XIN CHÀO VÀ CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ ĐẾN VỚI BLOGSPOT.COM CỦA LUU VAN CHUONG

Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2014

LÊ CHIÊU THỐNG ĐÁNG THƯƠNG HAY ĐÁNG TRÁCH?

LÊ DUY KỲ (1766-1793) ÐÁNG THƯƠNG HAY ÐÁNG TRÁCH? Nguyễn Duy Chính
LỜI NÓI ÐẦU
Nói tên Lê Duy Kỳ có thể ít người biết nhưng nếu nói đến vua Chiêu Thống thì phần lớn chúng ta hình dung ra một ông vua nhiều tội lỗi, đáng nguyền rủa. Vua Chiêu Thống [dưới triều Nguyễn được đặt tên thụy là Mẫn Ðế nghĩa là ông vua đáng thương] là vua cuối cùng của triều Lê, trị vì chỉ một thời gian rất ngắn. Người lãnh đạo sau cùng của triều đại thường được ghi nhận một cách thiếu thiện cảm – kẻ thất bại bao giờ cũng có lỗi và đáng trách nhiều hơn đáng khen – từ Bảo Ðại nhà Nguyễn, Phổ Nghi nhà Thanh, hay Sùng Trinh nhà Minh. Tuy nhiên, không phải lịch sử mãi mãi đều lập lại một quan điểm, nhiều giai đoạn, nhiều nhân vật đã được đánh giá lại cho chính xác.
Cuối thế kỷ XVIII nước ta đầy biến động. Cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn không những chấm dứt vương quyền chúa Nguyễn ở Nam Hà mà còn diệt luôn chúa Trịnh ở miền Bắc đưa đến sự sụp đổ nhà Lê, triều đình chính thống của Việt Nam trong gần 400 năm.
Tuy nhiên Tây Sơn cũng không giữ nước được lâu và chỉ chưa đầy 20 năm thì chính họ cũng bị tiêu diệt. Sự thay đổi nhiều thế lực, nhiều vương quyền quá nhanh trong một thời gian ngắn khiến cho sử sách viết về thời kỳ này bao gồm đủ loại khuynh hướng, nếu chỉ nhìn một phía chắc chắn chúng ta sẽ vừa thiếu sót, vừa thiên vị. Một triều đại qua đi, những người hoài vọng thường có khuynh hướng đề cao người đi trước và trút trách nhiệm cho người không may mắn phải ở vào vị trí sau cùng.
Trong vài chục năm qua, không ít những tác phẩm miêu tả một thời kỳ cũ bằng lăng kính chính trị mới. Khi cần đề cao tinh thần chống xâm lăng – dù là từ phương Bắc hay từ phương Tây – người ta thích huyền thoại hoá nhân vật Nguyễn Huệ, và lẽ dĩ nhiên để làm nổi bật một cá nhân ở phía này thì cũng phải hạ thấp một đối tượng ở phía khác. Chính vì thế, Nguyễn Ánh cũng như Lê Duy Kỳ đều bị miêu tả dưới những tội danh “bán nước”. Những bản án nặng nề đó chưa hẳn đã vì tội trạng của đương sự mà chỉ để làm sáng tỏ chính nghĩa trong công tác động viên quần chúng đánh đuổi ngoại xâm.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể bỏ qua chủ tâm nguyên thuỷ của chính triều Nguyễn đã cố ý viết sai lạc về đối phương. Giai đoạn cuối triều Lê và suốt thời kỳ Tây Sơn được viết nhằm trám vào một khoảng trống của lịch sử chứ chưa hẳn đã là trình bày sự thật khách quan về những gì đã xảy ra tại miền bắc. Ðể bảo vệ và đề cao vai trò của mình, triều Nguyễn không chỉ bôi đen anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ mà còn nỗ lực xoá nốt tính chất chính thống của vua Lê. Với nhà Tây Sơn, vua Gia Long đuổi tận giết tuyệt nhưng lòng người không oán thán nhiều vì anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ lên ngôi chưa lâu, ơn đức chưa đủ thấm vào quần chúng. Trái lại, nhà Lê mấy trăm năm qua tuy không có thực quyền, ngôi vua chỉ là hư vị nhưng công lao của nhiều đời nên tuy đã diệt vong mà tâm tình “hoài Lê” vẫn còn âm ỷ và day dứt, một mạch nước ngầm chảy trong huyết quản của người dân Bắc Hà. Tới hậu bán thế kỷ XIX, khôi phục Lê triều vẫn còn được sử dụng như một chiêu bài trong những cuộc nổi dậy.
Vào những năm cuối của triều đại Tây Sơn, không hiếm cựu thần nhà Lê vẫn tưởng Nguyễn Ánh đang đóng vai “phục quốc”, thành công rồi sẽ lại tôn Lê như bao nhiêu đời chúa trước. Trên giấy tờ, Nguyễn Ánh vẫn dùng niên hiệu Cảnh Hưng. Chúa Nguyễn cũng đã cho người liên lạc với con cháu và cựu thần tiền triều [kể cả việc sai người sang Trung Hoa tìm Lê Chiêu Thống] để ước hẹn khởi binh và một nhà nho đã “bịa ra lời của Nguyễn công[tức chúa Nguyễn] làm bài hịch Dụ Bắc thành trung nghĩa hào kiệt gửi cho người quen mọi nơi, tỏ ý đang đem quân ra Bắc diệt giặc phù Lê, và bảo những người trung nghĩa với Lê cất quân đánh giặc”[1]. Chính vì thế, tuy Nguyễn Huệ xử với cựu triều không đến nỗi nghiệt ngã [ngoại trừ những người nổi lên chống lại triều đình] sĩ phu Bắc Hà vẫn coi ông như một “ông Ác”, ngược lại chúa Nguyễn được miêu tả như một “ông Thiện”. Câu hát “lạy trời cho cả gió nồm, cho thuyền chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra” là một thí dụ điển hình về cuộc chiến tranh tâm lý cuối thời Tây Sơn.
Ðến khi sắp sửa thành công, Nguyễn Ánh không còn phải tiếp tục tôn phò nên dứt khoát dùng niên hiệu Gia Long, xác định là một vị hoàng đế mới. Triều đình chính thức và hợp pháp của An Nam lúc đó là nhà Tây Sơn không còn được Trung Hoa yểm trợ – vì quan điểm đối với An Nam của vua Nhân Tông [Gia Khánh] khác hẳn vua cha Cao Tông [Càn Long] – nên chúa Nguyễn không phải chuẩn bị một cuộc chiến đối đầu với Trung Hoa như Nguyễn Quang Bình [Nguyễn Huệ] đã làm mà còn được nhà Thanh ám trợ đẩy anh em Nguyễn Quang Toản vào tuyệt lộ.
Nhằm thực hiện công việc một ná bắn hai chim, triều Nguyễn dùng ngay hào quang chống xâm lăng của Tây Sơn [nay đã bị diệt] để truất đi cái mệnh trời của Lê triều đã kéo dài gần 400 năm. Không thể tru di tông thất nhà Lê giống như nhà Trần với nhà Lý, nhà Hồ với nhà Trần, tân triều nhấn mạnh vào sự bạc nhược vô dụng [và phản quốc] của ông vua đã thất thế. Song song với việc tiễu trừ dư đảng Tây Sơn, những cuộc truy quét qui mô để xoá bỏ những giấy tờ, tài liệu, ấn tín… liên quan đến cựu triều cũng được nhà Nguyễn tiến hành qua nhiều đợt khác nhau.
Cảm thấy sự thờ ơ của triều đình đối với miền Bắc – mà người ngoại quốc cũng nhận ra rằng nhà Nguyễn coi như một thuộc địa – và e rằng nhiều sự thật rồi đây cũng sẽ mai một không bao giờ được biết tới, một số sĩ phu Bắc Hà tự làm công việc sưu tầm, ghi chép những gì xảy ra vài chục năm trước, trong đó có hai tác phẩm với nhiều tài liệu giá trị còn tồn tại được đến ngày nay là Lịch Triều Tạp Kỷ (Ngô Cao Lãng)[2] và Quốc Sử Di Biên (Phan Thúc Trực)[3].
Tuy nhiên, những tác phẩm đó cũng chỉ được giới nghiên cứu coi như tài liệu bổ di, không được dùng để thay thế các bộ sử do sử quán triều đình biên soạn. Ðể trả lại công bằng, thiết tưởng chúng ta cũng cần phải cải chính một số chi tiết và đánh giá lại một số nhân vật mà tiểu sử, hành vi vốn đã trở thành kinh điển vì rập theo hai bộ sử cơ bản do triều đình [thời Nguyễn] soạn ra là Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện hay Khâm Ðịnh Việt Sử Thông Giám Cương Mục [chi tiết trong hai bộ sử này khi được soạn thảo vào hậu bán thế kỷ XIX có lẽ cũng chỉ rút ra từ một số ký sự lưu truyền thời bấy giờ như Hoàng Lê Nhất Thống Chí (Ngô Gia Văn Phái), Lê Quí Kỷ Sự(Nguyễn Thu), Lê Quý Dật Sử (khuyết danh)...]
Tại sao cần đánh giá lại vua Chiêu Thống?
Tháng 12 năm 1924, trên tạp chí Nam Phong số 90, phần Hán Văn có khởi đầu một biên khảo đăng 5 kỳ [chấm dứt ở Nam Phong số 95, 1925] nhan đề Tang Thương Lệ Sử [桑滄淚史] do Hàm Giang Ðinh Lệnh Uy [邯江丁令威] biên soạn, Sở Cuồng Lê Dư viết tựa. Ðây là một tập tài liệu khá đầy đủ viết về cuộc đời và thân phận lưu vong của vua Chiêu Thống mặc dầu chủ yếu vẫn dựa theo tài liệu triều Nguyễn và Hoàng Lê Nhất Thống Chí.
Hai mươi năm sau, một tác phẩm khác bằng quốc ngữ nhan đề Bánh Xe Khứ Quốc do Phan Trần Chúc soạn, được nhà xuất bản Ðời Mới ấn hành ở Hà Nội[4]. Tuy chưa phải là những tài liệu biên khảo qui mô, hai tác phẩm này cũng nói lên phần nào cảnh ngộ bi phẫn của một ông vua vong quốc mà hoàn cảnh trớ trêu đã trở thành miệng tiếng của người sau.
Lê Duy Kỳ sinh ra và lớn lên phải chịu những lưỡi gươm treo lơ lửng trên đầu trong nhiều năm. Ông không phải là một hoàng tôn sống trong nhung lụa mà là một trẻ mồ côi đầy bất hạnh, sống chết trong tay người, có thể táng mạng vì một lý do thật nhỏ nhặt. Ông chìm vào quên lãng và chỉ được lôi ra từ nhà ngục vì một duyên may khi kẻ thù của gia đình ông [họ Trịnh] đang tan rã nên các phen phái tranh giành cần một biểu tượng cho hoàng gia. Thành thử khi nắm quyền nếu quả ông có một chút khắc bạc hơn bình thường cũng không phải là điều đáng ngạc nhiên. Ðó là lý do sâu xa khi ông ra lệnh đốt và phá huỷ một số cung điện của chúa Trịnh mà Hoa Bằng cho rằng “nhỏ nhen hẹp hòi”[5] hay mối căm tức ngấm ngầm khi thấy anh em Tây Sơn cũng lại đi vào con đường lấn lướt của một thứ chúa mới.[6]
Trong suốt cuộc đời 28 năm, Lê Duy Kỳ hầu như chỉ được làm vua trên danh nghĩa, luôn luôn bị những thế lực khác cầm quyền thay. Mà thời gian ông còn được gọi là vua ấy cũng rất ngắn bao gồm ba giai đoạn:
Giai đoạn I: (21 tuổi) Từ khi lên ngôi tháng Bảy năm Bính Ngọ (1786) đến lúc xuất bôn tháng Chạp năm Ðinh Mùi (1787) tính ra khoảng 16 tháng trong một thời kỳ rối mù, loạn lạc khắp nơi.
Giai đoạn II: (22 tuổi) Từ tháng Chạp năm Ðinh Mùi (1787) đến tháng Một năm Mậu Thân (1788), trong khoảng một năm ông bôn ba chạy từ nơi này sang nơi khác qua lại không dưới mười chỗ ở khác nhau, nhiều lần thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Tuy danh nghĩa là vua nhưng nhiều kẻ lại coi ông là một món hàng, để lợi dụng cũng như để buôn bán.
Giai đoạn III: (23 tuổi) Từ cuối tháng Một năm Mậu Thân (1788) đến đầu tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789), khoảng chừng 1 tháng trong vai bù nhìn, dưới quyền bảo hộ của quân Thanh.
Khi Tôn Sĩ Nghị bại trận, ông chạy theo sang Trung Hoa, chấm dứt sự nghiệp làm vua để sống nhờ nơi đất khách từ tháng Giêng năm Kỷ Dậu (1789) đến tháng Mười năm Quí Sửu (1793) khi ông qua đời (từ năm 23-27 tuổi). Những năm làm vua đã khốn khổ, đến lúc xuất bôn – dù ở trong nước hay ở ngoài nước – thì cũng chỉ toàn những cảnh ngộ éo le, đầy nước mắt.
Ðánh giá kỹ, cuộc đời ông chỉ được hơn hai năm gọi là yên ổn – từ tháng Giêng năm Cảnh Hưng 44 (Quí Mão, 1783) khi được thả ra khỏi ngục sống bên cạnh ông nội là vua Hiển Tông trong vai hoàng thái tôn để chuẩn bị nối ngôi thay người cha bất hạnh là thái tử Duy Vĩ. Dù ngôi vua của nhà Lê chỉ là hư vị và luôn luôn bị đe dọa bởi phủ Chúa, ông sống tương đối yên lành đến khi quân Tây Sơn ra Bắc diệt họ Trịnh năm Bính Ngọ (1786) tất cả chừng 2 năm rưỡi. Có lẽ đây là thời gian duy nhất ông được học hành, dạy bảo lễ nghi để chuẩn bị đóng giữ vai quốc trưởng. Số thơ văn ít ỏi ông để lại và hành trạng làm vua cho thấy tư chất ông không đến nỗi tầm thường.
Cũng trong thời gian này, ông lập gia thất với bà Nguyễn Thị Kim[7], hơn ông một tuổi, dường như là cháu họ của mẹ ông, người vẫn bị sử sách gọi là thái hậu với nhiều ác ý. Hai người vừa có được con trai đầu lòng [đặt tên Lê Duy Thuyên] thì một lần nữa kinh đô bị xâm phạm nên tan tác chồng một nơi, vợ một nẻo.
Những đề cập về Lê Duy Kỳ trong sách vở đều cho rằng ông hèn yếu, kém khả năng tưởng như khi làm vua ông vẫn được hành động hoàn toàn tự do theo chủ kiến và ý thích riêng của mình. Thực tế cho thấy mỗi quyết định, mỗi biến chuyển đều có những nguyên nhân rất xa không dễ dàng phát hiện. Cuộc đời vua Chiêu Thống – cũng như chiếc ngai vàng của nhà Lê những năm sau cùng – chỉ là một chiếc lá giữa dòng, mặc cho nước cuốn tới đâu thì cuốn, không thể nào cưỡng lại được.
Ðể nhận định về vua Chiêu Thống cho được công bằng, chúng ta cần nhìn lại con người trong thời buổi mà ông sống, không thể chỉ dựa vào yêu ghét qua “tin đồn”. Ông chỉ là một con chim trong lồng, một bóng mờ chính trị, một người bị rơi vào giữa một đám đông xô đẩy, mọi vấn đề đều do những sắp xếp ngoài tầm tay. Ngay cả những chi tiết mà người tôn phù nhà Lê thuật lại lắm khi cũng chỉ là “ảo giác chính trị” khi thất thế.
PHẦN I
ÐÀNG NGOÀI CUỐI THẾ KỶ XVIII
Từ khi nước ta chia ra thành hai phần – Ðàng Ngoài và Ðàng Trong – tuy trên danh nghĩa cùng thần phục nhà Lê nhưng miền bắc thì chúa Trịnh nắm giữ quyền hành, miền nam chúa Nguyễn làm chủ. Vì vị trí khuất nẻo nên miền bắc khó thông thương với bên ngoài, thuyền buôn ngoại quốc phần lớn chỉ ghé các bến đỗ ở Ðàng Trong tuy các nhà truyền giáo vẫn tiếp tục ra vào Ðàng Ngoài để thi hành các sứ mạng của họ. Hoàn cảnh địa lý đã ảnh hưởng rất lớn đến tình hình nước ta và nhiều biến cố trọng đại ít nhiều bị ảnh hưởng.[8]
Việc thiếu thông thương đó đưa đến hậu quả là tin tức về miền bắc cũng trở nên hiếm hoi hơn, ít được người ngoại quốc đề cập đến so với tài liệu về Ðàng Trong. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, các cuộc nội chiến giữa Lê – Trịnh và Mạc, hay Trịnh và Nguyễn xảy ra liên tục nên các thương gia cũng không mấy ai muốn mạo hiểm để vào buôn bán. Người Anh và người Hoà Lan thiết lập cơ xưởng sản xuất cũng chỉ tồn tại một thời gian rồi phải đóng cửa.
Chính sách về ngoại thương là độc quyền của triều đình, mua hay bán sản phẩm đều bị kiểm soát nghiêm nhặt. Người Hoà Lan từ Macao sang miền bắc chỉ đặc biệt chú trọng đến tơ lụa cốt để đem sang Nhật Bản bán lấy lời và thương vụ chủ yếu của người Nhật đến Ðông Nam Á cũng là tơ lụa chưa chế biến (raw silk).[9]
Tuy ít được người nước ngoài biết đến, Thăng Long – thường được gọi dưới tên Ðông Kinh hay Kẻ Chợ – ở thế kỷ XVII là một thị trấn lớn so với những thành phố khác ở Á Châu. Nhiều giáo sĩ đến nước ta thời đó cho biết kinh đô Thăng Long có đến hơn 20,000 nóc gia, tính ra dân số khoảng 100,000 người. Con số này có lẽ được phóng đại vì nhu cầu truyền giáo hơn là thực tế. Theo Baron trong A Description of the Kingdom of Tonqueenviết cuối thế kỷ XVII thì cung điện vua Lê có tường gạch bao quanh còn dinh chúa Trịnh thì làm bằng gỗ.[10]
Về sau, ngôi vua của nhà Lê chỉ còn là hư vị nên cung điện hư nát nhiều mà không có tiền tu sửa. Sau những năm chiến tranh, đến cuối thế kỷ XVIII thì Thăng Long gần như hoang phế, mùa màng thất bát, đói kém xảy ra ở khắp nơi, không còn là nơi đô hội như trước nữa. Năm Mậu Tuất (1778) thóc lúa dân tích trữ không còn gì, giá gạo cao vọt, chỗ nào cũng có người chết đói.[11]
Khi quân tam phủ nổi loạn, nhiều dinh thự đền đài bị đốt phá nên kinh thành lại càng xơ xác. Nguyễn Huệ cũng ra lệnh phá hủy nhiều công trình kiến trúc để lấy vật liệu về xây kinh đô mới ở Nghệ An. Khi quân Tây Sơn rút ra khỏi kinh thành, các thổ hào từ mạn ngược vào chiếm Thăng Long, cũng đốt phá sạch trước khi bỏ đi.
1.1. GIA VONG
1.1.1. SỰ LỘNG QUYỀN CỦA HỌ TRỊNH
Năm Giáp Thìn (1664), Tây Vương Trịnh Tạc yêu cầu vua Lê Huyền Tông (mới có 10 tuổi) ban cho mình điển lễ đặc biệt “vào chầu vua không phải lạy, tờ chương tấu không phải xưng tên, khi lâm triều ngồi bên tả chỗ ngồi của vua” mà sử thần đã phê là đến như “Ðổng Trác, Tào Tháo nhà Hán, Lưu Dụ nhà Tấn chưa từng làm mà Tạc dám làm”.[12] Năm Mậu Thân (1668), Trịnh Tạc lại nhân chiến công đánh họ Mạc tự gia phong là Ðại Nguyên Soái Thượng Sư Thái Phụ Tây Vương. Dân gian vì thế gọi các chúa là Thượng Sư [kể cả chúa Nguyễn ở Nam Hà cũng bắt chước] nên người ngoại quốc thường nhắc đến dưới cái tên “Ong Chiang Su” [Ông Thượng Sư].
Vua Lê được hưởng thực ấp một nghìn xã, còn chúa Trịnh chủ động mọi việc hành chánh quân sự, kể cả phế vua nọ lập vua kia để dễ bề thao túng. Trịnh Tạc lại phong cho con là Trịnh Căn làm nguyên soái, văn thư phủ chúa ban ra tiếm xưng “lệnh dụ”. Ðến đời các chúa Trịnh Cương (Nhân Vương), Trịnh Giang (Thuận Vương) lại càng quá quắt. Trịnh Giang là người “ngu tối, ươn hèn”[13], tự phong làm Nguyên Soái, Thống Quốc Chính, Uy Nam Vương, vu cho vua Vĩnh Khánh (Lê Duy Phường) tội thông gian với vợ Trịnh Cương để phế đi, lập Lê Duy Tường lên ngôi, niên hiệu Long Ðức.
Năm Kỷ Mùi (1739), Trịnh Giang giả thác là sứ thần nhà Thanh phong cho làm An Nam Thượng Vương, có ý muốn cướp ngôi nhà Lê. Năm sau, Trịnh Doanh (Ân Vương) lên ngôi vương, tôn Trịnh Giang làm Thái Thượng Vương. Từ đó trở về sau, vua Lê hầu như không còn quyền hành gì nữa. Ðể che đậy cảm xúc, vua Hiển Tông phải tiêu khiển hưởng nhàn nên ông làm vua rất bền (47 năm), qua mấy đời chúa Trịnh. Lê Hiển Tông chính là ông nội của Lê Duy Kỳ, người sau này lên ngôi niên hiệu Chiêu Thống.
Phạm Ðình Hổ thuật lại trong Vũ Trung Tùy Bút như sau:
Bùi công Huy Bích 裴輝璧 có nói rằng: Họ Trịnh từ đời Nhân-vương (Trịnh Cương) trở về trước, còn giữ thần lễ [lễ bầy tôi với vua]. Các quan liêu-thuộc trong phủ chúa Trịnh, mới đặt có Hộ-phiên, Binh-phiên, Thủy-sư-phiên và Lịnh-sử-phiên mà thôi, trong triều vua Lê lục-bộ còn chửa đến nỗi thất-chức.
Trăm quan vào tâu việc đối với chúa Trịnh thì xưng mình là “ngu”. Chúa Trịnh có ra phủ-đường coi chính sự, thì bách quan đội mũ bình-đính, mặc áo thanh-cát vào tham bái đứng hầu. Quan đại-thần ở phủ bộ vào bái-yết xong thì lên chỗ ngồi, đó là theo cái lễ vào tham-yết ở chốn tướng phủ. Khi nào nhà chúa khai-các ra tiếp-kiến tân-khách, thì bách quan đội khăn lương, khăn yến-vĩ, mặc áo thanh-cát, vào bái yết xong rồi thì cứ theo thứ tự mà ngồi, khoản tiếp phù-trà[14] tử tế, đó là theo cái lễ tướng phủ ra tiếp khách.
Khi ấy nhà chúa có vào chầu vua Lê, theo lệ tuy đã miễn-bái, nhưng khi chúa Trịnh nào mới được thụ sắc-phong ra thân chính thì cũng phải thân-hành vào triều-bái vua Lê. Ðời vua Lê Hi-tôn lên thượng-thọ tám mươi, chúa Trịnh Nhân-vương cũng mặc áo triều-phục vào đứng ở bên hữu long-trì, thân ra dóng-dả trăm quan vào lạy mừng. Vua Lê sai giải chiếu thất-trùng ở nơi bái-vị của chúa Trịnh để tiêu-biểu ra cho khác.
Ðến khi Trịnh Thuận-vương (Trịnh Cường) (sic) [tức Trịnh Giang] nối ngôi, mới đặt ra Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công sáu phiên, cướp mất cả quyền quan Lục-bộ, lấy chức chưởng-thự tham-bồi làm quan chính-phủ đại-thần, từ bấy giờ chốn triều-đường vua Lê chỉ là hư-thiết mà thôi. Các quan vào tâu chúa Trịnh thì đổi chữ “ngu” xưng là “thần”. Chúa Trịnh ra thân-chính ở phủ-đường thì gọi là “thị triều 視朝”, khi nào ra tiếp khách ở ngoài các thì gọi là “khách triều 客朝”. Quan đại thần ở chốn phủ-bộ phải đợi chỉ nhà chúa cho ngồi mới được ngồi, thì gọi là “tọa đường 坐堂”. Còn cái lễ nhà chúa vào triều-bái trong nội điện vua Lê thì bỏ đi không hỏi đến nữa.
Nhà chúa có truyền chỉ ra thì trước kia vẫn gọi là lịnh-chỉ, sau này quyền-chính đều về nhà chúa, đệ-niên cứ đầu xuân ngày khai tỉ-ấn thời yết tờ lịnh-chỉ mới ra ngoài phủ-đường hoặc ngoài cửa các. Các quan võ-giai xuất thân và chức câu-kê trong sáu cung đều phải có lịnh-chỉ ban cho cả, còn các việc khác mà do nhà chúa truyền ra thì xưng là chỉ-truyền hay là chỉ-dụ, hoặc xưng là ngự là thánh cũng không khác gì như trong nội-điện vua Lê vậy.[15]
      1. THÁI TỬ BỊ HẠI
Khâm Ðịnh Việt Sử chép:
Tháng 3 (năm Kỷ Sửu, 1769). Sâm (chúa Tĩnh Ðô Vương Trịnh Sâm) truất ngôi hoàng thái tử Duy Vĩ, rồi bắt giam vào ngục.
Thái tử lúc còn nhỏ, thông minh, nhanh nhẹn, xem rộng sách Kinh, sách Sử, đối với sĩ phu rất có lễ độ; thần dân không ai là không mến yêu thái độ, dung nghi. Trịnh Doanh rất trọng tài của thái tử, nên đem con gái trưởng là Tiên Dung quận chúa gả cho[16]. Thái tử vẫn bực tức về nỗi nhà Lê mất quyền bính, khảng khái có chí thu nắm lấy quyền cương. Trịnh Sâm lúc lớn lên làm thế tử, đối với thái tử, hắn vẫn ghen ghét về địa vị, tài năng. Một hôm, thái tử và Sâm cùng ở phủ đường được chúa Trịnh ban cho ăn cơm và bảo cùng ngồi một mâm, lúc ấy vợ Trịnh Doanh là Nguyễn Thị ngăn đi và nói: “Thế tử và thái tử có danh phận vua tôi, lẽ nào được ngồi cùng mâm? Nên phân biệt ngồi làm hai chiếu”. Sâm đổi nét mặt, bước ra về, nói với người ngoài rằng: “Ta với Duy Vĩ hai người, phải một chết một sống, quyết không song song cùng đứng với nhau được”.
Kịp khi Sâm nối ngôi, bàn vụng với hoạn quan Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Huy Ðĩnh định mưu truất thái tử, nhưng không có lẽ gì buộc tội, bèn vu cho thái tử tư thông với người phủ thiếp của Trịnh Doanh, rồiđem tội trạng ấy tâu bày với nhà vua bắt thái tử giam vào ngục.
Trước đây, trong giếng Tam Sơn ở sau cung điện, bỗng nhiên có tiếng như sấm, thái tử e rằng tất xảy ra tai nạn, nói để nhà vua biết; nhà vua thường cầu đảo cho thái tử được thoát nạn. Ðến nay, thái tử biết tin tai nạn phát sinh, vào ở tẩm điện của nhà vua. Huy Ðĩnh trước hết vào tìm khắp trong đông cung, nhưng không thấy, bèn vào thẳng điện đình kể tội trạng thái tử và nói với nhà vua rằng: “Tôi nghe biết thái tử ẩn nấp trong tẩm điện của bệ hạ, xin bắt giao cho tôi”. Nhà vua ôm mãi lấy thái tử, không nỡ ly biệt. Huy Ðĩnh cứ quỳ mãi ở dưới sân. Thái tử tự nghĩ không thể nào thoát nạn được, vừa khóc vừa lạy trước mặt nhà vua, rồi rảo chân bước ra chịu trói. Khi đưa về phủ chúa Trịnh, Huy Ðĩnh bắt thái tử trút mũ ra để nhận tội, thái tử không chịu, nói: “Bỏ vua này, lập vua khác, bạo nghịch giết vua, là việc làm đã quen của nhà bay, chứ ta có tội gì đâu? Việc này đã có sử xanh chép để ngàn đời!” Trịnh Sâm giả thác mệnh lệnh của nhà vua, truất thái tử làm thứ nhân, rồi giam vào ngục.[17]
Thái tử Lê Duy Vĩ là con trưởng vua Hiển Tông, có ba người con trai (theo lời khai của các bầy tôi nhà Lê khi chạy sang Quảng Tây thì họ không cùng mẹ nhưng rất thương yêu nhau[18]). Người lớn nhất là Lê Duy Kỳ (sau lên ngôi niên hiệu Chiêu Thống), người kế tiếp là Lê Duy Lứu [hay Trứu] (Ðiền Quận Công)[19], sau nữa là Lê Duy Chỉ (Lạn Quận Công)[20].
Khi Duy Vĩ bị tội oan, các con đều còn nhỏ. Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí thì vợ thái tử là Nguyễn thị đem con chạy trốn nhưng bị chúa Trịnh bắt lại đem giam vào ngục. Vụ án không ngừng lại ở việc truất ngôi thái tử của Lê Duy Vĩ. Khâm Ðịnh Việt Sử quyển XLIII, trang 36-7 chép:
… Tháng 12 (năm Canh Dần 1770). Sâm giết thái tử cũ là Duy Vĩ và điện tiền hiệu điểm Nguyễn Lệ.[21]
Sau khi thái tử đã bị giam, Sâm muốn giết đi, nhưng chưa tìm được chỗ sơ hở. Ðến nay, Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Huy Ðĩnh nhờ người khác tố cáo vu ra rằng “bọn Trần Trọng Lâm và Nguyễn Hữu Kỳ cùng với bọn gia khách của thái tử là cống sĩ Vũ Bá Xưởng và tự thừa Lương Giản định mưu dấy quân, để cướp lấy thái tử ra khỏi ngục”. Rồi Huy Ðĩnh đem việc ấy nói cho Sâm biết. Sâm hạ lệnh bắt đem trị tội. Lương Giản trốn. Bá Xưởng bị bắt, tra tấn nghiêm ngặt, lời cung của Bá Xưởng liên can cả đến Nguyễn Lệ. Lệ nói: “Thái tử là người sẽ nối ngôi vua sau này của một nước, nay không có tội gì mà bị giam cầm nhục nhã, thì định mưu cướp lấy thái tử đem ra là một việc nghĩa, nhưng thực tình tôi không được dự biết việc ấy. Nay nếu bức bách về sự khảo đả mà thú phục xằng, thì không phải là người có dũng khí, việc không mà nói có, thì không phải là người có nghĩa. Vả lại việc này bảo là Lệ này tự định mưu, hoạ chăng còn có lý, chứ thái tử ở trong nhà giam, đến vợ con cũng không được ra vào, thì Lệ này từ đâu để yết kiến thái tử mà cùng nhau mưu tính được? Bây giờ chỉ có việc chết mà thôi, chứ Lệ này chả biết nói gì cả!” Nguyễn Lệ bị khảo đả, nát hết da thịt mà vẫn không thay đổi lời khai. Huy Ðĩnh tự dựng thành bản án dâng lên. Sâm sai Huy Ðĩnh thắt cổ giết thái tử, lại giết cả bọn Nguyễn Lệ và Bá Xưởng nữa. Sau hạ lệnh thu lấy sắc mệnh của Trần thị là hoàng hậu đã mất và là mẹ đẻ của thái tử; các con thái tử là Khiêm, Trù và Chi đều bắt đem giam cấm ở ngục Ðề Lãnh.[22]
Ba đứa trẻ và mẹ bị giam trong ngục tới năm Nhâm Dần (1782), quân Tam Phủ đứng lên truất phế Trịnh Cán để lập Trịnh Khải, đầu năm Quý Mão (1783) mới được thả ra. Theo tuổi, khi bị giam thì Lê Duy Kỳ mới lên năm, hai người em chắc phải nhỏ hơn. Khi ra khỏi nhà lao, ông đã 16 tuổi, tính ra mẹ con ông bị cầm tù 11 năm. Tuy nhiên, theo lẽ thường thì ngay từ khi cha bị bắt, cuộc đời của những đứa trẻ này đã đi vào một ngõ cụt và chắc chắn cũng không vui sướng gì, tiếng là 11 năm nhưng đại hạn đã đến từ năm Kỷ Sửu (1769), tính ra hơn một giáp (1769-1783). Ba anh em tuy là con của thái tử, cháu nội vua Lê nhưng những ngày thơ ấu thật không bằng trẻ con nhà dân dã. Sử không chép rõ gia đình ông được ở chung với nhau trong ngục hay bị nhốt riêng nhưng suốt thời gian đó ắt hẳn không được học hành gì cả.
Theo Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng, quyển XVI thì ngoài hai người em trai, Lê Duy Kỳ còn ba cô em gái mà khi ông lưu lạc sang Tàu thì còn lẩn trốn ở trong nước. Theo chỉ thị của vua Càn Long, Nguyễn Quang Bìnhđã tìm được một trong những người em gái đó đưa sang Bắc Kinh để đoàn tụ với mẹ và anh. Việc tìm và đưa sang Trung Hoa thân quyến của vua Chiêu Thống được ghi chép khá đầy đủ trong Dụ Am Văn Tập[23] của Phan Huy Ích.[24]
Trong khi anh em Lê Duy Kỳ bị giam trong ngục, chúa Trịnh không chỉ lấn lướt vua Lê mà còn có ý định cướp ngôi. Theo Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLV trang 7, tháng Chạp năm Ðinh Dậu, Cảnh Hưng 38 (1777), nhân kỳtuế cống, Trịnh Sâm sai tả thị lang Vũ Trần Thiệu cầm đầu sứ bộ sang nhà Thanh. Sâm làm tờ mật biểu dặn họ Vũ tâu lên vua Càn Long rằng “nhà Lê không có người con cháu nào hiền tài”, đồng thời cho người đút lót để xin phong tước cho mình. Khi đi đến hồ Ðộng Ðình, Trần Thiệu giả vờ có bệnh, đang đêm đem tờ biểu đốt đi rồi uống thuốc độc tự tử.[25]
Chúa Trịnh cũng âm mưu sang đoạt, đem chiếc ấn An Nam Quốc Vương của nhà Thanh ban cho họ Lê dấu đi nên khi lên ngôi, Lê Duy Kỳ phải dâng biểu gửi tổng đốc Lưỡng Quảng để nhờ xin lại chiếc ấn khác [để gửi văn thư cầu phong] nhưng việc chưa xong thì hoàng tộc đã phải xuất bôn.[26] Trong một hoàn cảnh mà chúa Trịnh chỉ muốn tông tộc nhà Lê bớt người nào hay người ấy, không nói gì đến con cháu vua Hiển Tông đang bị giam cầm, ngay cả tôn thất đang ở kinh thành cũng thấy tính mạng như treo trên sợi tóc.
Cuộc đời ba anh em Lê Duy Kỳ chỉ được tạm yên trong ba năm (1783-1786) khi phủ chúa bận tranh chấp quyền hành và đối phó với quân Tam Phủ, tạm quên gia đình vua Lê. Từ đầu năm 1783 đến giữa năm 1786 có lẽ là quãng thời gian thoải mái nhất trong suốt 27 năm tại thế. Tuy vậy không phải là không có những lúc sống chết trong đường tơ kẽ tóc, nguy hiểm không phải đâu xa mà chính ngay từ người trong nhà.
Khi Lê Duy Kỳ được tha ra, miền Bắc vẫn còn có cả vua lẫn chúa. Ðương kim hoàng đế Lê Hiển Tông là ông nội của ông còn chúa Trịnh khi đó là Ðoan Nam Vương Trịnh Khải. Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLVI trang 1 chép:
… Trước đây, Duy Cận (con thứ tư vua Hiển Tông) được lập làm hoàng thái tử, chính là do Trịnh thái phi Nguyễn thị tán thành. Ðến nay thấy thái tôn (tức Lê Duy Kỳ) trở về, Nguyễn thị sợ Duy Cận mất ngôi thái tử, bèn sai hoạn quan là Liêm Tăng (sót họ) đến bắt ép thái tôn sang chầu, để toan bí mật giết đi. Thái tôn từ chối không được, sa nước mắt khóc mà ra đi; khi đi đường bị quân tuần sát ngăn lại. Vì thế các quân lính dức lác ầm ĩ, yêu cầu tra cứu cho ra người lập mưu làm hại Thái tôn, họ lùng kiếm Liêm Tăng không được, ngờ là Duy Cận chủ mưu. Lúc ấy, Duy Cận đương chầu Trịnh thái phi, nghi trượng để ngoài cửa phủ đường, quân sĩ liền đập phá tan nát. Duy Cận sợ, phải thay đổi quần áo đi lẻn về cung.
Trịnh Khải biết việc này là do thái phi gây ra, nhân dụ dỗ quân sĩ chớ làm huyên náo, rồi lập tức hạ lệnh cho bầy tôi trong triều xin nhà vua lập Duy Khiêm (tức Lê Duy Kỳ) làm hoàng thái tôn. Lúc ấy Duy Khiêm 18 tuổi. Lại bắt Duy Cận làm tờ biểu nhường ngôi thái tử. Duy Cận bị truất làm Sùng Nhượng công.[27]
Nếu quả thực Lê Duy Cận có âm mưu hại cháu như thế thì phải nói rằng vua Chiêu Thống cũng còn nhiều nhân tình vì sau này khi Tôn Sĩ Nghị đòi đưa Duy Cận sang an tháp ở Trung Hoa, chính Lê Duy Kỳ đã xin cho Duy Cận được ở lại để mình lo liệu với lý do Duy Cận là người “si ngốc” không đáng lo vì biết rằng một khi bị đày sang Trung Hoa sẽ không còn bao giờ trở lại quê hương được nữa.
1.1.3. LÊ DUY KỲ ÐƯỢC PHONG HOÀNG THÁI TÔN
Lê Quí Dật Sử [nhiều phần tác giả là Bùi Dương Lịch] chép như sau:
Khi đó, quân sĩ đã tôn lập ngôi chúa, lại thả con cố thái tử [Lê Duy Vĩ] bị giam là Duy Khiêm, Duy Tụ, Duy Chi rước về nội điện. [Quân lính] lại đến cửa khuyết xin lập hoàng thái tôn. Vua ban sắc thưởng cho quân sĩ hai nghìn lạng bạc và ban cho mỗi người thêm một bậc chức tước và cho phép nhường cho họ hàng quen biết để lấy đó làm ơn, giáng hoàng tử thứ tư trước đây được lập để nối dòng, làm Sùng Nhượng công, ra sức [sắc ?] chỉ lập Duy Khiêm làm Hoàng Thái tôn. Lời văn của sắc chỉ:
Kính nghĩ:
Hoàng tôn là giòng cháu đích, tuổi đã trưởng thành. Ta nhờ tự vương [tức chúa mới Trịnh Khải] mở rộng được mưu lớn, xoay chuyển càn khôn được đúng đắn, ngươi là đích tôn, noi theo đức xưa giữ đồ thờ cúng.[28]
Việc Trịnh Sâm bỏ trưởng lập ấu đã đưa đến loạn kiêu binh, nay Trịnh Khải trở lại làm chúa lại nảy sinh ra mâu thuẫn giữa chúa Trịnh và binh lính. Chúa Trịnh sợ binh sĩ tôn phò hoàng thái tôn, một mai khi Lê Duy Kỳ làm vua thì cơ nghiệp nhà Lê có cơ khôi phục, quyền hành nhà chúa sẽ bị bớt đi nên lại có ý muốn trấn áp quân tam phủ. Trịnh Khải lại tin dùng bọn Mai Doãn Khuê, Nguyễn Lệ[29], Nguyễn Triêm… sai họ dẹp kiêu binh đồng thời giám sát hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ.
Bọn Nguyễn Lệ, Nguyễn Triêm trừ được một số lính tam phủ nhưng sau đó quân sĩ nổi lên, Nguyễn Triêm bị giết, chúa Trịnh phải cách chức Nguyễn Lệ. Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLVI, trang 7 chép:
… Từ đấy, quân sĩ mỗi khi ra ngoài kéo từng đàn hàng trăm hàng ngàn người, tung hoành nơi thôn xóm, tự ý cướp bóc thả cửa. Quân sĩ nào đi đường một mình, thường bị dân quê đón đường giết chết. Quân và dân coi nhau không khác gì giặc cướp thù hằn.[30].
Lịch Triều Tạp Kỷ viết:
… Bởi vậy hễ lính Thanh Nghệ nào lệ thuộc ở các trấn mà trốn đi, khi đi qua các xóm làng không dám cất tiếng nói, có kẻ nào lỡ mồm nói tiếng Thanh Nghệ mọi người nghe biết thì giết liền. Chúng thường phải giả câm, ăn xin ở dọc đường để lén vào kinh đô, đồn đại lên rằng chẳng mấy ngày nữa, bốn phương [sẽ kéo quân] đến tập hợp ở dưới chân thành. Các quân Thanh Nghệ đóng ở kinh đô bèn họp nhau lại, bàn mưu chống cự, chia đường kéo ra các mặt Ðại Phùng và Vĩnh Kiều đều bị thổ hào đánh bại, chúng phải quăng bỏ áo giáp đeo vết thương mà về. Kinh đô rung động. Những người ở phố phường chợ búa đều dắt díu nhau chạy ra khỏi thành. Chư quân vừa sợ vừa giận, gọi Tông là “chúa giặc”.[31]
Những xung đột nội bộ của miền Bắc đã khiến cho hệ thống chính trị và quân sự Ðàng Ngoài suy yếu đưa tới việc Nguyễn Huệ đem quân ra mà không gặp một lực lượng kháng cự nào đáng kể. Năm ấy là năm Bính Ngọ (1786), Lê Duy Kỳ được 19 tuổi.
    1. QUỐC PHÁ
1.2.1. TÂY SƠN RA BẮC
1.2.1.1. CHIÊU BÀI PHÙ LÊ DIỆT TRỊNH
Khi Nguyễn Huệ ra bắc, ông nghe theo lời khuyên của Nguyễn Hữu Chỉnh, nêu cao danh nghĩa “Phù Lê Diệt Trịnh” để thu phục lòng người. Chính chiêu bài này đã khiến cho quân chúa Trịnh buông giáo đầu hàng rất nhanh. Thành Thăng Long hỗn loạn:
Những người tránh “giặc” chạy ra ngoài thành đều bị dân phụ cận cướp bóc. Quân sĩ bại trận kết bầy hàng trăm hàng ngàn tay cầm gươm giáo, nhưng chỉ mới trông thấy vài ba trẻ chăn trâu đi qua là đãhoảng hốt bó tay, vứt hết mọi thứ trong người mà chạy. Các làng xã gần nhau thì cướp bóc lẫn nhau, đón đường chặn khách bộ hành lột quần áo, nên đường sá vắng tanh.[32]
Trịnh Khải bỏ chạy, chung quanh chỉ còn vài người nên đã bị “phản” trong một tình thế rất hi hữu.
Ðoan vương chạy đến [làng] Hạ Lôi thuộc Văn Lãng. Trần Quán [Lý] sai học trò của mình người làng Vân Ðiềm đến đón. Quân Tây Sơn đuổi kịp. Dân có kẻ tên là Tuần Trang phản chúa, người Vân Ðiềm biết sự tình không thể làm gì được, tranh nhau với Tuần Trang, bức chúa dâng cho Tây Sơn để lấy công.[33]
Thấy thế cùng Ðoan Nam Vương tự tử. Quân Tây Sơn vào thành, dùng phủ chúa làm quân doanh nhưng đốt hết nhà cửa chung quanh. Nguyễn Huệ cho đem xác Trịnh Khải về kinh. Bọn tên Trang và Ba [người Vân Ðiềm]đều tự cho mình là người có công bắt được Trịnh Khải nên tranh nhau vào lãnh thưởng.
Huệ hỏi Ba rằng: “Có đúng là chúa Trịnh không?” Ba thưa: “Chính phải”. Huệ lại hỏi: “Nhà ngươi làm sao lại biết?”. Ba thưa: “Tôi đã từng là gia thần [của chúa]. Huệ nói: “Là kẻ bầy tôi mà bắt vua thì tộiđáng xử chém”. Bèn sai kéo Ba ra chém.[34]
Theo những nhân chứng sống còn ở kinh thành, lính Tây Sơn chia nhau đóng ở mọi nơi công thự, quần áo hỗn tạp không thống nhất. Người miền Bắc coi họ là “man binh” [蠻兵] ý nói họ là những kẻ mọi rợ từ phương nam tiến lên. Trong văn chương ta thấy các nhà nho gọi Nguyễn Huệ là “cuồng Chiêm” [狂占], “hắc tử” [黑子] với hàm ý khinh miệt. Tuy nhiên, người ta vẫn phải công nhận rằng “quân lệnh của Tây Sơn rất nghiêm, không ai dám lấy một mảy của dân”.[35]
Ngay lúc đầu, Nguyễn Huệ đã thấy không vừa ý khi ông được phong tước công:
… Ngày mồng 8 [tháng Bảy năm Bính Ngọ, 1786]. Vua Lê đặc cách sai triều thần bưng tờ chiếu sắc sang bên phủ [phủ chúa Trịnh, nơi Nguyễn Huệ đóng quân] tuyên phong Nguyễn Văn Huệ nguyên súy Phù chính dực vũ Uy quốc công. Huệ chịu phong xong, sai người kính dâng lễ tạ, cực kỳ chu tất. Rồi bảo riêng Nguyễn Hữu Chỉnh rằng: “Ta đem vài vạn quân ra đây, chỉ một trận là dẹp yên Bắc Hà, một tấc đất, một người dân, gì mà chẳng phải của ta cả. Ví bằng ta muốn xưng đế, xưng vương, có gì là chẳng được, sở dĩ nhường nhịn mà không làm, chỉ là hậu đãi nhà Lê đó thôi.[36]
Ðể lấy lòng, Nguyễn Hữu Chỉnh phải giả thác là vua Lê muốn kết thân, và làm mai để vua Hiển Tông gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Tổng kết nhiều tài liệu khác nhau, ta thấy quả thực triều đình vua Lê hết sức cùng kiệt. Trong nhiều năm, vua Lê và tông tộc chỉ lo việc lễ nghi, ăn thực ấp còn tài sản, tiền bạc ở miền Bắc đều ở trong tay chúa Trịnh và giới quí tộc, quan lại dưới quyền phủ chúa.
Khi Nguyễn Huệ ra bắc có lẽ cũng chỉ tính ở đây một giai đoạn nên vàng bạc, châu báu thu vét cả. Hôn lễ của công chúa cũng là dịp triều đình lấy lại chút uy tín vì có một số sính lễ của người con rể mới:
… Ngày 11, Nguyên soái Nguyễn Huệ đưa ra 200 lạng vàng, 2000 lạng bạc và 20 tấm gấm để làm sính nghi, sai bọn thần thuộc dâng tờ biểu cầu hôn và lễ vật đến điện Vạn Thọ, có nghi trượng nhà binh và tàn tán cờ xí dẫn đầu hoặc rước theo sau. Vào tới trong điện, đợi đến dâng tiến. Vua Lê sai hoàng tử Sùng Nhượng công Lê Duy Cận tiếp nhận lễ vật đem cáo nhà Thái miếu. Qua bữa sau làm lễ cưới. Khi công chúa Ngọc Hân vu qui, từ cửa đền vua đến cửa phủ quân thứ, đều được Huệ cho dàn bày khí giới và nghi trượng một cách oai nghiêm rực rỡ. Người xem đều cho là một việc hiếm thấy xưa nay. Lại có kẻ hơi tỏý chê cười khinh bỉ. Xe Ngọc Hân đến cửa phủ, Huệ đi kiệu rồng vàng ra đón làm đúng như lễ cưới mọi đám khác. Các hoàng thân, các bà phi, các bà chúa và văn võ bách quan sau khi dự yến xong rồi, Huệ liền đưa ra 200 lạng bạc chi tiễn mọi người đi đưa dâu. Huệ còn đi tiễn ra gần cửa phủ, mới trở về.[37]
Trong di văn của Lê Duy Ðản có thêm một số chi tiết:
Năm Bính Ngọ, Nguyễn Huệ xâm chiếm kinh thành, giả danh tôn phù. Vua Cảnh Hưng gả công chúa cho. Quốc lão Nguyễn Viện[38] [阮院] và Tham Tụng Trần Công Xán [陳攻燦], Bồi Tụng Uông Sĩ Lãng [汪士朗], Nguyễn Duy Hợp [阮惟洽] cùng hạ liêu vài ba người đưa dâu. Nguyễn Huệ thưởng cho 100 lạng bạc. Người ta chê cười rằng có vậy mà cũng tranh nhau kẻ nhiều người ít.[39]
1.2.1.2. CHIÊU THỐNG LÊN NGÔI
Sau khi công chúa thành hôn được vài ngày thì vua Hiển Tông mất, thọ 70 tuổi. Lê Duy Kỳ lên nối ngôi, niên hiệu Chiêu Thống. Khi vua Hiển Tông mất, ông dặn cháu rằng:
  • Sớm hôm ta sẽ cất được gánh nặng, nỗi lo âu sẽ trút vào thân cháu. Cháu phải nhớ lấy. Sau khi ta nhắm mắt rồi, truyền nối là việc trọng đại, cháu nên nhất nhất bẩm báo để Nguyễn Văn Huệ biết. Phải thận trọng, đừng có khinh suất.[40]
Tuy nhiên, Lê Duy Kỳ cũng muốn dần dần tự lập, thoát khỏi cái cảnh đã có vua lại có chúa mà nhà vua chỉ ngồi làm vì như ông nội mình đã chịu đựng mấy mươi năm qua, con bị giết cũng đành chịu không dám than thở. Vì thế,ông tự mình lo việc tang ma và lên ngôi, không muốn Nguyễn Huệ tham dự vào việc triều đình một cách thái quá. Chính việc dửng dưng đó đã đưa tới sự bất mãn khiến Nguyễn Huệ sau này có bụng muốn cướp ngôi nhà Lê và khi bất đắc dĩ thì cũng chỉ lập Lê Duy Cận là người đối lập với vua Chiêu Thống.
Những người có đôi chút thế lực – dù là tướng lãnh Tây Sơn, thổ hào hay cả những người được hưởng tước vị triều đình – cũng chẳng có ai thực tâm phù Lê, không làm được điều gì tích cực để ổn định Bắc Hà. Tình hình rối ren của miền Bắc đã tạo một khoảng trống trong hệ thống quyền lực.
1.2.2. TỔ CHỨC HÀNH CHÁNH
Hãy thử kiểm điểm lại ba lãnh vực chính yếu: quân đội, nhân sự, tài chánh để đánh giá di sản mà Lê Duy Kỳ có được cũng như những nỗ lực của ông và bầy tôi trong vài tháng ngắn ngủi của triều đình miền Bắc.
1.2.2.1. QUÂN ÐỘI
Ðến đời Lê, tổ chức hành chánh và quân sự của Ðàng Ngoài đã đến mức khá hoàn chỉnh. Năm 1724, chúa Trịnh Cương mở khoa thi võ đầu tiên để tuyển mộ võ quan gọi là bác cử (博舉) và sở cử (所舉). Trước đó, từ năm 1721, triều đình đã mở trường võ học để huấn luyện về quân sự cho con cháu các nhà quyền quí ở kinh đô. Khoa thi bác cử mở vào những năm thìn, tuất, sửu, mùi còn sở cử vào những năm tí, ngọ, mão, dậu. Thi võ gồm ba kỳ, kỳ thứ nhất hỏi về binh thư Tôn Tử, kỳ thứ nhì thi tài cưỡi ngựa, đấu côn, kiếm và múa đao. Những ai qua được hai kỳ này được gọi là sinh viên (生員)[41]. Kỳ thứ ba là kỳ sát hạch về chiến lược, nếu thi đỗ thì gọi là học sinh (學生) hay biền sinh hợp thức và có thể thi tiếp kỳ thi bác cử. Những ai đỗ kỳ thi bác cử được gọi là tạo sĩ (造士) tức là tiến sĩ võ. Qua năm 1731, chúa Trịnh Giang cải tổ lại các kỳ thi võ giống như của Trung Hoa, hai kỳđầu chỉ thi kỹ thuật và thể lực, kỳ thứ ba mới thi binh thư. Chúa Trịnh Giang cũng mở thêm những kỳ thi đặc biệt cho những người đang ở trong quân ngũ muốn thăng tiến trong binh nghiệp gọi là hoành tuyển (宏選).
Ở miền bắc, quân đội hiện dịch vào khoảng từ 6 đến 7 vạn người, chia ra làm 12 doanh (營), 58 cơ (奇), 285 đội (隊) và 62 thuyền (船). Mỗi doanh có từ 160 đến 800 người, mỗi cơ từ 200 đến 500, mỗi đội từ 15 đến 275 và mỗi thuyền từ 20 đến 86 người.[42] Xem như vậy, quân số nhiều ít không nhất định và tuỳ theo từng đơn vị, từng địa phương. Các doanh, cơ, đội cũng thường đi theo các chữ tả, hữu, tiền, hậu, trung là cơ chế ngũ quân ảnh hưởng của Trung Hoa.
Tổ chức quân sự của miền Bắc cũng còn theo phương hướng đông tây nam bắc để chia thành năm vùng gọi là Ngũ Phủ (五府) bao gồm:
  • Trung quân phủ lấy binh lính từ Thanh Hoá, Nghệ An vốn dĩ là nơi xuất phát của Lê triều và chúa Trịnh, còn được gọi là ưu binh (優兵).[43]
  • Ðông quân phủ bao gồm binh lính từ Hải Dương, An Quảng
  • Nam quân phủ là lính ở Sơn Nam
  • Tây quân phủ là lính thuộc Hưng Hoá
  • Bắc quân phủ là lính của Kinh Bắc
Mỗi phủ dưới quyền chỉ huy của hai đô đốc (都督), một tả một hữu, một đồng tri (同知) và một thiêm sự (添事). Thời bình, quân trực thuộc phủ Chúa là trung quân, tức ưu binh Tam Phủ nên khi đạo quân này tan rã rồi, dưới tay vua Lê hầu như không còn quân đội nào cả.
Cứ như sách vở thuật lại, khi Tây Sơn rút đi, triều đình nhìn quanh cũng chỉ có vài viên quan văn, quân sĩ thì hầu như không có ai nên vua Chiêu Thống đành phải truyền hịch cho các gia đình có thế lực các nơi về bảo vệ hoàng gia. Một số hào kiệt các nơi như Lê Quýnh[44], Vũ Trinh hưởng ứng. Hai vị hoàng đệ, các hoàng thân cũng gây được vài nghìn quân túc vệ.
1.2.2.2. NHÂN SỰ
Tuy trên danh nghĩa Ðàng Ngoài là đất thuộc nhà Lê nhưng trên thực tế, mọi quyền hành trong hơn hai trăm năm qua đều ở trong tay họ Trịnh. Khi Nguyễn Huệ “giao trả nước” cho nhà Lê, thực lực vẫn ở trong tay các sứ quân, mỗi người chiếm cứ một vùng. Tuy những lãnh chúa đó mang tước hiệu công hầu nhưng họ đều là những thế lực riêng rẽ, không dưới quyền điều động của ai, nếu vua Lê muốn nhờ họ làm một việc gì thì chỉ là một sự traođổi, gần như thuê. Tình hình đó khiến họ thay đổi lập trường như chong chóng và không một khu vực nào còn trung thành với triều đình để có thể sử dụng làm bàn đạp giúp vua Lê quật khởi, nếu có cần vương thì chưa được việc đã đòi hỏi còn quá thời chúa Trịnh khi trước.
Cái chết thảm khốc của thái tử Duy Vĩ và kinh nghiệm 11 năm tù đày của ba đứa trẻ cho họ một kinh nghiệm sâu sắc. Ðó là bằng mọi giá phải cố gắng tự lập để thâu lại quyền hành, không thể để cho một “chúa” khác nắm quyền sinh sát. Vậy thì trung thành với nhà Lê còn lại những ai?
Chung quanh vua Lê khi đó chỉ còn một số các bậc khoa bảng, được đào tạo trong cửa Khổng sân Trình nêu cao tấm lòng trung nghĩa một cách sách vở. Những nho sĩ đó không có thực lực, cũng không đủ uy tín và luôn luôn phải đi tìm một sứ quân để theo phò. Những sứ quân đó dễ thay lòng đổi dạ một khi yếu thế nên thường tạo ra những tai hoạ bất ngờ. Ngay cả những thổ hào hay viên chức nhỏ ở hương thôn cũng mua vua, bán chúa nếu có cơ hội.
Ở thời kỳ đó, chính tà chân nguỵ không có ranh giới rõ rệt, nhiều người hết làm quan cho nhà Lê lại làm quan cho Tây Sơn, sau đến khi Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà thì lại làm quan cho triều Nguyễn.[45] Người ngoài bắc vì thế mới có thơ rằng:
黎朝進士二十四
八真八偽八真偽
如今脫劫纏頭巾
未覽誰非又誰是
(Lê triều tiến sĩ nhị thập tứ,
Bát chân, bát nguỵ bát chân nguỵ.
Như kim thoát kiếp triền đầu cân,
Vị lãm thuỳ phi hựu thuỳ thị)
Hai mươi bốn ông Tiến Sĩ triều Lê,
Tám thật, tám giả, tám giả thật.
Nếu như bỏ khăn bịt đầu xuống,
Chẳng biết ai là đúng ai là sai.[46]
Trong khi vua Lê cố gắng củng cố quyền hành thì giới quan lại vẫn theo thói cũ, kẻ thì đi tìm dòng dõi họ Trịnh để phò tá, lấn lướt triều đình, người thì thấy gió đã xoay chiều, mắt trước mắt sau liên lạc để ngả theo Tây Sơn mưu cầu công danh. Có người trên danh nghĩa làm quan với nhà Lê nhưng lại ngấm ngầm phản bội, sẵn sàng truất phế chúa cũ để suy tôn chúa mới. Chính vì thế, tuy Lê Duy Kỳ cố gắng cải thiện tình hình nhưng vì thiếu tiền bạc và nhân sự nên không mấy sáng sủa.
1.2.2.3. TÀI CHÁNH
Khi quyền hành còn trong tay chúa Trịnh, tuy mang tiếng là vua nhưng chỉ được hưởng thực ấp một nghìn xã, một thứ quan lại ăn lương để trông coi các việc lễ nghi tế tự. Vua Lê không có ngân sách, cũng không có những nguồn lợi nào cụ thể để chi phí khi cần. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc, ông thu thập tất cả các kho tàng của chúa Trịnh đem về nam, để lại một đất nước rỗng không như vua Lê phải thú nhận. Chỉ trong hai năm, hết quân Tây Sơnđến các thổ hào, kinh thành Thăng Long bị cướp phá không biết bao nhiêu lần nên về sau chỉ là một nơi hoang tàn, đổ nát không còn gì nữa. Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLVI, tr. 29 chép:
Sau khi quân giặc [Tây Sơn] đã rút đi, nhà vua lập tức triệu bầy tôi trong triều bàn luận rằng: “Giặc để lại cho ta một nước trống rỗng, nếu có sự nguy cấp, thì chống đỡ bằng cách nào?” Bèn viết thư triệu hết những người thế gia và bầy tôi cũ dấy quân vào bảo vệ hoàng thành. Vì thế, hào mục các nơi chiếm giữ châu quận, chiêu tập binh mã, đều mượn danh nghĩa “bảo vệ”. Những hạng vô lại đánh giết lẫn nhau, trong nước thành ra rối loạn.[47]
Khi Nguyễn Hữu Chỉnh ra bắc, kho tàng rỗng tuếch, không thu được đồng ở các mỏ thượng du nên phải thu vét đồ đồng ở đền chùa đúc tiền Chiêu Thống thông bảo.[48]
1.2.2.4. VĂN HỌC
Vua Lê tuy còn trẻ, khi lên ngôi mới 20 tuổi nhưng đã chuộng văn học. Ngay tháng ba năm Chiêu Thống nguyên niên (Ðinh Mùi, 1787) đã mở thi chế khoa. Lối thi này là lối thi mới gồm 10 khoa, phỏng theo cách thức của Tư Mã Quang nhà Tống kén chọn nhân tài dựa trên đức độ, tiết tháo, mưu trí và sức khỏe, thông minh, công bằng, tinh thông kinh sử, bác học, văn tài, khéo xét xử, giỏi tài chính, thuế khóa, hiểu biết pháp luật.
Khoa này lấy Bùi Dương Lịch và Trần Bá Lãm ngang với tiến sĩ. Ngoài ra còn có Nguyễn Huy Túc và Nhữ Công Vũ được cất nhắc lên bậc tiến triều, những người khác có tài thì cho làm viên ngoại lang, tri châu, tri huyện. Những người có thực tài, thực dụng đều được bổ dụng.[49]
Ðến tháng mười cùng năm, lại mở khoa thi hội cho các cống sĩ, tổng cộng có đến 1212 người dự thi, lấy 14 tiến sĩ, Bùi Dương Lịch đỗ đầu (thám hoa). Theo Nghệ An Ký thì:
Tháng 3 năm Chiêu Thống thứ 1 (1787), Vua xuống chiếu tiến cử các kẻ sĩ hiền lương phương chính. Vua cho Lịch tôi [Bùi Dương Lịch] sung chức cung phụng sứ ở Viện Nội hàn. Vua ham học kinh sách, quan kinh diên cứ 6 ngày đến giảng một lần, còn trong Viện Nội hàn mỗi ngày giảng một lần. Lịch tôi còn được ân sủng vào thẳng điện Tập Hiền, để sẵn sàng khi vua hỏi. Mỗi khi được vào hầu vua thì vua thường khăn áo chỉnh tề, cho ngồi bàn trà, quyền chúc hợp ca [?]. Em thứ hai vua Hoàng Nhị Ðệ là Hiền [Ðiền] quận công [Lê Duy Trù][50] cũng rất yêu kính, mỗi khi tôi vào hầu vua trở ra, đều mời về nhà riêng để giảng nghĩa kinh.[51]
Chú thích
[1] Hoàng Xuân Hãn, “Phe chống đảng Tây Sơn ở Bắc với tập Lữ Trung Ngâm”. Saigon: Tập san Sử-Ðịa 21 (1-3, 1971), tr. 15
[2] Ngô Cao Lãng [hoặc Lê Cao Lãng], tự Lệnh Phủ, hiệu Viên Trai, quê ở Thanh Hóa, đỗ hương cống năm Ðinh Mão (1807) làm đến tri phủ. Lịch Triều Tạp Kỷ một bộ 6 quyển, nay chỉ còn I, II, III, IV và VI [thiếu quyển V]. Những quyển này đã được Hoa Bằng và Hoàng Văn Lâu dịch (Hà Nội: KHXH, 1995)
[3] Phan Thúc Trực [1808-1852] hiệu Dưỡng Hạo, người Nghệ An đỗ Thám Hoa năm Thiệu Trị thứ 7 [1847], làm quan trong Nội Các rồi sang Tập Hiền Viện thị giảng, sung Kinh Diên khởi cư chú [ghi chép những việc thường ngày của vua]. Quốc Sử Di Biên gồm 3 tập: thượng, trung, hạ chép ba đời vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị. Hiện nay có hai bản dịch đã ấn hành, Hồng Liên Lê Xuân Giáo [mới chỉ có quyển thượng, các quyển sau chưa in] (Saigon: Phủ Quốc Vụ Khanh Ðặc Trách Văn Hóa, 1973) và Ðỗ Mộng Khương, Viện Sử Học Hà Nội (Hà Nội: VHTT, 2009).
[4] Bánh Xe Khứ Quốc (Hà Nội: Ðời Mới, 1945), (Saigon: Chính Ký, 1952) và được tái bản dưới tựa đề “Cuộc Ðời Trôi Nổi và Ðau Thương của vua Lê Chiêu Thống” (Hà Nội:VHTT, 2000)
[5] “Lời người dịch” của Hoa Bằng trong Ngô Cao Lãng, Lịch Triều Tạp Kỷ (1995), tr. 13. Thực ra việc vua Chiêu Thống cho phá huỷ cung điện của họ Trịnh là để dứt khoát không cho một quyền thần nào khác có cơ hội dựng lại phủ Chúa [mặc dù sau đó lại bị một số lãnh chúa mới ép ông phải tái lập họ Trịnh]. Tuy nhiên, vì thói quen trong nhiều trăm năm, người nào nắm đại quyền đều muốn biến mình thành một thứ Chúa mới, dù là Nguyễn Huệ, Nguyễn Hữu Chỉnh hay Ðinh Tích Nhưỡng… Ðó cũng là một trong những lý do mà nhiều người đã chạy theo Tây Sơn rất sớm mà không một chút mặc cảm là phản bội nhà Lê.
[6] Khi vua Lê Hiển Tông sắp mất có trối lại là “Sau khi ta nhắm mắt rồi, truyền nối là việc trọng đại, cháu [Lê Duy Kỳ] nên nhất nhất bẩm báo để Nguyễn Văn Huệ biết…” Thế nhưng khi vua Hiển Tông qua đời, Lê Duy Kỳ tự phát tang rồi nối ngôi sau mới báo cho Nguyễn Huệ biết. Ông còn nói: “Lên ngôi ngay ở trước linh cữu là theo lễ đấy”. Xem Lịch Triều Tạp Kỷ, q. IV (1995), tr. 581 và Lê Quí Kỷ Sự (1974), tr. 41. Thực ra việc này không có gì sai trái vì Nguyễn Huệ là người ngoài, không thể can thiệp vào những việc của triều đình miền Bắc.
[7] Xin xem thêm “Liệt Phi Nguyễn Thị Kim, người đàn bà bất hạnh”, biên khảo của NDC.
[8] Ðáng để ý là những bản đồ cũ của người Tây phương vẽ về Việt Nam, vịnh Bắc Việt thường là một tam giác đến tận gần Thăng Long. Dường như chỉ vài thế kỷ trước, khu vực duyên hải còn là biển vào sâu trong đất liền.
[9] Alastair Lamb, The Mandarin Road to Old Hué (1970), tr. 20
[10] Samuel Baron, ‘A Description of the Kingdom of Tonqueen’ [vol 6 trong bộ A Collection of Voyages and Travels (6 vols.)] Churchill, (London: 1746), trích lại theo Alastair Lamb (1970), tr. 32. Tôn Sĩ Nghị khi vào thành Thăng Long miêu tả cung điện vua Lê không lấy gì làm khang trang, chỉ là những căn nhà gỗ lợp ngói.
[11] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLV, tr. 3, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 735 chép tháng Tư năm Ðinh Dậu (1777) thời Trịnh Sâm “… luôn mấy năm, trấn Nghệ An mất mùa đói kém, thây chết đói nối liền với nhau.”
[12] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XXXIII, tr. 9, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 305
[13] Theo mật khải của Nguyễn Công Hãng là thầy dạy của Trịnh Giang
[14] Trà và trầu
[15] Phạm Ðình Hổ, Vũ Trung Tùy Bút, “Thần lễ” (Ðông Châu dịch), tạp chí Nam Phong số 128 Avril, 1928, tr. 391
[16] Tiên Dung quận chúa Trịnh thị mất sớm, các con của thái tử Vĩ sau này là của người vợ họ Nguyễn [khai với nhà Thanh là Ngọc Tố], khi Lê Duy Kỳ lên ngôi tấn phong mẹ làm thái hậu. Nếu như vậy, đúng ra Duy Vĩ là anh rể của Trịnh Sâm.
[17] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLIII, tr. 23-4, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 686-7
[18] Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược, quyển II, tr. 6.
[19]𤤦郡公黎維䄂. Chữ Ðiền bộ ngọc 玉, chữ Lạn cũng bộ ngọc, chữ Lứu [䄂] bộ kỳ 礻, có sách dịch là Trứu. Chữ lứu một bên bộ kỳ (礻), một bên chữ do (由), các sách nhà Thanh như Thánh Vũ Ký, Thanh Ðại Thông Sử, Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lượcchép nhầm thành tụ 袖 (bộ y nghĩa là tay áo). Theo GS Hoàng Xuân Hãn chữ này phải đọc là Lứu.
[20]瓓郡公黎維祗.
[21] Người Thái Bình
[22] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLIII, tr. 37, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 699-700
[23] Số hiệu A 604/2 [quyển III] của Viện Hán Nôm Hà Nội.
[24] chi tiết duy nhất về thân quyến của vua Lê ở Trung Hoa theo tờ bẩm của Lê Quýnh viết gửi vua Thanh khi nghe tin Nguyễn Ánh đã chiến thắng nhà Tây Sơn để xin về nước năm Quí Hợi (1803) có câu “蓋囧等四人帶罪以來,故主既亡,狐丘望斷,而所 遺一女,付托無人”(cái Quýnh đẳng tứ nhân đái tội dĩ lai, cố chủ ký vong, hồ khâu vọng đoạn, nhi sở di nhất nữ, phó thác vô nhân) [Bắc Hành Tùng Ký] mà cụ Hoàng Xuân Hãn đã dịch là “…Thật vậy từ khi bốn người bọn Quýnh mang tội đến nay, chúa cũ [ chỉ Lê Duy Kỳ] đã mất, hi vọng cáo về gò đã dứt, mà con gái chúa (?) để lại, phó thác không ai…”. Nguyên văn là nhất nữ, hiểu theo nghĩa thường là con gái vua Lê nhưng phải hiểu là tông tộc không còn con trai [ba anh em Lê Duy Kỳ đều đã chết], chỉ còn một người đàn bà, đó là một người em gái của vua Lê còn đang ở Trung Hoa. Khi đưa hài cốt vua Lê về nước, vương phi Nguyễn Thị Kim cũng có gặp lại bà công chúa này.
[25] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLV, tr. 7, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 739
[26] Khi Tôn Sĩ Nghị trình lên việc Lê Duy Kỳ xin ấn mới, vua Càn Long trả lời rằng xin ấn mới xong sẽ lại xin cầu phong như vậy sẽ phải đi hai phái bộ vậy nên gộp làm một, vừa xin ấn vừa cầu phong cho tiện. Tuy nhiên văn thư trả lời chưa sang đến nước ta. Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng [XIV, 10-11] tr. 3
[27] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLVI, tr. 1-2, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 767-8
[28] Lê Quí Dật Sử (1987), tr. 51
[29] Con Nguyễn Nghiễm, người Hà Tĩnh
[30] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLVI, tr. 7, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 773
[31] Lịch Triều Tạp Kỷ, quyển IV (1995), tr. 535
[32] Bùi Dương Lịch, Nghệ An Ký (1993), tr. 321
[33] Lê Quý Dật Sử (1987), tr. 69
[34] Bùi Dương Lịch, Nghệ An Ký (1993), tr. 322. Về số phận của Tuần Trang, theo Nguyễn Thu, Lê Quý Kỷ Sự (1974) tr. 48-9 thì sau khi Tây Sơn rút đi, hai anh em cũng bị bắt và vua Chiêu Thống sai xé xác trước mộ Đoan Nam Vương.
[35] Bùi Dương Lịch, Nghệ An Ký (1993), tr. 323
[36] Lịch Triều Tạp Kỷ, q. IV (1995), tr. 576-7
[37] Lịch Triều Tạp Kỷ, q. IV (1995) 578-9
[38] Lịch Triều Tạp Kỷ và Khâm Ðịnh Việt Sử thì viết là Nguyễn Hoàn. Nguyễn Hoàn, người Nông Cống làm đến quốc lão trí sĩ, được vời ra làm tham tụng.
[39] Lê Duy Ðản thi tập [bản chép tay BEFEO, A.2821], tr. 26
[40] Lịch Triều Tạp Kỷ, q. IV (1995), tr. 581
[41] Nếu là con quan thì được gọi là biền sinh (弁生)
[42] Đặng Phương Nghi, Les Institutions Publiques du Viet-Nam au XVIIIe Siècle (1969), tr. 125
[43] khi quân tam phủ nổi loạn dân chúng gọi họ là kiêu binh
[44] Người xã Ðại Mão, huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh
[45] Phan Thúc Trực (潘叔直) chép: Trong số quan lại có cả văn võ nhà Lê, hàng thần nhà Nguỵ Tây đều đến bái yết (vua Gia Long), tuỳ theo tài từng người mà bổ nhiệm, trong đó có tiến sĩ Bùi Huy Bích, Nhữ Công Chấn, Phạm Quí Thích, Lê Huy Du, Lê Huy Trâm, Nguyễn Huy Lý, Nguyễn Bá Lãm, Nguyễn Cát, Lê Ðình Hiển, Nguyễn Trọng Tông, Lê Trọng Thể, Lê Duy Thản, Nguyễn Thời Ban, Ngô Thế Lịch, Nguyễn Du, Nguyễn Trung Cần, Nguyễn Ðăng Sở, cùng các quận công Cát Ðằng, Thần Ðầu, Thanh Nê, Bảo Từ, Nhân Tuy, La Mỗ, Bình Vọng, tất cả đều chờ cho xa giá nhà vua đến để chúc mừng… Trong số đó Huy Bích, Công Chấn từ chối trở về quê, Quí Thích làm trợ giáo Bắc Thành, Huy Du làm đốc học Bắc Thành, Huy Trâm làm đốc học Kinh Bắc, Huy Lý, Bá Lãm, Trọng Thể, Ðình Hiển cũng kế tiếp làm đốc học, Trọng Tông là hiệp trấn Kinh Bắc, Duy Thản làm hiệp trấn Lạng Sơn. Quốc Sử Di Biên (國史遺編) [bản chữ Hán] (Hương Cảng: Trung Văn đại học Tân Á nghiên cứu sở, 1965), tr. 13-4 (NDC dịch)
[46] Quốc Sử Di Biên, (1965), tr. 14 (NDC dịch)
[47] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLVI, tr. 29, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 794
[48] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLVII, tr. 4-5, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 809
[49] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLVII, tr. 4, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 808
[50] Tức Duy Lứu
[51] Bùi Dương Lịch, Nghệ An Ký (1993), tr. 330
PHẦN II
TÂY SƠN CHIẾM MIỀN BẮC, VUA LÊ XUẤT BÔN
2.1. TÂY SƠN CHIẾM ÐẤT BẮC
2.1.1. TRỊNH BỒNG
Tuy tài liệu về thời kỳ vua Chiêu Thống cầm quyền ở miền Bắc chỉ có rất ít, xen lẫn trong những biến cố dồn dập của một triều đại đã suy tàn, chúng ta cũng tìm được một số điểm đáng ghi nhận.
Nguyên khi vua Chiêu Thống lên nối ngôi, tuy họ Trịnh không còn làm chúa nữa nhưng thực tế dư đảng vẫn còn nhiều. Trong khi Nguyễn Nhạc muốn dứt khoát không can thiệp vào việc của miền Bắc, chỉ “ước hẹn đời đời làm láng giềng giao hiếu với nhau”[1] thì Nguyễn Huệ vẫn có tham vọng nắm giữ quyền hành ở miền Bắc. Khi Tây Sơn bỏ đi, các hoàng thân quốc thích chỉ chiêu mộ được vài nghìn binh sĩ chia ra giữ bốn phía hoàng thành nên vua Lê phải viết thư triệu các thế gia và bầy tôi cũ dấy binh bảo vệ kinh đô. Nhân cơ hội đó, thổ hào mỗi người chiếm cứ một phương, đánh giết lẫn nhau.[2]
Nhân dịp này, Trịnh Lệ [em Trịnh Sâm] ở Văn Giang cùng hai cựu thần là Trương Tuân (張詢), Dương Trọng Tế (楊仲濟) trở về chiếm lại phủ chúa định lên ngôi. Một người họ Trịnh khác là Trịnh Bồng (鄭逢) cũng quay lại tranh quyền với Trịnh Lệ khiến vua Lê bất đắc dĩ phải phong cho Bồng làm Tiết Chế Thuỷ Bộ Chư Quân, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Thái Uý Côn Quốc Công [Lê Quý Kỷ Sự (1974) trang 49 viết là Côn Quận Công].
Vua Lê vốn không muốn họ Trịnh trở lại nên cấp cho Bồng 3000 lính, 5000 mẫu ruộng và 200 xã giữ việc thờ cúng họ Trịnh, lại làm sắc dụ nói rõ đây chỉ là tước Công thế tập. Dư đảng họ Trịnh là Ðinh Tích Nhưỡng và một số cựu thần xu thời lại nài ép vua Lê phong vương cho Trịnh Bồng. Vua Lê nói:
Ngày trước nhà ta suy vi, nhờ được họ Trịnh khuông phù, rồi quyền bính về họ Trịnh, việc tế lễ vì [về] ta. Ðó là một thời. Nay mệnh trời đã đổi, tổ tông thiên hạ ở cả một mình ta, một nước hai vua hà nên lấyđó làm lệ. Vả lại họ Trịnh đã được rồi, họ Trịnh lại tự để mất đi, chứ nào ta có phụ gì họ Trịnh?[3]
Ðược mấy ngày, Ðinh Tích Nhưỡng đem quân vây điện, cầm súng tuốt gươm. Các tôn thất và quan đại thần sợ sinh biến, khóc lóc, khuyên van mãi vua mới bất đắc dĩ phong Bồng làm Yến Ðô Vương [tức trở lại thời vua Lê chúa Trịnh].[4] Họ Trịnh lấy lại ngôi chúa rồi, thủ hạ cậy công cướp bóc nhân dân.
2.1.2. NGUYỄN HỮU CHỈNH
Thấy ngôi vua lại có cơ trở thành hư vị như các đời trước, vua Chiêu Thống đành bí mật vời Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra giúp. Việc nhờ vả Nguyễn Hữu Chỉnh hẳn là rất miễn cưỡng vì Chỉnh hiện đang đóng một vai trò mập mờ. Tuy Bằng Quận Công vốn là bầy tôi nhà Lê nhưng đã chạy theo anh em Nguyễn Nhạc, nay đang trấn thủ một khu vực vốn đã bị nhường cho Tây Sơn [để trả công phù Lê cho Nguyễn Huệ] và triều đình đang tìm cách chuộc lại nên việc nhờ cậy Nguyễn Hữu Chỉnh đã tạo nên một mối lo tâm phúc cho Nguyễn Huệ [khi đó đang vướng mắc vào tranh chấp với vua Thái Ðức Nguyễn Nhạc],vốn e ngại một sự ly khai của Bắc Hà.
Nguyễn Hữu Chỉnh kéo quân ra, đánh bại Trịnh Bồng ở sông Thanh Quyết khiến tất cả kinh thành kinh hoàng. Yến Ðô Vương chạy sang Dương Xá, rồi lại chạy sang Quế Ổ [桂塢]. Vua Chiêu Thống sợ họ Trịnh quay trở lại, quần thần bàn nên đốt vương phủ để triệt đường về. Vua Lê nghe theo. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân tới, vua Lê cho bách quan nghinh tiếp vào ở cung Tây Long và phong cho Chỉnh tước Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Ðại Tư Ðồ, Bằng Quốc Công, binh lính thì cho đóng ở bờ sông bên ngoài kinh thành.
Dư đảng họ Trịnh lại nổi lên, Nguyễn Hữu Chỉnh sai Nguyễn Như Thái và Hoàng Viết Tuyển đem quân đánh dẹp bắt được Dương Trọng Tế đem về kinh đô xử tử. Hoàng Phùng Cơ từ Sơn Tây tiến đánh kinh đô bị bộ tướng của Chỉnh là Lê Duật đánh tan, phải uống thuốc độc chết.
Nguyễn Hữu Chỉnh cũng bí mật liên lạc với trấn thủ Nghệ An [người của Tây Sơn] là Nguyễn Văn Duệ mưu phản Nguyễn Huệ, cốt biến vùng Thanh Nghệ thành một trái độn để chia bớt thế lực. Cùng lúc đó, vua Lê lại sai Trần Công Xán làm chánh sứ vào tận Phú Xuân để thương lượng đòi đất Nghệ An nhưng Bình Vương Nguyễn Huệ không bằng lòng, sai người tìm cách đục thuyền giết toàn bộ phái đoàn ở cửa Ðơn Nhai. Thấy Bắc Hà có nguy cơđối đầu với mình, Nguyễn Huệ vội vàng sai Vũ Văn Nhậm đem quân ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh. Một trong những lý do Chỉnh không hết lòng cũng vì vợ con Chỉnh còn đang ở Phú Xuân, nên không dám vọng động tấn công trước.
Khi Vũ Văn Nhậm ra Bắc Hà, hai tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh là Nguyễn Như Thái, Hoàng Viết Tuyển chia binh chống cự nhưng vì bố của Tuyển đang bị Vũ Văn Nhậm bắt nên Tuyển có ý muốn hàng, dừng quân không chịu tiến lên. Khi quân của Nhậm tới, Tuyển trở tay không kịp.
Ngày 25 tháng Một, Nguyễn Hữu Chỉnh đem đại quân chặn địch ở Sinh Quyết [Thanh Quyết]. Ngày 30, Nhậm sai người lặn xuống sông dùng thừng buộc vào thuyền của Chỉnh kéo về bờ phía nam, quân Chỉnh tan vỡ. Quân Tây Sơn tiến đến sát kinh thành.
Ðêm hôm đó, Chỉnh trở về. Vua Chiêu Thống cho vời mấy lần, Chỉnh không vào, chỉ cho Tham tri chính sự Nguyễn Như Khuê tâu vua xin chạy về phía bắc nương nhờ Nguyễn Cảnh Thước. Theo Lê Quý Dật Sử thì:
Vua nghe theo, đợi trời sáng, vua ngự ra điện Vạn Thọ, bọn thị vệ dần dần bỏ trốn, vua triệu các quan sảnh đường để xét hỏi, thì họ đã ngầm trốn đi từ trước, không còn một người nào trực cả. Bọn nội thị ai vềnhà nấy thu xếp hành lý. Trong điện chỉ còn Hoàng thân thứ hai, cai quản vệ Hổ bôn Ðạt quận hầu [Lê Duy Ðạt], người vừa mới được tiến triều là Nguyễn Khải người Hương Cần, huyện Kỳ Hoa, người họ ngoại là Tích Xuyên hầu cùng hoàng giáp Bùi Dương Lịch bưng khăn đứng hầu mà thôi.
Khi sắp đi, vua trước hết đến nhà tẩm miếu tiên đế bái khóc. Bọn thị vệ lại lén bỏ đi. Vua tôi chỉ đưa mắt nhìn nhau, không biết làm thế nào. Bùi Dương Lịch đến trước vua tâu rằng: “Nay Chỉnh dẫu thua trận rút lui, nhưng thủ hạ của Chỉnh còn nhiều, lòng người còn biết sợ Chỉnh, xin nhà vua truyền dụ đi đến nhà Chỉnh, sai Chỉnh đi theo hộ giá, chắc được, như thế có sự ràng buộc”.[5]
Vua Chiêu Thống cưỡi voi đến nhà Chỉnh bàn tính chuyện chạy lên Kinh Bắc. Tuy nhiên, trấn thủ Nguyễn Cảnh Thước làm phản, mật sai người xin đầu hàng Vũ Văn Nhậm, cướp hết voi, ngựa, hành lý của nhà vua. Chỉnh vội vàng đưa vua Lê lên Yên Thế nương nhờ thổ hào ở đó là Dương [Ðình] Tuấn.
2.2. NHÀ LÊ THẤT QUỐC
Ngày mồng 4 [tháng Chạp] quân Tây Sơn kéo đến, vua Lê sai hoàng đệ đem hoàng thái hậu, vương phi và nguyên tử theo đường phía bắc chạy lên Lạng Sơn, còn nhà vua mặc áo giáp, cưỡi ngựa đi đầu có ý đích thân chống giặc. Các bề tôi, nội thị can ngăn, vua mắng là hèn nhát. Bùi Dương Lịch nắm cương ngựa can rằng:
  • Việc binh chiến không thể lường được, xin bệ hạ hãy lấy xã tắc làm trọng, chớ có khinh địch.
Vua miễn cưỡng nghe theo, cho ngựa đứng sau trận khoảng 3 dặm. Dương Tuấn đem quân giữ bên phải, Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân giữ núi bên trái.[6] Quân Tây Sơn dàn hàng ngang tiến lên, Nguyễn Hữu Du [con Chỉnh,Nghệ An Ký viết là Hoằng] bị giết, hai con và cháu của Dương Tuấn cũng tử trận. Nguyễn Hữu Chỉnh bị bắt giải về Thăng Long xé xác, bêu ở cửa thành. Vua Lê chạy sang Bảo Lộc, các bề tôi mỗi người một ngả. Ðầu năm sau, thổ hào ở Hải Dương đón Lê Duy Kỳ về Giáp Sơn.
2.2.1. VUA LÊ CHẠY TRỐN
Sau khi Vũ Văn Nhậm chiếm được kinh thành, vua Lê chạy trốn, tình cảnh hết sức long đong vất vả. Lê Quý Kỷ Sự chép:
Tự hoàng từ sau trận thua ở Mục-thị, lật đật long đong, nay đông mai bắc, đến đâu cũng được nghĩa binh hào mục ở đó theo về như chợ, nhưng quân lính không quen trận chiến, gặp “giặc” liền thua.[7]
Về phần Vũ Văn Nhậm, từ khi chiếm được Thăng Long làm nhiều điều đắc chí khiến Nguyễn Huệ cũng sinh nghi, sai Ngô Văn Sở ra Bắc để kiềm chế Nhậm. Nhậm cũng không ưa Ngô Văn Sở nên cho lên đóng ở Phú Xuyên nhưng bắt phải tự túc về lương thực, tiền bạc. Ngô Văn Sở hết sức căm tức, chờ dịp báo thù. Theo Lê Quý Kỷ Sự thì “khi đi, Nhậm che sáu lọng, khi ngồi Nhậm dùng sập thếp vàng. Lại tự tiện đúc ấn chương và khi cho tướng dưới quyền dùng tiếng tâu nói với Nhậm trong những dịp trình bày việc công”.[8] Ngô Văn Sở báo cho Nguyễn Huệ biết, tố cáo Nhậm làm phản. Nguyễn Huệ liền kéo quân ra thẳng Thăng Long, bắt Nhậm giết đi.
Khi Nguyễn Huệ giết được Vũ Văn Nhậm rồi, lại một lần nữa bách quan văn võ lục tục “ra hàng” nghĩa là chịu làm việc với triều đình mới. Khi Lê Duy Ðản sang Quảng Tây có đọc được tờ biểu mà đình thần gửi sang để xin Thanh triều chấp nhận cho Nguyễn Quang Bình [Nguyễn Huệ] lên làm vua thay Lê Duy Kỳ. Theo một bài thơ của Lê Duy Ðản thì tờ biểu này có 75 chữ ký, bao gồm ba quan văn.[9]
2.2.2. HOÀNG TỘC CHẠY SANG ÐẤT THANH
Về nguyên nhân nhà Thanh đem quân sang nước ta, Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện chép:
Khi kinh thành Thăng Long vừa mất, vua Chiêu Thống sai thị thần là Lê Quýnh cùng mấy chục người tôn thất bảo hộ quốc mẫu họ Nguyễn chạy lên Cao Bình (Bằng) dựa vào đốc trấn Nguyễn Công Túc, gửi thư sang Long Bằng cầu xin tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị đem binh cứu viện…[10]
Cũng việc đó, Khâm Ðịnh Việt Sử quyển XLVII, tr. 32 chép dài hơn:
Trước kia, thái hậu đến Cao Bằng, các phiên tù đều đem quân đi phòng thủ, chẹn đánh. Phiên mục Bế Nguyễn Trù dẫn tướng giặc là bọn Cúc, Hoán đến đánh úp trấn doanh. Bọn đốc đồng Nguyễn Huy Túc, phiên thần Ðịch quận công Hoàng Ích Hiểu, tụng thần Lê Quýnh và Nguyễn Quốc Ðống bảo vệ thái hậu và nguyên tử do cửa ải Thuỷ khẩu chạy sang Long Châu nhà Thanh. Quan châu là Trần Tốt đem việc nàyđề đạt lên tổng đốc và tuần phủ.
Lưỡng Quảng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị và Quảng Tây tuần phủ Tôn Vĩnh Thanh hội họp ở Nam Ninh. Thái hậu đưa nguyên tử đến yết kiến ở trong sân, gào khóc xin cứu viện. Bọn Sĩ Nghị tâu với vua Thanh rằng Tự hoàng nhà Lê đương phải bôn ba, đối với đại nghĩa, ta nên cứu viện. Vả lại, An Nam là đất cũ của Trung Quốc, sau khi khôi phục nhà Lê, ta nhân đó, đặt lính thú để đóng giữ. Thế là vừa làm cho nhà Lêđược tồn tại, vừa chiếm lấy được An Nam: thật là làm một chuyến mà được hai lợi.[11]
Từ hai nguồn này, các sử gia đều dựa vào đây để khẳng định là gia quyến và bầy tôi nhà Lê chủ động trong việc sang Trung Hoa cầu viện, thái hậu họ Nguyễn – mẹ Lê Duy Kỳ – van xin thống thiết và dựa vào đó Tôn Sĩ Nghị trình bày lên vua Càn Long xin cử binh sang đánh nước Nam.
Với lối trình bày đơn giản có dụng ý, chúng ta tưởng như đây là một phái đoàn chính thức tiền hô hậu ủng đi qua cửa ải đến tận dinh tổng đốc nhà Thanh xin đem quân cứu viện. Sai lầm này khiến người đọc sử có ác cảm với mẹ con vua Lê và đám bồi thần chỉ vì quyền lợi bản thân nên manh tâm nhờ cậy người ngoài, bất kể đến quyền lợi quốc gia dân tộc.[12]
Thế nhưng tài liệu của nhà Thanh không những khác hẳn mà nội dung lại mang dụng ý rõ rệt, một mặt che dấu việc tuần phòng biên giới chểnh mảng, mặt khác nhấn mạnh vào nghĩa vụ nước lớn để chính danh hoá việc đem quân sang nước ta. Bên cạnh đó, động cơ ngầm của vấn đề chính là mục tiêu cá nhân của Tôn Sĩ Nghị với tham vọng nếu không chiếm nước ta thành quận huyện thì cũng là một cơ hội tốt để ông ta thăng quan tiến chức.
Và nói chung, mọi sách vở tài liệu dựa trên hai nguồn: 1/ chính sử Việt Nam qua Khâm Ðịnh Việt Sử hay Liệt Truyện 2/ chính sử Trung Hoa qua Thanh Thực Lục, Thanh Sử Cảo đều qui tội cầu viện Trung Hoa vào tông thất nhà Lê.[13]
Thực tế như thế nào? Chúng ta cần xem xét vấn đề này với những chi tiết cụ thể hơn.
Trong tấu thư của Tôn Sĩ Nghị đề ngày 26 tháng Sáu năm Càn Long thứ 53 (Mậu Thân) (tức 29-7-1788) có thuật lại lời khai của Nguyễn Huy Túc [quan nhà Lê hộ tống thái hậu, vương phi, vương tử chạy sang đất Thanh] thì:
Ngày 26 tháng Sáu năm Càn Long 51 (Bính Ngọ) (tức ngày 21-7-1786), Nguyễn Huệ là em của thổ tù Nguyễn Nhạc đem binh tấn công Lê thành (tức Thăng Long). Ngày 29 tháng Bảy (21-9-1786)[14] thì Nguyễn Nhạc cũng tới nơi. Thần dân các nơi chạy đến cứu viện, anh em Nguyễn Nhạc ngày mồng 7 tháng Tám (28-9-1786) thì ra khỏi nước.
Quốc vương Lê Duy Ðoan 黎維端 (tức vua Hiển Tông) làm mất quốc ấn, sau lại bệnh mà chết. Vì con trưởng chết sớm, cháu nội là Lê Duy Kỳ theo thứ tự được thừa tập, đã viết văn thư xin được (nhà Thanh) cấp cho ấn triện. Sau đó tự tôn nhận được hịch dụ của tổng đốc Lưỡng Quảng cho hay là không hợp thể chế, sắp sửa sai sứ thần dâng biểu cáo ai để xin được sắc phong làm An Nam quốc vương và cấp cho ấn khác.
Ngờ đâu ngày mồng 1 tháng Chạp năm đó (tức ngày 19-1-1787), nguỵ tướng của Nguyễn Nhạc là Nguyễn Nhậm (tức Võ Văn Nhậm) đem mấy vạn quân công phá kinh thành, tự tôn [tức vua Lê Chiêu Thống nhưng ở đây không dám gọi là vua vì chưa được sắc phong của nhà Thanh nên chỉ gọi là tự tôn nghĩa là cháu nội được chỉ định nối ngôi] phải bỏ chạy. Bọn chúng tôi (tức bọn Nguyễn Huy Túc) đưa vương mẫu (tức thái hậu), vương tử (tức Lê Duy Thuyên, con trai của Lê Duy Kỳ) lánh nạn tại xã Bác Sơn, huyện Võ Nhai. Còn tự tôn thì ngày 25 tháng Giêng năm nay (Mậu Thân) (tức ngày 2-3-1788) đến vùng Sơn Nam để điều binhđánh giặc.
Ngày mồng 6 tháng Tư (11-5-1788), Nguyễn Huệ quay trở lại quốc thành (Thăng Long), có thổ dân ở Lạng Sơn là Quyển Trâm (卷簪) cùng phiên mục Cao Bằng Bế Nguyễn Trù (閉阮儔) lẩn vào Lạng Sơn, chiêu tập được một số đông quân giặc định cướp vương quyến làm con tin để ngăn trở nghĩa binh. Chúng tôi liền cùng gia đình đưa lên Cao Bằng. Bọn chúng lại đuổi tới Cao Bằng. Chúng tôi chỉ còn cách lên thuyền chạy cho xa.
Ngày mồng 4 tháng Năm vừa qua (7-6-1788), tới Bác Niệm, truy binh càng lúc càng gần. Ngày 12 tháng Năm (15-6-1788) thì chạy được tới bờ sông. Bọn giặc ước chừng ba, bốn trăm tên đuổi tới nơi, không còn đường nào thoát mới khấu đầu qua phía bờ bên kia để xin thiên triều cứu giúp. Thế nhưng tặc binh đã tới nơi, đành liều mạng mang vương mẫu, vương phi, thế tử và thân thuộc, vượt sông lên bờ. Những ai không kịp qua sông đều bị giết cả…[15]
Ðây là lời khai của vong thần nhà Lê để Tôn Sĩ Nghị lấy cớ tâu lên vua Càn Long nhấn mạnh vào việc quân Thanh có mặt khi đoàn người tị nạn vượt biên giới. Sự việc ít nhiều đã được mớm lời để khai cho phù hợp với ýnguyện của họ Tôn dọn đường cho những toan tính của ông ta sau này và nhất là đẹp lòng vua Cao Tông. Tuy nhiên, thực sự xảy ra có điều khác hẳn. Theo lời thuật lại của chính Lê Quýnh thì đám tòng vong nhà Lê sau khi quađược con suối thì lên một đỉnh núi, do thổ dân đưa đường sống tạm trong một cái hang phải đi hái rễ cây, ăn quả rừng sống tạm mấy ngày. Mãi đến khi tin đưa tới quan quân nhà Thanh thì thông phán Trần Tùng mới tới gặp.
… Khi ấy quốc mẫu, cung phi và nguyên tử thì đều ở tại Thái Nguyên, nhà vua sai Quýnh lên bảo hộ. Tháng Tư năm đó, đến Thái Nguyên thấy quân ít ỏi, thế cấp bách nên đưa thái hậu qua ở trấn Mục Mã [牧馬], thuộc Cao Bình [高平].
Sang tháng Năm, binh Tây Sơn bất ngờ ập đến, đốc đồng Nguyễn Huy Túc [阮煇宿] sai phiên mục Cao Bình là Hoàng Ích Hiểu [黃益曉] đem thương thuyền đưa quốc mẫu và mọi người xuôi dòng đến Thuỷ Khẩu quan [水口關], tạm trú ở thôn Phất Mê [弗迷] bên cạnh cửa ải.
Ngày mồng 9 [tháng Năm], quân Tây Sơn kéo rốc đến, Lê Quýnh và Hoàng Ích Hiểu lui về giữ một cái gò nhỏ giữa sông ở Phất Mê. Quân địch vây ở phía tây nam còn phía đông bắc thì quân giữ ải của nội địa[tức Trung Hoa] trấn giữ, tiến thoái đều không được, chỉ còn nước đánh đến chết.
Đến chiều hôm đó trời mưa lớn lại có gió mạnh, trời tối đen nên nương theo ánh chớp mà qua sông, tìm được một con đường mòn đi vào trong núi sâu[16] ở phía bắc Đẩu Áo [斗隩] thuộc về nội địa. Gia đinh chỉ còn được 7 người.[17]
Đến khi trời sáng, tìm thấy quốc mẫu và những người khác ở trong một cái hang núi. Lương thực hết, tìm được vài bắp ngô dâng lên.[18] Số 60 người còn lại thì ăn rễ cốt tuý bổ [骨碎補][19] tươi cùng các loại quả dại cho khỏi đói… [20]
Về việc này Hoàng Xuân Hãn cũng dẫn bài “Tháng 5 hộ Từ-giá qua bến Phất-mê” mà ông dịch ra như sau:
Thình lình trong chốc lát cờ giặc đầy núi. Xách gươm theo kiệu ra đến bờ sông. Một bè kết bằng năm cây tre chở quốc quyến. Một dây giăng qua sông giúp các quan lội theo… Mưa lớn suốt đêm, rét thấu xương. Sáng dậy nhìn sông nước chảy như bay.[21]
Những chi tiết đó cũng được nhắc lại để xác định rằng đoàn người tị nạn phải chia làm hai, một phần chạy trước để lại bảy người đoạn hậu. Họ sở dĩ không bị quân Tây Sơn tiêu diệt cũng nhờ đêm tối, mưa to gió lớn khiến giòng nước chảy xiết nên mới lội qua sông thoát được sang đất Trung Hoa. Sau đó, họ tìm thấy nhau đang ở trong hang núi [chưa gặp quan quân mà chỉ có một vài thổ dân giúp đỡ]. Trong “Tiêu Cung Tuẫn Tiết Hành”, một bài thơ dài của Nguyễn Huy Túc thuật về cuộc đời của hoàng phi Nguyễn Thị Kim cũng miêu tả như sau:
… Năm Ðinh Vị Tây Sơn khởi biến,
Cảnh phong trần chợt đến khôn lường.
Ngoài thành rong ruổi xe hương,
Quân Hầu tan tác, bàng hoàng bên sông.
Vó ngựa lạc văn phong mấy độ,
Theo từ vi đến Võ Nhai sơn.
Quần hồng lận đận núi ngàn,
Liễu bồ phải chịu muôn vàn long đong.
Xa trông đợi tin rồng vắng bặt,
Chốn nhàn đình nước mắt chứa chan.
Bỗng đâu tiếng trống nổi ran,
Tướng Cao Bằng rước xe loan lên đường.
Tới Mục Mã vội vàng nghỉ lại,
Thuyền vua giong lên ải Phất Mê.
Ðịch nghe tin kíp đuổi kề,
Tên bay đạn lạc bốn bề rối ren.
Bè một mảng qua phen kinh hãi,
Bao hiểm nghèo rồi lại bình yên,
Vịn cây dẫm đá trèo lên,
Mưa mù lam chướng đầy trên một trời.
Dân sở tại chào mời đưa dắt,
Gập ghềnh theo lối tắt đường ngang.
Hết đường tới núi vào hang,
Giếng thơm trong suốt, nước đang dạt dào…[22]
Tất cả bọn lưu vong nhà Lê chỉ còn 62 người sống sót, trong đó có mẹ Lê Duy Kỳ [thái hậu] là Nguyễn (thị) Ngọc Tố (阮玉素) và vợ [vương phi] là Nguyễn (thị) Ngọc Ðoan (阮玉端)[23], con trai [vương tử] là Lê Duy Thuyên (黎維詮)[24]. Nhóm người tị nạn đó may sao kiếm được mấy bắp ngô chia cho hai người đàn bà và đứa trẻ, còn đàn ông thì phải tìm các loại rễ cây, quả dại.
Chú thích
[1] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLVI, tr. 29, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 793
[2] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLVI, tr. 29, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 794
[3] Bùi Dương Lịch, Nghệ An Ký (1993), tr. 326
[4] Lê Quý Kỷ Sự (1974), tr. 49, Nghệ An Ký (1993), tr. 326
[5] Lê Quý Dật Sử (1987), tr. 80-1
[6] Nghệ An Ký (1993), tr. 336
[7] Lê Quý Dật Sử (1987), tr. 99
[8] Lê Quý Dật Sử (1987), tr. 100
[9]…留名不覺汙青史,忍恥還甘戴赤巾。無論武夫焉識義,儒冠三十有三人。
Lưu danh bất giác ô thanh sử, Nhẫn sỉ hoàn cam đái xích cân. Vô luận võ phu yên thức nghĩa, Nho quan tam thập hữu tam nhân.
Ðể tên chỉ làm cho sử xanh nhơ bẩn, Lẽ nào lại không biết thẹn mà đội khăn đỏ ư ? [khăn đỏ là quân Tây Sơn]. Kẻ võ phu không biết nghĩa lý thì chẳng nói gì. Ðến quan văn ba mươi người mà cũng có ba người ký tên. (Lê Duy Ðản thi tập – BEFEO A.2821)
[10]初昇隆失守昭統帝遣侍臣黎囧與尊室數十人扈國母阮氏及宮眷如高平依督鎭阮公宿通書龍憑營求兩廣總督孫士毅提兵赴援… (Sơ Thăng Long thất thủ, Chiêu Thống đế khiển thị thần Lê Quýnh dữ tôn thất sổ thập nhân hộ quốc mẫu Nguyễn thị cập cung quyến như Cao Bình y đốc trấn Nguyễn Công Túc, thông thư Long Bằng doanh cầu Lưỡng Quảng Tổng Ðốc Tôn Sĩ Nghị đề binh phó viện…) Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển XXX, tr. 29a
[11] Khâm Ðịnh Việt Sử, quyển XLVII, tr. 32, bản dịch Viện Sử Học, tập II (1998), tr. 837
[12] Dựa theo những chi tiết vẫn được coi là “chính sử” nêu trên, nhiều bộ sử khá qui mô do những học giả ngoại quốc danh tiếng viết cũng khẳng định chính Lê Duy Kỳ chạy sang Trung Hoa cầu cứu nhà Thanh. Xin kể sơ qua vài tác phẩm nhiều người biết:
1….Trong lần thứ hai quân Tây Sơn ra Ðàng Ngoài năm 1787, vua Lê bỏ kinh đô tìm đường chạy sang Trung Hoa, ở đó ông ta xin vua Thanh giúp đỡ lấy lại ngai vàng. (… Having fled his capital during the second Tây Sơn invasion of Ðàng Ngoài in 1787, the Lê emperor eventually made his way to China, where he appealed to the Qing emperor for assistance in reclaiming his throne.) George Dutton, The Tây Sơn Uprising (2006), tr. 48
  1. Vua Lê băng hà. Người cháu nội và cũng người kế vị, được một số tôn thất hộ tống chạy sang Quảng Tây. Nơi đây ông ta kêu gọi nhà Thanh can thiệp để đưa ông trở lại ngai vàng. (… The Le emperor died. His grandson and successor, accompanied by members of the Le royal house, fled to Kwangsi. There he pleaded for Ch’ing intervention to restore him…) Alexander Woodside, Chapter 5: “The Ch’ien-Lung Reign”, Willard J. Peterson (chủ biên) The Cambridge History of China: The Ch’ing Dynasty to 1800 [Vol 9, part One], tr. 277

  • Năm 1788, vua Việt Nam của triều Lê cùng gia đình chạy trốn kẻ nổi dậy là gia đình họ Nguyễn, khi đó chiếm Hà Nội. Ðào tị tại Quảng Tây, ông ta [tức Lê Duy Kỳ] nài nỉ xin nhà Thanh che chở. Vua Càn Long đáp ứng nhanh chóng, sai ba đạo quân tấn công vào Việt Nam mà một đội từ Quảng Tây xuống phía nam do tướng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy, một đội từ Vân Nam ở phía đông nam, và một đạo thứ ba theo đường biển từ Quảng Ðông… (In 1788 the ruler of Vietnam’s Le dynasty fled with his family from the usurping Nguyen family, who had seized Hanoi. Taking refuge in Guangxi province, he begged for Qing protection. Qianlong responded swiftly, ordering a three-pronged attack on Vietnam, with one army marching south from Guangxi under General Sun Shiyi, a second southeast from Yunnam, and a third transported by sea from Guangdong…) Jonathan D. Spence, The Search for Modern China (1990), tr. 111
  • 4…..nhưng Lê Duy-Kỳ đã vượt biên giới chạy sang Trung Hoa và cầu khẩn hoàng đế [nhà Thanh] giúp ông lấy lại vương quốc (… Mais Lê Duy-kí avait pu passer la frontière et s’était rendu en Chine. Il implora l’empereur pour qu’il l’aidât à reconquérir son royaume…) Charles B. Maybon, Histoire Moderne du Pays d’Annam 1592-1820 (1920), tr. 297
    [13] Tệ hơn nữa, nhiều nghiên cứu lại dựa trên cuốn tiểu thuyết Hoàng Lê Nhất Thống Chí để khẳng định về tội danh này.
    [14] năm này tháng Bảy âm lịch nhuận nên ngày Nguyễn Nhạc ra Thăng Long phải là tháng Bảy thứ hai vì sử Việt chép rằng Nguyễn Nhạc chỉ ở lại độ mươi ngày rồi quay về.
    [15] Khâm Ðịnh An Nam Kỷ Lược, quyển I, tr. 12-3
    [16] HVTT Đồ Sơn [涂山]
    [17] Đoạn này các tài liệu khác có nhiều chi tiết hơn.
    VHN …Quýnh và Hoàng Ích Hiểu chia binh chống giữ, còn đốc đồng Cao Bình Nguyễn Huy Túc, Phượng Thái Hầu Nguyễn Quốc Đống, Trường Sa Hầu Phạm Đình Quyền đưa quốc mẫu qua sông, đi theo bên cạnh ải Đẩu Áo mà vào nội địa.
    HVTT …Quýnh và Ích Hiểu chia ra hai đầu chống giữ, đốc đồng Nguyễn Huy Túc, Phượng Thái Hầu Nguyễn Quốc Đống, Trường Thu Lệnh Phạm Đình Quyền đưa thái hậu qua sông, theo Đẩu Áo vào nội địa.
    Nói tóm lại, hai tài liệu đều nói rõ thêm gia đình vua Lê đã được hộ tống theo đường mòn qua Trung Hoa trước còn Lê Quýnh và Hoàng Ích Hiểu ở lại chống giặc, đến tối nhờ ánh chớp mà vượt sông nên cũng vào trong núi là khu vực thuộc nhà Thanh.
    [18] NP 尋得玉燭米數芭以進. HVTT 尋得玉蜀黍數包以進 VHN 尋得玉燭米數包以進
    Theo chúng tôi hiểu, bao không phải là một túi mà là bắp ngô sống chưa lột vỏ ngoài. Trong khung cảnh rừng sâu không người, khó có thể tìm ra vài bao ngô như bản dịch của GS Hoàng Xuân Hãn.
    [19] Rhizoma Drynariae là một loại củ dùng trong thuốc bắc, vị đắng, tính ôn để chữa bệnh dòn xương
    [20] Lê Quýnh: Bắc Hành Lược Ký (bản dịch NDC)
    [21] Hoàng Xuân Hãn, “Bắc Hành Tùng Ký”. La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, tập II, (1998) tr. 876-7
    [22] Ngô Gia Văn Phái, Hoàng Lê Nhất Thống Chí, (2002), tr. 425-26
    [23] Tên thực là Nguyễn thị Kim, GS Hoàng Xuân Hãn viết là Nguyễn thị Ngọc Thuỵ, theo tờ trình của Nguyễn Huy Túc thì là Ngọc Ðoan. Hai chữ Thuỵ (瑞) và Ðoan (端) rất giống nhau. Nhà Thanh chép lại theo tờ biểu của nhà Lê nên chắc không sai.
    [24] Cung Trung Ðáng (宮中檔), hòm số 2727, bao số 218: Theo tờ trình của Tôn Vĩnh Thanh đề ngày 1 tháng Sáu năm Càn Long thứ 53 (1788), số hiệu 54179 và tờ trình của Tôn Sĩ Nghị ngày mồng 4 tháng Sáu năm Càn Long thứ 53, số hiệu 54199, tờ trình của Tôn Vĩnh Thanh ngày 13 tháng Sáu, số hiệu 54285 Trang Cát Phát (莊吉發). Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu (清高宗十全武功研究). (1982), tr. 359
    PHẦN III
    NHÀ THANH CỨU VIỆN
    3.1. PHẢN ỨNG CỦA THANH TRIỀU
    3.1.1. NHÀ LÊ CẦU CỨU
    Sự việc đến đây cũng chưa phải là hết. Những người trốn qua biên giới đều phải đối diện với một vấn đề luật pháp rất phức tạp. Ðó là làm sao để được nhà Thanh chấp thuận cho hưởng qui chế “tị nạn” mà không bị trả về cho quan quân Tây Sơn. Việc kiểm soát qua lại biên giới của nhà Thanh rất chặt chẽ, muốn ra ngoài buôn bán phải có phép của triều đình. Những ai bỏ nước ra đi, nếu không có lý do chính đáng khi trở về nội địa đều bị trọng hình nên đã đi rồi bắt buộc phải tha hương lập nghiệp.
    Khi nhà Thanh mới chiếm được trung nguyên, một số đông người Trung Hoa không tuân lệnh gióc tóc đuôi sam [theo kiểu người Mãn] nên bỏ quê hương, trốn xuống vùng Ðông Nam Á, tạo thành một tầng lớp Hoa kiều gọi là Minh hương [người gốc nhà Minh]. Họ cũng tập họp thành những tổ chức, bang hội để chống lại nhà Thanh (phản Thanh phục Minh) nên việc người trong nước giao dịch với bên ngoài càng bị giám sát kỹ lưỡng để đề phòng thông đồng nổi loạn.
    Tại những quốc gia lân cận, không hiếm những biến động chính trị mà Hoa kiều bị tàn sát nhưng nhà Thanh không những không can thiệp mà còn thống mạ coi như đáng đời cho những kẻ phản quốc. Riêng tại nước ta, vào cuốiđời Lê, ở những khu vực tiếp giáp với Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc, nhiều người Hoa trốn sang làm phu mỏ ở vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên [sử nhà Thanh gọi là xưởng dân]. Nhân dịp quân Thanh tiến sang, những thợ thuyền này đã tập hợp thành hàng ngũ để theo vào Thăng Long, gây ra lắm cảnh nhũng nhiễu. Sau khi thua trận và bị truy sát, một số phải liều mạng chạy qua các cửa ải và nhờ lời tâu của Tôn Sĩ Nghị nên họ được vua Càn Long ân xá.[1]
    Người đi ra đã vậy, người nước ngoài vượt biên vào Trung Hoa còn gay go hơn và đây chính là một vấn đề sinh tử của thân quyến và tòng vong nhà Lê. Ðể tránh bị xử theo luật nhập cư bất hợp pháp, các quan nhà Lê cố chứng minh về hoàn cảnh của mình để xin được hưởng một đặc ân. Sau đây là tờ trình của Nguyễn Huy Túc còn lưu giữ trong văn khố nhà Thanh:
    Nguyên văn
    安南國高平府督同阮輝宿,長派侯黎囧,迪郡公黃益曉等奉本國王嗣孫母阮氏玉素命謹薰沐頓肅柬於天朝廣西龍州分府陳,龍憑營都閫府陳,上堂會照。
    由於上年十二月初二日,本國適有廣南西山土酋阮岳,一名文平,偽泰德十一年,這係別阮姓,非輔政阮姓者,彼弟阮惠,偽稱上公,差偽節制阮任領兵數萬,直犯京城,本國王嗣孫領各道兵馬會勦,敵眾數敗。
    本年三月,阮惠畢眾赴援,國王避於山南下路。職等奉王母,王子,王妃避居高平之那侶。
    五月初九日,蠻兵突來刦寨,追剎甚迫,無處奔逃,奉王嗣孫母命,走依貴轄。竊思本國黎王累世臣事天朝,仰蒙聖天子柔懷涵育。今 遭此變,故越壤投生,統祈列台上堂垂顧,轉呈上憲,以事題奏,仰惟天覆地載,非所不容,軫及南服,國王臣黎維祁一門母子,均在矜怛,庶得穿喫有依,偷生歲 月,待國王憑仗天朝威德,幸克旋京,仍修禮祈請奉迎還國,恢恢蕩蕩難名天皇帝至仁盛德,亦由列台厚鄰憫窮之賜也,今肅柬。
    乾隆五十三年五月十二日,這來只用白單,因督鎮印章被追兵搶掠,無憑蓋印,督同阮輝宿肅上,武神衛長派侯黎囧肅上,勇一號正首號迪郡公黃益曉肅上。[2]
    Dịch âm
    An Nam quốc, Cao Bình phủ đốc đồng Nguyễn Huy Túc, Trường Phái Hầu Lê Quýnh, Ðịch Quận Công Hoàng Ích Hiểu đẳng phụng bản quốc vương tự tôn mẫu Nguyễn thị Ngọc Tố mệnh, cẩn huân mộc đốn túc giản ư thiên triều Quảng Tây Long Châu phân phủ Trần, Long Bằng doanh Ðô Khổn phủ Trần, thượng đường hội chiếu.
    Do ư thượng niên thập nhị nguyệt sơ nhị nhật, bản quốc thích hữu Quảng Nam Tây Sơn thổ tù Nguyễn Nhạc, nhất danh Văn Bình, nguỵ Thái Ðức thập nhất niên, giá hệ biệt Nguyễn tính, phi phụ chính Nguyễn tính giả, bỉ đệ Nguyễn Huệ, nguỵ xưng thượng công, sai nguỵ tiết chế Nguyễn Nhậm lãnh binh sổ vạn, trực xâm kinh thành, bản quốc vương tự tôn lãnh các đạo binh mã hội tiễu, địch chúng sổ bại.
    Bản niên tam nguyệt, Nguyễn Huệ tất chúng phó viện, quốc vương tị ư Sơn Nam hạ lộ. Chức đẳng phụng vương mẫu, vương tử, vương phi tị cư Cao Bằng chi Na Lữ.
    Ngũ nguyệt sơ cửu nhật, man binh đột lai kiếp trại, truy sát thậm bách, vô xứ bôn đào, phụng vương tự tôn mẫu mệnh, tẩu y quí hạt. Thiết tư bản quốc Lê vương luỹ thế thần sự thiên triều, ngưỡng mông thánh thiên tử nhu hoài hàm dục. Kim tao thử biến, cố việt nhưỡng đầu sinh, thống kỳ liệt đài thượng đường thuý cố, chuyển trình thượng hiến, dĩ sự đề tấu, ngưỡng duy thiên phúc địa tải, phi sở bất dung, chẩn cập nam phục, quốc vương thần Lê Duy Kỳ nhất môn mẫu tử, quân tại căng đát, thứ đắc xuyên khiết hữu y, thâu sinh tuế nguyệt, đãi quốc vương bằng trượng thiên triều uy đức, hạnh khắc toàn kinh, nhưng tu lễ kỳ thỉnh phụng nghinh hoàn quốc, khôi khôi đãng đãng nan danh thiên hoàng đế chí nhân thịnh đức, diệc do liệt đài hậu lân mẫn cùng chi tứ dã, kim túc giản.
    Càn Long ngũ thập tam niên ngũ nguyệt thập nhị nhật.
    Giá lai chỉ dụng bạch đơn, nhân đốc trấn ấn chương bị truy binh sang lược, vô bằng cái ấn.
    Ðốc đồng Nguyễn Huy Túc túc thượng,
    Võ thần vệ Trường Phái Hầu Lê Quýnh túc thượng,
    Dũng nhất hiệu chính thủ hiệu Ðịch Quận Công Hoàng Ích Hiểu túc thượng.
    Dịch nghĩa
    Ðốc đồng phủ Cao Bằng nước An Nam là Nguyễn Huy Túc, cùng với Trường Phái Hầu Lê Quýnh, Ðịch Quận Công Hoàng Ích Hiểu phụng mệnh thân mẫu của quốc vương là Nguyễn thị Ngọc Tố kính cẩn trình lên phân phủ họ Trần đất Long Châu, đô khổn phủ họ Trần đất Long Bằng, Quảng Tây, cùng xem xét:
    Nguyên ngày mồng hai tháng Chạp năm ngoái, thổ tù đất Quảng Nam Nguyễn Nhạc là bên ngoại (nguyên văn thích là người liên quan vì hôn nhân chứ không phải do máu huyết) của nước chúng tôi, còn có tên là Văn Bình (ở đây nhầm Nguyễn Huệ và Nguyễn Nhạc), năm ngụy Thái Ðức thứ 11, bọn chúng vốn không phải họ Nguyễn, cũng không phải họ Nguyễn phụ chính (tức chúa Nguyễn trong Nam), em của y là Nguyễn Huệ, ngụy xưng là Thượng Công, sai ngụy tiết chế là Nguyễn Nhậm (tức Vũ Văn Nhậm) đem mấy vạn quân thẳng đến kinh thành, quốc vương nước tôi lãnh binh các đạo chống giữ đánh thắng đượcđịch mấy lần.
    Tháng Ba năm nay, Nguyễn Huệ đem quân đến tiếp viện, quốc vương phải lánh nạn ở hạ lộ Sơn Nam. Bọn chúng tôi đưa vương mẫu, vương tử, vương phi đến trốn tránh ở Na Lữ, đất Cao Bằng.
    Ngày mồng chín tháng Năm, man binh bất ngờ đến cướp trại, truy sát rất gấp, không nơi chạy trốn, bọn chúng tôi phụng mệnh mẹ của tự tôn (tức Lê Duy Kỳ) chạy đến quí hạt. Trộm nghĩ vua Lê nước tôi nhiềuđời phụng sự thiên triều, vẫn mong được thánh thiên tử chăm lo dạy dỗ. Nay gặp phải biến cố này nên cố bỏ đất mà chạy đến đây, mong được quí đài chiếu cố, trình lên thượng hiến, tâu lên mọi việc, cũng mong trời che đất chở không gì là không dung chứa, đoái hoài đến cả kẻ ở phương nam là mẹ con của quốc vương chúng tôi Lê Duy Kỳ đều được thương xót, có nơi nương tựa, sống nốt tháng ngày, đợi khi quốc vương nhờ uy đức thiên triều lại trở về được kinh đô, khi đó đón trở về nước, dương danh chí nhân thịnh đức của thiên hoàng đế thì cũng là do quí liệt đài thương xót mà ban cho, nay trình lên.
    Càn Long năm thứ 53, ngày 12 tháng Năm.
    Ở đây chỉ viết đơn không vì ấn chương đốc trấn đã bị truy binh cướp mất, không thể đóng dấu được.
    Ðốc đồng Nguyễn Huy Túc cúi lạy,
    Võ thần vệ Trường Phái Hầu Lê Quýnh cúi lạy,
    Chính thủ hiệu Ðịch Quận Công Hoàng Ích Hiểu cúi lạy.
    Tờ biểu này cho chúng ta biết thêm một số chi tiết: đoàn người bị lạc và tạm trú trong hang động khoảng 3 ngày (mồng 9 đến 12) thì gặp quan quân nhà Thanh. Ðây cũng chỉ là một tờ trình cho quan lại địa phương (thông phán Trần Tùng) cấp bậc tương đối thấp [phủ huyện], với mục đích xin tị nạn tạm một thời gian. Ðối chiếu với lời tâu của Tôn Sĩ Nghị ở trên, rõ ràng họ Tôn đã dấu đi chuyện nhóm nhà Lê sang Trung Hoa từ mồng 9 đến 12 (khi quan nhà Thanh hay biết) mà nói rằng ngày 12 mới bị đuổi tới bờ sông, có quân Thanh đến cứu.
    Những văn quan nhà Lê cũng hiểu rằng tuy nói thế nhưng thực tế không đơn giản, việc sống chết chưa biết ra sao nói gì đến việc lấy lại nước. Tình hình trong hai năm qua cho thấy những nhóm thổ hào Bắc Hà sau khi chúa Trịnh đổ, không ai có thể là đối thủ của Tây Sơn, về lực lượng cũng như về tài trí. Các viên chức địa phương của nhà Thanh cũng không biết nội vụ thực hư thế nào nên chỉ tạm thời cho 62 người “tị nạn An Nam” một chỗ ăn ở và lập tức báo cáo lên tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh để ở đây lại báo lên tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị.
    Chỉ đến khi việc tạm trú được chấp thuận rồi và cũng đã hoàn hồn, một kế hoạch mới nảy sinh: đó là xin được can thiệp để có một mảnh đất dung thân tương tự như trước đây nhà Minh ép nhà Lê cắt đất Cao Bằng cho họ Mạc. Hoàng Xuân Hãn khi dịch Bắc Hành Tùng Ký cũng có phụ chú như sau:
    Nguyễn Huy-Túc, chủ động trong các việc đón đưa Thái-hậu có để lại một số thơ làm ta biết thêm một vài điều. Quê xã Kim-lũ, huyện Thanh-trì, Huy-Túc là con tiến sĩ Công Án. Năm Ðinh-mùi (1787) được cử làm đốc-đồng Cao-bằng. Mấy tháng sau đốc-trấn Nguyễn Ðình-Tố mất. Huy-Túc nối chức. Tháng Chạp được tin Lạng-sơn báo việc Tây-sơn chiếm Thăng-long và Chiêu-thống chạy lên Bắc. Huy-Túc định đón vua Lê lên giữ Cao-bằng làm căn cứ để phục hưng. Tháng Giêng năm sau (1788) đem quân tới Thái-Nguyên tìm vua, và định tựa vào Thanh mà giữ vùng Bắc. Tháng Tư, mới rõ chỉ có cung quyến chạy lên Thái-nguyên và còn trú ở Vũ-nhai, tại Vung-mõ. Huy-Túc tới đem cung-quyến lên Cao-bằng. Trong tập thơ ký sự, có ba bài nói rõ những ý ấy: “Nghe tin vua bỏ Kinh mà sợ, Xin theo người xưa giữ đất Bắc. Bốn châu liền nhau đều đất hiểm. Ai bảo rằng từ xưa nay không thể dấy nền vua ở đó. Trung quốc đồng lòng với ta thì ắt ta còn. Ðánh từ phía bắc đó là bổn-phận tôi để báo ơn vua một phần nào… Trộm nghĩ rằng Vũ-nhai gần nơi khói lửa. Chẳng bằng trấn Cao-bằng địa-hình xa sâu…[3]
    Bốn châu liền nhau có lẽ để chỉ bốn châu ở Cao Bằng xưa kia nhà Thanh ép nhà Lê giao cho Mạc Kính Vũ.
    Thế nhưng ý này có lẽ cũng không phải là nguyên uỷ của sự việc. Như chúng tôi đã nhấn mạnh, khi chạy sang Trung Hoa, đoàn người chỉ nhằm mục tiêu trước mắt là sao cho khỏi chết. Ðêm dài lắm mộng, thơ văn thời xưa thường thi vị hoá một số sự kiện và sử dụng những sáo ngữ như xe loan, xe hương, quốc mẫu… khiến người đọc khó hình dung ra được sự thực như thế nào? Tuy nhiên chúng ta có thể đoán chừng ước vọng “nhất khoảnh giang sơn” chỉ có về sau khi được quan lại nhà Thanh vừa mớm lời, vừa hứa hẹn còn thực tế lúc đó chỉ là một đoàn người lôi thôi lếch thếch, hồn bất phụ thể, vừa đói vừa rét xin được dung thân, nhất là đừng bị giao trả qua biên giới.
    3.1.2. THANH TRIỀU ÐÁP ỨNG
    Một điều di thần nhà Lê không ngờ được là tình hình nước ta đều được tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh và Lưỡng Quảng tổng đốc Tôn Sĩ Nghị dò xét tương đối đầy đủ và họ cũng có dự trù một kế hoạch để hợp thức hoá việc can thiệp vào nước ta. Chính vì thế, khi được báo cáo là một nhóm hoàng tộc nhà Lê chạy sang Long Bằng, Tôn Sĩ Nghị lập tức tâu lên vua Càn Long với nhiều chi tiết thuận theo chiều hướng ông ta đang theo đuổi:
    Thần tra xét quốc chính nước An Nam lâu nay vẫn do hai họ Nguyễn Trịnh nắm quyền, mấy chục năm qua vua Lê chỉ giữ nước mà không phải làm gì cả, một mực cung thuận thiên triều. Hai họ Trịnh Nguyễn cóđiều e ngại nên không dám làm chuyện soán đoạt. Nay Nguyễn Nhạc chiếm luôn quyền của họ Trịnh, đoạt lấy quốc đô, tàn sát quyến thuộc họ Lê, lại dụ dỗ những vùng phụ cận như Cao Bình, Lạng Sơn theo giặc, phòng bị thiên triều hưng binh vấn tội, tình hình đã rõ ràng. Thành ra nếu như nội địa chúng ta ở bên cạnh chỉ lặng thinh không động tĩnh gì, thì họ sẽ nghĩ rằng thiên triều không lý gì đến chuyện của ngoại di càng thêm càn rỡ giết hại tự tôn để cho quần chúng không còn tưởng vọng gì nữa mà các trấn mục vốn có lòng với họ Lê, thấy tự tôn bị diệt rồi, không còn chỗ nào quay về.
    Ngoài ra con cháu họ Lê những ai chưa nổi dậy thì thế cũng không phấn chấn lên được, ắt cũng không hết sức mà cam tâm theo giặc. Khi đó đảng tập đã vững chắc, thế giặc lên cao, có muốn làm gì cũng khó. Vậy lúc này nhân thuộc quốc có loạn, nội địa nên hao phí binh mã tiền lương ngay, nhưng thần, hiểu biết nông cạn, không dám đảm trách biện lý chuyện này.
    Tra xét phủ Thái Bình tỉnh Quảng Tây và phủ Liêm Châu tỉnh Quảng Ðông, hai phủ Khai Hoá, Lâm An tỉnh Vân Nam đều tiếp giáp với đất An Nam, vậy có nên trước lên tiếng sau làm thực [tiên thanh hậu thực -先聲後寔], xin thỉnh hoàng thượng ban sắc chỉ ra lệnh cho Tả Giang trấn, Cao Liêm trấn cùng Khai Hoá, Lâm An hai trấn nơi nơi chuẩn bị binh mã thuyền bè, thao luyện dương oai, đánh tiếng sắp sửa chia ra tiến đánh. Lại cho các nơi truyền hịch dụ cho trấn mục đến đầu thuận, hiệp lực giết giặc, hộ tống tự tôn trở về, lại ra lệnh cho trói Nguyễn Nhạc lại giải giao cho thiên triều, như thế thanh uy rất lớn làm cho thếgiặc suy giảm.
    Nếu tính theo toàn lực đất An Nam mà luận, thật không thể nào đương cự nổi bốn lộ quân của ba tỉnh chúng ta, thần ngu si cho rằng những tin tức như vậy truyền đến An Nam, những kẻ chưa theo giặc kiênđịnh tâm chí ắt sẽ ra sức đi trước, còn kẻ đã theo giặc rồi nghe tiếng chấn động ắt sẽ trở giáo mà theo về.
    Nếu Lê Duy Kỳ hiện nay vẫn còn sống, thần nghĩ rằng nghịch phỉ chắc không dám làm hại để chọc giận thiên triều. Tự tôn nếu còn ắt lòng người đi theo, phục quốc thật dễ dàng. Xin khẩn cầu hoàng thượng đặc biệt phái đại thần, thống lãnh quan binh, hộ tống quyến thuộc nước kia xuất quan, ra lệnh cho tự tôn đích thân đến biên giới đón mẹ về.[4]
    3.1.2.1. CHIÊU BÀI HƯNG DIỆT KẾ TUYỆT, TỰ TIỂU TỒN VONG (興滅繼絕,字小存亡)
    Các bộ sử Trung Hoa khi đề cập đến chiến dịch Thanh – Việt đều nhấn mạnh vào nguyên nhân chính đáng của việc Tôn Sĩ Nghị đem quân sang nước ta. Ðó là mục tiêu “hưng diệt kế tuyệt, tự tiểu tồn vong” đối với họ Lê, một nghĩa vụ thiên triều nước lớn bắt buộc phải làm cho một nước nhỏ vốn là phiên thuộc của họ.
    Trong bất cứ một can thiệp quân sự nào liên quan đến bên ngoài, nhất là khi tấn công một quốc gia hay dân tộc gần bên, sử Trung Hoa đều nêu lên một lý do chính đáng mà không bao giờ thú nhận những âm mưu đen tối của họ. Hệ thống tư tưởng nhân trị, phân biệt chiến tranh công chính với không công chính đã khiến họ hết sức nhấn mạnh đến vai trò “điếu dân phạt tội”, mặc dù thực chất chỉ là một cuộc xâm lăng, giành dân cướp đất.
    3.1.2.2. TRUY TÌM VUA LÊ
    Trong nhiều thế kỷ, người nước ta luôn luôn chỉ coi những việc tranh chấp nội bộ, dù là Trịnh – Nguyễn phân tranh hay những cuộc nổi dậy trên một địa bàn lớn và kéo dài nhiều năm, là việc của riêng mình, mượn tay Thanh triều để lấy lại nước cho mình là điều ngoài sở liệu.
    Như trên đã trình bày, ngay cả khi thân quyến và tùy tòng nhà Lê chạy được sang đất Thanh, họ chỉ xin được tị nạn một thời gian để chờ tự tôn khôi phục được nước sẽ sang đón về. Việc nương nhờ đó không nằm trong ý định cầu viện mà vì luật pháp của nhà Thanh rất nghiêm nhặt với những ai vượt biên giới vào sống bất hợp pháp ở “nội địa” [đất Trung Hoa]. Gay go hơn cả, tất cả 62 người chạy được qua đất Tàu đều không có giấy tờ chứng minh thân phận hay xuất xứ, còn những người tự nhận là quan nhà Lê với tước hầu, tước bá lại không ai có ấn tín làm bằng. Ðối với những người này, việc người Thanh dung chứa không trị tội hay đuổi về cũng đã là một đặc ân, nói gì được cung cấp nơi ăn chốn ở và giúp đỡ để lấy lại nước.
    Thế nhưng có biết đâu một số quan lại nhà Thanh lại coi đây là cơ hội bằng vàng để lập chiến công ngõ hầu thăng quan tiến tước, lại rửa được cái nhục bại trận ở Miến Ðiện là vết thương lòng lúc nào cũng ray rứt vua Càn Long. Một lần nữa, chiêu bài “hưng diệt kế tuyệt, tự tiểu tồn vong” [dấy lên kẻ đã bị diệt, nối lại dòng đã bị đứt, nuôi nấng kẻ nhỏ làm cho mất rồi lại còn] lại được đưa ra để can thiệp vào nước nhỏ.
    Ðể việc đem quân sang Ðại Việt có chính danh, Tôn Sĩ Nghị phải có được một lá thư chính thức của Lê Duy Kỳ – người nhà Lê được coi như kế thừa đích thực – lên tiếng cầu viện. Theo kế hoạch “đập cỏ tìm rắn”, nhà Thanh trước hết nhân danh thiên triều bảo vệ nước nhỏ gửi sang nước ta một bố cáo để đe dọa đối phương, khuyến dụ thổ mục nhưng mục đích chính là để vua Lê tự xuất hiện.
    Tờ hịch đó nội dung như sau:
    Nguyên văn
    諭知該國,以阮岳,阮惠,退出黎城。仍回伊等故土。是其心不敢干犯天朝法紀。尚可不事苛求。
    至爾鎭目人等。理應即日迎還故主。仍就藩封。倘竟彼此觀望遷延。暗為阮姓守土。不肯迎請嗣王。則是爾國綱紀蕩然。全不知君臣大義。且爾等身係安南職官。轉不如爾國百姓。
    倘能依戀黎王舊德。紛紛向關呈請。願効前驅。爾等清夜問心。置身何地。此番出示之後。爾等立即擁戴黎氏。迎請返正。則前此從逆與否。概置不問。
    如仍執迷不悟。更無効順之心。即當一面奏聞大皇帝。一面親統大兵。尅期進剿。諒蕞爾一隅。豈能抗我王師。勢將咸就誅夷。為爾國永垂炯戒等因。愷切曉諭。[5]
    Dịch âm
    Dụ tri cai quốc, dĩ Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ thoái xuất Lê thành. Nhưng hồi y đẳng cố thổ. Thị dĩ tâm bất cảm can phạm thiên triều pháp kỷ. Thượng khả bất sự hà cầu.
    Chí nhĩ trấn mục nhân đẳng. Lý ứng tức nhật nghinh hoàn cố chủ. Nhưng tựu phiên phong. Thảng cánh bỉ thử quan vọng thiên diên. Ám vi Nguyễn tính thủ thổ. Bất khẳng nghinh thỉnh tự vương. Tắc thị nhĩ quốc cương kỷ đãng nhiên. Toàn bất tri quân thần đại nghĩa. Thả nhĩ đẳng thân hệ An Nam chức quan. Chuyển bất như nhĩ quốc bách tính.
    Thảng năng y luyến Lê vương cựu đức. Phân phân hướng quan trình thỉnh. Nguyện hiệu tiền khu. Nhĩ đẳng thanh dạ vấn tâm. Trí thân hà địa. Thử phiên xuất thị chi hậu. Nhĩ đẳng lập tức ủng đái Lê thị. Nghinh thỉnh phản chính. Tắc tiền thử tòng nghịch dữ phủ. Khái trí bất vấn.
    Như nhưng chấp mê bất ngộ. Cánh vô hiệu thuận chi tâm. Tức đương nhất diện tấu văn đại hoàng đế. Nhất diện thân thống đại binh. Khắc kỳ tiến tiễu. Lượng tối nhĩ nhất ngung. Khải năng kháng ngã vương sư. Thế tương hàm tựu tru di. Vi nhĩ quốc vĩnh thừa quýnh giới đẳng nhân. Khải thiết hiểu dụ.
    Dịch nghĩa
    Dụ cho [người] nước kia được biết:
    Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ rút khỏi Lê thành trở về đất cũ của chúng, ấy là trong bụng không dám phạm vào pháp kỷ của thiên triều nên chẳng dám quấy nhiễu nữa.
    Trấn mục các ngươi đáng ra phải lập tức đón chủ cũ về để được phiên phong[6]. Còn như lần khân người nọ trông người kia, lén giữ đất cho họ Nguyễn, không chịu nghinh tiếp tự vương, vậy là nước các ngươi cương kỷ lỏng lẻo chẳng biết chi là đại nghĩa quân thần. Quan chức An Nam như các ngươi hoá ra lại không bằng thường dân bách tính.
    Vậy nếu còn nhớ đến đức cũ của vua Lê thì các ngươi phải rầm rộ chạy đến cửa quan tình nguyện ra sức đi đầu, sáng tối tự hỏi nên để thân ở chỗ nào?
    Sau khi cáo thị này gửi ra rồi, các ngươi phải lập tức ủng hộ nghinh đón họ Lê, quay đầu về nẻo chính, trước đây lỡ theo giặc, phạm sai lầm cũng bỏ qua không hỏi đến.
    Còn như vẫn còn chấp mê không tỉnh, ấy là không biết hướng về chỗ thuận thì ta sẽ vừa tâu lên đại hoàng đế, vừa đích thân thống lãnh đại binh, định ngày tiến tiễu, dẻo đất cỏn con của các ngươi có thể chống với vương sư hay sẽ bị giết sạch?
    Vì chưng muốn nước các ngươi được thiên triều soi chiếu mãi mãi nên ta thiết tha hiểu dụ.
    Những tờ hịch đó được người còn hoài Lê bí mật đem đến cho vua Chiêu Thống đang lẩn trốn ở Hải Dương và ông lập tức viết một lá thư cầu cứu. Lá thư đầu tiên của Lê Duy Kỳ gửi Tôn Sĩ Nghị còn tàng trữ trong văn khố Trung Hoa[7] dịch ra như sau:
    Tự tôn An Nam Quốc Vương là Lê Duy Kỳ cùng các quan văn võ cung kính dâng thư lên Thiên Triều Thái Tử Thái Bảo Binh Bộ Thượng Thư kiêm Ðô Sát Viện Hữu Ðô Ngự Sử Tổng đốc Quảng Ðông Quảng Tây Các Ðịa Phương Quân Vụ Thế Tập Nhất Ðẳng Khinh Xa Ðô Úy (họ) Tôn, (cùng) Binh Bộ Thị Lang kiêm Ðô Sát Viện Hữu Phó Ðô Ngự Sử Tuần Vũ Quảng Tây Ðề Ðốc Quân Vụ các xứ kiêm trông coi lương hướng Tôn Ðường Viện hai vị đại nhân:
    Kỳ tôi vốn còn trẻ tuổi, gặp lúc nhà nhiều tai nạn. Tháng Sáu năm Bính Ngọ (1786), giặc Quảng Nam trong nước là Nguyễn Văn Nhạc lấy danh nghĩa đánh họ Trịnh, sai em là Nguyễn Văn Bình xua quân nhập khấu, nhân vì ông của thần đang bệnh nặng nên việc phòng ngự lỏng lẻo, (thành ra) phủ thành không giữ được, ông của Kỳ chẳng may lìa đời, y mới hiếp chế, may nhờ lòng người chưa quên, khắp nơi nổi dậy tấn công, y đành phải vơ vét đồ dùng khí dụng, luôn cả quốc ấn đem đi.
    Người dân để cho Kỳ tôi nắm quyền chủ nước cho đến tháng Chạp năm Ðinh Mùi (1787) thì Nguyễn Văn Bình phản lại anh, chiếm lấy thành Thuận Hóa, rồi quay lại cướp bóc. Khi đó nước mới kiến tạo, tài lực hai đàng đều cạn kiệt, không thể bảo vệ cương vực, khiến y tiến thẳng đến kinh thành, rồi xưng thiên hoàng đế, kỷ nguyên Thái Ðức, sưu cao thuế nặng, thật là lầm than. Dân chúng vì sợ uy lệnh nên đành phải miễn cưỡng tuân theo, Kỳ tôi phải chạy ra ngoài, cùng thần dân tính chuyện khôi phục, nhưng đại thế đã mất, ít không chống được với đông người, đỡ đông chạy tây rồi cũng phải tan.
    Ðến tháng Tư năm nay (1788), thân mẫu của Kỳ tôi cùng quyến thuộc đem thân qua quí hạt, mong được đề tấu, may được hai vị đại nhân dung nạp, xem xét rõ sự tình, yết dụ cáo tri đại nghĩa, bản hịch tới tay, Kỳ tôi cùng văn võ quan viên đọc đi đọc lại, thực cảm kích không đâu cho hết, thâm kiến hai vị đại nhân trên thì tỏ lòng nhân đức trời cao, dưới biểu lộ chỗ tình cận kề, thương cho lòng thành của kẻ thế cô bị cướp mất cơ nghiệp, nên tỏ ra thành lời.
    Người dân trong nước nghe được cũng bi phẫn đứng lên, ai nấy tự sắm sửa giáp binh, công phá thành ấp, ngày ngày mong đợi vương sư kéo đến, riêng Kỳ tôi nay chỉ còn chút hơi tàn, không tự mình nổi lênđược, lòng chỉ muốn đem thây gửi nơi nội địa (chỉ Trung Quốc), dựa vào oai linh của thiên triều, nhưng vì đường sá gian nan trở ngại, mỗi cử động đều bị dòm ngó, quốc ấn lại luân lạc mất rồi, nên không dám mạo muội ra mặt, e thất lễ của kẻ bầy tôi, nghĩ lại tổ tông của Kỳ này, đời đời ở cõi Nam, luôn giữ phận triều cống, nay không giữ được nước để đến nỗi lang thang hèn hạ, trên thì mất chức phiên phong, dưới thì đắc tội với dân chúng, làm phiền nhiễu cả uy phong khiến cho vương sư mất công từ xa kéo đến, Kỳ tôi thực hết sức hoảng hốt, nay không còn đất để dung thân, chỉ mong thánh đức thể niệm cho nội ngoại ai chẳng là kẻ vương thần, cúi mong hai vị đại nhân nghĩ tình ngày trước mà đề đạt lên cho thiên tử, thương xót cho kẻ cô nguy nơi hoang viễn, sinh linh đồ thán, cứu kẻ đang ở nơi nước lửa, trải rộng đức chí nhân.
    Cứ trộm nghĩ theo hình thế bản quốc, phía đông, phía nam là biển cả, phương tây phương bắc tiếp giáp nội địa (Trung Quốc), bọn giặc thắng thế quen mùi trở nên kiêu ngạo, phòng thủ lơ là, trong thành cùng ngoài các đạo cựu binh chưa đầy 6 vạn, quá nửa là quốc dân bị bức bách, không có lòng chiến đấu. Nay truyền cho nghe rằng quân thiên triều đã tới nơi, nếu như không biết hối tội, thì thế ắt sẽ mỗi người dânđều là một người lính, mọi nhà đều là chỗ cung cấp lương ăn, đem tính mạng ra chiến đấu, để thử xem mũi nhọn thế nào, chỉ trong sớm tối hai bề thuỷ lục cùng tiến, bốn mặt giáp công. Thế bên kia chia rẽ, sức yếu, không cứu ứng được nhau, thần dân bản quốc tình nguyện ứng nghĩa mà xông lên trước, tặc đồ không đánh cũng tan.
    Kỳ tôi trốn ở nơi xa xôi hẻo lánh, thực trông mong hết sức, cảm ơn tái tạo của thiên hoàng đế, lại do hai vị đại nhân hết sức giúp đỡ, cũng may nhờ vào ân đức tổ tiên, không uổng công bôn tẩu nên được bềtrên chấp thuận, Kỳ tôi cùng các bầy tôi văn võ, nguyện ghi khắc trong lòng, nên hôm nay cung kính dâng thư này.
    Ngày 24 tháng Tám, Càn Long năm thứ 53 (1788)
    3.2.1. QUÂN THANH ÐÁP LỜI CẦU VIỆN
    Trước đó, Tôn Sĩ Nghị đã cho thám tử đi dò xét, đặt nhiều trạm tin tức nhưng chỉ thu lượm được những tin tức không rõ rệt về Lê Duy Kỳ. Vì thế nhà Thanh phải đưa hai “phái đoàn”, một đoàn theo đường thủy Quảng Ðông [Lê Quýnh], một đoàn theo đường Vân Nam [Nguyễn Quốc Ðống, Nguyễn Ðình Mai] về kiếm vua Lê đồng thời phát hịch hăm dọa và kêu gọi các thổ mục, quan lại dọc theo biên giới nổi lên chống lại Tây Sơn để giúp Lê Duy Kỳ lấy lại nước.
    Tháng Tám năm Mậu Thân [1788], khi Lê Duy Ðản[8] còn đang ẩn trốn thì nhận được chỉ của vua Lê sai Lan Trì Bá Vũ Trinh[9] cho vời gặp, đồng thời ban cho 4 chữ ngự bút “Tiết Khí Khả Gia” [節氣可嘉][10]. Ông lên gặp vua Lê, đường sá lầy lội vì mưa dầm, đi theo chỉ có một người đầy tớ, thật là gian khổ. Cũng thời gian đó, phái đoàn Lê Quýnh đi từ Khâm Châu ngày mồng 4 tháng Tám, theo đường thủy đến được Tứ Kỳ (Hải Dương) ngày mồng 8 tháng chín gặp vua Lê đang trốn tránh ở thôn Ngọc Lâu [玉摟], Cẩm Giang [錦江].
    Ðể cho xứng với một sứ bộ triều đình, vua Chiêu Thống phong cho Lê Duy Ðản lên tước bá [Hương Phái Bá - 香派伯], cầm quốc thư sang Trung Hoa. Phái đoàn gồm hai người, Hương Phái Bá Lê Duy Ðản làm chánh sứ,Ðịnh Nhạc Bá Trần Danh Án[11] làm phó sứ. Người thứ ba đi cùng là Lê Quýnh không đóng vai trò sứ thần mà làm hướng đạo và liên lạc viên.
    Sắp xếp lại theo thời gian, khoảng tháng Bảy thì nhà Thanh phát hịch, đầu tháng Tám vua Lê biết tin nên một mặt cho người đi kiếm Lê Duy Ðản một mặt viết thư [ngày 24 tháng Tám] cho người đem sang Trung Hoa. Cùng lúcđó, Tôn Sĩ Nghị sai Lê Quýnh [theo đường biển Quảng Ðông] và Nguyễn Quốc Ðống [theo đường bộ Vân Nam] về kiếm vua Lê. Ðến mồng 8 tháng Chín, Lê Quýnh về gặp vua Lê trình bày mọi việc, thấy rằng một lá thư tay gửi Tôn Sĩ Nghị chưa đủ lễ nghi mà phải cử một phái bộ chính thức mang quốc thư sang cầu viện, nhất là không có quốc ấn [tức ấn An Nam quốc vương mà nhà Thanh ban cho họ Lê đã bị thất lạc] nên càng cần những người có vai vế đem đi. Vua Lê cử ngay Trần Danh Án, thêm ông chú họ là Lê Duy Ðản, đều là tiến sĩ xuất thân. Trần Danh Án vốn là cận thần ở cùng với vua Lê lâu nay, còn Lê Duy Ðản là đồng tộc nên việc đi sứ cũng đồng thờiđem tin nhà vì biết rằng nhà Thanh sẽ cho gặp thái hậu, vương phi để nhận diện hầu bảo đảm rằng đúng là người của vua Lê gửi sang thật.

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét