấp sổ tay lại, nói, “Ông Thương Hiệt, tôi đồng ý đến
gặp ông vì ông định nói về manh mối vụ ‘ngón tay khăn máu’, nếu ông không định
nói về nó, mà chỉ muốn chuyện phiếm linh tinh về gia đình tôi... thì tôi sẽ
không trả lời. Tôi cho rằng có lẽ ông biết nhiều chuyện riêng tư của tôi. Thế
thì để hôm khác nói chuyện vậy.” Nếu cô ra về lúc này, thì đây là lần đầu và
cũng là lần cuối gặp lão ta.
“Nếu thế thì công an sẽ thất
vọng đấy!”
“Nhưng...” Na Lan hơi mỉm
cười. “Tôi đã rất thất vọng rồi.”
Cô quay người bước đi.
“Bây giờ tôi có thể nói cho
cô biết Nghê Phượng Anh ở đâu.” Chờ đến lúc Na lan đưa tay mở cửa buồng bệnh,
lão Thương Hiệt mới nhượng bộ. Rõ ràng lão cũng không muốn mất cơ hội nói
chuyện với một cô gái xinh đẹp.
Na lan vẫn quay lưng lại.
“Được. Ông nói đi. Tôi vẫn nghe thấy.”
“Cô phải lại đây mà nhìn,
sau đó cô sẽ biết rằng, chỉ nói thì không thể diễn tả được.” Giọng Thương Hiệt
không gấp gáp, không nài nỉ, gần như một lới mời thành thực. Lúc này Na Lan mới
nhận ra rằng, trái hẳn với bộ dạng già nua suy kiệt của mình, lão có giọng nói
trầm bổng khá rõ ràng và hơi khàn khàn.
Na Lan bước đến bên giường
của lão, giữ một khoảng cách, và sẵn sàng đi ra luôn.
“Cô thạo đe dọa, và rất
quyết đoán.” Lão lẩm bẩm. “Nhiều cô gái thiếu sự quyết đoán, kết cục sẽ rất
đáng buồn. Tôi vẫn đang nghĩ, liệu có phải đặc điểm này là bí quyết giúp cô
ràng buộc được trái tim đa tình của Tần Hoài?” Tần Hoài là một văn sĩ đầy ắp
duyên tơ với nữ giới, từng cùng cô tham gia một vụ án lớn hơn một năm về trước,
giữa hai người cũng nảy sinh một thứ tình cảm rất tinh tế.
Na Lan cố nén ý định bỏ ra
ngoài lần nữa, lạnh lùng nói, “Tôi chỉ có thể đợi thêm năm giây.”
Thương Hiệt giơ tay đầu
hàng, tay run run nhấc cặp kính lão lên đeo, đoạn cầm tập giấy ở đầu giường rút
ra vài tờ, nhìn qua rồi lắc đầu. Na Lan trông thấy trên tờ giấy là những hình
vẽ kỳ dị, chắc là những chữ cổ mà lão nghiên cứu gần đây.
Cuối cùng Thương Hiệt cũng
tìm ra tờ giấy cần thiết, lão chỉ vào một chữ trên đó, “Nó đây!”
Chữ này được ghép bởi ba
chữ, trên cùng giống như chữ Nhân, bên dưới na ná như chữ Điền hoặc chữ Tỉnh,
dưới cùng là chữ Thập.
Khi Mễ Trị Văn giở quẻ biến
thân thành Thương Hiệt rồi tự nguyện thông báo sẽ tiết lộ các manh mối, chẳng
ai loại trừ khả năng đây chỉ là trò bỡn cợt công an. Nay nhìn thấy chữ này, Na
Lan gần như buồn cười vì kỹ năng diễn xuất quá vụng về của lão.
“Giải thích xem sao?”
“Nói cộc lốc thế à?” Thương
Hiệt lim dim mắt, các tia máu cũng sít lại trong như hai vệt đỏ.
“Khi nào ông giành được sự
tôn trọng của tôi...” Na Lan nghĩ bụng, chẳng rõ kiếp trước mình gây nên tội gì
mà bây giờ phải vạ thế này.
Thương Hiệt mỉm cười, “Xấu
tốt gì tôi cũng đã già cả, sống bao nhiêu năm gian khổ, dẫu không có công lao
thì cũng cần lao...”
“Phiền ông giải thích cho!”
Na Lan cười. lão tưởng lão giỏi thuyết phục lắm đấy à?
Thương Hiệt nhẩn nha nói,
“Cô biết không, kể từ khi kế thức sự nghiệp của Thương Hiệt và miệt mài nghiên
cứu cải tiến văn tự Hán, thì tôi không tư duy theo lối tuyến tính hay phân kỳ
như người bình thường nữa, mà chuyển sang tư duy hình ảnh - kiểu tư duy tối
quan trọng đối với cội nguồn văn hóa nhân loại. Đó chính là thiên ý, thiên
tượng, là sự giao tiếp giữa con người và thần linh, cùng sự thấu cảm bất chợt…
Chữ viết ra đời đã ghi chép tư tưởng và tri thức của thánh nhân, cũng tức là
bóc trần những bí mật sâu xa của thiên địa vạn vật. Bởi vậy tương truyền sau
khi Thương Hiệt đặt ra chữ viết thì xuất hiện vô số hiện tượng lạ lùng, thóc
gạo trên trời rơi xuống, ma quỷ khóc than vì không còn nơi ẩn náu nữa…”
“Hiểu rồi, ý ông là…” Na Lan
thấy lão lắc đầu có vẻ không bằng lòng, cô nói sang ý khác. “Ông định nói là
không thể cắt nghĩa, không thể giải thích. Ông định nói không hiểu tại sao chữ
này nảy ra trong đầu và ý nghĩa của nó là gì. Đây chỉ là linh cảm trên trời
bỗng dưng rơi xuống, đúng không? Nó là một câu đố không lời giải chứ gì?” Ngay từ
đầu cuộc nói chuyện, Na Lan đã không trông mong gì lão sẽ xởi lởi nói ra tất
cả. Nếu đây là một trò chơi thì cô sẽ chấm dứt ngay.
Thương Hiệt tạo chữ nhưng
không tạo ra điển tích của chữ, ngày không có trách nhiệm giải thích… tất cả
những điều cô muốn biết đều nằm trong chữ này.”
“Ít ra cũng biết chữ này đọc
ra sao chứ hả?” Na Lan muốn tìm hiểu thêm về mức độ điên rồ của Mễ Trị Văn.
“Lịch sự quá nhỉ?” Lão thở
dài.
“Xin hỏi ông, chữ này đọc
thế nào?”
“Đọc là chừa.” Lão trả lời
ngay. Cứ như chữ này đã tồn tại từ ngàn năm qua.
Na Lan thầm nghĩ, nghe gần
như “bừa” trong chữ “nói bừa”.
“Vậy mong ông cho biết, tung
tích của các nạn nhân khác trong vụ ‘ngón tay khăn máu’?”
“Hết!”
“Hết rồi?”
Thương Hiệt gỡ cặp kính
xuống, mở to đôi mắt vằn đỏ nhìn Na Lan, nói giọng ác độc, “Cô xem, có lẽ trời
có thể mưa ra thóc gạo thật, thậm chí có thể mưa ra cái bánh to như Kinh Thánh
nói, nhưng trời không thể ban linh cảm nhiều như mưa! Để có được chữ này, chữ
diễn tả tung tích của Nghê Phượng Anh, tôi đã tiêu hao rất nhiều nguyên khí và
công lực. Các linh hồn mịt mùng còn lại chưa phát tin nhắn cho tôi. Cho nên,
nếu cô tìm thấy Nghê Phượng Anh, thì cô lại đến gặp tôi, biết đâu lúc đó tôi đã
có được thêm linh cảm và thông tin.”
Lúc thì ra vẻ tử tế lúc thì
thô bạo, chứng tỏ trạng thái tinh thần của lão rất không ổn định.
Nhận ra nhược điểm này, Na
Lan thấy mình bình tĩnh hơn nhiều, cô khẽ nói, “Có liên… ông có liên quan đến
vụ ‘ngón tay khăn máu’ không?”
“Có chứ!” Thương Hiệt gần
như gào lên.
“Hả?” Na Lan có thể hình
dung ra Ba Du Sinh ngoài cửa tim đang đập như điên.
“Tôi không biết họ chết như
thế nào nhưng tôi là người lượm xác họ… đương nhiên phải được cô trợ giúp. Kể
từ lúc này, cô bé Na Lan ạ, cô cũng liên quan rất chặt chẽ với vụ án ‘ngón tay
khăn máu’.” Thương Hiệt tỏ ra rất thỏa mãn với trò hề của mình.
“Sao lại là tôi? Sao lại đưa
cái chữ này cho tôi mà không trực tiếp đưa cho cảnh sát?”
“Vì chỉ cô mới có thể giải
mã được.”
“Tại sao?!”
Im lặng.
Hiểu rằng Thương Hiệt sẽ
không hé lộ bất cứ thông tin nào ngoài con chữ này nữa. Na Lan đành nói “Chào
ông”, rồi kẹp tờ giấy vào cuốn sổ tay, quay người bước đi.
Thương Hiệt bỗng nói, “Còn
một điều…”
Na Lan quay lại nhìn lão
bằng ánh mắt dò hỏi. Lão đưa bàn tay gầy nhẳng ra vẫy vẫy, cất cao giọng, “Tôi
và vụ ‘ngón tay khăn máu’ có chút liên quan, nhưng… tôi không dám nói to.”
Giọng lào bỗng run run, cứ như quá sợ hãi vì những “chân ngôn” mà mình sắp nói
ra. Na Lan ngờ rằng hồi trẻ lão từng là diễn viên kịch cũng nên. Cô bước lại
gần hơn, cố không cau mày vì hơi thở hôi hám của lão.
“Ông nói đi, không dám nói
to thì nói khẽ vậy.”
Thương Hiệt im lặng mất một
lúc lâu, tựa như còn bận thưởng ngoại dung nhan, làn da và mái tóc của Na Lan.
Đến lúc Na Lan sắp lạnh lùng dịch ra, lão mới nuốt ực một cái, khẽ nói, “Đây
là… một bí mật, vụ án mảnh khăn dính máu và ngón tay lìa… vẫn còn tiếp diễn.”
Chương 6: Lỡ Sổng Yêu Ma[1]
Na Lan không biết nên diễn
tả cảm giác của mình thế nào khi ra khỏi buồng bệnh, nó giống như chạy trốn,
lại giống như vừa tỉnh cơn ác mộng. Mễ Trị Văn đã là nến tàn trước gió rồi,
nhưng hơi thở mong manh của lão vẫn đủ sức đưa hàn khí vào khu buồng bệnh ấm áp
như xuân này. Ánh mắt, giọng nói và tâm trạng thất thường của lão gây nên ở cô
cảm giác ấy. Dù thần kinh phân liệt đến mấy lão cũng không có bất cứ ký do gì
để tự sa lưới pháp luật. Huống chi, dù lão đưa ra câu cảnh cáo “vụ án ‘ngón tay
khăn máu’ sẽ tiếp diễn” trong khi đang được bảo lãnh để ra ngoài điều trị nhưng
lão sắp xuống lỗ đến nơi, lại là tù nhân của giường bệnh, thì hành hung ai
được?
Trạng thái tinh thần của Mễ Trị
Văn càng khiến Na Lan không hiểu ra sao. Lão nói rặt những chuyện hão huyền, là
biểu hiện của bệnh tâm thần phân liệt thật, hay là những lời bịa đặt đã được
thiết kế tỉ mỉ? Lão có thể nói ra tâm tư của cô, rằng thâm tâm cô có ý nghĩ
chấm hết cuộc đời tội lỗi của lão; thậm chí lão biết cả động cơ ban đầu thúc
đẩy cô theo học tâm lý tội phạm… lão là con bệnh tâm thần phân liệt cực thông
minh.
Kỳ cục nhất là tại sao lãi
phải chơi cái trò chế chữ đoán chữ? Tại sao lão muốn cô tham dự?
Riêng điều này thì Na Lan
không hề nghi ngờ, từ đầu đến chân Mễ Trị Văn toát ra toàn tà khí! Có lẽ cách
đối xử nhân đạo nhất, đối với lão là đưa vào bệnh viện cao cấp điều trị thật kỹ
càng thật chuyên nghiệp, còn đối với những nạn nhân từng bị lão xâm hại là tống
lão vào ngục tối vĩnh viễn.
Ra khỏi buồng bệnh, câu đầu
tiên Na Lan nói với Ba Du Sinh là, “Ai bảo lãnh cho lão được điều trị ở ngoài?”
“Tôi!” Một giọng nữ thản
nhiên vang lên phía sau Na Lan.
Người ấy ngồi trên xe lăn.
Làn da nõn nà với suối tóc đen dài buông xuống cùng ánh mắt trong veo. Một vẻ
đẹp lạnh lùng thanh cao.
“Cô không ngờ chứ gì? Tôi là
Hồng thái úy của ông ta.”
Na Lan ngẩn người một lúc
mới nhớ ra điển cố “Hồng thái úy lỡ sổng yêu ma” trong truyện Thủy Hử. “Yêu ma”
là một hình dung rất phù hợp để ví với Mễ Trị Văn tuổi tác như hiện nay. Na Lan
sợ mình nhầm, bèn trố mắt nhìn kỹ đến mức gần như bất lịch sự, cuối cùng reo
lên, “Ôi, cô gai1o Đổng Bội Luân! Em xin lỗi, đọc tài liệu chưa kỹ. Em không
biết là cô.” Na Lan vốn định kêu ca về chuyện người đứng ra bảo lãnh dù người
đó là ai, nhưng bây giờ cô không thể nói gì được.
Thực ra cô đọc tài liệu rất
kỹ. Cách đây ba năm Mễ Trị Văn cưỡng bức Đổng Bội Luân, tuy không thành nhưng
khiến chị ta bị thương nặng, lão bị kết án tù chung thân.
Thế mà bây giờ chính cô giáo
này lại bảo đảm cho lão được điều trị ngoại trú!?
Đúng là truyền kỳ mạn lục
chân thực nhất mà Na Lan từng nghe!
Na Lan ngoảnh lại nhìn Ba Du
Sinh, ngụ ý, sao anh không sớm cho em biết? Trong các tư liệu mà Ba Du Sinh đưa
cho cô, họ tên người bảo lãnh đã bị xóa đi.
Ba Du Sinh ho khan một
tiếng, vẻ mặt anh không lúng túng không trách móc và không thanh minh gì cả.
Chắc hẳn Đào Tử, cô bạn chung phòng với cô sẽ nhận xét đây là một người rất
“đàn ông”. Đổng Bội Luân đã nhận ra ánh mắt và đôi mày nhíu lại của Na Lan.
“Rốt cuộc tôi đã gặp được em rồi! Tôi cứ mong mãi.” Chiếc xe lăn chạy điện của
chị từ từ nhích lên. Lúc này Na Lan mới nhận ra phía sau chiếc xe lăn còn có
một bác sĩ cao tuổi.
Na Lan bước lại bắt tay Đổng
Bội Luân, những ngón tay thon dài, mềm mại, giá lạnh. Chị ta nở nụ cười khó
hiểu. “Chính tôi muốn đội trưởng Ba Du Sinh giữ kín họ tên người bảo lãnh.
Chẳng phải tôi muốn tỏ ra bí hiểm, mà chỉ vì tôi muốn chính mình nói cho em
biết.”
“Vâng. Vậy em muốn hỏi tại
sao cô lại bảo lãnh cho lão?” Theo các tư liệu Ba Du Sinh đưa cho Na Lan thì Mễ
Trị Văn không còn cha mẹ, sống một mình, không ai thân thích, lẽ ra sẽ không có
ai chủ động bảo lãnh cho lão được điều trị ở ngoài. Bởi vậy cô vẫn rất nghi
hoặc, ai đã làm việc đó, và động cơ của người ấy là gì? Hóa ra, người đảm bảo
cho một tên tội phạm cưỡng dâm như Mễ Trị Văn lại chính là nạn nhân của lão!
Đổng Bội Luân không trả lời
ngay, chị đăm đăm nhìn Na Lan hồi lâu rồi mới nói, “Tôi dường như nhìn thấy
chính mình năm xưa.”
Có nên sửng sốt khi được so
sánh với tuyệt thế giai nhân này không? Na Lan gần như muốn lớn tiếng phản đối
hai chữ “năm xưa”, bà chị chẳng qua chỉ hơn tôi vài tuổi chứ mấy! Nhưng kinh
nghiệm làm về tâm lý hơn một năm qua khiến cô nhanh chóng hiểu ra cảm nhận của
cô giáo Đổng Bội Luân, ba năm trước gặp nạn, rồi bị tổn thương nặng nề cả tinh
thần lẫn thể xác, tất nhiên sẽ có cảm giác mình đã trải qua rất nhiều năm
tháng. Na Lan nhìn khuôn mặt không son phấn và đôi mắt thăm thẳm như nước hồ
thu của Đổng Bội Luân, cô bỗng hiểu ra và khẽ gật đầu.
Đổng Bội Luân mỉm cười, “Tôi
đoán rằng em đã hiểu tâm ý của tôi khi đảm bảo cho lão được điều trị ở ngoài.”
“Chắc cho rằng lão bị trừng
phạt chưa đủ, muốn lão bị bệnh tật hành hạ lâu hơn chứ không được chết nhanh?”
Na Lan nghĩ vậy thôi chứ không nói ra lời. Cô chỉ gật đầu và lại cảm thấy gai
người.
Đổng Bội Luân nắm chặt tay
Na Lan. Hai đôi tay đều nhỏ nhắn mềm mại nhưng đều giá lạnh, tựa hồ khí sưởi
đang lan tỏa trong khu buồng bệnh chẳng có tác dụng gì. Đổng Bội Luân nói, “Em
thông minh hơn tôi tưởng, tôi rất yên tâm.”
Người bác sĩ đứng sau xe lăn
tên là Chu Trường Lộ, tuổi ngoài 60, là bác sĩ chủ nhiệm, phụ trách giám hộ
điều trị cho Mễ Trị Văn. Chu Trường Lộ hơi gù, vẻ mặt hơi khắc khổ, nhưng vẫn
có thể nhận ra hồi trẻ ông rất đẹp trai. Ông để bộ râu ria ngắn được cắt tỉa
gọn gàng, đeo kính khá dày, bên trong chiếc áo blu trắng cũng là sơ mi trắng,
thắt cà vạt xanh. Ba Du Sinh thường gọi ông là “Giám đốc Chu”.
Ông là phó giám đốc phụ trách nghiệp vụ của Bệnh viên Phổ Nhân, cũng là Giáo sư
khoa Nội của Đại học Y khoa Số 2 Giang Kinh.
Vào phòng làm việc của bác
sĩ, Chu Trường Lộ nói, “Chúng tôi cũng nhất trí với cán bộ y tế bên cảnh sát,
rằng bệnh nhân Mễ Trị Văn đang ở tình trạng rất nặng, cần được chăm sóc điều
trị 24/24. Nói thật lòng, những người yêu nghề y hẳn sẽ hứng thú với một ca
‘bệnh tật đầy mình’ như ông ta. Một đời bác sĩ chưa chắc đã gặp được trường hợp
nào tổng hợp đủ mọi thứ bệnh như thế này, khi chuyên gia các khoa cùng hội chẩn
về nguyên nhân gây bệnh, bệnh lý, phản ứng chéo giữa các triệu chứng và phương
án điều trị, toa thuốc và phương châm phẫu thuật… Chưa kể, những ca dạng này
rất hữu ích cho việc đào tạo bác sĩ trong các bệnh viên trực thuộc.” Nhắc đến
“cống hiến” của con bệnh Mễ Trị Văn đối với y học, Chu Trường Lộ đặc biệt phấn
khích, ánh mắt rực sáng như muốn xuyên qua cả tròng kính dày.
“Một bệnh nhân như thế điều
trị trong bệnh viên chắc phải rất tốn kém?” Na Lan hỏi, đồng thời nhìn sang Ba
Du Sinh. Anh có vẻ lơ đãng, nhưng cô biết anh vẫn nghe không sót một chữ.
Chu Trường Lộ gật đầu, “Phần
lớn do Bội Luân chi trả. Mễ Trị Văn cũng là đối tượng, nghiên cứu khoa học của
tôi. Tôi phải thuyết phục mãi cô ấy mới đồng ý cho tổ nghiên cứu chúng tôi chi
trả một phần phí tổn, ví dụ một số chi phí xét nghiệm.”
Na Lan biết, Đổng Bội Luân
đã can đảm rũ bỏ quá khứ bị hại, bắt tay sáng lập một công ty công nghệ cao
chuyên về những dự án phát triển phần mềm mở, chỉ sau ba năm, từ một nhân viên,
Đổng Bội Luân đã trở thành giám đốc một tập đoàn, là một truyền kỳ và cũng là
một giai thoại ở thành phố Giang Kinh. Cô nhìn ông Chu Trường Lộ bằng ánh mắt
đầy kính trọng. Cô biết những năm gần đây con đường làm giàu của các học giả,
giáo sư là rút ruột kinh phí nghiên cứu khoa học, nhưng ông Chu Trường Lộ lại
chủ động xin chia sẻ phí tổn, đủ thấy là người rất cao thượng.
Ba Du Sinh dò hỏi, “Giám đốc
Chu và Sếp Đổng có vẻ rất thân thiết.”
Chu Trường Lộ nói, “Cách đây
ba năm, buổi tối hôm Bội Luân ngộ nạn, người ta đưa cô ấy vào viện chúng tôi
cấp cứu, tôi đang là trưởng ca trực của bệnh viện, chịu trách nhiệm chính. Về
sau tôi lại trực tiếp tham gia quá trình phục hồi sức khỏe cho cô ấy, vì thế
chúng tôi có tình cảm bạn bè. Nói thực lòng, tuổi cao như tôi vẫn còn có cơ hội
kết bạn với một phụ nữ kiên cường quả cảm, thực là vinh dự.” Qua câu nói này có
thể thấy Chu Trường Lộ thuộc mẫu người đậm chất trí thức.
Ba Du sinh đứng lên nói,
“Trong thời gian phạm nhân Mễ Trị Văn nằm viện, có thể phải làm phiền đến giám
đốc Chu, tôi xin có lời cảm ơn sự hợp tác của ông.”
Na Lan vẫn chưa định ra về.
Cô nói, “Mong giám đốc Chu giúp cho việc này.
Cháu muốn được xem tiền sử bệnh thần kinh của Mễ Trị Văn, nhất là những báo cáo
chẩn đoán gần đây của các bác sĩ?”
[1]. Tiêu đề này đặt phỏng
theo tiểu đề hồi đệm của Thủy Hử, “Trương thiên sư cầu yên ôn dịch, Hồng thái
úy lỡ sổng yêu ma”.
Chương 7: Trò Chơi Và Tội Ác
Khi cùng Na Lan trở ra hành
lang ngoài khu bệnh nặng, đứng ngắm mưa bụi ngoài cửa kính, Ba Du Sinh nhận
xét, “Anh thấy là nghe Mễ Trị Văn huyên thiên xong, cô đã lật lại vấn đề, rằng
liệu lão có bị tâm thần phân liệt thật không.”
Na Lan nói, “Khi học chuyên
tu môn thần kinh học lâm sàng ở Đại học Y khoa Giang Kinh, em từng tiếp xúc với
nhiều bệnh nhân tâm thần phân liệt, nhưng còn lâu mới được gọi là chuyên gia.
So với các bác sĩ cấp chủ nhiệm của Tổng viện thần kinh thì em chỉ là múa rìu
qua mắt thợ, đâu có tư cách để nghi ngờ lão?”
“Nhưng cô vẫn nghi ngờ.”
“Mễ Trị Văn thông minh đến
mức khiến em phát sợ.” Na Lan bất giác nhìn ra cửa chính, đưa mắt về phái khu
chăm sóc bệnh nhân nặng, như thể Mễ Trị Văn nghe được họ nói chuyện, mặc dù hai
bên cách nhau vài lần cửa và tường vách.
Ba Du Sinh thắc mắc, “Anh là
dân ngoại đạo nhưng có nghe nói, rất nhiều bệnh nhân tâm thần phân liệt cực
thông minh. Ví dụ John Nash trong Tâm hồn cao đẹp[1], nhưng điều đó không có
nghĩa là…”
[1]. Tên một bộ phim Mỹ,
nhân vật chính là một người điên và là nhà toán học kỳ tài.
“Mễ Trị Văn có khả năng quan
sát một động thait1 rất nhỏ rồi suy ra tâm trạng em. Lão còn bỏ nhiều công sức
để tìm hiểu hoàn cảnh gia đình và con người em. Anh xem, ba năm vừa rồi lão
toàn nằm trong tù mà vẫn biết cha em bị hại và vài chi tiết về chuyên môn
nghiệp vụ của em…”
Ba Du Sinh thở dài, “Có lẽ…
anh phải chịu một phần trách nhiệm. Việc cô bị cuốn vào ‘vụ án năm xác chết’[2]
ít nhiều cũng có liên quan đến anh. Sau khi vụ ấy được khám phá, tờ Tin chiều
Tân Giang chẳng chịu buông tha cô, họ khai thác bao nhiêu chuyện về gia đình
cô. Nếu Mễ Trị Văn là độc giả trung thành của tờ báo đó thì đương nhiên lảo nắm
được tình hình. Trong tù vẫn cho đọc báo, huống chi ngày nay bọn họ cũng được
lên mạng tra cứu chút đỉnh.”
[2] Xem “Vụ án năm xác chết”
trong cuốn Hồ Tuyệt Mệnh.
Na Lan gượng cười, “Tất cả
là tại em, mình làm mình chịu, đâu thể trách gì anh!” Đúng thế, hồi đó tờ Tin
chiều Tân Giang đã ráo riết truy kích cô. Nào là đăng ảnh bơi lội của Na Lan
hồi nhỏ, nào là phóng sự đau thương về vụ cha cô bị hại… cuộc sống của bị xới
tung! Mễ Trị Văn hoàn toàn có thể đọc một lô các bài báo rồi tìm ra những bí
mật đời tư thực ra không hề bí mật của cô.
Na Lan , “Cứ cho là lão đã
đọc báo, nhưng khả năng khái quát và soi xét rất tinh tường, rồi kỹ xảo ăn nói
dền dứ… khiến em khó mà tin lão là một bệnh nhân tâm phần phân liệt! Nhưng em
lại không thể không tin sự chẩn đoán của các chuyên gia.”
Rốt cuộc Ba Du Sinh đã hiểu
Na Lan định nói gì. Anh hơi nhướng mày, kinh ngạc, “Cô định nói là…”
“Em định nói là, đối với
những kẻ như Mễ Trị Văn, dù có bệnh tâm thần phân liệt hay không, cách tốt nhất
là mặc xác lão! Lão bảo em tin rằng, dùng cái chữ ấy có thể tìm thấy Nghê
Phượng Anh. Nếu đó là lời nói rổ dại của con bệnh thì chúng ta không cần lãng
phí thì giờ làm gì. Nếu lão chỉ giả vờ tâm thần phân liệt, và lời lão nói là
thật, thì đúng là chúng ta có thể nghiên cứu cái chữ ấy để tìm ra Nghê Phượng
Anh. Khi tìm thấy Nghê Phượng Anh, chúng ta đồn thời có thể sẽ chui vào một cái
bẫy mà lão đã thiết kế tinh vi. Em không iết đó là cái bẫy như thế nào, nhưng
em không sao tin được lão là người tình nguyện chủ động làm việc thiện.”
“Nhưng ta nên giải thích thế
nào về câu nói cuối cùng của lão, vụ án ‘ngón tay khăn máu’ vẫn còn tiếp diễn?”
Ba Du Sinh nói, “Không loại
trừ khả năng lão chỉ ba hoa khoác lác. Cũng có thể, đó là một chiêu bài để lão
mặc cả, hòng thoát khỏi án tù chung thân.”
“Em cực ghét cái cảm giác
mình bị thao túng. Một khi nghe theo lão để bắt đầu khám phá ý nghĩa cái chữ
ấy, bắt đầu bước vào trò chơi mà lão thiết kế và điều khiển, thì rất có thể ta
sẽ vô tình cung cấp bước đi đầu tiên cho nhiều tội ác khác, nói cách khác đó là
điểm khởi đầu để vụ án ‘ngón tay khăn máu’ tiếp tục xảy ra! Đây chỉ là nỗi lo
sợ mà em thoáng cảm thấy.”
Ba Du Sinh định nói gì đó
nhưng lại thôi, anh cân nhắc kỹ lời nói của Na Lan. Cô lặng lẽ chờ anh nghĩ
ngợi. Rồi cô lại nhỏ nhẹ tiếp, “Em chỉ chia sẻ với anh một chút lo ngại của em,
chứ em vẫn biết mình nên làm gì. Chúng ta không thể bỏ qua bất cứ manh mối nào
về vụ án ‘ngón tay khăn máu’.”
Ba Du Sinh khẽ thở ra, anh
thấy nhẹ nhõm. Anh đưa trả cô tờ giấy viết cái “chữ” quái dị, nói, “Cô cứ giữ
lấy.”
“Em tưởng anh sẽ cầm về để
các chuyên gia bên anh phân tích?”
“Anh cầm về cũng chẳng mấy
tác dụng. Cô quên lời của lão Thương Hiệt rồi à?”
“Chỉ em mới có thể giải câu
đố chữ ấy chắc?” Na Lan gượng cười. “Anh mà lại tin lời đại sư Thương Hiệt ấy
thật sao?”
Ra khỏi thang máy, Na Lan
lại nhìn thấy Đổng Bội Luân và Chu Trường Lộ ở gần cửa khu nhà, cô ngạc nhiên
vì họ có vẻ như đang chờ cô. Lúc này là giờ làm việc, một người là phó giám đốc
và một người là sếp tổng tập đoàn, đều bận rộn cả mà lại muốn nói chuyện với cô
lần nữa thì hẳn là có việc quan trọng.
Chu Trường Lộ đưa cô tấm danh
thiếp, cô ngạc nhiên, mỉm cười cầm lấy. Có ai đó từng nói, bác sĩ là người rất
không cần danh thiếp, cứ nhìn cái áo blu trắng của họ là hiểu ngay.
Trên danh thiếp không in các
chức danh “Phó giám đốc” hay “Bác sĩ chủ nhiệm”, “Giáo sư khoa Nội”… mà ai cũng
biết về ông, mà chỉ in hai chữ “Tiếng Lòng” viết hoa màu tím, dưới đó là một
dòng chữ nhỏ “Chu Trường Lộ, ủy viên ban thường vụ”.
“Tiếng Lòng là tên đơn vị
tình nguyện mà Đổng Bội Luân và tôi cùng tổ chức ra, dưới danh nghĩa Hội Phụ nữ
khu Văn Viên” Chu Trường Lộ lùi lại đứng bên chiếc xe lăn của Đổng Bội Luân.
“Là một tổ chức của phụ nữ, là nơi các chị em bị bạo lực xâm hại có thể trợ
giúp và giao lưu với nhau. Phạm vi bị xâm hại từ hành vi hình sự cho đến bạo
lực gia đình…” Cơ mặt ông Chu Trường Lộ hơi giật giật, đôi mắt hơi khép lại
thấp thoáng một nét đau khổ, nhưng Na Lan vẫn nắm bắt được.
Đổng Bội Luân nói, “Chúng
tôi muốn mời em, nếu em có thì giờ thì cùng tham gia, em chuyên làm về tâm lý
học, sẽ giúp đỡ rất nhiều cho những người bị hại ở chỗ chúng tôi… ít ra tôi đã
từng trải qua. Ngày trước nếu không được chuyên gia tâm lý tư vấn cho, e rằng
tôi không thể tiếp tục nghĩ thoáng ra mà sống tiếp được nữa.” Chị ta cúi nhìn
đôi chân bất lực của mình, mỉm cười tự chế nhạo. “Cảm ơn họ. Tôi đã tiếp tục bước
đi và con bước những bước rất dài.”
Na Lan cảm thấy lòng chộn
rộn. Hôm nay cô hơi thô bạo khi gặp Mễ Trị Văn, mộ biểu hiện cho thái độ không
dung thứ trước hành vi xâm hại phụ nữ của lão. Tiếng Lòng rất thích hợp với cô.
Cô gật đầu đáp, “Vâng ạ.”
Chu Trường Lộ mỉm cười, “Nếu
rỗi cháu thử đọc trang mạng của chúng tôi nhé, sử dụng tính năng gì trên weibo
ấy nhỉ?”
Đổng Bội Luân cười,
“Search.”
Chu Trường Lộ lắc đầu ngượng
nghịu, “Đổng Bội Luân chuyên phụ trách tuyên truyền. Chứ tôi dốt máy tính lắm!”
Có một người đã quan sát rõ
ràng từ đầu đến cuối.
Na Lan thân mến, cô cho rằng
bản thân chưa đủ rắc rối hay sao? Đường đời của cô đã không mấy bằng phẳng, sao
cô còn dính vào cặp đôi sầu não này?
Người ấy thừa biết tổ chức
do Đổng, Chu khơi mào là chốn nương náu tinh
thần của những phụ nữ khổ đau ai oán, tổ chức này có tiếng vang ở Giang Kinh,
nhất là về phương diện phản đối bao lực gia đình, có thể nói họ có thương hiệu
đình đam trên toàn quốc. Nhưng nó dành cho những kẻ yếu. Na Lan không những
không phải kẻ yếu, mà còn thu hút người ấy bằng chính tính cách kiên cường kiểu
ngoan cố của cô.
Và cả sự yếu đuối khác
thường ẩn sau sự kiên cường ấy nữa.
Người yếu đuối chưa chắc là
kẻ yếu. Chẳng phải điều này rất biện chứng hay sao?
Ánh mắt và bước chân của
người ấy cùng theo Na Lan di chuyển khỏi khu buồng bệnh.
Chương 8: Tiền Sử Tâm Thần Phân Liệt
Na Lan dành cả buổi chiều
tra cứu tư liệu thư viện. Không được mang hồ sơ bệnh án thần kinh của Mễ Trị
Văn ra khỏi bệnh viên, cô đành ngồi trong phòng làm việc của Chu Trường Lộ, đọc
tỉ mỉ và ghi chép, cũng được kha khá. Chu Trường Lộ dặn cô muốn đến đọc lúc nào
cũng được. Bệnh thần kinh luôn có nhiều vấn đề liên quan phức tạp, có những nội
dung dường như vô can thậm chí lầm tưởng người lập hồ sơ bệnh án đã chểnh mảng
tùy tiện, nhưng lại ẩn chứa không ít điều bí ẩn kỳ thú. Chỉ hiềm bệnh án của Mễ
Trị Văn quá giản lược, khi phân tích tìm hiểu Na Lan cảm thấy hơi bất lực, vì
dẫu sao cô cũng không phải bác sĩ thần kinh lâm sàng.
Sau đây là những ghi chép từ
20 năm trước, trong một lần Tổng viện thần kinh Giang Kinh nhận bệnh nhân Mễ
Trị Văn vào chữa trị.
Ghi chép khi nhập viện
Mễ Trị Văn , nam, 38 tuổi,
người thành phố Giang Kinh, không người nhà đưa vào. Ngày 26 tháng Tư năm 1990,
bị công an khu Văn Viên - Giang Kinh bắt về tội cưỡng dâm bất thành. Trong lúc
thẩm vấn, hắn có biểu hiện thần kinh và lên cơn điên, bác sĩ phó chủ nhiệm Đằng
Lương Tuấn tham gia hội chẩn, sơ bộ nhận định hắn bị tâm thần phân liệt, đề
nghị đưa vào viện điều trị. Ngày 29 tháng Tư nhập viện, lập biên bản. Đối chiếu
lời hắn trình bày với lời khai ở công an Văn Viên do cảnh sát Vương Kiến Quốc
thẩm vấn, thấy có những chi tiết tồn nghi, chưa rõ ràng.
Ngày 26 tháng Tư, Mễ Trị Văn
lẻn vào nhà dân định cưỡng bức một cô gái nhưng cô ta chống cự hô hoán, hắn bị
cha mẹ cô gái khống chế, rồi báo công an, sa đó bị giải về thẩm vấn ở công an
Văn Viên. Hắn chỉ khai mình họ Vu, không chịu khai tên, và phủ nhận việc cưỡng
bức. Hói hắn có biết cô gái đó không, hắn khai rõ họ tên, biệt hiệu của cô gái,
nói mình và cô ta có tình duyên vạn kiếp, coi việc xâm hại tình dục là sự giao
lưu thể xác tâm hồn. Cô gái kia phủ nhận quen biết hắn, chỉ nói mình từng nhìn
thấy hắn bám theo ngoài phố. Tiếp tục thẩm vấn, hắn nhiều lần nói mình rất tâm
đầu ý hợp với cô gái, và gọi cảnh sát là bọn ác nhân cùng nhiều kẻ ác trên đời
hãm hại hắn, đến nỗi lúc này hắn phải trốn vào rừng rậm núi cao. Sau khoảng một
giờ thẩm vấn, hắn bỗng kêu rít lên, mắt mũi trợn ngược toàn thân co giật, sùi
bọt mép rồi ngã lăn ra. Nhân viên cấp cứu đã tiêm thuốc an thần làm dịu cơn
điên, đồng thời phát hiện thấy hắn bị huyết áp cao và điện tâm đồ bất thường,
bèn đưa vào bệnh viên Phổ Nhân để theo dõi.
Ngày 27 tháng Tư, tỉnh dậy
sau vài giờ hôn mê, Mễ Trị Văn có thể trả lời thẩm vấn của công an một cách
bình thường. Hắn khai họ tên là Mễ Trị Văn và đọc thuộc lòng số chứng minh thư.
Nhưng khi hỏi về vụ cưỡng dâm bất thành tối hôm trước thì hắn đáp không nhớ rõ,
nhưng vẫn nói đúng họ tên cô gái kia, và bảo đó là bạn gái của hắn, hắn mò vào
để đưa cô ta cùng bỏ trốn. Hắn nói, vì hai người tuổi tác quá chênh lệch nên
rất nhiều người không bằng lòng hắn và cô ta yêu nhau, định giết hắn. Công an
lại hỏi hắn có quen người họ Vu kia không, hắn nói là không. Hồi 14 giờ ngày
27, bác sĩ phó chủ nhiệm Đằng Lương Tuấn tham gia hội chẩn ở bệnh viện Phổ Nhân
chẩn đoán hắn bị tâm thần phân liệt, kê đơn điều trị bằng Chlorpromazine và đề
nghị cho nhập viện chữa bệnh thần kinh.
Ngày 29 tháng Tư, sau khi đã
xử lý các vấn đề về tim mạch, bệnh nhân đồng ý nhập viện điều trị. Vì không có
ai thân thích nên hắn tự chi trả mọi phí tổn y tế.
…
Mễ Trị Văn là người như thế
nào?
Nói cách khác, lão là một
bệnh nhân như thế nào?
20 năm trước, cưỡng dâm bất
thành rồi nhập viện, bản thân chuyện này đã chứa đựng nhiều điều kỳ quái. Tại
sao lão tự xưng mình mang họ Vu? Tại sao hôm sau lão trở lại bình thường và nhớ
ra họ tên thật của mình? Lão bị tâm thần phân liệt, có kèm theo chứng phân liệt
đa nhân cách không? Hình như lão có khuynh hướng rất mạnh muốn trở thành một
người khác. Giống như lão nhất quyết cho rằng mình là “đại sư Thương Hiệt”. Lão
và cô gái tố cáo lão xâm hại tình dục có mối quan kệ gì không? Quan hệ như thế
nào? Trí óc lão đã rối loạn, sao lão lại chủ động chấp nhận điều trị ở Tổng
viện thần kinh bằng tiền túi? Một kẻ lang thang không nghề nghiệp, làm gì có
tiền dành dụm?
Hồ sơ bệnh án này hầu như có
thể phủ định khả năng Mễ Trị Văn là hung thủ của vụ án “ngón tay khăn máu”.
Hung thủ vụ án “ngón tay
khăn máu” gây án hơn 30 năm ròng rã với ít nhất mười vụ trọng án mà chưa từng
bị tóm. Mễ Trị Văn động cỡn giở chứng một lần không thành đã bị bắt; so với kẻ
giấu mặt kia quả là khác nhau quá xa về tay nghề tội phạm.
Tuy nhiên, Na Lan tin ở trực
giác của mình, tin ở nỗi sợ hãi sâu xa vào lần đầu giáp mặt Mễ Trị Văn.
Một tên tội phạm có đầu óc
có thể dùng tiền sự phạm tội dường như rất thiểu năng của mình để đánh lạc
hướng cảnh sát, nhằm che đậy vụ án nghiêm trọng hơn mà hắn gây ra.
Dù bề ngoài trông yếu ớt, hồ
sơ bệnh án thì sơ sài đến mức vô dụng, Mễ Trị Văn vẫn gây cho Na Lan cảm giác
lão chỉ là kẻ thâm hiểm thạo ngón nghề che giấu tội ác. Lão không chỉ là một
người điên có khuynh hướng bạo lực khi cuồng nộ mà còn là một kẻ ác.
Cô giáo Đổng Bội Luân có thể
làm chứng.
Các tài liệu trinh sát hình
sự vẫn lưu giữ vài trường hợp bệnh nhân tâm thần phân liệt phạm tội một cách có
ý thức. Thực tế là nhiều tội phạm mắc chứng tâm thần phân liệt đã lên kế hoạch
chặt chẽ và lựa chọn kỹ đối tượng trước khi gây án, thậm chí có kẻ bố trí được
cả chứng cứ ngoại phạm, sau khi hành hung, tiền sử tâm thần phân liệt sẽ trở
thành tấm khiên gỡ tội cho họ. Liệu Mễ Trị Văn có phải là một cao thủ như thế
không?
Trong lúc đọc tài liệu, thì
thoảng Na Lan lại nhìn xuống tờ giấy “thiên thư của Thương Hiệt” đặt dưới cuốn
sổ tay.
Tại sao lão nói chỉ cô mới
giải mã được?
Đại sư Thương Hiệt, đành làm
ông thất vọng vậy, tôi không có chút manh mối nào cả.
Trời sập tối lúc nào chẳng
biết, đến khi đói bụng, Na Lan mới nhận ra thời giờ trôi đi quá nhanh. Cô vội
vã rời khỏi thư viện. Mưa vẫn rơi không mệt mỏi.
Ký túc xá vắng ngắt, Đào Tử
vẫn chưa thấy mặt. Gần đây cô bạn cùng phòng này bận yêu, phải nửa đêm mới về.
Na Lan đã phải nghĩ rằng sớm muộn gì Đào Tử cũng rời ký túc xá và dọn đến một
chung cư tình yêu.
Tối nay cô lại một mình một
bóng và úp mỳ ăn vậy.
Một buổi tối như thế này,
điều cô trăn trở đã lâu lại trỗi dậy, có nên đón mẹ về Giang Kinh này ít hôm?
Mẹ cô mắc chứng trầm cảm khá nặng, hồi học đại học cô từng đến đón bà về đây,
thuê một căn hộ chung cư nho nhỏ gần trường, hai mẹ con sống bên nhau bốn năm
trời. Khi cô tốt nghiệp đại học, tình trạng của mẹ đã chuyển biến tốt, bà lại
trở về quê, một thị trấn khai thác mỏ sắt ở Tứ Xuyên.
Năm năm trước đón mẹ về là
vì sức khỏe của bà, nay là vì cô mong có bà ở bên.
Lẻ loi đơn chiếc là cuộc
sống hiện tại của cô, nhưng không phải cuộc sống mà cô mong muốn. Có lẽ tiềm
thức thúc giục cô chuyển hướng suy nghĩ, cô bất giác cầm tờ giấy viết chữ của
Mễ Trị Văn lên. Đường nét vặn vẹo y hệt những câu nói rắc rối của lão, càng
nhìn càng thấy như thể nó định kéo cô xuống một cái hố tối tăm chằng chịt.
Khi nỗi quạnh quẽ và sợ hãi
mơ hồ kéo đến, Na Lan lại nhớ tới người bạn trai cũ Cốc Y Dương năm ngoái đã bỏ
mạng trong hẻm núi tuyết vì cô, cũng nhớ Tần Hoài đã lẳng lặng từ biệt cô, nhớ
cái lần hai người quấn lấy nhau trong một nụ hôn sau khi trải qua cơn sinh tử.
Gần hai năm trời, chuyện rõ rành như mới hôm qua mà cũng vời vợi như đã xa cả
kiếp, cảm giác mất mát hẫng hụt không sao diễn tả nổi.
Như thể có người nghe thấu
tâm tư của cô, di động bỗng đổ chuông trong căn nhà tĩnh mịch.
Na Lan nhìn màn hình, tim cô
đập nhanh.
Tần Hoài!
Cô đờ đẫn nghe tiếng chuông
lặp lại không biết chán giai điệu Khúc nhạc buồn của Chopin, nhìn màn hình
không nhừng nhấp nháy, mãi vẫn không bắt máy. Liệu có phải mình sinh ảo giác
không?
Cuối cùng, cô cũng cầm máy
lên nghe.
Nhưng ở đầu dây bên kia, chỉ
là im lặng.
Khúc đệm
Quảng Châu, ba giờ trước.
Buổi tối mùa xuân ở Dương
Thành tuyệt vời hơn hẳn ở Bắc Kinh, không có bão cát, không có rét nàng Bân,
chỉ có lồng lộng gió ấm làm say lòng người. Trong không khí rất hài hòa, cô gái
đã uống hai li rượu vang, đôi mắt cô lim dim dưới ánh đèn mờ tối và êm dịu, cô
gần say thì phải?
Nhưng không, cô không thể
say, vì đêm nay cô phải hành động.
Cô đang ngồi trong quán bar
có tên là Nhã Vận, một trong những quán bar đẳng cấp nhất theo ý cô. Trang trí
thiết kế của quán không có quá nhiều điểm đặc sắc đáng khen, với con mắt không
nhà nghề thì thậm chí nó quá đơn giản, nhưng nhờ nằm trong một con ngõ thanh
vắng tách hẳn dãy phố bar của đường Hoàn Thị, là chút yên tĩnh giữa bao nhộn
nhạo, nên gần đây thu hút được khá nhiều vị khách tao nhã. Họ cho rằng quán Nhã
Vận thú vị ở chỗ đơn giản, đơn giản mà không tầm thường, đèn chiếu sáng và cốc
chén dụng cụ không sặc sỡ nhưng đều là hàng hiệu châu Âu; các đồ trang trí
không nhiều nhưng mỗi thứ đều có xuất xứ bề dày đáng nể; họ không cần số lượng
mà chú trọng chất lượng. Ví dụ cái đài nến xinh xắn đặt trên bàn của cô, nghe
nói nó vốn là của gia đình một vị thượng tá sống ở tô giới Pháp ở Quảng Châu
đầu thế kỷ 20. Tuy không thể khẳng định có đúng thế không nhưng vẫn khiến cho
cái đài nến tinh xảo mà không cầu kỳ này tăng phần giá trị.
Cô nhâm nhi cốc rượu của
mình. Nếu đang ở một quán bar tầm thường nào đó chắc đã có một chàng trai đến
làm quen, nhưng ở quán Nhã Vận này, tuy cũng có những ánh mắt và nụ cười hướng
đến song không thấy cô hưởng ứng thì họ cũng thôi. Cô đến quán bar không phải
để làm một nữ tu thực tập, nếu là một hôm khác thì rất có thể cô cũng xuôi theo
chiều gió mà vui vẻ một đêm.
Tối nay cô phải chờ một
người.
Rốt cuộc người ấy cũng đã
đến.
Mấy ngày không thấy, trông
anh như gầy đi. Cô đã nhìn ảnh anh trên mạng, với mái tóc đen dày, bây giờ thì
anh cắt tóc ngắn, ngắn hơn cả tóc húi cua. Trong ảnh, ánh mắt anh cố tỏ vẻ thâm
trầm và u uẩn, còn anh lúc này lại đầy vẻ phong trần không hề làm bộ làm tịch
gì.
Anh ta là Tần Hoài, nhà văn
với những tác phẩm rất ăn khách.
Qua mạng và qua Na Lan, cô
đã biết rất nhiều về Tần Hoài, một gã có duyên với phái đẹp, từng có tiếng là
gã chơi bời… nhưng tất cả đều không đúng, thực ra anh là một con người rất giàu
tình cảm. Nhớ đến Na Lan, cô cười khẩy. Cô cũng có chất như Tần Hoài, cô rất có
duyên với nam giới và rất tự tin mình rất hiểu đàn ông, khác xa với Tiểu Long
Nữ Na Lan giữ mình trong sáng cứ như sống trong tháp ngà, cô tin rằng gã đàn
ông nào chẳng thích chơi bời và háu gái? Nói là nặng tình này nọ chẳng qua chỉ
là cách nghĩ đơn phương của Na Lan, cô ta cho rằng mình rất hiểu Tần Hoài.
Chắc Na Lan chưa tin chứ gì?
Tôi sẽ thử, rồi cô sẽ thấy ngay thôi.
Ánh mắt đa tình của Tần Hoài
đã lướt đến cô. Cô cười thầm, sắc mặt tỏ ra nghiêm trang thậm chí hơi buồn bã
một các vừa đủ độ, chỉ cần đừng giống như ai oán. Cô không chủ động lên tiếng,
cô tin rằng Tần Hoài sẽ phải chú ý đến cô và sẽ đến bắt chuyện với cô. Cô tin
chắc như vậy.
Cô là Mục Hân Nghi.
Cách đây hơn một năm, ở khu
trượt tuyết dưới chân núi Trường Bạch, Hân Nghi đã “có duyên nợ” với Na Lan. Vì
muốn độc chiếm La Lập Phàm, cô đã giết Thành Lộ vợ của La Lập Phàm và cũng là
chị họ của Na Lan. Cô tưởng mình đã làm rất kín kẽ không hề sơ sẩy nhưng vẫn bị
Na Lan khám phá ra, rồi gần như dồn cô đến chỗ phải bỏ mạng dưới khe núi tuyết
ở Trường Bạch. May mà thể lực cô rất tốt, cô vẫn sống sót rồi thoát ra khỏi
miền đất băng tuyết ấy, trở về đô thị đầy cám dỗ. Cuộc sống của Hân Nghi khi
trước làm càn ở khu trượt tuyết, giờ đây thì tìm lạc thú ở chốn thị thành.
Mười bốn tháng trôi qua,
nhưng đến nay cô vẫn thường xuyên nhớ đến La Lập Phàm, người đàn ông duy nhất
khiến cô thực sự rung động. Đến nay chính cô cũng không thể nói rõ tại sao mình
lại yêu người ấy. Có lẽ vì anh tinh khôn tháo vát, hoặc vì anh rất tự tin, hoặc
vì anh cũng cứng đầu như cô. Khi xưa anh đã không biết mệt mỏi, hết lòng theo
đuổi cô, nên cô mới bất chấp sự tồn tại cả Thành Lộ, bằng lòng cùng anh lao vào
lưới tình. Rõ ràng là một người chỉ hay làm nũng và láu cá khôn vặt như Thành
Lộ không thể xứng với La Lập Phàm. Nhưng thế giới này chẳng phải là một nơi
cạnh tranh rất không công bằng hay sao?
Cho đến nay cô vẫn chưa biết
rõ ai đã giết La Lập Phàm. Nhưng những điều này không quan trọng nữa, mà quan
trọng là Na Lan đã hủy hoại cuộc sống của cô, biến cô thành kẻ tội phạm phải bỏ
trốn, cô chỉ có thể lén lút sống vật vờ trong màn đêm ở nơi cách xa Bắc Kinh.
Sau một năm dần dần tạm ổn định, cô bắt đầu nung náu việc trả thù Na Lan.
Kể ra thì cứ đến thẳng Giang
Kinh giết luôn Na Lan là cách trả thù đơn giản dễ làm nhất, nhưng lại là cách
trả thù ít khoái cảm nhất, ở tầm thấp nhất và rất không hả dạ! Trả thù đẳng cấp
cao, là phải khiến con bé Na Lan sống còn khổ hơn chết!
Cho nên mục tiêu của Hân
Nghi là nhắm đến Tần Hoài.
Lúc này kế hoạch của cô đang
tiến gần đến thành công. Ánh mắt của Tần Hoài lướt đến, chính anh ta tự đề xuất
một cuộc hẹn chết chóc.
Đừng cho rằng kế hoạch của
cô là giết Tần Hoài, làm thế thì lại tầm thường và quá đơn giản.
Đã một tháng nay Hân Nghi
quan sát Tần Hoài từ cự li gần, cự li xa, chưa thấy anh ta chủ động bắt chuyện
với bất cứ cô gái nào. Dù ở khách sạn hay quán bar luôn có một số thiếu nữ nhận
ra anh ta và chủ động mơn trớn nhưng anh ta đều mỉm cười né tránh, chắc sợ có
thêm các cô gái dính đến anh ta rồi sẽ gặp bất hạnh. Người ta chẳng vẫn đồn
đại, “gặp Tần Hoài lỡ cả một đời” đấy thôi, vợ anh ta mất, Ninh Vũ Hân và Na
Lan cũng chẳng ai được hạnh phúc. Có thể anh ta vẫn còn vương vấn Na Lan, nhưng
đấy là chuyện chẳng ai chắc được?
Đúng lúc cô cố ý nhìn xuống
ly rượu thì Tần Hoài bước đến.
Cô vốn cho rằng mình đã qua
cái thời con gái lần đầu thổn thức, mình đã biết đủ hạng đàn ông, nhưng Tần
Hoài bước lại vẫn khiến tim cô đập nhanh.
“Tôi ngồi cùng được không?”
Tần Hoài hỏi.
Hân Nghi mỉm cười gật đầu,
“Đương nhiên! Hậu quả ra sao anh tự chịu trách nhiệm.”
Tần Hoài nói, “Cô nên hiểu
cho, tôi chẳng có ý gì khác, tôi cảm thấy mình đã hiểu về cô nên tôi mới yên
tâm tìm chô để nói chuyện…”
Vẻ mặt Hân Nghi hơi biến
sắc, “Anh hiểu về tôi ra sao?”
Tần Hoài hình như không nhận
ra vẻ hoang mang của cô, anh thò ngón tay chấm vào rượu vang rồi vạch lên mặt
bài hai nét thành chữ L, rồi nói rất nhỏ, “Cô đến đây đâu phải một hai lần,
quán bar Nhã Vận là nơi như thế nào, cô không thể không biết.”
Hân Nghi gật đầu, “Đương
nhiên có biết nên em mới đến.”
“Đang thất tình à?” Tần Hoài
ăn nói bỗ bã, người ta đồn chẳng sai.
“Có liên quan đến anh chắc?”
Hân Nghi cau rúm mày, cầm ly rượu lên uống một nửa. Cô cảm thấy cay đắng, cô
không chỉ thất tình mà còn vĩnh viễn mất người yêu, sự sống của người ấy đã hóa
thành băng tuyết. “Anh nói là hiểu về em, chắc anh phải biết rằng dù đang cần
được an ủi thì em cũng không tìm anh.”
Tần Hoài không hề tỏ ra khó
chịu vì bị châm chích, trái lại vẫn tỏ ra khiêm nhường, “Quả nhiên anh đã không
nhìn nhầm, em là cô gái phóng thoáng cơi mở. Cho nên anh cứ tự trách mình, mấy
lần trước nhìn thấy em và cô bạn, anh vẫn do dự không biết có nên nhắc nhở em
không, rằng cô gái ấy tuy rất tốt nhưng không nghiêm chỉnh đâu. Chắc em mới đến
Quảng Châu ít lâu? Cô ta lâu nay vẫn có tiếng là chẳng ra gì, chỉ những ai mới
đến đây mới bị mắc lừa.”
“Anh là đàn ông mà cũng đanh
đá ra trò đấy!” Hân Nghi cau mày rõ chặt.
Thực ra Nhã Vận là quán bar
đồng tính rất bí mật, nó khác các nơi khác ở chỗ tiếp đón cả gay lần lesbian,
không có phòng Karaoke, không mở nhạc khiêu vũ, khách vào đây đều là những
người đến để tìm thú vui riêng. Vài lần trước Hân Nghi đến đây và cố ý tìm một
cô gái đầy tai tiếng, đây là lưới giăng của cô, quả nhiên Tần Hoài đã mắc bẫy.
Tần Hoài nói, “Lúc đầu anh
do dự vì sợ em cho rằng anh tọc mạch, bây giờ anh nói thì rõ ràng đã quá muộn;
đúng là tiến thoái lưỡng nan.”
“Anh không cho rằng nếu em
thất tình thì anh sẽ có cơ hội đấy chứ? À, hình như anh toàn đến đây một mình,
liệu có phải anh chỉ muốn mồi chài những ai đau khổ vì thất tình, tâm trạng
không ổn định như em không?”
Tần Hoài lại gọi một ly
rượu. Hân Nghi đã để ý thấy anh ta không hề nhấp tí nào, “rượu” của anh ta thực
ra là nước hoa quả hoặc coca.
Tần Hoài nói, giọng buồn buồn,
“Nếu định tìm lạc thú chơi bời thì anh chẳng đến Nhã Vận này. Anh đến đây là để
tránh những chuyện trai gái… nhưng nếu nói là đi câu thì cũng chẳng sai…” Tần
Hoài thở dài. Vẻ mặt Tần Hoài buồn vui lẫn lộn, anh ta đang nghĩ gì? Có phải
lại nhớ đến cái truyền thuyết cũ kỹ về hồ Chiêu Dương, về người mặc áo tơi câu
tính mạng, rồi câu mất con người quan trọng nhất và đánh mất luôn cả hạnh phúc
của đời mình? “Anh đến để câu những cô gái như em… anh thấy em là con người có
vô số câu chuyện… như lời một bài hát cách đây nhiều năm.”
Hân Nghi thầm cảm thấy cay
đắng. Đúng, tôi có vô số câu chuyện, hơn một năm trước, đau khổ vì tình, rồi
giết chóc, rồi chạy trốn… còn hay hơn nhiều so với anh đóng cửa ngồi nhà mà hư
cấu. Cô giả bộ kinh ngạc, “Sao… anh lại biết được? Thực ra anh là ai… em có
quen anh không nhỉ?”
Tần Hoài dịu dàng nói, “Đừng
lo gì. Anh chưa từng quen em.”
“Hay là tại gần đây em hơi
nhạy cảm, bị anh lèo mấy câu đã cảm thấy hình như mình đã gặp anh ở đâu đó.”
Bàn tay vô hình của Hân Nghi đã kéo Tần Hoài nhập vai.
Tần Hoài nói, “Anh chuyên
viết tiểu thuyết, tiểu thuyết hạng tầm tầm, cảm hứng thì chẳng có, vốn liếng
cũng đã cạn nên anh muốn được nghe những chuyện của người khác. Nếu em không
ngại chia sẻ thì anh rất cảm ơn.”
Một cái cớ quá tốt. Hân Nghi
biết ý đồ của Tần Hoài là ở chỗ khác nhưng không sao, bẫy giăng của cô đã thành
công, cô đã khiến Tần Hoài phải chú ý rồi muốn giao lưu với cô; tiếp theo, cô
phải khống chế được tình hình. Cô vùng vằng tức tối ra mặt, “Tức là anh định
dùng những chuyện riêng tư của em để kiếm tiền? Mặt bằng đạo đức của anh thật
kỳ quặc khó lường!”
“Anh rất thành thật mà! Anh
xin nói trước, nội dung các lần chuyện trò của chúng ta sau này rất có thể sẽ
gợi mở cho một cuốn tiểu thuyết. Nếu em muốn tìm người để thổ lộ thì anh sẵn
sàng lắng nghe... và không đòi em nộp phí tổn, tức là rất vì lợi ích cộng đồng.
Huống chi...” Tần Hoài cầm cốc coca mới bưng lại, làm một hơi uống cạn. “Anh
cũng có vô số chuyện chua chát muốn thổ lộ, đáng ra nên nói ra từ lâu nhưng anh
vẫn cố nén chịu, nhưng đến hôm nay thì anh không kìm nén nổi nữa, nếu cứ kìm
nén e sẽ mất cơ hội. Cho nên hai ta hãy thỏa thuận, sẽ uống cho thật say và cởi
mở với nhau. Em nghĩ sao?”
“Em nghĩ, đầu óc anh có vấn
đề, khá nặng đấy!” Hân Nghi lắc đầu than thở, “Em uống hơi nhiều nhưng chưa lú
lẫn đến nỗi tâm sự chuyện riêng tư với một người lạ. Anh nói là uống cho thật
say nhưng anh chỉ uống coca! Anh cho rằng em là con dở hơi chắc!”
Tần Hoài nói, “Anh dị ứng
với chất cồn, nhấp một ngụm là say, em chưa tin thì anh có thể cho em xem y
bạ... Em không muốn trò chuyện với anh cũng không sao, anh sẽ đi, nhưng trước
khi đi anh muốn hỏi em một câu, những điều không bao giờ nói và cũng rất khó mở
miệng, nên kể cho người quen, người thân, người yêu nghe hay nên kể cho người
lạ nghe thì hơn?”
Hân Nghi im lặng, nhấp một
ngụm rượu chua chua ngòn ngọt, ngẫm nghĩ câu hỏi của Tần Hoài. Có hai cô gái
rất xinh sánh vai nhau bước vào, đi đến bàn bên cạnh rồi ngồi xuống. Dưới ánh
nến đỏ hồng, hai cô gái ngồi đối diện đắm đuối nhìn nhau, ríu rít trò chuyện
như đôi chim én dịu dàng thỏ thẻ. Ánh mắt Hân Nghi ngưỡng mộ nhìn sang họ, họ
cũng nhìn lại cô dường như đang hỏi, đôi nam nữ kia sao thế? Họ vào nhầm nhà
chắc? Có biết đây là đâu không?
“Này anh chàng lạ mặt, xin
hỏi anh...” Hân Nghi đã bị thuyết phục, cô hỏi Tần Hoài. “Chúng ta nên đến đâu
để nói chuyện?”
Trong căn hộ chung cư của
Tần Hoài, cuộc trò chuyện lan man đã kết thúc, bây giờ là bước then chốt. Nhìn
Tần Hoài mặt đỏ phừng phừng nằm vật trên giường, Hân Nghi cười tủm tỉm và bắt
đầu cởi quần áo. Cô từng dự tính khối cách để hạ gục Tần Hoài, bằng thuốc mê,
bằng ma túy, thuốc kích dục... nhưng lúc này khỏi cần nữa! Hai người xa lạ trao
đổi tâm tình với bao chuyện buồn thương, cuối cùng gần như đã hòa làm một. Ngày
trước Hân Nghi sở trường về tiếp thị dược phẩm rất thành công, thành công đó
không phải ngẫu nhiên, cô có thể nhanh chóng kết thân với bất cứ ai trong bất
cứ hoàn cảnh nào, điều này Na Lan đã từng được lĩnh giáo. Hân Nghi nói trong
men say, chúng ta đã rất cởi mở rồi, vậy nên uống một chén! Anh nói là ta phải
uống cho thật say kia mà? Uống xong, anh cứ việc say, còn em thì đã say nhưng
vẫn có thể ra cửa gọi taxi để về. Tần Hoài hơi do dự nhưng lại nghĩ Hân Nghi
nhóc con mới thất tình, cô ta chẳng thể làm gì khác, bèn nói, anh uống vào sẽ
say luôn, nếu em thấy khuya quá không về được thì có thể ngủ lại ở phòng bên
cạnh - phòng của cô em gái đang nằm viện điều trị thỉnh thoảng mới về.
Rồi Tần Hoài uống và say
thật.
Màn hình chiếc laptop để
trên tủ đầu giường vẫn sáng, lúc nãy Tần Hoài dùng nó để ghi lại các “câu
chuyện” của Hân Nghi, lúc này webcam trên máy vẫn đang hoạt động. Hân Nghi
chỉnh góc độ, rồi mỉm cười với ống kính, hình ảnh trông rất được.
Cô cầm di động của Tần Hoài
lên tìm số máy của Na Lan. Cô sẽ gửi một tin nhắn cho Na Lan, để cô ta mở mạng
chat QQ tìm Tần Hoài, mở video, cô sẽ cho Na Lan được ngắm cảnh thực sự của cô
cùng Tần Hoài say sưa ra sao, đến lúc cao trào, cô sẽ chụp cái gối lên mặt Tần
Hoài cho đến khi anh ta đi đời nhà ma!
Việc năm xưa cô đã làm không
thành công trong căn nàh nhỏ ở núi tuyết, thì nay cô đã có cơ hội mới. Cô sẽ
bắt Tần Hoài đi vào giấc ngủ vĩnh viễn, khiến cho Na Lan phải đau khổ cả đời.
Như thế mới là cuộc trả thù
đỉnh cao.
Hân Nghi muốn xem thử Tần
Hoài đã thực sự mất tri giác bất lực thạt chưa, cô hất hai cánh tay của anh ta
ngược lên phía đầu giường, bố trí tư thế chiếm đoạt. Đồ nhãi con Na Lan hãy
thưởng thức đi!
Đúng là Tần Hoài đã say bí
tỉ, hai tay bị Hân Nghi ném lên đầu giường đập mạnh vào vật cứng bên cái gối mà
anh ta không phản ứng gì. Vật cứng đó là cuốn sách “Kính Hoa Nghiêm đồ giải”.
Hân Nghi hiếu kỳ mở ra nhìn, cười nhạt, “Sách nhập môn Phật giáo! Anh ta rất
hay đến hiệu sách của bọn gay, thì ra anh ta đã từ bỏ ham muốn trai gái! Thế
thì tôi sẽ cho anh được thỏa nguyện.” Hân Nghi thấy một cái bì thư kẹo trong
cuốn sách, ghi là “Người gửi, Chùa Hoa đô Pháp Vân Quảng Châu; người nhận, Cư
sĩ[1] Tần Hoài”.
[1] Người tu tại gia.
Cô rút thư ra xem, chỉ là tờ
giấy in vài dòng chữ, đọc xong cô giật mình.
Đó là một tờ thông báo, chùa
Pháp Vân chính thức thu nhận Tần Hoài là đệ tử Phật môn, ấn định ngày 27 tháng
Ba sẽ xuống tóc. Tức là hai ngày nữa.
Chả trách anh ta không nén
nổi muốn thổ lộ cho người lạ nghe mọi chuyện đắng cay của trần ai thế tục, vì
hai ngày nữa anh ta sẽ đoạn tuyệt với những chuyện này!
Thấy thế, Hân Nghi nảy ra ý
nghĩ, ngày “dâm sát” Tần Hoài sẽ hoãn lại, viêc trả thù Na Lan sẽ nhẩn nha tiến
hành, cứa thịt cô ta bằng dao cùn thì vui biết mấy!
Hân Nghi cảm thấy sung sướng
và rất hài lòng. Cô rất muốn chia sẻ ngay niềm vui, bèn bấm số gọi Quảng Châu.
Người nhận, đầu dây bên kia là một giọng run run rất đáng thương, “A lô...” Tim
cô như muốn tan chảy nhưng cô chỉ mỉm cười, im lặng.
Chương 9: Kỳ Nhân Suy Luận
Nhìn quầng thâm dưới mắt Na
Lan, Ba Du Sinh lựa lời hỏi, “Chắc đêm qua ngủ không ngon giấc? Vẫn vì cái chữ
của Mễ Trị Văn à?” Từ hôm lão nhắc đến tên Na Lan, anh đã cảm thấy không nên để
cô tham gia điều tra vụ án này, nhưng lại không còn lựa chọn nào khác.
Na Lan lắc đầu, “Không hoàn
toàn.” Cô rất muốn nói, còn vì nhận được điện thoại của Tần Hoài. Nếu Ba Du
Sinh quan tâm hỏi thêm câu nữa thì có lẽ cô đã kể thật. Nhưng lúc ấy một viên
cảnh sát tên là Vương Đồng lại bước vào phòng làm việc của Ba Du Sinh rồi tiện
tay khép cửa lại, vậy là cơ hội để nói đã trôi qua.
“Nhân viên kỹ thuật của
chúng ta tạm thời không thể giải được chữ ấy.” Ba Du Sinh vào đề luôn. “Chúng
tôi đã hỏi ý kiến vài chuyên gia về văn tự cổ, họ đưa ra mọi lý luận và suy
diễn, nhưng quanh đi quẩn lại kết quả vẫn vậy, không thể xác định được mối liên
hệ giữa con chữ và vụ ‘ngón tay khăn máu’, cho nên mấy hôm tới đây chúng ta còn
phải tiếp tục đổ công sức khám phá xem sao.”
Na Lan nói, “Em cũng đành
thất vọng về đại sư Mễ Trị Văn vậy! Em chỉ nhận ra bệnh thần kinh của lão rất
nặng chứ không thể nghĩ ra tại sao con chữ ấy lại dẫn chúng ta tìm đến nạn nhân
thứ nhất trong vụ ‘ngón tay khăn máu’.” Không hiểu sao vừa nhắc đến bệnh thần
kinh, Na Lan lại nghĩ về cú phôn không lời của Tần Hoài. Anh ấy định làm gì?
Thần kinh có bình thường không? Hay là định giày vò cô đến suy nhược thần kinh?
Vương Đồng đưa cho Ba Du
Sinh một thứ giấy tờ, nói, “Tư liệu nằm cả ở đây, tôi đã xem và không thấy có
vấn đề gì.”
Ba Du Sinh toan nói, nhưng
thấy ánh mắt Na Lan khang khác, anh chờ một lát rồi khẽ gọi, “Na Lan!” Cô sững
sờ, biết mình đang mất tập trung, cô mấp máy nói, “Xin lỗi, em lơ đãng quá!”
“Anh muốn cô cầm tờ giấy có
cái chữ của Mễ Trị Văn đem đến cho một người. Người ấy là ai... thì để anh kể
cô nghe một vụ việc có thật. Chắc cô còn nhớ hồi ‘vụ án năm xác chết’ kết thúc,
anh chưa viết xong báo cáo thì đã phải lao ngay vào một vụ án động trời?”
Na Lan nghĩ ngợi giây lát,
rồi nói, “Hồi đó em về quê nghỉ hai tuần... à, nhớ ra rồi, đó là vụ quản lý cấp
cao của tập đoàn Vạn Trúc cắt động mạch cổ tay tự sát trong phòng làm việc của
mình.”
“Người vợ khăng khăng rằng
chồng mình không tự sát nhưng lại không thể chứng minh, thoạt đầu, chị ta có vẻ
không đáng tin, lượng thông tin cũng quá ít.”
Na Lan đã thực sự nhớ ra,
“Vì chị ta không biết chồng mình đang nuôi ít ra là ba, bốn, năm... à, rất
nhiều bồ nhí!”
“Ở hiện trường không có dấu
vết vật lộn, nhưng có một bức thư tuyệt mệnh, viết là mình biển thủ công quỹ để
buôn bán nhà đất, rồi mắc nợ đầm đìa, bế tắc không làm gì được, anh ta có lỗi
với tổng giám đốc và anh em nhân viên... Thư viết tay, các chuyên gia đã giám
định đúng là chữ anh ta, còn đóng dấu riêng của anh ta hẳn hoi. Con dấu ấy luôn
được cất trong két bảo hiểm của gia đình, ngay chị vợ cũng không thể đụng đến,
điều này giúp khẳng định đúng là thư do anh ta viết.”
Na Lan nghĩ ngợi rồi nói,
“Dù bút tích là chính xác, dù con dấu là duy nhất, cũng không thể khẳng định
100% là tự sát. Rất có thể vì bị ép buộc mà đương sự phải làm những việc trái
với lòng mình.”
“Không loại trừ khả năng
này, nhưng cũng khó mà định hướng vụ án là bị sát hại. Anh vẫn ngờ ngợ cho nên
chưa kết luận đó là tự sát.”
Na Lan nhớ đến một số tình
tiết, “Nghe nói anh cũng chịu áp lực... Bàn tay của tập đoàn Vạn Trúc vươn khắp
nơi, họ muốn nhanh chóng kết luận đó là vụ tự sát để giảm bớt các ảnh hưởng
tiêu cực và liên lụy...”
Ba Du Sinh không tỏ thái độ
gì, chỉ nhìn Na Lan như muốn hỏi, cô nghe ai đồn đại thế? Nhưng cuối cùng lại
nói, “Ai cũng biết anh có một tật xấu là, với những vụ án còn nghi vấn, anh
không thể tùy tiện kết luận cho gọn chuyện. Cho nên các cấp trên dưới ở Sở cũng
chẳng làm gì được anh. Câu chuyện ngắn gọn là thế này, anh có nhận được một bức
thư, không phải email cũng không phải tin nhắm, mà là thư viết tay. Người viết
thư cho biết ông ta hay nghiên cứu tìm tòi, luôn nể phục công an Giang Kinh tài
ba, đọc báo hay tin vụ án tự sát bí hiểm có liên quan đến bút tích và con dấu
kia, nên muốn đóng góp chút công sức về mặt kỹ thuật. Anh bèn cầm lá thư tuyệt
mệnh đến nàh cộng tác viên bí hiểm nọ. Ông ta phân tích bức thư mất hai tiếng,
sau hai tiếng ấy anh tin rằng phải xử lý như vụ mưu sát, đồng thời cũng có ngay
mục tiêu về nghi phạm. Kết quả cuối cùng chắc cô đã biết rồi.”
Na Lan gật đầu trầm trồ,
“Các anh khui ra một công ty đã lợi dụng tập đoàn Vạn Trúc và viên quản lý kia
nhằm gom tiền phi pháp để rửa tiền... hình như đó là công ty Vượng Giang Trí
Nghiệp, đúng không? Trước khi rút toàn bộ vốn ra khỏi Giang Kinh rồi chạy sang
New Zealand chúng giết viên quản lý này để bịt manh mối, dĩ nhiên còn uy hiếp
anh ta phải viết thư. Anh ta có một vợ, hai con và ba người tình, quá nhiều
ràng buộc đòi hỏi anh ta phải có trách nhiệm, dù phải hi sinh bản thân, nên anh
ta đành làm theo ý bọn chúng. Anh tiết lộ xem, trong bức thư tuyệt mệnh ấy có
manh mối gì?”
Ba Du Sinh mỉm cười, “Anh
phải khen ông ta một câu đã, ông ta là bậc kỳ tài thứ thiệt!”
“Quen anh đã lâu, lần đầu
tiên nghe thấy anh khen người ta là kỳ tài thì chắc chắn là bậc kỳ tài thật
rồi!” Na Lan không thể không nhận ra mình đang hết sức tò mò.
“Ông ta cầm bức thư ấy lên,
nói ‘anh sẽ phải ngồi chờ khá lâu đấy’. Rồi đọc từng chữ một. Tất nhiên các anh
em ở phòng kỹ thuật đã đọc rất kỹ nhưng không phát hiện ra bất cứ điều gì. Sau
đó ông ta dựng tờ giấy lên xoay trên xuống dưới dưới lên trên rồi đọc, cuối
cùng ông ta lấy cái thước gỗ chặn ngang chặn dọc chéo che bớt một số chữ để
đọc. Sau đó rất lâu, ông ta mới ngẩng lên nói ‘ở đây còn có cả tên nghi phạm
trong vụ án mưu sát này’. Ông ta dùng bút chì khoanh chữ ‘tôi’ ở dòng thứ nhất
của bức thư, sau đó khoanh chữ ‘tôi’ ở dòng thứ hai hơi chếch sang bên; ở dòng
thứ ba, ông ta khoanh chữ ‘bị’ và chếch sang bên lại khoanh chữ ‘hại’.” Ba Du
Sinh ngẩng nhìn Na Lan.
“Tôi bị hại!” Na Lan khẽ kêu
lên. “Trong tình thế bị ép buộc phải viết mà vẫn dùng được mật mã, anh ta quá
thông minh!”
Ba Du Sinh cười, “Ta nên
khen phò mã tốt áo một câu, nạn nhân tốt nghiệp Đại học Thanh Hoa, chưa đầy 35
tuổi đã ngồi ghế quản lý cấp cao của tập đoàn, nghe nói anh ta còn là nhà thơ
nghiệp dư và đã lập trình được một trò chơi diện tử gì đó... chỉ số IQ không hề
thấp đâu!”
Na Lan hơi kinh ngạc, “Có
lẽ, bậc kỳ tài đọc thư ấy là nhà tiên tri, tin rằng nạn nhân đã để lại mật mã
trong bức thư?”
“Cho nên mới gọi đó là bậc
kỳ tài! Trước khi liên lạc với anh, ông ta đã nghiên cứu toàn diện về nạn nhân,
thậm chí nghiên cứu cả thơ và logic phần mềm trò chơi của anh ta, rồi rút ra
hai kết luận. Kết luận thứ nhất cũng giống ý kiến của chị vợ, tức là với cá
tính ấy, khả năng anh ta tự sát là cực thấp; con người đó thích phiêu lưu mạo
hiểm, năm 28 tuổi và năm 31 tuổi đã hai lần thất bại trắng tay, một lần suýt bị
đưa ra truy tố, nhưng đều không suy sụp, còn tiếp tục vươn lên được. Hai là,
anh ta thông minh tuyệt đỉnh, biết mình chỉ còn đường chết nhưng không ngoan
ngoãn chấp nhận, mà quyết không để hung thủ được sống yên ổn, cho nên rất có
khả năng anh ta đã cài thông tin ở trong bức thư cuối cùng này.”
Na Lan, “Anh nói tiếp đi!
Sau ‘tôi bị hại’ còn có nội dung gì nữa?”
“Tiếp đó bậc kỳ tài ấy
khoanh thêm hai chữ ‘Vương’ và ‘Giang’.”
“Vương Giang, Vượng Giang?!
Anh ta đã rất khéo dùng cách đọc chệch âm. Nếu viết thẳng chữ ‘Vượng’ thì hung
thủ sẽ phát hiện ra... Nhưng trong bức thư tuyệt mệnh thì khó mà đưa chữ
‘Vương’ vào, trừ phi nhắc đến một ai đó họ Vương.”
Ba Du Sinh lại mỉm cười, “Đó
mới là chỗ cao siêu của con người thông minh, và cũng là kỳ tài trong kỳ tài!
Cô nói đúng, thực ra cả bức thư không hề có một chữ Vương. Bây giờ anh gợi ý
cô, cái câu được bậc kỳ tài nhận ra chữ ‘Vương’ là ‘Hiện nay tôi đã đi vào ngõ
cụt’.”
Na Lan ngẫm nghĩ một lúc,
rồi nói, À, chữ ‘Hiện’ tách ra được chữ Vương và chữ Kiến.”
Ba Du Sinh cười, “Nếu đứng
trước bậc kỳ tài ấy thì cô đừng nói thế, mà phải nói là ‘được chữ Ngọc và chữ
Kiến’ mới đúng[1].”
[1] Chữ Hiện, gồm bộ Ngọc
ghép với chữ Kiến, khi nằm trong bộ thì chữ Ngọc và chữ Vương viết giống nhau.
Na Lan trố mắt, “Thật mưu
trí và tài tình mới nghĩ ra cách đó!”
“Điều tuyệt với nhất là tại
sao cộng tác viên ấy lại nhận ra!” Ba Du Sinh khẽ lắc đầu, hình như đến giờ anh
vẫn không dám tin. “Cả bức thư, chữ viết rất đẹp, ngay ngắn và đều đặn, riêng
chữ Hiện thì bộ Ngọc bên trái và chữ Kiến bên phải hơi bị giãn ra. Bậc kỳ tài
nói, chữ Vương (tức bộ Ngọc) đáng nghi, và ông ta đã nắm bắt rất chuẩn, đọc các
chữ bố trí chênh chếch như trên đã nói, sẽ được câu ‘Tôi bị Vương Giang hại’.”
“Sau đó các anh sẽ điều tra
xem Vương Giang nào liên quan đến nạn nhân, tất nhiên chỉ khoanh vùng Vạn Trúc
chứ không tính những người dân thành phố trùng tên, rồi điều tra sang công ty
Vượng Giang Trí Nghiệp, cuối cùng phá được vụ án?” Na Lan nói nhẹ như không,
nhưng biết quá trình phá án phải phức tạp hơn nhiều.
Quả nhiên Ba Du Sinh nói,
“Hoàn toàn không đơn giản như vậy. Nếu bậc kỳ tài không tìm ra thêm một manh
mối quan trọng, thì bọn anh đã chậm một bước và con cá mập Vượng Giang Trí
Nghiệp đã lọt lưới,” Na Lan nhận ra hôm nay sư phụ Ba Du Sinh nói năng cứ ngập
ngừng úp mở, chắc anh lại lên cơn bảo mật!
Cô mỉm cười, “Được, em chiều
ý thầy Ba Du Sinh! Manh mối đó thầy đã nhắc ban nãy rồi, đến giờ thầy lại
thôi... con dấu chứ gì!”
Ba Du Sinh cười xòa, “Không
dám không dám! Đừng gọi như thế kẻo anh phải cấm cô gọi anh là thầy! Nhưng cô
đã đoán đúng, một manh mối nữa là con dấu. Anh đưa cho cộng tác viên xem, ông
ta đóng thử, rồi so sánh nó với con dấu đóng trên thư tuyệt mệnh.”
Na Lan sực nghĩ ra, “Đúng là
chuyện lạ. Con dấu được cất trong két ở nhà, nạn nhân thì rạch cổ tay rồi chết
ở phòng làm việc... chỉ có thể coi là vụ tự sát được bố trí từ trước, nạn nhân
viết thư và đóng dấu ở nhà, sau đó đến phòng làm việc để tự sát vì không muốn
căn nhà bị xúi quẩy.”
“Thoạt đầu, cảnh sát hình sự
cũng nhận định là tự sát, rất có lý. Nhưng bậc kỳ tài không chấp nhận. Ông ta
bảo bọn anh thu thập các giấy tờ mà nạn nhân đã từng đóng dấu, rồi lại đóng
thêm hàng chục con dấu ra giấy, lần lượt so sánh với con dấu ở bức thư, cầm
kính lúp soi kỹ... Cuối cùng ông ta nói gì, cô đoán xem?”
Na Lan mỉm cười giả vờ ngô
nghê, “Quả nhiên có chỗ khác lạ...”
“Quả nhiên chúng giống hệt
nhau!”
Na Lan hơi kinh ngạc, nhưng
hiểu ra ngay, “Ông ta nói rằng, thoạt nhìn, có vẻ giống hệt nhau!”
Ba Du Sinh gật đầu, “Các kỹ
thuật viên của Sở cũng kết luận, đó chính là con dấu cất trong két sắt. Nhưng
bậc kỳ tài nói, thoạt nhìn thì giống hệt nhau nhưng không phải do đóng bằng
cùng một con dấu! Nói chung, để giám định dấu son đã triện trên giấy, cảnh sát
phải quan sát thật kỹ từng nét chữ, từng vệt dao khắc trên chính con dấu, xem
có thống nhất với nhau không. Nhưng vị đại sư này còn nghiên cứu những điều bên
ngoài nét chữ. Về con dấu kia, đó là dấu riêng của nạn nhân, nên đã dùng lối
khắc âm rất ít thấy.”
“Tức là dấu đóng ra có nét
chữ rỗng và phần nền đỏ?”
“Đúng! Vị cao nhân chỉ nền
đỏ trên thư tuyệt mệnh, bảo anh nhìn kỹ để so với nền đỏ đóng bằng con dấu
nguyên bản. Anh chẳng thấy gì khác nhau cả, đều là màu đỏ cả. Ông ta đưa kính
lúp bảo anh xem lại, anh cố nheo mắt quan sát hồi lâu mới nhận ra nền đỏ trên
bức thư có chỗ hơi nhạt màu, rất nhỏ, chỉ khoảng hai ba milimet, nhìn bằng mắt
thường thì khó mà nhận ra. Còn nền dấu nguyên bản thì màu đỏ rất đều đặn. Cao
nhân nói, anh nhìn dấu đóng trên bức thư, màu đỏ khá đều tức là người đóng dấu
ấn tay rất đều, nhưng tại sao lại có chỗ hơi mờ rất khó nhận ra? Chứng tỏ vật
liệu dùng để khắc dấu không đạt độ đồng nhất, có tạp chất, độ cứng của tạp chất
và đá khắc là khác nhau, khi day vào hộp mực rồi triện ra giấy, hiệu quả và độ
đậm nhạt sẽ khác nhau. Ông ta giơ con dấu của nạn nhân lên, nói, cái này dùng
đá núi Thọ Sơn để khắc, gọi là đá Điền Hoàng, chất đá tuyệt hảo, chỉ cần ấn đều
tay thì dấu tin ra sẽ không bao giờ có vệt mờ màu. Cho nên, kết luận rằng đã có
kẻ làm giả con dấu của nạn nhân rồi đóng vào bức thư tuyệt mệnh. Con dấu chỉ
dùng một lần rồi vứt, thì không cần dùng nguyên liệu đá quý hiếm, cho nên chất
đá để khắc chỉ bình thường, và như thế, nó để lại manh mối này.”
Na Lan gật gù, “Để bức tử
nạn nhân, chúng vạch kế hoạch thực hiện trong phòng làm việc của anh ta cho
chóng vánh, triện cả vào bức thư để tăng độ chân thực, còn phải làm con giấu
giả để đỡ công tìm cách đến nhà anh ta lấy con dấu. Nhưng chúng không ngờ lại
nảy ra chuyện.”
“Đúng ra là, nếu không có
cộng tác viên bất ngờ ấy thì đến nay bọn anh vẫn rất bí. Nhưng cũng nên khâm
phục mức độ tinh vi xảo quyệt của bọn tội phạm.” Ba Du Sinh luôn sẵn sàng đối
diện với sự thật.
“Việc tiếp theo... để em
đoán xem nào... Chắc là chỉ có vài người làm được con dấu y hệt nguyên bản, cao
nhân đã chỉ cho các anh biết, sau đó các anh lần lượt loại trừ, tìm ra công ty
Vượng Giang và hung thủ?”
Ba Du Sinh gật đầu, “Gần
đúng. Cao nhân kia nói, người khắc triện đạt đến trình độ ấy thường giữ phẩm
cách, không chấp nhận làm giả con dấu của cá nhân nào, chỉ những kẻ tầm thường
hám tiền thì mới nhận làm. Ông ta đã mách bọn anh vài ứng viên. Bọn anh lập tức
tìm đến, gã làm giả con dấu một mực chối cãi, nhưng rồi không thể gan lì mãi,
gã đã khai nhận rằng khách hàng đó do cậu em vợ giới thiệu. Bọn anh lần theo,
tóm được kẻ chủ mưu trong công ty Vượng Giang khi hắn chưa kịp trốn ra nước
ngoài.”
Na Lan im lặng, lòng thầm
thán phục. Ba Du Sinh lặng lẽ chờ đợi. Rồi Na Lan cũng lên tiếng, “Phải đi gặp
cao nhân ấy thôi. Nhưng em đâu có làm về trinh sát hình sự mà anh bảo em cùng đi?”
“Anh không bảo cô cùng đi,
mà là cô đi một mình.”
Na Lan hơi ngạc nhiên, nhưng
cô nhớ ra đúng là lúc trước Ba Du Sinh đã nói thế. “Sao lại mình em đi? Và tại
sao lại là em?” Cô bỗng nhớ lại câu nói quái quỷ của Mễ Trị Văn, chỉ cô mới giả
mã được. Nên cô lại nói, “Em đi cũng được, nhưng tại sao anh không đi? Tại sao
ông ta không thể đến cơ quan công an các anh?” Cô lại nhớ ra rằng lúc trước Ba
Du Sinh nói anh đích thân đến gặp ông ta nhờ giúp đỡ.
“Vị cao nhân ấy... có hoàn
cảnh đặc biệt, không thể ra khỏi nhà, cũng không muốn gặp nhiều người lạ... nói
cho đúng là mỗi lần chỉ gặp một người. Quy tắc của ông ta là thế.”
“Không ra khỏi nhà? Cũng
không gặp người lạ? Sao lại có chuyện như thế được...” Tuy nói vậy, nhưng cô
cũng hiểu rằng thế giới và con người vô cùng đa dạng chứ không phải là một thứ
logic đơn thuần.
Ba Du Sinh chỉ cười, nết mặt
như muốn châm chọc, anh cứ tưởng cô là chuyên gia. Na Lan nói thẳng luôn, “Em
mới học nghiên cứu sinh chưa đầy hai năm, đâu phải chuyên gia? Hay là ông ta...
mắc chứng ‘sợ nơi đông người’?”
“Chẩn đoán rất sáng suốt!”
Ba Du Sinh tán thành.
“Chỉ vì em được gợi ý nhiều
đó thôi. Anh gần như đã cho em câu trả lời rồi! Nhưng, nếu đúng là ‘hội chứng
sợ đám đông’ thì một lang băm như em không có quyền phát ngôn.” Na Lan nói.
“Liệu thầy lang như Du Thư
Lượng có quyền phát ngôn không?” Du Thư Lượng là một trong rất ít chuyên gia
thần kinh học ở Giang Kinh.
“Du Thư Lượng? Lời nói có
sức nặng miễn bàn! Thì ra anh đã đào bới tận gốc rễ bậc cao nhân kỳ tài ấy?”
Ba Du Sinh nghiêm chỉnh nói,
“Không đào tận gốc thì đâu dám đến thỉnh giáo ông ta chuyện cơ mật và những
tình tiết liên quan đến vụ án? Cuộc đời ông ta rất trong sạch, gia đình cũng
thanh bạch...”
“Anh nhất định bảo em đến
một mình à?” Na Lan hỏi lại lần nữa.
“Nếu cô không muốn thì anh
đi. Nhưng chỉ một trong hai chúng ta đến được thôi.”
Na Lan do dự giây lát, rồi
nói, “Được! Em nghe lời sư phụ, em đi để tìm lời giải cho cái chữ mà chỉ mình
em mới gỡ nổi ấy.”
Chương 10: Đến Tìm Đáp Án, Càng Nhiều Câu Hỏi
Bậc kỳ tài mà Ba Du Sinh nói,
tên là Sở Hoài Sơn, ở một căn nàh hai tầng nho nhỏ trong khu tập thể trường
trung học trực thuộc Học viện Âm nhạc khi Văn Viên. Na Lan xuống taxi, đi trong
mưa bụi lất phất vào khu vực rợp bóng cây xanh. Mảnh đất yên bình giữ dòng đô
thị ồn ã khiến cô thích thú, đoán rằng cao nhân kia là một thầy giáo kỳ cựu của
trường trung học trực thuộc Học viện, hoặc là một người rất giàu có thì mới có
thể ờ một nơi dễ chịu như thế này.
Số nhà 85, Ba Du Sinh đã cho
cô biết. Ngôi nhà nhỏ, mặt ngoài tường màu vàng chanh, chắc mới quét vôi lại
cách đây không lâu, bậc thềm lát đá và các góc tường nhà cũng mới sơn, nhưng
vẫn không thể che lấp những chỗ lồi lõm. Na Lan đoán đây là nhà tầng kểu cũ chứ
không phải nhà công bình thường. Sở Hoài Sơn có thể ở độc lập trong mảnh đất
này, hẳn nhiên phải có quan hệ lâu năm với Học viên Âm nhạc, có quan hệ với các
cấp lãnh đạo.
Cô bấm chuông cửa. Bên trong
có tiếng bước chân đi xuống cầu thang.
Bước chân dừng ở sau cửa.
Người ấy nhìn ra qua mắt thần.
Na Lan mỉm cười, kiên nhẫn
chờ đợi.
Rồi cửa mở, nhưng chỉ he hé.
Cô tiếp tục chờ đợi, người
ấy sẽ hỏi hoặc mời vào… nhưng sau một phút cửa vẫn he hé và vẫn không thấy
người đâu.
“Chào thầy ạ…” Na Lan gọi.
Không trả lời.
Cô lại lặng lẽ chờ đợi. Rất
lâu, quá sốt ruột, cô bèn gọi, “Thưa thầy, em vào đây!” Đoạn chùi giày thật kỹ
lên tấm thảm đặt ở bậc thềm rồi đẩy cửa bước vào.
Đằng sau cửa là một hành
lang trống, đón cô chỉ là hai giò phong lan treo hai bên tường.
Rõ ràng lúc nãy có tiếng
bước chân, bây giờ cô bước vào thì vắng lặng, chủ nhân của bước chân ấy như đã
tan vào làn hương lan dìu dịu.
“Thưa thầy…” Cô lại gọi.
Đương nhiên vẫn không ai trả
lời.
Bên phải là một căn phòng,
Na Lan đứng ở hành lang có thể liếc vào, cô nhìn thấy một cái tủ gỗ gụ đựng các
bộ đồ trà, thấp thoáng đồ sứ rất tinh xảo. Nền nhà cho thấy đó là gian bếp.
Cô bước thêm vài bước, trước
mặt là đầu cầu thang lên gác. Ở dưới bậc thang thứ nhất có hai đôi dép lê thuê
hoa kích cỡ na ná nhau, một đôi kiểu nam một đôi kiểu nữ. Đôi dép nam nền vải
xanh thêu cảnh sơn thủy, dòng sông có một con thuyền đánh cá; đôi dép nữ màu
tím nhạt, thêu hoa mặc lan.
Na Lan hơi ngạc nhiên. Cô
tháo giày, xỏ chân vào đôi dép nữ, có cảm giác êm êm như giẫm trên mây. Rồi cô
nhẹ bước lên cầu thang, tiếng kêu ken két dưới chân cho cô biết cầu thang này
đã ở độ tuổi cổ lai hy, tay vịn trông thật cũ kỹ nhưng không thô ráp, đặt tay
vào chỉ thấy trơn mát.
Càng bước lên cao, hương lan
vấn vít từ dưới hành lang càng đượm; là thứ hương thơm càng nhiều càng khoan
khoái, chứ không phải càng nhiều càng nồng. Trạng thái căng thẳng nãy giờ của
Na Lan dần dần tan biến.
Trên gác có ba phòng, nhưng
chỉ một phòng đang mở cửa. Cô khẽ gõ cửa, không thấy ai ừ hữ, cô đánh bạo nhìn
vào bên trong. Ấn tượng đầu tiên của cô, rõ ràng đây là thư phòng hoặc là phòng
tranh, hoặc phòng ngồi chơi đàn. Chính giữa phòng là một cái bàn dài, trên đạt
giá cài bút đang treo sẵn bảy tám cây bút lông. Bên cạnh giá bút là nghiên mực
và một tập giấy tuyên. Đầu kia bàn đặt mấy cái triện đá, mộ hộp gỗ đang mở, gác
chênh chếch vài con dao khắc các cỡ. Cách bàn một khoảng hơi xa có hai chậu rễ
cây chạm trổ đang làm dở. Ở một góc phòng kê một cái giá, bên trên đặt cổ cầm,
vách gỗ dựng bên cạnh là giá đàn với một cây cello, gần đó là một chiếc kèn
cor, mặt tường bên trên treo một ống tiêu và một cây kèn clarinette.
Một mặt tường khác là tủ
sách cao sát trần nhà, chứa đầ sách đủ các màu sắc. Na Lan đọc được vài cái
tên, Tổng tập về nghệ thuật cắt giấy dân gian Thiểm Tây, Đại số tuyến tính,
Niên giám Viện nghiên cứu hải dương học Giang Kinh, Đa tình kiếm khác vô tình
kiếm, Data Mining Inference and Predictions... một bộ sưu tập sách đa dạng nhất
thiên hạ.
Rồi Na Lan nhìn thấy người
con gái. Trong một bức tranh.
Cô bước lại gần, đó là bức
tranh sơn dầu rộng bằng một ô của tủ sách. Một nhan sắc nghiêng nước nghiêng
thành, vẻ diễm lệ tự nhiên không son phấn, mũ trắng rộng vành, váy áo màu hồng,
có vẻ như con người của thập kỷ 70-80 thế kỷ trước?
Điều thu hút Na Lan là ánh
mắt hơi u buồn của cô gái trong tranh.
“Mẹ tôi đấy.”
Giọng nói từ phía sau vang
lên khiến Na Lan giật mình quay lại. Một thanh niên cao gầy, có đôi mắt hơi u
buồn giống cô gái trong bức họa.
“Tôi chụp... ảnh mẹ tôi ngày
trước, rồi vẽ lại. Còn vụng lắm.” Người ấy nói.
“Xin lỗi. Tôi không cố ý xem
trộm, nhưng quả là tôi rất không lịch sự...” Na Lan lúng túng không biết nên
giải thích thế nào.
“Tôi mới nên xin lỗi chứ,
tôi đã không lịch sự... tôi không ra đón khách...” Người ấy bước lên mấy bước.
Mái tóc đen hơi xoăn và khuôn mặt trắng xanh. Rất tuấn tú. Na Lan chợt thấy
rung động.
Còn nhớ năm xưa, lần đầu gặp
Tần Hoài, cô cũng có tâm trạng thế này. Một sai lầm chí mạng.
Tự nhiên cô lại nhớ đến Tần
Hoài, và thấy mình vô tội, tình yêu ngắn ngủi kết thúc đột ngột, Tần Hoài bỏ đi
Lĩnh Nam điều trị vết thương cơ thể và cả vết thương lòng, gần hai năm qua cô
chỉ nghe loáng thoáng về anh qua người khác, chứ không nhận được tin gì từ
chính anh cả. Cô đã vài lần gửi email nhưng cũng chẳng khác gì mà xóa thư cho
vào “thùng rác”. Cô có đủ lòng tự trọng để không đi tìm Tần Hoài bằng xương
bằng thịt, cô chỉ biết lâu nay ngoài cuốn Hồ tuyệt mệnh ra, nhà “sản xuất văn”
này không có tác phầm nào khác.
Mãi cho đến cú phôn không
lời đêm qua.
Cô lại bâng khuâng nhớ đến
Cốc Y Dương, giữa gian nguy trong núi tuyết, dường như mối tình xưa đã trở lại,
nhưng rồi anh bỏ mình để cứu cô thoát hiểm. Đây có phải định mệnh không, rằng
những ai yêu cô sẽ rời xa, dù theo những cách khác nhau đi nữa?
Để mình cô ở lại.
“Cô là Na Lan phải không?”
Chàng thanh niên khẽ hỏi. Giọng anh dịu dàng, hơi trầm và cũng có nét u buồn,
giống tiếng đàn cello ngân khẽ.
Nhận ra mình đã mất tập
trung, Na Lan hơi đỏ mặt, gật đầu, “Vâng... tôi đến gặp thầy Sở Hoài Sơn.”
“Sáng nay đội trưởng, Ba Du
Sinh, đã nhắn tin cho tôi. Nói là cô hoặc anh ấy sẽ đến gặp tôi.” Anh ta chỉ
vào cái ghế duy nhất trong căn phòng. “Mời cô ngồi.”
Na Lan hơi kinh ngạc, “Anh
là... thầy Sở Hoài Sơn?” Nhưng cô lại cảm thấy mình quá thộn. Ba Du Sinh đã nói
Sở Hoài Sơn mắc chứng “sợ đông người”, mỗi lần chỉ tiếp một khách, thì đương
nhiên không sống trong một gia đình lớn, cho nên Sở Hoài Sơn chỉ có thể là anh
ta. Cô lại chưa hỏi Ba Du Sinh tuổi tác và dáng vẻ Sở Hoài Sơn thế nào, chỉ tâm
niệm và hình dung đó là một ông trung niên hoặc cao tuổi với bộ râu dài chứ
không nghĩ lại là một thanh niên.
Đoán ra tâm trạng của Na
Lan, Sở Hoài Sơn mỉm cười, “Họ tên tôi, nghe rất cổ lỗ nên, khiến nhiều người
hiểu lầm. Trước đây có vị khách, đã nói với tôi, ‘Tôi muốn gặp, thầy Sở của
anh’.”
Na Lan cũng cười, “Xin lỗi,
vì tôi có ấn tượng chủ quan nên... và, càng phải xin lỗi anh, chưa chờ anh nói
thì tôi đã đi dép lê... mong sao tôi không đi nhầm dép.” Sở Hoài Sơn đang đi
đôi dép lê màu xanh, thêu hoa văn na ná hình chim sẻ.
Như thế là ngụ ý gì?
Nhận ra ánh mắt thắc mắc của
Na Lan, Sở Hoài Sơn hỏi, “Đoán xem, tại sao lại là, con chim nhỏ?”
Na Lan chú ý đến cách nói
của anh ta, nhát gừng, câu rất ngắn. Cô đáp, “Không thể nói dối trước mặt cao
nhân, đúng là tôi đang nghĩ, không biết anh có mấy đôi dép lê, nhưng có lẽ hai
đôi đặt dưới kia là chuẩn bị cho tôi và anh Ba Du Sinh vì anh biết sau đây có
thể anh ấy cũng sẽ đến... Đôi dép nam thêu cảnh sơn thủy - Ba sơn Du thủy[1] -
chắc là ám chỉ Ba Du Sinh; dép nữ thêu hoa lan, tôi liều vơ vào vậy, ám chỉ chữ
Lan trong tên tôi thì phải...” Cô còn định nói thêm một câu nữa...
[1] Núi Ba, sông Du.
Sở Hoài Sơn mỉm cười, “Đội
trưởng Ba Du Sinh khen cô rất có, năng lực quan sát, không hề quá lời.”
“Anh có cần tôi kể lại anh
ấy đã ca ngợi anh thế nào không?” Na Lan cũng mỉm cười, cô bỗng cảm thấy nói
chuyện với bậc kỳ tài này rất dễ chịu, không có cảm giác gò bó như đứng trước
mặt một số người tự coi mình là cao nhân. Theo học nghiên cứu sinh gần hai năm
qua, cô đã gặp vô số nhân vật tự coi mình là nhất rồi.
Sở Hoài Sơn xua tay, “Xin
miễn cho. Cả tên cô, cũng xin miễn cho...”
“Cho nên tôi đoán rằng con
chim thêu trên đôi dép cũng có ý nghĩa...” Cô vẫn trở lại “chủ đề cũ”.
“Cô đoán là...”
Na Lan hơi do dự, rồi nói,
“Tôi chẳng có manh mối gì hết!”
“Tức là, cô không biết hay
là không muốn nói ra?” Giọng Sở Hoài Sơn hơi trầm xuống.
Gã này thật lợi hại! Na Lan
ngẩng đầu nhìn anh ta, cô cố thể hiện thật bình tĩnh, “Trước khi tôi đến đây,
anh Ba Du Sinh đã giải thích tại sao anh chỉ có thể tiếp chuyện một người.”
Hình như sắc mặt Sở Hoài Sơn
càng trắng nhợt thêm? “Cho nên, con chim thêu có, liên quan đến căn bệnh của tôi,
chứ gì?”
“Một con chim tự do, là điều
anh hướng tới. Anh không muốn chen chúc giữa sự ồn ào phức tạp, ở một mình
trong căn nhà nhỏ nhưng lòng anh vẫn hướng ra thế giới bên ngoài, không muốn
làm con chim trong lồng và mong mình có thể tung cánh bay...”
“Nghiên cứu sinh tài ba của
khoa Tâm lý Đại học Giang Kinh, quả là không phải chỉ có hư danh!” Sắc mặt Sở
Hoài Sơn lại trở lại hiền hòa điềm tĩnh, anh mỉm cười.
Na Lan đắn đo định nói lại
thôi, nhưng rồi cô vẫn nói, “Thực ra tôi không phải nhà tâm lý học tài ba,
nhưng tôi vẫn có thể giúp anh.”
Sở Hoài Sơn hơi sửng sốt,
hình như anh không quen với những đề nghị nhiệt tình. “Chuyên gia giỏi nhất về
thần kinh, ở Giang Kinh là Du Thư Lượng, đã điều trị cho tôi, có kết quả nhưng
còn xa, mới chữa được tận gốc.”
Na Lan định nói rằng, chữa
trị chứng “sợ đám đông” không cần ác sĩ cao siêu, mà điều quan trọng là bệnh
nhân phải quyết tâm và kiên trì. Cô chưa kịp nói thì Sở Hoài Sơn đã lên tiếng,
“Trà đây rồi!”
Hai tay anh không có gì hết.
Na Lan kinh ngạc nhìn ra mé cửa, chẳng rõ lúc nào, một phụ nữ đã bưng khay trà
đứng đó.
Thì ra không phải anh ta ở
một mình.
Cả hai người của nhà nay đều
xuất hiện hết sức lặng lẽ.
Na Lan định nói “Chào bác ạ”
vì trông người ấy có vài nét hao hao bà mẹ Sở Hoài Sơn trong bức tranh, nhất là
đôi mắt. Nhưng cô lập tức xóa bỏ ý nghĩ đó, vì người phụ nữ này không nó nét
duyên dáng, dịu dàng và đặc biệt là nét u buồn như người phụ nữ trong tranh.
Ánh mắt người này cứng nhắc, lạnh lùng và không thân thiện.
“Cảm ơn!” Na Lan tươi cười
đón chén trà, mong sẽ làm dịu bầu không khí.
Nhưng vô ích, sắc mặt người
ấy vẫn lạnh lùng.
Na Lan đoán rằng, lúc nãy
người phụ nữ này đi xuống mở cửa rồi lánh vào bếp chuẩn bị pha trà, cho nên
tiếng bước chân ấy biến mất. Cô nhìn xuống đôi chân bà ta, không thấy đi dép
lê, chỉ đi đôi bít tất trắng.
Sở Hoài Sơn giới thiệu, “Đây
là dì Tư của tôi. Từ sau khi mẹ tôi qua đời, dì chăm sóc tôi suốt.” Nói đến hai
chữ “qua đời”, hình như giọng anh nặng nề hẳn đi? Phải chăng bà mẹ mất sớm
khiến anh ta mất cảm giác an toàn, rồi diễn biến thành nỗi sợ hãi? Cha anh ta
đâu? Nhưng cũng may vì còn có người thân luôn ở bên. Nên phụ đề mấy câu vậy,
người mắc chứng “sợ đám đông” đồng thời cũng sợ sống khép kín hoàn toàn. Vấn đề
cốt lõi của họ là thiếu cảm giác an toàn.
Tôi có thể giúp anh.
Nhưng ai sẽ giúp tôi đây?
Na Lan bỗng có cảm giác đồng
bệnh tương lân. Khi đứng gần Mễ Trị Văn, cô luôn cảm thấy bị đe dọa. Cô nhớ lại
những sự kiện trải qua, cha cô bị hại, luận văn tốt nghiệp đại học làm về phỏng
vấn các phạm nhân hình sự, bị cuốn vào vụ án “năm xác chết”, các hiểm họa ở núi
tuyết, ngón tay đứt lìa... Hiểu biết nhiều về tội ác, thì sẽ xuất hiện hai
trạng thái cực đoan, hoặc ngày càng chai sạn hoặc ngày càng nhạy cảm. Rất không
may, cô rơi vào tình huống thứ hai.
“Muốn hỏi, mục đích của cô?”
Sở Hoài Sơn một lần nữa cắt ngang dòng suy nghĩ của Na Lan.
Hôm nay mình sao thế này, cứ
hay lơ đãng?
“Chúng tôi nhờ anh tìm một
bí ẩn.” Na Lan lấy ra tờ giấy thiên thư của Mễ Trị Văn. “Một chữ bí hiểm.” Ba
Du Sinh đã gọi điện cho anh rồi, chắc anh ta phải biết ít nhiều về mục đích của
cô. Nghe Ba Du Sinh kể về Sở Hoài Sơn, hiểu rằng bậc kỳ tài này coi trọng chi
tiết nên cô đã chuẩn bị để nói kỹ càng. Sở Hoài Sơn đưa bàn tay trắng xanh ra
cầm tờ giấy, nghe Na Lan thuật lại vụ án ‘ngón tay khăn máu’ và cuộc tiếp xúc
với Mễ Trị Văn. Anh ta nhìn con “chữ” rất lâu, không nói gì.
“Mễ Trị Văn nói, chỉ tôi mới
có thể giải được câu đố này.” Cô định cười nhạt nhưng không sao cười được. “Và
anh cũng biết đấy, tôi hoàn toàn không nhận ra điều gì.”
“Khiêm tốn quá...”
Na Lan khẽ thở dài, “Thôi
được, cũng không hẳn là tôi không nghĩ gì. Trước hết, đây là một trò chơi của
lão. Cũng như các trò chơi thể dục thể thao hoặc trò chơi trên mạng, trò chơi
này cũng đi từ nông đến sâu, để cho người chơi có chút khoái trá đã rồi dần say
mê. Nếu không, tôi đã bỏ cuộc từ sớm.”
Sở Hoài Sơn tủm tỉm, “Xem
ra, Mễ Trị Văn đã tìm đúng người chơi rồi!”
Na Lan gượng cười, “Cảm ơn
anh động viên. Cho nên, cái chữ oái ăm này chắc sẽ không quá mệt óc... đương
nhiên là dưới sự giúp đỡ của anh, có lẽ sẽ không khó lắm. Chắc chắn lão ta đoán
rằng tôi sẽ đi cầu cứu cao nhân. Một cách nghĩ khác là, nếu nói chỉ tôi mới
giải mã được thì tức là một phần nào đó của chữ này có liên quan đến tôi.”
“Cô đã có, cách nghĩ thế
này, thì đâu cần, anh mọt sách như tôi, hỗ trợ.”
“Nhưng tôi không biết nên
bắt đầu từ đâu.”
“Cô đã nói là, chữ này,
không khó lắm; một phần nào đó, có liên quan đến cô. Cách đơn giản, bước đầu
là, tách nó thành vài bộ phận; Mễ Trị Văn đã tự xưng, là Thương Hiệt, thế thì
phép tạo chữ, nguyên thủy, và trực tiếp nhất, là chữ tượng hình.”
Na Lan nhìn lại con chữ,
nhẩn nha nói, “Chữ tượng hình... thì phần trên cùng là chữ Nhân...”
Sở Hoài Sơn gợi ý, “Là chữ
Nhân, hoặc chữ Nhập. Theo thể chữ thông dụng Tân Tống thì là chữ Nhân; nhưng
nếu theo thể chữ Triện, hoặc vài thể chữ cổ khác thì nó giống chữ Nhập hơn.
Người thời cổ phát minh ra chữ viết, Thương Hiệt có công truyền bá. Đây là, ý
kiến của riêng tôi, có nhiều khả năng, nó là chữ nhập.”
“Tạm coi phần trên cùng là
chữ Nhập, vậy phần giữa thì sao? Nếu là tượng hình, thì nó vẽ cái gì? Hình như
là chữ Điền hoặc chữ Tinh, hoặc chữ Khai. Phần dưới cùng thì trực quan rồi, đó
là chữ Thập. Nhưng phối hợp tất cả lại, vẫn không thu được kết luận gì.”
“Nếu cô đã, không thể kết
luận, thì tôi cũng đành thở dài vậy.”
Na Lan nghĩ bụng, là bậc kỳ
tài kia mà, anh không thể không biết!
Sở Hoài Sơn nói như khuyến
khích, “Chắc là, cô không thích, nghe câu này, nhưng tin rằng Mễ Trị Văn, không
đùa bỡn cô, đúng là chỉ cô mới, có thể đoán ra, chữ này.”
“Nhưng...”
“Việc này, không thể vội
vã.” Sở Hoài Sơn cầm một con dao khắc dấu trên bàn lên, khẽ thổi một cái, cứ
như là vài hạt bụi đá dính vào mũi dao cũng không thể thoát nổi cặp mắt thần
của anh ta. “Chắc anh Ba Du Sinh, đã kể rằng tôi và anh ta, từng hợp tác, vụ
thứ nhất, vụ án tự sát giả.”
Na Lan nói, “Một câu chuyện
rất hay.”
“Chắc anh ta đã nói, tôi
phải tốn rất nhiều thời gian, để xem con dấu ấy.”
“Tôi đang chờ anh lấy kính
lúp ra.”
Sở Hoài Sơn nhìn Na Lan, sắc
mặt rất tươi, “Lần đó tôi nghiên cứu, là một đối tượng đã hình thành, con dấu
đã in lên giấy, tôi thậm chí có ngay ấn tượng, biết là có người, đang hãm hại,
viên quản lý đó, cho nên có thể tập trung sức chú ý. Nhưng hôm nay chữ này là
một thứ giấu mặt, chúng ta không biết Mễ Trị Văn đang thiết kế một trò chơi như
thế nào. Ta có thể suy ngẫm về một dấu son đã in rành rành ra đó, nhưng đối với
một thứ đã được thiết kế tỉ mỉ, thì lẽ nào ta không cần tốn thời gian suy nghĩ
nhiều hơn? Cô nên biết tuy đây chỉ là bước đầu tiên trong trò chơi của lão ta,
nhưng chắc chắn không thể chỉ thoáng nhìn là khám phá được ngay. Nếu không thì,
hóa ra là cảm hứng của bậc thầy tạo chữ ấy rất tầm thường hay sao?”
Thật hiếm có, Sở Hoài Sơn đã
nói liền một hơi! Na Lan cảm thấy vã mồ hôi thay anh ta. Cô nhíu mày, “Anh phân
tích rất có lý. Chỉ hiềm, trở về tôi sẽ rất khó ăn khó nói với đội trưởng Ba Du
Sinh.”
“Cô cứ nói thật, nói rằng
cao nhân kỳ tài này chỉ là người rất đỗi bình thường.”
“Anh khiêm tốn như thế, thì
anh ấy sẽ nghĩ là anh kiêu ngạo.”
Sở Hoài Sơn khẽ thở dài,
“Những người như tôi đôi khi cũng kiêu ngạo quá mức!”
“Hay là tôi nên nói với anh
ấy rằng, kiên nhẫn là một đức tính?” Na Lan có phần bất mãn.
Lời cảnh báo “vụ án ‘ngón
tay khăn máu’ sẽ còn tiếp diễn” lại vang bên tai cô.
Nhìn theo bóng Na Lan khuất
hẳn ở góc phố, người phụ nữ lạnh lùng nói, “Cô ta rất nguy hiểm.”
Sở Hoài Sơn chỉ im lặng,
nheo mắt nhìn dì Tư.
“Cháu đừng nhìn dì như thế!”
Dì Tư mắng. “Mỗi lần dì nói toạc ra tâm tư của cháu, cháu lại lầm lì với dì.”
Sở Hoài Sơn vẫn không hé
răng.
“Định chiến tranh lạnh với
dì đến cùng chắc? Dì không ngán đâu! Cháu đã thích nó, đúng không?”
Rốt cuộc Sở Hoài Sơn cũng
nhẩn nha nói, “Dì khích tướng khéo thật! Nếu cháu cứ ngậm miệng, chắc dì sẽ nói
cháu im lặng là thừa nhận chứ gì?”
Dì Tư lắc đầu, vẻ khó tin,
“Lẽ nào chỉ gặp một lần cháu đã...”
“Cho nên, ngay dì cũng cảm
thấy là không tưởng đúng không? Thực ra, mỗi lần dì cho rằng mình nhìn thấu tim
gan cháu, đều chỉ là... dì tự nghĩ thế thôi.” Sở Hoài Sơn than thở. Nói thật,
mất lòng!
“Cháu cho rằng dì không nhận
ra thật à? Nó ở đây chỉ nửa giờ mà cháu mỉm cười suốt. Còn dì, dì ở với cháu
bấy nay mà chưa từng thấy mặt cháu tươi tỉnh lâu đến thế.”
Sở Hoài Sơn hơi sửng sốt,
“Giả sử dì cảm thấy cháu có vẻ khác thường, thì dì cũng không cần thiết phải hà
khắc như thế.”
Ngực dì Tư phập phồng rõ
mạnh, hồi lâu sau mới dịu giọng nói, “Sơn à, lẽ nào cháu không hiểu dì lo cho
sự an toàn của cháu? Cô gái đó rất nguy hiểm.”
Sở Hoài Sơn cúi nhìn con
chim thêu trên dép lê. “Lẽ nào, chỉ vì cô ấy khuyên cháu hãy ra khỏi căn nhà
này?”
“Không phải thế. Mà là vì
chính cô ta. Báo chí đã viết mãi rồi, cháu không thể không biết những gì cô ta
đã trải qua. Có những người bẩm sinh đã bị những mối nguy bám riết. Những ai
gần gũi cô ta đều đã gặp bất hạnh.”
“Dì cũng có thể, dùng những
câu này, để hình dung mẹ cháu.” Vẻ mặt Sở Hoài Sơn trở lại đờ đẫn như mọi ngày,
buồn thương bao phủ khuôn mặt anh. Dì Tư đã đạt được mục đích của mình rồi đấy!
“Nói bừa!” Dì Tư định nổi
nóng, nhưng Sở Hoài Sơn quay lưng lại. Dì biết, khi đứa cháu giở tư thế này ra
thì nói nữa cũng vô ích.
Dì mím chặt môi, xoay người
lặng lẽ bước đi. Đi đến đầu cầu thang, giọng của Sở Hoài Sơn bỗng vang lên sau
lưng, “Tại sao... dì lại... bỏ dép ra?”
Vì dì muốn bước chân mình
thật êm, để có thể nấp ở chỗ khuất quan sát cô gái nguy hiểm kia.
Chương 11: Đất mọc tay
Lão nằm trên giường, người
lúc thì rã rời như thể xướng cốt nát nhừ , lúc thì đau đớn ngạt thở như bị trói
chặt cứng. Thượng đế có thể lấy lão bất cứ lúc nào.
Có thượng đế hoặc Phật tổ
thật không? Nếu có, thì tại sao họ lại bất công với lão nhường này? Lão bị giày
vò từ nhỏ, từ lúc ngây thơ nhất! Cho nên không hề có thượng đế hay Phật tổ;
hoặc nếu có thì lẽ ra họ không được hưởng quá nhiều vinh dự như thế, không được
nắm giữ số phận của nhiều người như thế.
Vì vậy lão phải thiết kế ra
trò chơi của mình.
Mục tiêu tiếp theo đã được
lựa chọn, rất hoàn mỹ và phù hợp với mọi yêu cầu. Chỉ cần lão vẫn còn hít thở
đến ngày hôm đó thì tất cả vẫn có thể tiếp tục thực hiện như kế hoạch.
Vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ
tiếp diễn.
Trước giờ nhà ăn đóng cửa,
Na Lan mua được suất cơm rồi ngồi một mình nhấm nháp. Đầu óc cô vẫn hiện lên ký
tự kỳ quái do Mễ Trị Văn sáng tạo ra. Thỉnh thoảng hình ảnh ngôi nhà gác nho
nhỏ kỳ quái và hai chủ nhân của nó cũng lướt qua. Chỉ trong nửa ngày đã có quá
nhiều chuyện kỳ quái.
Khác với hình dung của cô,
Sở Hoài Sơn rất trẻ, hào nhã, khiêm tốn. Điểm đặc biệt nhất của anh ta là luôn
tỉ mỉ từng li từng tí, chỉ đôi dép lê cũng rất chỉn chu. Dì Tư thì khiến người
ta hết sức khó hiểu. Na Lan không cần giao lưu thêm cũng nhận ra thái độ hằn
học không che giấu của người ấy. Tại sao lại thế? Là ý thức che chở và ghen tị
của giống cái chăng? Tại cô chưa hề thể hiện mong muốn trở thành tri âm tâm đắc
của người cháu tài ba nhà bà ta chăng?
Na Lan nhìn di động đang đặt
trên bàn. Từ sau tối hôm qua, số máy quen thuộc ấy không lóe lên nữa. Tần Hoài
đang giở chứng bỡn cợt gì không biết.
“Lan muội đang thẫn thờ gì
thế?” Cô gái không mời mà đến, ngồi xuống bên cạnh Na Lan. Một cô gái rất hay
cười. Khuôn mặt cô không thực sự hài hòa, nhưng đôi môi luôn nở nụ cười đã bù
đắp đáng kể.
Đào Tử!
Đào Tử là bạn thời đại học
rồi lại làm bạn nghiên cứu sinh với Na Lan, kể cả khi không học họ vẫn luôn
quấn quýt, vì ở cùng một phòng trong ký túc xá. Họ rất hiểu nhau, đến nỗi người
này nói ra câu trước thì người kia có thể nói tiếp câu sau. Hai năm qua có vài
gã thích trêu ngươi thường gửi vào hộp thư của họ những cuốn tiểu thuyết bách
hợp [1], thoạt đầu hai cô rất tức giận, ít lâu sau thì coi như “trơ” rồi, không
thèm để ý nữa.
[1] Tiểu thuyết về đồng tính
nữ
Na Lan nói, “Còn có thể là
gì khác? Đương nhiên là mình đang nhớ đến ai đó…” Thực ra là cô đang nhớ đến
con chữ kia, nhưng cô biết dù mình không nói trại đi thì Đào Tử cũng sẽ quy kết
về Tần Hoài, đã nhiều lần Đào Tử khuyên cô hãy đá phăng Tần Hoài cho nhẹ nợ.
Nhưng cô không làm được. Sau lần trùng phùng ngắn ngủi với Cốc Y Dương, tình
xưa vừa nồng ấm trở lại thì đã tan vỡ. Chính Na Lan cũng không biết những lúc
thẫn thờ nhớ nhung thì cô nghĩ đến ai.
Đào Tư cười nhạt, “Cậu định
lừa ai thế? Nếu đang nhớ đến Tần Hoài thật thì cậu sẽ không nói ra!”
Đúng, chỉ có Đào Tử thấu
hiểu cô.
“Mình nói thật vậy, hôm nay
mình gặp một anh rất điển trai”. Na Lan do dự, không biết có nên kể cho bạn nỗi
sợ hãi đối với Mễ Trị Văn hay không. Đào Tử là bạn chí thân, cô không muốn bạn
chí thân vị cuốn vào cùng nguy hiểm nhất trong cuộc sống của cô. Nhưng cô lại
thấy ý nghĩ này thật buồn cười, Mễ Trị Văn như khúc gỗ mục bị trói trên giường
bệnh thì có gì là nguy hiểm?
Vụ “ngón tay khăn máu” sẽ
còn tiếp diễn! Là sự đe dọa vô căn cứ hay là lời dự báo không hề úp mở?
Nghe Na Lan kể xong mọi điều
tai nghe mắt thấy ở căn nhà Sở Hoài Sơn, Đào Tử nhẩn nha nói, “Anh chàng này
cũng hơi thú vị đấy! Hội chứng “sợ đám đông” không phải bênh bẩm sinh, cảnh ngộ
của anh ta ra sao?”
“Một là, cha mẹ đều mất, đứa
trẻ từ nhỏ sẽ thiếu cảm giác an toàn.” Na Lan vẫn nghĩ, liệu có phải mất cảm
giác an toàn bắt nguồn từ việc người cha bị hại một cách khác thường không?
Đào Tử chỉ ra, “Nhưng anh ta
vẫn còn có tình thường của dì Tư.”
“Mình cho rằng không ai có
thể thay thế cha mẹ.” Cô còn định nói dì Tư là nhân vật rất thú vị ở ngôi nhà
nhỏ ấy.
“Điều thứ hai là gì?” Đào Tử
hỏi.
“Có lẽ vị cao nhân này hồi
nhỏ mắc tật nói lắp.” Na Lan nói. Mình không có căn cứ gì, nhưng anh ta thường
nói nhát gừng, nói câu ngắn, nghe hơi kỳ lạ, đôi khi ngừng ngắt giữa chừng. Trẻ
con nói lắp thường bị bạn học chế nhạo, vì thế mà thấy sợ đám đông, sợ giao
tiếp.”
“Cậu ngẫu nhiên nói đến nỗi
đau của mình rồi đấy, hôm nay mình đến bệnh viện Giang Kinh dạy Tâm lý học dẫn
luận cho cánh trẻ , học sinh thời nay thái độ rất kém!”
Na Lan cười ngặt ghẽo, “Nhất
là khi nhìn thấy cô giáo mỹ nhân dạy Tâm lý học, nam sinh thì được ngắm, nữ
sinh thì vừa ngưỡng mộ vừa ghen tị, thái độ của họ tốt sao được?”
Buổi chiều, Na Lan phải lên
lớp trợ giảng đến 5 giờ rưỡi. Khi cô chuẩn bị rời văn phòng thì chuông di động
réo vang.
Sở Hoài Sơn gọi. Cô hơi bất
ngờ.
“Cả chiều nay tôi nghĩ đến
cô…”
Na Lan đỏ mặt. Sao anh ta có
thể thế này?! Lẽ nào kỳ tài này còn là kỳ tài tán tỉnh?
Nghe tiếp thì cô mới hiểu,
câu đầy đủ của Sở Hoài Sơn là “cả chiều nay tôi nghĩ đến cô, thuật lại lời Mễ
Trị Văn, rằng ‘chỉ có cô mới có thể giải mã’.” Na Lan gượng cười, nhớ lại lúc
trưa mình có kể với Đào Tử về tật nói ngắn, nhát gừng, ngắt câu không đúng chỗ
của Sở Hoài Sơn, khiến người nghe hiểu lầm.
“Anh nói tiếp đi!” Na Lan
tin chắc anh ta đã nhen nhóm ý tưởng nên mới gọi điện cho cô.
“Nói là chỉ cô mới có thể
giải mã, thì chữ này phải liên quan đến cô. Hai phần trên dưới, gồm chữ Nhân
hoăc Nhập, và chữ Thập, đều rất hay gặp. Đáng chú ý chỉ là, phần giữa của chữ
này.”
“Nó hơi giống chữ Điền, phải
không?”
“Tôi khẳng định không phải
chữ Điền.” Giọng Sở Hoài Sơn rất tự tin. “Từ thời cổ đến giờ, chữ Điền luôn
được khoanh kín xung quanh, còn chữ này thì bên dưới bỏ ngỏ, ở giữa có hai nét
sổ, trông giống chữ Sách [2] hơn.”
[2] Chữ Điền (田), chữ Sách ( )
“Vậy nó có thể là chữ gì?
Hay chẳng là chữ gì cả?”
“Cô đã trồng trọt bao giờ
chưa?”
Na Lan cảm thấy quá xa xôi,
“Tôi sống ở thị trấn, chưa trồng cây bao giờ cả.”
“Nhưng chắc cô đã nhìn thấy
ruộng?”
“Có chứ! Nhưng anh vừa nói…
phần giữa không phải chữ Điền?”
“Cô nghe cho kỹ đây.” Giọng
Sở Hoài Sơn trở nên già dặn . “Bây giờ cũng ‘chỉ cô’ mới làm được, cô nhớ lại
xem, cô đã từng nhìn thấy ở đâu đó một dấu hiệu, một bức vẽ , phù điêu, hoặc
một kiến trúc … có thể là nằm ngoài ruộng đồng… trông na ná bộ phận ở giữa con
chữ này không?”
“Dấu hiệu? Ở ruộng đồng?” Na
Lan lẩm bẩm, và cố nhớ lại. Có vài hình ảnh, vài chuyện xưa cũ thấp thoáng lướt
qua trong đầu.
Cô tĩnh tâm suy nghĩ, Sở
Hoài Sơn cũng im lặng, để cô có thời gian và tinh thần hồi tưởng. Lát sau anh
bổ sung một đặc điểm then chốt, “Chi tiết ấy có liên quan đến chết chóc, đến vụ
án “ngón tay khăn máu” mà cô muốn khám phá. Chết chóc…”
Na Lan bỗng đứng lên. Hình
ảnh chập chờn trong đầu lúc nãy… cô gần như đã có thể liên hệ các sự việc lại
với nhau. Liên quan đến chết chóc!
“Tôi nhớ ra rồi. Tôi đã từng
nhìn thấy một thứ giống như phần giữa của những chữ này.”
“Thế à?”
Cô đã nhớ ra, trong “vụ án
năm xác chết” hồi nọ, cô từng đến vùng ngoại thành Lĩnh Nam để tìm khu mộ của gia đình “nhân vật số 1
Lĩnh Nam”
Quảng Cảnh Huy. Ở đó có xây một cổng chào viết bốn chữ “Quảng thị âm thổ”. “Thì
ra, hình tượng ở phần giữa cái chữ kia là cổng chào! Nằm giữa ruộng đồng và
đương nhiên có liên quan đến chết chóc, vì cổng chào ấy xây ở lối vào khu mộ.”
Sở Hoài Sơn nói tiếp, “Đúng
là rất giống. Rất hay gặp. Kết cấu của cổng chào kiểu đó là bốn trụ, ba cổng.
Mễ Trị Văn nói đúng đấy, chỉ cô mới có thể giải được câu đố!”
“Thế mà gọi là đã giải được
à?” Na Lan ngạc nhiên, nhưng mau chóng hiểu ra.
Con chữ quái dị của Mễ Trị
Văn, trên cùng là chữ Nhập (đi vào), phần giữa là cái cổng chào chỉ mình Na Lan
nhận ra, ngụ ý là nghĩa địa. Tức là tung tích của Nghê Phượng Anh ở đâu? Ở nghĩa
địa! Có nhiều khả năng là “đã nhập mộ rồi”.
Xuống đất. Đã bỏ mạng.
Nhưng ở nghĩa địa nào?
Sở Hoài Sơn vẫn im lặng. Na
Lan hiểu rằng anh ta muốn cô đưa ra kết luận. Cô thận trọng hỏi, “Có phải chữ
Thập bên dưới là manh mối để tìm ra ngôi mộ không? Nó sẽ ở đâu? Có lẽ nó là tên
của một nghĩa trang?”
“Các vụ ‘ngón tay khăn máu’
xảy ra ở Giang Kinh.” Sở Hoài Sơn tiếp tục gợi ý.
“Nghĩa trang chủ yếu của
Giang Kinh là nghĩa trang Vạn Quốc. Nhưng hình như còn có nhiều nghĩa trang
mới, an trí bên ngoài năm tuyến vành đai. Tên là nghĩa trang Bách Kiều, nghĩa
trang…”
“Tây Sơn công mộ, Vĩnh Lăng
viên, Vong Xuyên công mộ, Mai Hạc đường… trong các tên này đều có chữ Thập.” Sở
Hoài Sơn không ra khỏi nhà nhưng dù sao vẫn là dân Giang Kinh, anh thuộc lòng
tên các nghĩa trang.
Nhập, mộ, thập… chữ Thập sau
khi chết?
Na Lan bỗng thốt lên, “Cơ
đốc giáo! Giang Kinh có nghĩa trang của Cơ đốc giáo không?”
Ở đầu dây bên kia, Sở Hoài
Sơn thở ra một hơi, không rõ là cảm xúc gì. Phải chăng anh ta đã đoán ra rồi?
Lát sau anh ta mới nói, “Ở Giang Kinh có một nghĩa trang Thiên chúa giáo, tọa
lạc đằng sau một nhà thờ cũ, nằm ở vùng giáp gianh hai khu Văn Viên và Tân
Giang, cách Đại học Giang Kinh của cô không xa. Thời xưa là khu tô giới, người
nước ngoài chết, nếu đưa về nước chôn thì phải chở bằng tàu thủy, quan tài sẽ
bốc mùi, nên họ chôn ở đây. Tất nhiên cũng có một số mộ của các giáo dân danh
giá người Trung Quốc…”
Na Lan ngồi trở lại bàn, lên
mạng tra cứu, nghĩa trang Thiên chúa giáo là khu di tích cấp thành phố được bảo
vệ, số nhà 153 đường Ao Bán Mẫu.
Vấn đề đã sáng tỏ hẳn, chữ
Điền mà không phải chữ Điền, lại là chữ Mẫu! Hai nét chữ phía trên chữ Điền,
trông tựa như chữ Nhập [3].
[3] Chữ Điền (田), chữ Mẫu ( ).
Sở Hoài Sơn tiếp tục nói,
“Nhưng nghĩa trang này ngừng chôn cất từ lâu rồi…”
Na Lan rất muốn hỏi, anh có
thể ra khỏi nhà, đi cùng tôi đến đó không? Liệu anh ta có chấp nhận việc bước
ra xã hội lần đầu tiên lại là đi đến nghĩa địa? Nếu chứng sợ đám đông bắt nguồn
từ vấn đề thiếu cảm giác an toàn, thì một mình cô tháp tùng đâu đủ trấn an anh
ta? Cừ từ từ đã vậy.
Cô bèn nói cảm ơn. Rồi rảo
bước ra khỏi văn phòng.
Nếu trao đổi với Sở Hoài Sơn
thêm vài phút nữa, Na Lan sẽ biết ở Giang Kinh này có năm nhà thờ Thiên chúa
giáo, trong đó nhà thờ Đức Bà và nhà thờ Chính tòa Thánh Giuse nằm ở khu Văn
Viên. Nhà thờ Chính tòa Thánh Giuse là tổ chức duy nhất có nghĩa trang ở Giang
Kinh. Na Lan ra vào khu nghĩa trang, trước mặt cô là cây thập tự bằng đá bạch
ngọc nay đã sẫm màu.
Nhập, Điền, Thập; Nhập,
Nghĩa trang, Thập; Mẫu, Thập… nên lý giải sao đây? Đầu óc cô vẫn rối bời.
Cổng sắt khóa. Nếu chờ cho
trời tối hẳn, có thể trèo qua mà vào. Nhưng Na Lan không có tài leo trèo bẩm
sinh nên đành đi vòng sang góc ngoặt, gõ cửa nhà thờ.
“Đã hết giờ mở cửa.” Bên
trong, một bà xơ dịu dàng từ chối. Bà chừng ngoài 40 tuổi, rất điềm đạm.
“Cháu… không vào để làm lễ
Misa ạ.” Na Lan không biết nên tự giới thiệu ra sao. “Cháu chỉ muốn… vào xem
nghĩa trang của giáo hội các vị.”
Bà xơ rất nhẫn nại, “Ba mươi
năm nay nghĩa trang không an táng ai nữa. Thành phố đã xếp hạng là kiến trúc
lịch sử để bảo vệ, nói chung người ngoài không được…”
Di động của Na Lan bỗng đổ
chuông, cắt ngang màn thuyết phục của cô.
Lại là Sở Hoài Sơn.
“Tôi chợt nghĩ ra, có lẽ cô
không thể vào khu nghĩa trang ấy.” Kỳ tài lúc này chẳng khác gì quân sư nói
vuốt đuôi!
Na Lan thở dài mỉm cười chào
bà xơ. Bà cười đáp lễ rồi đóng cửa lại.
“Anh tiên tri giỏi nhỉ? Giá
mà anh cho tôi biết trước…”
“Tôi vừa mới nghĩ ra. Thật
đấy! Ấn tượng mà Ba Du Sinh, gây cho cô không đúng. Tôi chỉ là người có chỉ số
IQ tầm tầm, chỉ số EQ thì thấp…” Anh ta quá khiêm tốn để làm gì nhỉ?
Na Lan nghĩ ngợi. “Nhưng,
anh gọi điện chắc không chỉ là để tự kiểm điểm?”
“Cô đã nghe nói về, ông Ngôn
Phụ Đức chưa?”
Na Lan lắc đầu, “Ông ta có
thể giúp tôi mở cổng nghĩa trang phải không?”
“Đúng! Từ năm 1963, ông ấy
là linh mục, đứng đầu giáo xứ Giang Kinh, đến năm 1998 thì qua đời, và được an
táng, ở nghĩa trang này.” Xem ra, bà xơ nói “ba mươi năm không an táng ai” e là
có vấn đề.
“Ý anh là, tôi nên sắm vai
người nhà của ông Ngôn Phụ Đức?”
“Cô nên đoán xem, lần sau
gặp Ba Du Sinh tôi sẽ, khen ngợi cô như thế nào.” Hình như Sở Hoài Sơn đang mỉm
cười. “Cô nên tự xưng, là cháu họ ngoại của ông ấy. Ông ấy chỉ có, một cô cháu
gái sinh cuối thập kỷ 1990, xấp xỉ tuổi cô, đã theo cha mẹ sang Canada định
cư.”
“Anh cho rằng các bà xơ sẽ
tin tôi nói khoác hay sao? Anh có thể cho tôi giấy tờ tùy thân của cô ta chắc?”
Na Lan tưởng tượng ra mình ê mặt vì bị từ chối lần thứ hai.
“Không! Không phải cô, khoác
lác. Tôi nói luôn vậy, bây giờ, cô là Tiêu Hoa Nguyệt, cháu của ông Ngôn Phụ
Đức. Cô không cần chìa, giấy tờ gì hết. Chỉ cần để bà xơ, hỏi thử xem, cha xứ
đương nhiên là ông Bão Quảng Hữu có nhớ ra, bé Nguyệt Nguyệt, cháu gái của, cha
xứ quá cố không? Bé Nguyệt Nguyệt, đã từng ăn quả nhót tây, ở sân sau nhà linh
mục Bão Quảng Hữu.”
Nghe mấy chữ “bé Nguyệt
Nguyệt”, Na Lan lập tức nghĩ đến vụ án xảy ra gần trăm năm trước đang lưu
truyền trên mạng, cô hơi lạnh xương sống, “Chuyện cách đây hai chục năm sao anh
lại biết được?”
“Ai cũng có thể, biết chuyện
hai chục năm trước, đọc Tiếng nói giáo dân, đọc trang web của thư viện thành
phố, lướt mạng… là biết hết. Ông Ngôn Phụ Đức rất có uy tín, trong giáo hội, đã
bồi dưỡng ông Bão Quảng Hữu. Ông Quảng Hữu, thường tổ chức, liên hoan giáo dân.
Theo bản tin Tiếng nói giáo dân, cả nhà ông Ngôn Phụ Đức đều từng tham dự, khi
đó bé Nguyệt Nguyệt 5 tuổi, đã biết hát Thánh ca… Tôi sẽ gửi cho cô các tư liệu
này…”
Na Lan lại đến gõ cửa nhà
thờ, vẫn bà xơ ấy, với nụ cười hơi giảm bớt sự kiên nhẫn.
Cháu mạo muội làm phiền…” Dù
chưa chắc ăn nhưng Na Lan cũng đã tự tin hơn. “Vừa nãy xơ nói là… nói chung,
không cho phép vào nghĩa trang, nhưng chắc vẫn có ngoại lệ?”
“Nếu là người nhà vào viếng
mộ thân nhân, có hẹn trước, thì chúng tôi sẽ thu xếp.”
“Hẹn trước? Nhưng e không
kịp mất! Ngày mai cháu phải ra sân bay, trở về Canada…”
“Cô là…” Dưới ánh đèn, thấy
cặp long mày thanh mảnh của bà xơ hơi động đậy.
“Cháu là Tiêu Hao Nguyệt.
Ông ngoại cháu an táng trong đó…”
Trời đã muộn, màn chiều đang
buông xuống cả khu nghĩa trang. Na Lan đã cố thuyết phục để bà xơ không đi
cùng, một mình cô len lỏi giữa các hàng bia mộ.
Hơn bốn trăm bia mộ, Na Lan
soi đèn pin nhìn từng tấm bia. Sau khi trải qua hai vụ án lớn và vô số đêm hãi
hùng, cô đã hình thành thói quen mang theo đèn pin.
Đúng như đã lường trước, ở
đây không thấy có tên Nghê Phương Anh. Hung thủ của vụ án “ngón tay khăn máu”
không thể trắng trợn công khai dựng bia cho nạn nhân mà hắn hãm hại, tự phơi
bày tội ác cho thiên hạ biết. Điều này chứng tỏ hắn không phải hạng người quái
gở dám thách thức quyền lực, khiêu khích luật pháp xã hội.
Mà là một kẻ nhu nhược.
Mục đích phạm tội của kẻ nhu
nhược dường như không nhằm phô trương khả năng gây án của mình. Cho nên hắn đã
che giấu rất kỹ tội ác gây ra rải rác ba mươi năm. Nhưng tại sao hắn lại công khai
cái khăn dính máu và ngón tay bị chặt đứt? Xem ra, cũng như nhiều tội phạm sát
nhân khác, hắn vẫn muốn thể hiện một điều gì đó.
Hắn muốn thể hiện điều gì?
Liệu có phải nếu không ai
hiểu được ý đồ của hắn thì vụ án “ngón tay khăn máu” vẫn tiếp diễn, như Mễ Trị
Văn dự báo không?
Lúc này Na Lan hầu như đã
phủ định Mễ Trị Văn là hung thủ. Lão giống một diễn viên hạng hai hạng ba, chỉ
lo mình không đủ tài diễn kịch. Nếu lão là đạo diễn vở “ngón tay khăn máu” thì
rất khó hình dung suốt ba mươi năm nay lão kìm nén được sự thèm khát ra tay.
Nhưng tại sao lão lại biết tung tích của Nghê Phượng Ah và chỉ dẫn cô tìm đến
nghĩa trang này?
Hàng trăm bộ hài cốt nằm ở
đây, bộ nào là của Nghê Phượng Anh?
Na Lan thất vọng nhìn khắp
bốn bề khu mộ, muốn mình phải đào tất cả lên hay sao? Không thượng đế nào đồng
ý.
Đại sư Mễ Trị Văn cũng không
đồng ý. Niềm vui thực sự của đại sư còn ở phía sau. Lão đang sốt ruột chờ cô
trở về. Cửa ải thứ nhất này không thể nào lại khó nhằn như thi Olympic Toán.
Cách tư duy phải đơn giản.
Na Lan quay trở ra cổng sắt
của nghĩa trang, dừng lại bên một tấm biển lốm đốm gỉ, rọi đèn pin lên bảng
nhựa in sơ đồ các khu vực bên trong. Nghĩa trang hình chữ nhật, gồm bốn khu vực
trên dưới trái phải được chia bởi hai con đường hình chữ thập lát gạch, giao
nhau.
Na Lan chú ý đến điểm giao
nhau ấy.
Lại nhận ra một chữ “thập”
nữa!
Cô vội bước đi, đến giữa
đường gạch giao nhau. Cô cúi xuống, soi đèn pin vào viên gạch vuông ở chính
giữa. Nó chỉ đặc biệt vì ở chính tâm, ngoài ra cũng rạn rịa cũ kỹ như da mặt người
già, chẳng có gì khác các viên gạch lát xung quanh. Cô mở túi lấy con dao nhỏ,
cũng là thói quen tốt hình thành sau khi trải qua hai vụ án lớn, thọc mũi dao
vào kẽ quanh viên gạch, ở đó là đất cát và bùn, rêu cùng cỏ non ứ lên sau mưa,
giống như vách ngăn tình cảm giữa người và người. Cô moi hết đất, cỏ và rêu,
rồi nậy hẳn viên gạch lên. Đá vụn rải bên dưới đã bị xói đi quá nửa theo dòng
thời gian, chỉ còn lại một lớp mỏng. Cô bới hết lớp đá, bên dưới là bùn đất xỉn
khá mềm, do thấm nước mưa. Coi con dao như cái xẻng, cô đào sâu xuống khoảng ba
phân rồi dừng lại.
Thấy một cái túi nhỏ.
Ánh đèn rọi vào một cái ví
tiền xanh nhạt bằng nhựa, in các ô ca rô vàng, lam và lục, trông giống mẫu
thiết kế của thương hiệu Burberry. Na Lan nhớ đến ví tiền nhựa mẹ dùng thời con
gái, hồi nhỏ cô từng trông thấy khi vào gian chứa đồ của gia đình chơi trò tìm
“báu vật”.
Và cũng thấy có ảnh cài
trong ví, như lúc này.
Nghê Phượng Anh trang nhã
xinh đẹp, đứng trước cây cầu bắc qua sông Thanh An mỉm cười, tràn trề sức xuân.
Trong các “bài học” mà Ba Du Sinh đưa cho Na Lan có bản photo ảnh này. Dưới ánh
đèn pin, nụ cười của Nghê Phượng Anh hiện lên nhợt nhạt, mắt cũng phảng phất ưu
tư.
Nét ưu tư này trông quen
quen? Na Lan sực nhớ đến bức tranh vẽ bà mẹ Sở Hoài Sơn.
Chắc tại ngồi xổm quá lâu,
cô bỗng thấy chóng mặt. Có phải tại mưa bụi ngày xuân không, mà mắt cô nhòe
ướt?
Nghê Phượng Anh rời xa thế
gian này đã lâu. Không phải bây giờ Na Lan mới biết điều đó, nhưng vẫn cảm thấy
thật khó chấp nhận sự thật này, nhất là cô có cảm giác người thiếu nữ quá cố ấy
rất gần gũi với mình.
Cô hít vào một hơi thật sâu.
Miệng ngậm đèn pin, dùng cả dao lẫn tay tiếp tục bới sâu xuống chừng nửa mét.
Bấy giờ cô thấy đằng xa có tiếng bước chân, thậm chí nghe được cả giọng thất
thanh của bà xơ, “Cháu đang làm gì thế?”
Na Lan dừng tay. Không phải
vì câu nói của bà xơ.
Dưới ánh đèn pin, giữa đám
đất nhão, hiện ra mấy mẩu xương trắng.
Là xương ngón tay.
Na Lan dường như nhìn thấy
một bàn tay tuyệt vọng đang cố sức thò lên mặt đất, cầu cứu lúc sắp chết.
Mặc kệ tay đang dính đầy
bùn, cô lấy do động ra gọi thẳng cho Ba Du Sinh.
Chương 12: Hàn mai sợ rét
Khi xẻng đất đầu tiên hắt
xuống, cô biết đây chỉ là một chặng trong cả hành trình tra tấn dài dằng dặc.
Là một chặng, nhưng không phải chặng thứ nhất.
Chặng thứ nhất đã hú còi đi
qua. Cơn đau buốt tim thình lình ập đến vẫn còn hành hạ cô, sau khi ngất lịm
rồi tỉnh lại, cô đã mất một ngón tay. Chẳng biết thời gian trôi qua lâu hay
chóng, chỉ biết vết đứt đã nhiễm trùng mưng mủ.
“Xin ông hãy tha cho, cho
tôi ra khỏi đây…” Dù cố mở mắt thật to, cô cũng chỉ trông thấy nước mắt hòa lẫn
đất cát đang rào rào rơi xuống, và kẻ đứng bên trên chỉ là một bóng đen nhòe
nhoẹt. “Hãy thả tôi ra! Rồi muốn làm gì tôi cũng được.”
“Sẽ mãi mãi nghe lời ta
chứ?”
“Vâng, mãi mãi…”
Đất cát không rơi xuống nữa,
bóng đen đang định chôn sống cô bỗng dừng tay. Đây là dấu hiệu tốt. Vẫn còn hy
vọng sinh tồn.
Nhưng khi giọng kẻ kia lại
vang lên thì hy vọng biến thành tuyệt vọng. “Ta biết người chỉ leo lẻo khéo nói
để ta tha cho ngươi. Nhưng ta có một cách hay hơn, bảo đảm ngươi sẽ mãi mãi
nghe lời, không bao giờ kêu ca nữa.”
Cái xẻng lại hoạt động, đất
rơi xuống nhiều hơn.
“Tôi van ông…” Lần này cô cố
gạt sạch những thứ đang che mắt. Dưới ánh trăng, cô nhìn thấy kẻ ấy nhếch mép
cười. Cô biết lần này là chặng cuối cùng của hành trình man rợ. Cô không van
xin nữa, cô gắng sức nhoài lên trên.
Nhưng cái hố quá sâu.
Đất ướt đang hắt xuống hết
xẻng này đến xẻng khác.
Bàn tay cô tuyệt vọng giơ
lên phía trên…
Na Lan kinh hãi bừng tỉnh,
mồ hôi ướt đẫm áo ngủ.
Đầu vẫn nhưng nhức. Cô ngồi
dậy, xuống giường đi vào gian vệ sinh chật chội, rửa mặt bằng nước lạnh. Người
cô run run, có cảm giác như đất bùn ẩm ướt đang hắt vào mặt. Đây là đêm thứ ba
cô gặp cơn ác mộng gần như giống hệt nhau. Cô không nhìn rõ mặt cô gái trong
mơ. Là Nghê Phượng Anh? Mã Vân? Hay Tiết Hồng Yến?
Na Lan nhìn cô gái trong
gương. Có phải là mình không? Trong tiềm thức, cô đã thay vai cho người bị hại.
Đây là tín hiệu nguy hiểm khi con người lún quá sâu vào một chuyện.
Vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ
còn tiếp diễn!
Cơn đau đầu càng dữ dội.
Cô trở vào ngồi lên giường,
lắng nghe tiếng ngáy khe khẽ đều đều của Đào Tử. Ngoài cửa sổ, mưa phùn vẫn lất
phất bay, tiếng mưa rì rào gõ nhịp cho đêm dài tĩnh mịch.
Vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ
còn tiếp diễn.
Chỉ có cô mới có thể tìm ra
bí mật này.
Nửa giờ sau, Na Lan mở cửa
buồng bệnh nhân nặng. Y tá trực ban hốt hoảng kêu với theo, “Cô là ai?! Đêm
khuya, bệnh nhân đang ngủ…”
Na Lan bước thẳng đến bên
giường Mễ Trị Văn, hỏi cái “bộ xương khô” đang nằm bất động bằng giọng hung
hãn, cứ như không phải giọng của cô nữa,, “Ai đã giết Nghê Phượng Anh? Là ông
phải không? Tại sao ông lại căm thù sự sống? Sao ông lại giày xéo tôn nghiêm cơ
bản nhất của con người? Sao ông lại làm thế? Động cơ của ông là gì…”
“Để cô có thể ngon giấc,
phải không?” Rõ ràng là Mễ Trị Văn chưa ngủ say, lão mở to mắt trong bóng tối,
đôi mắt hơi đỏ. “Tôi biết cô sẽ lại đến nữa.”
Na Lan tức tối gắt gỏng
khiến một người nhà của bệnh nhân giường bên tỉnh giấc, ngơ ngác. Na Lan nhìn
chằm chằm vào mắt Mễ Trị Văn. “Biết gì thì nói đi, coi như vẫn chưa muộn. Biết
đâu ông sẽ không phải trở lại nhà tù nữa.”
Anh người nhà kia sực hiểu,
“Thì ra người này là phạm nhân? Sao lại xếp ông ta nằm cùng buồng với cha tôi?”
Y tá ban nãy đã vào tới nơi, “Cô là ai hả? Ra đi, nếu không tôi sẽ gọi bảo vệ!”
Một người đàn ông xuất hiện sau lưng y tá, thì thầm mấy câu, y tá nhìn Na Lan
rồi ngạc nhiên gật đầu, bước đến giường Mễ Trị Văn bật đèn đầu giường lên. Na
Lan đoán rằng anh kia là cảnh sát do Ba Du Sinh bố trí giám sát Mễ Trị Văn.
Mễ Trị Văn cười nhạt, “Nhà
tù thì có gì không tốt? Nếu thiếu giám thị, thì tôi đâu có thành tích về văn tự
như hôm nay? Và xã hội sẽ có thêm một ác ma…”
“Thực ra, ai đã…”
“Cảnh sát thẩm vấn tôi ba
ngày không lấy được câu trả lời, cô tưởng chỉ dùng một buổi tối là thành công
chắc? Tôi đây không có thỏa thuận ngầm nào hết.” Có vẻ tự cho là mình rất hài
hước, Mễ Trị Văn mỉm cười, để lộ mấy cái răng xiêu vẹo sứt mẻ. “Cô tưởng ba hôm
nay Ba Du Sinh không hứa hẹn sẽ cho tôi tương lai sáng sủa gì đó hay sao?”
“Tôi không tin rằng ông
không thèm quan tâm về chuyện được trả lại tự do.”
Lão thở dài. “Cô xem, tình
trạng tôi như thế này thì được tự do hay không có gì khác nhau? Cho nên cảnh
sát hứa trả lại tự do cho tôi, vì cho rằng tôi dù nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật
thì cũng chẳng thể làm hại nổi ai nữa! Hà hà hà…” Lão gượng cười, còn Na Lan
thì thấy sợ.
“Vậy là ông nhất quyết không
nói? Ông sợ hung thủ sẽ trả thù chứ gì? Xem ra, ông chỉ là kẻ nhu nhược, còm
cõi chẳng có gì đáng kể.”
“Dùng phép khích tướng à?”
Mễ Trị Văn từ từ ngồi dậy, ra hiệu cho Na Lan chèn cái gối vào sau lưng lão. Na
Lan không nhúc nhích. “Thực ra có phải tôi gây tội hay không, thì hài cốt của
Nghê Phượng Anh sẽ cho manh mối, DNA sẽ nói lên tất cả. Còn tôi, có phải kẻ nhu
nhược không…” Lão lại nhe hàm răng lởm chởm. “Cô có thể hỏi Bội Luân.”
“Hỏi Bội Luân?” Na Lan hơi
kinh ngạc, “…người mà ông làm hại?”
“Là người mà tôi luôn nhớ
nhung.”
Na Lan biết, nếu còn nán lại
đây thì còn điên tiết không sao chịu nổi. Cô quay người bước đi.
“Cô đến hơi sớm đấy!” Lão
nói với theo. “Tôi lại có một chữ nữa tặng cô, nhưng tôi nghĩ chưa thật hoàn
chỉnh. Chờ ngày mai cô lại vào thì…”
Nhức đầu kinh khủng. Tại
mình mất ngủ hay tại mùi đặc trưng của buồng bệnh? “Cảm ơn! Ông cứ đưa thẳng
cho anh Ba Du Sinh.”
“Kiếm báu dâng tráng sĩ, hoa
tươi tặng giai nhân! Ai đã giải được con chữ lần trước nhỉ?”
“Nói thật luôn, phát hiện
thêm các bộ xương, tôi chẳng hứng thú gì!”
“Nhưng tôi có cảm giác chỉ
có cô mới giải được chữ này. Rất có thể sẽ tiến thêm một bước để tìm ra hung
thủ.”
Na Lan khẽ nói với y tá “Xin
lỗi”, rồi đi ra khỏi buồng bệnh.
“Cô đừng quên, vụ ‘ngón tay
khăn máu’ sẽ còn tiếp diễn… và chỉ cô mới có thể chấm dứt cơn ác mộng ấy! Coi
chừng, kẻo không kịp mất!” Giữa căn buồng bệnh trong đêm, giọng lão không vang
nhưng cứ như kim châm vào màng nhĩ của Na Lan.
Trở về ký túc xá, Na Lan cứ
để nguyên quần áo nằm vật ra giường hai tiếng đồng hồ, không mộng mị gì, rồi
dậy rửa mặt chải đầu qua loa. Cô nhìn mình trong gương, ngao ngán lắc đầu, cố
thoa chút phấn son để che đi những dấu vết của một đêm bực mình mệt nhọc.
Tàu điện ngầm chạy vào trung
tâm thành phố, đi qua đường hầm dưới đáy sông thì đến khu khoa học kỹ thuật cao
Thanh Giang. Toa tàu chật như nêm, đang là giờ cao điểm điển hình, Na Lan nhận
thấy khách đi tàu đều là thanh niên như cô. Đầu vẫn ngâm ngẩm đau, nhắc cô một
điều, trong đám người trẻ tuổi này có khi tâm tư cô già nhất? Đào Tử “đáng
ghét” đã bình luận, sau khi trải qua hai vụ án lớn, ngoại hình Na Lan vẫn thế
nhưng tâm tư thì già đi mười tuổi rồi!
Cùng đám đông hành khách đi
ra khỏi ga tàu điện ngầm, Na Lan nhận ra ngay tòa nhà văn phòng của Công ty
Khoa học Kỹ thuật Vũ Cung ở đầu đường bên kia.
Tòa cao ốc vươn tận trời
xanh, phòng làm việc của giám đốc Đổng Bội Luân đặt ở tầng trên cùng, từ trên
này có thể nhìn toàn cảnh sông Thanh An.
Na Lan đứng ở phòng chờ,
nhìn thành phố Giang Kinh đang chuyển mình vận động sau giấc ngủ đêm, sực nhớ
mình không gọi điện hẹn trước với Đổng Bội Luân. Cô gái chui ra từ tháp ngà, đã
mắc một sai lầm lớn trong giao tiếp. Na Lan đành tự an ủi, nếu bị từ chối cũng
đành, ít ra mình vẫn được ngắm một cảnh tượng rất hoành tráng.
Một phụ nữ đứng tuổi mặc đồ
công sở ngồi ở bàn thư ký giám đốc ngoài tiền sảnh, nghe Na Lan nói muốn gặp
giám đốc, chị cười, “Cô là Na Lan à?”
“Vâng.”
“Giám đốc mời cô vào.”
Na Lan ngạc nhiên, “Phiền
chị vào hỏi xem chị ấy có thì giờ không…lẽ ra tôi phải hẹn trước…”
“Giám đốc đã dặn trước, nếu
cô Na Lan đến thì cứ mời vào. Chỉ cần đang có mặt ở văn phòng, giám đốc sẽ tiếp
cô bất cứ lúc nào.”
Đổng Bội Luân rất thông
minh, đã lường trước là cô sẽ đến. Muốn, thậm chí là mong mỏi, được trao đổi
với cô, có phải thế không? Na Lan chợt cảm thấy mình có phần chủ quan.
Thư ký gọi điện báo cáo,
đoạn dẫn Na Lan đến cửa phòng làm việc của Đổng Bội Luân rồi quay ra pha trà.
Trong phòng đang họp thì
phải. Na Lan bước đến cửa thì có hai người đàn ông khoảng ngoài 30 tuổi cầm
laptop bước ra.
Đổng Bội Luân, mái tóc dài
buộc đơn gian thả ra sau gáy, sơ mi trắng cài hoa nhỏ màu tím nhạt, nhích xe
lăn ra, mỉm cười bắt tay Na Lan, “Hoan nghênh em!”
Na Lan bất giác nhớ lại cái
vẻ đắc ý huênh hoang của Mễ Trị Văn cách đây không lâu. Cô càng khâm phục nhân
cách của Đổng Bội Luân khi không đắc ý nói rằng “Tôi biết thế nào cô cũng đến”.
Phòng làm việc rất rộng,
không xa hoa cầu kỳ, tường sơn trắng muốt treo vài bức thư pháp với những nét
mực đậm nhạt mau thưa. Nếu đây là phòng làm việc của giám đốc nào khác thì rõ
là trưởng giả học làm sang! Không hiểu tại sao… có lẽ là vì bản thân chủ nhân
vô cùng trang nhã, cho nên người và vật ở đây đều hài hòa. Chỉ hiềm, tổng thể
có phần thanh đạm và hơi nhợt nhạt? Phải chăng chủ nhân muốn dùng cách trang
trí đơn sơ trong sáng để tẩy mờ những hoen ố do bị xâm hại năm xưa?
Ánh mắt Na Lan dừng lại thêm
mấy giây ở một bức tranh, Đổng Bội Luân nhận ra ngay, “Em biết về nó à?”
Đó là bức tranh thủy mặc,
hình chữ nhật, vẽ cảnh cây mai khúc khuỷu gầy guộc, ngạo nghễ trong giá lạnh,
hương thầm của nó dường như nhẹ lan ra khỏi bức tranh.
“Đây là bức Băng tư sảnh ảnh
đồ của Văn Trưng Minh. Hồi đại học em có đi Nam Kinh chơi, đã nhìn thấy bản gốc
bày trong bảo tàng.”
Đổng Bội Luân khẽ mỉm cười,
không nói gì.
Na Lan bỗng nghĩ ra, kinh
ngạc nói, “Lẽ nào… đây mới là bản gốc?”
Cặp mày cong mảnh của Đổng
Bội Luân hơi nhích lên. “Tôi không nói thế đâu!”
“Chỉ là cảm giác, em chỉ
đoán vậy. Cô là người theo đuổi sự hoàn mỹ, khi đã có tiềm lực kinh tế thì sẽ
không treo các bức họa sao chép. Em không có ý nói là cô ưa phô trương…” Na Lan
tự trách mình nói năng thật là dại dột.
“Em thích giả thiết, giả
thiết tôi theo đuổi sự hoàn mỹ, giả thiết tôi tinh tế khá giả…” Không rõ ánh
mắt của Đổng Bội Luận là khen ngợi hay là trách móc.
Na Lan nói, “Suy luận hợp lý
cộng với giác quan thứ sáu thứ bảy gì đó… là sở trường hoặc là bệnh nghề nghiệp
của những người làm về tâm lý học ạ.”
Đổng Bội Luân lại thoáng nét
cười, “Trực giác của em khá chuẩn. Bức tranh bày trong bảo tàng Nam Kinh là bản
sao. Khi có những cuộc triển lãm quan trọng, tôi đương nhiên có thể cho họ
mượn.”
“Hàn mai vẫn ngạo nghễ trong
sương giá, là hình ảnh ẩn dụ quá hay về tinh thần trỗi dậy sau khi bị tổn
thương.” Na Lan bình luận dường như rất tự nhiên.
Đổng Bội Luân cười, nói, “Em
đang phân tích tâm lý giúp tôi đấy à?”
“Em không biết ai là chuyên
gia tâm lý cho cô, nhưng chắc chắn phải là chuyên gia hàng đầu ở Giang Kinh, em
đâu dám mạo muội…” Không phải Na Lan khiêm tốn. Người có thể giúp Đổng Bội Luân
vượt qua nỗi đau, nhất định không thể là hạng bình thường. Cô chuyển hướng, “Dù
ẩn dụ về hàn mai đã được dùng quá nhiều, nhưng đúng là em đã nghĩ như vậy, cô
không muốn mình sẽ héo khô trong những hoàn cảnh chẳng ra gì, bằng mọi cách, cô
sẽ vươn lên, cứng cỏi kiên cường.”
“Cho nên, nếu em coi bức
tranh này là tác phẩm thể hiện hoặc khích lệ ý chí, tôi cũng không có ý kiến
gì.” Đổng Bội Luân chấp nhận sự phân tích của Na Lan. Ánh mắt luôn dừng trên
khuôn mặt cô. Na Lan cảm thấy hình như Đổng Bội Luân đang quan sát đánh giá một
đối thủ, đang ngạc nhiên khi gặp một điều bất ngờ. Thế thì cứ để cho bất ngờ ấy
tiếp tục!” Em xin hỏi thẳng một câu, theo ý cô, một người như Mễ Trị Văn có thể
gây ra các án mạng liên hoàn như “ngón tay khăn máu” không?”
Im lặng.
Đổng Bội Luân im lặng. Không
phải vì đang cân nhắc từ ngữ, mà là vì đang kìm nén những chuyện xưa như nước
lũ bắt đầu dâng lên, như mãnh thú rục rịch đứng dậy.
“Vụ án… liên quan đến Mễ Trị
Văn và tôi, em đã biết được đến đâu?” Sau hồi im lặng, Đổng Bội Luân hỏi.
Na Lan nói, “Chỉ là các tin
tức mà truyền thông đã đăng tải.”
“Anh Ba Du Sinh không cho em
đọc các biên bản ghi chép về vụ đó à?”
“Không ạ. Các chi tiết liên
quan đều đã bị xóa hết. Em chỉ hiểu về cô qua các tài liệu báo chí.”
Đổng Bội Luân gật đầu, “Ba
Du Sinh là người rất có nguyên tắc, những người ưu tú như anh ta ngày càng ít…
Vì thế, em cũng không hỏi thêm thông tin ở anh ta nữa.”
“Nhưng tài liệu của giới truyền
thông lại quá ít. Ví dụ…” Ánh mắt Na Lan dừng ở chiếc giá kê nơi góc tường, bên
trên là cây đàn tranh. “Ví dụ, em không biết cô lại chơi đàn tranh.”
Đổng Bội Luân bỗng rùng
mình, “Đã rất lâu… tôi không đụng đến nó nữa rồi.”
“Mong cô thứ lỗi… em đã đường
đột đến gặp cô.”
“Sau lần gặp em ở bệnh viện
cách đây mấy ngày, không hiểu sao… có lúc tôi rất mong em sẽ đến đây… Này, lẽ
nào em cho rằng tôi sẽ kể cho em biết về cơn ác mộng đó?”
“Em muốn giúp đỡ những cô
gái mất tích lâu nay.”
“Rồi đi đến đâu? Em chẳng
qua sẽ tìm ra thêm các thi thể mà thôi.”
“Không chỉ là thế ạ! Vì vụ
án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp diễn.” Na Lan nhắc lại lời Mễ Trị Văn và cảm
thấy hoảng sợ, hình như cô đã bị tên ác ma ấy tẩy não, cô đã rơi vào trò chơi
của lão!
Đổng Bội Luân cười nhạt,
“Lão nói thế chứ gì? Và em đã tin? Dù vụ ‘ngón tay khăn máu’ do lão đạo diễn,
rồi sao nữa? Em gặp lão rồi, em cảm thấy lão vẫn gây án được hay sao?”
“Nhưng nếu không phải lão,
thì hung thủ vẫn đang tự do, hắn sẽ lại gây án.”
“Nếu hung thủ không phải Mễ
Trị Văn, thì chuyện ngày trước lão gây ra đối với tôi liên quan gì đến hung thủ
của vụ án ‘ngón tay khăn máu’? Cái logic này tôi thấy khó hiểu…”
Na Lan hít thật sâu một hơi,
nhanh chóng sắp xếp suy nghĩ của mình. “Rõ ràng là Mễ Trị Văn rất tường tận vụ án
‘ngón tay khăn máu’, muốn có thay đổi đột phá cần nhằm vào lão ta. Dù không
phải hung thủ đi nữa, thì nhiều khả năng lão biết hung thủ. Tìm hiểu và nắm
vững trò chơi của lão thì có thể lôi hung thủ ra ánh sáng.”
Đổng Bội Luân lại trầm ngâm.
Hình như đang cân nhắc để đưa ra câu trả lời chính xác. Việc cố gắng nhớ lại
chuyện xưa chẳng khác gì cơn ác mộng, ánh mắt chị chồng chéo những khổ đau và
căm hận. Rồi nói, “Em biết đấy, tôi không muốn nhắc lại những nỗi đau ngày
trước và cũng không kể các tình tiết nặng nề cay đắng làm gì.” Nhận ra ánh mắt
thất vọng của Na Lan, Đổng Bội Luân lại nói. “Em nên tin ở Ba Du Sinh, anh ta
nắm được tường tận các tình tiết, sẽ đối chiếu các hành vi của Mễ Trị Văn với
hành vi của hung thủ ‘ngón tay khăn máu’ và đưa ra phán đoán có phải là cùng
một người hay không.”
Na Lan không thể không công
nhận Đổng Bội Luân nói rất có lý. Cô dịu dàng nói, “Xin cô tha thứ cho em đã
bất nhã hỏi cô một số vấn đề có phần nhạy cảm. Em xin hứa lần sau không dám thế
nữa.”
Đổng Bội Luân mỉm cười, nét
kiều diễm giá băng biến thành vẻ đẹp mê hồn. “Không sao. Thực ra tôi cũng không
yếu đuối… và vẫn rất vui nếu gặp lại em. Không phải là nói xã giao, cứ tin tôi
đi.”
Na Lan đứng dậy cáo từ. Đổng
Bội Luân bỗng lộ vẻ thẫn thờ. Như thể muốn nói thêm điều gì.
“Tôi vẫn cảm thấy… tiếc vì
để em phải ra về tay không. Coi như tôi gián tiếp trả lời vấn đề mà em quan
tâm.” Dường như có làn sương mỏng bỗng trùm lên khuôn mặt, Đổng Bội Luân lại
cân nhắc một lát. “Nói thế này đi, nếu có cơ hội thoát khỏi sự trừng phạt của
bệnh tật, trốn khỏi nhà tù, thì việc đầu tiên Mễ Trị Văn làm là tìm đến tôi, để
tiếp tục làm cái chuyện lão chưa hoàn tất trong đêm hôm đó.”
Hàn mai trong tranh, hình
như, cũng vừa rùng mình.
Chương 13: Một búng chết hai
Đến nhận các di vật của Nghê
Phượng Anh là đôi vợ chồng già tuổi gần sáu mươi. Đúng lúc Na Lan đang ở Sở
Công an bàn với Ba Du Sinh về vụ án, nên cũng có mặt khi tiếp họ. Cô xót xa
nhìn hai mái đầu đã bạc, bàn tay run run và mắt nhòa lệ. Ba Du Sinh giới thiệu,
“Đây là cô Na Lan chuyên gia tâm lý, Sở chúng tôi mời cộng tác. Cô ấy muốn nói
chuyện với hai bác…”
“Không cần! Ông già thô lỗ
ngắt lời. “Đã ngần ấy năm, chúng tôi đã chuẩn bị tư tưởng, khỏi cần tư vấn tâm
lý.” Khi xưa Nghê Phượng Anh chỉ có gia đình anh trai chị dâu là người thân.
Chắc ông già ăn mặc giản dị này là ông anh, tên là Nghê Bồi Trung.
Na Lan nói, “Tôi muốn nói
chuyện với ông bà, cốt biết thêm tình hình về Nghê Phượng Anh, qua đó giúp công
an nhanh chóng tìm ra hung thủ sát hại cô ấy.”
“Nhanh chóng ư?” Ông già
cười khảy. “Còn định nhanh như thế nào? Gần ba mươi năm rồi!”
Cứ nghĩ đến cảm giác chờ đợi
khắc khoải của thân nhân người bị nạn, cũng thấy ông già lạnh nhạt như thế này
không phải là vô lý. Na Lan nhẹ nhàng thuyết phục, “Đã phát hiện được hài cốt
của Nghê Phượng Anh, rất có thể sẽ tiếp tục lần ra các tình tiết khác, chúng
tôi muốn tìm hiểu thêm về cuộc sống của cô ấy ngày xưa, sẽ hữu ích cho việc suy
đoán về hung thủ.”
Nghê Bồi Trung hình như càng
được thể lấn tới, “Suy đoán cái gì? Dù là thằng khốn nào gây ra thì nó cũng đã
ung dung suốt bao năm qua, đạo trời còn bất công nữa là… mấy cô gái trẻ sẽ tài
ba hơn các anh công an kỳ cựu hay sao? Anh công an họ Trần ngày xưa đâu? Một
người tài ba, yêu nghề, anh ta thế nào rồi?!” Ông già càng lúc càng nói to, bà
vợ đứng bên khẽ kéo tay chồng, nhưng ông vẫn mặc kệ.
“Chính cô Na Lan đã phát
hiện ra hài cốt của Nghê Phượng Anh!” Ba Du Sinh hờ hững chêm một câu.
Nghê Bồi Trung sững người,
cả hai vợ chồng đều chăm chú nhìn Na Lan. Na Lan định nói thẳng, tại sao hồi
Trần Ngọc Đống ghi biên bản đánh giá thì ông bà không tỏ thái độ hợp tác? Bấy
giờ Nghê Bồi Trung là cán bộ ở một cơ quan địa phương, cô vợ Hồ Thanh là nhân
viên OTK ở một xưởng chế biến thực phẩm, cả hai đều rất tốt tính, không hề có
tiền sự hay động cơ gây án, Trần Ngọc Đống tuy không ưa thái độ của họ nhưng
vẫn loại họ khỏi diện tình nghi. Anh em nhà họ Nghê mồ côi sớm, hàng xóm đều
biết họ rất thân thiết đùm bọc nhau, Nghê Phượng Anh gần như do một tay vợ
chồng anh chị nuôi nấng lớn khôn.
“Tôi muốn hỏi câu này, cũng như
câu chú Trần Ngọc Đống năm xưa từng hỏi. Mong ông bà nhớ lại xem, Nghê Phượng
Anh xinh đẹp như vậy, liệu có ai thèm khát, đố kỵ, hằn học hoặc hà hiếp gì cô
ấy không? Cô ấy có chơi với người nào không tốt không?” Na Lan nhìn thẳng vào
hai vợ chồng già.
Khuôn mặt vàng vọt nhăn nheo
đỏ ửng lên, Nghê Bồi Trung kêu ca, “Hà hiếp cô ấy? Nghĩa là sao? Thế nào gọi là
người không tốt? Hồi đó trật tự trị an xã hội tốt hơn hẳn bây giờ, khu tập thể
cơ quan tôi còn chẳng cần khóa cửa ban đêm… Phượng Anh rất ngoan, không cứ lớn
nhỏ việc gì cũng bàn với chúng tôi, có bạn trai là lập tức dẫn về ra mắt anh
chị, không bao giờ đi đâu qua đêm như con gái thời nay, hết giờ làm là về nhà
giúp đỡ gia đình. Hôm nó mất tích, là sau khi tan lớp học ban đêm…” Ông nghẹn
ngào không nói tiếp được, đôi mắt rơm rớm…
Hồ Thanh từ đầu chỉ im lặng,
bấy giờ tiếp lời chồng, “Lẽ ra tối hôm đó cậu bạn trai đến đón nó. Cậu ấy là
cảnh sát, đang trên đường đi thì làm người tốt việc tốt, đưa một cụ già bị ngất
ngoài phố vào viện cấp cứu, nên đến muộn vài phút, không đón được nó… chỉ muộn
vài phút…” Bà cũng không nói được nữa.
Na Lan giơ một tấm ảnh lên,
hỏi họ, “Ông bà có ấn tượng gì về người này không?”
Cả hai nhìn ảnh “đại sư
Thương Hiệt” Mễ Trị Văn nằm trên giường bệnh, cùng lắc đầu. Cô lại đưa ra một
bức ảnh vẽ, bà Hồ Thành cau mày, nói, “Không phải ảnh… người này và người gầy
còm vừa nãy là một à? Trông trẻ hơn rất nhiều.” Bà lại nhìn Ba Du Sinh. “Trước
đây đội trưởng Ba Du Sinh cũng cho chúng tôi xem rồi.” Đây là một ảnh in, kỹ
thuật viên của Sở công an dùng phần mềm phân tích ảnh, dựa vào ảnh hiện giờ của
Mễ Trị Văn chế ra bức ảnh suy luận hồi trẻ. Trong ảnh, Mễ Trị Văn vẫn gầy như
khuôn mặt sáng sủa, tương đối đẹp trai.
Tiễn vợ chồng Nghê Bồi Trung
ra về xong, Na Lan tương đối thẫn thờ, hẫng hut. Ba Du Sinh an ủi cô, “Chúng ta
có thể hình dung ra tâm trạng của ông Trần Ngọc Đống ba mươi năm trước, vô số
cuộc điều tra, thẩm vấn và vô số lần bế tắc.”
“Nhưng lần này ít nhiều đã
có thu hoạch.” Na Lan tư lự.
“Thế à?”
“Hai người trả lời không mâu
thuẫn gì với ngày trước, nhưng có một chi tiết… liệu có thể coi là mấu chốt
không.” Na Lan cúi xuống lật giở cuốn sổ tay công tác mà Trần Ngọc Đống để lại,
ghi chép các tình hình ban đầu của vụ án “ngón tay khăn máu”. “Khi em hỏi có ai
đã từng hà hiếp Nghê Phượng Anh không, cô ấy có giao du với kẻ xấu nào không,
thì hai vợ chồng họ cùng nhìn nhau. Có thể chỉ là ngẫu nhiên, cũng có thể là họ
đang muốn che giấu điều gì.”
Ba Du Dinh khẽ gật đầu. Đây
là sự nhạy cảm của người làm về tâm lý học như Na Lan.
“Cho nên em muốn tìm một
người có thái độ bất hợp tác khác để nói chuyện.” Na Lan chỉ vào một cái tên
ghi trong cuốn sổ tay.
Những năm 80 của thế kỷ
trước, với Na Lan chẳng khác gì thời cổ đại. Ngày trước nghe cha mẹ kể chuyện
cũ, cô hiểu rằng thời ấy con người chất phác giản dị, giác ngộ cách mạng cao,
rất khó tưởng tượng không chỉ một người tỏ thái độ bất hợp tác với cảnh sát
trong việc điều tra trọng án. Na Lan phỏng vấn một nhân vật khác có thái độ như
thế, tên là Mạc Lệ Nhã. Theo ghi chép của Trần Ngọc Đống, đây là cô bạn thân
nhất của Nghê Phượng Anh ngày xưa, sinh ra và lớn lên trong một khu nhà chung.
Mạc Lệ Nhã nay đã là một phụ
nữ tuổi 50, đã dọn ra khỏi khu nhà chung. Hai năm trước, Trần Ngọc Đống có cập
nhật địa chỉ mới vào ghi chép. Na Lan không thể không khâm phục người cảnh sát
già đã hết sức tận tụy với vụ án, chỉ một manh mối xưa cũ cũng quan tâm.
Khi Na Lan tìm đến nhà Mạc
Lệ Nhã thì bà ta vừa đi làm về. Cô đứng ngay ở sân nói chuyện. Mạc Lệ Nhã trang
điểm khéo léo tinh tế, trông trẻ hơn nhiều so với tuổi thực tế. Biết mục đích
viếng thăm của Na Lan, khuôn mặt hiền hòa của bà hơi nặng nề, “Sao các vị vẫn
cứ lẽo đẽo mãi? Hai năm trước Trần Ngọc Đống còn liên lạc với tôi, tôi bảo
những gì cần nói thì tôi đã nói từ ba mươi năm trước rồi, các anh cứ hỏi mãi để
làm gì chứ?”
Giọng bà không vang nhưng âm
cao lanh lảnh, rất không tự nhiên. Na Lan nghĩ mình không nên nói ra chi tiết
đã tìm thấy hài cốt của Nghê Phượng Anh, cô mỉm cười, “Cháu thay mặt chú Trần
Ngọc Đống xin lỗi cô, ngày ấy chú Đống còn trẻ bồng bột, nói năng vụng về, nên
cô không bằng lòng.”
Mạc Lệ Nhã cảm thấy áy náy,
mỉm cười, “Không đâu. Nhưng cháu xem, một vụ án ba mươi năm không phá được, mà
cảnh sát còn hỏi đi hỏi lại những điều cũ rích.”
“Chúng cháu có một manh mối
mới.” Na Lan lấy tấm ảnh Mễ Trị Văn ra, “Cô đã nhìn thấy người này bao giờ
chưa?”
Mạc Lệ Nhã vừa nhìn đã lắc
đầu, “Thế này mà gọi là mới? Lần trước anh Đống gặp tôi đã cho tôi xem rồi. Tôi
chưa bao giờ thấy người này, tôi chẳng có ấn tượng gì.”
Na Lan cất tấm ảnh đi, mỉm
cười, “Manh mối mới thực sự, là cô ạ!”
Mạc Lệ Nhã mặt lạnh hẳn đi.
Na Lan tiếp tục, “Nghê Phượng Anh mất tích là khởi đầu của một loạt vụ án, và
cũng là vụ được quan tâm nhất. Khi xảy ra vụ án này, Giang Kinh là nơi yên
bình, hiếm khi xảy ra các vụ án hình sự tàn bạo, nếu cháu đoán không lầm thì
hồi đó mọi người giác ngộ cao, luôn nhiệt tình phối hợp với công an. Nhưng
những người thân của Nghê Phượng Anh, như vợ chồng người anh trai, và cả cô
nữa, lại bị coi là có thái độ thiếu hợp tác. Phải chăng ngẫu nhiên, hay có điều
gì sâu xa hơn? Chắc chú Trần Ngọc Đống cũng từng nghĩ như thế, nhưng các cô chú
đều không thuộc diện tình nghi, nên dù không thoải mái thì cảnh sát cũng ngừng
đào sâu. Về sau còn xảy ra nhiều vụ nữa, nên cảnh sát cũng ngưng chú ý đến Nghê
Phượng Anh và các cô chú. Cháu đã suy nghĩ rất lâu, việc cả ba cùng tỏ ra khó
chịu không thể chỉ là ngẫu nhiên, nhất định phải có lý do khiến các cô chú
không hợp tác. Khoa tâm lý học giải thích rằng đó là tác dụng trái chiều sau
khi bị bức xúc nặng nề. Có những điều cô rất muốn nói nhưng lại cảm thấy không
thích hợp nên nén lại, và tỏ thái độ khó chịu chứ thâm tâm vẫn muốn giãi bày.
Cho nên cháu đã gặp cô và sẵn sàng lắng nghe.”
Cả hai đứng đó nhìn nhau rất
lâu. Thấy sắc mặt Mạc Lệ Nhã không ngớt thay đổi, Na Lan hiểu rằng mình đã bắt
đúng mạch. Cuối cùng bà ra cũng nói, “Cháu trang nhã trẻ trung mà xem chừng
cũng lắm mưu kế ra trò nhỉ?”
Na Lan cười, “Cháu chỉ là
con mọt sách thích giải câu đố thôi.”
Mạc Lệ Nhã nhẹ nhõm hẳn đi,
bà nhìn quanh rồi nói, “Lên nhà tôi ngồi chơi, ta nói chuyện!”
Đây là những điều tôi cố nén
không nói ra.” Cùng ngồi xuống đi văng xong, Mạc Lệ Nhã chần chừ hồi lâu rồi
mới nói, ánh mắt hơi thẫn thờ. “Hồi đó tôi cảm thấy nó không mấy liên quan đến
việc Nghê Phượng Anh mất tích.” Bà trầm ngâm một lúc. “Thậm chí, tôi cho rằng
Nghê Phượng Anh chủ động mất tích, nên nếu nói ra chuyện mình biết, tôi e sẽ
bất lợi cho cô ấy.”
Na Lan lặng lẽ đợi bà nói
tiếp. Mạc Lệ Nhã đắn đo một lúc, chợt hỏi, “Cháu không cần ghi biên bản à?”
“Không ạ. Cháu chỉ hỗ trợ điều
tra về mặt kỹ thuật, cháu không phải cảnh sát phụ trách vụ án.” Na Lan biết,
mọi người nhìn thấy ghi chép luôn tay thì họ sẽ nói năng thận trọng e dè, như
thế sẽ không có lợi cho việc thu lượm thông tin.
Mạc Lệ Nhã tỏ ra tự nhiên
thoải mái hơn, bắt đầu kể, “Có một chuyện này Nghê Phượng Anh chỉ thổ lộ riêng
với tôi, còn bắt tôi thề không thuật lại với ai. Bấy giờ chúng tôi làm ở xưởng
dệt, một hôm cũng vào nhà tắm tôi nhìn thấy lưng Phượng Anh có một vết đỏ tấy
rất mới và vẫn đang rớm máu, bèn hỏi cô ấy nguyên do. Phượng Anh chỉ ấp úng nói
lỡ va vào đâu đó. Tôi bảo đừng giấu tôi, đây rõ ràng là vết bỏng. Lúc đó cô ấy
mới nói thật, rằng mấy hôm trước to tiếng với chị dâu, bà ta điên tiết cầm luôn
cái bàn là đang nóng gí vào cô ấy. Tôi rất hồ nghi, vì Phượng Anh vốn tính mềm
mỏng không sinh sự cãi cọ bao giờ. Tôi liền căn vặn truy hỏi, thì cô ấy òa
khóc. Phượng Anh mồ côi cha mẹ từ khi còn rất nhỏ, cô sống với anh trai, khi
anh lấy vợ cô vẫn ở cùng nhà với họ. Anh trai đã cấp dưỡng cho Phượng Anh đến
tận khi cô ấy đi làm ở xưởng dệt. Ngày thường hai anh em có vẻ rất tốt với
nhau, tới hôm đó cô ấy mới cho tôi biết, hai vợ chồng anh trai đã ngược đãi cô
từ rất lâu rồi. Hồi chưa lấy vợ, người anh cũng hay nổi cáu đánh đập cô, nhưng
chưa đến nỗi quá đáng. Sau đám cưới lại được chị dâu chua ngoa đanh đá khiến
tinh thần cô càng thêm nặng nề. Phượng Anh vốn mát tính, biết ơn anh nuôi nấng
bao năm nên dù bị đánh đập chửi mắng cô cũng ráng chịu, không hề phản ứng lại.
Các cháu làm nghiêp vụ tất sẽ hiểu rằng, Phượng Anh càng nhẫn nhịn thì họ sẽ
càng được thể lấn tới. Hôm đó ở nhà tắm cô ấy đã chỉ cho tôi xem nhiều vết
thương khác ở dưới nách, ở gan bàn chân, ở mé trong đùi… tím tái hoặc tấy đỏ,
có cả những vết thương đang đóng vẩy. Tôi quá kinh hãi, hỏi sao cậu mềm yếu quá
thế, không đánh trả thì cũng phải nói toạc ra cho người yêu là anh Phạm cảnh
sát biết chẳng hạn. Cô ấy phản đối, ‘Làm thế sao được? Đây là việc trong nhà,
anh thay cha giáo dục em gái lẽ nào coi là phạm pháp? Tôi đâu có muốn anh chị
phải vào trại giam! Anh tôi hơi xấu tính, chị dâu hơi đanh đá một chút nhưng
cũng chưa phải kẻ xấu xa tàn độc gì. Tôi chỉ mong chóng kết hôn với anh Phạm để
chuyển đi chỗ khác. Thế là ổn.’ Tôi không đồng ý với quan điểm của Phượng Anh,
nhưng cũng không cho là sai lầm gì to tát. Chỉ nói, ‘Anh Phạm có vẻ tốt bụng,
nhưng kết hôn là việc hệ trọng không thể hấp tấp cho qua, trước mắt cậu nên đi
khỏi nhà, càng xa càng tốt, ví dụ dọn hẳn ra ngoài ở.’ Phượng Anh im lặng rất
lâu, hình như cũng bị gợi ý của tôi tác động.”
Mạc Lệ Nhã thở dài, sắc mặt
buồn rầu, ánh mắt thẫn thờ nhìn Na Lan.
“Rồi sao nữa?” Na Lan hỏi.
“Hết rồi, chỉ thế thôi.
Không lâu sau đó, Phượng Anh mất tích.” Mạc Lệ Nhã nhìn đôi mắt vẫn đầy băn
khoăn của Na Lan. “Chắc cháu thắc mắc rằng một chi tiết quan trọng như thế, tại
sao khi xưa tôi không nói ra? Nhưng tôi biết nói thế nào? Không rõ… liệu có
khiến sự việc xấu hơn nữa không.”
Na Lan gật đầu, “Cô biết
không phải vợ chồng Nghê Bồi Trung gây án, vì tối hôm Nghê Phượng Anh mất tích
có nhân chứng nhìn thấy họ, nhân chứng ấy chính là cô và gia đình cô. Nghê Bồi
Trung là hàng xóm, là bạn của cha cô, hôm ấy họ ngồi chơi cờ ở nhà. Hồ Thanh
cũng ngồi trò chuyện với mẹ cô. Khi anh Phạm chạy đến kể là không đón được Nghê
Phượng Anh, chắc cô cho rằng Nghê Phượng Anh đã bỏ trốn.”
“Đúng thế! Tôi nghĩ Phượng
Anh bị đánh đập nên lánh đi, sau này sẽ quay lại liên lạc với tôi. Nhưng rồi
ngón tay ấy được gửi về nhà…” Mạc Lệ Nhã hít thật sâu một hơi. “Tôi đờ đẫn,
không biết nên làm gì. Chắc chắn Phượng Anh đã bị hại rồi. Tôi có nên đến công
an nói rằng vợ chồng Nghê Bồi Trung ngược đãi cô ấy không? Nói ra, rồi sao nữa?
Tối hôm đó Nghê Bồi Trung không đủ thời gian đi gây án. Hai vợ chồng họ cuống
lên vì vụ mất tích của cô em, sau khi nhận được ngón tay, họ như người mất hồn,
không hề có vẻ giả vờ. Nếu tôi báo công an thì họ sẽ chết dở, bị điều tra lên
bờ xuống ruộng đã đành, có khi còn bị cơ quan xử lý đuổi việc cũng nên. Bấy giờ
họ lại đang có hai con nhỏ… Tôi do dự như thế ba năm trời, đến vụ án chặt ngón
tay thứ hai thì tôi hiểu rằng mình đã quyết định đúng. Vợ chồng Nghê Bồi Trung
không liên quan đến việc Phượng Anh bị hại.”
Na Lan hỏi, “Nhưng tại sao
cô vẫn thấy nặng nề vì mình không nói ra?” Mục đích của Na Lan là muốn Mạc Lệ
Nhã tiếp tục nói.
“Đương nhiên là thế! Bất kể
giác ngộ ra sao, tôi vẫn biết thế nào là đúng sai đen trắng. Nghê Bồi Trung và
Hồ Thanh không liên quan đến vụ chặt ngón tay hàng loạt, nhưng không có nghĩa
là tội hành hạ Phượng Anh cũng được xí xóa! Cháu nghĩ xem, ác giả phải có ác
báo chứ? Nhưng tôi vẫn không biết nên nói sao để họ phải nhận được bài học
thích đáng mà không đến nỗi tàn đời… cả hai đã sáu mươi tuổi đầu, có cháu gái
cháu trai cả rồi.”
Na Lan gật đầu, khẽ nói,
“Cháu cảm ơn cô. Cô là người rất tốt, cô nói cháu hiểu cả. Cháu cũng tin rằng
kẻ làm việc xấu, dù đại gian ác hay người bình thường, đều phải chịu báo ứng.
Chỉ còn là thời cơ và cách thức mà thôi.”
Vợ chồng Nghê Bồi Trung cũng
đã dọn đi khỏi khu nhà chung, đến ở căn hộ thuộc một chung cư nhỏ, cùng tòa nhà
với Mạc Lệ Nhã. Nghê Phượng Anh vẫn còn hiện diện trong gia đình này. Vừa bước
vào nhà có thể nhận ra ngay, ở phòng khách treo một số khung ảnh, có ảnh chụp
chung cả nhà Nghê Bồi Trung ba thế hệ, ảnh các con các cháu, và vài bức ảnh đen
trắng cũ, là di ảnh của cha mẹ Nghê Bồi Trung, ảnh cưới của vợ chồng ông và ảnh
của Nghê Phượng Anh đứng trước cây cầu Thanh An mỉm cười rất tươi nhưng đôi mắt
vương buồn.
Na Lan gần như dùng vũ lực
để vào được nhà Nghê Bồi Trung. Ông ta chỉ he hé cửa nhưng cô cứ mạnh dạn tiến
vào, nói, “Tôi chỉ hỏi có một câu, ông bà tính đi, hoặc trả lời tôi hoặc chờ
công an đến hỏi lại.”
Hồ Thanh lớn tiếng, “Có ai
lại như cô…”
Na Lan nhìn Nghê Phượng Anh
trong tấm ảnh, nói, “Ông bà đã hành hạ Nghê Phượng Anh bao giờ chưa?”
Cả nhà im phăng phắc.
Lát sau, là tiếng thở càng
lúc càng gấp gáp và tiếng bước chân bất an của Nghê Bồi Trung đi đi lại lại.
“Sao cô lại nói thế?” Nghê
Bồi Trung phản bác nhưng giọng run run.
“Tôi không nói rằng ông bà
đáng phải ngồi tù, cũng không nói rằng ông bà đã hại Nghê Phượng Anh. Tôi chỉ
muốn hỏi khi cô ấy còn sống, ông bà đã đối xử với cô ấy như thế nào. Bao năm
qua có thấy dằn vặt không? Hôm nay nhìn hài cốt và di vật của cô ấy, ông bà có
hối hận không, hối hận vì lẽ ra ngày xưa mình nên đối xử tử tế với em hơn, đừng
nên ngược đãi thể xác và tinh thần cô ấy?” Đôi mắt Na Lan rơm rớm lệ. Cô vốn
không phải người hay nói, nhưng lúc này khó mà không kể tội, chất vấn họ.
“Cút ra ngay!” Nghê Bồi
Trung gầm lên.
Hồ Thanh cũng mở cửa, tru
tréo, “Ra đi! Ra đi! Ai cho mày vào đây? Nếu không ra tao gọi bảo vệ!”
Na Lan biết họ đã thừa nhận.
Tuy không rõ họ hối hận được đến đâu, nhưng cô đã nói trúng đích, không nhầm.
Cô bước ra. Vẫn nghe thấy tiếng hai vợ chồng thở hồng hộc ở đằng sau. Cô ngoái
lại, “Nếu ông bà muốn nói chuyện, có thể liên lạc với tôi, tôi đã thả tấm danh
thiếp vào thùng thư của nhà ta.” Rồi quay người bước xuống cầu thang, chẳng
thiết nhìn lại họ nữa.
Xuống dưới sân, cô đứng im
một lúc cho tỉnh táo. Cô thấy buồn cho thái độ tồi tệ của vợ chồng Nghê Bồi
Trung và xót xa cho cuộc đời thê thảm của Nghê Phượng Anh. Ra khỏi cổng khu
chung cư một quãng thì thấy Mạc Lệ Nhã đứng bên đường lạnh lùng nhìn lại.
Mạc Lệ Nhã hỏi, “Cháu đến
nhà họ à?”
Na Lan gật đầu.
“Bị họ đuổi ra chứ gì?”
Na Lan lại gật đầu, nói, “Họ
quá hổ thẹn rồi nổi nóng.”
“Tôi không hiểu cháu làm thế
còn có ý nghĩa gì? Nghê Phượng Anh chết đã lâu, không thể cứu vãn được nữa.”
“Kẻ đã làm việc sai trái, ít
ra cũng nên biết mình đã sai, nếu không sẽ thật bất công.” Na Lan định nói, nếu
năm xưa Nghê Phượng Anh được giúp đỡ nhiều hơn, nếu có người sớm khai sáng cho
nhà họ Nghê thì số phận cô gái sẽ khác hẳn.
Cả hai lặng lẽ đứng yên một
lúc. Khi Mạc Lệ Nhã toan lên tiếng thì bỗng có tiếng phụ nữ kêu thét ở trên
tầng gác không xa.
Phía nhà họ Nghê.
Lại có tiếng kêu thảm thiết.
Na Lan phát hoảng.
Cả hai, không ai bảo ai,
cùng bước về phía đó. Mạc Lệ Nhã bỗng rú lên một tiếng.
Giữa cảnh nhập nhoạng, họ
nhìn thấy một bóng người xam xám từ tầng cao rơi vù xuống, chìm vào bóng chiều
vừa buông.
Sau một tiếng động nặng nề,
máu bắn tóe khắp mặt đường bê tông.
Người vừa rơi xuống là Nghê
Bồi Trung.
Na Lan cũng kêu thất thanh,
nhưng rồi gắng trấn tĩnh, nắm chặt tay Mạc Lệ Nhã. Cô nhìn đồng hồ, 5 giờ 28
phút chiều.
5 giờ 28 phút chiều.
Khi Na Lan đưa tay lên xem
thì ở cửa một tòa nhà phía sau, cách cô 25 mét có một người cũng xem giờ. Trước
đó người ấy vừa nói xong một cuộc điện thoại và đang nhìn Na Lan bằng ánh mắt
xót thương thì vụ thảm án xảy ra. Không thể hiểu nổi tại sao cô ta lại đến nhà
Nghê Bồi Trung, chỉ tổ rách việc. Cô ta hoàn toàn không nên dính vào vụ án
“ngón tay khăn máu”, cô ta nên ngừng trò chơi với lão Mễ Trị Văn cô độc kia mới
đúng. Cái gì nên xảy ra thì cuối cùng vẫn xảy ra, “ngón tay khăn máu” sẽ vẫn
tiếp tục, đã ba mươi năm trời không ai ngăn nổi thì con bọ ngựa Na Lan định
chặn cỗ xe bằng cách nào đây?
Trò chơi mà ta chơi với cô
ta mới thực sự là trò chơi đỉnh cao.
Chương 14: Chữ thứ hai
Nghê Bồi Trung được xác định
là chết ngay tại chỗ. Nhảy xuống từ tầng 7, đầu chạm đất trước, kết quả duy
nhất là tử vong.
Sau đó cảnh sát lên nhà Nghê
Bồi Trung và phát hiện ra Hồ Thanh đầu vỡ toác. Bên cạnh xác Hồ Thanh là một
cái búa to dính máu, vết máu trên cán búa có dấu tay, kỹ thuật viên lấy mẫu vân
tay gần như có thể kết luận ngay là dấu vân tay của Nghê Bồi Trung.
Trong vòng hai giờ, kết quả
đối chiếu vân tay được phòng xét nghiệm công bố khớp với phỏng đoán của kỹ
thuật viên, Nghê Bồi Trung dùng búa đập chết vợ là Hồ Thanh, sau đó nhảy lầu tự
tử.
Trong phòng Trao đổi với
nhân chứng.
“Trước khi xảy ra án mạng,
đến nhà Nghê Bồi Trung cô đã nói những gì?” Sĩ quan cảnh sát tự giới thiệu là
Kim Thạc hỏi Na Lan. Kim Thạc là phó chủ nhiệm Phòng Hiệp đồng các vụ án đặc
biệt nghiêm trọng, thuộc Cục Trinh sát Hình sự Bộ Công an, sau khi vụ án ‘ngón
tay khăn máu’ tái diễn, Bắc Kinh điều anh về đây phối hợp điều tra. Ba Du Sinh
đến hiện trường vài phút rồi vội vã đi luôn. Na Lan đoán rằng anh có ý tạm né
tránh, còn viên phó chủ nhiệm họ Kim thì thẳng thừng thể hiện thái độ bất mãn
về chuyến thăm viếng riêng của Na Lan.
Tại sao Ba Du Sinh lại có ý
né tránh?
Na Lan trả lời, có sao nói
vậy. Kim Thạc hỏi, “Trước khi đến nhà họ, cô có lường trước hậu quả không? Sẽ
giúp ích gì cho việc trinh sát phá án của chúng tôi đây?”
“Tôi không ngờ chỉ vì mấy
câu nói mà Nghê Bồi Trung lại quá khích đến như thế.” Na Lan không nói ra lý luận
về ác giả ác báo.
Bởi ác giả, đã chết rồi.
Kim Thạc nói, “Cô học về Tâm
lý học, lại có kiến thức về bệnh học thần kinh…”
Na Lan biết những lời tiếp
theo sẽ rất gay gắt.
“… cô nên biết những người
có hành vi bạo lực thì trạng thái thần kinh rất không ổn định nhất là khi họ bị
kích thích. Nghê Bồi Trung vừa mới biết tin chính xác em gái chết, tâm trạng
đang rất lộn xộn thì cô lại đến chỉ trích ông ta rằng có những hành vi bạo lực
của ông ta năm xưa không thể thoát khỏi ‘tuệ nhãn’ của cô, thì khả năng nảy sinh
quá khích không lớn hay sao?” Kim Thạc tức giận đứng lên, cứ như thảm kịch của
nhà họ Nghê là do Na Lan đạo diễn vậy.
Lúc này Na Lan mới chú ý
nhìn Kim Thạc, anh ta tuổi ngoài 30, người trông cao, trông rất khí thế với sắc
mặt như áp đảo người khác, thể hiện là một con người chuyên tâm với sự nghiệp.
“Tôi muốn làm rõ những hành
vi thô bạo của ông ta đối với em gái, để hỗ trợ điều tra vụ án…”
“Kể từ nay, mỗi hành động
liên quan đến vụ án của cô, kể cả gặp gỡ Mễ Trị Văn, đều phải được phép của Đội
Trinh sát Hình sự. Không được tái diễn cảnh đêm tối xông vào buồng bệnh để đấu
khẩu với lão ta nữa.” Kim Thạc lại ngồi xuống. “Chắc cô đã đoán ra, vì một
nguyên nhân đặc biệt, tôi và Sở đã thống nhất, tôi thay anh Ba Du Sinh phụ
trách điều tra vụ án này. Anh Sinh còn phải ứng phó với một số vụ quan trọng
hơn, không thể phân tâm vào vụ án này nữa…”
Vụ “ngón tay khăn máu” sẽ
còn tiếp diễn!
Na Lan nói, “Mễ Trị Văn từng
cảnh báo vụ án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp diễn. Anh được Bộ Công an điều
về đây, chẳng lẽ vụ án này không quan trọng hay sao?”
“Đây là quyết định của Sở.”
Kim Thạc lại đứng lên, nói “Chào cô” và định bước ra khỏi phòng Trao đổi với
nhân chứng thì Na Lan gọi giật lại.
“Tôi muốn vào việc gặp Mễ
Trị Văn, mong anh phê chuẩn.”
Khi Na Lan đến bệnh viện Phổ
Nhân thì trời đã gần tối. Cô không ngờ Ba Du Sinh đang chờ cô ở khu bệnh nhân
nặng.
“Em tưởng anh đã bye-bye vụ
án này rồi?” Na Lan cảm thấy giọng mình khá nhẹ nhõm.
Ba Du Sinh mỉm cười, “Đúng
là anh bị yêu cầu cách li vụ án, nhưng lúc này là ngoài giờ làm việc, anh không
thể cứ thế mà cách li thật.”
“Tại sao anh phải cách ly?”
Ba Du Sinh không trả lời
thẳng, chỉ nói, “Yêu cầu ấy là hơp tình hợp lý, nên anh chấp hành. Trước khi cô
vào gặp Mễ Trị Văn, anh muốn cho cô biết một chi tiết điều tra mới phát hiện.
Trước khi được lệnh cách ly, anh phát hiện ra rằng, máy điện thoại cố định
không dây ở nhà Nghê Bồi Trung không cắm vào ổ sạc điện như thông thường, cảnh
sát suy luận chắc là chủ nhân vừa mới có cuộc điện thoại nào đó. Đúng thế, sau
khi tra cứu danh sách các cuộc gọi thì thấy hai phút trước khi Nghê Bồi Trung
giết vợ rồi nhảy lầu, có người gọi điện đến nhà họ Nghê.”
Na Lan trầm ngâm. Chẳng lẽ
ông ta nhận được cú phôn sai khiến, sau đó giết vợ rồi nhảy lầu tự tử? Sao ông
ta có thể làm như thế? Giống như mô típ bị ai đó thôi miên hay xuất hiện trong
tiếu thuyết kinh dị ấy? Không thể! Cú phôn đó do ai gọi đến? Tất nhiên cô hiểu
chẳng ai dại gì để lộ, họ phải dùng di động nặc danh.
“Là di động nặc danh.”
Na Lan chợt nghĩ ra, “Mễ Trị
Văn! Khi cú phôn ấy gọi đến nhà họ Nghê thì lão ta đang làm gì?”
Ba Du Sinh, “Không biết có
phải ngẫu nhiên không, lúc đó lão vừa ra khỏi giường vào buồng vệ sinh. Thể
trạng của lão hiện giờ, đi vệ sinh cũng là vấn đề lớn, cho nên nhân viên y tế
và đồng nghiệp của bọn anh giám sát ở đó đều nhớ rất rõ.”
“Rất có thể chính là lão!”
Na Lan khẽ thốt lên.
“Lục soát người lão thì
không thấy có di động.” Ba Du Sinh khẽ thở dài. “Tất nhiên, nếu đúng là lão thì
không đời nào lão giữ di động để chờ chúng ta đến tóm chứng cứ.”
Na Lan tư lự, “Nếu không
phải Mễ Trị Văn gọi thì có thể là ai?”
“Đại sư Thương Hiệt!” Na Lan
đến bên đầu giường, cất tiếng gọi, cô không thấy cách gọi này buồn cười.
Mễ Trị Văn đang nửa thức nửa
ngủ, nghe thấy tiếng Na Lan gọi, mắt lão vẫn nhắm, mặc kệ cô đến mấy phút. Cuối
cùng lão cũng mở miệng, “Mời ngồi. Cô nhẫn nại hơn nhiều rồi. Xem ra tôi đã
không nhìn nhầm người.”
“Ông có quen Nghê Bồi Trung
và Hồ Thanh không?” Na Lan ngồi xuống cái ghế bên cạnh giường.
Không ngoài dự đoán của cô,
lão không trả lời, chỉ nói, “Sao cô cứ hỏi những câu cảnh sát đã hỏi mãi rồi?”
“Lẽ nào cùng một câu hỏi
không thể có cách trả lời khác nhau? Tôi cho rằng ông đối với tôi khác với cảnh
sát. Nếu không, tại sao ông không bảo cảnh sát giải mã con chữ kia?”
Mễ Trị Văn im lặng, lát sau
mới nói, “Cô chỉ trích tôi bỡn cợt đám cảnh sát phải không? Tội lớn, tôi không
dám thế đâu. Cho nên, việc trả lời cũng vậy. Tôi không quen hai kẻ đó, họ tự
cho rằng mình rất ghê gớm nhưng thực ra họ không tự kiểm soát nổi số phận của
mình.” Rõ ràng là lão đã biết tin về cái chết của hai vợ chồng nhà kia.
“Ông không gọi điện cho họ
à?”
“Cô còn hỏi những câu thiểu
năng như thế thì tôi đành giáng cấp cô chỉ như bình hoa di động, mà còn là thứ
bình cổ lỗ.” Mễ Trị Văn hung hắng ho, có vẻ tức giận thật.
Na Lan đứng lên, nói, “Hoan
nghênh ông coi tôi là đồ ngốc, điều này tôi quá mong! Xin chào! Cô không biết
mình còn phải cố tỏ ra tư thế kiểu trẻ con này bao nhiêu lần nữa.
Còn Mễ Trị Văn, dường như
chỉ số EQ của lão cũng rất thất thường. Lúc thì tinh quái bắt nọn, lúc lại đơn
thuần như đứa trẻ. Lão nói, “Đừng đi vội! Cô đến chỗ y tá mà xem sổ ghi chép
lúc 5 giờ chiều qua, ở đó có ghi một câu của tôi.”
Na Lan đến phòng trực ban.
Nghe Na Lan hỏi, y tá rất ngạc nhiên, “Đúng thế thật, lúc 5 giờ tôi đi kiểm tra
thì ông ta bảo tôi đưa cuốn sổ đang cầm nói là muốn cho tôi mấy chữ rất hay mà
ông ta mới phát minh ra. Tôi biết ông ta lẩm cẩm, nên cũng chiều và đưa ông ta
cuốn sổ ghi chép. Ông ta viết vào đó mấy chữ quái dị như nhau, tôi chẳng thiết
hỏi gì thêm.” Rồi cô đưa cho Na Lan cuốn sổ. Đúng thế, dưới những ghi chép của
cô y tá có năm ký tự kỳ quái y hệt nhau.
Na Lan nhìn mà không hiểu là
gì, đang định cầm sang hỏi Mễ Trị Văn xem mấy chữ này liên quan gì đến cái chết
của vợ chồng họ Nghê thì bỗng nhận ra phía sau của chúng viết gì đó, cô vội lật
tờ giấy, thì thấy mặt sau viết bốn chữ số. 1728.
17 giờ 28 phút, là lúc Nghê
Bồi Trung nhảy lầu.
Trên cuốn sổ ghi chép của y
tá đi kiểm tra buồng bệnh lúc 5 giờ chiều mà lại ghi thời gian Nghê Bồi Trung
giết vợ rồi tự sát, hai vụ án mạng xảy ra 28 phút sau đó!
“Ông…” Na Lan cầm cuốn sổ
quay trở lại bên giường Mễ Trị Văn.
“Vẫn chưa rõ à? Tôi đã đoán
ra số phận của hai người ấy.” Lão cười thâm thúy.
Thực không sao tưởng tượng
nổi. Na Lan đứng chết lặng. Một loạt ý nghĩ kỳ quái nảy sinh, lão có năng lực
đặc biệt hay sao? Chẳng lẽ vị trí hài cốt của Nghê Phượng Anh lão cũng đoán ra?
Cô chưa bao giờ trải qua hoặc chứng kiến hiện tượng nào không lý giải nổi,
nhưng cô biết Ba Du Sinh thường tin tưởng vào các hiện tượng siêu tự nhiên, dù
anh chưa từng giải thích tại sao lại tin.
Ông mới chỉ là Thương Hiệt
và chưa đổi tên là Phục Hy [1] thì phải? Ông đang cho chúng tôi biết ông có
đồng bọn, các người cùng lên kế hoạch gây án, và hình như chỉ lo cảnh sát không
đoán ra kẻ gây án kia! Hắn là ai? Các người liên lạc với nhau bằng cách gì? Na
Lan còn vô số câu hỏi nhưng tin chắc rằng lão không chịu hợp tác. Dù ép lão ra
khỏi trò chơi đoán chữ thì lão cũng không khai ra kẻ đồng mưu.
[1] Phục Hy là người thiết
kế ra Hà đồ, tiền thân của Bát quái và Kinh Dịch sau này.
Vấn đề là tại sao lão lại
công khai sự tồn tại của kẻ đồng mưu kia?
“Đã đọc mấy chữ tôi viết
tặng cô y tá xinh đẹp ấy chưa?”
Na Lan sửng sốt. Chẳng lẽ…
“Cô ta không thể lĩnh hội,
không thể nhận mấy chữ ấy thì tôi đành khổ sở chuyển lại cho cô vậy.” Mễ Trị
Văn hé đôi mắt đầy những tia máu đỏ nhìn chằm chằm vào Na Lan. Cô thấy lạnh
xương sống. “Chỉ là một chữ, cô lặp lại năm lần là được. Lặp lại vài lần là để
hoàn thiện thư pháp. Chỉ một chữ là đủ rồi… tìm một người, chỉ cần một chữ
thôi.”
Quả nhiên, chữ này là chìa
khóa để tìm ra một nạn nhân khác của vụ án “ngón tay khăn máu”.
Na Lan cầm tờ giấy viết con
chữ mà Mễ Trị Văn mới sáng tạo đặt trước mặt Kim Thạc. Kim Thạc nói, “Thì ra cô
lại có thu hoạch mới!” Anh cau mày nhìn con chữ hồi lâu. “Được, cô cứ về nghỉ
ngơi. Chúng tôi sẽ nhanh chóng nhờ chuyên gia phân tích… Nếu gặp khó khăn thì
sẽ tạm gác lại, vì cũng chưa phải việc khẩn cấp. Điều quan trọng lúc này là
phải nhanh chóng tìm ra người gọi cú phôn cho Nghê Bồi Trung.”
“Tạm gác lại?” Na Lan không
tin ở tai mình nữa. “Chẳng có gì cấp bách bằng khám phá vụ án ‘ngón tay khăn
máu’! Rất có thể kẻ gọi điện cho Nghê Bồi Trung là hung thủ chính trong suốt ba
mươi năm xảy ra vụ án ‘ngón tay khăn máu’. Giải mã chữ này thì mới tiến đến gần
sự thật được.”
“Bạn Na Lan ạ…” Kim Thạc
định thử hài hước một chút. “Bạn chớ quên Mễ Trị Văn là bệnh nhân tâm thần phân
liệt, là tên tội phạm rất xảo quyệt. Lẽ nào bạn thực sự tin rằng lão sẽ dẫn bạn
tiếp cận sự thật?”
Câu nói không phải là không
có lý. Na Lan ngớ ra, nhưng cô lại nói luôn, “Nhìn bề ngoài, lão có vẻ rồ rồ
dại dại, nhưng cho đến giờ những lời lão nói không hề sai. Rõ ràng là nhờ chữ
lần trước nên đã tìm được hài cốt Nghê Phượng Anh. Thậm chí lão còn dự báo cái
chết của vợ chồng Nghê Bồi Trung! Cho nên, ít ra lão sẽ giúp chúng ta hiểu sâu
rộng hơn về toàn bộ vụ án, và có thể phòng ngừa vụ án ‘ngón tay khăn máu’ tiếp
theo.”
Kim Thạc hơi do dự. Ít ra
anh cũng tán đồng một phần ý kiến của cô bèn hỏi, “Cô có đề nghị gì?”
“Đem ngay đến chỗ một cộng
tác viên tên là Sở Hoài Sơn. Chắc anh đã nghe nói về anh ta?”
Kim Thạc cười nhạt, “Là một
trong vài vũ khí bí mật của đội trưởng Ba Du Sinh!” Na Lan hình như nhận ra ngụ
ý “một vũ khí bí mật nữa là cô”. Kim Thạc lắc đầu, “Trước hết chúng tôi đưa cho
chuyên gia văn tự học chính cống đã…”
“Nhưng lần trước nếu không
có anh ta…”
“Này, đã rất muộn rồi, tôi
cử lái xe đưa bạn về trường nhé!”
Na Lan không ngờ lái xe được
cử đưa cô về lại chính là Kim Thạc. Anh mở cửa bên phải cho cô, rồi lên ngồi
trước vô lăng, nói, “Chỉ đường cho tôi đi, tôi chưa đến Đại học Giang Kinh bao
giờ.”
“Phiền anh quá! Chắc anh bận
việc không thể tưởng tượng được.” Cô có cảm giác Kim Thạc còn có dụng ý khác,
chứ không chỉ muốn đưa cô về trường.
Đúng thế, đi được nửa chừng,
anh hỏi, “Nghe nói cô có người chị họ đang làm việc ở Bắc Kinh?”
Cô đáp, “Vâng.” Và thầm nghĩ
chắc anh đã đọc những chuyện bẽ bàng của tôi ở miền đông bắc năm ngoái, có phải
anh có ý với bà chị tôi không? Thành Lộ sống cô đơn đã hơn một năm nay, nhưng
dù chị ấy có thiếu tình yêu đến mấy thì tôi cũng không đẩy chị ấy vào “lò lửa”
đâu!
Kim Thạc lại hỏi, “Hai chị
em có hay gặp nhau không?”
“Chị ấy là người Giang Kinh,
cha mẹ và anh trai vẫn đang ở Giang Kinh, nên cũng hay về đây. Những dịp tết
nhất cũng có gặp nhau.”
Cô đoán đúng, Kim Thạc nói,
“Tôi đã đọc các câu chuyện về cô, rất khâm phục. Ngày trước tôi cứ hình dung,
tôi đoán cô… như một nữ hiệp can đảm, thận trọng, hôm nay gặp, tôi phải rơi
kính đấy!”
Na Lan “Nhưng anh đâu có đeo
kính?”
Kim Thạc bật cười, “Và càng
không ngờ cô còn biết giả vờ ngớ ngẩn nữa.”
“Tôi ngớ ngẩn thật, nên mới
chuốc lấy bao rắc rối.” Cô bỗng nhận ra mình đang nói rất thật.
“Nhưng tôi cảm thấy đội
trưởng Ba Du Sinh đối với cô quá tàn khốc. Tôi không hề có ý kỳ thị phụ nữ,
nhưng việc trinh sát hình sự, nhất là các vụ trọng án thường ghê rợn, nó tác
động rất ghê gớm đến tâm lý. Cô đang đi học, nên tránh là hơn.”
Na Lan nói, “Cũng chẳng thể
trách gì anh Ba Du Sinh, vì Mễ Trị Văn chỉ định tôi đến gặp.”
“Những kẻ như Mễ Trị Văn,
tốt nhất là nên gạt sang bên, chứ đánh đu thì chỉ tổ mắc bẫy lão!”
Na Lan thầm nghĩ phải nói
thể nào thì anh mới hiểu đây?
Kim Thạc bỗng hỏi, “Cô có đi
Bắc Kinh chơi bao giờ chưa?”
Na Lan nói, “Đi rồi, cách
đây mấy năm, hồi chị Thành Lộ mới ra công tác.” Cô nghĩ bụng, anh đừng có mà…
“Lần sau đi Bắc Kinh, cô cứ
gọi tôi, dù bận đến đâu tôi cũng tháp tùng cô được!”
Na Lan dường như sắp chóng
mặt chết ngất trên xe.
Chương 15: Rũ bỏ hồng trần
Ký tự mới của Thương Hiệt
vẫn được đưa đến trước mặt Sở Hoài Sơn ngay lập tức. Na Lan đoán rằng Kim Thạc
kế nhiệm Ba Du Sinh, có lẽ sẽ áp dụng phương thức khác hẳn, không dùng Sở Hoài
Sơn và cô nữa, nên khi gặp Ba Du Sinh ở bệnh viện cô đã hỏi ý kiến anh, sau đó
dùng di động chụp lại con chữ rồi gửi đến cho Sở Hoài Sơn.
Những điều này Kim Thạc
không nhất thiết phải biết.
Trở về ký túc xá cô mở di
động xem ngay. Có email của Sở Hoài Sơn, anh đang trên mạng chờ cô. Sau khi
phát hiện ra hài cốt Nghê Phượng Anh, cô có nói chuyện với Sở Hoài Sơn một lần.
Anh lo cô bị sốc, bàn an ủi cô vài câu. So với gặp mặt hoặc gọi điện thoại thì
Na Lan thích giao lưu bằng WeChat hơn. Sở Hoài Sơn vẫn viết những câu rất ngắn
gọn, không có cảm giác bị đứt quãng.
Sở Hoài Sơn: Nói về cái chữ
ấy.
Na Lan: Anh đã phân tích và
có kết quả ngay à?
Sở Hoài Sơn: Không có kết
quả. Chữ lần trước mất hai ngày thì chữ lần này sẽ khó hơn. Tôi đã nghiên cứu
nó liền hai giờ mà vẫn mờ mờ ảo ảo.
Na Lan: Chắc anh sẽ có cách.
Mờ mờ ảo ảo, tức là nhỏ và xa xôi nhưng không có nghĩa là không có gì.
Cô tin Sở Hoài Sơn không
phải gã vô duyên nửa đêm tìm con gái để tán gẫu.
Sở Hoài Sơn: Sau hai giờ
ngẩn tò te, tôi kết luận rằng chỉ Na Lan mới có thể giải mã chữ này. Tôi tham
gia chỉ là tác động thêm mà thôi.
Na Lan: Tôi mừng vì anh
thuộc lòng lời dạy của Thương Hiệt.
Sở Hoài Sơn: Thật thế mà!
Trong ký tự này, manh mối mà Mễ Trị Văn đưa ra chỉ có thể liên quan đến con
người, các quá trình, quan hệ xã hội… của cô. Chữ lần trước đã chứng minh điều
này.
Na Lan: Bản thân tôi không
phức tạp gì nhưng con người, quá trình và quan hệ xã hội cũng có trăm ngàn chi
tiết!
Sở Hoài Sơn: Cho nên tôi có
thêm một kết luận nữa là, để giải chữ này, thì trong một thời gian ngắn tạm
không coi cô là trọng tâm.
Na Lan: Anh định đưa tôi lên
bàn phẫu thuật chắc? Đầu tôi đông đặc thực sự rồi.
Sở Hoài Sơn: Chữ lần trước
ẩn chứa cái cổng chào, đơn giản và dễ nhận ra. Trọng tâm nằm ở quá trình từng
trải của cô, vì nhận biết được nhanh, nên chỉ là một đề bài nhập môn. Chữ lần
này ta không thể thoạt nhìn mà nhận ra ngay. Trước khi tiếp cận được đáp án, ta
phải đi ngược về quá khứ, Mễ Trị Văn đã làm thế nào để nặn ra được chữ này.
Na Lan: Hiểu rồi. Ta phải
tìm hiểu thêm về lão!
Hung thủ vụ án ‘ngón tay
khăn máu’ là tên sát thủ vô hình đã ra lệnh cho Nghê Bồi Trung giết vợ rồi tự
sát, nếu không phải Mễ Trị Văn thì là đồng bọn của lão. Mục đích của việc giải
chữ chẳng phải để tìm ra tên đồng bọn ấy hoặc chứng cứ phạm tội của hắn hay
sao? Cho nên ý kiến của Sở Hoài Sơn hoàn toàn hợp logic: tìm hiểu Mễ Trị Văn,
càng tường tận về lão thì càng đến gần được tên đồng bọn.
Sở Hoài Sơn: Anh Ba Du Sinh
biết rất rõ về Mễ Trị Sơn.
Na Lan: Được! Tôi sẽ liên
lạc ngay với anh ấy.
Sở Hoài Sơn: Không cần vội
thế đâu… cô… vẫn ổn chứ?
Na Lan cảm thấy anh ta hơi
kỳ lạ. Sở Hoài Sơn do dự. Cô đáp, “Vẫn ổn. Anh sao thế?”
Sở Hoài Sơn: Vẫn ổn thì tốt
rồi. Không cầu hoàn mỹ, chỉ cầu vẫn ổn.
Kết thúc. Na Lan không nghĩ
về ý nghĩ sâu xa trong câu nói cuối cùng của Sở Hoài Sơn nữa, cô định gọi điện
cho Ba Du Sinh thì chợt thấy rất mệt mỏi. Và, bây giờ mới nhận ra cô bạn cùng
phòng Đào Tử đã ngồi phía sau lưng cô từ lúc nào, mắt đang dán vào màn hình. Cô
ngáp dài, nói, “Cậu về khi nào? Sao lại lặng lẽ êm ru thế?”
Đào Tử nhấp chuột luôn, màn
hình chuyển sang trang khác, cứ như đang làm gì bí hiểm không muốn cho Na Lan
nhìn thấy. Đào Tử vẫn còn đeo tai nghe. Na Lan trêu chọc, “Chắc cậu đang lén
xem phim người lớn, không sợ mình báo công an hay sao?”
“Phim người lớn sao phải xem
lén? Thích thì mình xem ngay trên lớp ấy chứ!” Đào Tử cười gượng, nói phứa lên
để xí xóa sự nghi ngờ của Na Lan.
Nếu lúc này nhắm mắt lại, Na
Lan sẽ chỉ nhìn thấy cái bóng xam xám của Nghê Bồi Trung đang rơi, chỉ nghe
tiếng kêu thảm thiết của Hồ Thanh. Cô quá mệt nhọc rồi, cả về thể xác lẫn tinh
thần, nhưng không dám nhắm mắt để ngủ. Định trò chuyện với Đào Tử nhưng lại
không biết nên nói hay không nói chuyện gì, hệt như Đào Tử đối với cô.
Câu nói xưa cũ vẫn đúng, con
cái lớn lên, mỗi đứa một tâm tư.
Trong phút chốc cả hai cùng
im lặng. Lần đầu tiên trong bao năm qua hai cô bạn thân lặng lẽ nhìn nhau. May
sao tiếng chuông di động bỗng reo lên.
Na Lan nhìn di động, một số
máy lạ.
“Khuya thế này mạo muội làm
phiền, rất xin lỗi nhé!” Giọng nghe quen quen. Na Lan sửng sốt. Cô đã nhớ ra,
đây là giọng Khám Cửu Kha trợ lý của Quảng Cảnh Huy.
Quảng Cảnh Huy là một ông
già bí hiểm ở tít tận Quảng Đông, Quảng Diệc Tuệ là cô con gái duy nhất rất
được ông nâng niu, mấy năm trước đã chết thê thảm ở Giang Kinh. Na Lan phải
trải qua bao biến cố gian nan để khám phá bí ẩn sau cái chết của cô ta, lật mặt
hung thủ, cũng vì thế mà cô quen Quảng Cảnh Huy. Ông già cô độc dần chuyển tình
thương yêu cô con gái sang Na Lan, coi cô như con đẻ. Na Lan có phần mất tự
nhiên nhưng rất xúc động trước cảnh ngộ của ông, thỉnh thoảng vẫn liên lạc và
an ủi ông.
Vì Quảng Diệc Tuệ đã “hạ
mình” lấy nhà văn Tần Hoài tầm tầm, sau đó cô gặp nạn, cho nên ông Quảng Cảnh
Huy vẫn không thể tha thứ cho Tần Hoài đã đem vận đen đến cho con gái ông. Về
sau, Tần Hoài có chút quan hệ tình cảm với Na Lan rồi bỏ đi Lĩnh Nam, Quảng
Cảnh Huy liền lặng lẽ và tự nguyện giám sát mọi hành vi của Tần Hoài.
Khám Cửu Kha là tâm phúc của
Quảng Cảnh Huy suốt hai mươi năm qua, Na Lan quen anh ta chưa đầy một năm nhưng
vẫn nhận ra đó là con người tinh nhanh tháo vát và cũng rất kín đáo. Đang đêm
gọi điện đến, chắc không phải để nói những chuyện bình thường.
“Chào anh Cửu.” Na Lan biết
các thuộc hạ của ông Quảng Cảnh Huy thường gọi anh ta như thế. “Ông cụ vẫn ổn
cả chứ?” Ông Quảng Cảnh Huy tuổi đã cao, người không được khỏe.
“Vẫn ổn… vẫn ổn.” Giọng Khám
Cửu Kha hơi do dự. Không hiểu sao Na Lan bỗng nhớ đến câu nói hơi gượng gạo của
Sở Hoài Sơn “không cầu hoàn mỹ chỉ cầu vẫn ổn”. Khám Cửu Kha lại hỏi, “Cô không
biết chuyện thật à?”
Na Lan giật mình vì câu nói
rất đột ngột! Một linh cảm chẳng lành kéo đến. “Biết về gì?”
“Tôi có nhắn tin riêng cho
cô trên weibo.” Thế giới tuy rộng lớn, nhưng có weibo thì hết chỗ trốn. “Về
chuyện Tần Hoài.”
Cô mở xem. Là một clip trên
mạng Tudou [1], có tiêu đề Tiểu thuyết gia kinh dị Tần Hoài cắt tóc đi tu (quay
lén). Số lượt xem đã vượt quá con số trăm ngàn.
[1] Một trang phim online
của Trung quốc.
Tần Hoài xuất gia. Đoạn
tuyệt tóc xanh, đoạn tuyệt tơ tình.
Na Lan vốn nghĩ chỉ trong
tiểu thuyết võ hiệp mới có cái chuyện hão huyền như trò đùa này, đến khi trò
đùa rơi ngay xuống đầu mình thì cô mới biết thực tế không bao giờ lãng mạn như
trong tiểu thuyết, trái lại, rất tàn khốc. Còn nhớ năm ngoái thầy trò Quảng
Cảnh Huy và Khám Cửu Kha cho cô biết Tần Hoài giao du với một vị cao tăng ở
Quảng Châu, và bắt đầu học kinh Phật. Từ đó đến nay đã loại bỏ được lục căn [2]
thì cũng hợp lẽ thôi.
[2] Lục căn, tức sáu cơ quan
cảm giác nhận thức của con người, gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, xúc giác suy nghĩ.
Đôi mắt cô ươn ướt. Cũng hợp
lẽ.
Rốt cuộc Tần Hoài vẫn không
thể gỡ bỏ được nỗi nhớ người vợ Quảng Diệc Tuệ và sự cắn rứt trong lòng. Anh là
con người rất chân tình. Cô không thể làm gì khác.
Cốc Y Dương rồi Tần Hoài lần
lượt đi xa, để lại mình cô trăn trở khốn khổ trong cõi hồng trần, xoay xở ứng
phó giữa đám người tối tăm.
Qua điện thoại, Khám Cửu Kha
còn nói mấy câu nữa, nhằm giải thích, rằng nghi thức cắt tóc là chuyện rất riêng
tư, thế mà có kẻ hiếu sự quay lén, hỏi cô có cần điều tra xem kẻ đó là ai
không. Nhưng Na Lan đôi mắt nhòa lệ và đôi tai như như ù đi, chỉ biết nức nở mà
thôi.
Cũng chẳng biết cuộc gọi
ngắt từ lúc nào, cô vãn ngồi ngây ngẩn, tay cầm di động nhìn ra ngoài khung cửa
sổ u ám như cõi lòng cô lúc này.
Một đôi tay ôm chặt Na Lan.
Đó là Đào Tử. Bây giờ Na Lan mới hiểu ra, lúc nãy Đào Tử vội tắt máy tính là vì
nhìn thấy cái clip kia. Có lẽ câu hỏi “cô vẫn ổn chứ” của Sở Hoài Sơn cũng là
do anh ta đã xem nó, rồi muốn thăm dò tâm trạng của cô. Hình như cả xã hội đều
biết cái điều bí mật gắn liền với cô này, chỉ riêng cô là không hay biết. Nhưng
ít ra “những người tốt bụng” đều không láu táu mà tag cô vào!
Đào Tử khẽ nói, “Thực ra
mình nghĩ rằng, Tần Hoài làm thế là rất có trách nhiệm với cậu, anh ấy không
thể thực hiện lời hứa thì chỉ còn cách buông xuôi.”
Buông xuôi. Để cô rơi xuống
vực sâu.
Suốt đêm nằm mơ, mơ thấy Tần
Hoài, Cốc Y Dương, những cái xác nổi trên mặt hồ Chiêu Dương, hai cánh tay đang
quạt nước, rừng thông phủ đầy tuyết, bạn đồng hành gục ngã, xe chạy trên tuyết
phóng từ vách núi cao bay lượng như chim ưng, cô gái trong hố chôn, những ngón
tay tuyệt vọng cầu xin, những ngón tay đứt lìa, và bóng tối vô tận.
Sáng sớm hôm sau Na Lan hầu
như không dậy nổi nữa. Không ngủ được, cũng không thể dậy, cùng tấn công cô.
Đào Tử đã rửa mặt chải đầu
xong xuôi, đứng bên giường Na Lan nói, “Cậu phải…”
“Phải làm một việc gì đó.”
Na Lan tiếp lời.
“Cảm ơn trời đất, IQ của cậu
vẫn còn nhiều lắm!”
“Cảm ơn cậu không nhắc đến
chỉ số EQ của tớ.”
“Cậu định làm việc gì?” Đào
Tử cố kéo Na Lan ra khỏi giường. “Lấy độc trị độc, chúng ta sẽ bắt đầu từ việc
đi tìm anh chàng ấy.”
Ý tưởng này đã thức tỉnh Na
Lan, cô nói, “Gần đây mình đặc biệt hứng thú với những gã đẹp trai già khú đế,
nhất là gã sắp đứt hơi.” Cô ngồi lên. Chóng mặt quá!
Nhưng cô không đi tìm gã nào
cả, cô đi gặp Đổng Bội Luân. Lại đi quấy rầy Đổng Bội Luân là hạ sách, Na Lan
vốn không thích một việc gì đó phải làm hai ba lần, nên cô có cảm giác bị Mễ
Trị Văn đẩy vào ngõ cụt, vụ việc ba năm trước xảy ra với Đổng Bội Luân chứa
đựng nhiều điều khó nói, không thể gặp một lần đã rõ ràng hết được. Cô không
muốn bỏ qua cái manh mối đầy rắc rối này.
Đổng Bội Luân là người biết
giữ lời hứa, và đã từng nói, cảnh cửa văn phòng chị luôn rộng mở với Na Lan. Na
Lan vừa đến tiền sảnh thì người thư ký đã nói luôn, “Mời vào! Giám đốc đã dặn
chúng tôi rằng cô nhất định sẽ lại đến. Tôi vào thông báo để giám đốc thu xếp
thời gian.”
Đổng Bội Luân đang họp qua
điện thoại, trong phòng họp còn có mười mấy cán bộ quản lý cao cấp và các kỹ
thuật viên nòng cốt. Na Lan chờ hơn mười phút thì cuộc họp kết thúc.
Trong phòng làm việc của
Đổng Bội Luân.
“Tại sao cô nói là em nhất
định sẽ còn đến nữa?”
“Vì em không may rơi vào trò
chơi quái đản của Mễ Trị Văn.” Không cần nghĩ ngợi, Đổng Bội Luân chọc thẳng
vào khối u nhức nhối của Na Lan. “Lão đưa ra tín hiệu bí hiểm, cho em hy vọng
sẽ phá được vụ án, nhưng vẫn giữ lại một nghìn % cảm giác bí hiểm khiến em hết
sức hiếu kỳ, muốn lột mặt nạ của lão, tìm hiểu về lão, nhưng dù cố gắng đến mấy
em vẫn cứ như lạc vào một màn sương dày đặc nghẹt thở.” Đổng Bội Luân chỉ bầu
trời đang xám xịt nặng nề ngoài cửa sổ. Kể từ sáng sớm hôm nay một màn sương
xam xám vàng vọt bỗng bao phủ Giang Kinh, một thảm họa môi trường. “Sương dày
đặc thế kia, có lẽ tôi phải nghỉ điều trị ngày mai cũng nên.” Đổng Bội Luân
nhích xe lăn ra sau bàn làm việc rồi hỏi, “Này, cụ thể em định hỏi điều gì? Tôi
không đoán ra và cũng chẳng muốn đoán nữa.”
“Có phải lão cũng từng chơi
trò chơi tương tự với cô không?” Na Lan vào đề luôn, cô đang nóng lòng muốn
biết điều này.
Trong một khoảnh khắc, Na
Lan dường như thấy sắc mặt Đổng Bội Luân cũng xám lại tựa bầu trời ngoài cửa,
nhưng vẻ hồng hào và nụ cười ung dung cũng lập tức hiện ra thay thế. “Xem ra em
ngày càng giống tôi, giống tôi hồi trẻ. Nhưng, mong sao em đừng có kết cục như
tôi.”
“Cô nói đúng ạ.” Na Lan đang
bí không biết nên nói thế nào cho thỏa đáng. “Mễ Trị Văn giống như mắc chứng đa
nhân cách, lúc thì hão huyền xa xôi, lúc thì quá ư tầm thường, lúc khác lại
thâm thúy kinh khủng. Thực ra lão ta là người như thế nào?”
“Cô không chỉ là nạn nhân,
đúng không? Trong lời khai với công an, cô nói không hề giao lưu gì với ông ta.
Em đã đọc hồ sơ bệnh án và biên bản phạm tội của Mễ Trị Văn, thì nhiều năm về
trước lão từng mắc bệnh hoang tưởng được yêu, thích rêu rao rằng quen biết nạn
nhân từ lâu, thậm chí có quan hệ yêu đương. Nhưng những lần gây án về sau đều
bất thành rồi bị bắt, lão không nói như trước nữa, tựa hồ đã tự biết mình, biết
rằng dù nói thế cũng chẳng ai tin. Cho nên em vẫn ngờ ngợ không rõ cô có quen
ông ta không.”
“Ý em là tôi đã nói dối cảnh
sát chứ gì?”
“Tình thế và trạng thái của
cô lúc đó… cô đang sốc, nếu cô lựa chọn hãy quên đi thì cũng là chuyện thường
tình. Chính em sau cú sốc cách đây không lâu, khi trình bày với cảnh sát em
cũng bị coi là nói dối vô số.” Na Lan định nói chắc bà chị không biết tôi rất
bi đát, tôi đã từng trải kha khá.
Đổng Bội Luân im lặng một
lát. “Em đoán bằng trực giác chứ gì? Về chuyện tôi có quen Mễ Trị Văn hay
không…”
“Trong đám sách tham khảo để
tạo chữ đặt ở đầu giường Mễ Trị Văn, có một cuốn nhạc phổ cổ, các ký tự dùng để
ghi nhạc trông rất kỳ quái. Còn ở chỗ cô thì có một cây đàn tranh, liệu có phải
ngẫu nhiên không?”
“Mễ Trị Văn từng dạy tôi
chơi đàn tranh.” Lần này Đổng Bội Luân trả lời ngay không do dự.
“Rồi sao nữa ạ?” Na Lan hỏi.
“Về sau ra sao thì em biết
rồi. Dù chưa biết thì em cũng có thể suy luận được đấy.”
“Em vẫn chưa hiểu…”
“Có những chuyện không thể
nói quá rõ. Nhưng chí ít em hãy yên tâm, rằng tôi bảo lãnh cho điều trị tại
ngoại không phải để mời lão dạy đàn tiếp.” Đổng Bội Luân lại nhìn sắc trời xám
xịt ngoài cửa sổ. “Tôi sẽ bảo thư ký gọi taxi cho em, thời tiết hôm nay đừng
nên ló mặt ra ngoài.”
Chương 16: Truy tìm bí mật
Mễ Trị Văn gây án cưỡng dâm
bất thành lần đầu cách đây 28 năm. Nạn nhân là Thôi Dụ Hồng, hồng nhan bạc
mệnh, chưa đến bốn mươi tuổi đã ung thư vú rồi qua đời. Nạn nhân thứ hai là Lý
Tĩnh, cách đây 22 năm, sau ngày bị hại ít lâu đã sang Mỹ du học rồi ở lại định
cư, đoạn tuyệt với quá khứ đau lòng. Nạn nhân thứ ba là Vu Ninh, bị hại cách
đây 17 năm, sau đó mắc chứng trầm cảm chưa điều trị được thì đã tự sát. Đây là
những tư liệu mà Sở Hoài Sơn thu thập được, ngoài Đổng Bội Luân còn có hai nạn
nhân nữa nhưng trông tra ra được. Na Lan nhờ Sở Hoài Sơn giúp đỡ vì cô muốn
tranh tiếp xúc nhiều với Kim Thạc, mỗi lần xin phê chuẩn cô có cảm giác mình
mắc nợ anh ta, sẽ thêm áp lực phải trả nợ bằng chuyến đi Bắc Kinh sau này.
Hai người trao đổi qua
weibo.
Sao anh lại tra ra được? Na
Lan hỏi.
Sở Hoài Sơn: Nhờ phóng viên
Tin chiều Tân Giang.
Na Lan: Người không ra khỏi
nhà như anh, sao lại quen được phóng viên?
Sở Hoài Sơn: Tôi phục vụ Bộ
Công an, đôi khi cũng phục vụ cánh phóng viên.
Na Lan bây giờ mới nhớ ra
anh ta là cao nhân, tháo vát quá thì nhọc thân.
Sở Hoài Sơn: Mấy vụ án đó,
tờ báo ấy đăng đầy đủ, có cả thông tin về người bị hại.
Na Lan: Nếu anh Ba Du Sinh
còn làm thì đã không phiền đến anh.
Sở Hoài Sơn: Không sao. Chúc
cô điều tra thuận lợi.
Nạn nhân có thể điều tra,
giờ chỉ còn Vu Ninh. Sở Hoài Sơn cho biết cách thức liên lạc với cha mẹ Vu
Ninh. Na Lan ngồi ngây đờ trước mặt máy tính. Nói vậy thôi, chứ đầu óc đang lên
kế hoạch liên lạc với cha mẹ Vu Ninh, gặp gỡ ra sao, hỏi han những gì… Nhắc đến
Vu Ninh liệu họ đau xót đến đâu? Tại sao mình lại tàn nhẫn thế nay?
Tất cả cũng chỉ vì câu nói
của Mễ Trị Văn, vụ án “ngón tay khăn máu” sẽ còn tiếp diễn.
Sương mù bao phủ Giang Kinh
suốt ngày nên lúc hoàng hôn thì trời đã đen kịt như đêm khuya. Na Lan đeo khẩu
trang, tiến vào bóng tối nặng nề.
Cô không báo trước cho cha
mẹ Vu Ninh, sợ bị họ từ chối thì lần sau sẽ càng khó gặp. Cô cũng không định
nói những điều khiến hai ông bà già đau buồn mà chỉ hỏi những vấn đề có vẻ chắc
ăn.
Bà mẹ Vu Ninh ra mở cửa. Na
Lan là người lạ, nhưng dáng vẻ và trang phục của cô sẽ không khiến họ phải cảnh
giác. Bà già ăn mặc giản dị, khuôn mặt hiền hòa, giọng nói ân cần, “Cháu muốn
tìm ai?”
Nhìn vẻ mặt hiền từ của bà,
Na Lan cảm thấy không nỡ khiến bà phải khổ tâm cô định nói “Cháu nhầm nhà” để
rút lui, nhưng bà lại mỏ rộng cửa, bật đèn, khẽ kêu lên, “Cô là nghiên cứu
sinh, hỗ trợ cảnh sát phá án phải không?”
Sau “vụ án năm xác chết”,
báo chí Giang Kinh đã có bài viết về Na Lan, khiến cô đến trường cũng ngại, lúc
nào cũng thấy người ta thì thầm và nhìn cô bằng ánh mắt là lạ. Không ngờ đến
tận hôm nay, ở một khu vực lạ hoắc, vẫn bị một bà lão nhận ra. Bà bước lại gần
hơn, ngắm nhìn Na Lan rồi nói, “Đúng là cô! Tôi nhớ rất chuẩn, không thể nhầm
được…” Hình như sực nhớ ra điều gì, sắc mặt bà thay đổi, “Chắc không phải cô
đến…”
Na Lan nghĩ, bà đã đoán ra
ít nhiều, thì cũng tốt, mình đỡ phải tự giới thiệu.
“Cháu là Na Lan…” Cô hơi do
dự. “Nếu bác không ngại… cháu muốn hỏi vài điều… chuyện của chị Vu Ninh,”
“Thế thì cháu phải thất vọng
rồi.” Bà thở dài.
Na Lan sững người. Bà đã sẵn
sàng từ chối?
“Bác ạ, cháu…”
“Tôi không có ý xua cháu đi,
nhưng tôi cho rằng cháu đã hiểu lầm rồi. Là Ninh Ninh chán sống, mắc chứng trầm
cảm một thời gian, tôi đã khuyên nhủ nó mãi nhưng không được.” Bà lại thở dài,
rồi đưa ống tay áo lên chấm nước mắt. Bà bảo Na Lan vào nhà ngồi, rồi lặng
người không nói được nữa.
Na Lan bước vào, nhanh tay
khép luôn cửa vì sợ sương giá tràn vào nhà.
“Cháu thực tình không muốn
nhắc đến chuyện của chị Vu Ninh khiến bác phải buồn. Nhưng vì có liên quan đến
một vụ án khác…”
Bà hơi sửng sốt, chứng tỏ tư
duy vẫn rất nhanh nhẹn. Bà gật đầu như đã hiểu ra, rồi lại lắc đầu, “Chắc cháu
nói về thằng cha mất hết tính người ấy?” Bà liên tưởng đến Mễ Trị Văn.
Na Lan nói, “Nếu bác không
tiện nói về lão.,..”
“Có gì mà tiện hay không
tiện? Hắn là kẻ bệnh hoạn, một thằng điên! Ninh Ninh nhà này xấu số nên gặp
phải kẻ ấy.” Bà trào nước mắt.
Na Lan định im lặng, nhưng
rồi lại đánh liều hỏi, “Bác nói gặp phải nghĩa là sao ạ? Cháu được biết biên
bản ghi chép về vụ án là, Vu Ninh học năm thứ ba Đại học Tài chính Kinh doanh,
tham gia hoạt động đoàn thể rồi quen Mễ Trị Văn, xem ra là việc ngẫu nhiên.” Có
lẽ Na Lan là người cuối cùng trên đời này tin ở sự kiện ngẫu nhiên.
Nhưng khi số phận đã bỡn cợt
con người thì có thể còn bao nhiêu việc tuân theo các quy tắc khoa học nữa đây?
Bà mẹ Vu Ninh hỏi lại cô,
“Cháu đã biết những gì về chuyện của Ninh Ninh?”
“Cháu chỉ biết đại khái đến
thế.” Đúng là Na Lan đã thuộc lòng các tư liệu mà Sở Hoài Sơn tra cứu được. “Và
còn một điều nữa, ngày trước từng có bài báo viết, bạn bè nhớ lại rằng Vu Ninh
là một hạt nhân văn nghệ của trường, hát hay múa đẹp.”
“Nó còn biết chơi nhạc cụ
dân tộc, đàn cổ, đàn tranh, đàn tỳ bà… đều biết ít nhiều.” Bà nhẹ nhàng nói.
Na Lan đã nhận ra mối liên
hệ, “Mễ Trị Văn biết chơi nhạc cụ dân tộc?” Cô cùng nghe nói cách gảy cổ cầm và
đàn tranh na ná nhau, biết một thứ là sẽ biết cả.
“Không chỉ biết chơi, mà hắn
còn chơi rất hay.” Bà mẹ hít vào một hơi dài. “Cho nên hắn trở thành thầy dạy
cổ cầm cho Vu Ninh.”
Lại là một tình tiết chưa ai
biết, hệt như chuyện của Đổng Bội Luân.
Na Lan thốt lên, “Lão thực
bỉ ổi! Lợi dụng việc dạy đàn để làm càn.”
Bà mẹ Vu Ninh tư lự mất một
lúc, “Phải nói là… thằng cha ấy vô cùng bệnh hoạn, nhưng… chuyện này chúng tôi
chưa từng nói với ai, hôm nay thật khác thường, lần đầu tiên kể với cháu. Chẳng
biết ma xui quỷ khiến ra sao, Vu Ninh tự dưng… thích thằng cha Mễ Trị Văn!”
Vu Ninh đang tuổi hoa rực
rỡ, có cảm tình với một gã trung niên khô cằn rồi bị hắn cưỡng bức nhưng chưa
thành? Đây là cái logic gì vậy? Na Lan nhớ đến bệnh án thần kinh của Mễ Trị
Văn, lão rêu rao rằng các nạn nhân ấy và lão đều có mối gắn kết đồng điệu tâm
hồn, thậm chí là có quan hệ yêu đương, thoạt đọc sẽ coi là những lời điên rồ,
nếu bà mẹ Vu Ninh nói đúng, thì tức là Mễ Trị Văn đã nói thật?
Na Lan dường như nghe thấy
tiếng cười khẩy bất cần của lão, tôi có nói dối bao giờ đâu? Chính cô dựa vào
cái chữ có được do linh cảm của tôi rồi tìm thấy hài cốt của Nghê Phượng Anh
đấy thôi!
Đổng Bội Luân thì sao? Hay
cũng là câu chuyện giống thế này?!
Na Lan tưởng tượng cảnh Đổng
Bội Luân thông minh trong sáng, nõn nà như tiên nữ nhưng lại yêu lão ma nhập Mễ
Trị Văn, cô vội lấy khẩu trang ra đeo, hình như sợ tâm trí mình bị sương giá
độc hại xâm nhập rồi lú lẫn không biết đúng sai là gì nữa.
Nhưng, tại sao Mễ Trị Văn
lại làm hại những cô gái mà trái tim đã thuộc về lão? Tại sao lão lại phải làm
hại những người mà lão nói là có tâm hồn đồng điệu với mình?
Làm thế nào để nhìn rõ toàn
bộ diện mạo của Mễ Trị Văn?
Ngồi trên tàu điện ngầm, Na
Lan nhắn tin cho Sở Hoài Sơn: Càng tin Mễ Trị Văn không phải là hung thủ vụ án
“ngón tay khăn máu”, tôi càng cảm thấy lão bí hiểm khó lường. Tại sao lão lại
biết vị trí hài cốt của nạn nhân? Nếu lão không phải thần tiên thì chắc chắn có
người nói cho lão biết. Cho nên việc cấp bách nhất là phải tìm ra tên sát thủ
vẫn nhởn nhơ ngoài xã hội. Tuy không biết Mễ Trị Văn đã quen kẻ ấy từ khi nào,
nhưng loạt vụ án “ngón tay khăn máu” đã trải suốt ba mươi năm, cả hai có thể là
cố nhân lâu năm, cần tìm hiểu về lai lịch Mễ Trị Văn để từ đó lần ra tên bạn cũ
của lão.
Tin nhắn tràng giang đại
hải, nhưng Sở Hoài Sơn chỉ đáp lại hết sức ngắn gọn: Lai lịch Mễ Trị Văn, một
con số 0.
Na Lan thở dài. Không có một
thông tin nào về tiền sử lai lịch Mễ Trị Văn. Chẳng phải là tin mới. Ba Du Sinh
cũng từng nói thế, đây là một trong những khó khăn của vụ án. Na Lan ngao ngán.
Lẽ nào bế tắc hoàn toàn rồi?
Cô lại bấm bàn phím: Lẽ nào
không có cách gì?
Sở Hoài Sơn: Đã nghe nói đến
dốc Mễ Lung chưa?
Dốc Mễ Lung, Mễ Trị Văn.
Giữa hai chữ này có liên quan gì chăng?
Dốc Mễ Lung ở ngoại thành
phía bắc Giang Kinh, là một địa danh mang tính tiêu biểu cho thành phố này. Nhờ
phát hiện di tích một nền văn minh cổ xưa ở đây mà Mễ Lung trở thành một thánh
địa khảo cổ học nổi tiếng cả nước. Vùng đất chứa đựng bề dày lịch sử này có
quan hệ sâu xa ra sao với lão già đậm đặc tà khí từ đầu đến chân như Mễ Trị
Văn?
Sở Hoài Sơn lại nhắn thêm
một tin nữa: Có biết xuất xứ của cái tên dốc Mễ Lung không?
Na Lan không phải là dân
Giang Kinh chính gốc, nhưng cũng từng tham quan di tích Mễ Lung và có nghe về
nguồn gốc cái tên này. Dốc Mễ Lung đối diện với sông Thanh An chín khúc, gọi là
“dốc” nhưng thực ra chỉ là một khoảnh đất phẳng, hiền hòa, địa thế hơi cao hơn
đồng bằng bên dưới, ở giữa có hai dốc nhỏ gồ lên. Người thời cổ định cư trên
dốc này và trồng trọt chăn nuôi ở dưới thấp, như thế, dù sông Thanh An nước
dâng họ cũng vẫn an toàn. Vào mùa nước nổi, nước sông tràn lên chỗ cao, người
thời cổ liền đắp “lung”, tức là xe bờ xung quanh để trữ nước lại, tiếp tục trồng
lúa trên đó, dần dà hình thành cái tên dốc Mễ Lung. Về sau, dụng cụ dùng để xay
thóc được chế tạo ở đây, quan cai trị địa phương lại lấy tên Mễ Lung đặt luôn
cho nó, bởi vậy Mễ Lung còn có nghĩa là “cối xay thóc”.
Sở Hoài Sơn: Còn có một lai
lịch khác về dốc Mễ Lung, liên quan đến họa sĩ Mễ Thị thời Bắc Tống. Về già,
ông Mễ Thị định cư ở Giang Nam, thế hệ con cháu thì dần dà lưu lạc bốn phương
để tránh chiến loạn, họ di cư đến ngoại thành Giang Kinh, sinh sống ở dốc Mễ
Lung bấy giờ đã vắng bóng người. Nơi này phong thủy tốt, đất đai màu mỡ, dần
phát triển đông đúc, phồn vinh. Họ đặt tên khu vực này là thôn Mễ Gia, về sau
có thêm rất nhiều người họ khác đến cư trú, bèn đổi là thôn Mễ Lung, dân chúng
thành Giang Kinh hễ nhắc đến rẻo đất cao cao ấy, lại gọi luôn là dốc Mễ Lung.
Tin nhắn khá dài, khiến Na
Lan chìm trong suy nghĩ.
Thôn Mễ Gia có còn không?
Có thể là do gen di truyền
của Mễ Thị, hoặc do bầu không khí ham học được duy trì tốt đẹp, bao năm qua
thôn Mễ Gia đã xuất hiện rất nhiều tú tài cử nhân, có người lên kinh thành và
các nơi khác làm quan, nên dân cư thưa dần. Thời kháng chiến, Giang Kinh rơi
vào cảnh rối loạn, trong thành có tô giới Anh, Pháp nên thành phố biến thành cô
đảo, ngoại thành thì bị gót sắt của quân Nhật giày xéo, thôn Mễ Lung cũng không
ngoại lệ, người chết người bỏ trốn. Cho đến khi chiến tranh kết thúc mới có một
số dân họ Mễ trở lại cố hương, Mễ Lung lúc này đã đổ nát tàn tạ. Tuy nhiên vẫn
có vài gia đình họ Mễ chính tông dựng lại nhà cửa trên nền đất cũ của thôn Mễ
Lung. Mễ Trị Văn sinh ra trong một xóm nhỏ đằng sau dốc Mễ Lung.
Na Lan cố hồi tưởng hình ảnh
di tích dốc Mễ Lung mà cô từng tham quan, nhưng không thể nhớ ra cái xóm nhỏ
đằng sau dốc. Sở Hoài Sơn nói, sau những năm 80 của thời kỳ trước dốc Mễ Lung
được coi là di tích khảo cổ cấp quốc gia, thì vài hộ còn sót lại trong thôn
được chính quyền cho di dời vào nội thành Giang Kinh ở.
Na Lan: Tôi đã đọc mọi tư
liệu về Mễ Trị Văn, không thấy nhắc đến nơi sinh của lão, sao anh biết lão ra
đời ở thôn Mễ Lung?
Sở Hoài Sơn: Tôi đoán.
Na Lan: Anh nói rõ hơn được
không?
Sở Hoài Sơn: Chắc cô biết
mấy địa điểm mà Mễ Trị Văn từng gây án?
Na Lan: Rải rác ở vài khu,
huyện của Giang Kinh, không nhận ra có quy luật gì.
Sở Hoài Sơn: Đánh dấu trên
bản đồ, sẽ nhận ra quy luật.
Anh lập tức gửi cho Na Lan
sơ đồ nội ngoại thành Giang Kinh. Vậy là anh đã nghiên cứu từ lâu. Các địa điểm
Mễ Trị Văn gây án đánh dấu + đỏ, nối liền bảy dấu đỏ này được một đường thẳng!
Nếu kéo dài đoạn thẳng ấy
thì nó sẽ đi xuyên qua dốc Mễ Lung!
Sở Hoài Sơn: Cô là chuyên
gia tâm lý, phải thạo hơn kẻ ngoại đạo là tôi. Mễ Trị Văn làm thế dù có ý thức
hay không thì vẫn toát ra một điều, dốc Mễ Lung rất quan trọng đối với lão.
Na Lan ngẫm nghĩ, nếu đúng
là thế thì rất có thể xóm nhỏ bỏ hoang sau dốc Mễ Lung sẽ lưu lại dấu vết thời
thơ ấu của Mễ Trị Văn. Dù chưa chắc chắn liên quan trực tiếp đến tên hung thủ
thực sự kia, thì ít ra cũng là điểm xuất phát để đi sâu tìm hiểu.
Na Lan: Tôi sẽ đến đó ngay.
Sở Hoài Sơn rất kinh ngạc:
Thời tiết này, cô đi ngay bây giờ ư?
Na Lan nhìn ra, trời đã tối
mịt, đèn phố mờ ảo trong màn sương dày đặc, cô hiểu rằng mình quá hấp tấp. Để
ngày mai vậy!
Nhưng hôm sau vẫn là sương
mù nặng trĩu. Các chuyên gia nói bầu khí quyển bị ô nhiễm nặng nên sương độc
còn tiếp tục hành hạ dân Giang Kinh từ ba ngày cho đến một tuần nữa. Không thể
chờ đến ngày trời đẹp, hết giờ lên lớp buổi sáng Na Lan ngồi tàu điện ngầm
tuyến số 6 đi dốc Mễ Lung.
Ra khỏi thành phố, tàu ngầm
trườn lên mặt đất. Nhìn qua cửa sổ, sương mù đã loãng hơn, có thể nhìn thấy cột
điện và nhà cửa đằng xa thấp thoáng trong sương. Rồi nhà cửa thưa dân, núi non
thấp thoáng, Na Lan biết đã sắp đến dốc Mễ Lung.
Ga tàu cách dốc Mễ Lung
khoảng năm cây số, khách du lịch tham quan mọi ngày thường phải đi xe buýt hoặc
taxi đến di tích. Cô gọi taxi của một công ty đáng tin cậy, đưa cho anh lái xe
xem sơ đồ mà Sở Hoài Sơn gửi cho cô tối qua. Anh ta ngạc nhiên, “Chỗ đó hoang
vu không người ở, cô đến làm gì?”
Na Lan mỉm cười, “Khảo cổ!”
Nếu không vì đúng hôm vắng
khách thì có lẽ taxi đã từ chối cô. Lái xe đành lên đường, chạy chừng hai mươi
phút thì đến một vùng nhà cửa đổ nát, xe dừng lại. “Đây rồi. Cô có cần tôi chờ
không?”
Na Lan đã tính sẵn, bèn
nói,”Tôi chưa rõ mình sẽ nán lại đây bao lâu. Hay là anh cứ cho tôi số di động,
khi nào tôi xong việc sẽ gọi, nhờ anh đến chở tôi quay lại.” Yêu cầu không có
gì quá đáng, tất nhiên anh lái xe đồng ý.
Hơn chục ngôi nhà gạch và gỗ
kết hợp nằm rải rác trong khoảng một dặm vuông hợp thành cái xóm nhỏ này, Na
Lan kết luận sau khi đi quanh khắp một lượt. Cỏ dại mọc um tùm, tuy đã lâu
không có người ở nhưng nhà cửa vẫn khá vững chắc không có nguy cơ đổ sập. Chứng
tỏ sau chiến loạn năm xưa, dân thôn Mễ Giang không hề sống tạm bợ, họ đã chăm
chỉ vun đắp cho nơi này. Nếu không vì họ ở quá gần dốc Mễ Lung khiến chính phủ
buộc phải di dời thì đến nay khung cảnh vẫn cứ như cũ.
Mặt tiền các ngôi nhà không
hề ghi tên chủ nhân, biết tìm “di tích” của Mễ Trị Văn ở đâu? Na Lan đã lường
trước điều này nên chỉ còn cách tùy cơ ứng biến vậy.
Ba mươi năm trước, khi các
gia đình di chuyển, họ đã dọn sạch tất cả, chỉ còn lại nhà cửa sân vườn cùng
vài đống gạch ngói vỡ. Tuy nhiên nó không sạch tuyệt đối vì vẫn có dấu vết con
người trong những năm gần đây, những hộp cơm, túi nhựa, lon bia… vứt bừa bãi,
thậm chí có cả quần lót chưa kịp mặc lại và những cái bao cao su không thèm xử
lý. Na Lan đi khắp thôn khoảng một giờ, vào sáu bảy ngôi nhà, không phát hiện
thấy điều gì đáng kể, cô thoáng nghĩ hôm nay có khi phải tay không trở về.
Sau đó thì sao? Sẽ lại đến
cầu khẩn Mễ Trị Văn và nghe lão cười chế nhạo?
Cô lại vào một ngôi nhà
hoang khác.
Lúc nãy cô chú ý thấy nhà
này không giống các nhà gần kề, tuy quy mô xấp xỉ nhau nhưng tình trạng rất xập
xệ, xem chừng bỏ hoang lâu hơn. Bước vào trong thấy rất nham nhở, tường vữa lở
lói tứ tung, nền nhà đầy bụi rác và gạch ngói vụn, đồ dùng cũ nát chất thành
đống, tựa hồ vội vã tháo chạy khỏi thôn chứ không phải di chuyển một cách có
trật tự như các hộ khác.
Na Lan đương nhiên để ý quan
sát nhà này rất tỉ mỉ.
Tiếc rằng, sau nửa giờ cô
lại dần thất vọng. Đồ đạc cũ nát không nói lên điều gì về chủ nhân. Trong ngôi
nhà này cũng có một số rác mới, nhưng không thuộc loại Na Lan muốn tìm.
Cô bỗng nảy ra một ý, đồ
dùng cũ nát kia ít nhiều cũng phản ánh con người và cá tính của chủ nhân, cô
bèn lấy đèn pin ra soi. Ở bếp, nhặt được vài mảnh bát đĩa vỡ, già nửa cái vung
nồi gốm, đều có hoa văn, chứng tỏ gia đình này trước kia tương đối khá giả, chủ
nhân thuộc loại tinh tế, có lối sống trang nhã. Trong buồng ngủ kê một cái bàn
nhỏ rất tinh xảo, đã gãy hai chân nhưng chất gỗ còn tốt, mặt bàn và ngăn kéo
mài xoa nhẵn nhụi, xem ra không phải nhà nông bình thường. Gầm bàn la liệt
những mảnh gương vỡ. Đây chắc là cái bàn dùng cho việc trang điểm?
Từ nhỏ tới lớn, Na Lan chưa
từng nhìn thấy mẹ dùng bàn trang điểm, thế mà cách đây bao nhiêu năm, ở nơi này
đã xuất hiện bàn trang điểm, chứng tỏ nữ chủ nhân có ý thức về khuôn mặt, da
dẻ, đầu tóc.
Nhưng những điều này liên
quan gì đến Mễ Trị Văn? Mễ Trị Văn! Dấu vết của lão ở đâu?
Một gian buồng ngủ khác, kê
cái giường đơn cũ nát, các mảnh gỗ lả tả dưới đất.
Và một mẩu vải trắng.
Na Lan cúi xuống kéo mẩu vải
ra. Vải trắng ố vàng, nhưng chưa thật cũ kỹ như các đồ vật khác trong nhà. Là
một mảnh vải to.
Mảnh vải trắng lốp, chưa có
dấu vết của thời gian.
Tim Na Lan đập nhanh dần. Cô
nghĩ đến vụ án “ngón tay khăn máu”, nghĩ đến cái khăn dính máu, nghĩ đến vệt
máu đỏ trên nền khăn trắng tinh. Và mím môi kéo thật mạnh, được cả một mảnh vải
trắng khá lớn.
Lật mảnh vải lên.
Bên dưới không có gì.
Đúng hơn là, không có thứ gì
giá trị, chỉ có hai viên ngói dễ dàng bắt gặp ở bất cứ đâu trong thôn xóm bỏ
hoang này.
Giả sử có cặp trai lén lút
làm tình thì họ sẽ mượn tạm tấm vải để hoàn thành cuộc khám phá tối nay, khỏi
cần để ý hai viên ngói làm gì. Nhưng Na Lan chợt nghĩ, gạch ngói vỡ chỉ lăn lóc
ngoài tường ngoài sân, trừ phi mái nhà sụp xuống thì trong nhà mới có ngói vỡ.
Huống chi, đây lại không phải ngói vỡ mà là hai viên ngói nhỏ vuông vức hoàn
chỉnh.
Cô lật hai viên ngói lên,
trên mỗi viên đều khắc một ký tự.
Ký tự kỳ quái, cô từng trông
thấy trong cuốn nhạc phổ của Mễ Trị Văn, là ký hiệu ghi nốt nhạc, âm giai và
thế tay chơi đàn.
Mễ Trị Văn! Vậy là đã tìm ra
lão, tìm ra quá khứ của lão. Cô chực gọi điện đến buồng bệnh lão nằm, cười khẩy
và hỏi, ông còn nhớ những nốt cổ cầm chứ? Còn nhớ thời niên thiếu trong sáng vô
tư chứ? Nhưng sao suy nghĩ của mình lại ấu trĩ thế này? Có thể là muốn lục vấn,
cũng có thể là muốn trả đũa.
Na Lan mở di động ra chụp
lại hai ký hiệu để gửi cho Sở Hoài Sơn và Ba Du Sinh. Ở đây còn nhiều điều bí
mật cần cô khám phá.
Một lát sau, cô lại nhìn
thấy hai viên ngói quay ngược đầu ngoắc vào nhau. Chúng nằm bên cạnh cái tủ con
cũ kỹ đã sập xuống. Bức tường phía sau cái tủ con cũ kỹ đã sập xuống. Bức tường
phía sau cái tủ có một tấm ván dựng đứng, chân tấm ván kê một viên ngói. Chứng tỏ
tấm ván này không bình thường. Na Lan nhích tấm ván ra, sau nó là một hốc tường
cao tới thắt lưng người.
Xem ra từ bé Mễ Trị Văn đã
rất ham những trò bí hiểm.
Na Lan cúi xuống chui vào
cái hốc. Hang động bên trong quá chật và nông, cô chạm ngay một bức tường, bèn
đưa tay đẩy mạnh, mấy viên gạch lập tức rơi ra bên ngoài. Mùi ải mốc xộc ngay
lên mũi, ánh sáng lờ mờ hắt vào.
Thì ra đây là một cái ngách
bí mật thông ra thế giới bên ngoài. Na Lan tiếp tục đẩy, gạch lại rơi xuống.
Mảnh tường độ một mét vuông thủng toác ra. Na Lan chui từ trong nhà ra ngoài,
hơi sững sờ.
Cứ coi đây là kiệt tác của
Mễ Trị Văn hồi nhỏ đi, thì tại sao lão phải dỡ một hốc tường? Tự bố trí một lối
đi bí mật để chuồn ra ngoài. Chứng tỏ lão bị mất tự do, không thể đàng hoàng đi
ra khỏi nhà. Hoặc đây chỉ là một cuộc thử nghiệm mạo hiểm, nhằm ra khỏi nhà vào
những lúc không nên ra, ví dụ đêm khuya… Cũng có thể, hồi nhỏ Mễ Trị Văn thích
nhập bọn với bóng tối.
Na Lan đang định quay trở
vào thì bỗng nhìn thấy một viên ngói xám. Cô nhặt lên. Mặt trái của nó lại ghi
một nốt nhạc cổ. Cô nhìn quanh. Trên bãi cỏ cách đó bốn năm mét có một viên
ngói nữa. Cô bước đến. Đúng thế!
Xa hơn lại thấy một viên
ngói nhỏ với một ký hiệu kỳ quái.
Cách vài mét là một viên
ngói. Càng đi xa thì khoảng cách giữa hai viên ngói càng thưa, rồi thì cách hơn
chục mét mới thấy một viên, tìm được nó không dễ. Cứ thế đi mãi chừng hai cây
số… Na Lan kinh ngạc nhận ra mình đã đến chân dốc Mễ Lung!
Các viên ngói mất tăm mất
tích.
Na Lan đi khắp hai bên chân
dốc chừng mươi mét, không thấy viên ngói nào hết. Ngẩng đầu nhìn, thấy có một
đường mòn nho nhỏ ngoằn nghèo chạy từ chân dốc lên sườn dốc và còn lên mãi. Cô
đi theo. Quả nhiên lại nhìn thấy các viên ngói. Đầu tiên là vài viên nằm ở bên
đường cách nhau vài mét, sau đó là các viên nằm rải rác trong bãi cỏ hoang mới
mọc đầu xuân, rồi lại nằm sâu trong cỏ râm. Thình lình lại thấy hơn chục viên
ngói nhỏ chất thành một đống.
Nếu nối hết các nốt nhạc
viết trên ngói lại, liệu có thành một bản nhạc cổ không?
Mễ Trị Văn, lão chơi cái trò
gì thế này?
Na Lan bước đến chỗ đống
ngói, định lấy di động chụp toàn bộ các ký hiệu, bỗng thấy dưới đất chân nhũn
ra, hình như bãi cỏ biến thành đầm lầy, cô kinh hãi co chân nhưng đã quá muộn.
Cô kêu thét lên rồi rơi
xuống một cái hố sâu.
Rơi huỵch xuống đáy. Xung
quanh tối đen. Tiếp đó ý thức của cô cũng tối sầm, không biết đau đớn là gì
nữa. Cô ngất lịm đi.
Chương 17: Huyệt tối xương khô
Trên đầu bỗng có tia sáng,
mặt cô dính bùn ươn ướt.
“Tỉnh lại đi!”
Giọng ai thế này?
Mễ Trị Văn? Không thể! Lão
đang nằm trong buồng bệnh nan y, cách đây mấy chục cây số. Na Lan cố mở mắt,
nhưng bị một nắm bùn hắt kín mặt luôn. Cô định nói nhưng không ra tiếng.
“Ngươi khiến ta cảm động
đấy! Ngươi ráo riết truy tìm bí mật của ta và đã có chút thu hoạch. Tiếc rằng,
cũng như bí mật của ta, ngươi sẽ bị chôn vùi mãi mãi ở đây.” Giọng nói bên trên
còn rùng rợn hơn cả hàn khí trong lòng đất này. Đất tiếp tục rơi xuống nhiều
hơn.
Na Lan định kêu lên “Dừng
lại”.
“Muốn ta dừng lại cũng được.
Muốn giữ lại cái mạng như bông hoa nhỏ, không phải là không thể thương lượng.”
Cái giọng ma quỷ cố ra vẻ dịu dàng. “Chỉ cần ngươi van xin ta, nói rằng ngươi
đã sai, ta mới là người nắm vận mệnh ngươi, thậm chí nói rằng ngươi yêu ta, ta
có thể vui lòng chấp nhận.”
Na Lan nín lặng.
“Thấy chưa, đây là cái tật
đáng chết của người. Ngươi quá kiêu kỳ, rất không linh hoạt, thì chắc chắn đời
ngươi sẽ khốn đốn. Chi bằng để ta giúp ngươi siêu độ cho nhanh!”
Na Lan kêu lên, “Dừng lại,
dừng lại!”
Rồi cô bừng tỉnh.
Đúng là bên trên le lói ánh
sáng. Đầu nhức như búa bổ. Cô lấy di động ra. 5 giờ 30 chiều. Trời hôm nay xám
xịt, có lẽ chút ánh ngày cũng sắp hết. Cô không nhớ nổi lúc bị rơi xuống hố thì
chỗ nào chạm đất trước, chỉ biết hiện giờ toàn thân đau nhức, xương cốt như đã
giập hết, không chịu nghe lệnh bộ não nữa. Cô cố gắng ngồi dậy co duỗi chân
tay. Cũng may, không bị gãy xương bong gân. Xem ra đã ngất được vài giờ, người
bị va đập nhưng cơ thể vẫn có phản ứng đối phó với sự kiện bất ngờ.
Na Lan sờ túi áo khoác lấy
đèn pin ra chiếu lên trên. Dưới này cách mặt đất bao xa? 5 hay 6 mét? Soi nhìn
xung quanh, hố không rộng nhưng cũng phải được 5-6 mét vuông, cỏ mọc tùm lum
kín mít. Cô kiểm tra di động, thất vọng vì không hề có sóng. Đương nhiên rồi,
dưới hố sâu ở nơi hoang vắng hẻo lánh, sóng di động không thể xuyên xuống. Cũng
may không có cái âm thanh thâm hiểm kia uy hiếp, khiêu khích lòng tự trọng và
kiêu hãnh của cô.
Na Lan tìm cách trèo lên,
nhưng xung quanh không có rễ cây hoặc dây leo, cũng không có những mỏm đá nhô
ra để bám. Cô thử đến mười mấy phút, đều vô ích. Hy vọng tự lực thoát khỏi đây
hầu như bằng không. Lúc này cô mới thực sự sợ hãi, thần chết đang tiến đến gần
cô.
Nếu không ai biết mình bị
rơi xuống hố này thì cũng không ai cứu mình được.
Phải nén ngay nỗi sợ hãi vừa
dâng lên, Na Lan hít thở thật sâu, rồi vắt óc suy nghĩ, Sở Hoài Sơn biết mình
đến thôn Mễ Gia để tìm dấu vết của Mễ Trị Văn. Nếu tối nay không thấy mình trên
mạng thì anh ta sẽ sinh nghi, nhưng người không bước chân ra khỏi nhà bao giờ
như thế thì đến khi nào mới biết mình không hề trở về ký túc xá, để gọi điện
cho cảnh sát?
Ký túc xá có Đào Tử, nhưng
gần đây lại hay đi qua đêm, đâu thể ngẫu nhiên làm ầm lên vì mình vắng mặt một
buổi?
Còn anh lái xe taxi, mình đã
hẹn cứ chờ điện thoại, nhưng anh ta có bận tâm vì mình thất hứa hay không? Khả
năng này không cao.
Có nghĩa là không hy vọng
được ai biết chuyện đến cứu.
Hoang mang.
Ánh sáng le lói bên trên
cũng không còn nữa.
Phải trấn tĩnh! Na Lan liên
tục tự nhắc nhở. Nếu Mễ Trị Văn ngay từ khi chỉ là quái con đã đào được cái hố
sâu thế này thì người lớn như mình cũng có thể đào được một lối thoát.
Cô lục cái ví cũng rơi theo
xuống đáy, lấy ra con dao nhỏ, bắt đầu đào một cái hốc trên vách để bám và tỳ
chân trèo lên. Đào một chập, cô thấy nản, vách đất lẫn đá rất xốp, cái hốc
không đủ độ cứng, vừa đặt chân vào đã lở hết cả, cô lại rơi xuống.
Cô thử giẫm lên lần nữa.
Trượt chân.
Mễ Trị Văn nhóc con hồi xưa
ra vào cái hố này bằng cách nào? Chắc là phải dùng thang dài, thang giấu ở bãi
cỏ.
Ngồi phệt một lúc, Na Lan
đứng dậy thử lại. Đào hốc to và sâu thì giẫm được. Cô đào thêm một hốc bên trên
để bám tay. Tay vừa co lên thì hốc chân lại lở ra, công cốc, cô ngã nhào xuống
đáy. Thử mãi không biết bao nhiêu lần, tay chân vốn rã rời bây giờ lại càng tê
dại. Lẽ nào nơi đây sẽ thành huyệt mộ chôn mình?
Tâm trạng tuyệt vọng dần dần
trỗi dậy, đúng lúc ấy, Na Lan chợt nghe tiếng còi hú của xe cảnh sát. Cô xem
điện thoại. 11 giờ 42 phút. Vẫn không có sóng di động. Chắc là Sở Hoài Sơn hoặc
Đào Tử đã phát hiện ra mình mất tích.
Nhưng cơn phấn chấn lập tức
bị thất vọng đè bẹp, thôn xóm vắng lặng hoang vu thế này, cảnh sát tìm thấy cô
sao được? Sở Hoài Sơn và anh lái xe taxi chỉ biết mình đến thôn Mễ gia chứ đâu
có biết mình lại đi theo những nốt nhạc chết toi kia mà lên dốc Mễ Lung rồi rơi
xuống hố sâu giữa đồng cỏ dại?
Cô hét to, “Tôi là Na Lan!
Tôi ở đây! Cứu tôi với…”
Tiếng còi hú gay gắt vẫn
vang vọng dưới dốc xa xa, cô biết tiếng gọi của mình không thể truyền lên mặt
đất và xuyên qua màn sương mù. Thế thì bật đèn di động và chiếu hắt lên trên.
Ánh sáng quá yếu, soi lên miệng hố chỉ nhờ nhờ. Vô ích!
Na Lan lại gọi một chập nữa,
khản cả cổ. Còi hú di chuyển ra xa.
Cùng với tiếng gọi mỗi lúc
một yếu dần, hai mắt Na Lan trào lệ tự lúc nào chẳng biết. Đúng là sự giễu cợt
đỉnh cao dành cho cô. Tiếng cười chế nhạo thuộc về Mễ Trị Văn.
Na Lan thân mến, đây là kết
cục của trò chơi giữa cô và tôi.
Na Lan cố tự trấn an, cố
quên đi cơn đói và mệt mỏi đang hành hạ, tĩnh tâm nghĩ ngợi. Có lẽ đây là điểm
mấu chốt của trò chơi mà Mễ Trị Văn đã thiết kế từ nhiều năm trước, bất kỳ ai
định tìm hiểu về lão thì đều bắt tay xem xét thôn Mễ Gia và thời niên thiếu của
lão. Người chơi đáng thương ấy biết lão có duyên nợ với các nốt nhạc cổ cầm,
cho nên sau khi nhìn thấy các viên ngói thì sẽ đi theo tín hiệu chỉ đường, tìm
đến dốc Mễ Lung, tìm ra cái huyệt này. Không cần nhiều may mắn lắm, kẻ đó cũng
sẽ rơi xuống huyệt sâu chờ chết!
Nếu người chơi đen đủi nọ
không lên nổi thì coi như toi đời. Trong trò chơi điện tử, người chơi có vài
mạng dự phòng, nhưng trong thực tế thì chỉ có một cơ hội. Mà cứ cho là sẽ sống
sót, rồi sao nữa? Kẻ ấy sẽ được thêm máu ư? Hay thêm nhiều kiến thức về Mễ Trị
Văn? Rồi tiếp cận, và bước vào… cái bẫy mà lão đã cài đặt?
Ma quỷ khi lập trình trò
chơi, có nhớ thiết kế cửa ra hay không?
Lúc này Na Lan sực nghĩ đến
một điều. Từ lúc bị rơi xuống huyệt rồi tình lại, cô toàn bận tâm cách thoát
hiểm mà không quan sát tỉ mỉ cái huyệt này, liệu nó có ẩn chứa những điều kỳ lạ
về Mễ Trị Văn không? Nói theo lối tiêu cực tức là, dù mình chết thì cũng phải
chết cho rõ ràng.
Vì vẫn có ý thức tiết kiệm
pin điện thoại và pin đèn, nên từ nãy đến giờ Na Lan chỉ đào các hốc đất bằng
cách mò mẫm. Bây giờ tạm gác khát vọng sống lại, cô bật đèn pin quan sát kỹ
càng tất cả.
Thấy một tấm ván úp ở chân
vách huyệt, khá bằng phẳng. Cô nhấc nó lên, bên dưới là một cái hố không lớn,
tạm gọi là “huyệt trong huyệt”. Hố này có mấy cuốn sách và vài thứ lặt vặt, từa
tựa một cái kho nhỏ. Cô cầm các cuốn sách lên, bộ sưu tập này thật quái gở. Một
cuốn sách cổ có tên là Thanh Sơn cầm sao, chép các bản nhạc dân tộc kinh điển
như Quảng Lăng tán, Tống Ngọc bi thu, Tiêu Dao du… tất nhiên đều dùng các ký
hiệu âm nhạc lạ lùng. Một cuốn Tâm lý học thường thức in năm 1955, một cuốn
Lịch sử Hội họa phương Tây xuất bản năm Dân quốc thứ 35 (tứ 1946), một cuốn Giản
lược về Lực học xuất bản năm 1952, một cuốn Giải phẫu cơ thể người xuất bản năm
1956, một cuốn Không dũ tùy đàm in và khâu theo lối cổ.
Na Lan chưa bao giờ nghe nói
về cuốn Không dũ tùy đàm bèn thử giở ra xem. Sách do một người đời Thanh soạn,
tập hợp các truyện ký dưới hai triều Minh-Thanh, gồm các mẩu truyện dã sử, các
truyện dân gian quái dị. Hai năm trước Na Lan bị cuốn vào một vụ án lớn, cô đã
từng đọc loại sách này, đêm nay lại chạm trán, có lẽ đây là điềm gở? Lật thêm
mấy trang, cô thấy một cái thẻ đánh dấu sách. Là một sợi dây đàn.
Đúng là dấu ấn của Mễ Trị
Văn.
Ý nghĩ bi quan được chứng
minh ngay, sau khi nhấc hết mấy cuốn sách, cô đánh rơi luôn cái đèn pin, và kêu
thét lên!
Bên dưới, là những khúc
xương trắng hếu chồng chéo dày đặc!
Các khúc xương, các bộ xương
có nhiều kích cỡ, nhìn chung là nhỏ, không phải xương người. Các hộp sọ cho
thấy đây là xương mèo, chó và chuột. Điều đáng sợ và rùng rợn nhất ở đám xương
này là do bị vặt từ thân thể các con vật ra, chứ không phải tập hợp thành từng
bộ xương động vật hoàn chỉnh. Chúng bị bẻ bị xé, chứ không phải bị phân hủy
theo thời gian. Đa số các khúc xương nhỏ được buộc lại thành bó, mỗi bó có 4-5
khúc xương.
Thì ra Mễ Trị Văn nhà người
lại có cái sở thích như thế này!
Na Lan mường tượng lần sau
gặp lão, cuộc đối thoại sẽ rất phong phú, nhưng một ý nghĩ khác chèn lên ngay,
lần sau là bao giờ? Có phải lần đối thoại gần đây nhất, là lần cuối cùng không?
Từ nhiều năm trước lão đã thiết kế ra cái bẫy này nhằm bảo đảm rằng đám xương
khô và các bí mật liên quan không thể bị đưa ra ánh sáng, có phải thế không?
Vì phát hiện được cái ổ này
rồi, người ta dễ dàng liên tưởng đến thủ đoạn dùng trong các vụ án “ngón tay
khăn máu”, xé xác phanh thây kẻ yếu, tàn khốc và vô nhân đạo.
Mình phải ra khỏi chốn này!
Cô lại bắt đầu đào hốc, thử
hết lần này đến lần khác và liên tục thất bại.
Cho đến lúc miệng hố trên
kia có đất mới hắt xuống.
“Kẻ không thể tự làm chủ số
phận thì ít ra cũng nên biết điều! Chỗ đáng buồn nhất của ngươi là ngươi lại
lửng lơ đứng giữa.” Vẫn là cái giọng vừa quen vừa lạ, nghe như từ địa ngục vọng
về.
Nếu âm thanh của địa ngục
lại phát ra ở trên đầu, thì lúc này cô đang ở tầng thứ mấy?
Đất cát rào rào trút xuống.
Na Lan muốn né tránh nhưng không sao cựa quậy được. Đành mặc đất tạt vào mặt,
trong đất mới này hình như có giun, chúng đang ngọ ngoạy trên mặt cô.
“Cút đi!” Cô hét lên, nhưng
âm thanh quá yếu, run run tắt ngấm trong cái lạnh mùa xuân.
“Tự ngươi muốn vào, sao bây
giờ lại giở quẻ?” Giọng kia rin rít như rắn phun. “Ngươi cũng chỉ biết kêu ‘cút
đi, thả tôi ra’ như bọn đàn bà khác khi xuống đây, eo éo bất lực như bọn đạo sĩ
niệm chú hy vọng có thể chặn được tà ma! Nhất là ngươi luôn hiếu kỳ nghĩ mình
cứng cỏi, thực ra người là kẻ đáng thương, sống như thế làm gì cho khổ? Hiếm
thấy những kẻ thân làm tội đời như người!”
“Cảm ơn ngươi đã tư vấn tâm
lý.” Na Lan cố trở lại bình tĩnh. “Ngươi có thể lừa ta rơi xuống đây nhưng đừng
hòng đè bẹp ý thức của ta.”
Đất lại hắt xuống càng
nhiều. Chỉ một lát đã ngập đến đầu gối cô.
“Nói gì đó có vẻ đáng thương
đi chứ? Chưa chừng ta sẽ mủi lòng đổi ý cũng nên.” Kẻ ấy hỏi.
Na Lan định nói… nhưng toàn
thân cô lạnh run, bụng đói cồn cào không thể suy nghĩ được nữa, cô thấy khát
nước.
Cô im lặng. Ngươi có thể
giành phần thắng trong trò chơi, nhưng không thể thắng nổi ta. Khi đất ngập lên
đến ngực, Na Lan không thở được nữa.
“Đây là cơ hội cuối cùng.
Ngươi nói thật đi, nói là ngươi rất đáng thương, số ngươi khổ, sống chẳng thú
vị gì nhưng vẫn muốn tiếp tục sống, nhằm chứng minh ngươi có thể sống tiếp.”
Na Lan nhắm mắt lại.
Nước, mình chỉ muốn uống
nước.
Sau khi bị rơi xuống hố này,
đã bao lâu rồi mình không được uống một giọt nước? Tám? Mười? Hay mười hai
tiếng đồng hồ?
Đất rơi xuống, từng đám,
từng tảng, từng hạt… đánh bại bản năng sinh tồn của Na Lan. Cô có thể tỏ ra
cứng cỏi, nhưng không thể kìm được nước mắt. Vốn đã là thế rồi, cô bị sát hại,
mẹ cô suy sụp, Cốc Y Dương ra đi, Tần Hoài xuất gia, đâu còn hứng thú để sống
nữa?
Nước mắt càng trào ra nhiều
hơn.
Nước! Hình như có giọt nước
rơi vào má, đọng ở bên mép.
Na Lan bỗng bừng tỉnh, lại
có giọt nước rơi xuống mặt. Cô ngẩng đầu, toàn thân mềm nhũn không còn chút sức
lực. Hình như có chút ánh sáng trên miệng hố. Trời đã sáng hay sao? Cô bỗng
hiểu ra, giọt nước vừa rơi xuống là sương sớm đọng trên cỏ ở miệng hố rỏ xuống.
Sương độc tích tụ của mấy hôm sương mù bao phủ. Đầu óc cô cứng đờ hỗn loạn
nhưng vẫn nhớ ra mấy câu thơ cổ bi quan, “Kiếp người như sương sớm”, “Tựa như
sương sớm, ngày trước bao khổ đau…” Hình như ác mộng vẫn tiếp tục.
Cô nhìn di động. 5 giờ 34
phút sáng. Khi màn hình sáng lên, cô bỗng cảm thấy xung quanh khang khác, hình
như ở đây không chỉ có mình cô!
Cô quay người, nhưng không
nhìn thấy gì hết. Cô sờ thấy chiếc đèn pin, tay run run chưa kịp bật thì một
bóng đen bỗng xuất hiện trước mặt cô.
Chương 18: Thiếu mẩu xương ngón
Phản ứng đầu tiên của Na
Lan, chắc đây vẫn là giấc mơ chưa tàn vì đói khát, mệt mỏi và sợ hãi, hoặc đây
là ảo giác. Cô đã từng nếm trải những ảo giác như thật.
Cô kêu lên kinh hãi.
“Na Lan đừng sợ! Tôi đến cứu
cô đây!”
Chưa đầy mười phút sau, còi
hú của xe cảnh sát vang lên. Na Lan biết mình đã thực sự được cứu.
Chỉ trong mấy phút, Na Lan
đã làm quen với vị cứu tinh. Một người đàn ông tuổi ngoài 60, gầy gò, râu bạc,
tự giới thiệu mình họ Trần và nói có lẽ cô từng nghe nhắc đến. Ông đưa cho Na
Lan chai nước khoáng và bánh quy đem theo. Nghe nói “họ Trần”, Na Lan liền đoán
ra ngay, “Chú là…tiền bối Trần Ngọc Đống?”
“Cứ gọi tôi ‘chú Đống’ là
được.”
Ba mươi năm trước, Trần Ngọc
Đống là sĩ quan cảnh sát đã điều tra vụ án “ngón tay khăn máu” đầu tiên, cũng
là chuyên gia tham gia trinh sát hầu hết các vụ án “ngón tay khăn máu” khác.
“Chú đã về hưu… mà vẫn…” Nếu
Mễ Trị Văn có mặt, chắc lão sẽ nói cô “Biết rồi còn cố hỏi…”
“Đoán xem ai đã báo cho tôi
biết?” Trần Ngọc Đống hỏi lại.
“Sở Hoài Sơn?”
“Cháu thông minh thật! Biết
Ba Du Sinh không trực tiếp nhúng tay, anh chàng mới từ Bộ xuống lại càng không
gọi tôi. Khi nhận được điện của Sở Hoài Sơn, tôi ngỡ gã nào đùa bỡn nói năng
thì ấp úng lắp bắp, sau khi nghe ra anh ta biết rõ toàn bộ vụ án thì tôi mới
hiểu tính chất nghiêm trọng của sự việc.”
Sỏ Hoài Sơn là người nhanh
chóng báo động cảnh sát về việc Na Lan mất tích. Anh liên tục chờ kết quả khảo
cổ thôn Mễ Lung của Na Lan, nửa đêm lên mạng vẫn không thấy cô, gọi điện cũng
không được, cuống lên bèn gọi cho Kim Thạc. Kim Thạc dù tức giận vì Na Lan tự
tiện hành động nhưng dẫu sao vẫn là sĩ quan cảnh sát cẩn thận có thừa, lập tức
điều động ngay hai xe cảnh sát đến thôn Mễ Gia sau dốc Mễ Lung để tìm kiếm.
Nhưng đêm khuya sương mù dày đặc, tìm không ra.
Kim Thạc cảm thấy sự việc
nghiêm trọng, đành phải thông báo cho Ba Du Sinh. Ba Du Sinh và Kim Thạc bàn
đến việc phải cho tìm kiếm quy mô toàn thành phố. Còn Sở Hoài Sơn thì nghĩ ngay
đến Trần Ngọc Đống.
Mễ Trị Văn cưỡng bức Đổng
Bội Luân bất thành rồi bị bắt, là vụ án xảy ra vài tháng trước ngày nghỉ hưu
của Trần Ngọc Đống. Xem tư liệu mà Ba Du Sinh gửi cho, Sở Hoài Sơn biết Trần
Ngọc Đống cũng tham gia xử lý vụ án này và đã đi sâu tìm hiểu về Mễ Trị Văn.
Về sau Sở Hoài Sơn kể với Na
Lan rằng lúc đó anh bỗng sáng óc ra, chúng ta lâu nay muốn tìm hiểu kỹ về Mễ
Trị Văn mà lại bỏ qua một cơ hội tốt, quên mất rằng không ai hiểu rõ vụ án
“ngón tay khăn máu” và Mễ Trị Văn bằng Trần Ngọc Đống! Nhưng Trần Ngọc Đống đã
nghỉ hưu,,,
Vụ án “ngón tay khăn máu”
hoành hành suốt ba mươi năm, gần như song song với sự nghiệp cảnh sát của Trần
Ngọc Đống. Sự nghiệp của ông, đúc kết cô đọng thì, thành công hay thất bại đều
gắn liền với vụ án “ngón tay khăn máu”. Khi ông nghỉ hưu, vụ án vẫn đang tiếp
diễn, những ai có tâm với sự nghiệp thì đều khó mà phủi tay với tất cả. Huống
chi, tư liệu mà Trần Ngọc Đống để lại cho thấy ông là con người rất nhiệt tình
với công tác trinh sát phá án hình sự, không bao giờ qua loa cẩu thả. Sở Hoài
Sơn bèn gọi điện cầu cứu ông. Lúc đó đã 1 giờ 30 phút sáng.
Chỉ sau một hồi chuông reo,
Trần Ngọc Đống đã nhấc máy, cứ như thức đêm để chờ điện thoại. Sở Hoài Sơn nói
nhát gừng ngắt quãng, ông lại hỏi cụ thể nguyên do sự việc, sau đó lập tức đeo
chiếc ba lô “tình trạng khẩn cấp” với đầy đủ dụng cụ rồi chạy ra khỏi nhà.
Trần Ngọc Đống không có ô
tô, sau nửa đêm lại càng không thể kiếm được taxi đi đến dốc Mễ Lung hoang vu.
Ông sang khu bên cạnh, gõ cửa nhà người bạn làm lái xe đã về hưu, nhà vẫn có
chiếc ô tô Santana bình dân cũng đã đến tuổi về hưu. Trần Ngọc Đống vốn biết
lái xe, sau mấy phút nói chuyện ông đã mượn được xe rồi phóng như bay đến dốc
Mễ Lung.
Gọi là phóng như bay thì hơi
quá, so với những chiếc Audi hay xe đua Lamborghini với chủ nhân phừng phừng
men rượu, thì chiếc Santana già với bác tài cũng già này, chỉ như lững thững đi
dạo phố. Khi chạy đến dốc Mễ Lung, đã gần 3 giờ sáng.
“Chú cũng nhìn thấy những
viên ngói và các nốt nhạc cổ à?”
Trần Ngọc Đống nói, “Đầu
tiên tôi nhìn thấy cái hốc tường.” Ông lầu bầu trách các nhân viên do Kim thạc
cử đến, chắc đều là lính mới nên không chú ý bảo vệ hiện trường, mặt đất lẽ ra
phải có dấu chân mới của Na Lan, nhưng đã bị một lô dấu chân giẫm lên xóa hết.
Ông đã vào gần chục ngôi nhà có hốc tường thủng thì ông liền chú ý, nhà hoang,
đương nhiên là tường ngói lở lói cũ kỹ, nhưng hốc tường này thì khác, Gạch ngói
lâu ngày dầm mưa dãi nắng, nhất là gần đây mưa xuân ẩm ướt, thì phải bị nham
nhở gặm nhấm, cũng rất dễ bị rêu xanh phủ kín, nhưng đống gạch lộn xộn ở dưới
chân tường này thì quá phẳng phiu sạch sẽ, hình như mới bị dỡ xuống.
Trần Ngọc Đống bật chiếc đèn
LED trong tay. “Chà! Hữu dụng quá, may mà có nó!” Ông nói, khi nhận ra các viên
ngói vương vãi trong và ngoài nhà, bề mặt đều viết chữ rất kỳ quái.
Và cả dấu chân của Na Lan.
Sau khi ra khỏi thôn Mễ Gia,
rất khó lần tìm dấu chân của Na Lan, nhưng những viên ngói đã chỉ đường cho
ông.
“Tôi gọi điện cho Kim Thạc,
bảo anh đến đây mà xem, có lẽ cần các anh ứng cứu.” Trần Ngọc Đống soi đèn pin
lên trên. “Tôi dùng nó để xuống đây. Già rồi, phải chấp nhận vậy. Nếu trẻ hơn
thì tôi đã nhảy ào xuống, không vấn đề gì.”
Na Lan nhìn thấy ở vách hố
có sợi thừng nilon to bằng ngón tay cái.
“Hễ ra khỏi nhà là chú vũ
trang đầy đủ như thế này à?”
Trần Ngọc Đống nói, “Thói
quen hình thành từ hồi trẻ đi bộ đội, chuẩn bị kỹ thì đỡ lo, nếu không, lúc này
cháu có gì mà ăn mà uống?”
Tiếng còi hú của xe cảnh sát
lại vang lên, chừng hơn mười phút sau, theo chỉ dẫn của Trần Ngọc Đống, cảnh
sát cứu viện đã tìm đến miệng hố rồi thả thang dây xuống. Trần Ngọc Đống hỏi Na
Lan, “Cháu trèo được không?”
Na Lan đáp, “Cháu vừa được
ăn, phải có ích chứ!” Trần Ngọc Đống đỡ Na Lan lên thang. Ông bật đèn pin rọi
xuống, nhìn kỹ các “văn vật” vừa được khám phá. Na Lan sợ mình vẫn còn yếu, chỉ
dám từ từ leo lên từng bậc. Lúc đến gần miệng hố bỗng nghe tiếng Trần Ngọc
Đống, “Cháu có nhận ra chi trước của các động vật này đều thiếu một khúc xương
ngón chân không?”
Chương 19: Suy diễn
Chân trước của mèo có 4
ngón, chân sau có 5 ngón. Chó cũng vậy, chuột cũng thế. Xương của các động vật
vùi dưới hố này, bàn chân trước và sau đều được bó thành từng bó, mỗi bó 4 hoặc
5 cái xương, tức là chân trước và chân sau bó riêng. Có điều một nửa trong số
đó, các bó xương chân trước, chỉ có 3 cái xương, đều thiếu một ngón.
Nghe có vẻ quen quen?
Vụ án “chặt ngón tay” hóa ra
đã bắt đầu từ nửa thế kỷ trước. Địa điểm là một cái huyệt tối tăm.
Kim Thạc đi theo xe cứu
thương, đưa Na Lan vào phòng cấp cứu bệnh viện Phổ Nhân, trưởng ca trực vừa
khéo là Chu Trường Lộ. Ông đích thân khám cho Na Lan, rồi cho truyền dung dịch,
xong xuôi mới đi ra. Kim Thạc nói, “Kỹ thuật viên của phòng thí nghiệm trinh
sát hình sự sẽ nhanh chóng xác định tuổi của các bộ xương động vật ấy. Khi nào
bệnh viện cho về, thì cô cứ nghỉ ngơi mấy hôm. Tôi báo kết quả điều tra kịp
thời.”
Na Lan hỏi, “Có lẽ tòa nhà
bên cạnh sẽ có câu trả lời, nhân khi tôi đang nằm viện, anh có thể cho phép tôi
phỏng vấn ‘Thương Hiệt’ Mễ Trị Văn lần nữa không?
Kim Thạc cười nhạt, “Cô cho
rằng lão sẽ cung khai à, vâng, hồi nhỏ đôi khi tôi thích hành hạ động vật, sau
này lớn lên lại thích tra tấn con người. Hồi nhỏ tôi bẻ ngón tay mèo, chó, sau
này tôi chặt ngón tay người… chứ gì? Cô khỏi cần bận tâm, chúng tôi nhất định
sẽ thẩm vấn lão đến nơi đến chốn!”
“Nhưng tôi quá sốt ruột, Mễ
Trị Văn đưa cho chúng ta chữ thứ hai, đến nay vẫn chưa khám phá ra…”
Kim Thạc đặt tay lên vai Na
Lan, nói, “Bạn Na Lan ạ, hiện giờ bạn cần nghỉ ngơi để bình phục thể lực. Chữ
này hay chữ nọ chỉ là trò chơi tâm lý do lão già khốn khiếp đó bày ra để bỡn
cợt bạn, bạn càng cho là thật thì lão càng đắc ý!”
“Vậy là anh từ chối yêu cầu
của tôi.” Na Lan thở dài.
“Chờ khi cô khỏe lại hãy
hay.” Giọng Kim Thạc ngụ ý “khỏi cần nhiều lời”. Nói xong anh bước ra khỏi
phòng hồi sức cấp cứu.
“Chờ hai chúng ta nói chuyện
đã rồi tính sau.” Trần Ngọc Đống lên tiếng.
Na Lan ngạc nhiên, hóa ra từ
nãy đến giờ Trần Ngọc Đống vẫn ở trong này! Phòng hồi sức cấp cứu có hơn chục
cái giường, người nhà bệnh nhân không ngớt ra vào, chắc ông đã đi lẫn cùng họ.
Kim Thạc chỉ mới gặp ông lần đầu, hỏi tỉ mỉ về việc giải cứu Na Lan là xong,
chắc không ngờ ông lại theo vào tận đây.
Trần Ngọc Đống bước đến bên
giường Na Lan, kéo ghế ngồi xuống, “Tôi nán lại trò chuyện với cháu. Khi nào
xuất viện, mời cháu đến nhà tôi chơi.”
Hơn ba tiếng đồng hồ sau, Na
Lan được ra viện. Chu Trường Lộ đích thân xem các xét nghiệm và chỉ số sức
khỏe, nói rằng Na Lan đã ổn, nhờ kịp thời truyền dịch đã khắc phục được tình
trạng mất nước, chỉ số điện giải của cơ thể đã cân bằng. Sau đây chỉ cần tĩnh
dưỡng, ăn uống điều độ đúng giờ thì sẽ nhanh chóng bình phục hoàn toàn.
Trần Ngọc Đống hỏi Na Lan,
“Cháu định về ký túc xá nghỉ ngơi hay là đến chơi chỗ tôi?”
Na Lan nói ngay, “Đến nhà
chú!” Cô tin rằng ông muốn nói với cô nhiều điều liên quan mật thiết đến vụ án.
Trần Ngọc Đống đã trả chiếc
Santana cho ông hàng xóm, nên cả hai đi tàu điện ngầm, rồi lên xe buýt. Hai
mươi phút sau họ rẽ vào một khu chung cư cũ kỹ lem nhem. Trần Ngọc Đống nói đây
vốn là tập thể Bộ Công an, gần đây chuyển sang nhà ở thương mại, một nửa số hộ
trong này vẫn là các cán bộ công an có tuổi.”
“Lớp trẻ như Ba Du Sinh thì
không gặp may như thế, khi họ bắt đầu ra công tác thì không còn chế độ phân nhà
nữa. Chỉ nhận tiền trợ cấp rồi mua nhà thu nhập thấp thì vẫn thua việc phân
nhà.” Ông than thở.
Na Lan bật cười, “Lớp trẻ à?
Chú biết không, cháu vẫn gọi anh ấy là thầy, và là thầy thứ thiệt đấy!”
“Vụ án thứ nhất mà Ba Du
Sinh hợp tác với tôi, là vụ xảy ra ở khu Văn Viên, cách đây 7 năm. Hồi đó anh
ta đã có mấy năm kinh nghiệm, nhưng vẫn là anh chàng láu táu, đến giờ thì già
sao được?” Giọng ông dịu đi. “Ngay lần đó tôi thấy anh ta ham đi sâu nghiên
cứu, tôi đã biết anh chàng này sẽ rất có tiền đồ, ý tôi nói là về mặt trinh sát
hình sự chứ không phải việc thăng quan tiến chức.”
Na Lan thừa nhận, “Vâng. Cho
đến giờ cháu vẫn không hiểu tại sao anh ấy thình lình bị rút khỏi vụ án ‘ngón
tay khăn máu’, thấy nói là để cách ly…”
Trần Ngọc Đống toan nói lại
thôi, ông dẫn Na Lan vào hành lang, đi đến căn hộ số 7 tòa nhà 3. “Nhà tôi bề
bộn, cháu vào cũng không tiện… nhưng đành vậy, vi tôi cần nói vài điều với
cháu.”
Đúng là bề bộn chứ không
phải ông nói khiêm tốn. Căn hộ ở tầng trệt, hành lang chất đủ thứ như các tòa
nhà cũ vốn thấy, trong nhà càng lộn xộn hơn. Nhưng ngồi một lát, Na Lan lại
nhận ra sự ngăn nắp trong hỗn loạn, chẳng qua là nhà chật, mà đồ đạc lại quá
nhiều, xếp chật cứng. Chủ yếu là các chồng sách và tư liệu, chủ nhân kẹp mảnh
bìa phân loại cho từng chồng, ghi “Mã Vân”, “Tiết Hồng Yến”, “Đường Tĩnh
Phương”… đều là nạn nhân trong các vụ án “ngón tay khăn máu”. Đủ 12 người. Ba
giá lớn chất đầy sách, dưới sàn cũng la liệt sách. Sách được phân nhóm rõ ràng,
chuyên đề trinh sát hình sự, tâm lý học, pháp y, pháp luật, tiểu thuyết trinh
thám…
“Nhiều sách quá!” Na Lan
trầm trồ.
“Chúng rất hữu dụng, từ khi
về hưu tôi lại có nhiều thì giờ để đọc thật kỹ. Tôi vốn là bộ đội chuyển ngành
đi học hình sự, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm và trực giác chứ ít khi nhờ đến lý
luận. Tôi không bằng thế hệ như Ba Du Sinh mới vào nghề đã là cấp trưởng nhóm
trưởng ban.” Ông chỉ vào cái ghế đệm da cũ kỹ, bảo cô ngồi, rồi đi pha trà.
Na Lan nói, “Cháu uống nước
trắng là được. Cháu chủ yếu muốn nghe cao kiến của chú.”
Trần Ngọc Đống đáp, “Tôi đâu
có cao kiến gì, nếu có thì đã phá được vụ án từ lâu.”
“Xem ra, sau khi về hưu chú
vẫn không rời ‘ngón tay khăn máu’.”
“Đối với cảnh sát chúng tôi
thì đây chỉ là một vụ án, nhưng với người đã khuất và thân nhân của họ, đây là
một núi án mạng.” Giọng ông bức xúc xen lẫn tuyệt vọng. “Một núi án mạng không
bao giờ khám phá ra được. Nửa đêm chúng bắt ta thức giấc rồi tiếp tục suy
nghĩ…”
Na Lan không biết nên an ủi
người cảnh sát già như thế nào, chỉ khe khẽ nói, “Chú đã làm hết sức rồi…”
“Cháu thử nói xem, những
người bình thường như chúng ta, cả đời liệu làm được mấy việc lớn, việc có ý
nghĩa, đáng để con cháu mình và lớp người sau cảm thấy tự hào?”
“Đừng nói là mấy việc, ngay
cả một việc cũng rất khó làm rồi.”
“Chứ còn gì!” Trần Ngọc Đống
đi đi lại lại trong khoảng trống chật hẹp của căn hộ. “Tôi không lập gia đình,
không con cháu, chẳng hám để lại tiếng thơm, nhưng nghĩ đời người mấy chục năm
ngắn ngủi, ít ra ta cũng nên làm được một số việc có tính thách thức và ý nghĩa
một chút. Tôi là anh công an đã từng phá các vụ án lớn nhỏ, đã hết sức phục vụ
nhân dân, chết cũng không có gì ân hận. Nhưng vụ án ‘ngón tay khăn máu’ này
khiến tôi buồn nhất, già nửa đời người không lần ra manh mối! Hễ nghĩ đến hung
thủ vẫn đang nhởn nhơ bên ngoài tự do hít thở như mọi người, thì tôi lại… cháu
biết không… tôi lại có ham muốn mãnh liệt là muốn tóm cổ hắn đưa ra trước pháp
luật. Cùng với thời gian, ham muốn ấy càng mạnh thêm. Cháu học về tâm lý, chắc
hiểu được tâm trạng ấy của tôi?”
Na Lan cười nói, “Không cần
học tâm lý cũng có thể hiểu được. Cuốn sách sự nghiệp công an của chú gắn liền
với vụ án ‘ngón tay khăn máu’, đến khi về hưu vẫn viết là ‘hãy đón đọc, còn
nữa’. Nếu là người đã dứt đường tơ chẳng bận tâm nữa thì sẽ nghỉ ngơi khỏi mệt
óc. Chú không phải con người như thế cho nên chú không thể mặc kệ. Cháu rất
hiểu.”
Trần Ngọc Đống gật đầu,
“Được! Coi như chúng ta đã gạt bỏ trở ngại đầu tiên. Cháu đã hiểu tại sao tôi
về hưu nhưng vẫn tham dự vào, đỡ công tôi phải thanh minh giải thích. Mong cháu
thông cảm cho.”
“Vâng. Chú đã có ba mươi năm
kinh nghiệm nghiên cứu về vụ án này và hung thủ, chính chú đã là một kho báu
rất phong phú.”
Trần Ngọc Đống “hừ “một
tiếng, không rõ có phải ông bất mãn với ai đó không. “Ba mươi năm, đúng thế.
Nhưng ai mà chẳng có lúc đã phí hoài thời gian. Suốt ngần ấy năm chúng tôi toàn
đi đường vòng, nếu không đã chẳng thành ra như thế. Thoạt đầu không có manh mối
gì hết, lý luận không chỉ đạo được gì, chủ yếu là nghĩ đến đâu thì làm đến đó.
Chúng tôi chưa từng gặp vụ nào vừa quái dị vừa kín kẽ như ‘ngón tay khăn máu’,
cả tổ chuyên án đều như lần mò đi trong đêm. Có phát động quần chúng hẳn hoi,
họ báo cho biết rất nhiều manh mối nhưng đều chẳng đâu vào đâu, thế là tinh lực
của cả tổ bị phân tán. Về sau chúng tôi dần thay đổi sách lược, bắt đầu thu hẹp
diện tình nghi và tổ chức giám sát một số người, rồi La Cường sa lưới.” Trần
Ngọc Đống tiếp tục đi đi lại lại. “Thực tế chứng minh chúng tôi vẫn ở thế hạ phong,
thậm chí ngờ rằng ngay từ khi hung thủ lựa chọn mục tiêu sát hại thì hắn đã an
bài để chúng tôi dồn sự chú ý vào La Cường. La Cường chết rồi mà vụ án ‘ngón
tay khăn máu’ vẫn xảy ra, làm tôi bàng hoàng, hung thủ thật tinh khôn! Bấy giờ
tôi rất muốn biết về tên cao thủ súc sinh ấy, đầu óc tôi toàn miên man, hắn là
ai, là kẻ như thế nào?” Trần Ngọc Đống đứng lại, nhìn Na Lan.
Na Lan thấu hiểu trạng thái
chuyên tâm ấy, cũng giống như cô “say” Mễ Trị Văn hiện giờ.
Vẻ mặt Trần Ngọc Đống thể
hiện rõ “Tôi biết cô đã đoán ra” đoạn nói tiếp, “Tôi bắt đầu đọc rất nhiều sách
về tâm lý học tội phạm. Trình độ văn hóa của tôi vốn thấp, có nhiều nội dung
khó, nhưng cố gắng miệt mài rồi cũng hiểu ra, muốn đi sâu tìm hiểu về hung thủ
này, cách tốt nhất là ‘Suy diễn tâm lý học tội phạm’, điều này tôi không múa
rìu qua mắt thợ nữa, chắc cháu hiểu hơn tôi nhiều. Có điều, hiện nay cháu bị
đưa vào một tình thế kỳ lạ. Đối tượng của ‘Suy diễn tâm lý học tội phạm’ thường
là chưa biết, nó trợ giúp cho công tác phá án, còn cháu đang đối diện với Mễ
Trị Văn người thật việc thật với tính cách và các vụ án lão đã gây ra. Cho nên
cháu không nghĩ đến ‘Suy diễn tâm lý học tội phạm’ cũng là điều bình thường
thôi.”
Na Lan biết, Suy diễn tâm lý
học tội phạm là nòng cốt của Tâm lý học tội phạm, là một kỹ thuật hỗ trợ trinh
sát hình sự tuy còn phải tranh luận thêm nhưng vẫn đang được áp dụng rộng rãi ở
một số nước phương Tây, nhất là đối với dạng vụ án hàng loạt. Chuyên gia tâm lý
có trình độ sẽ căn cứ vào hành vi gây án hàng loạt và một số ít manh mối, dùng
kiến thức tâm lý học để suy đoán về con người quá khứ và động cơ gây án. Kết
quả suy luận sẽ giống như một bức tranh lập thể về hung thủ, phác họa về giới
tính, tuổi tác, tầng lớp xã hội, hoàn cảnh sinh trưởng, từ đây thu hẹp diện
tình nghi trong đám đông tội phạm. Sau đó, nhờ may mắn cộng với nỗ lực, có khả
năng bắt đúng hung thủ.
Trở thành một chuyên gia về
Suy diễn tâm lý học tội phạm, hoặc gọi là họa sĩ tâm lý học tội phạm vẫn là
niềm mơ ước nghề nghiệp của Na Lan!
“Chú ạ, đúng là cháu đã quên
mất việc tận dụng Suy diễn tâm lý học để hiểu vụ án này.” Na Lan thừa nhận, và
cô tự hỏi tại sao mình lại quên nhỉ?
“Cũng nên thấy rằng không
thể trách gì cháu. Ngay từ đầu cháu đã bị cuốn vào vụ án từa tựa trò chơi này,
đố chữ, tìm hài cốt, điều tra về xuất thân… nên rất dễ bỏ qua mục đích thực sự
của Mễ Trị Văn khi yêu cầu gặp cháu.”
Na Lan chưa hiểu. “Mục đích
thật sự?”
“Tôi có cảm giác trò chơi
của lão dành cho cháu không phải là đố chữ hay tìm hài cốt, mà là trò chơi tâm
lý, trò chơi giữa tìm hiểu và bị tìm hiệu, giữa thao túng và bị thao túng.”
Na Lan đã hiểu ra, “Chú giữ
thể diện cho cháu rồi, vì đã không chế nhạo ‘thảo nào mà cô luôn ở thế hạ
phong’.”
“Không đến nỗi là thế hạ
phong. Mai kia nhìn lại sẽ thấy đây chỉ là một quá trình.”
“Quá trình này suýt nữa biến
thành chung kết. Nếu chú không kịp thời đến cứu thì cháu không thể tiếp tục
chơi trò chơi tâm lý với Mễ Trị Văn nữa! Nhưng hiện giờ cháu càng cảm thấy mờ
mịt, dù vận dụng Suy diễn tâm lý học để phân tích Mễ Trị Văn thì hình như vẫn
không thể giải quyết được vấn đề then chốt, lão có phải hung thủ các vụ án
‘ngón tay khăn máu’ không? Hoặc, phải làm gì thì mới thông qua lão để tìm ra
hung thủ?”
Trần Ngọc Đống giơ hai bàn
tay lên cao. Na Lan hiểu, chỉ còn cách thử phác họa nguyên hình của Mễ Trị Văn
thì mới có được câu trả lời. Trần Ngọc Đống nghĩ ngợi rồi lại nói, “Có phải
hung thủ không? Ta nên hiểu rằng Suy diễn tâm lý học tội phạm hiệu quả đến đâu
đi nữa cũng chỉ có giá trị gợi ý hoặc đưa ra phương hướng cho trinh sát hình sự
chứ không thể phán đoán kết luận. Từ khi nghiên cứu môn học này, tôi từng thỉnh
giáo các chuyên gia trong nước, chuyên gia Mỹ, cháu đoán xem họ nói gì? Sau khi
suy diễn xong, hầu như ai cũng xác định là La Cường!”
Na Lan hết sức ngạc nhiên,
nhưng nghĩ kỹ thì thấy không phải là không có lý. Kết quả Suy diễn tâm lý học
tội phạm phác họa ra hung thủ, có thể phù hợp với nhiều đối tượng. “Tức là,
chứng minh rằng không phải các chú ngẫu nhiên bắt La Cường, và càng không phải
là bắt nhầm?”
Trần Ngọc Đống thở dài,
“Nhầm vẫn là nhầm. Tên La Cường đã gây nhiều tội ác, số nó đen nên gặp phải tôi
bắt nhầm, lại đúng vào năm có chiến dịch ra quân càn quét tội phạm, nên bị
tuyên tử hình nhanh chóng rồi thi hành án ngay, không có cơ hội phúc thẩm hoặc
kháng cáo nữa. Nếu nói đời tôi có điều gì khiến tôi chết không thể nhắm mắt thì
chính là trường hợp ấy.”
Na Lan an ủi, “Chú đừng nói
thế, chú tự làm khó cho mình nhiều quá.” Bỗng cảm thấy bức bối, cô đứng lên,
“Mai kia cháu lại xin chú chỉ bảo cho, đặc biệt là cháu muốn xem chú và các
chuyên gia đã suy diễn những gì về vụ ‘ngón tay khăn máu’.”
“Được! Trước hết tôi cho
cháu biết một nhận định chung của tất cả các chuyên gia.” Trần Ngọc Đống tiễn
Na Lan ra, tay ông đặt lên khung cửa. Lúc này cô mới chú ý thấy lưng ông còng,
trông già nua hơn nhiều so với tuổi của mình. “Tất cả các chuyên gia đều nhận
định rằng, tên hung thủ này chưa gây án đến mức dữ dội kinh khủng thì còn chưa
chịu dừng tay. Vụ án ‘ngón tay khăn máu’ sẽ còn tiếp tục.”
Chương 20: Nói đúng tim đen
Phải chờ mất hai hôm, cuối ngày
làm việc, Kim Thạc mới cho phép Na Lan vào gặp Mễ Trị Văn.
Vẫn như trước, lão nằm trên
giường, mặt xám như tro, hai mắt nhắm nghiền, nghe tiếng động cũng chẳng buồn
hé mắt. Na Lan đứng bên đầu giường lão một lúc, không biết nên đánh thức bằng
cách nào, cho cái bạt tai hay là rút ống truyền dịch ra?
“Bị ăn quả đắng nên tìm đến
tôi xả giận hả?” Mễ Trị Văn chủ động mở miệng.
Na Lan kinh ngạc, “Ai nói là
tôi ăn quả đắng? Đồng bọn của ông chứ gì? Tại sao hắn không chôn sống tôi luôn
để khỏi có người chạy đến trút giận lên ông?”
Lão ho rũ rượi một hồi. “Cô
có nghĩ rằng nếu Thương Hiệt có chiến hữu thì sẽ rối loạn không? Người muốn tạo
chữ vuông, người muốn tạo chữ tròn, người khác lại thích chữ ngang bằng sổ
thẳng, người nữa lại thích chữ ABC… thế hệ sau sẽ khổ lắm! Cô bị ăn quả đắng là
tất nhiên, sau cuộc điện thoại lần trước tôi biết ngay cô đã lầm đường lạc lối,
cô tò mò không hiểu tại sao nhân vật tập hợp trí tuệ của thiên hạ như Thương
Hiệt bỗng chốc lại biến thành lão già lưu manh bỡn cợt các cô gái? Chắc chắn cô
sẽ cố gắng tìm hiểu mọi mặt về tôi, sẽ đến dốc Mễ Lung, đến thôn Mễ Gia… Đó đâu
phải là những bí mật ghê gớm? Điều tra suy đoán là ra ngay. Cô rất có đầu óc,
rồi sẽ tìm được cả nhà cũ của tôi, cũng như… các nốt nhạc cổ mà tôi để lại… Ôi
mệt quá, các chuyện tiếp theo…” Lão mở mắt, cựa quậy. “Cô biết rồi đấy.”
Na Lan cảm thấy kinh hãi.
Không phải vì giọng lưỡi ghê tởm mà vì các toan tính của lão già. Hình như từ
nhiều năm trước lão đã biết chắc sẽ có người điều tra về thân thế lão, nên đã
sớm để lại chỉ dẫn và giăng bẫy.
“Đã khiến ông thất vọng rồi,
vì tôi không bị vùi trong cái huyệt ông đào.”
“Bị vùi sao được?” Lão lại
ho dữ dội. “Mất em, anh được cả thế giới, để làm gì? Em bị vùi sâu thì ai sẽ
cùng anh sống nốt kiếp sống thừa?” Chà! Lão Thương Hiệt còn nhớ cả câu hát từ
đời nảo đời nào!.
Na Lan nói, “Cảm ơn ông đã
sắp đặt cho tôi thăm viếng thánh địa thơ ấu, biết được ông có sở thích giết hại
động vật. Đó là tâm ý của ông đúng không? Thậm chỉ còn để lại một sợi dây đàn,
hình như để nhắc chúng tôi dây đàn có thể thít đứt ngón tay, nhằm chứng minh
khả năng tàn độc của ông hay là nhằm bao che cho tên hung thủ của vụ án ‘ngón
tay khăn máu’?”
Mễ Trị Văn nhắm mắt, im
lặng.
Na Lan mỉm cười, dịu giọng,
“Ông biết tôi có cảm giác gì không? Cảm giác rằng câu ông thừa nhận vào lần đầu
chúng ta gặp nhau là không sai. Thực ra ông chẳng khác gì phần đông mọi người,
hành vi của ông hiện nay chỉ là sự nối dài hành vi hồi nhỏ. Lúc qua đêm trong
cái hố ông đào, tôi bỗng cảm thấy mình gần với tuổi thơ của ông hơn bao giờ
hết.” Sau cuộc trao đổi với Trần Ngọc Đống, Na Lan rất ấn tượng với Suy diễn
tâm lý học tội phạm, nên bắt đầu sơ bộ miêu tả Mễ Trị Văn, mỗi câu nói ra đều
đã được suy tính kỹ và thêm thắt đôi chút. Đã là trò chơi tâm lý thì cô phải
chơi cho hết mình.
“Hồi nhỏ, ông có cá tính lập
dị khác người, không có bạn bè, đúng không? Ông không cần trả lời vì tôi biết
đáp án là khẳng định. Một đứa trẻ cởi mở, đông bạn bè, sẽ không trốn ra khỏi
nhà lúc nửa đêm, tìm đến nơi hoang vắng đào hố làm vui. Hầu hết trẻ em không
lập dị bẩm sinh, mà là do ảnh hưởng của môi trường sống sau này. Hồi nhỏ ông đã
bị sốc bởi chuyện gì? Vì thân thể còm nhom rúm ró, gia cảnh tầm tầm nên bị
chúng bạn bắt nạt hạ nhục? Hay là vì hoàn cảnh gia đình tồi tệ, thường bị cha
mẹ đánh mắng? Cũng có thể là do tất cả các yếu tố trên cộng lại. Nhưng xét cái
chuyện ông dám khoét tường, thì tôi cho rằng gia đình ông có vấn đề. Hành vi
thì lén lút nhưng nó công khai phản ánh ông rất muốn bỏ nhà ra đi, song ông
không thể làm thế được vì bị ràng buộc về tình cảm và nhu cầu thực tế. Ông đành
khoét tường, nơi cho ông cảm giác an toàn và sung sướng mà ông vẫn mong có
được.”
Na Lan dừng lại, cố ý dành
cho Mễ Trị Văn cơ hội ngắt lời. Những lão vẫn như ngủ say, nằm yên không động
đậy.
Cô tiếp tục, “Đào hố chẳng
có gì là quái dị, hầu như đứa trẻ nào cũng thích đào hố để chơi, nhưng đào cái
hố sâu 5-6 mét thì xưa nay ít thấy, lại ngồi dưới đáy phanh thây bẻ chân những
con vật nhỏ thì càng không có. Trốn vào hố sâu tách biệt, ông tìm thấy cảm giác
an toàn, thứ thiếu hụt ở thế giới bên ngoài, con người xung quanh, họ đã làm
gì? Chắc chỉ bạo lực và tàn nhẫn mới khiến ông phát sinh hành vi xả giận theo
kiểu bạo lực và tàn nhẫn…”
“Đủ rồi đấy!” Mễ Trị Văn
bỗng ngồi bật dậy, hai mắt đỏ quạch như lửa, máu và ma quỷ đang bao quanh, lão
vung đôi tay gầy nhẳng ra bóp cổ Na Lan.
Biết lời mình nói sẽ khiến
lão già nổi giận nên Na Lan đã chuẩn bị tư tưởng, chỉ không ngờ lão tấn công
nhanh thế này. Hai bàn tay khô đét nhưng đầy sức mạnh, Na Lan cảm thấy khí quản
sắp bị bóp vỡ, cô nghẹt thở, đưa tay lên gỡ nhưng chỉ tóm được đôi càng cua
cứng như sắt đang hăng máu.
Cô muốn hét lên kêu cứu,
nhưng cổ họng bị bóp chặt không thể phát ra tiếng.
Phải tự cứu! Mình nên làm gì
đây?
Sờ được cái ví đầm đặt trên
mặt tủ đầu giường, cô run run kéo phéc mơ tuya và lấy được con dao nhỏ vẫn mang
theo.
Ngoài cửa vang lên những
tiếng bước chân.
Mễ Trị Vân bỗng bỏ tay ra.
Kim Thạc và hai cảnh sát nữa
bước vào, nhìn thấy Na Lan tay cầm dao nhỏ đứng bên giường lão già không còn
sinh khí!
“Na Lan!” Kim Thạc sợ quá
kêu lên.
Na Lan đã hơi định thần, cổ
họng vẫn rát như bị lửa đốt, cô định nói “Lão tấn công tôi, hãy gọi kỹ thuật
viên đến khám nghiệm vết thương và vân tay trên cổ tôi…” nhưng không, cô lại
quay sang hỏi Mễ Trị Văn đang nằm, “Đây cũng là một phần trong trò chơi của ông
phải không?” Cô bỗng có cảm giác đáng buồn về “thành công”, phân tích của cô
chạm đến chỗ nhạy cảm của lão, kích thích lão nảy sinh phản ứng quá khích.
Hương vị của trả thù quả
không hề ngọt ngào.
Mễ Trị Văn bỗng phun ra một
tràng cười hé hé hé rất quái dị, rồi thâm thúy nói, “Cô gái tự cho mình là
thông minh, tôi chúc mừng cô, cô đã tiến đến gần tôi hơn nhưng vẫn cách quá xa
sự thật.”
“Tôi vẫn tưởng ông đang cho
chúng tôi biết sự thật…”
“Tôi cho cô biết toàn là sự
thật nhưng cô không hề coi trọng, cô lãng phí thời gian để đuổi theo những cái
bóng. Sự thật nằm trong con chữ trời ban cho của tôi, cô đã giải mã đến đâu
rồi? Cô như con khỉ con trong truyện ngụ ngôn, nhìn thấy quả đào thì vứt bắp
ngô đang cầm, nhìn thấy dưa hấu thì vứt quả đào đi, cuối cùng thì vứt dưa hấu
để đuổi theo con thỏ không bao giờ đuổi được! Có vẻ như cô muốn đứng nhìn vụ
‘ngón tay khăn máu’ tiếp tục xảy ra? Mau mau giải cái chữ ấy đi, may ra còn
kịp!” Giọng lão uốn éo như rắn bò, len lỏi khắp khu buồng bệnh trong buổi tối
yên tĩnh.
Có một người mặc áo blu
trắng tự may theo kiểu của bệnh viện Phổ Nhân, ung dung ra vào khu buồng bệnh.
Trong nhà vệ sinh chung có treo tấm gương, một mình người ấy đang tự đắc đứng
trước gương, bất cứ ai nhìn thấy đều không mảy may nghi ngờ đây không phải là
thầy thuộc. Ta phải thể hiện được vị trí của ta, vì những ngày gần đây Na Lan
thường xuất hiện ở khu này và liên tiếp viếng thăm lão già biến thái đang ốm
sắp chết đến nơi.
Lẽ nào trên đời này còn có
kẻ biến thái hơn “thánh” biến thái ta đây?
Người ấy soi gương và mỉm
cười, trông dáng vẻ này làm sao gọi là biến thái được chứ? Ta quan tâm đến Na
Lan là vì tình cảm, không chỉ có thể, ta là người “nhìn” cô ta lớn lên, chứ đâu
có như Mễ Trị Văn và mấy thằng nhãi con cô ta chẳng may gặp phải vài năm qua,
chúng ở đâu ló mặt ra và còn giả bộ chín chắn lõi đời lắm!
Rời khỏi nhà vệ sinh, đi đến
trước cửa buồng bệnh nhân nặng, đúng lúc nghe thấy giọng nói rin rít ghê rợn
của Mễ Trị Văn, “Mau mau giải cái chữ ấy đi, may ra còn kịp!”
Lão già đang chơi cái trò gì
thế? Lão lừa Na Lan vào cái hố ma quỷ ấy vẫn chưa đủ hay sao?
Người ấy tận mắt nhìn thấy
Na Lan rơi xuống hố sâu, do dự xem có nên cứu cô lên không, nhưng cuối cùng đưa
ra quyết định thỏa đáng và sáng suốt là khoanh tay đứng nhìn. Cứ để cô ta rèn
luyện thêm thì hơn. Con người không ăn uống hai ba ngày vẫn ổn, lo gì!
Cho đến nay người ấy vẫn
chưa đoán ra tại sao Mễ Trị Văn cứ bám riết Na Lan. Tất nhiên Na Lan đã vô tình
đụng đến nhiều chuyện rắc rối, những kẻ tiếp cận cô là vì tình yêu, vì nhan sắc
hoặc vì lai lịch của cô. Người ấy đã điều tra để thấy rằng Mễ Trị Văn và Na Lan
không có quan hệ gì hết, cho nên lại càng nghi ngờ.
Na Lan và ba cảnh sát cùng
bước ra, người ấy tránh mặt, đứng nhìn theo bọn họ đi vào thang máy.
Kim Thạc đề nghị dùng xe
cảnh sát chở Na Lan về trường, nhưng cô từ chối, nói là từ bệnh viện về ký túc
xá không xa, cô đi xe buýt là được. Thực ra cô sợ xe cảnh sát chở cô về trường
sẽ lại gây ra bàn tán xôn xao, nếu ai đó quay clip tung lên mạng thì gay, và
cũng vì cô sợ ngồi bên Kim Thạc nữa.
Nhưng cô vẫn không thể thoát
kiếp ngồi bên anh ta.
Kim Thạc nói, “Không đưa về
trường cũng được. Nhưng tôi có vài câu muốn nói với Na Lan .” Anh ra hiệu cho
hai cảnh sát kia rút lui. “Ban nãy chúng tôi nhìn thấy cô cầm dao.”
Na Lan nói, “Đang nói
chuyện, lão bất ngờ bóp cổ tôi, anh có thể thấy vết tay vẫn còn trên cổ đây
này.”
“Tôi đã nghe băng ghi âm lần
đầu cô nói chuyện với lão, lão đã nói toạc ra ý nghĩ của cô?”
“Ý nghĩ gì?” Na Lan vờ như
không hiểu.
“Muốn rút ống truyền dịch
hoặc ống thở ô xi.”
Na Lan định nói, tại sao anh
phải giả bộ như thế? Anh thừa biết dù tôi rút mấy cái ống đó ra thật thì lão
cũng không thể chết ngay. Cô lắc đầu, “Anh cũng bắt đầu tin lão hay sao?”
Giọng Kim Thạc dịu xuống,
“Tất nhiên là không. Tôi chỉ cảm thấy… cô liên tiếp gặp nguy hiểm… thì nên nghỉ
ngơi thực sự đi!
:Được, bây giờ tôi về đi
nghỉ.” Cô quay người bước đi.
Na Lan tiến về phía nhà ga,
đầu óc vẫn nghĩ ngợi, tiếp tục suy diễn tâm lý Mễ Trị Văn. Lão luôn thâm thúy,
mưu trí và trấn tĩnh, tại sao hôm nay lão lại nổi khùng với mình? Lão muốn làm
cho mình phải chú ý đến lão kia mà, tại sao khi nói đến điểm hệ trọng thì lão
lại mất kiểm soát? Có phải điều trái ngược này thể hiện mâu thuẫn giữa tính
cách và tâm lý của lão không? Lão muốn được giải thoát khỏi tội lỗi nhưng lại
không đủ can đảm đối diện với sự tàn ác của mình, nên tung ra đủ thứ thông tin
khiến cô phải đi đường vòng để từ từ phát hiện ra nguồn gốc tội lỗi của lão,
rồi trở thành người phát ngôn cho lão? Nếu thế thì… đúng là lão đã gây ra các
vụ án “ngón tay khăn máu” chứ gì?
Hay là, lão nổi khùng chỉ vì
cô nhắc đến thời niên thiếu, đến bóng đen của hoàn cảnh gia đình luôn ám ảnh
lão?
Bóng đen? Na Lan chợt linh
cảm có một bóng đen thực sự đang bám theo cô từ một cự li vừa phải.
Có lẽ vì hai năm qua phải
trải qua quá nhiều nguy hiểm, có lẽ vì những sự kiện trong quá khứ không ngừng
gõ vào dây thần kinh nhạy cảm trước sợ hãi, giác quan thứ sáu lặng lẽ nhắc nhở
rằng có người đã bám theo từ lúc cô rời khỏi khu buồng bệnh rồi đi ra nhà ga.
Cô dừng lại, lấy di động ra
giả vờ loay hoay, mắt liếc trở lại. Một bóng người gầy nhỏ đang đứng dưới bóng
cây xa xa. Không thể nhìn rõ mặt hoặc quần áo người ấy. Cô định quay từ từ trở
lại, buộc người ấy phải ló mặt ra chỗ sáng, chí ít cũng nhìn được đại khái xem
người ấy thế nào.
Nhưng đúng lúc ấy di động
réo vang. Đổng Bội Luân gọi.
“Nghe nói em gặp bất trắc,
vẫn ổn chứ?”
Chu Trường Lộ biết Na Lan
gặp nguy hiểm, chắc chắn là ông đã cho Đổng Bội Luân biết tin.
“Vẫn ổn ạ, em cảm ơn cô quan
tâm.”
“Người không sao thì tôi yên
tâm rồi. Giám đốc Chu nói ông ta trực tiếp khám cho em. Tôi chỉ lo em quá khiếp
hãi.”
Na Lan ngẩng nhìn bóng đen ở
chỗ xa xa. Khỉ thật, không thấy người ấy đâu nữa!
“Cũng không phải lần đầu em
gặp nguy hiểm. Em đã quen rồi.” Cô nhớ đến hậu quả của lần gặp hiểm nguy trên
núi tuyết cách đây một năm, suýt nữa phải đi viện tâm thần.
“Tổ chức của chúng tôi có
một hoạt động, em tham gia được không?” Đổng Bội Luân và Chu Trường Lộ thành
lập một đoàn thể là Tiếng Lòng, chuyên giúp đỡ những phụ nữ nạn nhân của bạo
lực.
“Được ạ! Lần trước giám đốc
Chu đã nhắc, em vẫn mong được tham gia một lần. Cô cứ cho em biết địa điểm và
thời gian cụ thể đi!”
“Ngay bây giờ, ở nghĩa trang
Vạn Quốc.”
Mục lục:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét